Cho đến cuối tháng 5/2020, Việt Nam đã thành công trong việc "chống dịch như chống giặc", như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói, với 328 ca lây nhiễm và không có ca nào tử vong, trong khi cả thế giới vẫn đang vận lộn với dịch.
Nhưng có một nguy cơ khác đang lởn vởn ở Biển Đông, là không gian sinh tồn không chỉ với Việt Nam mà còn với nhiều nước khác. Để đối phó với nguy cơ đó, Việt Nam bắt đầu công khai hợp tác với "Bộ Tứ", trên danh nghĩa để đối phó với dịch Covid-19. Nhưng Mỹ, Nhật, Úc, Ấn, đã lập ra "Bộ Tứ" năm 2007 để đối phó với một Trung Quốc trỗi dậy.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc là nguy cơ trước mắt. Tàu HD-8 của Trung Quốc, được nhiều tàu tuần duyên vũ trang hộ tống, đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính từ tháng 7 đến 10/2019, và gần đây đã quay lại. Sau khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tại Biển Đông, tàu Trung Quốc định bắt nạt chính phủ mới của Malaysia.
Trong khi đó, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh đã hoạt động gẫn bãi ngầm Macclesfield cho đến ngày 25/4 khi nhóm tác chiến của Mỹ gồm tàu USS America đã rời đi nên cuộc đối đầu tạm dừng. Biển Đông có thể là chiến trường được Trung Quốc chọn để tập trận nhằm nâng cao kinh nghiệm chiến đấu, như một chuyên gia của RAND đã phân tích.
Để đối phó với nguy cơ tăng lên, Việt Nam đã nâng dần thế cờ, lần đầu tiên nâng khả năng hợp tác quốc phòng với các "nước lớn" như Mỹ, và thậm chí có thể đưa tranh chấp tại Biển Đông ra tòa trọng tài quốc tế. Ngày 25/11/2019, Viêt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng mới, nhấn mạnh chính sách quốc phòng "Ba Không" – Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, và không liên kết với nước này để chống nước kia. Nhưng chính sách đó để ngỏ khả năng tăng cường hợp tác an ninh với các nước khác, đặc biệt là với Mỹ. Nói cách khác, Việt Nam có chiến lược phòng ngừa để răn đe nguy cơ Trung Quốc.
Trong khi các nước khác có tranh chấp ở Biển Đông ngại không muốn công khai ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải, thì Sách trắng Quốc phòng của Việt Nam có đoạn viết : "Việt Nam sẵn sàng đón tàu hải quân, tàu cảnh sát biển, tàu biên phòng của các nước và các tổ chức quốc tế thăm xã giao, thăm thông thường, ghé đậu để sửa chữa, bổ sung vật chất hậu cần, kỹ thuật, hoặc trú tránh thiên tai, thảm họa".
Sách trắng Quốc phòng cho thấy Hà Nội ngày càng khác biệt so với Bắc Kinh về cách ứng xử tại Biển Đông, và về nhận thức của Hà Nội trước nguy cơ chủ yếu, tuyên bố cam kết hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và cách biệt về kinh tế. Sách trắng còn gửi đi tín hiệu của Hà Nội về "lằn ranh đỏ" đối với chủ quyền quốc gia, và sẵn sàng tăng cường quan hệ quốc phòng với các nước lớn và các nước khác trong khu vực. Sách trắng cũng bác đề xuất muốn hạn chế các nước tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông không được tham gia các hoạt động hàng hải chung với các nước ngoài khu vực. Ngược lại, Sách trắng còn gợi ý triển vọng Việt Nam có thể cân nhắc điều chỉnh chính sách quốc phòng "Ba Không" truyền thống bất cứ lúc nào Việt Nam đứng trước sự đe dọa không thể chấp nhận được từ Trung Quốc, "tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể".
Theo các nguồn tin ngoại giao Việt Nam, thảo luận ở Hà Nội về khả năng đưa vấn đề Biển Đông ra tòa quốc tế cấp thiết hơn trước. Tại hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức ngày 6/11/2019, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung đã phát biểu : "Hiến chương Liên Hiệp quốc và Công ước về luật biển của Liên Hiệp quốc (UNCLOS 1982) có đủ cơ chế cho chúng ta áp dụng những biện pháp đó".
Bộ tứ : Một cuộc khảo sát ẩn danh nhận được 276 phản hồi của 10 nước ASEAN (Source: Southeast Asia Perceptions of the Quadrilateral Security Dialogue)
Cơ chế đối thoại An ninh Tứ cường gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn (được gọi là "Bộ Tứ" Kim cương) do Thủ tướng Nhật Shinzo Abe khởi xướng năm 2007, được sự ủng hộ của Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney, Thủ tướng Úc John Howard và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh. Nhưng chính phủ Úc dưới thời Thủ tướng Kevin Rudd, đã rút lui vào năm 2009. Nay nhìn lại, ý tưởng về "Bộ Tứ" đó tuy hay nhưng thời cơ chưa thật chín muồi.
Đến tháng 11/2017, bốn nước đó đã chính thức khôi phục lại ý tưởng về "Bộ Tứ" như một sáng kiến mới tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Đông Á. Washington đã biến sáng kiến đó thành động lực chính cho tầm nhìn "Indo-Pacific Mở và Tự do" (FOIP), và Tổng thống Donald Trump đã có sáng kiến dùng "Bộ Tứ" để thúc đẩy hợp tác an ninh khu vực. Đến nay, các quan chức cao cấp của bốn nước đã họp chính thức năm lần.
Giới ngoại giao cho rằng Hà Nội đã lặng lẽ cân nhắc việc hợp tác với "Bộ Tứ". Để đối phó với tham vọng mới của Trung Quốc, Việt Nam đã thăm dò khả năng hợp tác với nhóm bốn nước cùng với các đối tác khác trong khu vực như New Zealand và Hàn Quốc. Đó là "Bộ Tứ cộng ba", trước mắt để đối phó với dịch Covid-19.
Ngày 27/3, các nước trong "Bộ Tứ" đã họp trực tuyến lần đầu tiên với New Zealand, Hàn Quốc, và Việt Nam ở cấp thứ trưởng, để trao đổi không chỉ về giải pháp cho đại dịch Covid-19 mà còn về cách khôi phục kinh tế sau đại dịch, với dự kiến họp hàng tuần. Tuy Hàn Quốc và Việt Nam đã thành công bước đầu trong việc kiểm soát đại dịch và có thể chia sẻ kinh nghiệm, nhưng các nước "Bộ Tứ" vẫn còn đang phải chống dịch.
Các nước trong "Bộ Tứ cộng ba" đã họp không chỉ về cách chống dịch Covid-19, mà còn về chuyển giao công nghệ và cách khôi phục kinh tế đúng hướng. Tuy Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng với cả bốn nước "Bộ Tứ", nhưng vẫn có xu hướng muốn hạn chế hợp tác theo tầm nhìn chiến lược giữa các nước "Bộ Tứ cộng ba". New Zealand cũng như Ấn Độ đều có quan điểm trung lập giữa Mỹ và Trung Quốc, và không muốn thấy cơ chế đối thoại này được coi là một cách gắn kết với chiến lược ngăn chặn Trung Quốc.
Nhưng trong mấy năm qua, tầm nhìn chiến lược của các nước khu vực đã thay đổi. Việc ngày càng nhiều nước khu vực chấp thuận tầm nhìn Indo-Pacific là một chỉ dấu. Từ 2019, ASEAN đã chấp thuận tầm nhìn Indo-Pacific, và quá trình thể chế hóa từng bước ý tưởng về "Bộ Tứ" chứng tỏ việc mở rộng này là có cơ sở thực tiễn. Trước mắt Trung Quốc chắc không có lý do để chống lại các nước khu vực hợp tác nhằm đối phó với đại dịch Covid-19.
Khó xử: ASEAN phân hóa liệu Bộ Tứ có thể cản bước Trung Quốc bá quyền, đa số phản hồi của Việt Nam và Philippine ủng hộ nhóm bốn nước đối thoại về an ninh (Southeast Asia Perceptions of the Quadrilateral Security Dialogue)
Derek Grossman, một chuyên gia phân tích của RAND, coi Việt Nam là "trường hợp lý thú", có thể đóng góp tuyệt vời cho "Bộ Tứ mở rộng đối phó với Trung Quốc". Ông lập luận rằng mở rộng "Bộ Tứ" cho một nước Đông Nam Á tham gia sẽ làm suy yếu lập trường của Trung Quốc cho rằng "Bộ Tứ" chỉ là một nhóm nước ngoài khu vực định ngăn chặn họ.
Tuy lãnh đạo Việt Nam vẫn ngại theo ý tưởng "Bộ Tứ mở rộng", nhưng cách hành xử cứng rắn của Trung Quốc ở Biển Đông có thể buộc họ phải theo. Như đã thể hiện qua lập trường phòng ngừa trong Sách Trắng Quốc phòng, Hà Nội chắc sẽ tham gia "Bộ Tứ mở rộng" từng bước có mức độ, để tránh làm cho nước láng giềng khổng lồ phản ứng.
Theo một khảo sát của Lê Thu Hường, là chuyên gia phân tích của ASPI, đa số các ý kiến phản hồi của ASEAN coi ý tưởng về "Bộ Tứ" sẽ bổ sung cho cơ chế an ninh của ASEAN. Tuy có một số ý kiến tỏ ra lo ngại về tác động tiêu cực đến sự trung lập của ASEAN, nhưng có 57% ý kiến phản hồi của ASEAN ủng hộ "Bộ Tứ" có vai trò hữu ích cho an ninh khu vực. Kết quả khảo sát chứng tỏ những ý kiến ủng hộ "Bộ Tứ" mạnh nhất là của người Việt Nam và Philippines, vì họ muốn duy trì an ninh và ổn định ở khu vực.
Trong khi 54% ý kiến phản hồi của ASEAN cho rằng ý tưởng mở rộng "Bộ Tứ" tùy thuộc vào thái độ hung hăng của Trung Quốc, thì 69% phản hồi hy vọng "Bộ Tứ" có thể đóng góp để đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ. Kết quả khảo sát ngược với cách hiểu của nhiều người cho rằng điều đó gây tranh cãi và khiêu khích. Vì vậy, "Bộ Tứ" đang dần mở rộng.
Hoặc là Hà Nội có thể dựa vào các nước ASEAN như Indonesia, Malaysia và Philippines, để ủng hộ và hợp tác tại Biển Đông. Trung Quốc đã bắt nạt và cưỡng ép các nước này, bác bỏ các yêu cầu của họ về lãnh hải ở Biển Đông. Bốn nước này có thể tập trận hay tuần tra ở Biển Đông, như Philippines đã từng đưa ra đề xuất không chính thức về "tuần tra đoàn kết". Các nước Đông Nam Á mong muốn đoàn kết để chống dịch Covid-19 có thể dẫn đến các hình thức hợp tác mới, đem lại lợi ích để đối phó với các phiêu lưu quân sự mới của Trung Quốc.
Nguyễn Quang Dy
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 02/06/2020
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản bởi Yale Global : "Vietnam May Turn Threats into Opportunity", 02/06/2020
Nhà nước độc Đảng chống ‘giặc’ Covid-19 : Câu chuyện thành công ít được chú ý của Việt Nam
VOA, 02/06/2020
Dù Việt Nam đang tiếp tục gây ngạc nhiên khi không ghi nhận ca nhiễm nào trong cộng đồng hơn 40 ngày qua kể từ khi mở cửa lại nền kinh tế trong khi các quốc gia khác tiếp tục vận lộn để khống chế dịch, thì câu chuyện thành công của quốc gia do Đảng cộng sản lãnh đạo, với hơn 96 triệu dân mà không có trường hợp tử vong nào, lại không mấy được thế giới chú ý.
Một phụ nữ phục vụ bia hơi ở một nhà hàng ở Hà Nội sau khi chính phủ Việt Nam dỡ bỏ cách ly toàn xã hội trong thời gian bùng phát dịch virus corona hôm 29/4. Nhà nước do Đảng cộng sản nắm quyền được ca ngợi thành công trong chống 'giặc' Covid-19 nhưng ít được thế giới biết tới.
Theo đánh giá của CNN, thế giới khi nhìn vào khu vực Châu Á để tìm kiếm những ví dụ điển hình trong việc đối phó hiệu quả với sự bùng phát virus corona mới thì sự ca ngợi được tập trung vào các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan và Hong Kong.
Với hơn 1.400 km đường biên giới với Trung Quốc và có hàng triệu khách du lịch từ quốc gia láng giềng phương Bắc tới thăm hàng năm, Việt Nam đã từng được coi là một ‘ổ dịch’ tiềm năng lớn nhất bên ngoài Trung Quốc sau khi Covid-19 bùng phát ở Vũ Hán. Sau 4 tháng kể từ khi bùng phát dịch, Việt Nam chỉ ghi nhận 328 ca nhiễm Covid-19.
Nhưng quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp này lại làm cộng đồng quốc tế ngạc nhiên vì sự hiệu quả trong việc ngăn chặn dịch bệnh, đã làm hơn 370.000 người chết trên toàn thế giới, chỉ với một hệ thống chăm sóc y tế không mấy tiên tiến như các quốc gia khác trong khu vực. Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam chỉ có 8 bác sĩ cho mỗi 1.000 người dân, chỉ bằng 1/3 so với tỷ lệ này ở Hàn Quốc.
Vậy tại sao Việt Nam, với những nguồn lực hạn chế và một ngân sách eo hẹp lại có thể khống chế đại dịch thành công đến như vậy ?
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc hôm 19/5 nói rằng Chính phủ Hà Nội "nhận thức được sự nguy hiểm của dịch Covid-19 từ rất sớm" và huy động được mọi nguồn lực trong nước để tham gia cuộc chiến với phương châm "chống dịch như chống giặc".
Việt Nam đã sớm đóng cửa đường biên giới với Trung Quốc và thực hiện cách ly tập trung phần lớn trong các doanh trại quân đội từ đầu tháng 2 khi Tổ chức Y tế Thế giới chưa coi đây là đại dịch toàn cầu. Theo các chuyên gia, sự ứng phó sớm của Việt Nam một phần do sự "bất tín" của Hà Nội vào những gì Bắc Kinh đưa ra về virus corona. Mối quan hệ bất ổn trong nhiều năm giữa Việt Nam và Trung Quốc khiến Hà Nội "hiểu Trung Quốc rõ hơn bất cứ quốc gia nào" và có sự ứng phó nhanh chóng với sự bùng phát dịch.
Biện pháp ‘mạnh tay’
Ngoài ra, các nhà quan sát cho rằng thành công của Việt Nam có được là nhờ những biện pháp ‘mạnh tay’, bao gồm cả truy dấu người tiếp xúc với trường hợp nhiễm bệnh, của một chế độ độc đoán. Bill Hayton, nhà nghiên cứu của Chatham House, viết trên Foreign Policy rằng mô hình thành công của Việt Nam khó mà có thể áp dụng được ở các nước khác vì có rất ít các quốc gia có những cơ chế kiểm soát như của Việt Nam, như khả năng huy động các lực lượng dân quân tự vệ phong tỏa toàn khu vực một cách nhanh chóng, tương tự như việc khống chế sự biểu đạt của các tiếng nói bất đồng chính kiến.
Tuy nhiên, theo viện nghiên cứu Brookings của Mỹ, việc ‘ghi điểm’ chủ yếu cho những biện pháp cứng rắn hiệu quả nhờ sự độc đoán của chính quyền Hà Nội làm lu mờ những nỗ lực của quốc gia Đông Nam Á này trong nhiều năm qua nhằm chuyên nghiệp hóa nhà nước hành chính.
Các dữ liệu về Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI) của Việt Nam được Brookings trích dẫn cho thấy các tỉnh thành của Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc chăm sóc y tế, sự tiếp cận thông tin và kiểm soát tham nhũng.
Sự tiếp cận về bảo hiểm y tế đã tăng nhanh chóng trong thời gian qua với 90% người dân Việt Nam hiện nay đang có bảo hiểm, theo dữ liệu mà Brookings, viện nghiên cứu và phân tích độc lập các vấn đề chính sách thế giới có trụ sở ở Washington DC, trích dẫn từ PAPI.
Ngoài việc người dân Việt Nam đang được tiếp cận nhiều hơn với các tài liệu của chính phủ – như bản đồ, ngân sách, hồ sơ pháp luật – các nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ, còn được biết là chiến dịch "đốt lò" do Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát động, phát huy hiệu quả và nhận được sự ủng hộ của người dân, theo nhận định của Brookings. Chiến dịch này được thể hiện ngay trong sự ứng phó của chính phủ đối với đại dịch Covid-19 khi người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật của Hà Nội gần đây bị kết tội do câu kết để nâng khống giá trị gói thầu mua sắm hệ thống xét nghiệm Covid-19 lên gấp 3 lần.
Minh bạch hóa
Các nỗ lực minh bạch hóa cũng đã làm giảm thiểu những hoài nghi đối với việc thông tin về Covid-19 của nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo, theo Brookings. Bộ Y tế, kể từ khi có nguy cơ bùng phát dịch, đã luôn đăng tải tất cả các trường hợp nhiễm bệnh trên mạng. Trong khi đó, theo nhà báo Trần Lệ Thùy cho biết từ Hà Nội, Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã sử dụng kênh thông tin xã hội "rất mạnh" để đưa tin về virus corona khiến cho trang Facebook của Chính phủ vượt báo điện tử số 1 Việt Nam VnExpress về tỷ lệ tương tác.
Theo Brookings, mạng lưới các nhà hoạt động trên mạng, dù còn chỉ trích Chính phủ về những vi phạm quyền riêng tư và thiếu tự do ngôn luận, nhưng không gióng lên hồi chuông cảnh báo nào về những trường hợp tử vong hay che đậy trên diện rộng.
Đã có những nghi ngờ về tỷ lệ nhiễm bệnh thấp của Việt Nam nhưng các chuyên gia của Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh tật Hoa Kỳ – hiện đang giúp Việt Nam trong việc xét nghiệm, phân tích dữ liệu và truy dấu tiếp xúc – nói họ "không thấy bất cứ một biểu hiện nào cho thấy những số liệu đó là sai".
Tóm lại, viện nghiên cứu Mỹ cho rằng năng lực nhà nước được tăng cường trong những tháng vừa qua của Việt Nam là đỉnh điểm của một nỗ lực có chủ ý và bền vững. Mặc dù còn quá sớm và khó có thể đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về quan hệ nhân quả, nhưng theo Brookings, Việt Nam có xu hướng đi lên trong tiếp cận chăm sóc sức khoẻ, minh bạch và quản trị địa phương. "Câu chuyện thành công của Việt Nam vượt qua hẳn sự phân biệt đơn giản về loại thể chế (độc đoán và dân chủ)" và "xứng đáng được chú ý hơn nữa để trở thành một phần của bức tranh toàn cầu về nhà nước hành chính trong thời kỳ khủng hoảng".
