Ngày 27/02/2020, nhóm Nghị sĩ hữu nghị Pháp-Việt của hai viện Quốc Hội Pháp đã tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về tình hình Biển Đông. Nếu các chuyên gia quốc tế, đặc biệt là Pháp, nói chung ủng hộ Việt Nam trong việc tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì cuộc hội thảo này một lần nữa cho thấy sự hạn chế của luật pháp quốc tế trước thái độ lấn lướt của Trung Quốc đối với các nước tranh chấp, đặc biệt là đối với Việt Nam
Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hạ Viện Pháp ngày 27/02/2020 RFI
Cuộc hội thảo diễn ra dưới sự bảo trợ của nữ dân biểu gốc Việt Stéphanie Do, chủ tịch Nhóm Hữu nghị Pháp – Việt tại Hạ Viện và với sự hỗ trợ của đại sứ quán Việt Nam. Với đề tài "Biển Đông : Thách thức và thời cơ đối với Pháp và Việt Nam, các nước ven bờ và các cường quốc Ấn Độ - Thái Bình Dương ", cuộc hội thảo quy tụ các nhà nghiên cứu Pháp, Việt, dưới sự điều phối của giáo sư Pierre Journoud, Đại học Paul – Valéry Montpellier 3.
Trong phiên buổi sáng, diễn ra tại một phòng họp của Hạ Viện Pháp, cử tọa đã nghe phần trình bày của giáo sư Monique Chemillier-Gendreau (Đại học Paris – Diderot), nói về luật quốc tế đối với vấn đề chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông, đặc biệt Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) để xác định chủ quyền quốc gia đối với vùng biển, đảo, phân định biên giới trên biển giữa các quốc gia cũng như ranh giới các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, trong đó có phán quyết của Toà án Trọng tài Thường trực La Haye 2016. Giáo sư Laurent Gédéon (Cao đẳng Sư phạm Lyon) có bài tham luận về hoạt động của các cường quốc tại Biển Đông hiện nay.
Giáo sư Jean-Marie Crouzatier điểm lại các nguồn lịch sử mà các bên tranh chấp ở Biển Đông đưa ra để bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình. Theo giáo sư Crouzatier, có rất nhiều nguồn tài liệu lịch sử tại châu Âu, đặc biệt là tại Pháp, có thể được sử dụng vào việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, như các văn thư của nhà Nguyễn, mà các bản sao trong kho lưu trữ của chính quyền thuộc địa Pháp vẫn còn được lưu giữ ở Pháp.
Đại điện cho phía Việt Nam, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học Viện Ngoại Giao, Nguyễn Hùng Sơn trình bày quan điểm của Hà Nội về những diễn biến mới nhất tại Biển Đông, trong đó có vụ Trung Quốc đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm ngoái. Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, thì giải thích về tác động của phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực về Biển Đông trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Phiên buổi chiều của cuộc hội thảo, diễn ra tại một phòng họp của Thượng Viện Pháp, tập trung nói về những thách thức và tiềm năng về kinh tế, môi trường, khoa học và văn hóa ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên một cuộc hội thảo về Biển Đông được tổ chức cùng ngày tại hai viện của Quốc Hội Pháp.
Nói chung, trong cuộc hội thảo, các diễn giả đã phân tích các khía cạnh pháp lý và chính trị-chiến lược của vấn đề tranh chấp chủ quyền và hoạt động của các bên ở Biển Đông, nêu bật những quan ngại của quốc tế về những hoạt động của Trung Quốc quân sự hóa và thay đổi nguyên trạng các thực thể ở Biển Đông. Họ đặc biệt nhấn mạnh các nước tranh chấp, đặc biệt là Trung Quốc, phải tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, kêu gọi tôn trọng quyền chính đáng của các quốc gia liên quan.
Trả lời RFI Việt ngữ sau phiên hội thảo buổi sáng, ông Nguyễn Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Biển Đông, nêu nhận xét của ông về hội thảo :
"Qua sự tham gia của các đại biểu hôm nay, tôi thấy đáng mừng ở chỗ vấn đề Biển Đông đang ngày càng được cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Pháp và Liên Hiệp Châu Âu quan tâm. Họ quan tâm đến Biển Đông theo nhiều khía cạnh khác nhau, không phải chỉ vì đó là một vùng biển có nhiều xung đột, mà còn là một nơi hội tụ rất nhiều lợi ích của cộng đồng quốc tế và cũng có nhiều triển vọng hợp tác.
Đặc biệt, Biển Đông còn là nơi kiểm chứng mức độ thượng tôn pháp luật của cộng đồng quốc tế, hiệu lực của pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Tôi thấy các đại biểu Pháp nói rất nhiều về việc tăng cường hiệu lực của luật pháp quốc tế, rằng một nước, dù lớn hay nhỏ đều cần phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Họ cũng kêu gọi tăng cường hợp tác, nhất là hợp tác đa phương, để tăng cường việc áp dụng Công ước 1982, không chỉ ở Biển Đông, mà ở khắp nơi trên thế giới, với hy vọng là khi tất cả các nước đều tôn trọng Công ước về Luật Biển, nhất là nước đã ký và phê chuẩn Công ước, như Trung Quốc, thì trật tự, hòa bình, ổn định trên biển sẽ được duy trì".
Là một trong những chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau, nhấn mạnh đến chính sách của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền của họ trên Biển Đông :
"Đó là một phần trong chính sách của Trung Quốc. Trung Quốc vẫn thi hành chính sách gọi là "sự đã rồi", tức là họ hành xử như thể là những đòi hỏi của Bắc Kinh chính là luật pháp quốc tế ! Hơn nữa, từ rất lâu, họ vẫn thao túng dư luận trong nước, tuyên truyền rằng Trung Quốc có đầy đủ các quyền trên toàn bộ vùng biển mà rất tiếc vẫn được gọi là biển Nam Trung Quốc Hải (Mer de Chine méridionale). Nay Trung Quốc đã có một sức mạnh đáng kể về hải quân và không quân, chứ không phải như cách đây 50 năm, nên cứ tiếp tục lấn tới, với hy vọng là "sự đã rồi" sẽ dần dần biến thành luật. Cho nên, các nước trong vùng, toàn bộ các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam phải phản đối mỗi lần Trung Quốc có hành động như vậy. Phải phản đối lên Liên Hiệp Quốc để ngăn chận chính sách "sự đã rồi" của Trung Quốc được chấp nhận".
Chính là nhằm ngăn chận chính sách đó của Trung Quốc mà Philippines đã kiện Trung Quốc ra trước Tòa Trọng Tài Thường Trực. Vào tháng 07/2016, Toà đã ra phán quyết kết luận rằng không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.
Tuy rằng phán quyết này đã bị Bắc Kinh bác bỏ, đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, cho rằng đây vẫn là một cơ sở pháp lý quan trọng, đối với những nước như Việt Nam :
"Phán quyết này chỉ có giá trị đối với Philippines và Trung Quốc, hai bên có liên quan đến việc tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, Trung Quốc đã không chấp nhận thẩm quyền của tòa án và cũng không công nhận phán quyết. Song, theo quy định của Phụ lục 7 của Công ước 1982, phán quyết của tòa án quốc tế được thành lập phù hợp với Phụ lục 7 của Công ước bao giờ cũng là phán quyết chung thẩm và có giá trị bắt buộc đối với các bên, đối với các quốc gia khác không phải là các bên tham gia trong vụ kiện.
Chúng ta có thể coi các phán quyết của tòa án quốc tế cũng như của Tòa Trọng Tài là nguồn bổ sung của luật quốc tế để so sánh trong việc xem xét lại những lập trường và những áp dụng giải thích của điều 123, khoản 3 về quy chế pháp lý của các đảo, các đá tại Trường Sa".
Về phần ông Nguyễn Hùng Sơn, ông cho biết là Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng đưa Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế, nếu Bắc Kinh tiếp tục những hành động xâm lấn chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, giống như năm 2019 :
"Việt Nam đã nói rất rõ là Việt Nam sẽ sử dụng tất cả những biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông, có nghĩa là Việt Nam không loại trừ biện pháp hòa bình nào. Mặc dù Việt Nam không nói ra nhưng Việt Nam không loại trừ biện pháp giải quyết các tranh chấp Biển Đông thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
Đưa ra tòa án nào còn tùy thuộc vào vấn đề mà các nước muốn giải quyết là gì. Mỗi tòa án có một chức năng riêng. Các cơ quan chức năng Việt Nam, nhất là các chuyên gia pháp lý đã và đang nghiên cứu, chuẩn bị các hồ sơ cần thiết, để nếu cần sử dụng biện pháp đó, thì Việt Nam sẵn sàng".
Tuy nhiên, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau lưu ý về sự hạn chế của luật pháp quốc tế trong việc phân xử các vụ tranh chấp chủ quyền như ở Biển Đông, cho dù theo bà, Việt Nam có một hồ sơ rất vững chắc nếu kiện Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế :
"Như tôi vừa nói trong cuộc hội thảo, luật pháp quốc tế rất giới hạn. Theo luật quốc tế, quốc gia nào muốn đưa vụ việc ra trước Tòa án Công lý Quốc tế thì phải có sự đồng ý của cả quốc gia kia. Khả năng duy nhất đó là kiện lên Tòa Trọng tài Thường trực như Philippines đã làm, nhưng kết quả đạt được cũng rất hạn chế, vì tòa này không thể phân xử về vấn đề chủ quyền. Tôi nghĩ rằng công luận quốc tế có vai trò rất quan trọng, rằng chúng ta phải sử dụng mọi phương tiện hiện có : phản đối về ngoại giao, đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc mỗi khi có hành động hung hăng và có thể là kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài nếu Việt Nam cảm thấy sẳn sàng làm điều này.
Nếu kiện Trung Quốc, Việt Nam có một hồ sơ rất tốt. Nhưng chúng ra không biết trong hồ sơ của phía Trung Quốc có những gì. Tôi đã từng đến Trung Quốc, từng gặp nhiều nhà sử học Trung Quốc. Họ cứ bảo : "Chúng tôi có nhiều tư liệu xưa, những chứng cứ để xác nhận chủ quyền", nhưng họ chưa bao giờ đưa ra những tư liệu, chứng cứ đó. Tôi không tin là họ thật sự có những chứng cứ đó. Theo tôi thì một tòa án rất khách quan như Tòa án Công lý Quốc tế phải có trong tay toàn bộ những hồ sơ của hai bên. Nhưng tôi cho là Việt Nam có một vị thế rất tốt".
Trước mắt, để ngăn ngừa những xung đột trên Biển Đông, ASEAN đang thương lượng với Trung Quốc về một bộ quy tắc ứng xử COC. Nhưng các chuyên gia như bà Monique Chemilier-Gendreau không mấy tin tưởng vào bộ quy tắc này. Theo bà, bộ quy tắc ứng xử một khi được chấp thuận sẽ chỉ giúp cho Trung Quốc rảnh tay hành động, nhân danh bộ quy tắc ứng xử này, họ sẽ tiếp tục chính sách của họ để áp đặt chủ quyền trên Biển Đông.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 09/03/2020
Phần I
Năm 2020, tròn 70 năm Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ trong 70 năm ấy giữa hai nước có vui, có buồn, có hữu nghị, có xung đột, thậm chí chiến tranh.
Trên thực tế mối quan hệ này đã không suôn sẻ từ hơn bốn chục năm, mặc dù có vẻ hai nước vẫn ôm lấy cái mà Trung Quốc gọi là "đại cục" : cùng lý tưởng chính trị, cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cái "đại cục" này được gọi là "đại cục" để che lấp, che khuất hết những bất đồng, xung đột khác chăng ? Có thể !
Trung Quốc là quốc gia có dân số lớn nhất thế giới và đã phát triển vũ bão trong mấy chục năm qua nhờ công cuộc cải cách mở cửa. Bình quân đầu người khi bắt đầu công cuộc này chỉ với 156 USD (thấp hơn cả khu vực được coi là nghèo nhất thế giới lúc đó là Hạ Sahara, 390 USD) thì nay, theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc đã ở mức trên 10.000 USD (2019), trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tính theo sức mua tương đương, quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã vượt Mỹ từ năm 2014. Với mục tiêu "100 năm thứ hai" tính đến 2049, Trung Quốc sẽ thực sự trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Và cũng sẽ đến danh xưng siêu cường, sánh ngang Mỹ.
Để trở thành siêu cường – điều mà Trung Quốc vẫn còn đang ủ mưu – Trung Quốc đã có những phát triển và cải tổ mạnh mẽ về mặt quốc phòng và quân sự. Các hệ vũ khí mới được phát triển, đặc biệt các vũ khí có tầm chiến lược, vươn cao vươn xa, có sức công phá lớn như : tên lửa, máy bay, tàu chiến, vũ khí – khí tài vũ trụ. Trung Quốc liên tiếp cho đóng tàu sân bay, tàu đổ bộ trực thăng tấn công khổng lồ, tàu tự hành. Ngày 27/5/2019 họ đưa máy bay ném bom hạng nặng ra Hoàng Sa và lần đầu tổ chức tuần tra liên hợp tại khu vực này. Trên tất cả, Trung Quốc tổ chức lại bộ máy quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản với người chỉ huy cao nhất là Tập Cận Bình, Tổng bí thư – Chủ tịch nước.
Trung Quốc cũng không giấu diếm việc tìm kiếm vai trò quản trị quốc tế trên mọi lĩnh vực, thậm chí đưa mô hình quản trị của họ như một hình mẫu khả thi mà thế giới có thể cần và noi theo.
Trái với việc ủ mưu siêu cường, Trung Quốc không giấu diếm việc cạnh tranh chiến lược với Mỹ trên mọi mặt trận có thể. Rõ ràng nhất là để đối trọng với việc Tổng thống Obama tái cân bằng Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương, Chủ tịch Tập Cận Bình có ngay sáng kiến "Vành đai và Con đường" đáp lại ("Vành đai con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa trên biển", đã trở nên quen thuộc với tên chữ cái tiếng Anh : BRI – Belt and Road Initiative). Phải nói ngay đó là một sáng kiến khôn ngoan, nó không chỉ tranh thủ được các đối tác về cả ngoại giao, kinh tế, kết nối địa chiến lược mà còn giúp Trung Quốc ""tiêu thụ" sự thặng dư nguồn lực của mình. Nghĩa là với BRI, Trung Quốc muốn "được" mọi phương diện.
BRI đã khiến Tổng thống mới của Mỹ, Donald Trump lại phải thêm một lần điều chỉnh : chiến lược "Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở" ra đời. Cuộc cạnh tranh giữa hai thế lực lớn nhất thế giới, ngấm ngầm hoặc bộc phát trở thành cuộc chiến địa chính trị toàn cầu. Với phiên bản "Vành đai – Con đường" đối chọi phiên bản "Ấn – Thái" Trung Quốc cho thấy mình muốn gì, đang làm gì và ở đâu.
Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, giống như một cái thùng không đáy hứng sự đầu tư của thế giới tư bản, bước sang thế kỷ XXI Trung Quốc gần như đột ngột xuất hiện trong tư cách nhà cung ứng tài chính không chỉ cho thế giới thứ ba mà cho cả địa cầu. Với ngân khoản khổng lồ có được từ sự phát triển kinh tế của mình, Trung Quốc ồ ạt đầu tư ra nước ngoài, không kịp gây ngạc nhiên cho người quan sát. Chỉ riêng giai đoạn 2013-2017, Trung Quốc đã chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Sáng kiến Vành đai – Con đường lại là một ví dụ khác.
***
Sự lớn mạnh của Trung Quốc chắp cánh cho những toan tính sẵn có. Toan tính ấy là toan tính toàn cầu nhưng trước hết nhằm phục vụ lợi ích và quyền lực của Trung Quốc trong khu vực chiến lược sát sườn Đông Nam Á /ASEAN. Trung Quốc luôn lớn tiếng ASEAN là hạt nhân, là trung tâm giữ vai trò quyết định trong hợp tác và an ninh khu vực (các nước lớn Mỹ, Nhật Bản cũng nói vậy) nhưng vai trò ấy phải trong vòng kiềm tỏa. Năm 2010, trong một cuộc làm việc ở Hà Nội, có sự tham gia của cả Ngoại trưởng Mỹ và các Ngoại trưởng ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc – một cách rất nước lớn – đã chỉ vào đại diện của Singapore và Việt Nam mà bảo rằng các anh chỉ là những nước nhỏ, rồi giận dữ bỏ ra ngoài.
Các nước Đông Nam Á lục địa cùng chung hệ thống sông Mekong. Dòng sông này bắt nguồn từ Tây Tạng với Lan Thương (Trung Quốc) ở thượng nguồn. Năm 1995, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia lập ra Ủy hội sông Mekong (MRC) để cùng quản lý dòng sông này. Một trong những việc đầu tiên của MRC là thúc đẩy việc cấm xây dựng các đập thủy điện lớn. Mọi thứ đang còn ngổn ngang thì tháng 3/2016 một cơ chế hợp tác khác, Hợp tác Lan Thương – Mekong, LMC, do Trung Quốc khởi xướng, bao gồm Trung Quốc và các nước trên cộng thêm Myanmar ra đời [1].
Trung Quốc đề nghị lập một cơ cấu quản lý và cơ cấu này nên nằm ở Vân Nam. Khỏi cần một cơ cấu quản lý, ai cũng biết chính các con đập quản lý nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa của dòng sông. Riêng Trung Quốc đã xây tới 11 con đập, chứa lượng nước khổng lồ 47 tỉ m3. Một lượng nước như vậy bị trữ lại đã gây thiệt hại rất nhiều cho vùng hạ lưu, đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối nguồn. Đã có dự báo từ sớm, xâm nhập mặn ở vùng này sẽ khốc liệt chưa từng vào quý I năm nay 2020. Và thực tế đã diễn ra như vậy. Hạ nguồn (Thái Lan, Campuchia, Việt Nam) đang đói, đói nước, đói cá, đói phù sa.
Lượng thủy sản của hệ thống sông này được coi là một trong những nguồn thủy sản nội địa lớn nhất thế giới, chiếm gần 1/4 lượng đánh bắt cá nước ngọt toàn cầu. Ngư dân Thái Lan cho biết mực nước và lượng cá đã đang giảm hẳn từ khi Trung Quốc xây dựng các con đập. Muốn vận chuyển lớn, họ xả nước, còn không thì giữ lại. Mực nước không ổn định khiến cá không đẻ trứng. Nổ mìn, phá đá mở rộng lòng sông và nạo vét cát sỏi ở thượng nguồn đã phá hệ sinh thái và đe dọa an ninh lương thực của hàng triệu người phụ thuộc vào nó. (Theo thông tin vừa cập nhật, Nội các Thái Lan đã tuyên hủy Dự án khơi thông luồng lạch, ghềnh đá trên sông Mekong vào ngày 11/02/2020 và đây được coi là thắng lợi chưa từng có).
Một vấn đề khác : Trung Quốc cũng là đối tác hàng đầu của các nước Đông Nam Á về kinh tế – thương mại, đặc biệt với Việt Nam, được coi là nước xuất nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực. Do quan hệ truyền thống lâu đời và một đường biên hơn 1400km đã khó quản lý, buôn bán tiểu ngạch và buôn lậu phát triển mạnh lúc nóng lúc lạnh lại càng khó quản lý. Chưa nói trong quan hệ thương mại, phía Việt Nam hầu như bị động hoàn toàn vào nhập khẩu từ Trung Quốc.
***
Nhưng có lẽ Biển Đông mới là vấn đề lớn nhất trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN nằm ven bờ : Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei. Trong những nước này thì Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa và Trường Sa/Nam Sa, còn các nước Philippines và Brunei tuyên bố sở hữu một phần (một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa/Nam Sa). Indonesia tuyên bố sở hữu quần đảo Natuna nhưng vùng nước phía Bắc của quần đảo này nằm trong phạm vi đường 9 đoạn mà Trung Quốc nêu ra (Indonesia thường cho thấy họ không có tranh chấp với Trung Quốc, nhưng ngay đầu năm 2020, ngày 1/1 Indonesia đã triệu tập Đại sứ Trung Quốc tại nước này để phản đối việc các tàu cá và hải cảnh Trung Quốc xâm nhập vùng nước Natuna).
Sự quan tâm của Trung Quốc đến Biển Đông, những tuyên bố và hành động gần như đột ngột của nước này đến vùng biển chung của các nước Đông Nam Á mà họ muốn một mình sở hữu đã gây nên sự hoang mang lẫn phẫn nộ trong vùng. Đặc biệt với Việt Nam, nước gắn bó nhiều lợi ích nhất với Biển Đông (hơn hẳn Trung Quốc) và cũng là nước có nhiều duyên nợ với Trung Quốc về lịch sử, địa lý, văn hóa,… Biển Đông có gì ? Biển Đông có tất cả. Một nguồn lợi cá và hải sản khổng lồ, một nguồn lợi về tài nguyên dầu khí lên tới hàng ngàn tỉ đô la Mỹ và nhất là một tuyến hàng hải, một tuyến thương mại quốc tế không thể thay thế. Khống chế được tuyến này là có thể bắt nạt các quốc gia cần đến nó, bắt nạt các nước lớn, bắt nạt cả thế giới.
Gắn với tranh chấp Biển Đông, gắn với sự tham lam của Trung Quốc là "đường 9 đoạn". Con đường này không hiểu vì lý do gì mươi năm gần đây lúc thì Trung Quốc gọi 9 đoạn, lúc thì 11 đoạn, lúc thì 10 đoạn một cách tùy tiện và chỉ được gọi theo hình thức cắt đoạn như vậy, không một lần có tên gọi theo nội dung, nhưng Trung Quốc ngầm cho hiểu nó là đường biên giới quốc gia trên biển của họ (không dính bất cứ một quy định hay thông lệ quốc tế nào, kể cả điều mà Trung Quốc viện dẫn là "vùng nước lịch sử").
Lập trường về "đường 9 đoạn" được Trung Quốc chính thức đề cập đến lần đầu là văn bản được trình lên Liên hợp quốc ngày 7/5/2009- Họ từng tuyên bố không đòi hỏi quyền lợi vùng biển trong "đường chín đoạn" theo UNCLOS mà theo tập quán quốc tế, là quyền lợi lịch sử như tiền lệ tư pháp quốc tế nhưng lại không chứng minh được đường này qua các bản đồ lịch sử mà chỉ dựa vào chứng cứ mơ hồ thông qua các tuyên bố "hàng ngàn năm lịch sử" "hai ngàn năm lịch sử", "từ thời nhà Hán".v.v… Nếu nói về đời nhà Hán có thể đưa thêm một dẫn chứng ngược. Thư tịch Trung Quốc thời đó mô tả tàu thuyền đi qua vùng biển này – Hoàng Sa/Tây Sa – nhất là tàu thuyền có chốt sắt, thường bị bẻ ra hoặc bị giữ lại làm đắm thuyền vì các hòn đảo ấy toàn đá nam châm(?) Bây giờ ta có thể hiểu đó là những bãi đá nước lên xuống theo thủy triều, không có đá nam châm nào cả, gặp lúc nước rút tàu không thoát kịp sẽ trơ trọi nằm lại với đá. Một khu vực nguy hiểm "toàn đá nam châm", không có dân cư, không có điều kiện sống lại cách xa Trung Quốc như vậy thì "tổ tiên" đòi hỏi chủ quyền làm gì ? Chưa nói văn kiện nào tuyên bố chủ quyền mấy ngàn năm trước từ thời Hán để đến bây giờ các giới trách nhiệm Trung Quốc tranh nhau nói về vùng nước lịch sử và việc phải bảo vệ "đất đai tiên tổ" (?).
Có lẽ người đầu tiên vẽ con đường này (năm 1933) muốn chỉ ra khu vực đánh cá mà các ngư thuyền Trung Quốc từng lui tới chăng ? Phía Trung Quốc cũng không bao giờ cung cấp công khai văn bản ấy. Nếu có chút ít pháp lý (dù mơ hồ) thì họ đã trưng ra Tòa trọng tài khi Tòa này xét xử theo đơn kiện của Philippines (dù không tham gia phiên tòa hoặc không chấp nhận phán quyết của Tòa).
Một việc cũng thú vị là năm 2012, trước sự mù mờ của dư luận Trung Quốc và quốc tế và của cả những người sáng tạo ra nó, ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nam Hải tuyên bố là hai năm sau đó sẽ xác định được vững chắc cơ sở pháp lý của đường 9 đoạn. Bây giờ đã 2020, nghĩa là gần 8 năm sau rồi, chưa biết ông này đang ở đâu cùng với thề thốt của mình (?).
