- Những sự kiện lịch sử nhắc nhớ Đảng cộng sản Việt Nam.
- Đảng cộng sản Việt Nam phải làm gì và cần làm gì để đoái công chuộc tội với đất nước.
Cắm hoa vào kẻ hở trên Bức tường Berlin để tưởng niệm những người dân Đông Đức đã chết khi tìm cách vượt thoát qua bức tường này tìm tự do.
Đó là nội dung bài viết nhân tưởng niệm 30 năm sụp đổ của bức tường Berlin (1989-2019) hay còn gọi là "Bức tường ô nhục" chia cắt Đông Đức cộng sản toàn trị và Tây Đức dân chủ pháp trị. Từ sự sụp đổ này đã tiếp nối sự sụp đổ nhanh chóng của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và sau cùng là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết, gọi tắt là Liên Xô, từng được xưng tụng là "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" của Đảng cộng sản Việt nam.
I. Những sự kiện lịch sử nhắc nhở Đảng cộng sản Việt Nam
1. Tưởng niệm 30 năm bức tường Berlin sụp đổ (1989-2019)
Theo tin truyền thông, nước Đức hôm thứ Bảy ngày 9-11-2019 trong một buổi lễ trang trọng tại Khu tưởng niệm Bức tường Berlin Bernauer Strasse kỉ niệm 30 năm ngày Bức tường chia cắt Đông và Tây Đức này sụp đổ. Bức tường được nhà cầm quyền Đông Đức cộng sản độc tài dựng lên gần 30 năm (1961-1989) để ngăn chặn làn sóng người dân Đông Đức cộng sản trốn chạy qua Tây Đức tự do dân chủ. Vào tháng 8 năm 1989, lính biên phòng Hungary lần đầu tiên cho phép người dân từ Đông Đức tự do băng qua biên giới vào Áo, mở đường cho sự sụp đổ của Bức tường Berlin ba tháng sau đó và đặt dấu chấm hết cho Bức màn Sắt. Một năm sau khi bức tường sụp đổ, chế độ Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Đức sụp đổ, nước Đức thống nhất vào năm 1990 dưới chế độ dân chủ Cộng hòa Liên Bang Đức đến nay.
Tham dự lễ tưởng niệm, ngoài Tổng Thống Frank-Walter Steinmeier và Thủ Tướng Đức Angela Merkel, các quan chức cấp cao và đông đảo quần chúng nhân dân Đức, còn có sư hiện diện của bốn nguyên thủ các quốc gia Đông Âu từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Đó là Tổng thống Janos Ader của Hungary, Andrzej Duda của Ba Lan, Zuzana Caputova của Slovakia và Milos Zeman của Cộng hòa Czech Republic. Tất cả cùng cắm hoa tưởng niệm vào kẻ hở trên Bức tường Berlin để tưởng niệm những người dân Đông Đức đã chết vì tìm cách vượt thoát qua bức tường này tìm tự do.
Tại buổi lễ, Tổng thống Đức Steinmeier nói ‘"Cùng với những người bạn của chúng tôi, chúng tôi nhớ về các sự kiện 30 năm trước với lòng biết ơn sâu sắc", ; và rằng "Nếu không có sự can đảm và ý chí tự do của người Ba Lan, người Hungary, người Czech và người Slovakia, các cuộc cách mạng hòa bình ở Đông Âu và việc thống nhất nước Đức sẽ không thể thực hiện được".
2. Đài Tưởng niệm Nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản (Victims of Communism Memorial)
Đài tường niệm nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trong một khuôn viên tại Washington D.C., ở giao điểm của Đại lộ Massachusetts và Đại lộ New Jersey và Đường G, N.W, cách Union Station hai dãy phố và trong tầm nhìn của Tòa Nhà Quốc Hội Hoa Kỳ, về hướng tây.
Theo tài liệu lưu trữ của Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản thì mục đích của tượng đài là : "để lịch sử về sự tàn bạo của cộng sản sẽ được dạy cho các thế hệ tương lai", và được ghi nhận là "để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản"
Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khánh thành vào ngày 12 tháng Sáu, 2007, kỷ niệm 20 năm ngày Tổng thống Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng trước Bức Tường Berlin, rằng "Hãy phá đổ bức tường này".
3. Ngày Tưởng niệm Nạn nhân cộng sản tại Hoa Kỳ (7/11/2017)
Một ngày trước chuyến thăm Trung Quốc, Tổng thống Donald Trump công bố ngày 7/11 là Ngày Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản.Thông cáo từ Tòa Bạch Ốc lúc đó`nói ngày 7/11 đánh dấu 100 năm (1917-2017) kể từ khi cuộc cách mạng do đảng cộng sản Bolshevik Nga do Vlamir Lenin lãmh đạo nổ ra tại Nga, dẫn tới việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) và những thập niên đen tối của chủ nghĩa cộng sản đàn áp, một triết lý chính trị không thích hợp với tự do, thịnh vượng, và nhân phẩm của đời sống con người.