*******************
EVFTA giúp hồi phục kinh tế Việt Nam hậu Covid-19
Phạm Chi Lan, RFI, 01/06/2020
Quốc Hội Việt Nam sắp chính thức phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam – Liên Hiệp Châu Âu EVFTA, một hiệp định được xem là sẽ góp phần giúp hồi phục nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hậu Covid-19.
Một xưởng may của công ty Maxport tại Hà Nội, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 19/05/2019. Reuters - Nguyen Huy Kham
Với dân số hơn 500 triệu người, với GDP khoảng 15.000 tỷ đôla, chiếm 22% GDP toàn cầu, Liên Hiệp Châu Âu (EU) là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ). Một khi EVFTA có hiệu lực, hơn 99% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn.
Trong báo cáo được công bố ngày 19/05, Ngân hàng Thế giới ước tính chỉ riêng việc tận dụng các ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ hiệp định EVFTA sẽ có thể giúp GDP của Việt Nam tăng 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030, đồng thời thêm 100.000 - 800.000 người thoát nghèo vào năm 2030.
Nhưng hiệp định EVFTA đã được phê chuẩn trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới và đặc biệt Châu Âu vẫn là khu vực có số ca nhiễm cao nhất thế giới. Dịch bệnh dĩ nhiên sẽ gây khó khăn trong ngắn hạn cho việc thực thi hiệp định EVFTA, nhưng sẽ tạo cơ hội lâu dài cho trao đổi thương mại giữa hai bên, nhờ xu hướng của các nước Âu Mỹ dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các nước khác, trong đó có Việt Nam, như nhận định chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội ngày 21/05 vừa qua :
Phạm Chi Lan : Dịch bệnh chắc chắn là có tác động, bởi vì nhu cầu tiêu dùng giảm trên một loạt các sản phẩm, rồi nguồn cung cũng bị đứt gẫy, khả năng tài chính về đầu tư của các doanh nghiệp bị hạn chế đi. Tuy nhiên, tôi nghĩ là hiện tượng này sẽ chỉ kéo dài trong một thời gian nhất định, chứ không lâu dài, bởi vì, về cơ bản, Liên Hiệp Châu Âu vẫn là một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Cho nên, (hai bên) sẽ dần dần qua được thách thức lần này và điều chỉnh lại.
Khi đã điều chỉnh lại được tốt, thì tôi tin là sức bật mới sẽ còn lớn hơn, ví dụ như khi bớt được sự lệ thuộc vào Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu điều chỉnh lại một phần chuỗi cung ứng của mình, chuyển một phần sang các nước như Việt Nam, thì có thể là chuỗi cung ứng mới sẽ bền vững hơn, tạo được giá trị tốt hơn, tạo được những liên kết vững chắc, tin cậy lẫn nhau hơn, giữa các thành viên mới trong chuỗi cung ứng đó, từ đó làm cơ sở để bật lên tốt hơn. Cho nên, thách thức là rất lớn, nhưng chúng tôi cũng nhìn thấy ở đấy một tương lai tốt hơn.
Châu Âu cũng sẽ dần dần ổn định thôi. Vả lại Việt Nam hiện nay xuất khẩu sang Châu Âu chủ yếu là những mặt hàng giá rẻ, mang tính chất gia công. Trên cơ sở đó, nói thật là thu nhập của Việt Nam không có bao nhiêu, giá trị gia tăng qua các xuất khẩu đó không nhiều. Nên chăng là cùng nhau tìm kiếm những cơ hội mới, trong đó lượng xuất khẩu không nhiều, chẳng hạn như giày dép, hàng may mặc ít đi, nhưng sẽ có những mặt hàng khác có giá trị gia tăng cao hơn, thì về lâu dài sẽ tốt hơn cho Việt Nam.
RFI : Như vậy, theo bà thì EVFTA sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy Việt Nam nâng cao chất lượng hàng hóa để tiến tới một mức phát triển cao hơn ?
Phạm Chi Lan : Đúng vậy, đây là một sức ép, một thách thức, chẳng hạn như về xuất xứ hàng hóa, Liên Âu quy định rằng hàng xuất khẩu chỉ được hưởng những lợi ích về thuế khi bảo đảm được giá trị nội địa, giá trị cộng gộp nội khối là bao nhiêu, là 30 hay 40%. Đó là sức ép, là thách thức, nhưng đồng thời là cơ hội, là động lực để thay đổi. Nếu như (hàng xuất khẩu) có giá trị nội địa hay cộng gộp nội khối, thì lợi ích thật sự mới rơi vào tay doanh nghiệp Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Liên Hiệp Châu Âu, chứ nếu không thì những bên cung cấp phụ trợ như Trung Quốc sẽ được hưởng lợi nhiều hơn chính những doanh nghiệp đã phải chịu sức ép về mở cửa thị trường.
Cơ hội thoát Trung
RFI : Như vậy, theo bà thì dịch Covid-19 tuy có gây khó khăn ban đầu, nhưng về lâu dài cũng là cơ hội tốt, bởi vì hiện nay thế giới đều thấy rằng các nước phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, cho nên phải điều chỉnh lại hướng sản xuất và điều này là sẽ có lợi cho những nước như Việt Nam ?
Phạm Chi Lan : Tôi nhấn mạnh lại là không chỉ có lợi cho những nước như Việt Nam, mà có lợi cho chính các nước Liên Hiệp Châu Âu, hoặc Hoa Kỳ hay Nhật Bản, khi họ điều chỉnh lại, bởi vì sự lệ thuộc quá nhiều vào một nước nào đều không tốt. Bài học này thì rất cay đắng đối với Việt Nam rồi, kể cả các sản phẩm tiêu dùng trong nội địa. Nhiều khi hàng rẻ của Trung Quốc làm cho các doanh nghiệp Việt Nam không còn cơ hội phát triển được nữa.
Đối với Liên Hiệp Châu Âu cũng tương tự như vậy. Hiện nay, các nước trong khối này cũng cần cấu trúc lại kinh tế của mình, cần tạo công ăn việc làm mới cho người dân. Ai cũng thấy rõ là một xã hội không thể chỉ có những người giàu, không thể chỉ có những doanh nghiệp thật lớn, mà rất cần những doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người tạo công ăn việc làm cho xã hội. Bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc đi thì sẽ tăng thêm cơ hội cho người bản xứ. Như sự cay đắng ở Ý chẳng hạn, khi để cho ngành may mặc rơi vào tay Trung Quốc quá nhiều, thì những thương hiệu của Ý bán với giá Ý, nhưng tất cả những lợi ích đều rơi vào tay người Trung Quốc.
Tôi tin là hiệp định này sẽ mang lại những cơ hội mới cho cả Việt Nam lẫn Liên Hiệp Châu Âu để cùng nhau nâng sự phát triển lên một thời kỳ mới. Điều này chắc chắn mang lại lợi ích rất lớn cho Việt Nam, khi Việt Nam đang rất muốn chuyển giai đoạn phát triển của mình, thoát ra khỏi tình trạng gia công như lâu nay, kể cả đối với đầu tư nước ngoài chủ yếu cũng là gia công, dựa trên lao động giá rẻ, công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp.
Việt Nam đang rất muốn vượt lên trong chuỗi giá trị, sử dụng lao động có chất lượng cao hơn, kỹ năng cao hơn, mang lại giá trị cao hơn cho nền kinh tế. Mặt khác, Việt Nam cũng đang rất muốn thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc, bởi vì ngoài những nhân tố như các nước khác, bị đứt gãy về chuỗi cung ứng, Việt Nam còn đang bị những thách thức rất lớn về an ninh quốc phòng, với những hành động gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong tình hình đó, Việt Nam muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc càng nhanh càng tốt. Nhưng muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, thì rất cần những đối tác lớn mạnh của Việt Nam như Liên Hiệp Châu Âu, hoặc Hoa Kỳ, hoặc Nhật Bản tham gia nhiều hơn nữa.
Việt Nam cần nâng cao năng lực thực thi EVFTA
Trong báo cáo được công bố ngày 19/05, Ngân hàng Thế giới cũng nhận định là những lợi ích từ hiệp định EVFTA là "cần thiết để duy trì thành quả kinh tế tích cực trong lúc quốc gia ứng phó với đại dịch Covid-19". Nhưng định chế tài chính quốc tế này nhấn mạnh rằng Việt Nam "cần hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực thực thi để gặt hái đầy đủ lợi ích của hiệp định EVFTA".
Cụ thể, theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cần nâng cao năng lực thực thi ba vấn đề chính : các quy tắc xuất xứ, các biện pháp vệ sinh dịch tễ cho cây trồng và vật nuôi và cơ chế xử lý tranh chấp giữa nhà nước - nhà đầu tư. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho rằng lợi ích từ việc tham gia những hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ còn lớn hơn nữa nếu Việt Nam thực hiện nghị trình cải cách kinh tế và thể chế toàn diện.
Theo lời ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, "nếu hành động kiên quyết nhằm thu hẹp khoảng cách về năng lực triển khai và tính tương thích pháp lý, Việt Nam có thể tận dụng tối đa hiệp định thương mại này, với những lợi ích trực tiếp ước tính ở mức lớn chưa từng có trong lịch sử". Ông Ousmane Dione cũng cho rằng, "với Covid-19 là nút khởi động lại và EVFTA là nút tăng tốc, đây là thời điểm hoàn hảo để theo đuổi những cải cách trong nước sâu rộng hơn".
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho rằng yêu cầu về quy tắc xuất xứ là một trong những thách thức chính mà Việt Nam phải vượt qua. Ngay cả khi sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, các nhà nhập khẩu của Liên Hiệp Châu Âu chưa chắc đã công nhận nguồn gốc đó, vì sản phẩm của Việt Nam nói chung còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Báo cáo chỉ ra rằng trong các ngành chế tạo chế biến xuất khẩu chủ chốt, phần lớn đầu vào vẫn nhập khẩu từ các quốc gia khác (chẳng hạn 62% trong lĩnh vực điện tử và 53% trong lĩnh vực xe hơi).
Đồng thời, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm chặt chẽ của Châu Âu đòi hỏi Việt Nam phải cải thiện các biện pháp vệ sinh dịch tễ một cách minh bạch và nhất quán hơn.
Ngoài ra, theo Ngân hàng Thế giới, với việc EVFTA được phê chuẩn, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng lên, số lượng đơn thư khiếu nại thương mại cũng sẽ tăng theo. Định chế tài chính quốc tế này khuyến nghị Việt Nam nên đẩy nhanh việc hình thành Cơ chế Xử lý Khiếu nại Đầu tư Một cách Hệ thống để xử lý tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư. Cuối cùng, báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng khuyến nghị là, để tối đa hóa lợi ích của EVFTA, các chính sách hỗ trợ khôi phục kinh tế sau Covid-19 cần ưu tiên các ngành hàng chủ chốt chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Âu.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 01/06/2020
**********************
Sau ánh chớp… là nỗi niềm nuối tiếc
Chiến Thành, RFA, 31/05/2020
Thủ tướng đã nói thật, rất ít tập đoàn công nghệ cao đến Việt Nam. Tuy nhiên, ông Phúc lại không dám tiết lộ nguyên nhân vì sao. Vâng, với vị thế chung chiêng hiện nay lại cộng thêm một hệ thống chính trị mà chính Thủ tướng đã từng gào lên : Phải đổi mới thể chế, thể chế và thể chế, Việt Nam chưa thể là một bến đỗ lý tưởng !
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự họp trực tuyến Thượng đỉnh ASEAN ở Hà Nội hôm 14/4/2020 - AFP
Một hiện tượng hy hữu : Tuần qua, hầu như tất cả các báo giấy, báo mạng, kể cả lề phải và trái đều copy lại nguyên văn bài viết "Sau ánh chớp không phải niềm nuối tiếc" từ một cây bút có tên là Lê Châu, đăng lần đầu tiên hôm 26/5/2020 trên baochinhphu.vn. Quả là một bài báo lạ. Đọc qua, không thấy gì khác biệt so với thể loại "cúng cụ" xưa nay. Bài viết ca ngợi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dũng cảm gióng lên hồi chuông cảnh báo : Rất ít tập đoàn công nghệ cao đến Việt Nam sau đại dịch !
Như cách diễn ngôn đầy bóng gió trong văn hóa Anglo-Saxons : I told you so ! Cái độc đáo của bài báo chính là ở chỗ đó. Thủ tướng như muốn nói : Tôi đã bảo trước rồi mà ! Tuy nhiên, nội dung bên trong thì chống lại cách "giật tít" của nó. Với những lời lẽ gan ruột như nhà báo Lê Châu đã mở lòng, tít của bài báo chỉ có thể là : "Sau ánh chớp chỉ còn lại mỗi niềm nuối tiếc". Nhưng nếu để đầu đề ấy, bài báo sẽ không bao giờ được đăng. Họa sĩ – Nhà báo đã ẩn dưới cái tông tích cực để phác họa lên những gam tối trong bức tranh : "Thủ tướng buồn rầu, chúng ta muốn thu hút họ đến đầu tư, nhưng thực sự lại không làm gì cả, chỉ ngồi chờ sung rụng".
Nhưng thưa Thủ tướng, vấn đề không phải là ở cái phát hiện công khai ấy. Đáng tiếc là cả nhà báo tinh khôn lẫn Thủ tướng Phúc chẳng nói được điều gì mới, khi đưa ra thông điệp : Sau mùa chống dịch được cho là thành công, Việt Nam đang trên đường "về morte". Vấn đề ở đây là Thủ tướng không dám "bật mí" xem các nguyên nhân nào đang làm cho những "niềm hồ hởi sảng" của Việt Nam trong mùa chống Covid-19 đã không trở thành hiện thực.
Phải chăng nguyên nhân hàng đầu mà Thủ tướng cũng như các lãnh đạo Hà Nội không bao giờ dám nói ra, đó chính là tình trạng bất an và bất định trong các mối bang giao Hoa – Việt. Xã hội Việt Nam đang lo lắng khá ồn ào về xu hướng đất nước có thể bị "xóa sổ trong thầm lặng" khi Tàu cộng ngày càng công khai dã tâm quyết thống trị kinh tế và chính trị ở Việt Nam. Như các chuyên gia đã chỉ rõ, hiểm họa cho sự diệt vong này trước hết là do tinh thần nô lệ tự nguyện của Đảng cộng sản VN, mà mật ước Thành Đô năm 1990 là một cái bẫy tự tạo. Trung cộng chưa bao giờ công nhận Việt Nam là đối tác bình đẳng, mà chỉ tung ra các khẩu hiệu viển vông khoa trương về tình huynh đệ, trong khi hải quân Trung Quốc "múa gậy vườn hoang" trên Biển Đông mấy năm nay.
Lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ Việt – Trung từ khi bình thường hóa đến nay, Bộ Quốc phòng đã buộc ban bố công khai trong một báo cáo gửi Quốc hội mới đây cho biết, Trung Quốc đang sử dụng hơn 162.000 héc-ta đất biên giới, ven biển thông qua các hình thức doanh nghiệp liên doanh và đầu tư tiền cho người Việt gốc Hoa mua đất. Theo báo cáo này, thời hạn thuê của người Trung Quốc thường từ 5 – 50 năm, lĩnh vực hoạt động chủ yếu tại khu vực biên giới đất liền và ven biển là kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch, nuôi trồng thủy sản, giày da, sản xuất bao bì, đồ chơi trẻ em, linh kiện điện tử.
Những tỉnh thành có tình trạng người Trung Quốc tập trung sở hữu đất đai thời gian qua là Đà Nẵng 22 trường hợp, Quảng Ninh 17 trường hợp, Hải Phòng 16 trường hợp, Bình Định 9 trường hợp, Hà Tĩnh và Bình Thuận mỗi tỉnh có 5 trường hợp. Như chuyên gia quốc tế đã chỉ rõ, Covid-19 thực sự cho thấy một sự quyết tâm mới của Trung Quốc trong việc dùng tin giả và chính sách ngoại giao "chiến binh sói" để buộc tội các quốc gia khác. Trung Quốc đã rất nỗ lực truyền bá các thông tin giả như ai tạo ra viruscorona, ai là người khởi xướng, thậm chí tới mức họ còn tung tin rằng, chính phủ Pháp bỏ mặc người dân chết trong nhà thương.
Qua đó, chúng ta thấy các thủ đoạn vừa tinh vi vừa công khai của Trung Quốc trong những nỗ lực can thiệp vào công việc nội bộ chính trị Việt Nam, có thể qua truyền thông, qua Facebook, Twitter… Nếu Việt Nam mất cảnh giác, không dự đoán trước được những gì Trung Quốc có thể làm, để đối phó và xây dựng ngay các rào chắn ở bất cứ lĩnh vực nào có thể để duy trì hệ thống chính trị đủ sức bền, chịu được sự va đập và không bị tổn thương từ các hoạt động nội gián của Trung Quốc.
Trong khi nỗi lo về Trung Quốc như thanh gươm Damocles treo trên đầu Bộ Chính trị và Ban Bí thư Đảng cộng sản VN thì đến lượt chính sách "một bước tiến hai bươc lùi" trong nền ngoại giao đu dây cũng đang gây đau đầu cho giới hoạch định chính sách ở cả Whashington lẫn Hà Nội. Hà Nội như "gà mắc tóc" thì đã đành. Vì trước sau, Việt Nam chỉ là con tốt trên bàn cờ mọi thời đại và khi bị khủng hoảng, bất kể do đường lối hay đại dịch gây ra, Việt Nam rơi ngay vào trạng thái mà thủ tướng Phúc mô tả là bị "con virus trì trệ" làm cho tê liệt.
Mà không chỉ có Việt Nam. Lần này, Mỹ dường như cũng bị rơi vào trạng huống khó xử. Đại sứ Mỹ ở Việt Nam từng nói với người viết bài này : "Đã đến lúc Việt Nam phải tiến thêm một bước nữa. Mỹ đã nâng cấp, sẽ mạnh mẽ và quyết đoán hơn trên Biển Đông, hiển nhiên trước hết là vì các lợi ích của Mỹ, nhưng để bảo vệ tốt các lợi ích ấy, Mỹ cũng hỗ trợ các quyền lợi của các đồng minh và các đối tác mới nổi hàng đầu trong ASEAN như Việt Nam và Indonesia". Mặc dầu cá nhân Tổng thống Trump cũng như chính quyền Mỹ vừa qua đã chủ động gửi nhiều tín hiệu tích cực để động viên Việt Nam "phải tiến thêm một bước nữa", đặc biệt lời mời Việt Nam tham gia vào "Bộ Tứ mở rộng" (Quad Plus). Nhưng những kẻ "chọc gậy bánh xe" đã hành động mau lẹ hơn bằng đợt đàn áp mới đối với tự do báo chí và các quyền cơ bản của con người ở Việt Nam.