Trung Quốc bám víu vào đường 9 đoạn như là cơ sở chủ yếu cho tham vọng chiếm quyền ở Biển Đông. Nhưng ngoài đường chín đoạn, họ còn đánh chiếm các đảo đá (quần đảo Hoàng Sa 1974, một số đảo đá của Trường Sa 1987, 1988 và Scarborough, Mischief… vào những dịp khác). Và họ vừa nghe ngóng vừa mở rộng, xây cất trên các đảo đá đánh chiếm được theo chiến thuật tằm ăn rỗi mà phương Tây gọi là cắt lát salami.
***
Một vấn đề liên quan đến Biển Đông bắt buộc có sự tham gia của Trung Quốc và có ý nghĩa thực tế hơn : Xác lập bộ Quy tắc ứng xử cho các bên (COC).
COC là chủ đề các nước ASEAN, đặc biệt các nước ven Biển Đông rất quan tâm. Nhưng Trung Quốc thì tùy. Cuộc đàm phán về COC bắt đầu được các bên tiến hành vào năm 2013 – mười một năm sau khi có DOC (Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông). Nghĩa là rất chậm, vì Trung Quốc không muốn COC, họ coi DOC là đủ rồi. Tổng thư ký của tổ chức ASEAN lúc đó than phiền rằng tổ chức này không thể lôi kéo Trung Quốc vào các cuộc thảo luận thực chất. Bắt đầu rồi mà như chưa bắt đầu, cứ như sên bò vậy. Bằng cách đó Trung Quốc muốn cho mọi người thấy rằng họ cơi nới chưa xong, họ còn phải mang vũ khí đặt lên đấy đã,…
Không thể lộ liễu hơn, Trung Quốc chơi trò câu giờ. Trong 7 bãi đá (Chữ Thập, Gạc Ma, Châu Viên, Tư Nghĩa, Gaven, Vành Khăn, Xubi) mà Trung Quốc cơi nới thì đá Chữ Thập đã được mở rộng tăng kích thước lên gấp 11 lần, lớn hơn cả đảo Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa/Nam Sa mà Đài Loan đang chiếm giữ. Cho đến trước khi mở rộng, Trung Quốc là bên duy nhất không có đường băng ở Trường Sa (Đài Loan có ở Ba Bình, Philippines có ở Thị Tứ, Malaysia có ở đá Hoa Lau, Việt Nam có ở đảo Trường Sa Lớn) thì bây giờ đường băng đã xuất hiện ở Chữ Thập, Vành Khăn, Xubi. Câu giờ đủ rồi, Trung Quốc mới quay sang COC. Trong hai năm 2017, 2018 họ công bố rằng "văn bản duy nhất" của COC đã được các bên cùng đọc. Thế nào là văn bản duy nhất ? Theo các nguồn tin, đây là 11 văn bản do 11 quốc gia đưa ra và nó còn quá xa cách nhau về nội dung, nhất là những vấn đề cơ bản như : phạm vi các thực thể địa lý được đề cập, các yếu tố chế tài trên cơ sở pháp luật quốc tế…
Theo ông I. Storey từ Viện ISEAS (Singapore) "Hà Nội và một số nước đưa ra một danh sách dài những điều mà họ muốn COC cấm nhưng thật ra lại là những điều Trung Quốc đã làm trong những năm qua". Nhà phân tích M.J. Valencia thì nói với South China Morning Post : "Rất ít khả năng có được một COC có hiệu lực pháp lý như mong muốn". Tờ Nikkei (Nhật) thì cho rằng, mặc dù bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài, Trung Quốc không muốn bị coi như kẻ ngoài vòng pháp luật do vậy quan tâm đến COC có thể giúp họ hóa giải tình trạng này ?
Các nước ASEAN có lẽ muốn có sự chế tài trên cơ sở luật pháp quốc tế thông qua Bộ quy tắc ứng xử. I. Storey cho rằng, COC muốn có giá trị pháp lý thì phải trình lên Liên Hiệp Quốc, nhưng Bắc Kinh lại không chấp nhận. Còn Ngoại trưởng Philippines Locsin thì bảo "Chấp nhận những yêu sách của Trung Quốc là gián tiếp công nhận bá quyền của Trung Quốc, như cho con voi vào phòng khách".
Có một điều chắc chắn là COC không phải để giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc luôn cho chủ quyền các đảo, đá là vấn đề song phương mà COC chỉ có thể kiểm soát ổn thỏa những bất đồng phát sinh từ Biển Đông, bản nâng cấp chút đỉnh của DOC mà thôi.Thực tế cũng có thể không hẳn như vậy, vì thế nào là "bất đồng" và phạm vi những bất đồng ấy là gì và kiểm soát thì như thế nào. Chưa nói, Trung Quốc muốn COC không có sự can thiệp của bên ngoài trong tiến trình thảo luận (cũng vì vậy mà tiến trình này được bảo mật) nhưng các nước "bên ngoài" lại rất muốn tham gia vì vấn đề tự do hàng hải. Mà vấn đề này lại liên quan đến thế nào là phi quân sự hóa đang được các bên tranh cãi. Trung Quốc cho rằng phi quân sự hóa là tàu quân sự đi qua khu vực 12 hải lý quanh các đảo "của họ" phải có sự xin phép, còn Mỹ và các nước nói chung thì coi việc Trung Quốc xây dựng sân bay, đưa vũ khí khí tài ra các đảo đá được xây đắp, mở rộng đã là quân sự hóa rồi.
Việc tìm được sự đồng thuận giữa các bên về các vấn đề chủ chốt không hề đơn giản. Có hai luồng dư luận : một, COC chưa chắc đã cải thiện tình hình hiện nay ; hai, có COC vẫn hơn.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng tuyên bố tại Hội nghị về các biện pháp xây dựng lòng tin ở châu Á năm 2014 : "Việc điều hành công việc, giải quyết các vấn đề châu Á, bảo vệ an ninh châu Á là giành cho người châu Á". Và Trung Quốc yêu cầu trong văn kiện COC thì việc thăm dò và phát triển dầu khí và tài nguyên biển nói chung ở các vùng tranh chấp sẽ do các nước trong khu vực tiến hành, không hợp tác với các quốc gia bên ngoài. Cũng như sẽ không có các cuộc tập trận chung với các quốc gia ngoài khu vực. Yêu cầu này cho thấy, COC sẽ có thể tạo ra một dàn xếp mang tính độc quyền, trái với công ước Liên hiệp quốc về luật biển. Bà Dewi Fortuna Anwar, nhà quan sát người Indonesia đặt câu hỏi : "Làm thế nào để đảm bảo rằng COC sẽ không thể chế hóa mối quan hệ rất bất đối xứng gây bất lợi không chỉ cho các nước ASEAN mà còn cho các bên liên quan rộng lớn hơn ở Biển Đông, bao gồm cả việc không chú ý đến tất cả các điều khoản của UNCLOS ? Các nước Việt Nam, Malaysia, Philippines đã khẳng định COC sẽ không bao gồm bất kỳ điều gì gây ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của các bên theo luật pháp quốc tế…", Trung Quốc đã từng viện dẫn đoạn 4 của DOC quy định về giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán giữa các bên liên quan để phủ nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài và chỉ trích Philippines đã vi phạm DOC. Nhưng DOC chỉ là một tuyên bố ứng xử lỏng lẻo, thế nào mới được gọi là đàm phán, mà Trung Quốc lại chỉ muốn song phương mà thôi.
Trong khi làm ra vẻ thúc đẩy COC Trung Quốc luôn luôn nói rằng tình hình Biển Đông vẫn yên ổn thì thực tế đã xảy ra nhiều chuyện bất ổn. Một tàu cá Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm vào tháng 6/2019 và hơn hai chục ngư dân lênh đênh giữa biển khiến dư luận nước này sôi sục, ba tháng sau họ mới có lời xin lỗi. Và suốt từ tháng 7 đến cuối tháng 10/2019 tàu thăm dò và hải cảnh Trung Quốc liên tục cản trở, quấy phá Việt Nam hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế của mình, bãi Tư Chính, dù Việt Nam nhiều lần lên án và dư luận quốc tế phản đối. Trước đó, các tàu này cũng đã thường xuyên cản trở hoạt động của Malaysia ở bãi Luconia. Và sau đó, cho đến tận đầu tháng 1/2020, hải cảnh và tàu cá Trung Quốc liên tục thâm nhập hải phận Bắc Natuna của Indonesia.
Philippines từng là nền kinh tế có trình độ phát triến thứ hai ở châu Á sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dựa vào Philippines cũng như dựa vào Hàn Quốc, Nhật Bản như là nơi cung cấp hậu cần cho cuộc chiến tranh, một lợi ích mà biết khai thác có lẽ Philippines cũng sẽ có một nền kinh tế không cách xa lắm với Hàn Quốc, Nhật Bản, nghĩa là một nền kinh tế phát triển. Hay sự tham nhũng của tổng thống độc tài Marcos và gia đình ông ta đã nuốt hết mọi cơ hội của Philippines mà khi trở thành người lãnh đạo của đất nước này, ông Duterte đã thất vọng đổ cho đồng minh lâu đời là Mỹ để làm một cuộc thoát Mỹ nhập Trung. Ông Duterte cũng bày tỏ thất vọng vì tổng thống tiền nhiệm đã để mất bãi cạn chiến lược Scarborough ở ngay cửa ngõ trung tâm quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự Manila, nhưng ông đã làm gì ? Trong 3 năm làm tổng thống, ông gặp ông Tập Cận Bình 8 lần và thăm Trung Quốc 5 lần. Sau lần gặp gỡ mới đây, ông thừa nhận là hoàn toàn bế tắc vì đối tác quyết không thay đổi lập trường. Dù vậy, ông vẫn muốn cùng khai thác với Trung Quốc vì cho rằng Philippines đã cạn kiệt nguồn cung. Theo các hãng tin nước ngoài, nếu Bắc Kinh thực sự giành được quyền khai thác chung với Philippines ở bãi Cỏ Rong thì sẽ là một bước lùi tai hại cho các bên cùng có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Nó như một chỉ dấu về cách thức "cùng khai thác" mà Trung Quốc muốn.
Những người Philippines ủng hộ Tổng thống Duterte thì nói rằng, trong khi làm chủ tịch ASEAN, Campuchia cũng đã hai lần bỏ phiếu chống lại việc ASEAN thông qua những tuyên bố chỉ trích hoạt động xây dựng và mở rộng đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông, còn hơn ông Tổng thống của họ bây giờ ? Người ta quên một điều là Campuchia có thể chẳng có lợi ích trực tiếp gì từ Biển Đông nhưng Philippines thì sao ?
Giám đốc Viện các vấn đề biển và luật biển của Đại học Philippines, Jay Batongbacan cho rằng : "Philippines đã phung phí những đòn bẩy có thể có đối với Trung Quốc thông qua việc gạt bản phán quyết của Tòa Trọng tài trong thời gian làm Chủ tịch ASEAN sang bên lề. Nếu Philippines không quan tâm đến việc đưa phán quyết vào nghị trình của ASEAN, không quốc gia nào khác trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền đạo đức để đề cập đến phán quyết"
***
Ngày 13/7/2019, cơ quan CSIS (Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Mỹ) đã có bài viết nhận định Trung Quốc đã hoàn toàn bất chấp ít nhất 9 phán quyết chủ yếu của Tòa Trọng tài, sau 3 năm Tòa này ra phán quyết.
Thứ nhất, không tuân thủ phán quyết bãi Cỏ Mây và vùng biển xung quanh là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Các tàu Trung Quốc tiếp tục thường xuyên tuần tra qua lại và có lần, trực thăng của họ còn quấy rối nguy hiểm một tàu tiếp tế của Philippines.
Thứ hai, chiếm đóng trái phép đá Vành Khăn, phản đối tàu Mỹ đi qua vô hại trong phạm vi 12 hải lý của đá này.
Thứ ba, ngăn chặn Philippines khai thác tài nguyên trong thềm lục địa của họ và ở bãi Cỏ Rong.
Thứ tư, Trung Quốc tiếp tục đơn phương đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá từ tháng 5 đến tháng 8 trong một khu vực phần lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (và Việt Nam).
Thứ năm, Trung Quốc đã không ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tại bãi Vành Khăn và trên khắp Trường Sa. Tháng 6/2019, một trong số các tàu này đã đâm chìm một tàu cá Philippines
Thứ sáu, không tuân thủ phán quyết không cho phép ngư dân Trung Quốc khai thác trái phép loại sò tai tượng có nguy cơ tuyệt chủng bằng các biện pháp tàn phá môi trường, phá hủy nghiêm trọng một diện tích lớn san hô, dưới sự chứng kiến của lực lượng tuần duyên Trung Quốc như một sự phá hoại lấy được.
Thứ bảy, Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường thông qua việc xây đắp đảo. Trung Quốc đã hoàn thành công việc nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016. Cũng bao gồm cả việc Trung Quốc lắp đặt các trạm giám sát trên các rạn san hô ở Hoàng Sa, hủy hoại môi trường sống dưới biển.
Thứ tám, không tuân thủ phán quyết, các tàu chấp pháp của Trung Quốc tiếp tục vi phạm các quy định về chống va chạm bằng cách tạo ra nguy cơ va chạm, gây nguy hiểm cho các tàu của Philippines. Vụ quấy rối tàu tiếp tế của Philippines gần bãi Cỏ Mây tháng 5/2018 là một ví dụ.
Điều cuối cùng, thứ chín. Đặt thứ tự thứ chín là dụng ý của người viết bài này, còn CSIS đặt nó ở vị trí thứ nhất vì đây chính là vấn đề đường 9 đoạn. Phán quyết của Tòa trọng tài là Trung Quốc không thể yêu sách chủ quyền hoặc các quyền khác trong phạm vi đường 9 đoạn vốn vượt khỏi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà Trung Quốc được UNCLOS cho phép. Và ở đây, điều CSIS phê phán là dù đã ít đề cập hơn (trước đây) về đường chín đoạn nhưng việc nước này tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở khu vực này (Biển Đông) tiếp tục phản đối tất các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong đường 9 đoạn bất kể chúng nằm cách các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền bao xa, tiếp tục để ngư dân của mình đánh cá trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Indonesia là vô pháp, không thể chấp nhận. Đặt điều này vào vị trí cuối cùng chúng tôi muốn khẳng định đây là sự bất tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài then chốt nhất, nghiêm trọng nhất dẫn đến tất cả các hoạt động bất tuân khác của Trung Quốc.
***
Coi Biển Đông là của mình, cùng với việc xâm chiếm và xây cất, mở rộng các đảo đá, Trung Quốc đã từng bước thiết lập sự kiểm soát các tầng không gian của Biển Đông.
Ngày 8/6/2016 Trung Quốc xây dựng Đài quan sát đáy biển, giúp tìm kiếm khoáng sản và phục vụ cho mục đích quân sự. Đây là đài quan sát ngầm đầu tiên của một quốc gia tại Biển Đông. Đài quan sát này, theo India Times, sẽ được quan sát liên tục theo thời gian thực, đảm bảo độ chính xác cao. Tiến thêm một bước, tháng 9/2019 Trung Quốc thiết lập hệ thống thiết bị bay không người lái (UAV) kiểm soát tầng không. Với hệ thống này, Biển Đông được Trung Quốc đặt dưới sự kiểm soát đa tầng, nghĩa là mọi hoạt động dưới mặt đất, trên mặt đất và trong khoảng không trên mặt nước biển đều không thóat khỏi "tầm nhìn" của họ. Thiết bị này còn giúp họ tìm kiếm dầu khí trong lòng biển và nhanh chóng biết được các quốc gia lân cận đang làm gì với tài nguyên ấy. Mới đây nước này còn thí nghiệm thành công thiết bị lặn tự hành có thể khảo sát ở phạm vi 2000km và sâu 2000m. Cùng với những tiền đồn, căn cứ quân sự mà Trung Quốc đã xây dựng ở Biển Đông (cho đến nay Trung Quốc có ít nhất 27 tiền đồn từ Hoàng Sa đến Trường Sa), thêm một lần Trung Quốc bắt nạt các nước trong khu vực.
Tại Biển Đông, các căn cứ quân sự (bao gồm các sân bay) đã được Trung Quốc thiết lập trên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa), đá Subi, đá Vành Khăn, đá Chữ Thập. Radar, tên lửa còn được hiện diện ở những cơ sở nhỏ hơn. Vụ Tư Chính đã cho thấy những căn cứ này phát huy tác dụng như thế nào. Tàu Hải Dương Địa chất 8 sau một thời gian quấy rối việc thăm dò, khai thác của Việt Nam ở Bãi Tư Chính lại trở về đây tiếp nhiên liệu, phụ liệu, không phải trở về tận Hải Nam hay các cảng đất liền. Điều này đã không thể xảy ra trước khi Trung Quốc hoàn thành việc xây cất các đảo đá.
Nhưng, nếu một cuộc chiến tranh nổ ra lại khác. Theo những gì có thể thấy, các đảo nhân tạo không đủ lớn để dự trữ pháo, đạn hoặc trang thiết bị thay thế. Các căn cứ ấy cũng là các mục tiêu cố định, không có tầng bao phủ tự nhiên, càng không có khả năng cơ động chuyển vị trí. Nói tóm lại, nếu là một cuộc tấn công/phản kích mạnh, có ý đồ thì những căn cứ này dễ bị tiêu diệt. Hơn nữa, "vì tên lửa không yêu cầu dữ liệu mục tiêu theo thời gian sống nên tàu chiến và máy bay Mỹ sẽ dễ dàng trong chiến dịch tấn công các căn cứ trên các đảo nhân tạo", tờ National Interest viết ngày 17/9/2019. Tuy nhiên, trang tin này cũng cho rằng, các đảo nhân tạo là công cụ để Trung Quốc khẳng định các yêu sách chính trị về hàng hải và tài nguyên ở Biển Đông và các căn cứ quân sự đi kèm là công cụ để hù dọa các nước nhỏ yếu ven Biển Đông.
***
"Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" cho đến nay là một khái niệm đã được thừa nhận nhưng chưa đồng nhất về một định nghĩa. Nhật, Mỹ, những nước đầu tiên đề cập đến khái niệm này đã cùng đồng ý về một "khu vực tự do và mở rộng". Và họ cũng muốn có một bộ tứ gồm Mỹ, Nhật, Australia, Ấn Độ làm hạt nhân. Tuy nhiên, Ấn Độ muốn tránh nói đến bộ tứ, cũng không đưa ra một quan điểm có ý nghĩa chính trị về khu vực này. Ngoại trưởng Jaishanka của Ấn Độ nói : "Khi khái niệm này xuất hiện, mỗi nước có cách nhìn và cách tiếp cận riêng. Họ có thể trao đổi để tìm ra những điểm trùng hợp. Với Ấn Độ, đó là một khu vực mở, bao trùm và cân bằng. Cũng không thể chia tách Ấn Độ Dương khỏi Thái Bình Dương".
ASEAN thì ban đầu có vẻ dị ứng với nó. Trước hết vì nó không xác định vai trò của ASEAN vốn vẫn coi (và được coi) mình là trung tâm. Hơn nữa nó mang ý nghĩa địa chiến lược của một tập hợp có vẻ chống lại Trung Quốc. Do đó các nước ASEAN đều dè dặt và hầu như không muốn nhắc đến. Song vì sự việc vẫn tồn tại, ngay bên cạnh ASEAN, va chạm với ASEAN vì các nước lớn đều nói đến nó nên cuối cùng, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 họp tại Bangkok, 6/2019, khối này cũng phải thông qua một văn kiện mang tên "Quan điểm ASEAN về "Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" (AOIP).
Đây thực chất là quan điểm của Indonesia, nước lớn nhất trong khu vực. Indonesia vốn đã muốn xây dựng một trục hàng hải vắt qua Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và muốn được định vị như một cường quốc biển ở khu vực này. Đó hẳn là lý do quan trọng khi khái niệm địa chiến lược này được đưa ra. Nhưng trong khi khái niệm này có vẻ tạo ra một tập hợp chống lại Trung Quốc thì vị thế của Indonesia như đã nói trên lại không được đề cập. Đó là lý do tại sao Indonesia muốn khởi sự một định nghĩa khác về Ấn – Thái riêng cho ASEAN.
***
ASEAN đã tuyên bố trở thành một cộng đồng nhưng những gì cho thấy là một cộng đồng không thống nhất, một cộng đồng mà mỗi nước theo đuổi những tính toán, lợi ích riêng cho mình. Họ chỉ cùng thống nhất quan điểm về những vẫn đề ở xa tít tắp, không ảnh hưởng đến họ. Những vấn đề gần, thiết thực thì họ phải xem được gì, mất gì nếu phải đeo mang quan điểm với cả hội, nhất là vấn đề biển đảo.
Cũng không thể trách được gì vì ASEAN là tập hợp xã hội với những điều kiện xã hội khác nhau (Các nước Đông Dương cũng vậy. Một nhà nhân chủng học Pháp thời thuộc địa, những năm 30 của thế kỷ trước đã có một nhận xét khái quát : Người Lào chỉ thích vui chơi, nhảy múa, họ có nhiều lễ hội, một năm chỉ cần mấy tháng xuống nương ra đồng là được. Người Việt thì chỉ nhìn thấy những gì hiện ra tức thì, họ không thể nhìn xa hơn nếu có bức tường trước mặt. Còn người Khmer, bắt tay họ quay đi thì phải quay lại ngay, coi chừng… Những năm 70 có không ít bộ đội, cán bộ Việt Nam bị mất tích ở vùng Đông Bắc Campuchia trong khi thỉnh thoảng lại bắt gặp những lính Khmer đỏ vác dao trên đường).
Vấn đề biển đảo ở Biển Đông đã bao giờ có được một ý chí chung giữa các nước này ? Chưa. Sự rạn nứt bắt đầu từ năm 2010, vào cái thời điểm mà chúng tôi đã đề cập ở trên, đến năm 2012 việc này trở nên rõ ràng. Campuchia khi đó là Chủ tịch ASEAN đã công kích Việt Nam và Philippines vì phê phán quan điểm của họ. Khi Philippines kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế và giành được phán quyết thuận lợi của Tòa, tháng 7/2016, chỉ có Việt Nam bày tỏ sự hoan nghênh. Các nước ASEAN khác, tùy từng thời điểm cho đến nay đã cho thấy quan điểm của mình đối với phán quyết này nói chung là dè dặt.
Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng tăng cường hợp tác cùng khai thác tài nguyên biển trong các khu vực chồng lấn, thể hiện một tinh thần hiểu biết. Đã có thỏa thuận chung giữa Thái Lan và Malaysia về việc mỗi bên có thể khai thác 50% sản lượng khí đốt trong khu vực này. Campuchia và Thái Lan cũng tích cực thúc đẩy việc khai thác năng lượng trong khu vực chồng lấn giữa hai nước. Trong khi đó, Việt Nam đang thảo luận với Indonesia và Malaysia về việc xác định vùng đánh cá chung trong khu vực tiếp giáp giữa ba nước, tránh tình trạng bắt giữ tàu cá của nhau hoặc gây ra các sự hiểu lầm khác.
Trung Quốc là bên tranh chấp lớn trong vấn đề Biển Đông. Họ giống như là một mình một phía với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, chính trị vượt trội. ASEAN, trong vấn đề Biển Đông, muốn là đối tác đa phương của Trung Quốc nhưng nước này kiên quyết giữ song phương, có đàm phán thương lượng thì riêng với từng nước liên quan, không làm với "một tập hợp". Nhưng Trung Quốc đã tốn công, tốn sức không ít và có sự bối rối lớn khi tìm kiếm sự ủng hộ của thế giới vào thời kỳ mà Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 và khi Philippines – Aquino kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Những gì họ đã làm và đạt được trong vấn đề này là không đáng bỏ công. Trong danh sách các nước ủng hộ mà họ công bố lúc đó, hầu hết là các nước châu Phi và các quốc đảo tí xíu ở Thái Bình Dương. Không một nước lớn, không một nước phương Tây, thậm chí cũng không một nước ASEAN trong tổng cộng 70 nước mà Trung Quốc nói rằng ủng hộ họ. Nhưng điều đáng nói là trong cuộc tấn công "làm việc" vào các nước tí hon Vanuatu, Samoa, Tonga, Papua New Guinea, các nhà ngoại giao Trung Quốc cho các nước này biết họ là "nạn nhân" trong vụ tranh chấp và "Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, đặt tên và phát triển các đảo ở Biển Đông, còn Việt Nam và các nước khác mới chỉ tuyên bố chủ quyền trong năm 1970 (?) sau khi ở đây phát hiện các mỏ dầu và khí đốt". Lúng túng, tất cả xuất phát từ cách làm không chính nghĩa.