Thông báo của Tòa Bạch Ốc nhấn mạnh, rằng trong thế kỷ qua, các chế độ cộng sản độc tài trên khắp thế giới đã giết chết hơn 100 triệu người và biến vô số người khác thành nạn nhân của tình trạng bóc lột, bạo động, và những sự hủy diệt chưa kể hết. Rằng, qua các phong trào mạo danh sự giải phóng đã tước đoạt một cách có hệ thống các quyền của người dân vô tội được Thượng đế ban cho như quyền tự do thờ phượng, tự do lập hội, cùng nhiều quyền khác nữa. Và rằng dưới chế độ cộng sản, các công dân khao khát tự do bị nô dịch hóa bởi nhà nước qua việc sử dụng bạo động, gieo rắc sự sợ hãi, và hăm dọa.
Thông cáo Tòa Bạch Ốc cũng nói, ngày hôm nay, chúng ta tưởng nhớ những người đã thiệt mạng và tất cả những người tiếp tục phải chịu đựng dưới chế độ cộng sản. Trong sự tưởng nhớ và vinh danh tinh thần của những ai đã tranh đấu dũng cảm giúp làm lan tỏa tự do và cơ hội trên khắp thế giới, nước Mỹ tái khẳng định quyết tâm không lay chuyển mang ánh sáng tự do tới với tất cả những ai khao khát một tương lai tươi sáng, tự do hơn.
Giờ đây nhớ lại, hơn 100 năm trước, từ ngày 6 đến 9/11/1917, Hồng quân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin chiếm Cung điện Mùa đông ở Nga và thành lập chế độ cộng sản, khởi đầu một thế kỷ mà trong đó có hơn 100 triệu người bị sát hại bởi lý tưởng này. Ngày nay, nhiều người vẫn còn là nạn nhân của cộng sản trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam, Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc, Campuchea và Lào… Đàn áp xảy ra tại các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản dưới các hình thức từ diệt chủng như thời Khơ Me Đỏ ở Campuchea hay dưới thời cai trị của Joseph Stalin ở Liên Xô, tiêu diệt văn hóa-trí thức như dưới thời Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa kể cả Việt Nam, cho tới bắt bớ tù đày những người bất đồng chính kiến như tại Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc hay Việt Nam.
Trong một sự kiện hôm 6/10/ 2017 tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Donald Trump tuyên bố ‘Lý tưởng cộng sản thất bại đã mang lại sự đàn áp đối với người dân Cuba, chẳng mang lại gì ngoài sự thống khổ chịu đựng ở tất cả mọi nơi khác mà nó hiện diện, tất cả mọi nơi.’Tổng thống Mỹ nhấn mạnh ‘Chủ nghĩa cộng sản là quá khứ. Tự do là tương lai.’
3. Tác hại của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam
Mọi người Việt Nam không thể nào quên những tội ác chồng chất do chủ nghĩa cộng sản gây ra kể từ sau khi chủ nghĩa không tưởng này được ông Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông du nhập tụ đảng tại Việt Nam (1930).
Tội ác xẩy ra cao độ là trong thời kỳ Đảng cộng sản Việt Nam đã "ngụy dân tộc" phát động, tiến hành cuộc "Chiến tranh giải phóng Miền Nam" để cộng sản hóa cả nước (1954-1975), với sự hậu thuẫn của các nước cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và các nước phe xã hội chủ nghĩa. Chính cuộc chiến tranh "nồi da sáo thịt này" đã sát hại hàng triệu sinh linh người dân Việt Nam trên cả hai miền Bắc-Nam của đất nước. Đất nước bị tàn phá tan hoang, dân tộc bị phân hóa, hận thù và đói nghèo tràn lan. Đỉnh cao tội ác của chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh là vụ sát hại, chôn sống trong các ngôi mộ tập thể lên đến khoảng bốn năm ngàn người. Sau chiến tranh, đỉnh cao tội ác của chủ nghĩa cộng sản là giam cầm, đầy ải, sỉ nhục hàng trăm ngàn quân dân,cán chính chế độ Việt Nam Cộng hòa ở Nam Việt Nam trong các trại tù gọi là "Tập trung cải tạo" ; Tội ác đàn áp, bắn giết, tù đầy, khủng bố hàng ngàn người chống đối chế độ đòi dân chủ, tự do, nhân quyền hơn 44 năm qua (1975-2019)… Tất cả tội ác này, từ quá khứ đến hiện tại ở Việt Nam đều là từ, do và vì chủ nghĩa cộng sản đã được các thế hệ đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng vào thực tiễn.
Vậy thì…
III. Đảng cộng sản Việt Nam phải và cần làm gì để đói công chuộc tội với đất nước ?
Thật đơn giản và trong tầm tay của đảng Cộng sản Việt Nam nay đã biến chất, biến thể không còn là cộng sản nữa.Vì là một đảng đã và đang độc quyền thống trị hơn 64 năm qua nắm quyền sinh sát trong tay (20 năm nửa nước Miền Bắc và 44 năm thống trị cả nước). Nay Đảng cộng sản chỉ cần thực tâm "sám hối" (chẳng cần thú nhận công khai) về quá khứ sai lầm đã chọn con đường cộng sản chủ nghĩa, gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước. Đồng thời, tự nguyện, tự giác, quyết tâm, chủ động thực hiện các bước sau đây :
1. Chấm dứt bắc bớ, đàn áp, khủng bố và thả hết những người bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước đang bị cầm tù.
2. Đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa đất nước về mặt pháp lý (sửa đổi Hiến pháp và Luật pháp quốc gia theo hướng dân chủ…) và dân chủ hóa về mặt thực tiễn (điều chỉnh cơ chế tổ chức công quyền, đào tạo nhân sự quản lý, điều hành hệ thống công quyền quốc gia các cấp hành chánh quân sự để có được một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân…). Tất cả được tiến hành đồng bộ, theo một tốc độ phù hợp để giữ vững ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, tránh xáo trộn bất lợi cho đất nước.
3. Chủ động kết thúc êm dịu tiến trình chuyển hóa từ chế độ độc tài toàn trị qua chế độ dân chủ pháp trị sau một thời gian thích hợp, mà vẫn giữ được ổn định và các cựu đảng viên cộng sản vẩn có cơ hội nắm quyền theo Hiến pháp và luật pháp dân chủ mới hình thành, nếu có tài đức, được nhân dân tuyển chọn qua lá phiếu bầu trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do thật sự.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 15/11/2019
Nước Mỹ mất gì khi bức tường Berlin sụp đổ ?
Lê Mạnh Hùng, Người Việt, 13/11/2019
Khi bức tường Berlin sụp đổ vào ngày 10 tháng Mười Một cách đây ba muơi năm, Tổng Thống Mỹ George H.W Bush không tỏ ra xúc động và vui mừng bao nhiêu. Và khi được các phóng viên báo chí vặn hỏi, ông Bush trả lời "Tôi không phải là loại người đa cảm" (I’m just not an emotional kind of guy).
Tổng Thống George H. W. Bush và Thủ Tướng Đức Angela Merkel trong chuyến thăm Berlin hồi tháng Bảy, 2008. (Hình : Getty Images)
Một phần lý do là bản tính tự kiềm chế bẩm sinh của một con người điển hình thượng lưu của miền New England. Một phần khác là ông không muốn làm gì để động lòng Moscow vốn trong tình trạng dao động vì việc mất cả đế quốc tại Đông Âu. Nhưng nay sau ba mươi năm nhìn lại có thể rằng ông Bush đã linh cảm rằng việc sụp đổ của bức tường Berlin đã làm cho nuớc Mỹ mất nhiều hơn là được.
Người ta đã nói nhiều điều, những hậu quả không ngờ của sự sụp đổ của đế quốc Xô Viết đối với trật tự thế giới. Chúng ta đã biết đến việc nó thả ra khỏi cái chai các ông thần của tinh thần tôn giáo và dân tộc nguyên thủy. Người ta cũng nói đến sự xuất hiện của một nước Nga hận thù. Nhưng điều mà rất ít người nói đến là điều mà Mỹ bị mất trong sự sụp đổ này. Với sự sụp đổ của đế quốc Cộng Sản, nước Mỹ mất một kẻ thù có thể làm cho toàn dân đoàn kết. Ngày nào mà đất nước còn bị đe dọa bởi một kẻ ngoại thù, thì tự nhiên có một giới hạn cho những tranh chấp bên trong. Đẩy mâu thuẫn nội bộ lên đến quá mức là không ái quốc.
Thế nhưng một khi không còn đối thủ, hay ngay cả một kẻ cạnh tranh, người Mỹ bắt đầu bỏ các giới hạn trong việc tranh chấp phe đảng. Không có gì làm cho nước Mỹ chia rẽ hơn là khi vị thế độc tôn của Hoa Kỳ được xác định. Tinh thần phe đảng không phải đến khi Cộng Sản sụp đổ mới có, nhưng nó đã được đẩy lên đến đỉnh cao sau đó. Điều này có thể thấy qua việc lựa chọn thẩm phán Tối Cao Pháp Viện.
Trong số năm vị thẩm phán cuối cùng được đề cử trước năm 1989, có đến bốn người được tất cả Thượng Viện bỏ phiếu đồng ý. Từ đó đến nay, không một thẩm phán nào được toàn thể Thượng Viện chấp nhận. Trong vòng vài tuần nữa, có rất nhiều triển vọng rằng Tổng Thống Donald Trump sẽ bị Hạ Viện đàn hạch và đưa ra Thượng Viện xử. Nếu như vậy có nghĩa là chỉ trong vòng hơn hai chục năm đã có nhiều vụ đàn hạch hơn là cả hai trăm năm trước của lịch sử nước Mỹ.
Lịch sử không cho phép làm một thí nghiệm như trong vật lý. Chúng ta không thể biết tình trạng của chính trị Hoa Kỳ trong một thế giới mà vẫn còn một thế giới Cộng Sản vũ trang đe dọa đằng sau bức tường Berlin. Chúng ta chỉ quan sát những sự kiện và những sự kiện cho thấy rõ ràng là có một sự phân hóa gia tăng bắt đầu từ những năm 1990.