Hôm 27/5/2020, Cơ quan Truyền thông Toàn cầu của Mỹ (USAGM) đã ra tuyên bố lên án việc chính quyền Việt Nam bắt giữ blogger Nguyễn Tường Thụy vào hôm 23/5 vừa qua và gọi đây là hành động nhằm bịt miệng những tiếng nói chỉ trích chính phủ. Blogger Nguyễn Tường Thụy bị công an bắt giữ tại nhà riêng ở Hà Nội hôm 23/5 vừa qua với cáo buộc "làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước" theo điều 117 Bộ luật hình sự". Thông cáo báo chí của Tổng Giám đốc USAGM xác định Nguyễn Tường Thụy là người cộng tác thứ 4 với USAGM hiện đang bị Việt Nam giam giữ.
Trong số 4 cộng tác viên nói trên, có 3 cộng tác viên của ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA) là Nguyễn Văn Hóa, blogger Nguyễn Tường Thụy và blogger Trương Duy Nhất. Người còn lại là blogger Lê Anh Hùng của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA). Theo thông cáo báo chí của USAGM, "việc đàn áp rộng khắp tự do phát biểu ở Việt Nam là một tấn công trắng trợn vào quyền con người của công dân Việt Nam và tự do báo chí. Vào lúc này, vào giữa đại dịch Covid-19, các luồng thông tin tự do lại càng quan trọng hơn bao giờ hết". Tổng Giám đốc USAGM kêu gọi chính quyền Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức cho các blogger và nhà báo cộng tác với USAGM.
Trên đây chỉ điểm qua hai hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản VN ngay trước thềm Đại hội 13 để thấy thế lưỡng nan của Việt Nam trong quan hệ với hai quốc gia có vị thế không nhỏ đối với tương lai của Hà Nội. Còn về nội trị, hẳn nhiên "nghẽn thể chế" là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến tình trạng tụt hậu về mọi mặt hiện nay của đất nước. Căn nguyên của "nghẽn thể chế" chính là do xuất phát từ ý thức hệ giáo điều đã không thích nghi với thay đổi kinh tế – xã hội theo các định hướng thị trường.
Những cản trở nói trên đã được đề cập và bàn luận suốt cả năm chuẩn bị cho đại hội đảng này và những thách thức do tình trạng "đầu Ngô mình Sở" (kinh tế thị trường nhưng chính trị lại độc tài) chỉ có thể được giải toả bởi tư duy và chính sách đột phá. Không giải quyết dứt điểm vấn đề thể chế thì một loạt các nhân tố gây nhiễu khác như các sới vật hiện nay giữa quân đội và công an, giữa tòa án và viện kiểm sát… sẽ không có cách nào giải quyết. Với các cuộc hỗn chiến khi tay phải "choảng" tay trái, chân phải "đạp" chân trái, Thủ tướng Phúc không nên đặt câu hỏi : Tại sao lại rất ít tập đoàn công nghệ cao đến Việt Nam sau đại dịch ?
Đã bao lần, tại nhiều cuộc họp, Thủ tướng Phúc từng kỳ vọng, Việt Nam là điểm đến an toàn. Việt Nam sẽ có cơ hội, có nhiều lợi thế đón làn sóng đầu tư hậu Covid-19. Thủ tướng ý thức rất rõ, để đón đầu làn sóng này và thu hút các "đại bàng" đến làm tổ, cần có các giải pháp thích hợp. Tuy nhiên, Thủ tưởng quên mất một chân lý thời đại. Người ta không thể cất bước khi một chân thì thị trường còn chân kia là toàn trị. Sau tuyên bố rất nổ ấy, quả thực có 27 doanh nghiệp Mỹ rời khỏi Trung Quốc, nhưng than ôi, chẳng có đại bàng nào đến Việt Nam. Đám đại bàng kia đã kéo nhau bay sang Indonesia, bỏ lại những chiếc tổ mà Thủ tướng khẳng định đã lót sẵn… trong vô vọng.
Chiến Thành
Nguồn : RFA, 31/05/2020
Mời quý vị tham khảo thêm tại :
- Sau ánh chớp không phải niềm nuối tiếc - Baochinhphu.vn
- Những kiểu tuyên bố "trời ơi đất hỡi" của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
- Điểm sách : Trật tự Thế giới của Henry Kissinger
- Biển Đông : Tham vọng Trung Quốc và chiến lược Việt, Mỹ thời Covid-19
- Việt Nam và lo ngại người Trung Quốc "thâu tóm đất nơi trọng yếu"
**********************
Kể cả thời khắc khó khăn nhất, cảm nhận của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về "cơ đồ đất nước chưa bao giờ có được như ngày nay" vẫn luôn đúng. Như trong đại dịch Covid-19, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thấy Tổ quốc đón thời cơ mới.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng sau ánh chớp thời cơ rực sáng, có thể chỉ còn lại niềm nuối tiếc nếu như cả bộ máy không gắng sức bằng tất cả tâm huyết, nhất là vào lúc này, bắt đầu nhuốm màu "hoàng hôn" nhiệm kỳ.
Thủ tướng Chính phủ nói, "chúng ta thắng con virus vô hình tên là Covid-19, không có lý do gì để thua con virus hữu hình tên là trì trệ".
Cuối tuần trước, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu có một Tổ công tác đặc biệt đón làn sóng FDI vào Việt Nam. Đây đã là lần thứ hai ông đưa ra yêu cầu như vậy. Năm ngoái, Thủ tướng cũng đã yêu cầu có Tổ công tác đặc biệt.
Lúc đó, cả nền kinh tế háo hức chờ đón dòng FDI có chất lượng, đặc biệt là dự án của các tập đoàn công nghệ cao đến từ EU và các nền kinh tế lớn khác ồ ạt chảy vào Việt Nam khi xảy ra thương chiến Mỹ - Trung.
Trong các cuộc họp thường kỳ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhắc nhở các Bộ, ngành tập trung triển khai nhiệm vụ này. Ông nhấn mạnh, "phải nóng lòng, phải biết sốt ruột để đề ra những giải pháp, cách làm sáng tạo tận dụng cơ hội phát triển đất nước".
Nhưng chưa có điều "đặc biệt"nào đến. Thời gian thấm thoát trôi, làn sóng này không xuất hiện như kỳ vọng. "Các tập đoàn công nghệ cao đến Việt Nam hay các nước xung quanh ? Rất ít tập đoàn vào Việt Nam", Thủ tướng buồn rầu, "chúng ta muốn thu hút họ đến đầu tư, nhưng lại không muốn thực sự làm gì, chỉ ngồi chờ sung rụng".
Nửa đầu năm 2020, Việt Nam nổi bật trên toàn cầu về thành công trong chống đại dịch Covid-19. Cơ hội đón đầu dòng vốn đầu tư ngoại lại xuất hiện và còn rộn ràng hơn gấp bội.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tự tin, hiện nay uy tín và vị thế của Việt Nam đang được đánh giá rất cao. Đây là cơ hội để thế giới biết tới Việt Nam với lợi thế đặc biệt là sự tin cậy chiến lược, điểm đến đầu tư an toàn.
Thủ tướng yêu cầu lần này không thể để cơ hội vuột mất. Dù trải qua không ít lần thất vọng khi những chỉ đạo của mình chưa được cấp dưới thực thi tốt, Người đứng đầu Chính phủ vẫn luôn có niềm tin mỗi thành viên trong bộ máy Chính phủ đều rất gắng sức ; bởi nếu không gắng sức, làm sao vượt qua được những khó khăn, thách thức.
Còn nhớ những ngày làm việc sau cùng của Quốc hội khóa 13, tháng 3 năm 2016, cả Nghị trường như "nín thở" khi đi tìm câu trả lời cho Chính phủ về nguồn lực ở đâu cho tăng trưởng. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gióng lên một hồi chuông cảnh báo về thực trạng khánh kiệt với nhận xét, "tình hình ngân sách rất xấu. Nhiệm kỳ 2016 - 2020 hầu như không còn đồng nào cho phát triển".
Minh họa cho nhận định này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu nêu, cân đối ngân sách nhà nước đã phải sử dụng hết các tiềm lực tài chính công ; huy động nguồn trái phiếu Chính phủ ở mức cao, phải sử dụng bội chi để bù đắp chi thường xuyên, ảnh hưởng đến việc thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội không chỉ cho năm 2016 mà còn không bố trí đủ vốn đầu tư để phục vụ tăng trưởng cho các năm tiếp theo.
Không ít đại biểu Quốc hội lo lắng cho tương lai nền kinh tế những năm tới, oằn lưng trầy trật trả nợ, mơ gì cất cánh. Các tổ chức quốc tế cũng không biết Việt Nam sẽ lấy nguồn lực ở đâu để tăng trưởng.
Tại Diễn đàn đối tác phát triển Việt Nam diễn ra cuối năm 2015, Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa, đã hỏi Thủ tướng Việt Nam về điều này.
Tháng 4 năm 2016, Chính phủ có Thủ tướng mới, đi cùng với đó là sự thay đổi vị trí của 22/27 thành viên Chính phủ. Chính phủ mới lại gặp ngay phải sự cố ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển 4 tỉnh miền Trung. Cùng với đó, hạn hán miền Tây cũng trở nên khốc liệt chưa từng có trong vòng 100 năm qua ; thiên tai bão lụt thì chen chân đến…
Trong bối cảnh như vậy, một câu trả lời giản dị về nguồn lực ở đâu cho tăng trưởng được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra là, bộ máy Chính phủ phải trong sạch và làm việc không ngừng nghỉ, bởi "có sức người sỏi đá cũng thành cơm".
Với các bước đi rất cụ thể, sâu sát, không đao to búa lớn, Chính phủ mới bắt tay thực hiện công cuộc thúc đẩy phát triển kinh tế theo cách "tích tiểu thành đại", "góp gió thành bão", tạo chuyển biến từ việc nhỏ để làm nên sức bật đổi mới mạnh mẽ.
Thủ tướng Chính phủ ra thông điệp, "Chính phủ kiên quyết chống bệnh hình thức, phô trương, nói không đi đôi với làm ; không để tình trạng trì trệ trong bộ máy hành chính. Toàn tâm toàn ý vì đất nước, vì nhân dân".
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong các cuộc tiếp xúc cử tri năm 2016 đều nhắn nhủ người dân, "hãy có niềm tin, vì Chính phủ đã quyết tâm xây dựng Chính phủ hành động, liêm chính, vì dân".
Tình hình "rất xấu" của ngân sách nhà nước bắt đầu được cải thiện. Sau 10 năm liên tục "xé rào", năm 2017, Chính phủ cầm cương được bội chi theo đúng mục tiêu đề ra.
Năm 2018, lần đầu tiên sau 13 năm, chênh lệch thu chi ngân sách nhà nước trong năm này dương 400 tỷ đồng. Sang năm 2019, tháng nào ngân sách nhà nước cũng có thặng dư, thu nhiều hơn chi lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, mở ra thời kỳ bội thu cho ngân sách nhà nước.
Vừa dư dả một chút thì đại dịch ập đến. Mấy năm tần tảo nâng niu từng đồng "năng nhặt chặt bị", siết chặt kỷ cương "túi tiền" quốc gia và soi cắt triệt để từng khoản chi không cần thiết, nhưng Chính phủ không tiếc bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng để hỗ trợ cho người dân.
Và nhân gian thường có câu, "xởi lởi trời cho". Một Chính phủ "hào phóng" đối đãi với dân bằng đủ đầy yêu thương, trách nhiệm luôn là một Chính phủ được Trời cho cơ hội phát triển. Trong quãng thời gian ngặt nghèo vừa đi qua, năm nào cũng có những điều may mắn đến.
Chẳng hạn, năm 2018, những kết quả toàn diện đạt được của nền kinh tế năm này có sự góp mặt quan trọng của yếu tố may mắn là thiên tai ít khắc nghiệt hơn. Ước thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2018 là khoảng 20 nghìn tỷ đồng, trong khi con số này của năm 2017 gấp 3 năm 2018.
Năm 2019 sự may mắn tăng lên gấp đôi khi thiệt hại do thiên tai giảm ở mức kỷ lục, chỉ bằng 1/3 của năm 2018, cùng với đó, tháng 2/2019, Việt Nam bất ngờ được lựa chọn là địa điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2.
Sức hấp dẫn của Việt Nam nhân lên gấp nhiều lần khi hình ảnh Tổng thống của cường quốc số 1 thế giới tươi cười nắm chặt tay những người lãnh đạo cao nhất của Việt Nam xuất hiện trên hàng loạt các hãng truyền thông thế giới. Ông Donald Trump còn không tiếc lời ngợi ca "sự phát triển rất ấn tượng của Việt Nam". Theo đó, toàn cầu vang lên hai tiếng Việt Nam với tần suất dầy đặc.
Năm 2020 bắt đầu với đại dịch, thế giới lại biết đến Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất, có được chiến thắng sớm nhất, tổn thất ít nhất trước dịch bệnh.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, sau ánh chớp không phải niềm nuối tiếc khi từng người trong cả bộ máy chính trị, dù ở vị trí nào, thời điểm nào cũng một lòng dốc sức cho vận nước đi lên.
Làm việc quần quật ở lĩnh vực gai góc nhất trong Chính phủ là cắt giảm thủ tục hành chính ; dịch vụ công, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng "tiết lộ" lý do khiến bản thân luôn thôi thúc.
Đó là, "đừng để đến lúc nghỉ hưu trở về quê, láng giềng gặp chỉ hỏi ông làm được mấy nhiệm kỳ mà tránh hỏi ông đã làm được gì cho đất nước vì ái ngại ông sẽ không biết trả lời sao".
Lê Châu
Nguồn : Chinhphu.vn, 26/05/2020
Virus corona thúc đẩy cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Trung
"Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Hoa" của Tập Cận Bình không còn ai mơ đến, thế nên nhà độc tài bèn thúc đẩy tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Trong khi phương Tây đang choáng váng trước hậu quả nặng nề của đại dịch, Bắc Kinh cho thấy đã sẵn sàng vi phạm các hiệp ước quốc tế, như thỏa thuận với Luân Đôn về Hồng Kông. Virus corona cũng đã đẩy nhanh cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Bắc Kinh và Washington.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bấm nút thông qua luật an ninh quốc gia về Hồng Kông trong kỳ họp Quốc hội ở Bắc Kinh ngày 28/05/2020. © Reuters/Carlos Garcia Rawlins
Xã luận của Le Point mang tựa "Sự biến tướng độc tài của Trung Quốc" đặt vấn đề, hôm nay là Hồng Kông, ngày mai sẽ đến lượt Đài Loan bị tấn công bởi bàn tay sắt của Tập Cận Bình – người quyết liệt đẩy mạnh kiểu chủ nghĩa xã hội hủy hoại tự do.
Siết tự do Hồng Kông, Bắc Kinh không ngại vi phạm thỏa thuận quốc tế
Lợi dụng đại dịch virus corona đang thu hút toàn bộ sự chú ý của thế giới, Trung Quốc kết thúc quyền tự trị của Hồng Kông. Đảng cộng sản Trung Quốc muốn dập tắt tiếng nói của hàng trăm ngàn người dân đặc khu đấu tranh cho dân chủ trước khi nạn dịch xảy ra, và nay vừa bắt đầu tiếp tục phản kháng. Theo tác giả Luc de Barochez, thông điệp sát hại dân chủ của Tập Cận Bình đã vượt khỏi Hồng Kông, liên hệ trực tiếp đến Châu Âu, cho thấy Trung Quốc đã lợi dụng phương Tây như thế nào.
Năm 1997, khi Anh quốc trao trả Hồng Kông, Bắc Kinh đã cam kết dành quyền tự quyết cao độ cho đặc khu trong nửa thế kỷ, cho đến năm 2047. Thế nhưng phương Tây đã tỉnh mộng. Trong tám năm cầm quyền, Tập Cận Bình siết chặt kiểm soát người dân Hoa lục với một loạt công nghệ mà những người tiền nhiệm không có được như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu khổng lồ, giám sát video, công nghệ nhận diện, kiểm soát toàn bộ các mạng xã hội.
Sau Hồng Kông, Đài Loan đang trong tầm ngắm, nhất là khi đã chứng tỏ được một nền dân chủ có thể kiểm soát nạn dịch hiệu quả hơn độc tài. Đối với Tập Cận Bình, đây là một thách thức không thể chấp nhận được. Lần đầu tiên mục tiêu thống nhất "hòa bình" với Đài Loan không còn được nêu ra trong báo cáo thường niên của Quốc hội Trung Quốc vừa rồi. Chưa phải là đe dọa chiến tranh, nhưng không còn là bảo đảm hòa bình.
Nhân đại dịch, Tập Cận Bình đẩy mạnh mô hình toàn trị
Những gì đang diễn ra ở phương Đông là một hình ảnh mới của cuộc xung đột giữa cộng sản độc tài và dân chủ tự do, vốn đã đánh dấu thế kỷ 20. Ngay từ 2013, ông Tập đã dự báo "sự biến mất của chủ nghĩa tư bản và chiến thắng tối hậu của chủ nghĩa xã hội". Dưới cái vỏ "Con đường tơ lụa mới", ông ta xây dựng một thế giới mới với trung tâm không còn là Âu-Mỹ mà là Trung Quốc.
Đối với Tập Cận Bình, Trung Quốc toàn trị dưới sự thống trị của đảng cộng sản là mô hình mà thế giới phải noi theo. Nhà độc tài đỏ lợi dụng đại dịch corona để thúc đẩy những con cờ của mình, áp dụng nguyên tắc của Winston Churchill "không nên phí hoài một cuộc khủng hoảng".
Chủ tịch Trung Quốc biết rằng thảm họa kinh tế do con virus từ Vũ Hán gây ra có nguy cơ gây hỗn loạn xã hội tại Hoa lục, việc tăng 6,6% ngân sách quốc phòng bất chấp phúc lợi xã hội bị cắt giảm, và quyết định làm chủ tịch suốt đời của ông ta gây bất mãn ngay trong giới cầm quyền Trung Quốc.
"Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Hoa" của ông Tập không còn ai mơ đến, thế nên nhà độc tài bèn thúc đẩy tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Trong khi phương Tây đang choáng váng trước hậu quả nặng nề của đại dịch, Bắc Kinh cho thấy đã sẵn sàng vi phạm các hiệp ước quốc tế, như thỏa thuận với Luân Đôn về Hồng Kông. Các đối tác của Trung Quốc cần rút ra kinh nghiệm.