***
Dù muốn hay không, Biển Đông đã là vấn đề quốc tế bởi sự tranh chấp giữa nhiều quốc gia trong khu vực. Nó càng trở thành vấn đề quốc tế khi là một trong những đường hàng hải quan trọng nhất của thế giới.
Nước lớn gần cận với quan điểm của Việt Nam nhất có lẽ là Nhật Bản. Nhật Bản từng ủng hộ Trung Quốc khi Đặng Tiểu Bình đến Nhật, ngay trước khi Trung Quốc đánh Việt Nam 1979. Lập trường này đã có nhiều thay đổi, đặc biệt dưới thời cầm quyền của thủ tướng Abe. Quan hệ giữa hai nước ổn định, gần như là đồng minh cho đến lúc này. Nhật Bản là quốc gia cấp nhiều vốn ODA cho Việt Nam nhất và cũng đặc biệt giúp Việt Nam xây dựng các cơ sở hạ tầng. Không có dấu hiệu gì, không có lý do gì để thấy rằng quan hệ thân thiết giữa hai nước có thể bị phá vỡ.
Xét từ chiều sâu 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô/Nga là đồng minh của Việt Nam. Mối quan hệ này chưa từng đổi khác, cho dù vật đổi sao rời. Ngày nay đây là mối quan hệ có thể tin cậy của Việt Nam dù trong khi đó quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã vượt lên, trở thành mối quan hệ mà cả hai nước này đều thề rằng tốt nhất trong lịch sử (đây không phải là quan hệ đồng minh, cũng không phải liên minh nhưng dựa vào nhau để tìm sự thống nhất trong đối chọi với Mỹ).
Trong vấn đề Biển Đông, Nga có lúc cũng nói là không quốc tế hóa sự tranh chấp trong khu vực. Nhưng nói chung, có thể thấy chính giới Nga, dư luận Nga ủng hộ Việt Nam, thông qua cách đưa tin trên các phương tiện truyền thông, hoặc các cuộc hội thảo ở Viện Hàn lâm hay trường đại học được đặc biệt tổ chức về vấn đề này. Chẳng hạn tiêu đề một bản tin của hãng TASS trong dịp xảy ra vụ Tư Chính : "Việt Nam kiên quyết đấu tranh trước bất cứ một hành vi nào xâm phạm chủ quyền" hoặc hãng này trích dẫn lời phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ : "Trung Quốc cần kiềm chế các hành động khiêu khích tại Biển Đông". Hãng Interfax của nước này còn trích dẫn cả lời phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana chỉ trích Trung Quốc vì những hăm dọa. Đặc biệt trong "bối cảnh Tư Chính", ngày 17/7/2019 Nga công bố thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với giám đốc Rosneft Việt Nam BV (Công ty con của tập đoàn Rosneft) một động thái không chỉ được coi là khéo léo ủng hộ Việt Nam mà còn khẳng định quyền của Nga trong thăm dò, khai thác ở đây.
Tại cuộc hội đàm với tổng thống Putin (Sochi, ngày 6/9/2018) trong khi Tổng thống Nga nói rằng Moscow muốn thắt chặt hơn nữa quan hệ an ninh và quốc phòng với Hà Nội thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết Việt Nam xem Nga là một trong những đối tác quan trọng và đáng tin cậy nhất.
Chính sách "ba không" của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (Sách trắng quốc phòng 2019 mới xuất bản nêu "bốn không"), đặc biệt với các nước lớn, thế giới đã rõ. Nhưng trong bối cảnh ngày càng phức tạp, cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, chính sách này cần được điều chỉnh. Một liên minh liên kết với một nước mạnh, có thể làm chỗ dựa cho Việt Nam, tại sao không ?
Một liên minh có điều kiện, không nhất thiết phải là đồng minh. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam có thể sẵn sàng với quốc gia nào và quốc gia nào có thể sẵn sàng cùng Việt Nam ? Vấn đề không đơn giản bởi tính tự giác phải đến từ hai phía.
Có thể thấy một điều Mỹ là một nước lớn và là quốc gia duy nhất đã phản đối đích danh Trung Quốc trong các sự kiện ở bãi Tư Chính. Mỹ cũng có lợi ích to lớn ở Biển Đông. Nhưng chỉ những điều ấy thôi chưa đủ, sự liên minh liên kết phải được dựa trên sự tin cậy. Và nếu được như thế, chắc chắn đó là sự hợp tác chiến lược. Trên tờ Bloombeng 17/11/2019, tác giả J. Starviridis đã viết : "Mặc dù không phải là đồng minh như Thái Lan, Philippines, Mỹ và Việt Nam cần có một khuôn khổ hợp tác chính thức về an ninh".
Mỹ từng là kẻ thù của Việt Nam và giữa hai nước là một cuộc chiến tranh khốc liệt nhất. Không có kẻ thù nào là vĩnh viễn, cũng như không có bạn bè nào vĩnh viễn, người Trung Quốc đã nói vậy và họ có thể là tấm gương về việc này. Trung Quốc từng ủng hộ Pôn Pốt – Ieng Sary, ủng hộ chế độ diệt chủng quyết liệt chống lại Heng Samrin – HunXen và gọi chế độ ở Phnom Penh hiện nay là tay sai của Việt Nam. Bây giờ thế nào ? Trung Quốc không hề xấu hổ khi tuyên bố Hun Sen là người bạn thân thiết nhất của họ. Cả hai đều biết vì sao lại như vậy, vì sao lại cần phải như vậy.
Việt Nam cũng không bao giờ muốn là kẻ thù của Trung Quốc. Hơn nữa dòng chính trong lịch sử cận đại giữa hai nước là ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, tình thế quy định và đặt tên sự việc.
***
Trở lại vấn đề Tư Chính
Đầu tháng 7/2019 Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 tới phía đông bắc bãi Tư Chính, làm cái việc mà họ gọi là khảo sát đáy biển khu vực này. Theo như họ cho biết, họ đã "khảo sát" 10 lô dầu khí trong một vùng biển rộng 35.000 km2 hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Đã có lúc Hải Dương 8 chỉ cách Phan Thiết 185km, hoặc Ninh Thuận 155km, xâm nhập sâu vào EEZ của Việt Nam.
Đi theo tàu này, có nhiều tàu hải cảnh hộ tống, thậm chí cao điểm có lúc có tới tám chục tàu hải cảnh và tàu dân quân Trung Quốc bao quanh và cản trở, xua đuổi tàu Cảnh sát biển Việt Nam. Những tàu này còn dấn thêm một bước là quấy rối gần lô 06-01, nơi Rosneft Việt Nam đã hoạt động khai thác trong nhiều năm qua. Đây cũng là nơi mà hai tập đoàn BP và Conoco Philips từ đầu những năm 2000 đã triển khai dẫn khí đốt vào đất liền Việt Nam, đáp ứng một phần năng lượng cho nhà máy điện. Hiện tại khí từ mỏ Lan Đỏ chiếm tới 1/10 tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam và đang do Rosneft Việt Nam khai thác. Cần nói rằng xa bờ hơn một chút là các lô 07-03 và 136-03 cũng trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, là nơi vào các năm 2017 và 2018, Trung Quốc đã gây sức ép buộc công ty Repsol của Tây Ban Nha phải rời đi.
Hoạt động của các tàu hải cảnh này không đơn thuần là bao bọc, che chắn cho Hải Dương 8 mà còn nhuốm màu bạo lực. Chẳng hạn ngay từ đầu, ngày 2/7, các tàu hải cảnh đã di chuyển với tốc độ cao trong một cự ly gần giữa hai tàu Việt Nam hay giữa tàu Việt Nam với giàn khoan. Sau đó, trong thời gian căng thẳng nhất, họ lại tiến hành đâm va và phun nước vào các tàu Việt Nam bảo vệ giàn khoan, giống như các hoạt động của họ trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.
Ngoài mục đích tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, hoạt động của Hải Dương Địa chất 8 còn mục đích gây sức ép với Nga (có lẽ đây là mục đích chính ?), nước đang có công ty Rosneft hoạt động trong khu vực theo thỏa thuận giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga trước đó, theo cách mà Trung Quốc từng gây sức ép với Repsol của Tây Ban Nha. Như đã đề cập, ngay trong dịp này, Nga đã công khai thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với Giám đốc Rosneft Việt Nam BV, công ty đang hoạt động thăm dò ở đây, một phản ứng rõ ràng đối với Trung Quốc. Về phía mình, ngay từ đầu, phản ứng của Việt Nam là mạnh mẽ. Ngày 12/7 Thủ tướng Việt Nam đã đến trụ sở cảnh sát biển và trực tiếp đàm thoại, động viên lực lượng này đang làm nhiệm vụ ở bãi Tư Chính. Suốt trong quá trình tàu Hải Dương Địa chất 8 và các tàu hải cảnh gây rối, Cảnh sát biển Việt Nam đã kiên quyết không rời vị trí, đáp trả ngoan cường các hành động có tính chất vũ lực của họ.
Chính phủ Việt Nam thông qua giao thiệp của Bộ Ngoại giao đã kiên quyết, liên tục phản đối việc xâm phạm chủ quyền Việt Nam của phía Trung Quốc.
Điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình ở khu vực này.
Một điều đáng lưu tâm khác là việc Trung Quốc đã thách thức gần như cùng lúc đối với chủ quyền các nước ASEAN (trước đó là đối với Malaysia và Philippines) thêm một lần cho thấy các nước này cần phải có sự đoàn kết, cần phải có một tiếng nói chung hơn bao giờ hết. Chính trong dịp này, cuối tháng 8/2019 thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã có cuộc thăm viếng Việt Nam. Trong tuyên bố chung, hai bên đã nhấn mạnh vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng hòa bình, thông qua các tiến trình pháp lý, không đe dọa sử dụng vũ lực, và phải tuân thủ Công ước luật biển của Liên hợp quốc 1982. Trong cuộc đi thăm một nước ASEAN khác ngay sau đó, từ kinh nghiệm xử lý các khoản vay nợ của nước mình sau khi trở lại làm Thủ tướng, ông Mahathir đã nói : "Hãy trân trọng giá trị của độc lập tự chủ, một khi vay nợ (và khó trả) thì sẽ không còn độc lập tự chủ nữa". Ông Thủ tướng cũng nói rằng, nếu để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ cũng có nghĩa là để mất chủ quyền, "nhưng những can thiệp khẩn thiết như trường hợp Khmer Đỏ trước đây lại khác". Có lẽ ông muốn nhắc đến hành động hy sinh giúp đỡ Campuchia của Việt Nam mà đến nay cũng vẫn còn những ý kiến khác trong khu vực ? "Để ngăn các cường quốc can thiệp, các nước ASEAN phải đoàn kết thành một khối vững chắc", ông kết luận.
***
Tính đến 2016, Việt Nam đã ký kết 13 thỏa thuận đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện với các nước. Có ba nước là đối tác chiến lược toàn diện là Trung Quốc (2008), Nga (2012) và Ấn Độ (2016). Nhưng thực tế đã không như vậy trong quan hệ với Trung Quốc.
Đối tác chiến lược toàn diện trước hết là sự hợp tác, tin cậy trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, quan hệ hai nước Việt Nam – Trung Quốc có sự hợp tác tin cậy đó không ? Cần nhìn vào sự thật qua bốn chục năm nay : Không. Tháng giêng năm 2017, hai Bộ trưởng Quốc phòng hai nước, trước sự chứng kiến của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã ký tại Bắc Kinh "Tuyên bố tầm nhìn chung về sự hợp tác quốc phòng đến năm 2025", một văn bản mà dư luận tin rằng "chỉ có giá trị về mặt chính trị", tuyên truyền.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước hết là quan hệ láng giềng gần gũi, nhiều tương đồng về lịch sử, văn hóa. Nhưng quan hệ gần gũi, láng giềng ấy là quan hệ giữa một nước lớn và một nước nhỏ và bởi vậy, Việt Nam đã phải hứng chịu một ngàn năm thuộc Bắc. Cuối cùng trong thế kỷ XX Việt Nam cũng trở thành một nước hoàn toàn tự do và độc lập. Nhưng những di sản bất lợi của một ngàn năm ấy phải giải quyết đã không hề dễ dàng. Sau một thập kỷ chiến tranh và xung đột giữa hai nước – thập kỷ 80 của thế kỷ XX – phải mất thêm một thập kỷ nữa hai nước mới có thể đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ. Phải mất 6 vòng đàm phán cấp chính phủ, 16 cuộc hội đàm của nhóm làm việc chung và nhiều cuộc gặp cấp chuyên gia khác, đến sát ngày cuối cùng của thập kỷ 90, hai nước Việt Nam và Trung Quốc mới ký được Hiệp ước Biên giới trên bộ và đến ngày 25/12/2000, cũng sau 10 vòng đàm phán cấp chính phủ, 18 cuộc hội đàm của Nhóm làm việc chung hai nước mới ký được Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Nhưng như ta đã biết, tất cả những điều đó chưa phải là kết thúc.
***
Người Trung Quốc hiện nay đang có cái nhìn như thế nào về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ?
Nhiều tác giả, bao gồm cả những học giả và không học giả Trung Quốc đã có những bài viết về Việt Nam hoặc về quan hệ Việt – Trung. Không ít những bài như "Cơ hội của Việt Nam trong chuỗi ngành nghề toàn cầu" (www.dunjiaodu.com, ngày 27/6/2019), nói về sự phát triển kinh tế của Việt Nam với những số liệu và phân tích khá xác đáng, những dự báo có cơ sở, những thiếu hụt cần phải vượt qua và những kết quả có thể hy vọng. Hay, mặc dù chịu sự kiểm duyệt nặng nề, một số học giả Trung Quốc vẫn đưa ra những ý kiến khách quan về "Nam Sa" (Trường Sa) về "đường chín đoạn" như Trần Khắc Kỷ, Lý Lệnh Hoa. Nhưng nói chung các bài viết thường thiên về phê phán, dạy dỗ, thậm chí xuyên tạc và thậm chí nữa, nói lấy được. Một nữ nghiên cứu viên của Viện khoa học xã hội Quảng Tây bảo rằng, Trung Quốc đất rộng, người đông, vì thế (?) không thể chấp nhận một vùng biển nhỏ hẹp. Một học giả ở Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (Bắc Kinh) mà tôi tôn trọng, cũng bảo rằng từ Việt Nam đi đến Philippines phải vượt qua "đường biên" với Trung Quốc (ý nói đường 9 đoạn) (?) Đặc biệt vừa qua, ông Trương Minh Lượng, nghiên cứu viên Đại học Ký Nam (Quảng Đông) có bài : "Ngoại giao Việt Nam làm phức tạp hóa vấn đề Biển Đông" – đăng trên tạp chí Đông Nam Á (Trung Quốc). Bài viết khá dài và loanh quanh chữ nghĩa không có sức để bình luận, chỉ xin hỏi lại ông Trương hai điều. Một, ông bảo nhà cầm quyền Việt Nam phải dung túng chủ nghĩa dân tộc (ý muốn nói là chống Trung Quốc) để bù đắp sự thiếu hụt tính hợp pháp của họ. Thiếu hụt tính hợp pháp ở chỗ nào thưa ông ? Thứ hai, điều này mới quan trọng, mới là bản chất của điều ông muốn nói. Ông bảo cuộc chiến Việt Nam – Campuchia cuối những năm 70 thế kỷ XX thực tế là cuộc chiến ba bên với bên thứ ba là Trung Quốc (hay thật !). Và bây giờ theo ông, tình huống ba bên ấy lại xuất hiện y chang, quan hệ Trung Quốc – Campuchia ngày càng ấm lên và quan hệ của Việt Nam với hai nước này ngày càng lạnh nhạt, thậm chí quan hệ Việt Nam – Campuchia đã đạt đến mức căng thẳng với hai nguyên nhân là Trung Quốc đã viện trợ ào ào cho Campuchia và người Campuchia thì "căm ghét" Việt Nam chẳng khác gì trước đây ? Ông Trương khẳng định : điều này là chắc chắn. Và ám chỉ : Cơ hội bùng phát cuộc chiến tranh tương tự cuối những năm 1970 đã sẵn sàng, và Việt Nam đang lo ngại.
Xin hỏi ông : Trung Quốc trước đây ủng hộ Khmer Đỏ (Lãnh đạo cao cấp nhất Trung Quốc từng nói Khmer Đỏ là chế độ giết người, nhưng Trung Quốc ủng hộ vì Khmer Đỏ đánh Việt Nam) ; và từng tuyên bố chế độ Hun Sen – Heng Samrin là tay sai của Việt Nam nhưng Trung Quốc hiện nay lại ra sức viện trợ cho họ như ông nói, coi họ là những người bạn lý tưởng nhất. Vậy là sao ? Còn về việc Việt Nam giúp đỡ Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot và nhân dân Camphuchia đánh giá điều đó như thế nào ông có thể tìm đọc bài phát biểu của ông Hun Sen ngày 4/10/2019, trong lần thăm Việt Nam mới đây.
***
Như đã đề cập, Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về kinh tế và công nghệ. Từng nói đến "thoát Trung" nhưng bây giờ càng dính chặt hơn. Người Việt Nam là như vậy, không có cái gì kiên quyết cả (trừ việc cả nước ra đường phải đội mũ bảo hiểm, một sự thành công đáng ngạc nhiên). Báo chí đưa tin trong 7 tháng đầu năm 2019 Việt Nam nhập khẩu 42,5 tỷ đô la hàng hóa từ Trung Quốc, tăng gần 20%, cả máy móc, thiết bị lẫn nguyên liệu, phụ liệu. Không có một nước nào mà nền kinh tế phụ thuộc nhập khẩu từ nước láng giềng cao như Việt Nam (và xuất khẩu cũng vậy, dù rằng thâm hụt. 70% nông sản xuất khẩu là sang Trung Quốc). Số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng năm của phía Trung Quốc thực tế cao hơn Việt Nam nhiều (trung bình khoảng 15% vì họ nắm chắc hoạt động của đường tiểu ngạch). Thấy nguy cơ nhưng nói xong để đấy, như chỉ nhìn thấy bức tường trước mặt. Không ai quan tâm tại sao, hoặc lờ đi vì không giải quyết nổi. Vấn đề là chính Trung Quốc cố tình tạo ra một thị trường buôn lậu và tiểu ngạch nhộn nhịp qua nhiều ngách biên giới khó kiểm soát. Khó kiểm soát nhưng không phải không biết (hoặc chỉ nhìn thấy "bức tường"). Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại, ông Lê Minh Triết, gần đây đã phải nói "Nhà nước Việt Nam đã không làm tròn trách nhiệm". Tôi không muốn dùng đến khái niệm "thoát Trung". Nói vậy giống như đang chịu đựng một sự kìm kẹp. Mà nguyên nhân của chuyện này chủ yếu và trước hết là do chúng ta. Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc nhưng với dân số gần trăm triệu người thì lại là nước lớn trong ASEAN, là tấm gương (phản chiếu chứ chưa phải để soi) mà các nước nhìn vào.
Vấn đề thứ nhất, buôn lậu và tiểu ngạch. Trung Quốc dung túng thì hoàn toàn có thể "bóp" vào, bằng thuế, bằng khối lượng, bằng chất lượng do họ quy định và vân vân. Người hứng chịu sẽ là nông dân và những người buôn bán tiểu ngạch, cũng có nghĩa là chính phủ, chưa nói vô vàn rủi ro trong làm ăn tiểu ngạch qua biên giới. Việt Nam phải chủ động và kiểm soát nó, khó khăn nhưng có thể kiểm soát.
Vấn đề thứ hai : Tiềm tàng nguy cơ lớn Trung Quốc trả đũa. Nước này có thói quen không quân tử là dùng biện pháp kinh tế – thương mại để trả đũa những vấn đề không liên quan, như đã từng làm với Philippines, Na Uy, Hàn Quốc… Cách ứng phó của Việt Nam là không để chỉ khi thấy nguy cấp thì mới đề cập đến như một vấn đề chiến lược, qua rồi thì "cho qua". Việt Nam cũng không được để những nguyên liệu thiết yếu cho sản xuất chỉ đến từ một hướng, chỉ đến từ Trung Quốc. Ở đây chính là vai trò của nhà nước, của chính phủ. Phải có kế hoạch ngay từ khi nguy cơ ấy tiềm tàng. Kế hoạch này phải có lộ trình, kiểm điểm theo lộ trình. Có đắng cay, có sút giảm (thậm chí nặng nề) nhất thời cũng phải chấp nhận. Coi như một cuộc chiến, mà cuộc chiến thì không thể thất bại.
Phần II
Trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ
Dư luận trong nước cho rằng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ, chưa được, còn quá dè dặt. Người ta nhìn vào kết quả : Trung Quốc vẫn thế, vẫn ra vào ngang nhiên. Tôi đồng ý phần nào quan điểm này. Người dân cần ủng hộ Chính phủ, nhưng không có nghĩa vụ ủng hộ vô điều kiện. Người dân cũng có quyền thảo luận với Chính phủ một cách lý trí nhưng không để tình cảm lấn át, thiếu hiểu biết, càng không thể đại ngôn, lớn lời, bài bác vô lối.
Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có quan hệ sâu rộng nhất với Trung Quốc, trên mọi lĩnh vực. Cùng với Myanmar và Lào, Việt Nam có đường biên giới trên bộ khá dài với Trung Quốc. Việt Nam cùng có biên giới trên biển quan trọng với nước này, không nói về đường 9 đoạn. Việt Nam cũng sở hữu hệ thống Mekong-Lan Thương với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Việt Nam cũng là nước có quan hệ kinh tế – thương mại lớn nhất với Trung Quốc.
Để thấy rằng những tính chất bất khả kháng của Việt Nam trong mối quan hệ này và cũng để thấy rằng Việt Nam phải ở hàng đầu trong cách ứng xử với Trung Quốc. Theo cách mà Jay Batongbacan nói về vai trò của Philippines trong phán quyết của Tòa Trọng tài (đã nêu ở trên), ta cũng có thể bảo : Nếu Việt Nam không quan tâm đến vai trò hàng đầu của mình thì không một nước nào trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền (cả về mặt đạo đức lẫn pháp lý) nắm giữ vai trò ấy.
Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần có sự hợp tác cao hơn với Mỹ, một liên minh liên kết hoặc đối tác chiến lược chẳng hạn. Người viết cũng đã nêu ra khả năng này là có thể, với điều kiện cả hai phía đều tự giác nhìn thấy và vì cộng đồng lợi ích. Bài phát biểu của Phó tổng thống Mỹ M.Pence ngày 24/10/2019 có phần quan trọng nói về Biển Đông đã được dư luận Mỹ đánh giá cao. Trong khi Giáo sư A. Erickson thuộc Trường Hải chiến Mỹ cho rằng Phó Tổng thống Pence "xứng đáng trong vai trò quan chức Mỹ cao cấp nhất công khai vạch trần ý đồ của lực lượng dân quân biển Trung Quốc" và ông D.J. Grossman, một chuyên gia từ Trung tâm Rand Corporation phát biểu : "Chưa một nước nào đứng lên bảo vệ Việt Nam như vậy" thì vẫn cần phải hỏi : Còn Tổng thống Mỹ thì sao ? Ông D. Trump chưa một lần lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề này, chưa nói đến hành động. "Nước Mỹ trước hết", và ông đã bỏ rơi đồng minh người Kurd cho Thổ Nhĩ Kỳ ? Có thể đặt cược vào một Tổng thống vừa dân túy vừa bất nhất như vậy ?