Sử gia Peter Beinart mô tả ông George H.W. Bush như là vị tổng thống chính đáng (legitimate) cuối cùng của nước Mỹ. Tuy rằng cử tri không chịu cho ông một nhiệm kỳ thứ hai nhưng không ai coi việc ông làm tổng thống là một vết nhơ cho đất nước. Trong số những người kế nhiệm ông, ba người bị các đối thủ tố cáo là trốn lính, một người bị tố cáo là không phải dân Mỹ. Có thể rằng có một thay đổi nào đó trong việc lựa chọn ứng cử viên kể từ năm 1992, nhưng rõ ràng là thấy sự thù nghịch gia tăng.
Không một tổng thống nào kể từ năm 1988 đạt được 400 phiếu cử tri đoàn ; không một người Cộng Hòa nào thắng tại hai bên bờ đại duơng và không một người Dân Chủ nào thắng ở miền Nam. Thành ra có thể nói kể từ sau Chiến Tranh Lạnh không có một vị tổng thống nào đại diện cho toàn quốc.
Trong truyện hoạt họa The Simpsons có một đoạn trong đó Homer bị gởi xuống địa ngục để chịu trừng phạt. Homer lúc nào cũng thèm ăn bánh "donut" thành ra cái sự trừng phạt của Homer là bị nhồi nhét chỉ ăn "donut" không cho ăn gì khác. Độc tôn đơn cực chính là sự trừng phạt của nuớc Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ đấu tranh để đánh đổ đối thủ của mình, Hoa Kỳ cuối cùng có quá nhiều cái mà mình muốn.
Đế quốc Xô Viết là kẻ thù tốt nhất mà nước Mỹ có thể có. Nó cho người Mỹ một cảm giác an toàn nhất về mình và vị thế của mình trên thế giới. Nó cũng cho phép người Mỹ lái lòng thù hận ra phía ngoài thay vì quay vào trong xâu xé lẫn nhau. Giống như năng lượng trong đạo luật thứ nhất của nhiệt động lực học, nó không bị tiêu hủy mà chỉ chuyển biến. Một quốc gia càng ít hướng nó ra ngoài thì nó càng quay vào trong.
Chiến thắng của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Lạnh là một kỳ công cần phải được xưng tụng trong dịp kỷ niệm 30 năm sự sụp đổ của bức tường Berlin tháng này. Nhưng đó cũng là một chiến thắng mà nuớc Mỹ phải trả một giá quá đắt.
Lê Mạnh Hùng
Nguồn : Người Việt, 13/11/2019
*****************
Hướng về Việt Nam trong ngày kỷ niệm 30 năm bức tường Bá Linh sụp đổ
Tường An, RFA, 12/11/2019
Tại nơi này, không ai có thể tưởng tượng được là cách đây 30 năm, đã có một bức tường như thế đứng sừng sững, ngăn đôi Đông Bá Linh và Tây Bá Linh trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài 43 năm. Bức tường dài 155 cây số giờ chỉ còn là những hàng gạch được giữ làm kỷ niệm, một phần bức tường vẫn còn được giữ lại. Năm 2007, chính quyền Bá Linh cho xây dựng một tuyến đường cho xe đạp dọc theo bức tường năm xưa. Tại đây, một bảo tàng viện nhỏ cũng được xây lên để giữ lại những hình ảnh vượt biên của người từ Đông Bá Linh vượt tường sang Tây Bá Linh.
Khoảng gần 3 triệu người đã trốn thoát khỏi Đông Đức sang Tây Đức, trong đó, có khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường bằng nhiều ngã khác nhau - Reuters
Nhiều người Việt từ khắp nơi cũng đã đến đây để thăm lại di tích lịch sử này, để sống lại một sự kiện đã làm thay đổi cục diện của thế giới, từ chế độ chủ nghĩa xã hội Đông Đức sang chế độ tự do của Cộng Hoà Liên bang Đức.
Đến từ Paris, nhà báo Từ Thức cho biết lý do ông phải có mặt tại Berlin trong thời điểm này :
"Tôi muốn có mặt ở đây là vì ngày hôm nay là một ngày lịch sử, không phải chỉ riêng cho nước Đức mà cho khắp thế giới. Có hai điều :
- Điều thứ nhất : Ngày này chứng tỏ chế độ cộng sản chấm dứt ở Tây phương, người Tây phương đã vỡ mộng về chế độ cộng sản.
- Điều thứ hai : Bất cứ một chế độ độc tài nào, dù vững mạnh tới đâu đi chăng nữa, cũng có một ngày sụp đổ như bức tường này. Bức tường này là một biểu hiệu cho sự sụp đổ của bất cứ chế độ độc tài nào.
Chúng ta hy vọng rằng, một ngày gần đây Việt Nam cũng ở trong hoàn cảnh đó, nghĩa là : chế độ cộng sản sụp đổ để cho người dân đứng lên nắm lấy vận mệnh của mình".
Chẳng những người Việt ở hải ngoại quan tâm đến sự kiện lịch sử này, từ trong nước, một phái đoàn Việt nam cũng đã đến Bá Linh để một lần được nhìn thấy nơi đã xảy ra một sự thay đổi vô cùng quan trọng, Tại cổng thành Brandenburg, một khách du lịch đến từ Hà Nội mong ước :
"Tôi mong muốn Trung quốc phải sụp đổ như bức tường Bá Linh ấy ! Trung quốc bây giờ nó hầm hè Việt Nam ghê gớm. Ấy ! người ta thì cần hoà bình, cần hoà hợp, người ta cần chung sống, Trung quốc nó làm đủ chuyện !"