Virus corona làm tăng tốc chiến tranh lạnh Mỹ-Trung
L’Expresslý giải "Virus corona đã đẩy nhanh cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Bắc Kinh và Washington như thế nào".
Trong khi virus corona đã làm cho 100.000 người chết tại Mỹ, tổng thống Donald Trump nhấn mạnh đến "sự bất tài của Trung Quốc", nước phải chịu trách nhiệm về "vụ thảm sát hàng loạt ở tầm mức thế giới". Bắc Kinh tố cáo ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã "nói dối" khi khẳng định con virus độc hại đã thoát ra từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán.
Mới đây Washington đe dọa "sẽ phản ứng rất mạnh" nếu Trung Quốc áp đặt luật "an ninh quốc gia" lên Hồng Kông. Ông Pompeo còn chúc mừng bà Thái Anh Văn tiếp tục là người đứng đầu một "nền dân chủ sinh động", "nguồn cảm hứng cho khu vực và thế giới" khiến Bắc Kinh điên lên vì tức giận. Tại Biển Đông, các chiến hạm Mỹ thách thức Trung Quốc.
Về kinh tế, thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung giai đoạn 1 coi như bị chìm xuồng. Mới đây Washington còn cấm tất cả các nhà sản xuất chip điện tử trên thế giới có làm việc với Mỹ cung ứng sản phẩm cho Hoa Vi, một dạng bóp nghẹt kinh tế đối với tập đoàn này. Bắc Kinh trả đũa bằng cách lần đầu tiên từ tháng 3/2018 đã hạ giá đồng nhân tệ 15% so với đô la, dấu hiệu tiên khởi cho một cuộc chiến tranh tiền tệ.
Cộng hòa và Dân chủ Mỹ cùng đối nghịch Trung Quốc
Trong khi đó L’Obs trong bài xã luận "Cuộc chiến tranh lạnh mới và chúng ta", tỏ ra băn khoăn về vai trò của Châu Âu. Sự xuống cấp nhanh chóng trong quan hệ giữa hai siêu cường thế kỷ 21 đặt ra nhiều vấn đề, mà trước hết là câu hỏi, có thể gọi tên cuộc khủng hoảng này là gì ?
Điểm khác biệt lớn với cuộc chiến tranh lạnh Hoa Kỳ- Liên Xô trước đây là tầm vóc quy mô các trao đổi của đôi bên, trong khi thập niên 50 hầu như không có hoạt động thương mại giữa hai khối. Tác giả Pierre Haski cho rằng sẽ sai lầm nếu chỉ phân tích ở góc độ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11 tới.
Đã hẳn chống Trung Quốc là một trong những chủ trương chính trong chiến dịch tranh cử của ông Donald Trump, một phần để làm quên đi cuộc khủng hoảng virus corona. Nhưng ở Mỹ, tâm lý thù địch Trung Quốc hiện nay là sâu sắc, được cả hai đảng chia sẻ và sẽ không biến mất một khi cuộc bầu cử kết thúc. Chỉ cần đọc văn bản 14 trang được công bố vào giữa tháng Ba, mang tựa đề "Cách tiếp cận chiến lược của Hoa Kỳ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", gọi Trung Quốc là kẻ "cạnh tranh hệ thống"- chủ trương này hẳn là được phe Dân chủ ủng hộ.
Châu Âu khó thể đứng về bên nào trong chiến tranh lạnh Mỹ-Trung
Vấn đề thứ hai mà cuộc khủng hoảng đặt ra là đối với thế giới, là phải đứng về bên nào ?. "Hãy chọn phe đi đồng chí !" - như khuyến cáo trước đây. Các nước Châu Âu, Châu Phi và phần còn lại của Châu Á phải có thái độ ra sao trước sự phân cực này ?
Trung Quốc của Tập Cận Bình đã đặt ra thách thức. Cho đến nay, thế giới vẫn chấp nhận chế độ này, hy vọng rằng độc tài sẽ giảm dần cùng với sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên Trung Quốc lại đi theo chiều hướng ngược lại, càng hùng mạnh thì lại càng độc đoán, và đại dịch virus corona càng làm xu hướng này tăng lên. Đang ở thế thủ, Đảng cộng sản Trung Quốc chọn thái độ hung hăng. Trong nước, Bắc Kinh thúc đẩy dân tộc chủ nghĩa, còn với thế giới thì khiêu khích, trả đũa mỗi lần bị chỉ trích.
Đối với Châu Âu, hầu như khó thể dung hòa giữa chủ trương cũng dân tộc chủ nghĩa của ông Donald Trump, và sự cần thiết buộc một Trung Quốc đang thô bạo hơn phải tôn trọng mình. Đặc biệt Châu Âu đang thua thiệt ở một trong những lãnh vực cạnh tranh là công nghệ. Trong khi đó hai siêu cường lại buộc Châu Âu phải chọn phe, trước hết là việc sử dụng 5G của Hoa Vi (Huawei).
Vào mùa xuân 2019, Ủy Ban Châu Âu đã nhận định Trung Quốc vừa là đối tác vừa là đối thủ chiến lược. Bắc Kinh là đối tác quan trọng trong Hiệp định khí hậu Paris mà tổng thống Mỹ đã rút ra, và còn là nước cùng ký kết hiệp ước nguyên tử với Iran… Nhưng ngoài việc lên án sự mập mờ của Trung Quốc về nguyên nhân đại dịch do con virus xuất xứ từ Vũ Hán cũng như Bắc Kinh đàn áp Hồng Kông, Tân Cương… Châu Âu có thể làm được gì khác ? Tác giả không tin rằng Châu Âu có thể hành động mạnh mẽ hơn.
Chiếc mặt nạ độc tài của Bắc Kinh đã rơi rụng từ lâu
Trong một bài viết khác, L’Obs nhấn mạnh "Trung Quốc đã đánh rơi chiếc mặt nạ". Tập Cận Bình có những quyết định thô bạo, trước hết về chính trị. Quy chế "Một đất nước, hai chế độ" của Hồng Kông bị hủy hoại với việc áp đặt các biện pháp kiểm duyệt, kiểm soát và đàn áp cư dân đặc khu, gây áp lực ngày càng lớn đối với Đài Loan.
Trên lãnh vực kinh tế, lần đầu tiên chính quyền không đề ra mục tiêu tăng trưởng, cuộc khủng hoảng virus corona được dùng làm một cái cớ. Sự chọn lựa này bộc lộ sự hoang mang của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước viễn tượng kinh tế. Trung Quốc đang đối mặt với cuộc khủng hoảng trạng huống đồng thời với khủng hoảng cơ cấu, liên quan đến lão hóa dân số và kinh tế thế giới trì trệ.
Còn về "chiếc mặt nạ y tế" thì đã bị rơi rụng từ rất lâu. Người ta biết rằng Trung Quốc đã dối trá ngay từ đầu nạn dịch, giấu diếm những thông tin về việc lây từ người sang người – lẽ ra đã tránh được mấy chục ngàn cái chết. Bây giờ không phải là lúc để khuyến dụ như Trung Quốc đã làm trong nhiều thập niên qua : Bắc Kinh đã để lộ hẳn bộ mặt một chế độ độc tài.
Donald Trump : Tái đắc cử bằng mọi giá
Quay lại với nước Mỹ, tuần báo L’Obs được cho là thiên tả, dành 12 trang báo cho tổng thống Donald Trump trong cuộc chạy đua để giữ lại chiếc ghế ở Nhà Trắng. Tờ báo phân tích từ chiến lược của Trump và bộ tham mưu cho đến những ủng hộ viên sẵn sàng chiến đấu cho ông, bên cạnh đó là bài phỏng vấn giáo sư Allan Katz, một cựu đại sứ của Obama.
Joe Biden đã "già nua lẩm cẩm, kẻ quấy rối tình dục, ủng hộ Trung Quốc", một tấm ảnh chế cho thấy "Biden Bắc Kinh" đang được đút ăn bằng muỗng trong viện dưỡng lão… Chiến dịch tranh cử của ông Donald Trump chỉ mới khởi đầu, đã báo hiệu rất ác liệt.
Một cuộc thăm dò tuần rồi cho biết Biden đang vượt Trump 8 điểm, và theo một thăm dò khác thì hơn đến 11 điểm, do kinh tế lao dốc và quản lý khủng hoảng tệ hại. Tuy nhiên với Donald Trump, tất cả đều có thể. Trang PredictIt vẫn dự đoán ông Trump sẽ thắng (50-46), và ngay cả nhiều cử tri đã bầu cho Dân Chủ vẫn nghĩ rằng Donald Trump sẽ lại đắc cử vào tháng 11 tới. Khó thể nói trước điều gì khi nước Mỹ đang chia rẽ đến nỗi, nói theo ông Katz, có những người vẫn sẵn sàng bầu cho Trump kể cả khi ông bắn hạ ai đó trên đại lộ số 5, còn người khác nhất quyết không bầu dù Trump có miễn phí cho tất cả bệnh nhân ung thư.
Trump, Merkel, Raoult : Trang nhất các tuần báo
Trang bìa của các tuần báo Pháp kỳ này dành cho ba nhân vật khác nhau.
L’Obsđăng ảnh tổng thống Mỹ với tựa đề "Ông Trump muốn thắng cử ra sao", với nhận xét tổng thống Mỹ không từ bất cứ điều gì để giành được nhiệm kỳ thứ nhì, và chiến dịch tranh cử sẽ rất quyết liệt.
Le Point đăng ảnh nữ thủ tướng Đức Angela Merkel với tựa lớn "Bà sếp" và tựa nhỏ phía dưới "Bà Merkel có thể cứu vãn Châu Âu như thế nào".
L’Expressdành trang bìa và hồ sơ chính cho giáo sư Didier Raoult, với phương pháp trị liệu Covid-19 bằng chloroquine gây tranh cãi.
Riêng Courrier International chạy tựa "Sức khỏe và khí hậu, cùng một cuộc chiến". Ở trang trong, các báo bàn luận rất nhiều về Trung Quốc và cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Trung.
Thiếu văn minh với loài vật, Trung Quốc khó bước lên hàng đại cường
Courrier International tuần này dành bốn trang báo cho vấn đề tiêu thụ thịt thú rừng tại Trung Quốc. Thường vụ Quốc hội nước này hôm 24/02 đã công bố lệnh ngưng buôn bán thú hoang bất hợp pháp, "để diệt trừ thói quen xấu là ăn thịt rừng và bảo đảm an toàn dịch tễ".
Tê tê, món ăn mà người Trung Quốc cho là bổ dưỡng, được buôn lậu từ Miến Điện. © Wikipedia/Dan Bennett
Như vậy những động vật nào có thể bị ăn thịt ? Một danh sách năm 2014 kê ra 159 loài sống trên cạn thuộc 7 hạng, trong đó phổ biến là heo, bò, cừu, gà vịt… có cả nai, nhưng không có bồ câu và chim cút ! Danh sách này cần phải điều chỉnh lại vì gồm cả những động vật hiếm phải bảo vệ. Còn đối với động vật sống dưới nước, đa số vật nuôi đều được phép ăn thịt kể cả cá sấu và cá tầm.
Trong khi những người nuôi thú hoang để giết thịt bán đấu tranh cho một "danh sách trắng", thì giới bảo vệ động vật tung ra chiến dịch vì một "danh sách đen" những loài vật không nên ăn thịt, còn Liên minh Trung Quốc bảo vệ các loài thú họ Mèo (CFCA) lập ra "danh sách đỏ". Trong danh sách đỏ này có cả những loại thường được tiêu thụ trong các nhà hàng như cá chuột mũi dài để ăn lẩu, hãi mã để nấu súp…
"Văn hóa hạ cấp"
"Virus corona chủng mới xuất hiện ở Vũ Hán là sản phẩm từ nền văn hóa hạ cấp của Trung Quốc, bắt và ăn thịt thú rừng, đối xử vô nhân đạo và tiếp tục xơi thịt chúng để thỏa mãn ý thích của mình, thói quen xấu xí này của người Trung Quốc là nguồn virus". Giáo sư Viên Quốc Dũng (Yuen Kwok Yung) và trợ lý David Lung của ông hôm 18/03 đã viết như thế trên nhật báo lớn của Hồng Kông là Minh Báo. Bài viết bị rút xuống trong cùng ngày !
Vị giáo sư sinh học là người đầu tiên hồi năm 2003 đã nhận ra một loại virus corona là nguyên nhân gây ra dịch SARS, và ông đã đích thân đi thực tế ở Vũ Hán hôm 17/01. Các tác giả bài viết than phiền lệnh cấm ăn thịt thú hoang thực tế không hề được tôn trọng.
Nghịch lý thay, dịch SARS năm 2003 đã làm bùng nổ việc buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã tại Trung Quốc. Tạp chí Tài Kinh dẫn một báo cáo chính thức năm 2016 cho biết, tổng cộng ngành này thu dụng 14 triệu nhân công, với doanh số lên đến 520 tỉ nhân dân tệ (66,9 tỉ euro). Một người ở Nam Ninh cho biết hiện còn 7.000 con rắn nước và rắn hổ mang trị giá trên 1 triệu nhân dân tệ, nhưng không thể bán được.
Dân tộc văn minh phải tử tế với thiên nhiên
Courrier International dịch một bài trên Liên Hợp Báo (Lienhepao) của Đài Loan, kêu gọi "Bắc Kinh phải làm thay đổi cách nghĩ". Người dân Hoa lục cho rằng ăn thịt rừng làm tăng cường sức lực, "tráng dương bổ thận", đồng thời chứng tỏ "đẳng cấp". Tuy nhiên xã hội hiện đại đã có biến chuyển sâu sắc trong việc bảo vệ thiên nhiên, có các quy định chặt chẽ về thực phẩm.
Đại dịch virus corona đã tác hại nặng nề đến hình ảnh Trung Quốc, dân Hoa lục bị thế giới coi là những kẻ kỳ dị, xơi cả loài dơi và công. Cuộc khủng hoảng Covid-19 "đã làm rúng động toàn hành tinh vì người Vũ Hán ăn thịt rừng", dân Hoa lục nhận được một bài học đích đáng với việc phong tỏa thành phố. Với 1 tỉ con heo, bò và 13 tỉ con gà vịt giết thịt hàng năm, tờ báo cho rằng dân Hoa lục không hề thiếu nguồn protein để phải ăn thịt thú hoang.
Trong 20 năm qua, Trung Quốc đã bước lên hàng cường quốc về kinh tế, quân sự và khoa học, nhưng về văn hóa lại ở mức thấp về mặt tôn trọng môi trường và sinh vật (chẳng hạn ăn vi cá mập, tay gấu). Nếu không lấp được khoảng cách này, thì tư cách đại cường khó mà đạt được. Gandhi đã nói : "Người ta nhận ra mức độ văn minh của một dân tộc thông qua cung cách mà họ đối xử với loài vật".
Trong một bài viết khác trên tờ báo đối lập Apple Daily, ông Đái Diệu Đình (Benny Tai), giáo sư luật và là khuôn mặt điển hình của phong trào dân chủ Hồng Kông cho rằng "văn hóa hạ cấp của Trung Quốc" không chỉ giới hạn ở Covid-19. "Có một loại virus chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc độc tài đang lan truyền trên thế giới. Nếu không nhanh chóng ngăn chận, một thảm họa khác có thể gây hại cho hành tinh chúng ta". Ông Đái Diệu Đình nhấn mạnh, virus độc tài có nhiều đặc tính, như "đặt ổn định xã hội lên trên tất cả" và "trốn tránh trách nhiệm".
Thụy My
Liên hiệp quốc cảnh báo nạn đói ở Châu Mỹ Latin giữa dịch Covid-19 (VOA, 29/05/2020)
Chương trình Lương thực Thế giới của Liên hiệp quốc (WFP) cảnh báo có ít nhất 14 triệu người có thể bị đói tại Châu Mỹ Latin, trong khi virus corona tiếp tục leo thang giữa lúc việc làm và kinh tế giảm sút dưới gánh nặng của đại dịch.
Xe chở thực phẩm cứu trợ của Chương trình Lương thực Thế giới Liên hiệp quốc (WFP) tại Duma, Damascus, Syria, ngày 29/3/2014.
Giám đốc khu vực Châu Mỹ Latin của WFP Miguel Barreto gọi Covid-19 là "Đại dịch đói". Ông nói các mạng lưới bảo vệ xã hội hiện rất cần thiết đối với những người thông thường không cần đến.
Nhiều chính phủ trên khắp Châu Mỹ Latin trợ cấp thực phẩm cho những nhóm người dễ bị ảnh hưởng nhất.
Trong khi kêu nài chính phủ làm nhiều hơn nữa, nhiều người tại những cộng đồng nghèo đang tổ chức các bếp ăn, chia sẻ những gì họ có để nỗ lực và tự túc.
Tổ chức Y tế liên Châu Mỹ nói tình trạng đói kém là một quan ngại lớn vào lúc Châu Mỹ Latin trở thành tâm điểm của đại dịch Covid-19.
Brazil dẫn đầu trong khu vực với hơn 400.000 ca nhiễm được xác nhận. Các nước Châu Mỹ Latin khác đang chật vật chế ngự virus bao gồm Mexico, Peru và Chilê.
*******************
Người dân Brazil sợ ‘chết đói hơn dịch bệnh’ (VOA, 29/05/2020
Nhu cầu đi làm kiếm tiền của dân chúng cộng với thái độ coi thường dịch bệnh của Tổng thống Brazil khiến nhiều người dân nước này phớt lờ lệnh ở nhà dù virus corona đang lan tràn dữ dội, một Việt kiều đang sống ở Sao Paulo nói với VOA.
Phu đào mộ đang chôn cất các nạn nhân Covid-19 ở nghĩa trang Vila Formosa ở ngoại ô Sao Paulo
Chỉ trong một thời gian ngắn, Brazil đã tăng tốc trở thành vùng dịch Covid-19 lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ, tính về số lượng người nhiễm bệnh, với hơn 420.000 ca nhiễm tính đến ngày 28/5.
Số lượng người chết ở quốc gia Nam Mỹ này cũng tăng vọt và hiện đã vượt qua 26.000 người, là ổ dịch chết chóc thứ 6 thế giới. Gần đây, có ngày Brazil ghi nhận hơn một ngàn người chết và có lúc số tử vong trong ngày của Brazil cao hơn Mỹ vốn là nước có số người chết vì Covid-19 cao nhất hiện nay.
‘Bắt đầu thấy sợ’
VOA đã liên lạc với anh Võ Thiện Tài, 40 tuổi, hiện là chủ nhà hàng Việt Nam Miss Saigon ở Sao Paulo, thành phố lớn nhất Brazil, để tìm hiểu về tình hình chống dịch ở nước này. Anh Tài sinh ra và lớn lên ở Brazil sau khi cha mẹ anh vượt biên khỏi Việt Nam vào năm 1979 và được tàu của Brazil cứu đưa về định cư ở nước này cho tới nay.