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một quan hệ láng giềng vĩnh viễn. Trong mối quan hệ đó có lịch sử, văn hóa, có tình hữu nghị không thể một sớm một chiều bỏ qua. Chưa nói đến những ràng buộc như đã đề cập. Nhưng cũng không thể xem nhẹ chủ quyền dân tộc nếu bị xâm phạm. Đấy là thế khó của nhà nước mà cũng là nơi quyền lực và sự sáng suốt phải được chứng tỏ. Dư luận nhân dân có quyền đòi hỏi chính phủ phải làm nhiều hơn, làm tốt hơn việc bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trong ba mối quan hệ/ràng buộc đang có với Trung Quốc thì Biển Đông nằm ở trung tâm còn kinh tế và hệ thống sông Mekong-Lan Thương rất có thể trở thành công cụ của một bên như đã nói. Không khó để nhìn ra sự "khôn ngoan" của đối phương nhưng chưa thấy Việt Nam có một đối sách thật sự ở tầm chiến lược. Nói "thoát Trung" để bây giờ càng "dính" chặt hơn ?. Về hệ thống Mekong – Lan Thương cũng vậy. Trung Quốc trữ một lượng nước lớn ở thượng nguồn bằng một loạt con đập nhưng nhiều con đập không để làm thủy điện. Để làm gì ? Người ta có quyền đặt câu hỏi về vấn đề này, nhất là từ lâu Trung Quốc đã có ý định tìm cách cung cấp nước cho vùng khô hạn phía đông và phí bắc của mình. Cơ chế hợp tác Lan Thương – Mekong (LMC) không cho thấy mục đích rõ ràng, dù nó nằm dưới ngọn cờ "cộng đồng chung vận mệnh" với rất nhiều tiêu ngữ bóng bẩy. Hầu như Bắc Kinh chưa đưa ra cam kết nào đối với yêu cầu quản lý và ổn định dòng chảy, đảm bảo cung cấp nước và phù sa cho hạ lưu, giữ vững hệ sinh thái. Tóm lại, vấn đề quản lý tài nguyên nước đã hoàn toàn bị bỏ qua ; trong khi ở thượng lưu, chỉ với 11 con đập, Trung Quốc trữ tới 50% lượng nước của Mekong – Lan Thương vào mùa khô hạn !
Biển Đông là nơi tập trung những vấn đề chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đáng tiếc đó lại là những vấn đề tiêu cực, trái với điều Trung Quốc thường rêu rao là tình hình khu vực này ổn định (ngay cả khi xảy ra sự việc ở bãi Tư Chính nửa cuối năm 2019). Không thể hy vọng giải quyết cơ bản hoặc một lần khi các mâu thuẫn diễn ra đã mấy chục năm mà vẫn đang ngày thêm trầm trọng. Nhưng đã đến lúc yêu cầu các bên nhìn thẳng vào vấn đề với tinh thần hợp tác, không lảng tránh.
Thứ nhất, vấn đề COC-Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Tại cuộc họp thượng định giữa ASEAN và Trung Quốc ở Bangkok mới đây, "đã nổ ra tranh cãi gay gắt giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông" (AP, ngày 2/11/2019), theo đó Trung Quốc trở mặt yêu cầu khối các nước ASEAN không được để Việt Nam phá hoại (?) tiến trình đàm phán COC. Việt Nam phá hoại COC ? Thật không đấy ? Quá ngang ngược và hài hước khi biến mình từ tội đồ trì hoãn COC vụt trở thành ông chủ sáng giá, lúc nào cũng muốn làm ông kẹ ! Tuy nhiên Việt Nam cần nắm lấy cơ hội, buộc nước lớn này phải đàm phán thực chất trên cơ sở kiến nghị của tất cả 11 bên, đặc biệt với các nước có dự phần Biển Đông.
Thứ hai, vấn đề "đường 9 đoạn". Gần đây phía Trung Quốc đã giảm thiểu phát ngôn chính thức từ phía nhà nước về đường 9 đoạn. Giáo sư Robert Beckman từ Đại học Quốc gia Singapore ngày 6/1/2020 cho rằng Trung Quốc đang từ bỏ yêu sách đường 9 đoạn và thay thế nó bằng yêu sách chủ quyền đối với 4 cụm đảo (Hoàng Sa, Trường Sa, Pratas/Đông Sa và Macclesfield/Tây Sa) mà họ cho rằng có cơ sở pháp lý vững hơn (Nội sự đổi thay này càng cho thấy thế yếu cùng lòng tham khó bỏ của Trung Quốc). Tôi tin là Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm được cơ sở pháp lý cho đường 9 đoạn để giải thích cho chính người Trung Quốc (chưa nói quốc tế) như tuyên bố hùng hồn (rồi bỏ mặc đấy) của ông Ngô Sĩ Tồn nhiều năm về trước.
Bác bỏ đường 9 đoạn không chỉ căn cứ vào tính pháp lý mà luật biển UNCLOS 1982 của Liên hợp quốc đã xác nhận mà còn căn cứ vào tính mơ hồ mà Trung Quốc tuyên bố sau khi công dân của họ vẽ ra con đường này. Tuyệt đối không thể vồ lấy mà nói đấy là biên giới biển, biên giới quốc gia.
Thứ ba, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chẳng những nói đây là đất của tổ tiên từ đời nhà Hán mà có lúc còn bảo, Trịnh Hòa thời Minh trong các lần xuất dương đã tuyên chiếm các đảo này. Nhà báo Bertil Lintner trên trang Asia Times ngày 15/11/2019 vạch rõ, Trịnh Hòa thậm chí chưa đi qua Biển Đông. Trong danh mục 700 điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương mà ông này ghi lại, bao gồm cả những nơi rất xa xôi như Adaman, Nicobar và Maldives, chẳng có một địa điểm nào thuộc về Biển Đông. Phải có những người lãnh đạo biết rằng cấp dưới đã báo cáo sai sự thật và phải có những cấp dưới có lương tâm chứ ? Mà dù chủ quyền thuộc về ai – thuộc về Việt Nam cũng vậy thì như phán quyết của Tòa trọng tài, "không một cấu trúc nào ở Trường Sa có thể tạo ra các vùng biển mở rộng"
Thứ tư, phải thừa nhận rằng, mặc dù Trung Quốc là nước lớn có tiềm lực quân sự hùng mạnh, hầu như không có công ty, tập đoàn khai thác dầu khí quốc tế nào vì lợi ích kinh tế chấp nhận lời mời chào của họ vào thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng mà Trung Quốc gọi là Vạn An (bãi Tư Chính) cũng như trong phạm vi đường 9 đoạn, ngoại trừ tập đoàn năng lượng Crestone (Mỹ) năm 1992. Nhưng trước sự phản đối của Việt Nam, tập đoàn này sau đó đã rút lui và Việt Nam đã xây dựng thêm 3 nhà giàn ở đây để khẳng định chủ quyền. Cho đến nay, không một công ty nước ngoài nào còn có mặt theo lời kêu gọi của Trung Quốc. Thất bại đó có thể là lý do chủ yếu khiến Trung Quốc đã luôn yêu cầu COC phải có điều khoản ràng buộc "không hợp tác khai thác tài nguyên với các nước ngoài khu vực".
Thứ năm, sự ủng hộ của quốc tế. Sự ủng hộ này gần như tuyệt đối khi các nước khẳng định mọi cách làm của Việt Nam đều dựa trên trật tự và quy tắc quốc tế, trong đó bao gồm Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), cũng như quyền bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình. Trong vụ việc liên quan đến bãi Tư Chính vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhiều lần lên tiếng phê phán Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam. Nhiều nước trong khu vực như Nhật, Ấn, Úc,… cũng đã lên tiếng với những cách khác nhau. Dư luận truyền thông, báo chí ủng hộ Việt Nam khá mạnh mẽ. Không một quốc gia nào lên tiếng bênh vực Trung Quốc.
Tuy nhiên, phản ứng nói chung là tiêu cực từ các quốc gia trong ASEAN/Đông Nam Á là điều đáng chú ý. Vì nguyên tắc đồng thuận, ASEAN đã không ra được tuyên bố chung dù rằng các nước ven Biển Đông, cách này hay cách khác đều từng bị Trung Quốc xâm phạm, gây hấn. Theo thiển ý của tôi, có thể sắp xếp các quốc gia này theo trật tự gần với quan điểm của Việt Nam là : Lào, Malaysia (dưới thời Thủ tướng vừa từ nhiệm Mahathir Mohamad), Philippines, Indonesia, Brunei…và Campuchia ! Vâng, trật tự này có thể gây ngạc nhiên với nhiều người nhưng là một sự thật. Tại cuộc gặp thượng định ASEAN đầu tháng 11/2019, khi Việt Nam yêu cầu đưa vào tuyên bố chung một cụm từ đề cập đến hành vi xâm lấn của Trung Quốc thì Campuchia phản đối. Nên coi việc này như thế nào ? Có lẽ "lợi ích quốc gia" trên hết là điều mà người Việt Nam cũng cần thích ứng, hơn nữa việc tương tự đã có tiền lệ (2012).
Thứ sáu, thế giới đánh giá ra sao trước những phản ứng của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông ? Với cả dư luận chính giới và truyền thông, Việt Nam được đánh giá cao khi phản ứng tích cực trước những lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhiều nhất và liên tục. Tờ Straits Times (Singapore) viết : Hà Nội phản ứng mạnh nhất trong số các quốc gia tuyên bố chủ quyền. Hãng RFI dẫn Asia Times nhận định Việt Nam hầu như là quốc gia duy nhất trong cuộc chiến chống lại nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kiểm soát Biển Đông, với ba mặt liên kết : ngoại giao ; thăm dò, khai thác ; giảm phụ thuộc kinh tế. Trên cơ sở "sự nhạy bén chiến lược" và "tính kiên trì đặc trưng". Trang The Diplomat (Nhật) đánh giá phản ứng của Việt Nam là "rất bình tĩnh và kiềm chế". Quan sát một cách tinh tế, trang này cũng tổng kết phản ứng của Việt Nam bao gồm năm thành phần : một, triển khai lực lượng để khẳng định chủ quyền và giám sát hòa bình ; hai, tiếp cận qua đường ngoại giao và các cách thức có thể bày tỏ sự phản đối, yêu cầu đối phương rút lực lượng phi pháp ; ba, khẳng định sự tuân thủ triệt để luật pháp và trật tự quốc tế ; bốn, kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế ; năm, kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin, ngăn chặn mọi hành vi bạo lực.
Việt Nam đã trở thành Ủy viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và chính thức tiếp nhận cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức, nhất là trong cương vị Chủ tịch ASEAN. Tiếp quản và xây dựng khối các quốc gia này như thế nào, chúng tôi cho rằng tiêu ngữ và cũng là chủ đề mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên : "Một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng" là đúng đắn và hợp lý.
Có thể hiểu "gắn kết" cũng là đoàn kết nhưng khái niệm này vừa chặt chẽ lại vừa mở hơn, thiết thực hơn, là cái có thể đạt được và hợp lý trong tình hình bên trong, bên ngoài ASEAN hiện nay. Còn "chủ động thích ứng" lại càng mở, không ai có thể bắt bẻ.
Sáu vấn đề mà chúng tôi vừa nêu trên hy vọng là những dữ kiện, những cơ sở để đề ra đối sách.
Dù thế nào Việt Nam phải làm tốt cương vị mới được trao. Chúng ta đã có kinh nghiệm của mười năm trước và cả kinh nghiệm của các quốc gia khác khi giữ cương vị này, và….không có cơ hội thứ hai tương tự.
Chúng tôi đã đề cập đến thực tế về sự thiếu đoàn kết của ASEAN, chỉ có thể tìm được sự đồng thuận không đồng lòng. Hơn bất kỳ khối quốc gia nào khác, điều đó đến không phải từ sự khác biệt thể chế chính trị mà khi mở rộng khối thập kỷ 90 những nước sáng lập ASEAN đã băn khoăn, mà là từ lợi ích của mỗi quốc gia trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Một tờ báo có đông đảo bạn đọc khu vực với tiêu đề : "Biển Đông : Thử thách lớn nhất của Việt Nam trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020" trong khi nêu lên sự quan ngại ấy đã biểu dương "gắn kết và chủ động thích ứng" là đặc biệt phù hợp trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. "Hà Nội được kỳ vọng tạo nên lực đòn bẩy cho chương trình nghị sự hòa bình của khu vực".
Vấn đề đầu tiên và xuyên suốt trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN của Việt Nam là tạo nên sự gắn kết khu vực. Việt Nam đánh giá cao khối ASEAN. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, khi Việt Nam đặt vấn đề tham gia ASEAN, một Thứ trưởng Ngoại giao trong nước đã nhận định : "Điều bất lợi đối với một nước có quy mô trung bình như Việt Nam là sống bên cạnh một nước lớn mà không có bạn bè. Nhưng điều có lợi đối với chúng ta là có một ASEAN". Tại Hội nghị ADMM vừa tổ chức ở Bangkok, tân Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Prabowo Subianto đã phát biểu : "ASEAN không được chia rẽ và phân cực".Tờ The Straits Times cũng viết trong số đã dẫn : "Thách thức mà Trung Quốc đặt ra đối với chủ quyền và quyền tài phán trên biển của Philippines và Malaysia ở Biển Đông về thực chất tương tự như những gì mà Việt Nam đã trải qua". Thật vậy, cương vị Chủ tịch sẽ giúp Việt Nam có quan hệ chặt chẽ hơn, "gắn kết" hơn với ASEAN để tìm ra những cách thức "chủ động thích ứng". Không ồn ào nhưng kiên quyết, Việt Nam phải bắt tay vào trả lời các câu hỏi, các thách thức ngay từ đầu nhiệm kỳ Chủ tịch. Nếu chỉ xử lý mỗi khi có sự cố (như cách làm hiện nay) là bất an, mạo hiểm. Chúng ta giữ quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, một quan hệ được dệt nên từ lịch sử nhưng không để cục to, cục lớn (đại cục) ghè chân mình.
Bị bắt nạt, chèn lấn quá lâu đã đến lúc Việt Nam cần chứng tỏ bản lĩnh. Đã đến lúc Việt Nam cần xem việc đưa sự xâm phạm thô bạo của Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Tại Hội thảo mới nhất về Biển Đông tổ chức tại Hà Nội ngày 6/11/2019 – được cho là cuộc Hội thảo lớn nhất về vấn đề này, với gần một phần ba là đại biểu quốc tế và có mặt hai trong số năm thẩm phán của Tòa trọng tài trong vụ kiện của Philippines, vấn đề khởi kiện đã nhận được sự tán đồng cao của dư luận. Cũng phải để Trung Quốc hiểu rằng đây là một việc phải làm, vì sự lành mạnh hóa quan hệ quốc tế. Không quan trọng việc Trung Quốc có tham gia hay không. Hiệu ứng chắc chắn sẽ mạnh hơn rất nhiều nếu thêm một lần phán quyết của Tòa Trọng tài được tuyên bố theo luật pháp quốc tế.
Gần đây, trên các tạp chí "Nghiên cứu Đông Nam Á" (11/2019), "Nghiên cứu an ninh biển châu Á – Thái Bình Dương" (11 – 12/2019) của Trung Quốc có một số bài viết đề cập đến Biển Đông, kêu gọi Việt Nam, Philippines và Asean nói chung, hợp tác cùng khai thác các nguồn lợi ở khu vực này,trước hết là dầu khí. Không có gì mới. Vẫn là những luận điểm xung quanh việc các nước đang gần cạn nguồn cung trong khi Trung Quốc có tiềm lực kỹ thuật, công nghệ, tiềm lực tài chính mạnh. Có bài vẫn lên giọng đe dọa "Nếu Việt Nam mạo hiểm tiến vào đường 9 đoạn thì chắc chắn sẽ có sự đối đầu ở Biển Đông". Cần phải khẳng định thêm một lần : Con đường được nước lớn Trung Quốc vẽ vào bất chấp luật pháp quốc tế ấy là căn nguyên cho tất cả, làm sao có thể "khai thác chung" trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ? Tôi nghĩ rằng, bất cứ quốc gia nào đủ năng lực – láng giềng càng tốt – thừa nhận chủ quyền của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và đảm bảo được vấn đề an ninh thì đều có thể được mời vào thăm dò, khai thác. Xét cho cùng, chủ quyền và tài nguyên là một.
Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc. Cả về diện tích, dân số cũng như tiềm lực kinh tế, quốc phòng, Việt Nam ở một vị trí cách xa so với láng giềng phương Bắc. Câu chuyện nước nhỏ Việt Nam bắt nạt nước lớn Trung Quốc là một câu chuyện hoang đường. Việt Nam cũng không đòi hỏi nước lớn Trung Quốc phải nhường nhịn nước nhỏ Việt Nam. Việt Nam chỉ muốn Trung Quốc hành xử như một nước lớn đáng kính trọng. Tất nhiên Việt Nam muốn duy trì tình hữu nghị với Trung Quốc, nhưng để duy trì tình hữu nghị ấy mà phải đánh đổi lợi ích của dân tộc là điều không thể. Cũng không thể nói như một nhà ngoại giao Trung Quốc rằng, để xảy ra tình trạng như vừa qua là vì Trung Quốc coi Biển Đông là câu chuyện nhỏ còn Việt Nam lại coi là chuyện lớn. Để giải quyết vấn đề Biển Đông, hãy chân thành làm việc dựa trên chuẩn luật pháp quốc tế và một sự hiểu biết lẫn nhau.
Chúng tôi xin đề xuất một bước tiến nhỏ : Trong khi bảo lưu quan điểm của mình, hai nước Việt Nam và Trung Quốc cần đàm phán về vấn đề quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa. Và trước hết là một sự thỏa thuận để ngư dân Việt Nam được tiếp tục truyền thống đánh cá như hàng ngàn năm nay trong quần đảo này./.
Vũ Cao Phan
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 08/03/2020
[1] Cho đến nay, đã có nhiều cơ chế hợp tác được thiết lập như Ủy ban sông Mekong, Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady – Chaophraya – Mekong (ACMECS), Sáng kiến tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) của Ngân hàng Phát triển Châu Á, Sáng kiến hạ lưu sông Mekong của Mỹ, Hợp tác Mekong – Nhật Bản, Hợp tác Mekong – Ganga (Ấn Độ), Đối tác Mekong – Hàn Quốc và Hợp tác phát triển lưu vực Mekong của ASEAN…
————-
Tiến sĩ Vũ Cao Phan là Viện trưởng Viện Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc.
Việt Nam nhích về Mỹ, nhưng không quá gần
Ralph Jennings, VOA, 06/03/2020
Hoa Kỳ trong tuần này điều tàu sân bay đến thăm Việt Nam lần thứ hai trong hàng chục năm qua. Các nhà phân tích nhìn nhận rằng hai nước đang ngày càng trở nên thân thiết hơn, bất chấp từng có cuộc chiến khốc liệt giữa họ cách đây 50 năm, và nay cả hai đều mong ngăn chặn việc Bắc Kinh bành trướng trên Biển Đông.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt
Tuy nhiên, hệ thống chính trị cộng sản Việt Nam và việc quốc gia này nhất quán với chính sách đối ngoại đa phương thay vì chỉ thân phương Tây có thể làm cho Washington khó tiến đến quá gần.
Sean King, phó chủ tịch của tổ chức tư vấn chính trị Park Strategies có trụ sở tại New York, nói với VOA : "Bộ máy quan liêu Washington chắc chắn xem Hà Nội như là một đối tác trong việc đẩy lùi các yêu sách chủ quyền và hoạt động quân sự hóa của Bắc Kinh ở Biển Đông. Nhưng Việt Nam không phải là một đồng minh, cũng không phải là một nền dân chủ, do đó, có những giới hạn trong sự hợp tác này".
"Tôi cảm nhận thấy Việt Nam muốn [Hoa Kỳ] là đối trọng trong khu vực với Bắc Kinh nhưng không muốn trở thành một phần trong bất kỳ chiến lược của Mỹ nhằm kiềm chế Trung Quốc đại lục", ông King nói.
Tàu USS Theodore Roosevelt (CVN-71) ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng, 5/3/2020
Hôm 5/3, tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đã cập cảng Đà Nẵng ở miền trung Việt Nam, trang web tin tức quân sự Stars and Stripes đưa tin.
Một tàu tuần dương mang tên lửa điều hướng hộ tống cho tàu sân bay trong chuyến thăm mang tính nghi lễ.
Trước đó 2 năm, USS Carl Vinson là tàu sân bay đầu tiên của Mỹ đến thăm cảng kể từ sau Chiến tranh Việt Nam.
Hai chuyến thăm cho thấy cả hai bên đều có ý định tăng cường quan hệ quốc phòng. Việt Nam muốn có sự hỗ trợ từ bên ngoài trong việc ngăn các tàu Trung Quốc đi vào những thực thể ở Biển Đông mà Việt Nam có tranh chấp với Trung Quốc, nước có quân đội mạnh hơn.
Ông Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh nói với VOA : "Tôi nghĩ rằng trong tương lai Việt Nam sẽ chào đón hơn nữa đối với các tàu hải quân của Hoa Kỳ".
Tuy nhiên, ông cho rằng "Một số người bảo thủ trong chính phủ Việt Nam không muốn mối quan hệ với Hoa Kỳ phát triển quá nhanh".
Ngoài Việt Nam, Hoa Kỳ thường xuyên điều tàu chiến đi vào Biển Đông thực hiện tuần tra vì tự do hàng hải, và cũng để cảnh báo Trung Quốc, nước mà Washington coi là một siêu cường đối thủ.
Ralph Jennings
Nguồn : VOA, 06/03/2020
********************
Hàm ý chiến lược từ chuyến thăm của tàu USS Theodore Roosevelt
Lê Hồng Hiệp, Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2020
Sự trỗi dậy của Trung Quốc là sự kiện có tác động mạnh mẽ nhất đến địa chính trị toàn cầu trong ba thập niên qua, mang lại cả những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi. Là một nước láng giềng trực tiếp của Trung Quốc, Việt Nam là một trong những nơi đầu tiên được hưởng lợi từ sự thịnh vượng ngày càng tăng của Trung Quốc, đồng thời cũng là nước đầu tiên cảm nhận được tác động từ sức nặng ngày càng tăng của nước này. Do đó, dù cố gắng duy trì một mối quan hệ ổn định và hòa bình với Trung Quốc để tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế, Hà Nội cũng tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ và các cường quốc khác để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông.
Hàng không mẫu hạm USS Theoore Roosevelt trong cảng Tiên Sa, Đà Nẵng ngày 05/03/2020
Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất, đồng thời là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch thương mại song phương năm 2018 đạt 106,94 tỷ USD, chiếm 22,2% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong năm. Đồng thời, Trung Quốc đang trở thành nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan trọng. Tới cuối năm 2018, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam với 2.168 dự án và 13,4 tỷ USD tổng vốn đăng ký. Nếu tính cả Hồng Kông, Trung Quốc sẽ xếp thứ tư, chỉ sau Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Trung Quốc cũng là nguồn khách du lịch quan trọng nhất đối với Việt Nam. Ví dụ, năm 2018, 4,966 triệu lượt khách du lịch Trung Quốc đã chiếm tới 32% tổng lượng khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam năm đó.
Các mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ đồng nghĩa với việc Việt Nam có lợi ích trong việc duy trì một mối quan hệ lành mạnh và ổn định với Trung Quốc. Tuy nhiên, tranh chấp Biển Đông đã đặt ra những thách thức không ngừng đối với quan hệ song phương, buộc Việt Nam phải chấp nhận một lập trường mang tính đối đầu với Trung Quốc về các vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển. Đối mặt với cách biệt quyền lực lớn giữa hai nước, trong khi tìm cách phát triển sức mạnh kinh tế và hiện đại hóa lực lượng vũ trang, Việt Nam cũng cảm thấy cần phải tăng cường quan hệ chiến lược với các cường quốc để tạo đối trọng với Trung Quốc. Trong nỗ lực này, Việt Nam không tìm thấy cường quốc nào tương thích hơn để làm việc đó ngoài Hoa Kỳ.
Từ góc nhìn của các chiến lược gia Việt Nam, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất có cả sức mạnh lẫn ý chí chính trị cần thiết để kiềm chế tham vọng chiến lược của Trung Quốc, bao gồm ở cả Biển Đông. Sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc trong vài năm qua tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ chiến lược của Hà Nội với Washington khi lợi ích chiến lược của hai nước trở nên song trùng hơn do nhận thức chung của họ về mối đe dọa Trung Quốc.
Những nỗ lực của Việt Nam dường như được Mỹ đáp lại, khi Mỹ coi Việt Nam là đối tác an ninh mới nổi ngày càng quan trọng. Ví dụ, Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ công bố vào tháng 6 năm 2019 đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ "đang ưu tiên các mối quan hệ mới với Việt Nam, Indonesia và Malaysia - những nhân tố chủ chốt trong ASEAN vốn đóng vai trò trung tâm trong nỗ lực của chúng tôi nhằm đảm bảo hòa bình và bảo vệ sự thịnh vượng tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương". Đối với Mỹ, Việt Nam không chỉ là một cơ hội kinh tế. Với những nâng cấp quân sự đáng kể trong thập niên qua, Việt Nam hiện có trong tay một trong những lực lượng quân sự mạnh nhất Đông Nam Á. Hơn nữa, với tư cách là một quốc gia chủ chốt trong tranh chấp Biển Đông với lịch sử phản kháng lâu dài chống lại sự thống trị và bành trướng của Trung Quốc, Việt Nam có thể là một nhân tố quan trọng trong khu vực giúp Mỹ kiềm chế tham vọng địa chính trị của Trung Quốc.