Bức tường dài 155 cây số giờ chỉ còn là những hàng gạch được giữ làm kỷ niệm Reuters
Khoảng gần 3 triệu người đã trốn thoát khỏi Đông Đức sang Tây Đức, trong đó, có khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường bằng nhiều ngã khác nhau như trên không bằng khính khí cầu hay dưới nước qua những kênh đào hay đào đường hầm qua bức tường hoặc liều mạng leo qua tường. Chính quyền Cộng Hoà Dân chủ Đông Đức không thông báo con số chính xác về những người đã nằm lại dưới chân bức tường ở phía Đông. Nhưng không có người dân nào vượt tường từ Tây Đức sang Đông Đức
Phần lớn của bức tường giờ đây không còn nữa Tuy nhiên khoảng 1,3 km của bức tường cũng đã được giữ lại, trên đó - vào năm 1990 - thành phố Bá Linh đã mời các hoạ sĩ vẽ 106 bức họa đầy màu sắc nói lên sự mong muốn được tự do, yêu chuộng hoà bình và sự giải thoát khỏi chế độ cộng sản chấm dứt một thời kỳ chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ, nhà báo Từ Thức nhận xét :
"Sự thực xã hội Đông Đức thời đó, một cách tương đối họ cũng không đến nỗi đói khổ, nhưng người ta vẫn đứng dậy là vì không có sự tự do. Do đó, không có gì mà ngăn chận nỗi những người đi tìm Tự do. Người ta vẫn nói : thời đó, người dân Đông Đức bỏ phiếu bằng chân, bỏ phiếu bằng cách leo qua bức tường này để đến nơi tự do. Sau đó, nó đã kéo theo sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu.
Vì vậy, ngày hôm nay, đối với chúng ta là một ngày quan trọng cho tất cả mọi người, kể cả những người Việt Nam đang sống trong chế độ kiềm kẹp của chế độ cộng sản mà hiện giờ cả thế giới đang ruồng bỏ".
Sau thế chiến thứ hai, khoảng 2,5 đến 3 triệu người dân từ Đông Đức sang Tây Đức để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Đến năm 1961, mỗi ngày có đến khoảng 1.000 người Đông Đức tìm cách sang Tây Đức. Do vậy, Liên Xô và Đông Đức đã quyết định xây bức tường ngăn cách Đông – Tây Berlin vào ngày 13/08/1961 để chặn đứng dòng người vượt biên.
Hai mươi tám năm sau, đêm 9/11 rạng sáng ngày 10/11/1989 những nhát búa đầu tiên đã được đập xuống bức tường ô nhục trong sự hân hoan của mọi người. Từng viên gạch văng tung toé, từng mảng tường rơi xuống. Người Đông Berlin và Tây Berlin đổ về phía bức tường, tràn qua các trạm kiểm soát, họ mở sâm- banh và hô vang : "Tor auf !" (Mở cửa đi !) Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ chấm dứt một cách ngoạn mục. Từ thủ đô Bá Linh nhìn về Việt Nam, chị Kiều Thị An Giang - một người Việt Nam từ Đông Bá Linh đã sang Bá Linh sinh sống cách đây 20 năm - chia sẻ :
"Việt Nam cũng có một lịch sử như nước Đức, nhưng Việt Nam thống nhất tốn rất nhiều xương máu. Nước Đức ngược lại, họ thống nhất không tốn một viên đạn nào.
Sau bao nhiêu năm nhìn lại, có những điều mà người Đức vẫn chưa hài lòng. Có rất nhiều ý kiến cho rằng, hai bên chưa có thực sự bình đẳng. Cá nhân tôi là một người sống ở nước Đức đã 32 năm, tôi tự hào và kiêu hãnh về những gì mà chính phủ Đức đã làm cho một nước Đức thực sự thống nhất và bình đẳng. Nhìn lại quê hương mình, tôi chỉ dám nói hai từ "Mơ Ước".
Check point Charlie, trạm kiểm soát quan trọng nhất, cửa giao thông giữa Đông và Tây, một điểm kiểm soát nghiêm ngặt giữa Tây Berlin do người Mỹ kiểm soát và vùng Đông Berlin do Liên Xô kiểm soát, giờ là một địa điểm thu hút nhiều khách du lịch với bảo tàng viện Check Point Charlie, một mảng tường cũ cũng được đem về đây. Nhà bảo vệ của Trạm kiểm soát Charlie đã bị gỡ bỏ vào tháng 10/1990 và hiện đang nằm trong Bảo tàng Đồng Minh ở Zehlendorf, thủ đô Berlin. Phần còn lại của Check Point Charlie đã bị phá hủy vào năm 2000, chỉ còn chốt canh và hai tấm hình chụp người lính Mỹ và Liên Xô vẫn còn được giữ lại.
Ông Phạm Xuân Thủy, cũng là một người từ Đông vượt biên sang Tây Đức, hiện cư ngụ tại thành phố Stuggart bày tỏ mong ước :
"Trên thế giới này, loài người, và ngay cả bản thôi tôi đều mong muốn xóa bỏ chế độ độc tài để đưa toàn thế giới đến thành một Cộng đồng hòa hợp với nhau, có Tự do, Dân chủ cho tất cả mọi người".