Anh Tài cho biết với tình hình dịch đang diễn biến theo chiều hướng xấu ở Brazil thì ‘trong tuần này người dân đã bắt đầu sợ hơn’. "Người dân đã bắt đầu đeo khẩu trang rất nhiều, lúc trước chỉ có 5 trên 10 người xài, bây giờ thì khoảng 8 người xài", anh nói.
"Trước đây, Chính phủ có đưa lệnh ra nếu mà không xài khẩu trang thì phải về nhà hay bị phạt nhưng mà người dân vẫn không sợ họ vẫn tiếp tục ra ngoài đường không xài khẩu trang", anh Tài nói với VOA.
Theo lời chủ nhà hàng này thì đến giờ ‘chưa thấy có ai bị phạt vì không đeo khẩu trang’ mà ‘chỉ có cảnh sát thấy đám đông tụ tập thì đến giải tán thôi’.
Tuy nhiên, thị trường khẩu trang ở Brazil trong vòng một tháng rưỡi qua ‘rất khan hiếm’, anh Tài cho biết, và nhiều người phải lấy vải tự may khẩu trang cho mình và bán cho những người xung quanh.
Về tình hình giãn cách xã hội ở Brazil theo lệnh của chính quyền các bang, anh nói ‘người dân Brazil vẫn ra đường bình thường, chỉ có vắng hơn chút xíu thôi’.
"Hôm bữa chính phủ dồn mấy ngày nghỉ lễ tháng sau lên cho dân nghỉ trước nhưng mà dân họ đa phần đâu có ở nhà đâu", anh cho biết. "Có nhiều người chạy xuống biển, đi về quê, hoặc là đi du lịch ở chỗ này chỗ kia trong nước".
Anh dẫn ra số liệu thống kế trên báo chí Brazil cho biết ‘chỉ có 54% người dân Brazil chịu ở trong nhà trong kỳ nghỉ lễ trong khi chính phủ đặt mục tiêu là đạt đến tỷ lệ 70%’.
Anh cũng cho biết là việc xét nghiệm virus corona hiện đang rất thiếu thốn và đắt đỏ.
"Có ít chỗ để xét nghiệm, với lại bị tính tiền riêng, khoảng từ 300-600 real (55-110 đô la Mỹ) cho mỗi xét nghiệm", anh nói. "Đa phần người dân không có tiền để trả tiền xét nghiệm".
Do đó, theo lời anh thì ở Brazil hiện nay ‘có rất nhiều người bệnh mà không biết, vì không được xét nghiệm’.
Trong tình hình số bệnh nhân tăng vọt mỗi ngày như hiện nay, anh Tài cho biết các bệnh viện ở Sao Paulo vẫn còn thừa công suất trong khi một số địa phương khác đã gần như quá tải.
"Các phu đào mộ phải làm hết sức, làm cho lẹ để chôn xác vì xác đến rất nhiều", anh nói.
Tổng thống ‘mờ mắt’
Về tinh thần chống dịch của chính phủ Tổng thống Jair Bolsonaro, anh Tài đánh giá là ‘không tốt’.
"Tổng thống Ba Tây đã nói là bệnh này chỉ giống như bệnh cảm cúm chút xíu thôi, thành ra không làm được tấm gương cho người dân ở nhà. Ông ấy cũng không nói người dân nên ở nhà nên người dân Ba Tây tưởng là bệnh bình thường thôi", anh lý giải.
"Ông ấy (Bolsonaro) giống như đang bị mờ mắt vì không biết hướng nào phải đi", anh nói và đưa ra dẫn chứng Tổng thống Bolsonaro liên tục sa thải các Bộ trưởng Y tế vì bất đồng quan điểm trong cách chống dịch.
"Tổng thống không cho phép phong tỏa theo đề nghị của các Bộ trưởng khi thấy số người chết tăng lên", anh cho biết. "Các Bộ trưởng nói rằng người dân phải ở nhà đã bị Tổng thống đuổi".
Ngoài ra, một điều bất đồng nữa giữa ông Bolsonaro với giới chức y tế Brazil là ông kêu gọi dùng thuốc chống sốt rét hydoxychloroquine để ngăn ngừa và chữa trị Covid-19 nhưng các quan chức y tế không đồng ý vì thuốc này vẫn đang được thử nghiệm chưa biết hiệu quả như thế nào, anh Tài nói thêm.
"Hiện giờ người dân có thể ra nhà thuốc hỏi mua hydoxychloroquine thoải mái", anh cho biết và nói rằng điều này dẫn đến tình trạng khan hiếm loại thuốc này khiến nhiều bệnh nhân mắc các chứng bệnh khác ‘mua không được’.
Theo lời anh, ông Bolsonaro ‘đang bận tâm lệnh ở nhà sẽ làm nền kinh tế Brazil ngưng trệ’ vì ông biết rằng ‘chính phủ không có tiền để giúp đỡ người dân lâu dài’.
"Chính phủ nói nếu ai cũng ở nhà hết thì làm ăn kinh tế bắt đầu ngưng lại, không có ai phát triển, không có thuế má", anh nói.
‘Cuộc sống khó khăn’
Theo lời anh, dịch bệnh đã làm cho đời sống kinh tế của người dân Brazil ‘khó khăn nhất trong nhiều năm gần đây’ và thậm chí còn khổ hơn thời khủng hoảng tài chính toàn cầu hồi năm 2008.
Anh cho biết hiện giờ ở Brazil người thất nghiệp rất nhiều do bị hãng xưởng sa thải vì chủ hãng xưởng không muốn phải trả lương cho công nhân để họ ở nhà tránh dịch theo yêu cầu của chính phủ mặc dù số tiền này sau này được chính phủ hứa sẽ hoàn lại.
"Rất nhiều công ty đuổi công nhân để họ lãnh tiền thất nghiệp", anh dẫn số liệu của chính phủ cho biết tính đến ngày 30/4 tỷ lệ thất nghiệp của Brazil đã là 12% và sẽ còn tiếp tục tăng lên vì ‘các hãng vẫn đang tiếp tục đuổi người’ trong khi ‘không có ai thuê mướn gì cả’.
Hiện tại những người bị đuổi việc ngang sẽ được chủ sử dụng lao động bồi thường theo luật Brazil là 50% lương tháng, nhưng số tiền này khi chuyển khoản đến nhà băng thì nhà băng sẽ giữ lại 10% và đến tay người bị đuổi việc chỉ còn 40%, theo lời anh.
"Ai mà làm lâu năm như 5-6 năm thì khi bị đuổi sẽ nhận được tiền bồi thường cho 5-6 tháng lương thì họ vẫn còn có tiền để sống trong mùa dịch", anh cho biết. Ngoài ra, những người thất nghiệp còn được hưởng tiền trợ cấp của chính phủ là 622 real (115 đô la) một tháng trả trong vòng 2-3 tháng.
"Số tiền này chỉ đủ để mua thức ăn và trả tiền mướn nhà thôi chứ không có tiền cho con đi học hay đi bệnh viện", anh nói thêm.
"Mấy công nhân làm không lâu thì không lãnh được bao nhiêu từ công ty mà chỉ lãnh được tiền trợ cấp của chính phủ", anh cho biết. "Nhưng số tiền đó sắp hết rồi sau 2 tháng. Tới giờ chính phủ đâu có nói sẽ giúp thêm nữa đâu".
Hiện giờ, theo lời anh, ở Sao Paulo đã có một số tổ chức và cá nhân phát đồ tự thiện như thức ăn, quần áo để ‘người dân không chết đói’.
Các hãng xưởng nào không sa thải công nhân cũng phải cho công nhân nghỉ ở nhà tránh dịch trong 2-3 tháng và trả cho họ khoảng 70% lương. Số tiền này sẽ được nhà nước hoàn lại sau cho các doanh nghiệp.
Về sự trợ giúp cho các doanh nghiệp, anh nói : "Nếu anh muốn mượn tiền để bỏ vô làm ăn thì chính phủ nói là phải theo điều lệ, trong đó điều lệ thứ nhất là không được nợ thuế má. Nhưng ở Ba Tây thì hãng xưởng nào cũng đang nợ tiền thuế nhà nước".
"Rốt cục sự giúp đỡ mà chính phủ nói thì các hãng xưởng không có hưởng được", anh nói.
Anh cho biết trong tình hình khó khăn như vậy thì rất nhiều người đang làm việc cho các hãng xưởng như sản xuất xe cộ, ổ khóa, túi xách… – vốn thuộc dạng không thiết yếu nên bị buộc phải đóng cửa theo lệnh các tiểu bang – bắt buộc phải ở nhà trong khi họ ‘muốn làm việc để kiếm tiền’.
Anh nói trong một phóng sự phát trên truyền hình địa phương, có người còn nói rằng thà họ đi làm dù có dính virus corona ‘vẫn còn hơn chết đói ở nhà’.
‘Chỉ đủ sống’
Hiện tại, nhà hàng Miss Saigon của anh Tài đã đuổi toàn bộ 7 nhân công vì ‘trả lương không nổi’ và toàn bộ công việc nhà hàng do hai anh em của anh và cha mẹ anh xoay sở, anh cho biết.
Do nhà hàng thuộc lĩnh vực thiết yếu nên vẫn được phép mở cửa, theo lời anh, nhưng chỉ được phục vụ cho khách mua mang về mà thôi.
Lượng khách đến nhà hàng hiện đã giảm đi rất nhiều, nếu lúc trước 90% khách đến ăn tại chỗ, 10% mua mang về thì giờ đây ‘không còn khách ăn tại chỗ nữa trong khi lượng mua về chỉ được 20% thôi’.
"Thu nhập hiện cũng vừa đủ để không phải chết đói", anh nói và cho biết gia đình anh không ai nhận trợ cấp của chính phủ vì vẫn còn đi làm được.
"Hiện tại tôi đang nợ tiền thuê nhà hàng hai tháng nhưng giờ cũng đâu làm gì được. Chủ đất cũng phải chờ mọi thứ trở lại bình thường mới đòi tiền thuê được".
Anh nói ba mẹ anh dù đã lớn tuổi, thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao nếu mắc bệnh Covid-19, nhưng vẫn phải ra đường, đi chợ, mua hàng về nấu nướng.
"Tôi cũng sợ ba mẹ mắc bệnh nhưng cũng đâu có cách nào khác đâu. Nếu cả gia đình không làm việc thì làm sao mà kiếm sống được", anh phân trần.
Theo lời anh thì người Việt ở Sao Paulo là một cộng đồng nhỏ chỉ với ‘khoảng 70-80 người thôi’.
Phần đông người Việt ở đây làm nghề buôn bán phải đóng cửa trong thời dịch bệnh nhưng ‘cũng không đến nỗi’ vì phần lớn các gia đình người Việt đều có ‘tiền dành dụm lúc trước khi buôn bán được’ giờ lấy ra tiêu xài cho việc ăn uống.
Người chủ nhà hàng này nói anh mong nền kinh tế mở cửa để cho người dân có đường mưu sinh nhưng với điều kiện ‘ai cũng phải xài khẩu trang hết’ và ‘đi làm xong thì phải về nhà chứ không được đi nhà bạn, đi chơi hay tụ tập đám đông nhiều người’ thì mới giảm bớt sự lây lan của dịch bệnh.
"Mong muốn lớn nhất của tôi là sớm có vaccine để chống lại Covid để đời sống mình trở lại bình thường", anh bày tỏ với VOA. "Lúc này rất là khó khăn cho tất cả mọi người".
Ngọc Lễ
Covid-19 : Hồi kết cho cuộc tranh cãi về liệu pháp dùng Chloroquine ?
Những diễn biến liên quan đến đại dịch Covid-19 tiếp tục được báo chí Pháp ra ngày 27/05/2020 đưa lên tựa lớn trang nhất, đặc biệt là hồ sơ Chloroquine trên báo Libération, và quan điểm thận trọng thời hậu phong tỏa trên Le Figaro. Riêng hai tờ Le Monde và Les Echos thì tập trung trên chính sách kinh tế tại Pháp, trong lúc La Croix nhìn rộng ra toàn thế giới, lo lắng về nạn đói có thể xẩy ra sau nạn dịch.
Bất chấp khuyến cáo của WHO/OMS, thuốc Chloroquine vẫn được chính quyền Brazil sử dụng như liệu pháp trị Covid-19. Ảnh minh họa chụp tại Porto Alegre (Brazil) ngày 25/05/2020. Reuters - Diego Vara
Về hồ sơ thuốc chloroquine chuyên trị sốt rét được nhiều người trong thời gian gần đây cho là "thần dược" trị bệnh Covid-19, Libération đã chạy một tựa rất hóm hỉnh trên trang nhất : "Chloroquine - Viên thuốc không có hôm sau ?", nguyên văn tiếng Pháp là "la pillule sans lendemain" chơi chữ trên từ ngữ "la pillule du lendemain", tạm dịch là "viên thuốc của hôm sau", trước đây được dùng để chỉ thuốc ngừa thai !
Theo nhận định của Libération, thì sau một bài nghiên cứu nghiêm túc vừa được đăng trên tạp chí y học Anh Quốc nổi tiếng The Lancet và hai thông báo đề nghị dừng thử nghiệm lâm sàng đến từ Tổ chức Y tế Thế giới và Hội đồng cấp cao về Y tế công cộng Pháp, liệu pháp trị bệnh Covid-19 được giáo sư Pháp Didier Raoult bảo vệ - từng được coi là niềm hy vọng thực thụ khi dịch bệnh mới bắt đầu - càng lúc càng gây thêm tranh cãi.
Chloroquine : Bộ phim y học - chính trị - truyền thông nhiều tập
Bài viết chính trong một hồ sơ 4 trang của tờ báo thiên tả Pháp cho rằng bộ phim nhiều tập vừa y học, vừa chính trị, vừa truyền thông về chất hydroxychloroquine đã bắt đầu tập cuối mang tựa đề "Cú chấm dứt".
Libération trước hết nêu bật nội dung chính của bài nghiên cứu của tạp chí The Lancet, đã kết luận rằng chất chloroquine (hay chất phái sinh hydroxychloroquine, được giáo sư Didier Raoult quảng bá ở Pháp) không chỉ không hiệu nghiệm trong việc chữa trị những người đã phải nhập viện vì nhiễm virus corona, mà còn làm tăng tỷ lệ tử vong và các trường hợp bị rối loạn nhịp tim.
Theo tờ báo, do việc tạp chí Lancet nổi tiếng là rất nghiêm túc, và quy mô to lớn của công trình nghiên cứu được công bố (đã xem xét bệnh án của 96.032 bệnh nhân), bài báo khoa học đã gây được tiếng vang ngay lập tức, và các khuyến cáo dừng chữa trị hay thử nghiệm chất chloroquine càng lúc càng nhiều.
Libération dĩ nhiên đã nhắc đến phản ứng gay gắt của giáo sư Raoult, vào hôm 25/05 vừa qua, đã lớn tiếng chỉ trích bài nghiên cứu trên tạp chí The Lancet, cho đấy chỉ là những "quan sát" lộn xộn, vô giá trị.
Tuy nhiên, theo tờ báo Pháp, ông Denis Malvy, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm, đã nhấn mạnh trên tính chất nghiêm túc của công trình được công bố trên tạp chí y khoa Anh Quốc mà theo ông, là "một nghiên cứu được tổ chức nghiêm ngặt từ đầu đến cuối, trong giới hạn của những gì một phương pháp quan sát có thể cung cấp".
Giáo sư Jean-François Timsit, trưởng khoa hồi sức tại bệnh viện Bichat, Paris, cũng cho rằng không thể hoài nghi về kết luận của công trình, theo đó chất chloroquine không có hiệu quả đối với bệnh nhân Covid-19.
Tranh luận y học biến thành ấu đả chính trị
Trong bài xã luận, Libération đã tự hỏi là có thể ghi từ "kết thúc" vào câu chuyện dài nhiều tập sôi động về chất chloroquine hay chưa, để trả lời ngay rằng "chưa đâu". Tuy nhiên nhà bình luận của tờ báo cho rằng những ai có chút suy nghĩ đều phải sẽ hoài nghi về hiệu quả thực thụ của phân tử này.
Đối với Libération, cuộc tranh cãi đang diễn ra rốt cuộc đã biến thành một cuộc ấu đả. Thay vì một cuộc tranh luận khoa học người ta đã chứng kiến một cuộc đấu đá được chính trị hóa một cách khác thường.
Một bên là phe ủng hộ giáo sư Raoult, "những người thấp cổ bé miệng" chống lại "những người ăn trên ngồi chốc", còn bên kia là phần lớn những người đầu đàn trong lãnh vực y học mà người ta không thấy tại sao họ lại từ chối sử dụng một phương thức trị liệu tốt cho bệnh nhân nếu không có hoài nghi thực sự về hiệu quả của nó.
Libération cho là đã dến lúc chấm dứt trò hề này. Chỉ có một nghiên cứu theo đúng quy trình, với một nhóm nhân chứng mới cho phép đưa ra quyết định dứt khoát. Trong khi chờ đợi thì nên thận trọng và khiêm tốn.
Liệu dịch bệnh sắp chấm dứt?
Cũng liên quan đến dịch Covid-19, nhật báo Le Figaro đã đặt thành tựa lớn trang nhất câu hỏi : "Có nên tin tưởng rằng dịch bệnh sắp chấm dứt hay không ?".
Tờ báo ghi nhận là hai tuần sau khi dở bó phong tỏa, tất cả những chỉ số đều chuyển sang màu xanh cho thấy là Covid-19 đã lùi bước trên toàn lãnh thổ Pháp.
Mỗi ngày chỉ còn 300 ca nhiễm mới ghi nhận trên toàn nước Pháp, ít hơn đến gần 20 lần so với đỉnh cao tháng Tư. Và kể từ ngày bắt đầu dở bỏ phong tỏa hôm 11/05, mọi biểu đồ đều cho thấy là dịch bệnh đang lùi bước, và việc nới lỏng phong tỏa, hoạt động xã hội gia tăng trở lại có vẻ như đã không làm cho việc lây nhiễm tăng cao trở lại.
Tuy nhiên phần đông các chuyên gia dịch tễ vẫn kêu gọi thận trọng, sợ rằng tình hình có thể xấu đi trở lại, gây tắc nghẽn trong các khoa hồi sức tại các bệnh viện trước khi bắt đầu mùa hè.
Trong tình hình các sinh hoạt tại Pháp đang dần dần trở lại bình thường, Le Figaro ghi nhận là giới chức y tế đã gia tăng khả năng chẩn đoán và theo dõi các trường hợp có tiếp xúc với bệnh nhân Covid-19, và cũng đang cố ngăn chặn lây lan tại 46 ổ dịch nhỏ đã được phát hiện trên toàn quốc từ đầu tháng đến nay.