Với suy nghĩ đó, trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5 năm 2016, Tổng thống Obama đã tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Đầu tháng 8 năm 2018, Đài Phát thanh Hoa Kỳ đã đưa tin rằng Việt Nam có các hợp đồng mua trang thiết bị quân sự trị giá 94,7 triệu đô la với Mỹ theo các chương trình Bán hàng quân sự nước ngoài (FMS) và Bán hàng thương mại trực tiếp (DCS). Những chương trình này đã giúp Việt Nam cải thiện hơn nữa năng lực hàng hải để đối phó với các thách thức an ninh ở Biển Đông. Chẳng hạn, vào tháng 5 năm 2017, Hà Nội đã nhận được sáu tàu tuần tra nhanh Metal Shark trị giá 18 triệu đô la do Hoa Kỳ viện trợ cho lực lượng Cảnh sát Biển. Cũng trong tháng đó, một tàu lớp Hamilton của Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã loại biên cũng được chuyển giao cho Việt Nam. Vào tháng 2 năm 2019, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Phil Davidson, nói rằng Việt Nam đang chuẩn bị mua các thiết bị từ Hoa Kỳ, bao gồm máy bay không người lái Boeing Insitu ScanEagle, máy bay huấn luyện Beechcraft T-6 Texan II và nhận chuyển giao một tàu Tuần duyên thứ hai từ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, dù có những cải thiện liên tục trong quan hệ song phương nói chung và quan hệ chiến lược Việt Nam - Hoa Kỳ nói riêng, các quan chức Việt Nam vẫn lo ngại rằng nếu Việt Nam tiến quá nhanh và quá xa trong quan hệ chiến lược với Mỹ, họ sẽ làm Trung Quốc phật lòng và khiêu khích Bắc Kinh trả đũa.
Từ quan điểm của Hà Nội, sự gần gũi về địa lý với Trung Quốc cũng như tầm quan trọng của Trung Quốc đối với sự thịnh vượng kinh tế và an ninh của Việt Nam có nghĩa là một mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc có thể đặt Việt Nam vào một vị thế chiến lược bấp bênh đến mức ngay cả một mối quan hệ mạnh mẽ với Hoa Kỳ cũng không thể bù đắp được.
Chính vì vậy, trong khi cố gắng tăng cường quan hệ với Washington, Hà Nội có xu hướng để mắt đến các phản ứng của Bắc Kinh và điều chỉnh quan hệ với Washington cho phù hợp. Chẳng hạn, giữa tháng 10 năm 2018, Việt Nam đã lặng lẽ hủy 15 hoạt động hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ dự kiến cho năm 2019 liên quan đến trao đổi lục quân, hải quân và không quân. Quyết định này dường như là một trong những phản ứng của Hà Nội đối với cuộc cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Washington và Bắc Kinh, điều khiến Việt Nam gần như không thể củng cố quan hệ quốc phòng chặt chẽ với một cường quốc này mà không làm phật lòng cường quốc kia.
Do đó, Hà Nội đã cố gắng thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ với một tốc độ vừa phải và giữ cho hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ ít khoa trương ồn ào nhất có thể. Đây cũng có thể là lý do khiến Việt Nam do dự trong việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ mặc dù Hoa Kỳ đã có các động thái mời mọc về cả ngoại giao lẫn chiến lược liên tục kể từ năm 2013.
Tuy nhiên, quyết định của Việt Nam thúc đẩy quan hệ với Mỹ ở một tốc độ vừa phải không phải là xu hướng bất biến. Trên thực tế, đó cũng không phải là quyết định của riêng Việt Nam. Do quyết định đó được hình thành phần lớn dựa vào nhận thức của Việt Nam về mối đe dọa Trung Quốc, cách Trung Quốc hành xử ở Biển Đông cũng sẽ gây tác động lên quỹ đạo tương lai của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc tiếp tục hành động hung hăng ở Biển Đông, như được minh chứng bởi sự xâm phạm liên tục của Trung Quốc vào các vùng biển Việt Nam bằng tàu khảo sát và các tàu đi kèm từ tháng 7 đến tháng 10 năm ngoái, Việt Nam sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thúc đẩy quan hệ quốc phòng với Mỹ nhằm chống lại những sự xâm phạm như vậy từ phía Trung Quốc.
Cuối tuần này, USS Theodore Roosevelt sẽ trở thành tàu sân bay thứ hai của Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam sau chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên của tàu USS Carl Vinson hai năm trước. Nếu chuyến thăm nói lên điều gì, thì đó chính là việc quyết định của Việt Nam đón tiếp tàu sân bay trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ - Trung không ngừng gia tăng cho thấy sự tự chủ chiến lược cũng như tư thế chiến lược ngày càng trưởng thành của Việt Nam.
Chuyến thăm cũng giúp Việt Nam gửi những tín hiệu nhất quán tới cả hai cường quốc :
- Đối với Mỹ, Hà Nội tiếp tục coi trọng quan hệ chiến lược song phương và Việt Nam sẵn sàng tiếp tục hợp tác với Mỹ ở Biển Đông nếu các can dự đó phù hợp với lợi ích của Việt Nam.
- Đối với Trung Quốc, thông điệp là nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì lập trường xác quyết, không tôn trọng các lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông thì điều đó có thể gây tác dụng ngược, đẩy Việt Nam xa hơn về phía Mỹ cho dù Việt Nam có coi trọng mối quan hệ lâu dài với Trung Quốc đến mức nào đi chăng nữa.
Lê Hồng Hiệp
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2020
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên ThinkChina (xem bản dịch dưới đây).
*****************
Tàu sân bay Mỹ ghé Đà Nẵng : nghệ thuật đi dây của Việt Nam
Lê Hồng Hiệp, VNTB, 06/03/2020
Nghệ thuật giữ cân bằng trong vỡ tuồng múa và xiệc Làng Tôi (My Village) tại Hà Nội (courtesy of civitalis) - Ảnh minh họa
Là một nước láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên được hưởng lợi từ sự thịnh vượng ngày càng tăng của Trung Quốc và cảm nhận được sức ép ngày càng tăng của Trung Quốc. Do đó, trong khi cố gắng duy trì mối quan hệ ổn định và hòa bình với Trung Quốc để tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế, Hà Nội cũng tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ và các cường quốc khác để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc, đặc biệt ở Biển Đông.
Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, và cũng là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Hà Nội. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, kim ngạch thương mại hai chiều Việt - Trung năm 2018 đạt 106,94 tỷ Mỹ kim, chiếm 22,2% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong cùng kỳ năm trước. Đồng thời, Trung Quốc đang trở thành nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan trọng của Việt Nam. Cuối năm 2018, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 của Việt Nam với 2.168 dự án và 13,4 tỷ Mỹ kim vốn đăng ký tích lũy. Nếu bao gồm Hồng Kông, Trung Quốc sẽ xếp thứ tư, chỉ sau Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Bắc Kinh cũng là nguồn cấp khách du lịch quan trọng đối với Việt Nam. Vào năm 2018, 4,6 triệu khách du lịch Trung Quốc đã đến thăm Việt Nam, chiếm 32% lượng khách du lịch nước ngoài của Việt Nam trong cùng năm.
Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ đồng nghĩa là Việt Nam duy trì lợi ích đó bằng mối quan hệ lành mạnh và ổn định với Trung Quốc. Thế nhưng, tranh chấp Biển Đông đã đặt ra những sóng gió không ngừng đối với các mối quan hệ song phương, buộc Việt Nam phải có lập trường đối đầu với Trung Quốc về các vấn đề chủ quyền và quyền đi lại trên biển. Đối mặt với chênh lệch sức mạnh hai bên, Hà Nội trong khi tìm cách phát triển sức mạnh kinh tế và hiện đại hóa lực lượng vũ trang, quốc gia này cũng thấy cần tăng cường quan hệ chiến lược với các cường quốc để tạo đối trọng với Trung Quốc. Trong nỗ lực này, Việt Nam không tìm thấy đối tác nào phù hợp hơn Mỹ.
Từ góc nhìn của các chiến lược gia Việt Nam, Mỹ là quốc gia duy nhất có cả sức mạnh và ý chí chính trị cần thiết để kiềm chế tham vọng chiến lược của Trung Quốc, kể cả ở Biển Đông.
Sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Mỹ - Trung trong vài năm qua tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ chiến lược của Hà Nội với Washington khi lợi ích chiến lược của hai bên được hội tụ trong nhận thức chung về mối đe dọa Trung Quốc.
Những nỗ lực của Việt Nam dường như được Mỹ đáp lại, Washington coi Việt Nam là đối tác an ninh mới nổi. Trong Báo cáo Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ vào tháng 6 năm 2019 đã tuyên bố rằng họ đang ưu tiên các mối quan hệ mới với Việt Nam, Indonesia và Malaysia - những nhân vật chủ chốt trong ASEAN và là trung tâm trong nỗ lực của Mỹ nhằm đảm bảo hòa bình và bảo vệ sự thịnh vượng trong Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Đối với Mỹ, Việt Nam không chỉ là một cơ hội kinh tế. Với những chuyển biến quân sự đáng kể trong thập kỷ qua, Việt Nam là một trong những lực lượng vũ trang mạnh nhất ở Đông Nam Á. Hơn nữa, với tư cách là một quốc gia yêu sách lớn ở Biển Đông và lịch sử kháng chiến lâu dài chống lại sự thống trị và bành trướng của Trung Quốc, Việt Nam là một nhân tố quan trọng trong khu vực, hỗ trợ Mỹ kiềm chế tham vọng địa chiến lược của Trung Quốc.
Trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5 năm 2016, Tổng thống Obama đã tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Đầu tháng 8 năm 2018, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ thông tin, Hà Nội có hợp đồng trang thiết bị quân sự trị giá 94,7 triệu Mỹ kim với Mỹ theo chương trình Bán hàng quân sự nước ngoài (FMS) và Bán hàng thương mại trực tiếp (DCS). Những chương trình này đã giúp Việt Nam cải thiện hơn nữa năng lực hàng hải để đối phó với các thách thức an ninh ở Biển Đông. Do đó, vào tháng 5 năm 2017, Hà Nội đã nhận được sáu tàu tuần tra nhanh Metal Shark trị giá 18 triệu Mỹ kim cho Cảnh sát biển.
Vào tháng 2 năm 2019, Đô đốc Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương Mỹ, ông Phil Davidson, nói rằng Việt Nam đang mua thiết bị từ Hoa Kỳ, bao gồm máy bay không người lái Boeing Insitu ScanEagle, máy bay huấn luyện Beechcraft T-6 Texan II,…
Dù vậy, các quan chức Việt Nam vẫn lo ngại rằng nếu Việt Nam đi quá nhanh và quá xa trong quan hệ chiến lược với Mỹ, họ sẽ gây phản ứng trả đùa từ Bắc Kinh.
Theo góc nhìn từ phía Hà Nội, sự gần gũi về địa lý của Trung Quốc và tầm quan trọng của nó đối với sự thịnh vượng kinh tế và an ninh của Việt Nam sẽ khiến cho Việt Nam trở nên bấp bênh về mặt chiến lược khi quan hệ Việt-Trung xấu đi, đến mức mối quan hệ mạnh mẽ với Mỹ sẽ không thể để bù đắp.
Như vậy, trong khi cố gắng tăng cường mối quan hệ với Washington, Hà Nội có xu hướng để mắt đến các phản ứng của Bắc Kinh để cân đối điều chỉnh mối quan hệ với Washington. Chẳng hạn, vào giữa tháng 10 năm 2018, Việt Nam đã lặng lẽ hủy 15 hoạt động tham gia quốc phòng với Mỹ dự kiến vào năm 2019 liên quan đến trao đổi quân sự, hải quân và không quân. Quyết định này dường như là một trong những động thái của Hà Nội đối với cuộc cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Washington và Bắc Kinh, khiến Việt Nam gần như không thể củng cố mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với một cường quốc mà không bị thế lực kia khó chịu.
Hà Nội vì vậy đã vừa cố gắng thúc đẩy mối quan hệ với Mỹ với tốc độ vừa phải, trong hợp tác chiến lược với Mỹ. Đây cũng là lý do khiến Việt Nam do dự trong việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ.
Quyết định giữ mối quan hệ Việt-Mỹ tiến xa đến mức nào được hình thành từ nhận thức của Việt Nam về mối đe dọa Trung Quốc, cách Trung Quốc hành xử ở Biển Đông. Nếu Trung Quốc tiếp tục càn quấy ở Biển Đông, bằng tàu khảo sát như đã diễn ra từ tháng 7 đến tháng 10 năm ngoái, Việt Nam sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thắt chặt hơn quan hệ với Mỹ.
Tuần này, USS Theodore Roosevelt sẽ trở thành tàu sân bay thứ hai của Mỹ đến thăm Việt Nam, sau chuyến thăm lịch sử của USS Carl Vinson hai năm trước. Quyết định của Việt Nam tiếp nhận chuyến thăm của tàu sân bay trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung cho thấy tự chủ chiến lược của Việt Nam và tư thế chiến lược ngày càng lớn lao hơn. Điều này cũng giúp Việt Nam gửi tín hiệu nhất quán tới cả hai cường quốc : đối với Mỹ, Hà Nội tiếp tục đánh giá cao mối quan hệ chiến lược song phương và Việt Nam sẵn sàng hoan nghênh sự tham gia của Mỹ ở Biển Đông nếu các cam kết đó phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Đối với Trung Quốc, điều đó có nghĩa là lập trường quyết đoán hơn về Biển Đông, coi thường Việt Nam vì lợi ích quốc gia có thể gây tác dụng ngược và đẩy Việt Nam tiến xa hơn vào vòng tay của Mỹ, bất kể Việt Nam có quan trọng và lâu dài như thế nào với Trung Quốc.
Lê Hồng Hiệp
Nguyên tác : US aircraft carrier visit and Vietnam's delicate balancing act, Think China, 05/02/2020
Anh Khoa dịch
*********************
Tàu sân bay Mỹ Theodore Roosevelt ghé Đà Nẵng
Trọng Nghĩa, RFI, 05/03/2020
Sáng 05/03/2020, hàng không mẫu hạm nguyên tử USS Theodore Roosevelt (CVN 71) của Mỹ, có tuần dương hạm USS Bunker Hill (CG 52) tháp tùng, đã đến Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam, mở đầu một chuyến ghé cảng hữu nghị sẽ kéo dài cho đến ngày 09/03. Sự kiện này đánh dấu 25 năm ngày hai nước Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Theodore Roosevelt (CVN-71) ở ngoài khơi Đà Nẵng, Việt Nam, ngày 05/03/2020 Reuters/Kham
Bản thông cáo của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ cho biết : Phát biểu nhân buỗi lễ đón tiếp đội tàu Mỹ ở Đà Nẵng, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink nhắc lại rằng chuyến thăm của chiếc tàu sân bay Theodore Roosevelt đã nối tiếp theo chuyến thăm lịch sử của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson (CVN 70) vào năm 2018, khi lần đầu tiên sau hơn 40 năm mà một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam.
Đại sứ Mỹ nhấn mạnh rằng chuyến thăm lần này diễn ra "vào một thời điểm quan trọng trong quan hệ song phương của hai nước. Chỉ 25 năm sau ngày bình thường hóa bang giao, quan hệ Mỹ-Việt trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết".
Về phần mình, chuẩn đô đốc Stu Baker, chỉ huy trưởng nhóm tác chiến tàu sân bay CSG 9 của chiếc Theodore Roosevelt, khẳng định : "Chuyến thăm này chứng tỏ sức mạnh của quan hệ song phương (Mỹ-Việt), nêu bật sự hợp tác liên tục của Hoa Kỳ với các nước đối tác và sự hỗ trợ mạnh mẽ của Mỹ cho khu vực, trong đó có các tổ chức như Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á ASEAN mà Việt Nam là chủ tịch năm nay".
Theo chuẩn đô đốc Baker, chuyến thăm Việt Nam của chiếc Theodore Roosevelt "cũng là bằng chứng về cam kết của Mỹ đối với một vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở, nơi các quốc gia độc lập và hùng mạnh tôn trọng chủ quyền của nhau, và tuân thủ luật lệ quốc tế".
USS Theodore Roosevelt là chiếc tàu thứ tư thuộc lớp Nimitz của Mỹ, có một thủy thủ đoàn khoảng 5.000 người. Nhóm tác chiến của chiếc Theodore Roosevelt còn có một biên đội máy bay chiến đấu trên tàu cùng một đội tàu hộ tống bao gồm một tuần dương hạm và 6 khu trục hạm.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 05/03/2020
*******************
Chuyên gia nhận định gì về chuyến thăm Việt Nam của mẫu hạm USS Roosevelt
VOA, 05/03/2020
Các chuyên gia đánh giá rằng chuyến thăm Đà Nẵng của tàu sân bay Hoa Kỳ USS Theodore Roosevelt hôm 5/3 cho thấy Hà Nội coi trọng hơn mối quan hệ quốc phòng với Washington, khẳng định chính sách quốc phòng mới như đã thể hiện trong sách trắng cuối 2019, và gửi đi thông điệp rõ ràng hơn cho Bắc Kinh. Cùng lúc Bộ Ngoại giao Việt Nam nhận định đây chỉ là chuyến thăm "thông thường".
Ông Nguyễn Thế Phương, một nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên cứu quốc gia, Đại học Khoa học và xã hội nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, nêu nhận định với VOA :
"Chuyến thăm của tàu USS Roosevelt cho thấy mối quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ - Việt Nam ngày càng sâu sắc hơn, đặc biệt là sau khi Việt Nam đưa Sách Trắng về Quốc phòng vào cuối năm ngoái, khi đó có thêm điểm mới là nếu có điều gì xảy ra đối với an ninh của Việt Nam thì Việt Nam gia tăng hợp tác với một quốc gia nào đó…
Chuyến thăm này cho thấy Việt Nam khẳng định gia tăng mối quan hệ với Mỹ.
Có thông tin cho rằng năm ngoái Mỹ có yêu cầu cho tàu sân bay thăm nhưng Việt Nam do tình hình nội bộ và tình hình thực tế trên Biển Đông khi ấy đã từ chối.
Qua đó cho thất Việt Nam cân nhắc rất kỹ chính sách cân bằng của mình giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ".
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ : "Tùy diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, một nhà nghiên cứu thâm niên về tình hình Biển Đông nêu nhận định :
"USS Theodore Roosevelt là tàu sân bay hiện đại nhất của Hoa Kỳ cũng như của thế giới và khi đến thăm Việt Nam, Hoa Kỳ có ý dành cho Việt Nam sự ưu ái đặc biệt - những gì hiện đại nhất sẽ dành cho Việt Nam - cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, sẵn sàng bảo vệ Việt Nam khi cần".
Chuyến thăm này tiếp nối chuyến thăm lịch sử năm 2018 của tàu sân bay USS Carl Vinson (CVN 70), chuyến thăm đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ đến Việt Nam trong hơn 40 năm. Chuyến thăm cũng diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với quan hệ song phương của hai nước. Chỉ 25 năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, "quan hệ song phương của hai nước đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết", Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink cho biết thông một thông cáo hôm 5/3.
Cũng hôm 5/3, truyền thông Việt Nam trích lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng, nói :
"Tàu sân bay và tàu tuần dương thăm cảng Tiên Sa của Đà Nẵng từ ngày 5 đến 9/3. Đây là chuyến thăm thông thường của một đoàn tàu sân bay Hoa Kỳ, trong khuôn khổ hoạt động kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, phù hợp với khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện, đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định, an ninh hợp tác và phát triển ở khu vực".
Tiến sĩ Nguyễn Nhã phân tích những thông điệp của chuyến thăm Việt Nam của tàu hải quân Hoa Kỳ :
"Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt cùng với các tàu hiện đại đi theo đi vào Biển Đông của Việt Nam, bất chấp Trung Quốc tuyên bố về "Đường Lưỡi Bò" là ao nhà của Trung Quốc.
Đây là thông điệp cho Trung Quốc về tự do hàng hải theo Luật quốc tế, nhất là Tòa án Quốc tế Lahaye đã tuyên bố bác bỏ "Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc khi Philippines kiện Trung Quốc.
Đây còn là thông điệp cho Trung Quốc không được bắt nạt nước nhỏ như Việt Nam mà khi đó Hòa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ.
Ngoài ra qua đó cho thấy hiện nay Mỹ đã thay đổi, sẵn sàng dùng quân sự để đối phó với Trung Quốc".
Trước đó, hôm 3/3, Giáo sư Carl Thayer, nhà phân tích quốc phòng Australia, nhận định trong một thông cáo :
"Chuyến thăm này là một phần trong mối quan hệ quốc phòng lớn hơn giữa Mỹ và Việt Nam nhằm phát đi những thông điệp mạnh mẽ đến Trung Quốc về sự xâm lược của Bắc Kinh tại Biển Đông. Chuyến thăm của tàu Roosevelt là một tín hiệu của Hoa Kỳ cho thấy rằng họ có ý định duy trì sức mạnh hải quân ưu việt ở Tây Thái Bình Dương và Biển Đông".
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương nhận định rằng chuyến thăm của tàu USS Roosevelt cho thấy Hà Nội có xu hướng gần Wasgington hơn tuy phải vẫn giữ thế cân bằng với Bắc Kinh :
"Mối quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ hiện đang ở đỉnh cao trong 25 năm qua. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng mối quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ là yếu tố giúp Việt Nam cân bằng lại trong mối quan hệ tam giác Việt Nam - Trung Quốc - Mỹ : Việt Nam có xu hướng mở rộng quan hệ với Mỹ nhưng trên thực tế là xem xét làm sao cho mối quan hệ Việt - Mỹ cân bằng với mối quan hệ Việt -Trung để tránh những khó khăn trong mối quan hệ với người láng giềng trực tiếp ở phía Bắc".
Có mặt tại Đà Nẵng, Chuẩn Đô đốc hải quân Hoa Kỳ Stu Baker, chỉ huy nhóm tác chiến tàu sân bay (CSG) số 9, nói trong một thông cáo : "Chuyến thăm này là bằng chứng cho cam kết của Mỹ đối với một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở, nơi các quốc gia giàu mạnh và độc lập tôn trọng chủ quyền của nhau, và tuân thủ luật lệ quốc tế".
*********************
Hàng không Mẫu hạm USS Theodore Roosevelt thả neo tại cảng Đà Nẵng
RFA, 05/03/2020
Hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt (CVN 71) và tàu USS Bunker Hill (CG 52) thăm Đà Nẵng ngày 5-9/3/2020. Courtesy : zing.vn
Sáng ngày 5/3/2020, hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS Theodore Roosevelt đã tiến vào Đà Nẵng và thả neo cách đất liền khoảng 7 km bắt đầu chuyến thăm hữu nghị nhân kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam đăng tải các hình ảnh của hàng không mẫu hạm cùng lời chào đón :
"Chào mừng đến Việt Nam, tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN 71) và tàu USS Bunker Hill (CG 52) !
Chúng tôi nóng lòng được dẫn các bạn đi thăm thú nơi đây".
"Đối tác tin cậy. Thịnh vượng bền lâu", khẩu hiệu được Facebook của Đại sứ quán Mỹ đăng tải.
Truyền thông Nhà nước Việt Nam cũng đồng loạt loan tin hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS Theodore Roosevelt đến tại Đà Nẵng. Tin từ phía Việt Nam cho biết Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, ông Hồ Kỳ Minh, bắt tay Tư lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc John C. Aquilino, tại lễ đón tàu diễn ra vào lúc 13 giờ chiều ngày 5 tháng 3.
Tại lễ đón, Đô đốc John C. Aquilino lên tiếng cho rằng mối quan hệ đối tác giữa hai nước Việt Nam- Hoa Kỳ dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Hoa Kỳ luôn đứng cạnh và ủng hộ Việt Nam về những quyền hàng hải chính đáng ở Biển Đông.