Bên cạnh khoảng tường được giữ lại như một dấu ấn của lịch sử, cùng trò chuyện và nghe được mong ước của những người Việt đến từ khắp nơi, một người Đức hồ hởi chúc :
"Tôi chúc cho các bạn, một ngày nào đó trong tương lai, có được một đất nước Tự do, một thế chế không còn cộng sản, Tự do trên toàn thế giới. Chúc cho các bạn và đất nước các bạn những điều tốt đẹp nhất" !
Tường An
Nguồn : RFA, 12/11/2019
*********************
Ba mươi năm sau khi ‘Bức Tường Berlin sụp đổ’
Lê Phan, Người Việt, 10/11/2019
Cách đây 10 năm, vào dịp kỷ niệm 20 năm Bức Tường Berlin sụp đổ, chúng tôi có được cái may có mặt trong ngày kỷ niệm.
Pháo bông trên nền trời quảng trường Brandenburg ở thủ đô Berlin trong lễ kỷ niệm 30 năm ngày Bức Tường Berlin sụp đổ hôm 9 tháng 11/2019. (Hình : Getty Images)
Lễ kỷ niêm 20 năm thật là một cuộc ăn mừng ngoạn mục, đầy ý nghĩa và vào lúc hoàng kim nhất của nền văn minh dân chủ Tây phương. Tâm điểm của nghi thức là Khải hoàn môn Brandenburg, nơi mà cách đó 20 năm, những người dân Berlin, Đông cũng như Tây tụ tập để nhảy múa trên đỉnh của bức tường và chào đón sự đột ngột sụp đổ của Bức Màn Sắt.
Khải hoàn môn nổi tiếng, mà trong giai đoạn còn bức tường đứng cô đơn trong một vùng "no man’s land", một thứ cấm địa, bao quanh bởi hàng rào kẽm gai và súng máy, hai mươi năm sau là nơi một cuộc trình diễn âm nhạc và đốt pháo bông nhớ lại những giây phút huy hoàng đó.
Một trong những nghi thức có ý nghĩa nhất là 1,000 tấm foam cao bằng đầu người như hình những quân cờ domino, được các thanh niên khắp thế giới vẽ và dựng lên dọc theo nơi trước kia là bức tường ngay trước Khải Hoàn Môn Brandenburg. Cựu lãnh tụ của Công Đoàn Đoàn Kết và cựu Tổng Thống Lech Walesa đã đẩy cái domino đầu tiên, một cách biểu tượng, lập lại sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trên toàn Đông Âu. Tham gia với ông đã có khôi nguyên Nobel Hòa Bình Muhammad Yunus từ Bangladesh, cựu Tổng Thống Nam Phi Nelson Mandela và cựu Tổng Thống Cộng hòa Czech Vaclav Havel, vốn đã là lãnh tụ của cuộc Cách Mạng Nhung. Cùng với ông Walesa, ông Havel đã đóng góp cho sự sụp đổ của Liên Xô.
Thủ Tướng Angela Merkel, lớn lên ở Đông Đức, đã tiếp các vị khách, kể cả Ngoại Trưởng Hillary Clinton, Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev và lãnh tụ của 26 quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu cho một bữa dạ tiệc chào mừng.
Vào mùa Hè năm 1989, chỉ vài tháng trước khi những người biểu tình tràn qua Checkpoint Charlie, trạm gác phân chia giữa Đông và Tây Berlin, Giáo sư Francis Fukuyama đã viết một bài trên tạp chí Nationa Interest mang cái tên "Sự chấm dứt của Lịch sử ?" vốn sau đó trở thành nền tảng cho cuốn sách của ông "Sự chấm dứt của lịch sử và con người cuối cùng".
Ông lý luận rằng cuộc tranh đấu chủ thuyết vĩ đại của thế kỷ thứ 20 – đầu tiên giữa nền dân chủ tự do và chủ nghĩa phát xít và rồi giữa dân chủ tự do và cộng sản – đã kết thúc. Lịch sử, định nghĩa bởi nhà chính trị học Fukuyama là cuộc tranh đấu giữa những chủ thuyết vĩ đại, đã đến lúc kết thúc. Dân chủ tự do đã chiến thắng.
Ông viết : "Điều chúng ta có thể chứng kiến không phải là kết thúc của Chiến Tranh Lạnh, hay sự đi qua của một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử hậu chiến, nhưng là chấm dứt của chính lịch sử : tức là, chấm dứt của một tiến hóa chủ thuyết của nhân loại và việc phổ cập hóa nền dân chủ tự do Tây phương như là hình thức cuối cùng của chính quyền nhân loại".
Khi Bức tường Berlin sụp đổ vài tháng sau đó, ông Fukuyama đã có vẻ như là một nhà tiên tri hơn là một nhà chính trị học. Ngay cả 20 năm sau ông có vẻ vẫn còn đúng. Nhưng ngày nay thì sao ?