Tiến trình nới lỏng phong tỏa suôn sẻ tại Đức và Áo
Theo Le Figaro, tại Đức, chính quyền vẫn tiếp tục phương pháp đã cho phép nước này ngăn chặn dịch bệnh từ tháng 3, tiếp tục xét nghiệm dân chúng.
Trái với Pháp, Đức càng lúc càng cho thấy là họ không mấy thiên về việc sử dụng ứng dụng trên mobile để kiểm soát dịch bệnh, nhưng lại vẫn chủ trương thúc đẩy việc mọi người mang khẩu trang và giữ khoản cách an toàn.
Về tình hinh nước Áo, Le Figaro nêu bật tính chất thận trọng của quốc gia này trong việc gỡ bỏ từng bước các biện pháp phong tỏa, từ việc cho phần lớn các cửa hàng mở cửa từ trung tuần tháng 4, sau đó đến lượt các hiệu hớt tóc, các cơ sở thương mại hơn 400 m2 vào giữa tháng 5 và đến ngày 29/05 tới đây là các quán cà phê, quán rượu, nhà hàng, khách sạn.
Điều khiến tờ báo chú ý là tính kỷ luật và cảnh giác của Áo. Một ví dụ : Ở khắp nơi, từ việc đi nhà thờ cho đến đi mua sắm, mọi người đều phải mang khẩu trang.
Pháp chuẩn bị giảm tài trợ cho chế độ thất nghiệp bán phần
Tựa lớn trang nhất báo Le Monde được dành cho kinh tế Pháp: "Thất nghiệp bán phần : Nhà nước khởi sự giai đoạn giảm tài trợ". Trong bài phân tích bên trong, Le Monde giải thích là sau khi hào phóng cho áp dụng chế độ "thất nghiệp bán phần" kể từ giữa tháng Ba, nhận chi trả toàn bộ các khoản trợ cấp mà các công ty xí nghiệp phải ứng trước cho số nhân viên của họ bị buộc phải nghỉ làm - do đó không có lương - vì các biện pháp phong tỏa chống dịch Covid 19, chính phủ Pháp đã bắt đầu dần dần giảm bớt phần tài trợ của mình.
Theo nhật báo Pháp, ngay từ 01/06, doanh nghiệp nào dùng đến biện pháp này, sẽ không còn được tài trợ 100%, mà phải gánh vác 15% trên những khoản trợ cấp đã chi ra. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp trong những lãnh vực nhu du lịch hay nhà hàng, vẫn phải chịu tác hại nặng nề do các biện pháp y tế nghiêm ngặt hiện hành, các quy định mới chưa được áp dụng
Đối với Le Monde, quyết định kể trên nhằm khuyến khích các doanh nghiệp "không còn bị các biện pháp y tế ràng buộc" tái lập hoạt động, đồng thời bảo vệ các công ty xí nghiệp chưa thể hoạt động lại.
Nguy cơ thất nghiệp tăng cao
Vấn đề, theo Le Monde, là với tình trạng đình đốn kinh tế nói chung hiện nay, nguy cơ các doanh nghiệp sa thải thực thụ các nhân viên của họ rất lớn do việc họ không còn được hưởng các khoản tài trợ của chính phủ, và trong số 8 triệu người chịu cảnh thất nghiệp bán phần trong thời gian qua, sẽ có nhiều người trở thành thất nghiệp hoàn toàn.
Trong một phóng sự kèm theo bài phân tích về việc giảm chế độ thất nghiệp bán phần, Le Monde ghi nhận lời chứng của nhiều người bị công ty của mình xếp vào diện này, trên nguyên tắc không phải lao động, nhưng trong thực tế vẫn bị chủ công ty bắt phải làm việc.
Theo một nghiên cứu của hãng tham vấn Technologia, trong khoảng thời gian hai tháng Ba và Tư, có đến 24% người bị "thất nghiệp bán phần" đã bị chủ doanh nghiệp của họ bắt làm việc". Nhiều người khẳng định rằng khi khiếu nại, họ đã bị người chủ dọa sa thải.
Pháp muốn đẩy mạnh sản xuất xe hơi chạy bằng điện
Liên quan đến nước Pháp, báo Les Echos chạy trên trang nhất tựa lớn "Một kế hoạch để thúc đẩy mạnh ngành sản xuất ô tô điện"
Tờ báo kinh tế Pháp ghi nhận chỉ tiêu rất cao mà chính phủ Pháp đề ra : Đó là làm sao để cho từ nay đến năm 2025, sẽ có một triệu chiếc xe hơi điện được sản xuất tại Pháp.
Để làm điều này, có hai biện pháp được chính phủ Pháp khuyến khích: Chi ra hơn một tỷ euro để tài trợ cho những người mua xe mới, và thành lập thêm nhiều quỹ đầu tư mới để giúp đỡ các doanh nghiệp.
Sau dịch Covid-19 là nạn đói ?
Sau cùng, nhật báo công giáo La Croix đã dành trang nhất cho một chủ đề quốc tế với hàng tựa lớn : "Nạn đói, một nguy cơ đại dịch mới".
Theo La Croix, ở Chilê, Thái Lan, Lebanon, thậm chí ở Hoa Kỳ, những lời chứng về thảm trạng đang rình rập ngày càng nhiều: Nạn đói đang trở lại trong những cộng đồng cho đến nay chưa bị đe dọa.
Trong tình hình đáng báo động đó, giới chuyên gia cho rằng các chính phủ và tổ chức quốc tế nên đặt ngay trọng tâm trên vấn đề giúp các tầng lớp dân chúng được tiếp cận dễ dàng với lương thực.
Trọng Nghĩa
Sau tháng Tư đen tối, dầu hỏa thế giới chật vật lắm mới được tạm ổn định trong tháng 5/2020 với giá 30-35 đô la một thùng. Các nhà sản xuất thất điên bát đảo vì Covid-19. Nguy cơ virus corona khép lại thời đại vàng son của dầu lửa thêm cận kề. Virus corona phá hoại chiến lược phát triển của vương quốc dầu hỏa Saudi Arabia.
Ngay cả ả Riyad cũng đang khốn đốn vì dầu hỏa mất giá. Ảnh khu khai thác dầu Ras Al Jair - Rập Xê Út. AFP/Archivos
Vào đỉnh điểm mùa dịch Covid-19, như tất cả các lĩnh vực khác, dầu hỏa cũng lâm vào tình trạng "hàng bán không ai mua". Tháng 3/2020, Trung Quốc chưa nguôi ngoai, Hàn Quốc trong tâm dịch, và các nước châu Âu, đầu tiên là Ý rồi tới Pháp, Tây Ban Nha lần lượt "đóng cửa" chống virus corona lây lan rồi Covid-19 lan sang tới Hoa Kỳ. Giá một thùng dầu Brent của châu Âu mất giá hơn 50 % so với cùng thời kỳ năm ngoái và mất giá trên 40 % so với đúng một tháng trước đó.
Theo thống kê của Viện INSEE Pháp đây là mức "trượt dốc nhanh nhất trong 60 năm qua". Ngoài tác động của virus corona từng bước làm tê liệt kinh tế toàn cầu, cuộc đọ sức giữa hai nguồn cung cấp lớn nhất thế giới là Saudi Arabia và Nga tại hội nghị ở Vienna hôm 06/03/2020 càng "đổ thêm dầu vào lửa" dẫn đến sự "sụp đổ" về giá dầu trên các thị trường quốc tế.
Saudi Arabia và Nga đình chiến
Hơn một tháng sau, khủng hoảng y tế thêm trầm trọng, Mỹ đã can thiệp, thuyết phục Matxcơva và Riyad tìm được một sân chơi chung. Nga và Saudi Arabia cùng với các đối tác trong và ngoài khối các quốc gia xuất khẩu dầu lửa gọi tắt là OPEC và OPEC+ đã đồng ý cắt giảm sản lượng gần 10 triệu thùng dầu mỗi ngày - tương đương với 10% nhu cầu tiêu thụ của toàn cầu, trong hai tháng 5 và 6/2020.
Trong lịch sử của khối OPEC, chưa bao giờ các thành viên cùng với các đối tác ngoài OPEC mà đứng đầu là Nga lại đưa ra một quyết định mạnh tay như vậy. Thỏa thuận này được triển hạn đến tháng 5/2022 với mức độ cắt giảm "nhẹ" hơn.
Ứ đọng trên thị trường
Tuy nhiên trước khi có thỏa thuận dầu hỏa "lịch sử" nói trên, trên thị trường Mỹ, giá dầu WTI đã rơi xuống số âm trong phiên giao dịch 20/04/2020. Đơn giản là do các kho chứa dầu đã gần bị quá tải, trong lúc vàng đen vẫn trong tình cảnh "hàng bán không ai mua". Ngay cả khi nhóm OPEC+ cam kết cắt giảm sản xuất, thì chênh lệnh về cung và cầu cũng còn quá lớn : Thế giới vẫn "dư thừa" đến 20 triệu thùng dầu một ngày.
Tình trạng dầu rẻ sẽ kéo dài
Gần một tháng kể từ khi thỏa thuận giữa OPEC và các thành viên ngoài khối có hiệu lực, giá dầu "ngoi lên" trở lại ở mức 30-35 đô la một thùng như hồi đầu 2020. Ba yếu tố giải thích cho hiện tượng "tạm ổn định" này.
Một là mức sản xuất đang từ 42-43 triệu thùng/ngày rơi xuống còn 34 triệu thùng kể từ hôm 01/05/2020. Thứ hai là các nhà sản xuất dầu đá phiến của Mỹ không đủ sức chịu đựng trước sự sụp đổ của dầu lửa thế giới nên đã lần lượt ngưng hoạt động. Trong tháng 4/2020, thị trường mất đi gần 200.000 thùng dầu đá phiến của Mỹ. Yếu tố khá bất ngờ thứ ba, tuy không quan trọng lắm nhưng cũng góp phần giữ cho giá dầu ổn định đó là khả năng sản xuất của Kazakhstan bị thiệt hại đáng kể : virus corona đã len lỏi vào một trong những mỏ dầu lớn nhất của quốc gia Trung Á này. 17.000 nhân viên phải "sơ tán" khỏi mỏ dầu Tenguiz.
Trả lời đài RFI Pháp ngữ, chuyên gia về dầu hỏa Francis Perrin, giám đốc nghiên cứu Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược (IRIS) nhận định :
"Rõ ràng là mức tiêu thụ dầu hỏa giảm trong năm nay và đây là lần đầu tiên hiện tượng này tái diễn kể từ năm 2009. Điều này cho thấy khủng hoảng y tế đã tác động như thế nào tới các hoạt động kinh tế. Kinh tế toàn cầu bị trì trệ. Tuy nhiên theo tôi, trong sáu tháng cuối năm nay, tình hình sẽ khả quan hơn. Trong tháng Tư vừa qua chẳng hạn, chỉ số tiêu thụ dầu hỏa giảm từ 20 đến 30% trên toàn cầu so với cùng thời kỳ năm ngoái. Trong lịch sử của ngành năng lượng dầu hỏa, thì đây là mức tệ hại chưa từng thấy kể từ năm 1945".
Dù vậy cỗ máy kinh tế của Trung Quốc không khởi động lại một cách nhanh chóng như mong đợi, còn châu Âu thì "đang trông thấy khủng hoảng về kinh tế ở trước mặt". Nhiều nghiên cứu cho thấy với giá dầu ở mức trên dưới 35 đô la một thùng, ngay cả Saudi Arabia cũng điêu đứng. Gần như hoàn toàn lệ thuộc vào công nghiệp dầu lửa, Riyad chỉ có thể cân bằng ngân sách chi - thu với giá dầu khoảng 80 đô la một thùng. Tại Mỹ, nếu dầu hỏa thấp hơn ngưỡng 65 đô la tất cả các nhà sản xuất dầu đá phiến đều thua lỗ. Nga cần bảo đảm xuất khẩu dầu hỏa với giá trên dưới 50 đô la một thùng. Chuyên gia Francis Perrin phân tích tiếp :
"Tất cả các nhà sản xuất đều bị thiệt hại trong tình hình hiện nay, do giá dầu và mức tiêu thụ đang sụp đổ. Không một ai có lợi gì trong thời điểm này. Có điều mức độ nghiêm trọng tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà quan trọng nhất là khả năng tài chính của từng quốc gia. Khi dầu hỏa mất giá, nguồn thu nhập của các nước xuất khẩu dầu qua đó giảm theo. Ngân sách Nhà nước bị thu hẹp lại. Những nước này rơi vào cảnh chi nhiều hơn thu.
Câu hỏi đặt ra là liệu đủ sức để chống chỏi với tình huống khó khăn đó hay không và bao lâu ? Chúng ta biết là phần lớn các vương quốc dầu hỏa Trung Đông, như Saudi Arabia, Qatar Koweit hay là Nga có một khoản dự trữ tiền tệ rất lớn. Ngược lại, những nước như Iran hay Venezuela hoặc Algeri thì không có được lợi thế đó. Dù vậy trong bối cảnh hiện tại, dịch Covid-19 làm tê liệt một phần các hoạt động kinh tế, ngay cả những nhà sản xuất lớn cũng bị lao đao. Thành thử giải pháp thiết thực duy nhất là hợp tác quốc tế".
Covid-19 thách thức vương quốc dầu hỏa Saudi Arabia
Trong số các nước xuất khẩu dầu hỏa, Saudi Arabia tuy không còn "một mình một chợ" nhưng luôn được xem là đối tác quan trọng nhất với khả năng "khóa hay mở van dầu" dễ dàng nhất và có gói dự trữ ngoại tệ "an toàn" nhất. Dù vậy vương quốc dầu hỏa này tại Trung Đông bắt đầu phải đối mặt với thực tế.
Phóng viên báo Le Figaro, Georges Malbrunot chuyên về khu vực Trung Cận Đông nêu lên viễn cảnh virus corona đe dọa "thời kỳ hoàng kim" của vương quốc dầu hỏa này :
"Nguy cơ cả một tầng lớp trẻ tại Saudi Arabia vùng lên đòi công lý ngày càng lớn, nhất là khi mà thái tử Mohamad Ben Salman từ 2016 đề xuất kế hoạch chuyển đổi nền kinh tế, giảm bớt lệ thuộc vào dầu hỏa. Theo kế hoạch Tầm Nhìn 2030 này, thì năm nay là thời điểm Saudi Arabia thu hoạch được những thành quả kinh tế đầu tiên. Quan trọng nhất trong số những mục tiêu của Riyad là đem lại việc làm cho thanh niên tại vương quốc dầu hỏa này. Nhưng với khủng hoảng hiện tại, thái tử Bel Salman không có thành tích nào để trấn an công luận cả. Thêm vào đó ông này lại chủ trương cai trị đất nước với một bàn tay sắt, gia tăng các biện pháp trấn áp nhằm vào thường dân và kể cả với hoàng gia. Kết quả về kinh tế thì chẳng có, bất mãn về chính trị và trong xã hội ngày càng nhiều. Chính phủ tăng thuế… Một vài cuộc nổi dậy ở quy mô nhỏ đã bùng lên, và trước mắt chính quyền đã dễ dàng dập tắt. Điểm may mắn ở đây là Saudi Arabia vẫn còn nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và vẫn có khả năng đi vay trên thị trường với lãi suất thấp".
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự báo GDP của Saudi Arabia giảm 2,3% trong năm 2020. Riyad thông báo cắt giảm ngân sách 25 tỷ đô la, thuế trị giá gia tăng TVA đang từ 5% nhảy vọt lên thành 15%. Lần đầu tiên thần dân của quốc vương Salman nếm mùi các biện pháp thắt lưng buộc. Dịch Covid-19 càng làm lộ rõ những bất cập của cỗ máy kinh tế Saudi Arabia hoàn toàn bị vàng đen chi phối và rủi thay là trong mắt các nhà đầu tư quốc tế, uy tín của Riyad đang mai một như giải thích của nhà địa chính trị Pascal Boniface, giám đốc Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược Pháp :
"Saudi Arabia không còn độc quyền trên thị trường dầu hỏa, nhưng vẫn là một mắt xích then chốt và đủ sức để áp đặt luật chơi. Giới trong ngành biết rằng, không thể quyết định bất kỳ điều gì nếu không có sự đồng ý của Riyad. Có điều, Saudi Arabia đã tư hữu hóa một phần tập đoàn dầu khí quốc gia Aramco và đã không thu hút được chú ý của các nhà đầu tư như mong đợi. Điều này chứng tỏ giới tư bản rất thận trọng với Saudi Arabia, đặc biệt là với tính khí thất thường của thái tử Mohamad Bel Salman. Ông này đi từ thất bại này đến thất bại khác. Từ quyết định can thiệp quân sự tại Yemen, đến phong tỏa Qatar… Về phương diện quốc tế, thái tử Bel Salman không ghi được bất kỳ một bàn thắng quan trọng nào, đó là chưa kể tai tiếng liên quan đến vụ sát hại nhà báo Kashogghi".
Dầu hỏa rớt giá gây khó khăn của Saudi Arabia và khiến phương Tây đau đầu bởi Riyad là một trong những khách hàng quan trọng nhất mua vũ khí của Âu, Mỹ và Nga. Năm 2019 Saudi Arabia mua hơn 57 tỷ đô la trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Saudi Arabia tương đương với 8% GDP. Nga là 3,9% hay Mỹ là 3,4%.
Với giá dầu dưới ngưỡng 40 đô la một thùng, có nguy cơ buộc vương quốc này xét lại các ưu tiên. Những nhà cung cấp vũ khí trên thế giới lo ngại rằng, một số hợp đồng đã ký với Riyad sẽ bị hủy bỏ.
Thanh Hà
Nguồn : RFI, 26/05/2020
Trung Quốc từ bỏ đặt mục tiêu tăng trưởng của năm 2020. Thủ tướng Trung Quốc đã công bố trong báo cáo hàng năm trước Quốc Hội. Ông Lý Khắc Cường thừa nhận nền kinh tế thứ 2 thế gới đang chật vật khởi động sau khủng hoảng dịch bệnh.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và thủ tướng Lý Khắc Cường tại phiên khai mạc Hội nghị Hiệp thương Chính trị tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, ngày 21/05/2020. AFP
Trong hoàn cảnh thế giới đầy bất trắc, Bắc Kinh đặt cược vào phát triển kỹ thuật số và các công ty tư nhân và có nguy cơ khuấy lại khủng hoảng Hồng Kông.
RFI phỏng vấn chuyên gia Mathieu Duchâtel, giám đốc chương trình châu Á, viện tư vấn chính trị Montaigne của Pháp.
*****
RFI : Trong bối cảnh phục hồi khó khăn, việc hiện đại hóa Giải Phóng Quân vẫn tiếp diễn. Có thể diễn giải thế nào về việc tăng chi tiêu quân sự như đã được thủ tướng Trung Quốc thông báo ?