Trong khi đó, Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, ông Daniel Kritenbrink, nhắc lại sau chuyến thăm Việt Nam của tàu Sân bay USS Carl Vinson vào tháng 3 năm 2018, sự kiện hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt đến Đà Nẵng lần này khẳng định cam kết của Hoa Kỳ về một khu vực Thái Bình Dương- Ấn Độ Dương ổn định và tự do hàng hải.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, vào ngày 5 tháng 3, cho báo giới biết rằng ‘được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam, đoàn tàu sân bay của Mỹ gồm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tàu tuần dương USS Bunker Hill thăm cảng Tiên Sa bắt đầu từ ngày 5/3 đến 9/3. Đây là chuyến thăng thông thường của một đoàn tàu sân bay Mỹ, nằm trong khuôn khổ hoạt động kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ 2 nước phát triển, phù hợp với khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện, đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định, an ninh hợp tác và phát triển ở khu vực’.
Đây là lần thứ 2 sau chiến tranh, một tàu sân bay của Mỹ lại trở lại và thăm hữu nghị Việt Nam.
Đối đầu Việt Nam – Malaysia – Bắc Kinh
Bhavan Jaipragas, VNTB, 24/02/2020
Một nhóm chuyên gia cố vấn có trụ sở tại Washington cho biết hôm 21/02, Malaysia, Trung Quốc và Việt Nam đã đối đầu ngầm với nhau trong thời gian qua ở Biển Đông về việc thăm dò dầu khí. Và đặt câu hỏi vì sao Malaysia và Việt Nam không đoàn kết với nhau trước Bắc Kinh ?
Một tàu cảnh sát biển của Trung Quốc được nhìn thấy gần một con tàu của Lực lượng bảo vệ biển Việt Nam ở Biển Đông. Ảnh : Reuters
Trong một đăng tải trên trang web, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) đã đưa tin về các tàu hải quân, tàu Cảnh sát biển, tàu dân quân, một tàu có tên West Capella xuất hiện từ tháng 10 năm ngoái.
West Capella, được ký hợp đồng bởi công ty năng lượng nhà nước Petronas của Malaysia, là trung tâm của cuộc đối đầu.
AMTI, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, cho biết phát hiện của họ dựa dựa trên hệ thống nhận dạng tự động (AIS) và hình ảnh vệ tinh thương mại.
Mặc dù Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Sefudin Abdullah tuyên bố trong tuần này rằng Kuala Lumpur đang tìm kiếm một thỏa thuận với Việt Nam để ngăn chặn xung đột với vùng lãnh hải của Malaysia, nhưng đến nay vẫn bế tắc.
Malaysia và Việt Nam là một trong những quốc gia thách thức yêu sách của Bắc Kinh ở gần như toàn bộ khu vực Biển Đông với yêu sách đường lưỡi bò.
Đồ họa chi tiết mới nhất về sự di chuyển của tàu bè trong khu vực tranh chấp. Ảnh : AMTI
Hai nước đã cùng nhau nộp đơn xin công nhận phần thềm lục địa ở phần phía nam Biển Đông vào năm 2009, trong khi đó, Kuala Lumpur yêu cầu được công nhận phần Bắc Biển Đông vào nửa cuối năm ngoái. Động thái mới nhất này bị Trung Quốc lên án vì từ lâu Trung Quốc đã cho rằng họ có "quyền lịch sử" đối với vùng biển này.
Tuy nhiên, các bên khiếu nại vẫn khẳng định rằng đường chín đoạn của Trung Quốc đi ngược lại với các quyền lãnh hải theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
Đài Loan, vùng Bắc Kinh cho là lãnh thổ của thuộc Trung Quốc cũng có yêu sách tương tự với đại lục.
Đồ họa chi tiết mới nhất mô tả hiện trạng tàu thuyền trong khu vực tranh chấp trên Biển Đông. Ảnh : AMTI
AMTI cho biết những phát hiện mới nhất nhắc lại "điều bình thường mới ở Biển Đông".
Cơ quan tư vấn cho biết: "Các nước Đông Nam Á đang thăm dò nguồn năng lượng mới trong đường chín đoạn sẽ chịu mối đe dọa rủi ro cao, liên tục từ các lực lượng thực thi pháp luật và bán quân sự Trung Quốc".
Báo cáo AMTI nói rằng tại thời điểm công bố báo cáo này, tình trạng đối đầu hiện tại đang tiếp tục.
West Capella và các tàu tiếp tế ngoài khơi tiếp tục hoạt động trong khối ND1 – khu vực Hà Nội và Kuala Lumpur cùng nộp đơn xon xác nhận chủ quyền.
Các sự kiện trong những tuần gần đây đã xảy ra trong ND1 và khối ND2 liền kề.
Một tàu Cảnh sát biển của Trung Quốc được nhìn thấy trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông. Ảnh : Reuters
"Các tàu dân quân Việt Nam vẫn theo dõi và có thể yêu cầu West Capella dừng hoạt động", AMTI cho biết.
"Các tàu dân quân và hải cảnh Trung Quốc tiếp tục tiếp cận các giàn khoan và tạo ra nguy cơ va chạm, như họ đã làm với các điểm khai thác dầu khí khác hồi năm ngoái".
"Cho đến nay, chính phủ Malaysia dường như quyết tâm tiếp tục thăm dò. Nhưng phản ứng của Trung Quốc gửi một thông điệp rằng thăm dò (khai thác)ở khối ND1 và ND2 sẽ gây rủi ro lớn đối với bất kỳ tác nhân kinh doanh nào, kể cả Petronas".
Mặc dù động cơ của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ "rõ ràng", AMTI đã đặt câu hỏi về động cơ của chính phủ của Thủ tướng, Mahathir Mohamad.
"Câu hỏi lớn nhất là tại sao chính phủ Malaysia chọn bỏ qua tinh thần đệ trình chung năm 2009 với Việt Nam, và làm suy yếu sự đoàn kết mà các bên ở Đông Nam Á hy vọng sẽ xây dựng trong tranh chấp dầu khí với Bắc Kinh".
Cơ quan cố vấn cho biết Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Petronas "dường như bỏ qua" thỏa thuận 2009 đã đạt được giữa Kuala Lumpur và Hà Nội, với tuyên bố chung "không ảnh hưởng đến việc phân định cuối cùng".
Trong số các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc tham gia cuộc đối đầu có tàu Zhaolai 5403 tải trọng 5.000 tấn, được AMTI cho là "một trong những tàu lợi hại nhất của Cảnh sát biển Trung Quốc".
Về phía Malaysia, Hải quân nước này đã cử một tàu khu trục tên lửa KD Jebat để bảo vệ và tuần tra khu vực nơi tàu Capella hiện diện từ ngày 5-1 đến 9-1. Ngoài ra, theo dữ liệu của AIS, Malaysia cũng đã phái tàu tuần tra KD Kelantan từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 2 và tàu hải cảnh Bagan Datuk từ cuối tháng 2.
Khánh An dịch
Nguồn : VNTB, 24/02/2020
*******************
Nguy cơ đụng độ ở Biển Đông giữa Việt Nam, Malaysia và Trung Quốc (RFA, 22/02/2020)
Căng thẳng giữa ba nước Việt Nam, Trung Quốc và Malaysia ở Biển Đông đã kéo dài suốt hai tháng nay sau khi Malaysia điều tàu khoan dầu đến khu vực thềm lục địa mở rộng mà cả hai nước Việt Nam và Malaysia đều đòi chủ quyền ở Biển Đông, đồng thời nằm trong vùng đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc tự vẽ ra trên biển.
Hình minh họa. Tàu hải cảnh của Trung Quốc ở Biển Đông - AFP
Trang chuyên theo dõi thông tin hàng hải AMTI thuộc Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS) ở Mỹ loan tin này hôm 21/2, dựa theo các hình ảnh vệ tinh và dữ liệu thu thập từ hệ thống định vị tự động.
Theo AMTI, từ ngày 21/12, Malaysia đã điều tàu khoan West Capella do công ty dầu khí quốc gia Malaysia Petronas thuê công ty Seadrill (có trụ sở ở Anh) đến lô dầu khí ND2 để khai thác ở mỏ khí có tên Lala-1. Đây là khu vực nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Malaysia và nằm trong vùng thềm lục địa mở rộng mà cả Malaysia và Việt Nam đều đòi chủ quyền. Hồi năm 2009, cả hai nước đã đệ trình đòi hỏi chung này lên Liên Hiệp Quốc và xác định đây là khu vực chồng lấn.
Cũng theo AMTI, từ 21/12 đến nay, tàu khoan West Capella đã đi lại giữa hai lô dầu khí ND2 và ND1. Cả hai đều nằm trong vùng chồng lấn.
Để đáp lại động thái này của Malaysia, Trung Quốc ngay lập tức đã điều các tàu hải cảnh lớn có trang bị vũ khí đến để theo sát tàu West Capella.
Việt Nam đồng thời cũng gửi các tàu cá được AMTI xác định thuộc đội dân quân biển của Việt Nam, đến để theo dõi các hoạt động của West Capella.
"Các tàu dân quân biển của Việt Nam ở vị trí theo dõi và có thể yêu cầu tàu (West Capella) ngừng hoạt động. Các tàu dân quân biển và chấp pháp của Trung Quốc tiếp tục tiếp cận gần đến mức nguy hiểm đối với tàu khoan và các tàu hậu cần, tạo nguy cơ đâm va như những nguy cơ đã xảy ra khi các tàu này hoạt động ở khu vực khai thác dầu khí khác hồi năm ngoái", bài phân tích trên AMTI có đoạn viết.
AMTI cho biết Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh có ký hiệu 5403, 5305, 5204 và 5203 đến để đe doạ West Capella. Phía Malaysia đáp trả bằng cách gửi tàu hải quân có tên lửa dẫn đường KD Jebat cùng hai tàu tuần tra khác đến để bảo vệ West Capella và các tàu hậu cần.
Vào khi bài phân của AMTI được công bố, căng thẳng giữa 3 nước vẫn chưa chấm dứt. AMTI cho biết phía Malaysia dường như quyết tâm sẽ khoan thăm dò, nhưng hành động từ phía Trung Quốc đã gửi ra một thông điệp là bất cứ hoạt động khai thác thật sự nào từ hai lô ND1 và ND2 sẽ là nguy cơ rủi ro đối với Petronas.
"Động cơ của Trung Quốc và Việt Nam là rõ ràng. Câu hỏi đặt ra là tại sao Chính phủ Malaysia lại chọn cách lờ đi tinh thần của báo cáo chung về thềm lục địa mở rộng mà hai nước đã nộp lên Liên Hiệp quốc hồi năm 2009, và do đó làm hỏng sự đoàn kết mà các bên ở Đông Nam Á đang hy vọng xây dựng trong tranh chấp dầu khí với Trung Quốc", bài phân tích của AMTI nhận định.
Hôm 17/2 vừa qua, Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah cho báo chí biết nước này và Việt Nam đã đồng ý chuẩn bị ký một thoả thuận nhằm chống tình trạng tàu cá Việt Nam xâm nhập vùng biển của Malaysia.
Tại hội nghị an ninh quốc tế ở Munich, Đức, bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia kêu gọi các cường quốc phương Tây đóng vai trò duy trì hòa binh và ổn định tại Biển Đông, và không biến khu vực này thành bãi chiến trường cho một "cuộc chiến tranh ủy nhiệm" như tại Trung Đông và Bắc Phi.
Chiến hạm trang bị tên lửa dẫn đường USS William Lawrence (DDG 110) trong một cuộc diễn tập trên Biển Đông. Reuters
Theo báo Singapore Strait Times, bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia Mohamad Sabu đã kêu gọi Hoa Kỳ và các nước Châu Âu thúc đẩy các thảo luận nhằm duy trì hòa bình tại khu vực Đông Nam Á. Bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia đưa ra thông điệp nói trên trong buổi dạ tiệc hôm qua, với lãnh đạo các cường quốc phương Tây, tại Munich.
Bộ Quốc Phòng Malaysia cũng ra thông cáo khẳng định, việc Kuala Lumpur tham gia vào hội nghị an ninh quốc tế Munich là nằm trong mục tiêu mà Sách Trắng Quốc Phòng của Malaysia, nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác, thông qua các diễn đàn song phương và đa phương về các vấn đề an ninh và quốc phòng quốc tế nằm trong lợi ích chung. Đây cũng là chiến lược dài hạn của Malaysia nhằm duy trì chủ quyền, an ninh và thịnh vượng quốc gia.
Lo ngại của Kuala Lumpur tập trung vào quan hệ giữa phương Tây và Trung Quốc, một siêu cường đang lên, và cũng là một đối tác của Malaysia. Bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia tỏ ý tin tưởng vào quan hệ giữa Châu Âu và Nga đã có nhiều tiến bộ, nền hòa bình được duy trì, không có xung đột nào đáng kể giữa Châu Âu và Nga kể từ khi Thế chiến Hai kết thúc đến nay.
Biển Đông : Singapore khuyến khích tăng cường xây dựng niềm tin
Bộ trưởng Quốc Phòng Singapore, tham dự hội nghị Munich hôm thứ Sáu, 14/02, thì nhấn mạnh đến việc các nước cần tăng cường xây dựng lòng tin và ủng hộ các nỗ lực ngoại giao nhằm tìm được giải pháp cho các mâu thuẫn trong đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông. Đại diện của chính quyền Singapore cũng khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc tôn trọng quyền tự do hàng hải, đồng thời đề xuất một số cơ chế nhằm chia sẻ các nguồn tài nguyên tại Biển Đông, nhằm giảm thiểu nguy cơ xung đột.
Một điểm đáng chú ý khác trong phát biểu của bộ trưởng Quốc Phòng Singapore là, ngoài nguyên tắc tự do hàng hải, quan điểm của Singapore là các quốc gia có quyền tiến hành tập trận tại các vùng biển quốc tế ở Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây chính là điều đi ngược lại với quan điểm lâu nay của Trung Quốc, coi Biển Đông là ao nhà. Bắc Kinh từng thường xuyên gây áp lực để ngăn chặn các nước láng giềng tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước phương Tây tại khu vực Biển Đông.
Trọng Thành
Hoa Kỳ chỉ trích Trung Quốc đe dọa sự ổn định ở Thái Bình Dương
RFA, 13/02/2020
Trung Quốc đang đe dọa chủ quyền các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương và đang làm suy yếu sự ổn định tại khu vực này.
Đô đốc Philip Davidson tại buổi điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ vào ngày 12/02/19. Courtesy : Ảnh chụp màn hình c-span.org
Đô đốc Philip Davidson, Chỉ huy Bộ Tư Lệnh Ấn Độ- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tuyên bố như vừa nêu trong một bài phát biểu tại Sydney vào hôm thứ Năm, ngày 13/2, nhân chuyến thăm nước đồng minh Australia và có cuộc hội đàm với Thủ tướng Úc Scott Morrison.
Reuters, trong cùng ngày dẫn lời của Đô đốc Philip Davidson nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ hoàn toàn phản đối chính sách của Trung Quốc ở Thái Bình Dương vì "yêu sách chủ quyền quá mức, ngọai giao bẫy nợ, vi phạm các hiệp định quốc tế, trộm cắp sở hữu trí tuệ quốc tế, đe dọa quân sự và tham nhũng trắng trợn".
Đô đốc Philip Davidson, trong bài diễn văn còn nói rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm phương cách để kiểm soát về thương mại, tài chính, truyền thông, chính trị và luôn cả cách sống tại khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Mối quan hệ Hoa Kỳ và Trung Quốc được cải thiện hồi tháng 1 năm 2020 qua việc ký kết một thỏa thuận thương mại giữa hai nước sau cuộc thương chiến kéo dài 18 tháng gây tác động đến sự tăng trưởng toàn cầu.
Tuyên bố của Đô đốc Philip Davidson hôm thứ Năm ở Sydney được cho là có khả năng gây căng thẳng với Trung Quốc.
Đại sứ quán Trung Quốc ở Australia chưa có phản ứng tức thời nào trước những phát biểu mang tính chỉ trích của giới chức quân sự hàng đầu Hoa Kỳ, Đô đốc Philip Davidson.
Trước đó, Trung Quốc từng lên tiếng bác bỏ các cáo buộc về hành vi hung hăng và dụ dỗ các nền kinh tế nhỏ vướng vào "bẫy nợ" của Bắc Kinh.
Trung Quốc được nói đã tích cực hơn trong việc khai thác khu vực Thái Bình Dương giàu tài nguyên trong những năm gần đây, qua việc tìm cách mở rộng ảnh hưởng bằng viện trợ và khuyến khích các nước tránh xa quan hệ ngoại giao với Đài Loan, mà Trung Quốc gọi là lãnh thổ thuộc Hoa Lục, không phải là một quốc gia.
Đặc biệt, những động thái ngày càng gia tăng khẳng định chủ quyền gần trọn Biển Đông của Trung Quốc, làm dấy lên mối lo ngại của Hoa Kỳ ở khu vực biển Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Một số quốc gia có tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở Biển Đông với Trung Quốc bao gồm Malaysia, Philippines, Brunei và Việt Nam.
*******************
Ngưng thỏa thuận quân sự Mỹ - Philippines : Trump nói "tiết kiệm" được nhiều tiền
Minh Anh, RFI, 13/02/2020
Sau khi Philippines thông báo hủy Thỏa Thuận Thăm Viếng Quân Sự (VFA) với Hoa Kỳ, chính quyền Donald Trump và giới quân sự Mỹ đã có những phản ứng trái ngược nhau.
Tổng thống Duterte và ngoại trưởng Mỹ Pompeo tại một căn cứ không quân ở Manila ngày 28/02/2019. Reuters
Trả lời báo chí ngày 12/02/2020 về thông báo của Manila hủy thỏa thuận quân sự giữa Philippines với Hoa Kỳ, tổng thống Mỹ tuyên bố thỏa thuận này "thật sự chưa bao giờ làm ông phải bận tâm đến". Nguyên thủ Mỹ còn nói thêm rằng "nếu ông ấy muốn như thế, thì tôi sao cũng được. Không thành vấn đề, điều này có thể giúp chúng ta tiết kiệm được nhiều tiền".
Trước đó, đại sứ Mỹ tại Manila bày tỏ quan ngại, cho rằng xem quyết định này là "nghiêm trọng". Một quan điểm cũng được giới quân sự đồng chia sẻ. Đô đốc Philip Davidson, tư lệnh vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, trả lời hãng tin AFP ngày 13/02/2020, đánh giá thông báo hủy thỏa thuận quân sự với Philippines có thể gây khó khăn cho cuộc chiến chống khủng bố.
Đô đốc Mỹ hy vọng Manila xem xét lại quyết định chấm dứt "Thỏa Thuận Thăm Viếng Quân Sự", được ký kết vào năm 1998. Thỏa thuận này tạo một khuôn khổ pháp lý cho phép lính Mỹ đồn trú tại Philippines và tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung.
Kể từ khi lên cầm quyền năm 2016, tổng thống Rodrigo Duterte không ngừng đe dọa chấm dứt liên minh quân sự với Mỹ để nghiêng về phía Nga và Trung Quốc.
Minh Anh
*********************
Philippines hủy thỏa thuận quân sự với Mỹ, cơ hội cho Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa Biển Đông
Anh Vũ, RFI, 12/02/2020
Sau nhiều lần đe dọa, cuối cùng, hôm 11/02/2019, chính quyền của tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã chính thức thông báo hủy bỏ Thỏa thuận Thăm viếng quân sự (Visiting Forces Agreement - VFA) với Hoa Kỳ. Giới chuyên gia lo ngại việc Philippines khước từ sự hiện diện quân sự của quân đội Mỹ không chỉ làm rạn vỡ mối quan hệ liên minh Mỹ-Philippines mà còn có thể tạo cơ hội cho Trung Quốc mở rộng quân sự hóa Biển Đông.
Hải quân Mỹ trong một cuộc tập trận với quân đội Philippines tại tỉnh Zambal. Ảnh tư liệu chụp ngày 11/04/2019. Reuters/Eloisa Lopez
Người phát ngôn của tổng thống Philippines, ông Salvador Panelo, hôm qua giải thích, tổng thống Duterte quyết định hủy bỏ Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự với Mỹ để cho phép Philippines độc lập hơn trong quan hệ với các quốc gia khác và "tổng thống sẽ không xem xét bất cứ đề xuất nào đến từ chính phủ Mỹ nhằm cứu vãn VFA".
Việc nguyên thủ Philippines đơn phương hủy thỏa thuận quân sự với Mỹ có thể làm suy giảm các lợi ích của Washington tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong bối cảnh tham vọng của Trung Quốc đang gia tăng. Bên cạnh đó, quyết định này cũng hạn chế sự tiếp cận của Philippines đối với các hoạt động huấn luyện và đào tạo của Mỹ trong việc đối phó với Hồi giáo cực đoan, thảm họa thiên nhiên và các mối đe dọa an ninh hàng hải khác.
Mối quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Philippines đã tồn tại từ lâu, được ràng buộc bởi Hiệp ước Phòng thủ chung (Mutual Defense Treaty-MDT) được ký vào năm 1951 và Thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng (Enhanced Defense Cooperation Agreement -EDCA) đạt được năm 2014 với chính quyền của tổng thống Mỹ Barack Obama.
VFA được ký vào năm 1998, có hiệu lực từ năm 1999. Thỏa thuận tạo cho quân đội Hoa Kỳ một quy chế pháp lý, theo đó, tàu chiến, máy bay và hàng nghìn binh lính Mỹ được luân phiên đồn trú tại Philippines, tham gia các cuộc tập trận quân sự, huấn luyện và hoạt động hỗ trợ nhân đạo… Có khoảng 300 hoạt động như vậy mỗi năm, bao gồm cả các chuyến viếng thăm của tàu chiến Mỹ.
Thỏa thuận VFA ra đời trong bối cảnh Philippines đang phải đối phó với những mối đe dọa ngày càng gia tăng từ Trung Quốc trên các vấn đề chủ quyền biển đảo trong khi mà các căn cứ quân sự của Mỹ tại Philippines đã đóng cửa và ít nhiều đã có tác dụng hữu hiệu bảo đảm an ninh cho Philippines từ đó đến nay.
Quan hệ giữa Mỹ và Philippines dưới thời ông Duterte liên tục xuống cấp khi mà Washington thường xuyên chỉ trích chiến dịch chống ma túy của nước này. Tổng thống Rodrigo Duterte thường chỉ trích các chính sách an ninh của Mỹ, tỏ ra sẵn sàng ngả sang với Trung Quốc hay Nga, bất chấp mối quan hệ lịch sử chặt chẽ của quân đội Philippines với đối tác Hoa Kỳ.
Hơn ai hết, tổng thống Duterte hiểu rõ rằng, một khi Hiệp định VFA bị hủy bỏ, Philippines lại là bên chịu thiệt hại nhiều hơn. Chính ngoại trưởng nước này Teodoro Locsin mới đây cũng đã cảnh báo, động thái này có thể chấm dứt khoản viện trợ an ninh trị giá 550 triệu USD cùng các hoạt động hỗ trợ huấn luyện và tình báo của Mỹ với Philippines. Đó là chưa kể, quan hệ kinh tế giữa hai bên cũng có nguy cơ trở nên lạnh nhạt.
Đồng thời, phía Mỹ cũng có thể tìm cách sửa đổi, thậm chí hủy bỏ nhiều thỏa thuận quân sự song phương, bao gồm Hiệp ước Phòng thủ chung hay Thỏa thuận Tăng cường hợp tác quốc phòng cũng như ngừng các hoạt động tập trận, huấn luyện chung với quân đội Philippines.
Nhiều quan chức Philippines cũng cảnh báo, việc từ bỏ một thỏa thuận an ninh quan trọng hàng đầu với Mỹ sẽ làm suy yếu an ninh của đất nước, cũng như khó ngăn chặn các hành động gây hấn ở Biển Đông - vùng biển vốn đang có tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc.
Sự hiện diện quân sự Mỹ ngăn Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông
Theo nhận định của trang tin The Diplomat, việc hủy thỏa thuận VFA sẽ đưa mối quan hệ đồng minh Mỹ-Philippines trở lại trạng thái của đầu thập kỷ 1990. Đó là một mối liên minh không có sự hiện diện của quân sự của Mỹ. Nhật báo Philippines, Manila Times, hôm qua bình luận : "Chúng ta hãy nhớ rằng sau khi đóng cửa căn cứ quân sự Mỹ Clarck và căn cứ trong vịnh Subic năm 1992, Trung Quốc đã bắt đầu dòm ngó các dải đá ngầm ngoài khơi đảo Palawan, đó là nơi mà quân đội Philippines và Mỹ vẫn dùng làm nơi diễn tập chung. Quân đội của chúng ta quá yếu để ngăn chặn sự xâm nhập của Trung Quốc vào các dải đá ngầm đó".