Ba mươi năm sau, lịch sử tự nó có vẻ đã bác bỏ "sự kết thúc của lịch sử". Trung Quốc, Nga và Việt Nam đã hồi sinh hay kéo dài chế độ độc tài bằng cách thích ứng tư bản chủ nghĩa theo khuôn mẫu của họ. Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập đã tạo nên một hình thức chế độ độc tài sultan mới. Và ở Đông và Trung Âu, ông Walesa hẳn sẽ không nhận ra Ba Lan ngày nay mà cùng với Hungary (đã có thời là những điểm son của cuộc cách mạng năm 1989) lại một lần nữa chọn chế độ độc đảng dầu cho mang cái vỏ dân chủ. Đức quốc, có thời lãnh đạo Âu Châu, nay cũng đang bị xáo trộn vì chủ nghĩa dân túy cánh hữu. Ngay cả Hoa Kỳ, nơi mà cố Tổng Thống Ronald Reagan đã từng gọi là "thành phố chiếu sáng ở trên một ngọn đồi" hồi tháng Giêng năm 1989, một vị tổng thống vốn muốn độc đoán hơn nay cai trị.
Những thí dụ này và nhiều nữa, đang thúc đẩy một chiều hướng nguy hiểm. Thanh niên ở phương Tây đang mất niềm tin vào các định chế dân chủ. Khoảng 75% người Mỹ sinh ra trong thập niên 1930 nói "cần thiết" sống trong một nền dân chủ, nhưng chỉ có 30% người Mỹ sinh ra trong thập niên 1980 chia sẻ quan điểm đó. Anh Quốc, Tân Tây Lan, Úc và Thụy Điển, những nền dân chủ bền vững cũng cho thấy như vậy.
Còn đáng lo sợ hơn nữa là ngày càng có nhiều người tính đến một giải pháp khác mà trước kia là lập trường không tưởng tượng được dành cho những kẻ bên lề. Năm 1995, 1 trong 16 người Mỹ nói quân đội cai trị là "tốt" hay "rất tốt". Đến năm 2014, con số đó đã trở thành 1 trong 6 người.
Nhưng cũng phải xin thêm ngay đó không phải là toàn thể câu chuyện. Một điều quan trọng là chiều hướng suy thoái hiện nay của chế độ dân chủ không phủ nhận sự tăng trưởng đáng kinh ngạc của các nền dân chủ trên thế giới từ Thế Chiến thứ 2.
Năm 1945, thế giới có 137 chế độ độc tài trong khi chỉ có 12 nền dân chủ. Đến năm 1989, số các nền độc tài giảm xuống 105 so với 51 nền dân chủ. Đến năm 2018 thì dân chủ đang dẫn trước với 99 so với 80. Dĩ nhiên phải xin thêm ngay định nghĩa dân chủ đây khá bao dung kể cả những nền dân chủ thực sự với những nền dân chủ tương đối không mấy cấp tiến. Nhà kinh tế học Max Roser của viện đại học Oxford tính là số người sống trong một nền dân chủ tăng gần gấp đôi giữa năm 1989 và 2015, từ 2 tỷ lên 4 tỷ.
Còn đáng chú ý hơn có lẽ chính là sự việc các nhà độc tài hậu 1989 cố trình bày mình là dân chủ. Nhiều nhà độc tài cố tình tổ chức những cuộc bầu cử thường xuyên và có vẻ dân chủ trong khi gian lận.
Họ cho phép báo chí bán tự do, bịt miệng khi cần. Họ giả vờ cai trị theo chế độ pháp trị, ít nhất trên giấy tờ. Và đó, theo ông Brian Klaas của nhật báo Washington Post, chính là lý do tại sao có nhiều cuộc bầu cử trên thế giới hơn bao giờ hết mặc dầu thế giới ngày càng ít dân chủ đi.
Chế độ độc tài và thiếu tự do không chết. Nhưng như chúng ta đọc, nghe và thấy hàng ngày, dân chúng lại xuống đường trên toàn thế giới, từ Hồng Kông đến Chile, Ecuador đến Algeria, Lebanon và Sudan. Lý do tại sao họ xuống đường khác biệt rất nhiều, nhưng điều họ đều chia sẻ là đòi một tiếng nói về những quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của mình. Không một người nào tham gia vào các cuộc nổi dậy khổng lồ này đòi các nhà độc tài bảo họ phải làm gì.
Tất cả họ đều đang xuống đường theo chân của những người mà cách đây 30 năm, đã đẩy vào những bức tường, những bức màn của độc tài cho đến khi sau cùng chúng sụp đổ. Những người bảo vệ cho một xã hội tự do cởi mở tiếp tục chiến đấu, và họ vẫn còn có nhiều điều để tranh đấu.
Nhưng dầu sao chăng nữa, hứa hẹn của dân chủ vẫn còn kêu gọi như đã từng kêu gọi năm 1989. Nếu không thì những nhà độc tài đã không có lý do để sợ. Mà quả thật họ đang rất sợ.
Lê Phan
17 sự kiện nói về thống nhất nước Đức
Mitchell Nemeth, VNTB, 11/11/2019
Ba mươi năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nhiều người ở Đông Đức cũ còn tiếp tục cảm thấy hậu quả của các chính sách xã hội chủ nghĩa của Cộng hòa Dân chủ Đức.