Mathieu Duchâtel : 6,6% là mức tăng khá nhanh, kể cả có thấp hơn so với mức tăng chi tiêu chính thức cho quốc phòng Trung Quốc trong 5 năm qua, vẫn dao động trong khoảng trên 7% đến hơn 10%. Như thế có nghĩa là với mức tăng này, ngân sách quân sự của Trung Quốc năm 2020 sẽ là 178 tỷ đô la, nói các khác là đứng thứ 2 thế giới sau Hoa Kỳ. Cần phải thấy rõ là các chi phí quân sự chính thức này không tính đến một số chi tiết như cách tính ngân sách quốc phòng ở một số nước khác. Thí dụ như chi tiêu vào lĩnh vực răn đe hạt nhân, hay những mua sắm một số trang thiết bị quân sự, những vật tư quốc phòng phải nhập từ nước ngoài. Điều quan trọng năm nay là mức tăng ngân sách quốc phòng không còn mối tương quan với tăng trưởng.
RFI : Phải giải thích sao về việc mất tương quan đó, trong khi mà mọi tín hiệu kinh tế đều vẫn đỏ, nhất là việc làm ?
Mathieu Duchâtel : Đây là một năm rất đặc biệt, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ ở dưới mức của các năm qua. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong vài năm gần đây thường vẫn ở trong khoảng từ 6-7%. Nhưng giờ đây Ngân Hàng Thế Giới đánh giá mức tăng trưởng của Trung Quốc chỉ dưới 3%, có thể còn tồi tệ hơn nữa. Ở Trung Quốc người ta thực sự cũng có những thắc mắc về vấn đề là lần đầu tiên ở Quốc Hội, thủ tướng Lý Khắc Cường đã từ bỏ ấn định chỉ tiêu tăng trưởng của đất nước. Kết quả, đó là không còn có sự tương quan hoàn toàn giữa tăng chi phi quốc phòng và tăng trưởng kinh tế. Đây là điểm mới vì tất cả những năm trước mức tăng ngân sách quốc phòng vẫn nhỉnh hơn một chút so với mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
Thông điệp trước đây là công cụ quốc phòng phải đi kèm cho sự trỗi dậy thành cường quốc của Trung Quốc. Nhưng năm nay có khác. Tín hiệu gửi đi là các chương trình hiện đại hóa quân đội không bị ảnh hưởng vì bối cảnh khủng hoảng kinh tế Trung Quốc, các mục tiêu an ninh quốc gia vẫn như vậy. Trung Quốc đang ở trong giai đoạn cạnh tranh rất gay gắt với Hoa Kỳ. Trung Quốc phải chi phí những gì cần để duy trì tính liên tục trong chương trình hiện đại hóa quân đội.
RFI : Bắc Kinh phô trương chiến thắng virus corona nhân kỳ họp Quốc Hội này. Đối với bộ máy tuyên truyền, đó cũng là chiến thắng mô hình phương Tây.
Mathieu Duchâtel : Về vấn đề kiềm chế đại dịch Covid-19, Trung Quốc đã thoát khỏi tốt hơn là Hoa Kỳ và một số nước châu Âu, cho dù Trung Quốc không thể thuyết phục các nước nước phương Tây về tính xác thực của những số liệu chính thức của họ về số ca nhiễm và số tử vong.
Nhìn tổng thể, Trung Quốc sẽ khởi động lại sớm hơn Hoa Kỳ và Tây Âu. Như thế Trung Quốc ở thế mạnh hay yếu ? Dù gì người ta vẫn nhận thấy Bắc Kinh đã quyết định nắm cơ hội thuận lợi là nước sớm thoát khỏi khủng hoảng y tế để đẩy mạnh trên hồ sơ Hồng Kông. Nhưng như thế cũng là nắm lấy rủi ro trong quan hệ giữa Hoa Lục với đặc khu hành chính và rủi ro trong vấn đề xử lý khủng hoảng Hồng Kông. Điều đó cũng có nguy cơ làm xấu thêm quan hệ với Mỹ. Washington đã có phản ứng về thông báo liên quan đến Hồng Kông. Với việc áp đặt luật an ninh quốc gia với Hồng Kông, chính quyền Bắc Kinh sẽ làm mất ổn định và rối loạn xã hội tại Hồng Kông, tóm lại làm dấy lại khủng hoảng. Trung Quốc nắm cơ hội nhằm vào lúc mà phản ứng của Hoa Kỳ và châu Âu yếu ớt. Thế nhưng cùng lúc, trên bình diện kinh tế, người ta thấy Trung Quốc buộc phải có những lựa chọn mà họ đã từ chối trong những năm trước đây.
RFI : Đó là những lựa chọn gì ?
Mathieu Duchâtel : Trước tiên là lựa chọn khôi phục kinh tế không phải bằng tiêu thụ mà là bằng đầu tư. Người ta trông đợi có những thông báo về kế hoạch đầu tư của Trung Quốc chủ đạo là phát triển hạ tầng cơ sở dịch vụ của cuộc cách mạng kỹ thuật số. Đặc biệt là hạ tầng cơ sở mạng 5G, các trung tâm dữ liệu. Như vậy Trung Quốc đánh cược vào cách mạng kỹ thuật số để khôi phục tăng trưởng cùng một kế hoạch chi phí của Nhà nước. Người ta cũng thấy trong các thông báo của thủ tướng, Trung Quốc nhằm nhiều hơn chút vào lĩnh vực kinh tế tư nhân với các chính sách nới lỏng chính sách cấp tín dụng cho các công ty cũng như giảm thuế mạnh mẽ cho các doanh nghiệp.
Trung Quốc như vậy đang rời xa tư bản Nhà nước thắng thế trong những năm qua, đó là thời điểm mà các doanh nghiệp Nhà nước được hỗ trợ mạnh mẽ của chế độ. Ta thấy Trung Quốc ý thức được phải dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ để xử lý khủng hoảng việc làm, xử lý các vấn đề kinh tế ở cấp địa phương. Như vậy Trung Quốc cũng phải có chút thay đổi về mô hình kinh tế của mình rồi.
Nguồn : RFI tiếng Việt, 26/05/2020
Covid-19 : Brazil vượt Nga, trở thành nước có số ca nhiễm thứ hai thế giới (RFI, 24/05/2020)
Tính đến ngày 23/05/2020, với tổng cộng 347.398 ca nhiễm virus corona, Brazil vượt Nga, trở thành nước có số người mắc Covid-19 nhiều thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ.
Một phòng hồi sức tăng cường điều trị Covid-19 tai bệnh viên Gilberto Novaes, thành phố Manaus, Brazil ngày 20/05/2020. © Michael Dantas / AFP
Bộ Y tế Brazil cho biết, trong vòng 1 ngày, nước này ghi nhận thêm 16.500 ca nhiễm virus, 965 ca tử vong, nâng tổng số người chết vì Covid-19 lên thành 22.013 ca.
Theo nhiều chuyên gia, số người nhiễm virus corona tại Brazil trên thực tế có thể còn cao hơn số liệu bộ Y tế cung cấp rất nhiều, vì khả năng xét nghiệm tầm soát của Brazil còn hạn chế. Tổ Chức Y tế Thế Giới báo động Nam Mỹ hiện giờ là "tâm dịch" Covid-19 mới của thế giới.
Peru, nước bị dịch hoành hành nặng thứ hai ở Nam Mỹ
Trong khi đó, nước láng giềng Peru cũng lâm cảnh dịch bệnh lây lan "không thể kiểm soát nổi", cho dù đây là một trong những nước đầu tiên ở Châu Mỹ La-tinh áp lệnh phong tỏa, từ ngày 16/03. Trong tuần qua, Peru đã ghi nhận thêm 28.000 người nhiễm virus, nâng tổng số ca bệnh Covid-19 lên thành 110.000 người. Peru là nước mà dịch Covid-19 hoành hành dữ dội thứ hai tại Nam Mỹ, sau Brazil. Reuters cho biết tổng thống Martin Vizcarra đã quyết định kéo dài lệnh phong tỏa đến hết ngày 30/06.
Theo các nhà quan sát, mặc dù lệnh phong tỏa được ban hành từ cách nay 2 tháng nhưng các biện pháp của chính quyền không hợp lý. Ban đầu, các chợ vẫn hoạt động nên đã trở thành "những ổ dịch thực thụ". 86% số tiểu thương ở một khu chợ bán trái cây ở thủ đô Lima nhiễm virus corona. Các ngân hàng cũng là một ổ lây nhiễm, với dòng người đông đúc đổ xô đến nhà băng để lĩnh phiếu trợ cấp khẩn cấp của chính phủ.
Thị trường lao động phi chính thức, chiếm tới 70% hoạt động kinh tế tại Peru, cũng là lý do khiến dịch bệnh lây lan nhanh chóng. Hàng chục, hàng trăm ngàn người vẫn đi làm, bất chấp lệnh phong tỏa, để kiếm tiền nuôi sống gia đình.
Thùy Dương
****************
Mỹ thử nghiệm đại trà vac-xin ngừa Covid-19 (RFI, 23/05/2020)
Vac-xin do viện bào chế Moderna của Mỹ phát triển cùng với Viện Y tế Quốc gia (NIH) sẽ là vac-xin đầu tiên được thử nghiệm trong khuôn khổ chương trình này kể từ tháng 7, theo lời giám đốc NIH, tiến sĩ Francis Collins, nói với Reuters. Ngay sau đó sẽ đến lượt vac-xin do đại học Oxford của Anh Quốc đang phát triển cùng với tập đoàn dược phẩm AstraZenaca.
Vac-xin ngừa Covid-19. Ảnh chụp ngày 10/04/2020. Reuters - Dado Ruvic
Các vac-xin của các tập đoàn J&J, Sanofi và Merck có thể cũng sẽ được thử nghiệm vào mùa hè một khi hoàn tất các cuộc thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1. Các vac-xin khác có thể sẽ được thêm vào chương trình thử nghiệm.
Theo dự báo của tiến sĩ Anthony Fauci, giám đốc Viện quốc gia các bệnh dị ứng và bệnh truyền nhiễm, trực thuộc NIH, nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, chúng ta có thể có một vac-xin ngừa Covid-19 từ đây đến tháng 12 hoặc tháng 1/2021.
Về tình hình dịch bệnh tại Hoa Kỳ, theo số liệu do đại học Johns Hopkins công bố hôm qua, trong vòng 24 giờ đã có thêm 1.260 người chết vì virus corona, nâng tổng số ca tử vong lên 95.921 người trên 1,6 triệu ca nhiễm được ghi nhận cho tới nay.
Mặc dù số ca tử vong vẫn còn cao, 50 bang của Hoa Kỳ đã bắt đầu dỡ bỏ dần dần lệnh phong tỏa, nhưng vẫn duy trì các hạn chế đối với những cuộc tập hợp để ngăn chận sự lây lan của virus. Trong cuộc họp báo hôm qua tại Nhà Trắng, tổng thống Donald Trump đã kêu gọi thống đốc các bang cho mở cửa trở lại ngay lập tức các nhà thờ và những nơi thờ phượng tại Mỹ. Tổng thống Trump dọa là nếu các thống đốc không làm như vậy, ông sẽ vượt qua quyền của họ, nhưng không nói rõ là bằng cách nào. Tại Hoa Kỳ, việc mở cửa trở lại các nhà thờ là thuộc thẩm quyền của mỗi bang.
Thanh Phương
Ngày 22/5/2020 ‘Tổ công tác đặc biệt’ và đề án thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), được quyết định thành lập với mục đích vừa nêu. Chính phủ Hà Nội đã nhận thức tầm quan trọng của vấn đề. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm đó là cơ hội để thu hút FDI, thì có lẽ chưa xứng tầm với cơ hội thay đổi để phát triển hiện nay.
Quá trình Việt Nam phục hồi sau đại dịch sẽ có sự dõi theo của thế giới. Việt Nam không nên mất cảnh giác vì cuộc chiến chống Covid-19 vẫn chưa kết thúc. Ảnh minh họa (Nguồn : AFP)
Đại dịch Covid-19 đang gây ra cuộc khủng khoảng kép nghiêm trọng về y tế và kinh tế cho thế giới. Đây là ‘một biến cố lớn’ chưa từng có từ trăm năm nay, sẽ định hình lại ‘trật tự thế giới’, trong đó sự đối đầu của các chế độ khác biệt về hệ tư tưởng là một đặc trưng quan trọng. Hiệu ứng lan toả của nó đến mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, cộng hưởng với các yếu tố trong nước trước thềm Đại hội 13 của Đảng cộng sản mở ra cơ hội phát triển.
Trong giai đoạn gần đây nước ta cũng từng có những cơ hội lớn bị bỏ lỡ, bởi vì thiếu những chính sách cải cách cần thiết vượt qua ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều.
Đặc điểm bao trùm xu hướng phát triển thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay là sự đối đầu liên tục giữa hai ý thức hệ : chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga năm 1917 là ‘biến cố’ đã sản sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, mô hình Xô – Viết, mở đầu xu hướng này. Chiến tranh thế giới II (1939 -1945) đã kết thúc sự tồn vong của chủ nghĩa phát xít, nhưng cũng là lúc khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần 50 năm giữa hai hệ thống đối nghịch về hệ tư tưởng.
Sau khi mô hình Xô-Viết sụp đổ ở Đông Âu năm 1991, mặc dù còn có những biến thể kiểu như mô hình Trung Quốc, nhưng thế giới đã chứng kiến giai đoạn toàn cầu hoá mạnh mẽ, tưởng như, làm mờ dần và có thể xoá đi sự khác biệt ý thức hệ để cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra xu hướng này vẫn tiếp diễn. Sự khác biệt chế độ chính trị không những không mất đi mà âm ỉ, và dần bùng lên thành đám cháy ngày càng dữ dội.
Điều kỳ diệu tăng trưởng nhanh của mô hình Trung Quốc dần tan biến. Chính quyền Bắc Kinh bị cáo buộc cạnh tranh kinh tế không công bằng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phát động cuộc thương chiến từ năm 2018, và nhanh chóng leo thang sang các lĩnh vực khác, từ sở hữu trí tuệ, công nghệ cao đến các vấn đề nhân quyền, tôn giáo và tham vọng địa chính trị… Sự đối đầu ý thức hệ dường như trong mọi vấn đề quan hệ song phương Mỹ - Trung.
Đại dịch Covid-19 bộc lộ bản chất chuyên quyền chế độ toàn trị ở Trung Quốc, như ‘giọt nước tràn ly, làm căng thẳng mâu thuẫn giữa hai cường quốc kinh tế, làm thay đổi bối cảnh phát triển cho các quốc gia trên thế giới.
Quá trình phát triển của Việt Nam, quốc gia có chế độ với ý thức hệ tương đồng với Trung Quốc, bị chi phối mạnh mẽ trong bối cảnh nêu trên, trong đó đã từng có các cơ hội bị bỏ lỡ.
Hai cơ hội quan trọng mà Việt Nam đã bỏ lỡ được các nhà nghiên cứu chỉ ra là thời cơ sau năm 1975 ngay sau khi đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và sau chính sách ‘đổi mới’ đất nước, lấy mốc từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6 năm 1986.
Trước hết, sau năm 1975 đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và hoà bình là cơ hội to lớn để phát triển. Dân tộc Việt Nam có một khát vọng mạnh mẽ hướng tới tương lai thịnh vượng. Mặc dù, sau chiến tranh đất nước còn nghèo và lạc hậu, nhưng có niềm tin lớn về tiềm năng con người, ý chí vượt khó của người dân, năng lực lãnh đạo của những người cầm quyền, được thử thách trong chiến tranh…
Tuy nhiên, như hệ quả của xu hướng phát triển chung, ‘Bên thắng cuộc’ đã áp đặt luật chơi. Đồng thời với việc khắc phục hậu quả của chiến tranh, ‘thể chế xã hội chủ nghĩa’ đã thiết lập trên cả nước, từ hành chính đến nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đối với miền Nam các chính sách đổi tiền, cải tạo công thương, quốc hữu hoá ruộng đất… đã xoá đi các nền tảng và các quan hệ thị trường, tuy giới hạn trong điều kiện thời chiến, nhưng đã kết nối rộng rãi với các nước tư bản tiên tiến. Hậu quả nặng nề để lại là tình trạng kiệt quệ về kinh tế trong suốt hơn hơn một thập kỷ sau.
Cơ hội quan trọng thứ hai xuất hiện vào thập niên 1990 trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hoàn toàn và quá trình toàn cầu hoá. Các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) nối lại viện trợ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Nhiều yếu tố hội tụ tạo cơ hội cho Việt Nam hội nhập với kinh tế thị trường khu vực và thế giới.
Đây là ‘cơ hội thị trường’. Nó được khởi đầu bằng việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, nới rộng quyền tự do kinh tế cho người dân và doanh nghiệp. Cơ hội này đã giúp Việt Nam đạt tốc độ tăng GDP cao trên 7% trong khoảng một thập kỷ, tạo nên hình ảnh ‘con hổ mới’ ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, ‘sự bứt phá’ bị cản lại bởi chính sách sai lầm, duy ý chí. Với mục tiêu tăng trưởng nhanh các nguồn lực đã tập trung cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, coi đó là trụ cột của nền kinh tế, kiểu cheabol của Hàn Quốc. Sự khác biệt về tính chất sở hữu, tư nhân và nhà nước, cộng với quản lý yếu kém khiến mô hình này sụp đổ.
Việc vận dụng giáo điều ý thức hệ xã hội chủ nghĩa trong chính sách kinh tế hướng thị trường là căn nguyên sai lầm. Hậu quả là tốc độ tăng trưởng giảm sút và bất ổn thể chế, khoảng cách tụt hậu kinh tế đã nới rộng so với các nước trong khu vực.
Cơ hội phát triển và cơ hội thay đổi trong bối cảnh Covid-19 là chủ đề nóng hiện nay. Do tính chất đối đầu ý thức hệ có thể gọi đây là ‘cơ hội thoát Trung’ đối với nhiều nước trên thế giới và Việt Nam.