Đề cập đến quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Philippines, các chuyên gia quân sự và hàng hải ở Philippines đều có chung nhận định, Trung Quốc là quốc gia được hưởng lợi nhất khi mối quan hệ Mỹ-Phi đổ vỡ. Tại Philippines, giới quan sát đều nhận thấy thỏa thuận VFA với Hoa Kỳ đã từng có tác dụng ngăn chặn Trung Quốc gia tăng xây dựng các công trình quân sự hóa các bãi cạn ở vùng Biển Tây Philippines từ năm 2016.
Philippines để mất VFA, Trung Quốc sẽ có cơ hội trở lại với những toan tính của họ từ lâu về các bãi cạn của Philippines. Trong phiên điều trần của Thượng viện Philippines tuần trước, ông Locsin cảnh báo rằng việc bãi bỏ thỏa thuận an ninh với Washington sẽ làm suy yếu an ninh của Philippines và thúc đẩy sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông đang tranh chấp.
Sự hiện diện của quân đội Mỹ trong tuyến đường thủy chiến lược này đã được coi là một đối trọng quan trọng với Trung Quốc, nước đã tuyên bố chủ quyền một cách phi pháp gần như toàn bộ vùng Biển Đông.
Đòn mạnh vào quan hệ liên minh của Mỹ ở Châu Á
Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự chấm dứt còn làm phức tạp thêm cho mối quan hệ Mỹ - Phi. Washington, trong thời gian qua, duy trì được mối quan hệ đồng minh với Manila không hề dễ dàng, giờ không còn VFA là một đòn đánh mạnh vào quan hệ liên minh truyền thống của Mỹ ở Châu Á từ sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Nhất là vào lúc mà Hoa Kỳ đang tập trung cạnh tranh ảnh hưởng trong khu vực với các cường quốc như Trung Quốc và Nga.
Với Manila, không có thỏa thuận VFA, nguồn lực bảo đảm an ninh cho Philippines bị giảm đáng kể trong khi mà tiềm lực quân sự của nước này vẫn còn rất hạn chế và mối đe dọa của Trung Quốc là có thực.
Trong Châu Á Thái Bình Dương nhìn chung, mối quan hệ liên minh Phi-Mỹ rạn nứt sẽ làm tăng thêm mối lo ngại mất cân bằng trong vùng giữa lúc Mỹ đang cố gắng làm tròn vai trò kiềm chế sự bành trướng của Trung Quốc. Tất nhiên Philippines vẫn chỉ là một nước mà mối quan hệ đồng minh với Mỹ không thể được coi là ưu tiên như với Nhật Bản hay Hàn Quốc. Nhưng việc bị một đồng minh quay lưng khiến cho các hoạt động của Hoa Kỳ trong khu vực trở nên mất độ tin cậy và điều đó có ý nghĩa rất lớn cho những toan tính và tham vọng của Bắc Kinh trong khu vực.
The Manila Times, số ra hôm 11/02 nhấn mạnh : Mối liên minh quốc phòng giữa Philippines và Mỹ từ nhiều thập kỷ qua là cơ sở cho sự ổn định không chỉ riêng với Philippines mà còn cả với các láng giềng ở Đông Á và Đông Nam Á.
Anh Vũ
Nguồn : RFI, 12/02/2020
*********************
Philippines muốn 'gần Trung, xa Mỹ'
BBC, 12/02/2020
Philippines chính thức báo với Mỹ rằng họ đang hủy bỏ một hiệp ước an ninh cho phép quân đội Mỹ huấn luyện và tham gia các cuộc tập trận chung ở Philippines.
Hiệp ước an ninh vừa bị hủy bỏ cho phép quân đội Mỹ huấn luyện và tham gia các cuộc tập trận chung ở Philippines
Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte từ lâu đã đe dọa sẽ rời xa đồng minh lâu năm là Mỹ và tập trung vào Trung Quốc.
Bộ trưởng Ngoại giao Philippines viết trên Twitter rằng thông báo chính thức về việc này đã được đưa ra, liên quan đến Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự, được ký kết năm 1988.
Thông báo này bắt đầu giai đoạn 180 ngày cho tới khi thỏa thuận hết hiệu lực.
Mỹ nói động thái này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với mối quan hệ giữa hai nước.
Tháng trước, Tổng thống Rodrigo Duterte cảnh báo rằng ông sẽ hủy bỏ thỏa thuận nói trên sau khi Mỹ thu hồi visa du lịch cấp cho một đồng minh chính trị.
Tổng thống Rodrigo Duterte đã đưa ra nhiều tuyên bố khác nhau về vai trò tương lai của quân đội Hoa Kỳ tại Philippines kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm 2016.
Theo Inquirer, kể từ năm 2016, ông Duterte đã nhiều lần ám chỉ sẽ cắt đứt quan hệ đồng minh lâu năm với Mỹ và theo đuổi quan hệ với các nước không phải là đồng minh truyền thống như Trung Quốc và Nga.
Nhà lãnh đạo Philippines đã công khai bày tỏ sự thất vọng đối với chính phủ Hoa Kỳ liên quan đến các phát biểu của một số quan chức Mỹ phản đối cuộc chiến chống ma túy đẫm máu của ông ta.
Sự bất hòa hiện tại đã được khơi mào khi Thượng viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết trừng phạt các quan chức Philippines liên quan đến cuộc chiến ma túy và việc giam giữ Thượng nghị sĩ bất đồng chính kiến Leila De Lima.
Ông Duterte đã ra lệnh chấm dứt hiệp ước quân sự sau khi Hoa Kỳ hủy bỏ thị thực của Thượng nghị sĩ trung thành Ronald "Bato" Muff Dela Rosa, người cũng lãnh đạo cuộc chiến chống ma túy đẫm máu của ông Duterte.
Nguồn : BBC, 12/02/2020
****************
Manila hủy Hiệp ước cho phép quân đội Mỹ hiện diện tại Philippines
Trọng Thành, RFI, 11/02/2020
Chính quyền của ông Duterte vừa đưa ra một quyết định có ảnh hưởng hệ trọng đến quan hệ Mỹ-Philippines. Manila thông báo khởi động thủ tục hủy bỏ Hiệp ước Thăm viếng quân sự với Mỹ. Nhiều người lo ngại chính sách của tổng thống Duterte cắt đứt quan hệ hợp tác quân sự với Washington sẽ làm suy yếu khả năng tự vệ của Philippines tại Biển Đông, trước đà bành trướng Trung Quốc.
Toàn cảnh khu doanh trại của thủy quân lục chiến Mỹ trong cuộc tập trận bắn đạn thật Mỹ-Philippines ở Capas, tỉnh Tarlac, phía bắc Manila. Ảnh tư liệu chụp ngày 10/10/2016. TED ALJIBE / AFP
Theo AFP, Bộ Ngoại giao Philippines hôm nay cho biết đã gửi đến sứ quán Mỹ tại Manila thông báo về việc hủy bỏ Hiệp ước Thăm viếng quân sự với Mỹ (Visiting Forces Agreement - VFA). Thỏa thuận ký năm 1998 cho phép Mỹ đưa các đơn vị quân đội qua Philippines để tham gia tập trận chung hay giúp đỡ chống khủng bố. Hiệp Ước sẽ chính thức hết hiệu lực trong vòng 180 ngày, từ kể hôm nay.
Chính quyền Philippines, kể từ khi ông Duterte đắc cử tổng thống năm 2016, liên tục đe dọa sẽ hủy bỏ Hiệp ước Thăm viếng quân sự nói trên, và liên minh quân sự nói chung với Washington, để nghiêng về phía Nga và Trung Quốc, gần đây nhất là vào hồi tháng 1/2020, để trả đũa lại việc Mỹ hủy thị thực nhập cảnh đối với cựu lãnh đạo cảnh sát quốc gia Ronaldo Dela Rosa, hiện đang đảm nhiệm cương vị thượng nghị sĩ. Chính quyền Duterte coi việc Hoa Kỳ trừng phạt cựu lãnh đạo cảnh sát nói trên là một hành động trừng phạt nhắm vào cuộc chiến chống nạn buôn lậu ma túy, do chính tổng thống Philippines Rodrigo Duterte chủ trương. Cuộc chiến đẫm máu chống buôn lậu ma túy bị nhiều tổ chức quốc tế lên án xâm phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Hiệp ước Thăm viếng quân sự với Mỹ (VFA) gây phân hóa sâu sắc xã hội Philippines. Một bộ phận cánh tả và nhiều thành phần dân tộc chủ nghĩa lên án một hiệp ước dành nhiều biệt đãi cho các quân nhân Mỹ, bị cáo buộc phạm tội ác. Ngược lại, những người ủng hộ VFA cho rằng việc hủy bỏ hiệp ước làm tổn hại đến khả năng tự vệ của quần đảo, và gây khó khăn cho các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc kiềm chế các tham vọng của chính quyền Trung Quốc tại Biển Đông.
Phản ứng lại quyết định của Manila, sứ quán Hoa Kỳ tại Philippines ra thông cáo nhấn mạnh : "Đây là một quyết định nghiêm trọng để lại những hệ quả quan trọng cho liên minh giữa Hoa Kỳ và Philippines", nhưng đồng thời khẳng định phía Mỹ "sẽ xem xét cẩn trọng về phương thức tốt nhất để thúc đẩy các lợi ích chung của chúng ta". Việc hủy bỏ Hiệp Ước VFA để ngỏ cánh cửa cho các thương lượng mới giữa Manila và Washington trong lãnh vực hợp tác quốc phòng.
Trên thực tế, Mỹ và Philippines gắn bó với những quan hệ liên minh lâu đời, không dễ một sớm một chiều hủy bỏ. Năm 1951, Washington và Manila ký kết một Hiệp ước phòng thủ chung, theo đó, hai bên có nghĩa vụ bảo vệ nhau, nếu một trong hai nước bị xâm lăng.
Trọng Thành
Nguồn : RFI, 11/02/2020
Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) quyết tâm chủ quyền, an ninh quốc gia Biển Đông
Hải quân Hoa Kỳ gần đây đã thực hiện di chuyển tàu chiến gần hòn đảo đang tranh chấp ở Biển Đông, nơi Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của mình.
Không ảnh đảo Pag-asa, một phần của nhóm đảo Trường Sa đang tranh chấp, ở Biển Đông nằm ngoài khơi bờ biển phía tây Philippines - ảnh hình ảnh tập tin cho thấy một. Một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ nói rằng sự hiện diện của một số lượng lớn tàu Trung Quốc gần các đảo và đảo nhỏ do Philippines chiếm đóng là "một mối lo ngại". Chính phủ Philippines đã phản đối các đội tàu Trung Quốc vào thứ Năm, ngày/4/4/2019, sau khi quân đội của họ giám sát hơn 200 tàu Trung Quốc từ tháng 1 đến tháng 3 tại khu vực tranh chấp có tên Sandy Cay, gần đảo Pag-asa do Philippines chiếm đóng. (Rolex Dela Pena / Pool Photo qua AP, File)
Hải quân Hoa Kỳ cho biết trong một tuyên bố rằng, tàu chiến USS Montgomery đã đi qua Quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa), nơi Bắc Kinh triển khai tên lửa vào thứ Bảy, để chứng minh rằng các đảo và vùng biển xung quanh trong vùng biển quốc tế, và tự do di chuyển hàng hải.
Người phát ngôn của Hạm đội thứ bảy Joe Killey nói : "Quyền tự do giao thông hàng hải này (FONOP) duy trì quyền, sử dụng tự do và hợp pháp đại dương".
Montgomery "thách thức các hạn chế của Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan đối với quyền đi lại", ông nói.
Quân đội Trung Quốc đã phản đối chiến dịch này, và Bộ Tư lệnh miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) nói rằng các tàu chiến Mỹ đã được bảo vệ trong quá trình hoạt động.
Đại tá Trung Quốc, Li Huamin, cho biết tàu chiến Mỹ "đã xâm nhập lãnh hải của Trung Quốc mà không được phép" và bị cảnh báo rời đi.
Đại tá Li cho biết trong một tuyên bố rằng Hải quân và Không quân PLA đã được lệnh theo dõi và buộc các tàu ra khỏi khu vực.
"Quân đội Trung Quốc quyết tâm duy trì chủ quyền và an ninh quốc gia và duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, bất kể tàu chiến của Mỹ có nghĩa là gì", ông nói.
Vào tháng 6 năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ khi đó là Jim Mattis đã cảnh báo Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc rằng, tranh chấp đảo có thể là một điểm nóng tiềm năng trong quan hệ Bắc Kinh – Washington.
Bill Gertz
Nguyên tác : U.S. Navy defies China with South China Sea operation, The Washington Times, 29/01/2020
Trà My dịch
Nguồn : VNTB, 01/02/2020
Hải quân Mỹ cử chiến hạm đến ‘xông đất’ ở Biển Đông
Trân Văn, VOA, 29/01/2020
Stars and Stripes – cơ quan truyền thông chuyên cung cấp thông tin, bình luận liên quan đến hoạt động của quân đội Mỹ - vừa cho biết : Chiến hạm USS Montgomery vừa "xông đất" ở Biển Đông.
USS Montgomery tại căn cứ Changi Naval Base, Singapore. (U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 2nd Class Tristin Barth)
Hôm 25 tháng 1 (mùng 1 tháng Giêng âm lịch), USS Montgomery đã dạo một vòng quanh Johnson Reef (bãi đá Gạc Ma) và Fiery Cross Reeef (bãi đá Chữ Thập). Đây là hai trong số bảy bãi đá ở quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc cưỡng chiếm của Việt Nam vào cuối thập niên 1980 và đã bồi đắp thành bảy hòn đảo nhân tạo.
Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ cho biết, USS Montgomory là chiến hạm đầu tiên thực hiện cuộc tuần tra trong năm 2020 ở Biển Đông nhằm chứng minh, Mỹ sẽ không từ bỏ quyền tự do hàng hải ở vùng biển này. Những cuộc tuần tra như thế ở Biển Đông còn nhằm thách thức yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông.
Đại tá Joe Keily, Phát ngôn viên của Hạm đội 7 thuộc Hải quân Mỹ, nói thêm, ngoài Trung Quốc, những yêu cầu tương tự của Việt Nam, Đài Loan về việc phải được cho phép hoặc phải thông báo trước khi chiến hạm của quốc gia nào đó chỉ băng qua lãnh hải hoàn toàn không phù hợp với luật pháp quốc tế.
Đó cũng là lý do USS Montgomery không xin phép, cũng không thông báo với bất kỳ quốc gia nào khi tiến vào quần đảo Trường Sa, băng ngang bãi đá Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập. Đại tá Keily nhấn mạnh, cả Công ước về Biển lẫn luật pháp quốc tế đều không giới hạn quyền qua lại một cách ôn hòa trong lãnh hải của quốc gia nào đó.
Trong email trao đổi với Stars and Stripes, Đại tá Keiley chú thích, Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan cùng đòi chủ quyền trên toàn bộ quần đảo Trường Sa. Còn Philippines, Malaysia và Brunei thì đòi chủ quyên trên một phần quần đảo này. Mỹ không công nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào trên quần đảo này.
Trước nay, các chuyến hải hành băng ngang Biển Đông, dạo quanh các đảo ở cả quần đảo Trường Sa lẫn quần đảo Hoàng Sa của những chiến hạm thuộc Hải quân Mỹ đều nhằm khẳng định, Mỹ không từ bỏ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông. Riêng đối với quần đảo Trường Sa, năm ngoái, Mỹ đã từng cử ba chiến hạm USS Spruance, USS Preble và USS Chung Hoon dạo quanh các căn cứ hỏa lực mà Trung Quốc xây dựng trên những đảo nhân tạo (bồi đắp trên những bãi đá đã cưỡng đoạt của Việt Nam) tại quần đảo này.
Sự kiện USS Montgomery "xông đất" ở Biển Đông có vài điểm đáng chú ý : Diễn ra ngay vào ngày đầu tiên – ngày đặc biệt nhất của năm âm lịch. Không biết có phải vì vậy mà không thấy Trung Quốc phản đối USS ngay lập tức hoặc cảnh cáo, bám theo nhằm răn đe như thường thấy (?). Một yếu tố khác với thường lệ nữa là đại diện Hải quân Mỹ nhấn mạnh yếu tố "thách thức" cả Việt Nam và Đài Loan như những thực thể ngang hàng với Trung Quốc trong yêu sách về chủ quyền tại Biển Đông.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 29/01/2020
Chú thích
********************
Tàu chiến Mỹ đi gần đảo tranh chấp ở Biển Đông lần đầu trong năm 2020
VOA, 29/01/2020
Hải quân Hoa Kỳ hôm thứ Ba 28/1 cho biết họ điều một tàu chiến đi gần quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp ở Biển Đông vào hôm 25/1. Đây là nơi có các đảo đã được Trung Quốc xây kiên cố.
Tàu chiến đấu duyên hải biến thể độc lập USS Montgomery (LCS 8) hoạt động ở Biển Đông. Ảnh hải quân
Động thái của Mỹ được xem là cuộc hành quân vì tự do hàng hải (FONOP) đầu tiên trong năm 2020.
Người phát ngôn của Hạm đội 7, Hải quân Mỹ, nói với tờ Japan Times rằng tàu USS Montgomery, một tàu chiến đấu tiên tiến, đã khẳng định các quyền và tự do hàng hải ở quần đảo Trường Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Người phát ngôn Hạm đội 7, Trung úy Joe Keiley, cho biết cuộc FONOP mới nhất này "giữ vững các quyền pháp lý, quyền tự do và việc sử dụng hợp pháp vùng biển", đồng thời nói thêm rằng tàu Montgomery đã thách thức những hạn chế mà Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan đặt ra đối với việc qua lại vô hại.
Tàu Montgomery đã đi qua gần bãi Chữ Thập do Trung Quốc nắm giữ, nơi có đường băng đạt chuẩn quân sự dài 3.000 mét và bãi Gạc Ma, các ảnh của Lầu Năm Góc cho thấy.
Người phát ngôn nói rằng Hoa Kỳ "giữ vững nguyên tắc về quyền tự do hàng hải", và các cuộc hành quân "được tiến hành một cách ôn hòa và không thiên vị có lợi hay bất lợi cho bất kỳ quốc gia cụ thể nào".
"Tự do đi lại hàng hải ở Biển Đông là một phần trong các hoạt động hàng ngày của các lực lượng quân sự Hoa Kỳ trên toàn khu vực", ông nói thêm.
Sau đó trong cùng ngày 28/1, quân đội Trung Quốc nói lực lượng không quân và hải quân của họ đã "đuổi" tàu chiến Mỹ khi tàu đi gần quần đảo.
Hải quân Hoa Kỳ lâu nay làm Bắc Kinh tức giận khi thường xuyên tiến hành các FONOP gần một số hòn đảo mà Trung Quốc chiếm đóng ở vùng biển, bao gồm các đảo nhân tạo nhỏ của Trung Quốc. Việc làm của Mỹ khẳng định rằng tự do ra vào vùng biển là điều rất quan trọng đối với tuyến đường thủy quốc tế này.
(Japan Times, South China Morning Post)
*******************
Tàu chiến Mỹ tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông ngày đầu năm mới
RFA, 29/01/2020
Tàu chiến của Hải quân Mỹ vừa thực hiện chuyến tuần tra trong chương trình tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông lần đầu tiên trong năm 2020.
Hình chụp tàu USS Montgomery đang hoạt động trên Biển Đông. Hình minh họa. Pinterest
Trang tin NHK của Nhật trích nguồn tin từ Hạm đội 7 của Mỹ cho biết tàu USS Montgomery vừa đi qua khu vực quần đảo Trường Sa hôm 25/1 vừa qua.
Người phát ngôn Hạm đội 7 Joseph Keiley nói với NHK rằng “Hoa Kỳ sẽ cho máy bay và tàu đi qua, hoạt động ở bất cứ nơi nào luật quốc tế cho phép, dù địa điểm đó có phải là vùng đòi chủ quyền trên biển quá mức hay không”.
Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng phản đối việc Trung Quốc cho xây lấp các đảo nhân tạo ở Biển Đông và triển khai vũ khí ra khu vực này.
Từ năm 2015, Hoa Kỳ đã tiến hành các hoạt động tuần tra tự do hàng hải nhằm thách thức các đòi hỏi về chủ quyền quá đáng của Trung Quốc ở Biển Đông. Tàu chiến của Mỹ đã đi vào vùng 12 hải lý sát các đảo nhân tạo do Trung Quốc kiểm soát ở Trường Sa và Hoàng Sa.
Năm 2019, Hải quân Mỹ đã thực hiện khoảng 8 chuyến tuần tra ở Biển Đông, chuyến cuối cùng là vào tháng 11 khi tàu USS Wayne E. Meyer đi qua khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hoạt động của tàu chiến mỹ ở Biển Đông, coi đây là hành động vi phạm chủ quyền của Trung Quốc và làm mất ổn định trong khu vực.
********************
Mỹ điều tầu chiến tuần tra "khai xuân" ở Biển Đông
Thu Hằng, RFI, 28/01/2020
Tầu khu trục USS Montgomery thuộc Hạm Đội 7 của Mỹ đã thực hiện một chuyến tuần tra gần quần đảo Trường Sa ở Biển Đông vào ngày 25/01/2020. Thông tin được phát ngôn viên Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, đại úy Joe Keiley, xác nhận với trang Japan Times của Nhật Bản ngày 28/01.
Ảnh minh họa chụp ngày 04/09/2019 : Tàu chiến USS Montgomery của Hải quân Hoa Kỳ trong một cuộc tập trận hàng hải Mỹ-ASEAN. Alexandra SEELEY / US NAVY / AFP
Đây là chuyến tuần tra đầu tiên trong năm 2020 tại Biển Đông của Hải Quân Mỹ và nằm trong khuôn khổ chiến dịch FONOP vẫn được Hải Quân Hoa Kỳ thực hiện nhằm "khẳng định các quyền và quyền tự do lưu thông hàng hải ở quần đảo Trường Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế".
Phát ngôn viên Hạm Đội 7, đóng tại Yokosuka (Nhật Bản), nhắc lại "các hoạt động vì tự do lưu thông ở Biển Đông nằm trong các chiến dịch thường xuyên của lực lượng quân sự Mỹ ở khắp khu vực". Chuyến tuần tra của tầu khu trục Montgomery còn nhằm "phản đối mọi sự hạn chế về việc qua lại vô hại mà Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan áp đặt".
Theo nhận định của Japan Times, chuyến hải trình đầu tiên trong năm 2020 ở Biển Đông được Hải quân Mỹ tiến hành trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa hai cường quốc trên tuyến đường thủy chiến lược và Trung Quốc đang phải chống chọi với nạn dịch virus corona mới.
Hiện Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như dịch viêm phổi cấp Vũ Hán, cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ, khủng hoảng ở Hồng Kông…, nhưng Bắc Kinh sẽ không hoàn toàn từ bỏ việc gây sức ép và gia tăng các hoạt động khiêu khích với các nước đang có tranh chấp ở Biển Đông, theo nhận định của ông Collin Koh, chuyên gia về hải quân, thuộc Chương trình An ninh Hàng hải tại trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, ở Singapore. Nhiều chuyên gia dự đoán Biển Đông có thể sẽ trở thành điểm nóng trong năm 2020.
Thu Hằng
Giới chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế dự báo trong năm 2020, Việt Nam sẽ ngả về Mỹ nhiều nhất trong số các nước Châu Á, đồng thời, đây cũng là năm mà Biển Đông là nơi có nguy cơ cao nhất sẽ xảy ra "sự cố" ở Châu lục.
Ban diễn giả về chính trị-giới lãnh đạo tại hội thảo Dự báo về Châu Á 2020 của CSIS, 22/1/2020
Hai dự báo nêu trên được đưa ra tại hội thảo "Dự báo về Châu Á 2020" do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tổ chức ở thủ đô Washington, Mỹ, hôm 22/1.
Bà Amy Searight, Cố vấn cấp cao kiêm Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc CSIS, điểm lại thực tế trong những năm qua cho thấy Việt Nam liên tục có hướng đi tích cực trong hợp tác và đối thoại với Mỹ, cả về ngoại giao và quốc phòng.
Trên cơ sở đó, Việt Nam "nổi lên là đối tác chiến lược mới" của Mỹ ở Châu Á, dù hai nước có xuất phát điểm thấp do những di sản chiến tranh xảy ra giữa hai nước cách đây nửa thế kỷ, tiến sĩ Searight nói.
Điều đáng chú ý, theo nữ tiến sĩ, người cũng từng là cố vấn cấp cao tại Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ, là năm nay Mỹ và Việt Nam sẽ kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ, một dịp thích hợp để lãnh đạo hàng đầu của 2 nước thăm lẫn nhau, có thể đưa quan hệ 2 nước lên một tầm mức cao hơn "nếu Việt Nam sẵn sàng".
Đối tác chiến lược Mỹ-Việt tùy vào Hà Nội
Một điều trùng hợp là năm nay Việt Nam nắm chức chủ tịch Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và là chủ nhà của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào mùa thu, bà Searight lưu ý.
"Sẽ rất đáng chú ý là liệu Tổng thống Mỹ có đến dự hội nghị hay không. Hội nghị sẽ diễn ra sau bầu cử tổng thống ở Mỹ khoảng 10 ngày đến 2 tuần. Như vậy, có sự chủ ý về thời gian với hy vọng Tổng thống Trump sẽ đến", bà Searight nói.
Năm 2020 cũng là thời điểm bản lề trước Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam nên quốc gia này đang "tích cực làm việc", cân nhắc cách thức "đa dạng hóa" quan hệ đối ngoại, theo nữ tiến sĩ.
Tiến sĩ Amy Searight thuộc CSIS tại hội thảo hôm 22/1/2020 ở Washington, Mỹ
"Vì vậy, nhiều khả năng là Hà Nội quan tâm đến việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, trùng hợp với một chuyến thăm của tổng thống Mỹ đến Việt Nam, hoặc một chuyến thăm của nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam đến Mỹ. Nếu không phải là Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, nhân vật quyền lực nhất, thì có thể là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ thăm Washington năm nay",Cố vấn cấp cao kiêm Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc CSIS nói.
Trả lời câu hỏi đến từ cử tọa về khả năng hai nước sẽ nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược trong năm 2020, nữ chuyên gia CSIS, người từng là Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng chuyên trách Nam và Đông Nam Á, nói quyết định chủ yếu nằm ở phía Việt Nam.
"Tôi nghĩ Mỹ sẽ hoan nghênh ý tưởng nâng cấp quan hệ từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược", tiến sĩ Searight nói, "Hà Nội phải cân nhắc các lựa chọn. Hà Nội rất thận trọng trong việc cân bằng các mối quan hệ với các đối tác, đặc biệt là Trung Quốc. Vì vậy, họ phải cân đong đo đếm phản ứng bực bội của Trung Quốc".
Ngoài ra, bà Searight lưu ý đến một vấn đề "tế nhị" trong quan hệ Mỹ-Việt, đó là sự mất cân bằng trong kim ngạch thương mại song phương.
"Tổng thống Trump đã đưa Việt Nam vào tầm ngắm, do Việt Nam rất thành công khi buôn bán với Mỹ và do ảnh hưởng từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Như vậy, tôi nghĩ, Hà Nội phải cân đối xem có mạo hiểm không khi nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt đúng lúc chính quyền ông Trump có thể đang ‘truy đuổi’ Việt Nam về mặt thương mại", nữ tiến sĩ phát biểu.
Thay vì các diễn giả đọc các tham luận, hội thảo của CSIS diễn ra theo hình thức là ban tổ chức đưa ra một loạt câu hỏi trắc nghiệm về từng chuyên đề gồm chính trị-giới lãnh đạo, an ninh, và kinh tế-thương mại. Cả nhóm diễn giả lẫn cử tọa ngay lập tức bình chọn các phương án trả lời qua thiết bị không dây, sau đó, các diễn giả phát biểu để phân tích hoặc phản biện sâu hơn.
Quan hệ Mỹ-Việt được nêu ra trong phần thảo luận sau khi ban tổ chức đặt câu hỏi "Nước nào sẽ có quan hệ xấu đi với Mỹ trong năm 2020" và đa số người tham gia hội thảo bình chọn "Trung Quốc".
Việt Nam ngả về Mỹ nhiều nhất
Câu hỏi "Nước nào sẽ liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ trong năm 2020" có đáp án được bình chọn cao nhất là "Việt Nam", với 55% số người dự hội thảo. Nước đứng thứ 2 là Úc với 29% và Singapore thứ 3, 10%.
Trong số các nước Châu Á, Việt Nam được dự báo sẻ ngả về Mỹ nhiều nhất trong năm 2020
Nhà nghiên cứu Greg Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á thuộc CSIS, nói đáp án được đa số bình chọn không có gì gây ngạc nhiên nếu xét đến những hành xử của Trung Quốc trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông kéo dài tổng cộng 4 tháng trong năm 2019, và nếu Trung Quốc tiếp tục "đối xử" với Việt Nam như vậy.
Tuy nhiên, ông Poling, tác giả một số cuốn sách về Biển Đông, quan hệ Mỹ-Việt và an ninh Châu Á, nhận định rằng Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ vẫn cố gắng duy trì quan hệ "êm ả" với Trung Quốc khi Việt Nam tiến tới có sự chuyển giao lãnh đạo vào năm 2021, năm có đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Biển Đông không chỉ là tác nhân đưa Việt Nam xích lại với Mỹ hơn nữa mà cũng là nơi dễ xảy ra "sự cố" nhất ở Châu Á trong năm 2020, theo kết quả bình chọn của đa số khi trả lời câu hỏi "Sự cố an ninh lớn nhiều khả năng sẽ xảy ra ở đâu ?"
Biển Đông có nguy cơ lớn nhất
Trung Quốc liên tiếp có những hành động gây bất bình với các nước có tranh chấp ở Biển Đông và "sự cố" có thể xảy ra "ngay ngày mai", chuyên gia Poling nói.
Sau 3 năm xây đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo đó, Trung Quốc nay có khả năng triển khai đều đặn các tàu tuần duyên và hải quân, liên tục tiến hành "quấy nhiễu" hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam và Malaysia, cũng như ngăn cản hoạt động đánh bắt cá của các nước, trong khi bảo vệ các tàu cá Trung Quốc, ông Poling điểm lại tình hình thực tế.
Chuyên gia Greg Poling, CSIS, theo dõi bình chọn của cử tọa về khả năng xảy ra sự cố ở Biển Đông tại hội thảo hôm 22/1
Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á thuộc CSIS cho rằng, tình hình đó có sự tham gia của "hàng trăm" cá nhân và tàu thuyền, đổ thêm dầu vào lửa là tinh thần dân tộc, cho nên bất cứai trong số đó cũng có thể là "tia lửa" làm bùng lên đụng độ.
Cũng liên quan đến Biển Đông, một câu hỏi khác được ban tổ chức đặt ra là trong năm 2020, sự việc gì nhiều khả năng sẽ diễn ra nhất. Đa số người có mặt tại hội thảo của CSIS, chiếm 50%, chọn đáp án là Trung Quốc "ngăn chặn thành công" hoạt động thăm dò dầu khí của các bên tuyên bố chủ quyền khác.
Nhà nghiên cứu Poling đồng ý với quan điểm của đa số cử tọa. Trung Quốc trong hàng chục năm qua luôn phản đối các nước khác thăm dò dầu khí ở Biển Đông, trong những năm gần đây, họ ngăn chặn các nước trong vùng tiến hành hoạt động thăm dò mới, ông nói.
Tuy nhiên, đáng chú ý là trong 18 tháng gần đây, Trung Quốc có sự thay đổi hoàn toàn về cách tiếp cận của họ, đó là đẩy mạnh việc "quấy rối" hoạt động thăm dò tại các lô đã có từ trước, như các dự án của Shell và Rosneft liên doanh với Việt Nam, và cũng có bằng chứng cho thấy Trung Quốc làm điều tương tự với các dự án của Malaysia, theo lời ông Poling.
"Trong năm ngoái, Việt Nam đã đối đầu với Trung Quốc ở vùng biển, đổ nguồn lực và nỗ lực vào để phô diễn sức mạnh. Việt Nam có thể thắng trong một vài lần chạm trán, nhưng không thể thắng trong ‘cuộc chiến’ này, nếu xét đến lực lượng của Trung Quốc. Việt Nam không thể huy động lực lượng để đối phó với Trung Quốc trong mọi lần Trung Quốc ra tay hành động. Trừ khi có sự thay đổi lớn nào đó, sẽ không ai ngoài Trung Quốc có thể khoan thăm dò ở vùng có tranh chấp trên Biển Đông", ông Poling đưa ra nhận định.
Trung Quốc được dự báo sẽ ngăn chặn thành công dự án mới của nước khác thăm dò dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020
Mỹ bị lôi kéo vào "sự cố" ở Biển Đông ?
Trả lời câu hỏi của phóng viên VOA liệu Mỹ sẽ có hành động gì nếu "sự cố" xảy ra ở Biển Đông, chuyên gia Poling cho rằng nếu là đụng độ giữa Trung Quốc với Việt Nam, "Mỹ sẽ lên án ồn ào song sẽ không có gì khác nhiều hơn như vậy".
Nhưng nếu "sự cố" xảy ra giữa Trung Quốc và Philippines, nước đồng minh có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ, Washington sẽ có nhiều động lực hơn để giúp đỡ, "có thể là tăng cường các trang thiết bị trên chiến trường, dẫn đến việc Trung Quốc phải rút lui", ông Poling nói.
Đến nay, Mỹ và Việt Nam đã làm sâu sắc hơn mối quan hệ về quốc phòng với việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương năm 2016, viện trợ cho Việt Nam một số tàu tuần duyên cỡ lớn, và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm Việt Nam lần gần đây nhất là vào tháng 11/2019. Nhưng giữa hai nước mới chỉ có Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng ký hồi năm 2011.
An Tôn
Nguồn : VOA, 23/01/2020
Năm 2020 là một năm mà các nhà ngoại giao của Việt Nam hết sức bận rộn, bởi vì Việt Nam vừa đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của ASEAN vừa làm hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trong 2 năm (nhiệm kỳ 2020-2021), thậm chí trong tháng 1 năm nay còn nắm giữ chức chủ tịch luân phiên của Hội Đồng. Nhưng liệu Việt Nam có thể tận dụng được hai vị thế đặc biệt này để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế và khu vực trên vấn đề Biển Đông ?
Đá Chữ Thập, một trong những đảo nhân tạo Trung Quốc xây ở Trường Sa. Ảnh chụp từ vệ tinh ngày 09/03/2017. Reuters
Đối với nhiều nước ASEAN, đặc biệt là với Việt Nam, thách đố lớn nhất trong năm nay vẫn là sự lớn mạnh của Trung Quốc và việc Bắc Kinh vẫn tiếp tục các nỗ lực nhằm gây áp lực lên các nước yếu hơn. Trên Biển Đông, việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo đang gây nhiều quan ngại sâu sắc không chỉ cho ASEAN, mà cả các nước ngoài khu vực, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 17/01/2020 từ Sydney, nhà báo Lưu Tường Quang trước hết nhận định về khuôn khổ hành động của Việt Nam trong hai cương vị đó, đặc biệt là về vấn đề Biển Đông :
"Việt Nam đã gia nhập ASEAN từ năm 1995 và như vậy là hai lần làm chủ tịch ASEAN, lần thứ nhất là vào năm 2010. Năm đó có những chuyển biến quan trọng trong ASEAN, chẳng hạn như có hội nghị các bộ trưởng Quốc Phòng mở rộng, bao gồm cả Úc, Nhật, Mỹ và có những sáng kiến mới trong thời gian đó. Phải nói đây là một thành công về phương diện ngoại giao của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam.
Sau 10 năm thì Việt Nam luân phiên trở lại giữ chức chủ tịch ASEAN và lần này trùng hợp với chức vụ khác cũng tương đối quan trọng là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nói chung đây cũng là một thành công của ngành ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhưng nói đến ngoại giao thì phải nói đến sự mặc cả với các nước để có được những vị trí này. Riêng trong trường hợp ASEAN thì đây là chức chủ tịch luân phiên, nên không có vấn đề vận động, tranh đấu, còn về chiếc ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thì phải vận động rất nhiều, nhất là khi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ứng viên duy nhất (của khu vực Châu Á). Tôi đặt câu hỏi là Việt Nam đã phải trả giá như thế nào đối với Bắc Kinh để lấy sự ủng hộ ?
Khi nhậm chức thành viên không thường trực, đại diện của Việt Nam đã tuyên bố rõ là sẽ không nêu vấn đề Biển Đông tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đây có thể là một quyết định thực tiễn, bởi vì Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc bị chi phối bởi năm hội viên thường trực có quyền phủ quyết. Giả sử Việt Nam có nêu lên (vấn đề Biển Đông) mà Trung Quốc phủ quyết thì cũng như không. Tuy vậy, tôi cho rằng đây là một thái độ dè dặt quá đáng, vì Việt Nam sẽ không mất gì cả khi nêu lên vấn đề này để Trung Quốc phủ quyết, để cho thế giới thấy lập trường ngang ngược của Bắc Kinh.
Trở lại chức chủ tịch ASEAN 2020, chủ đề mà Việt Nam đưa ra là "gắn kết" và "chủ động thích ứng", rồi họ giải thích qua năm điểm : đoàn kết thống nhất, lợi ích kinh tế, giá trị chung, quan hệ đối tác và năng lực thể chế. Đây là những khái niệm chung, cái quan trọng là đoàn kết và thống nhất, nhưng mà đoàn kết và thống nhất như thế nào ? Chúng ta đặt ra vấn đề này để chúng ta có thể lấy Biển Đông làm ví dụ".
Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng áp lực ở Biển Đông, tranh chấp tại vùng biển này được dự báo sẽ là vấn đề nổi cộm nhất trong nhiệm kỳ chủ tịch luân phiên ASEAN của Việt Nam, theo nhận định của trang mạng ASEAN Today ngày 04/12/2019. Theo ASEAN Today, với việc Hà Nội nay giữ chức chủ tịch ASEAN, tranh chấp với Bắc Kinh về Biển Đông có thể sẽ định hình cho vai trò của Việt Nam trong khu vực cũng như thế giới.
Hà Nội đã đề ra năm ưu tiên trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN 2020 : an ninh khu vực, kết nối khu vực, các giá trị chung của ASEAN, quan hệ đối tác với các nước khác, hiệu quả hoạt động của ASEAN. Theo ASEAN Today, tuy phần lớn chỉ mang tính chất "hô hào", những ưu tiên đó có thể là nền tảng để Việt Nam thúc đẩy ASEAN đạt đồng thuận trên vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Với tư cách chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ đại diện cho các nước Đông Nam Á trong các quan hệ với các nước khác, đặc biệt là với Trung Quốc, và trong hồ sơ Biển Đông, Hà Nội được dự báo là sẽ có thái độ cứng rắn hơn so với các nước khác từng nắm chiếc ghế này nhưng không có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh hoặc ngại đụng chạm Bắc Kinh.
Năm 2020 sẽ là năm mà các nước ASEAN và Trung Quốc theo dự kiến sẽ phải đẩy mạnh đàm phán về bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC để có thể thông qua văn bản này vào năm 2022. Trong chiếc ghế chủ tịch ASEAN, Việt Nam chắc chắc cũng sẽ nhấn mạnh nhiều hơn đến quyền "tự do hàng hải" ở Biển Đông theo hướng có lợi cho mình và điều này cũng sẽ khiến Hoa Kỳ hài lòng.
Nhưng vấn đề là ASEAN vẫn còn bị chia rẽ quá nặng nề trên vấn đề Biển Đông để có thể đạt được sự đồng thuận cần thiết để đạt được một bộ quy tắc ứng xử theo mong muốn của Việt Nam, như nhận định của nhà báo Lưu Tường Quang :
"Thương thuyết về một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông trên Biển Đông COC đã có từ rất lâu, nhưng hai thập niên qua thì vẫn dậm chân tại chỗ, vì Bắc Kinh vẫn không nhượng bộ bất cứ một điểm gì trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông.
Trước đây, Bắc Kinh khăng khăng loại bỏ Hoàng Sa ra khỏi phạm vi áp dụng của COC và nhất quyết giữ lập trường thương thuyết song phương, chứ không phải đa phương, trong khi tranh chấp Biển Đông là vấn đề vừa song phương, vừa đa phương. Nếu Bắc Kinh vẫn không nhượng bộ chút nào về vấn đề Hoàng Sa, cũng như về phương thức giải quyết song phương hay đa phương, thì Việt Nam sẽ làm gì ?
Nếu Việt Nam nói là chúng ta theo đuổi mục đích đoàn kết và thống nhất, do đó nhượng bộ để cho bộ quy tắc COC được đồng ý, và để Brunei, quốc gia chủ tịch kế tiếp, thông qua vào năm 2021, điều này có nghĩa là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bán nước và mang tội với lịch sử. Còn nếu Việt Nam vẫn giữ lập trường đòi Hoàng Sa phải được bao gồm trong bộ quy tắc ứng xử, thì tất nhiên thương thuyết sẽ dậm chân tại chổ.
Cho nên tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, ngay cả trong ưu tiên đầu tiên là "đoàn kết và thống nhất". Trong vấn đề COC, tôi rất hoài nghi là nó sẽ đạt được đồng thuận để có thể được hoàn tất vào năm 2021.
Việt Nam có thể có một vài lợi thế là sau khi Malaysia và Indonesia đã bắt đầu có những sự tranh chấp rõ rệt hơn với Bắc Kinh, thì Malaysia và Indonesia cũng đã có lập trường cứng rắn hơn khi thương thuyết về COC. Nhưng điều này chỉ có lợi một phần nào cho lập trường của Việt Nam, bởi vì ASEAN rất chia rẽ. Philippines đã ngả theo lập trường là phần lớn ủng hộ Trung Quốc. Miến Điện hay Thái Lan thì không có quyền lợi gì ở Biển Đông, do đó có thể ngả theo Bắc Kinh để thủ lợi. Còn tất nhiên Cam Bốt và Lào là hai quốc gia bị ảnh hưởng rất nhiều của Bắc Kinh từ nhiều năm nay. Nội bộ ASEAN chia rẽ như vậy, tôi không lạc quan vào khả năng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc đạt được đoàn kết và thống nhất để có thể giải quyết vấn đề Biển Đông. Vì không có sự đoàn kết, thống nhất đó, thời gian Việt Nam làm chủ tịch ASEAN năm 2020 sẽ phung phí đi".
Cũng giống như vào năm 2012 và 2016, chắc chắn là Cam Bốt sẽ ngăn chặn các tuyên bố của ASEAN về Biển Đông, để bảo vệ liên minh giữa nước này với Trung Quốc. Nhất là vào lúc mà quan hệ quân sự giữa Phnom Penh với Bắc Kinh dường như đang chặt chẽ hơn, theo nhà báo Lưu Tường Quang :
"Cam Bốt không chỉ là tiếng nói của Bắc Kinh trong nội bộ ASEAN, mà chúng ta chưa bao giờ thấy một bản thông cáo chung nào của ASEAN nêu lên vấn đề Biển Đông hoặc chỉ trích Trung Quốc một cách rõ rệt, bởi lý do đơn giản là Cam Bốt bao giờ cũng chống đối. Trong năm 2020 này, Cam Bốt còn có vấn đề khác gây chia rẽ trầm trọng hơn : có những nguồn tin cho rằng Bắc Kinh có những mật ước với Phnom Penh và đã viện trợ rất nhiều cho Hun Sen để có thể sử dụng độc quyền một căn cứ gần Sihanoukville vào mục đích quân sự. Mặc dù chế độ Hun Sen đã cải chính, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng điều này có thể đã xảy ra, vì chính Hoa Kỳ và Úc đã nêu quan ngại.
Nếu Trung Quốc sử dụng căn cứ ở Cam Bốt như là bàn đạp để ảnh hưởng đến vấn đề Biển Đông và ảnh hưởng đến hoạt động trong ASEAN, tôi không nghĩ là Việt Nam có khả năng "gắn kết" và "chủ động thích ứng", để có thể thực hiện mục đã đề ra khi làm chủ tịch ASEAN năm 2020.
Trong bài báo đề ngày 04/12/2019, ASEAN Today nhắc lại là đầu tháng 11 vừa qua, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng nếu có kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng Tài Thường Trực như Philippines đã làm vào năm 2016, thì Bắc Kinh chắc chắn cũng sẽ bác bỏ phán quyết của Tòa.
Do đó, theo ASEAN Today, Hà Nội sẽ cố tận dụng chiếc ghế chủ tịch ASEAN để xây dựng một sự đồng thuận trong khối trước khi tiến hành một hành động pháp lý. Cho dù điều này có thể sẽ không ngăn cản Trung Quốc xâm nhập vùng biển của các nước ASEAN, nhưng ít ra nó sẽ là một thắng lợi ngoại giao đối với Việt Nam.
Nhà báo Lưu Tường Quang cũng cho rằng, dù biết trước là Trung Quốc sẽ bác bỏ phán quyết, Việt Nam cũng nên kiện Bắc Kinh ra trước Tòa Trọng tài Thường trực như Philippines đã làm :
"Tôi không nghĩ là vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 có thể củng cố hay cải thiện khả năng của Việt Nam để đối chọi với thách đố của Trung Quốc. Vào năm 2010, Việt Nam đã từng làm chủ tịch ASEAN và lúc bấy giờ còn là thời của ông Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc chưa bắt đầu xây đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông. Mãi đến tháng 12/2013, khi ông Tập Cận Bình trở thành tổng bí thư, họ mới bắt đầu một tiến trình kéo dài trong 3,4 năm trời để biến 6,7 đá thành 6,7 đảo và sau đó quân sự hóa hoàn toàn các đảo nhân tạo này, trở thành các căn cứ quân sự, có cả chiến đấu cơ, có cả những tàu chiến thăm viếng.
Cho nên, cục diện của Biển Đông đã hoàn toàn đổi khác và sự xác quyết về chủ quyền, về thế đứng của Bắc Kinh trên các diễn đàn quốc tế cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta thấy là Philippines dưới thời tổng thống Aquino đã đưa Trung Quốc ra trước Tòa Trọng tài Thường trực CPA tại La Haye. Tòa Trọng tài này đã có một phán quyết rất rõ rệt, công bố ngày 12/07/2016 theo đó, đường "lưỡi bò" chín đoạn của Bắc Kinh hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và do đó hoàn toàn bất hợp pháp. Phán quyết của CPA là chung quyết và có tính chất cưỡng hành, nhưng Bắc Kinh vẫn một mực từ chối chấp nhận.
Tuy rằng tổng thống Duterte của Philippines đã không dám sử dụng phán quyết của tòa CPA và cũng không bao giờ dám nhắc đến phán quyết này. Ngược lại, tổng thống Indonesia Widodo không những đã nhắc lại phán quyết năm 2016, mà còn sử dụng phán quyết này trong tranh chấp với Bắc Kinh về vấn đề đánh cá, về vùng đặc quyền kinh tế tại quần đảo Natuna. Tổng thống Indonesia đã đích thân đến đảo này và xác quyết chủ quyền, đồng thời gia tăng hoạt động của tàu chiến và phi cơ của Indonesia để bảo vệ chủ quyền.
Trong vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi chưa hề thấy một vị bộ trưởng, một vị thủ tướng hay một vị ủy viên Bộ Chính trị nào đến một đảo của Việt Nam tại Trường Sa để xác quyết chủ quyền cả !
Cũng vì lý do đó tôi không nghĩ là với tư cách chủ tịch ASEAN, Việt Nam có thể làm gì khác hơn là trong quá khứ. Một việc mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể làm và có thể gây ra sự khác biệt, là kiện Trung Quốc ra trước tòa trọng tài quốc tế tương tự như Philippines đã làm. Mặc dù chắc chắc là Trung Quốc sẽ không công nhận phán quyết đó, nhưng phán quyết đó vẫn là một thành phần của luật pháp quốc tế, trong luật về biển, chẳng hạn như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Nếu Việt Nam có can đảm làm việc ấy, thật sự đó là điều mà Việt Nam dù là chủ tịch ASEAN hay sau khi là chủ tịch có thể làm được và vẫn có thể mang lại một kết quả thuận lợi, mặc dù trên thực tế không đủ hoặc không có khả năng thi hành phán quyết như vậy. Tuy nhiên, đứng về phương diện công pháp quốc tế, đó cũng là một thành quả đáng kể và đó cũng là một thành phần của luật pháp quốc tế, được tồn tại sau này".
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 20/01/2020