Đại dịch này chính là lúc Việt Nam cần đánh giá lại việc áp dụng mô hình Trung Quốc trong thời gian qua. Trước hết, cần làm rõ sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc, tình trạng thâm hụt thương mại nghiệm trọng và kéo dài, các dự án đầu tư kém chất lượng, nhất là trong các lĩnh vực trọng yếu như năng lượng và giao thông… Truyền thông nhà nước dường như công khai hơn với loại tin tức này, thậm chí đưa tin trong kỳ họp đang diễn ra của Quốc Hội khoá XIV về việc doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng dưới nhiều hình thức để kiểm soát các dự án bất động sản có vị trí ‘nhạy cảm’ đối với an ninh quốc gia…
Việc đánh giá toàn diện hiệu quả và tác động của các chính sách cũng trở nên cần thiết. Chính sách với ‘sáng kiến’ Chính phủ kiến tạo, liệu có khác biệt với chính sách thực dụng do Đặng Tiểu Bình khởi xướng từ đầu những năm 1990. Nó đang thúc đẩy tăng trưởng, nhưng liệu đích đến có thể là chủ nghĩa tư bản thân hữu, như thực tế hiện nay ở Trung Quốc. Dự luật ‘Đặc khu hành chính – kinh tế’ như biện pháp đột phá, đã không được Quốc hội thông qua trước sự phản đối của dân chúng… Dư luận đang cho rằng, việc thành lập Khu kinh tế Vân Đồn, biến tướng của đặc khu, là lách luật...
Cơ hội thay đổi này đặt cơ sở cho một chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ sự di chuyển của chuỗi cung từ Trung Quốc. Giáo sư Trần Văn Thọ, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đã đề xuất một ‘Chiến lược phát triển Việt Nam sau đại dịch’, khái quát về tái cấu trúc nền kinh tế và chuẩn bị các điều kiện cơ sở hạ tầng, cải cách hành chính…
Cuối cùng, làn sóng thoát Trung hiện nay của các quốc gia khiến Việt Nam cân nhắc những đề xuất nâng cấp quan hệ với Mỹ trong chính sách đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và tham gia ‘Tứ giác kim cương mở rộng’ bao gồm bốn nước Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ với Hàn Quốc, New Zeland và Việt Nam. Nên coi đây cơ hội để tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự đe doạ của chính quyền Bắc Kinh.
Cải cách thể chế chính trị trên nền tảng ý thức hệ lạc hậu là thách thức chủ yếu đối với cơ hội phát triển. Liệu một lần nữa Việt Nam sẽ lại bỏ lỡ cơ hội thay đổi để phát triển ?
Những kết quả ‘về cơ bản khống chế’ Covid-19 được nhấn mạnh là nhờ ưu thế của chế độ, vốn được thể hiện trong trạng thái ‘thời chiến’, nhưng đó cũng chính là lực cản phát triển cho kinh tế thị trường trong điều kiện bình thường.
Chế độ đảng cộng sản toàn trị luôn đặt sự tồn vong là ưu tiên trong mọi tình huống. Từ bản chất của nó phương châm cải cách ‘tiệm tiến’ được xác định như sự đề phòng rủi ro. Thực tế cho thấy những chính sách đột phá thường chỉ xảy ra khi chế độ ‘bị dồn vào chân tường’, và hy vọng ‘mong manh’ đặt ở những ‘vị vua anh minh’.
Liệu Đại hội 13 có lựa chọn được những lãnh đạo đủ tầm để nắm bắt cơ hội thay đổi để phát triển ?
Phạm Quý Thọ, gửi từ Hà Nội
Nguồn : RFA, 23/05/2020
"Thế hệ Z" : Những người bị lãng quên trong đại dịch Covid-19
Các hệ quả xã hội của "lối làm việc từ xa" do đại dịch Covid-19 là chủ đề trang nhất của nhiều tuần báo Pháp cuối tháng 5/2020, vào lúc hàng loạt quốc gia bắt đầu dần dần ra khỏi phong tỏa. Trang bìa Le Point gọi đây là một "cuộc cách mạng". Nhưng L’Obs dè dặt với câu hỏi : "Làm việc từ xa : tiếp tục hay nên dừng ?".
Lớp trẻ "bị hy sinh" trong đại dịch Covid-19 ? Trong ảnh : một góc trang bìa tuần san Pháp Courrier International, số ra cuối tháng 5/2020. © Copy d'écran
Trước hết xin giới thiệu chủ đề chính của tuần san Courrier International về một vấn đề nhạy cảm, gây nhiều tranh cãi : đại dịch Covid khoét sâu mâu thuẫn thế hệ giữa người trẻ với người cao tuổi, trong gia đình và ngoài xã hội, cụ thể là tại các quốc gia phương Tây. Courrier international chạy tựa trên trang bìa : "Cuộc chiến giữa các thế hệ", với hình ảnh một thanh niên đang còng người vác trên vai ba ông bà cụ dắt chó. Tất cả đều đeo khẩu trang.
Lời chú bên dưới của Courrier international : "Nếu như chúng ta thấy đa số các nạn nhân của dịch bệnh là người cao tuổi, thì những người trẻ nhất phải gánh chịu các hậu quả của chính sách phong tỏa : thất nghiệp, suy thoái… Liệu có xảy ra sự đối đầu giữa các thế hệ ?".
Xã luận Courrier international ghi nhận cả hai lứa tuổi đều là nạn nhân chính của đại dịch, nhưng mỗi bên một kiểu. Người già là nạn nhân của bệnh dịch, người trẻ : nạn nhân của phong tỏa.
Covid-19 khoét sâu mâu thuẫn trẻ - già : Đâu là lối thoát ?
Thế hệ trẻ, tức thế hệ "Z" (hay các Zoomer) ra đời sau năm 1996 (thế hệ cách đây ít tháng còn biểu tình phản đối thái độ trơ ì của chính phủ các nước trước tình trạng khẩn cấp về khí hậu). Giới trẻ hiện nay đang bị mắc kẹt trong một thế giới đang trên đường đi đến "ngày tận thế", với các thảm họa đang dần trở nên chuyện thường ngày, và tình trạng bấp bênh có xu hướng ngày càng gia tăng.
Già hay còn gọi là các "baby boomer", tức thế hệ sinh sau chiến tranh, từ 1944 đến 1964, thế hệ được coi là được hưởng những điều kiện thuận lợi của một xã hội có đầy đủ việc làm, tăng trưởng liên tục. Thế hệ này bị cáo buộc đã để lại cho lớp trẻ "một thế giới nghẹt thở, một thế giới ô nhiễm, một thế giới về cơ bản là rất khó sống" (phát biểu của triết gia Pascal Chabot, trên báo Bỉ La Libre Belgique).
Courrier International giải thích lý do chọn chủ đề này. Thoạt tiên, tuần san dự định nói về những người cao tuổi bị quên lãng, phải sống cách biệt trong các trại dưỡng lão, rất nhiều người nằm trong số các nạn nhân thiệt mạng vì đại dịch. Tuy nhiên, theo nhiều thành viên trong ban biên tập, có một đối tượng dường như còn bị lãng quên nhiều hơn trong thời gian vừa qua, đó là những người trẻ nhất, thuộc thế hệ Z, những người dưới 30 tuổi. Dù ít có nguy cơ mắc bệnh hơn nhiều, nhưng những người trẻ cũng buộc phải ở nhà, do lệnh phong tỏa. Vốn đã thường trong cảnh sống bấp bênh trước dịch, những tuần lễ phong tỏa khiến cuộc sống của họ trở nên khó khăn thêm, tương lai trong thời gian tới của họ còn bất định hơn nữa.
Đại dịch Covid : Điều "hết sức bình thường"
Giới trẻ có cách nhìn rất khác về đại dịch, có thể hoàn toàn trái ngược so với người cao tuổi, hay với tầng lớp trung niên. Cô Georgia Noble Irwin, trong một tâm sự trên nhật báo Canada Globe and Mail (được Courrier international dẫn lại), đã "hết sức ngạc nhiên khi chứng kiến thái độ sững sờ của cha mẹ cô" trước đại dịch. Đối với thiếu nữ Canada 20 tuổi này, thì một biến cố như đại dịch Covid-19 là điều hoàn toàn bình thường, có thể dự báo được trong một thế giới như hiện nay, một thế giới gần với ngày tận thế, khi các thảm họa xảy ra gần như hàng ngày, và có xu hướng gia tăng.
Georgia lúc hai tuổi sống tại New York, nhà ngay sát Tòa tháp đôi bị tấn công khủng bố. Trong suốt thời thơ ấu, cô chứng kiến qua truyền thông nạn cháy rừng trở thành cơm bữa, và không tính đếm nổi đã xem bao nhiêu đoạn video cho thấy cảnh băng sơn tại các cực tan chảy. Hàng trăm giống loài động vật biến mất trong "tuổi thơ ngắn ngủi" của mình. Nhiều năm liền cô gái Georgia đã góp tiền cho WWF để cứu loài gấu trắng Bắc cực, bị đe dọa tuyệt chủng do biến đổi khí hậu.
Thiếu nữ Canada 20 tuổi này lên án các thế hệ đi trước, mà cô cho rằng đã tạo ra cái thế giới kinh hoàng hiện nay, với biến đổi khí hậu, hủy hoại môi trường trên thực tế, với những sản phẩm truyền hình, điện ảnh bom tấn, phổ biến những hình ảnh về một thế giới mà các nguồn tài nguyên cạn kiệt… Thế hệ trẻ hiện nay "đã được chuẩn bị" để sống trong một thế giới đầy thảm họa như vậy.
Hãy cho lớp trẻ có tương lai !
Xã luận Courrier International khép lại với một bài viết khác trên báo Úc Sydney Morning Herald, mang tựa đề "Hãy mang lại hy vọng cho thế hệ trẻ". Nhưng bằng cách nào ?
Theo báo Úc Sydney Morning Herald, phải bằng các chính sách chấn hưng công bằng hơn, thực sự chú trọng đến môi trường. Nhà báo Caitlin Fitzsimmons, tác giả bài viết trên Sydney Morning Herald, cố gắng vượt qua mâu thuẫn giả tạo, quan điểm khoét sâu tính mâu thuẫn giữa hai thế hệ : Cổ vũ cho việc bỏ phong tỏa để cứu nền kinh tế, cứu giới trẻ, thay vì duy trì phong tỏa để cứu thế hệ cao niên.
Theo tác giả, ngăn ngừa đại dịch là điều chắc chắn phải làm, để giải quyết cuộc khủng hoảng y tế trước mắt, nhưng về lâu dài, không thể quên đi xu thế biến đổi khí hậu, là "mối đe dọa nguy hiểm hơn nhiều về dài hạn". Chưa kể việc, biến đổi khí hậu có thể làm tăng nguy cơ đại dịch xuất hiện nhiều hơn. Chấn hưng kinh tế bằng mọi giá là đi vào ngõ cụt. Vấn đề chủ yếu mà lớp người đi trước có thể làm cho các thế hệ trẻ, là xây dựng một hệ thống kinh tế coi việc bảo vệ tối đa môi trường là mục tiêu. Để "trả món nợ" cho các thế hệ trẻ không gì tốt hơn là để cho chúng có một tương lai.
Không thay "la bàn", các nền dân chủ sẽ tiêu vong
Báo L’Obs tuần này có bài "Thay đổi la bàn", trên trang đầu, với nhận xét : "Cùng với cơn chấn động kinh hoàng do đại dịch và kinh tế đột ngột suy thoái… nhiều huý kị cũng đã tan vỡ. Đến mức mà nhiều chủ nhân lớn và nhiều chính trị gia cánh hữu cũng phải bắt đầu lên án sự chú ý đầy tội lỗi của chế độ xã hội cho tới nay tập trung hướng đến mục tiêu duy nhất là tính hiệu quả về tài chính".
"La bàn" là gì ? L’Obs lưu ý là "mô hình kinh tế tư bản của chúng ta chỉ có thể thực sự được sáng tạo lại, nếu như chúng ta triệt để hiện đại hóa các công cụ đánh giá. Cần phải đi sâu vào cốt lõi của cỗ máy kinh tế này, vào tận trong gan ruột của con quái thú kinh tế tư bản, để viết lại các quy tắc về kế toán, của các công ty, cũng như của nhà nước". Cụ thể là cần phải thay cách tính GDP (tổng sản phẩm nội địa) bằng các chỉ số khác, như chỉ số phát triển con người (IDH), có tính đến tuổi thọ, giáo dục… Tuy nhiên, hiện thời chỉ số IDH này chưa tính đến nhiều yếu tố khác, như môi trường, tính đa dạng xã hội, khả năng hội nhập các nhóm yếu thế… L’Obs nhấn mạnh là vấn đề đo lường "hoàn toàn không chỉ có tính kỹ thuật, mà mang ý nghĩa chính trị sâu sắc". Chính cách đo lường này là "chiếc la bàn định hướng các thị trường, các doanh nghiệp, chính phủ các nước".
L’Obs giải thích : Nếu nền kinh tế hiện nay vẫn tiếp tục hướng đến các mục tiêu "không đếm xỉa gì đến đời sống, thiên nhiên, sức khoẻ, các liên hệ xã hội….", thì chúng ta sẽ bị dẫn vào "ngõ cụt". Cần tranh thủ ý thức tập thể bắt đầu thức tỉnh, do khủng hoảng y tế, để khởi sự công việc này. Và điều này chỉ có thể thành công nếu được thực hiện trên quy mô toàn cầu, bắt đầu với Châu Âu và Hoa Kỳ. Nếu nền kinh tế tiếp tục đi theo con đường cũ, các nền dân chủ sẽ tiêu vong.
Orsted và mục tiêu 100% năng lượng tái tạo
L’Express giới thiệu về mô hình chuyển đổi thành công sang kinh tế xanh : tập đoàn năng lượng số một của Đan Mạch Orsted, đứng đầu thế giới về điện gió trên biển. Vốn là một doanh nghiệp than đá và dầu mỏ, Orsted đang hướng tới mục tiêu 99% năng lượng tái tạo vào năm 2025.
Orsted bắt đầu bước ngoặt chuyển đổi hoàn toàn sang kinh tế xanh một năm trước dịp thượng đỉnh khí hậu COP15 tại Đan Mạch (2009). Giờ đây tập đoàn với doanh thu 9 tỉ euro/năm, và vốn trên thị trường chứng khoán là hơn 38 tỉ euro, đã đến gần đích, với 86% năng lượng tái tạo. Lãnh đạo tập đoàn tin tưởng là, cho dù khủng hoảng Covid-19 kéo dài, nhu cầu phát triển năng lượng gió trên biển sẽ không giảm bớt. Orsted có kế hoạch đầu tư vào Mỹ, Đài Loan và Nhật Bản trong thời gian tới. Hiện tại, nhà nước Đan Mạch nắm hơn 50% cổ phần của công ty. Orsted chiếm 30% thị phần năng lượng gió trên biển toàn cầu (ngoài Trung Quốc).
Đào tạo nhà quản trị cho cuộc chuyển đổi sinh thái
Công cuộc chuyển sang nền kinh tế xanh cần những nhà quản trị có hiểu biết phù hợp. Le Point giới thiệu tiếng nói của ông Franck Papazian, chủ tịch liên minh các trường đại học tư thục chuyên về truyền thông (MediaSchool), đang chuẩn bị mở một cơ sở đào tạo các nhà quản lý phục vụ cho định hướng chuyển đổi sang xã hội tôn trọng sinh thái và đoàn kết. Trường mang tên Green Management School sẽ mở cửa vào tháng 10 tới, tiếp nhận các sinh viên có trình độ Bac+3 trở lên.
Trong bài phỏng vấn mang tựa đề "Chuyển hóa sinh thái là kỹ thuật số của thời kỳ mới", ông Franck Papazian cho biết, trong tương lai việc đào tạo các nhà quản lý doanh nghiệp hướng sang kinh tế xanh sẽ được tổ chức một phần đáng kể từ xa, theo mô hình của trường đào tạo về truyền thông MediaSchool hiện nay, với khoảng từ 20% đến 30% thời gian đào tạo từ xa. Việc đào tạo từ xa cho phép tiết kiệm chi phí, bớt gây tổn hại cho môi trường hơn, và cũng tạo điều kiện mở rộng việc học cho đông người hơn.
"Làm việc từ nhà" : Cái lợi, cái hại
Làm việc từ nhà, những mặt lợi, mặt hại là chủ đề chính của cả hai tuần báo L’Obs và Le Point. Tuần báo Le Point tỏ ra lạc quan nhiều hơn về viễn cảnh làm việc từ xa ngày càng phát triển. Dưới hàng tựa trang bìa "Làm việc không cần tới xe điện ngầm" là ảnh người phụ nữ ngồi bên máy tính giữa thiên nhiên, chan hòa ánh nắng.
Bài "Làm việc từ xa có lợi cho sức khoẻ hay không ?" của Le Point nói đến kinh nghiệm cụ thể tại tập đoàn PSA, Peugeot Citroen, nơi đã sớm khởi sự việc chuyển sang làm việc từ xa, trước khi nước Pháp bắt đầu tiến hành phong tỏa chống dịch. Gần 80 nghìn trong số 200 nghìn nhân viên của hãng được bố trí làm việc từ nhà trong một phần lớn thời gian. Tuy nhiên, nếu như làm việc từ xa mang lại nhiều lợi thế, đặc biệt là tiết kiệm về thời gian đi lại của nhân viên, đầu tư cho trụ sở công ty, thì cách làm việc này cũng gây ra khá nhiều bất lợi cho việc phối hợp tập thể, cho các hoạt động đòi hỏi tinh thần cộng tác sáng tạo, vốn rất cần đến các tiếp xúc trực tiếp, cần được khắc phục bằng nhiều biện pháp khác.
Về chuyện làm việc từ xa, L’Obs có vẻ dè dặt hơn nhiều với câu hỏi : "Làm việc từ xa, nên tiếp tục hay dừng?", trên nền hình ảnh một người phụ nữ làm việc trong nhà, ngay bên cạnh là đứa con, không khí căn phòng kín bưng, bức bối. Theo L’Obs, với lệnh phong tỏa chống Covid-19, làm việc từ xa tại nhà có xu hướng trở thành một hiện thực khó thay đổi đối với hàng triệu người Pháp.
Để có kết quả lâu bền
Khoảng 5 triệu người Pháp chủ yếu làm việc từ nhà trong thời gian phong tỏa (so với 1,7 triệu người, theo số liệu của Dares năm 2017, nhưng với tỉ lệ thời gian làm việc tại nhà không nhiều). Theo một thăm dò dư luận của CSA cho Linkedln, một phần ba người được hỏi cảm thấy căng thẳng trong công việc hơn, 45% cho rằng dành nhiều thời gian cho công việc hơn trước.
Để làm việc từ xa tại nhà có kết quả về lâu dài, theo L’Obs, bên cạnh việc cải thiện các cách thức phân chia công việc trong gia đình, phân chia không gian, thời gian làm việc với các không gian, thời gian sinh hoạt khác (đặc biệt là việc chăm sóc con cái), thì việc tổ chức các thương lượng tập thể giữa nghiệp đoàn với giới chủ để xác lập các quy tắc trong lĩnh vực này là cần thiết, như nhận định của một chủ tịch nghiệp đoàn công chức Pháp, ông François Hommeril (nghiệp đoàn CFC-CGC).
Trọng Thành