Một gốc của bức tường Bá Linh ngày 09/11/1989 - Ảnh : Bộ Quốc phòng Đức
Ngày 9/11/1989, hai năm sau bài diễn văn lịch sử của Tổng thống Ronald Reagan, với lời kêu gọi Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, Mikhail Gorbachev, phá bỏ bức tường, Bức tường Berlin từ từ sụp xuống khi "những người gõ kiến" dùng búa và cuốc chim để phá nó. Cuối tuần đó, hơn hai triệu người Đông Berlin đã đến Tây Berlin để ăn mừng sự kiện này.
Các gia đình người Đức đã bị tách chia tách, người sống ở phần Đông Đức, kẻ sống ở Tây Đức suốt hàng chục năm liền. Sau Thế chiến II, chính phủ Đông Đức - Cộng hòa Dân chủ Đức (GDR) - đã cho xây dựng bức tường để chia tách lãnh thổ của họ khỏi chính phủ Tây Đức - Cộng hòa Liên bang Đức (FRG). Đặc điểm phân biệt chính giữa hai chính phủ là gì ? Đấy là ý thức tổng quát về tự do đối đầu với chủ nghĩa xã hội và áp bức.
Bức tường Berlin thực hiện mục đích chính của Cộng hòa Dân chủ Đức : "vĩnh viễn không cho dân chúng tiếp cận với Tây Đức". Từ năm 1949 đến năm 1961, Tây Đức cung cấp cho người dân Đông Đức con đường đi chế độ tới dân chủ và chủ nghĩa tư bản. Đến tháng 8 năm 1961, mỗi ngày đều có khoảng 2.000 người Đông Đức đi sang Tây Đức ; hầu hết đều là chuyên gia và trí thức.
Không có gì ngạc nhiên là, chảy máu chất xám đã gây thiệt hại cho nền kinh tế Đông Đức. Nhằm kiểm soát chặt chẽ việc di cư và, hi vọng là kiểm soát được các điều kiện của nến kinh tế, binh lính Đông Đức bắt đầu dựng hàng rào thép gai và cuối cùng, họ đã dựng lên "Thành lũy chống phát xít" ở Đức - thường gọi là Bức tường Berlin.
Cộng hòa Dân chủ Đức quân sự hóa bức tường bên phía mình với những tháp canh, dây thép gai và giao thông hào ngăn không cho xe cộ tới gần bức tường. Mỗi chính phủ đều tìm cách miêu tả bên kia khác hẳn với cái mà nó đang là, Cộng hòa Dân chủ Đức nói lân bang tư bản và dân chủ của mình là nguồn gốc của các yếu tố phát xít, ngăn chặn việc truyền bá chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, Bức tường Berlin trở thành một biểu tượng trong thế giới thực của Bức màn sắt sắt và bi kịch của chủ nghĩa cộng sản ; bức tường thường mang tính biểu tượng, đóng vai trò là người gác cổng để giữ con người và cắt đứt, không cho các luồng ý tưởng được tự do truyền bá.
Khi các nguyên tắc và học thuyết xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển trong cuộc đối thoại hiện nay, càng cần phải hiểu vì sao Tây Đức chiến thắng Đông Đức. Nhiều yếu tố góp phần làm cho chính phủ thành công : tài nguyên thiên nhiên và nền sản xuất, dân chúng có tay nghề, nhiều trí thức, thương mại tự do và công bằng, giáo dục, cơ sở hạ tầng và các nguyên tắc vận hành xã hội. Dưới đây là danh sách các sự kiện giúp chúng ta hiểu rõ hơn các điều kiện làm cho Đông Đức khác với Tây Đức :
1. Theo một báo cáo mới được công bố, chỉ có 16 trong số 500 công ty hàng đầu về thu nhập của Đức có trụ sở ở Đông Đức. (Associated Press)
2. Không có công ty nào trong số này nằm trong chỉ số thị trường chứng khoán hàng đầu của Đức. (Associated Press)
3. Trong tác phẩm Planning Ahead and Falling Behind (Lập kế hoạch trước và sụp đổ sau), tác giả Jaap Sleifer chỉ ra rằng trước Thế chiến II, Đông Đức giàu hơn Tây Đức. GDP bình quân đầu người của Đông Đức bằng 103% của Tây Đức.
4. Đến năm 1990, GDP bình quân đầu người của Tây Đức xấp xỉ 18.000 USD, trong khi GDP bình quân đầu người của Đông Đức chỉ khoảng 9.000 USD.
5. Năm 1990, chi phí cho một cuộc gọi điện thoại ba phút từ Tây Berlin đến Mĩ là 6,50 USD (điều chỉnh theo lạm phát là 12,77 USD), trong khi một cuộc gọi điện thoại ba phút từ Đông Đức đến Mĩ là 28 USD (điều chỉnh theo lạm phát là 55,01 USD).
6. Người Đông Đức chỉ có một sự lựa chọn khi mua xe : Trabant mà họ gọi là Trabbi. Chiếc xe này hầu như không thay đổi suốt nhiều năm trời. Nó bị một số người coi là chiếc xe tồi tệ nhất từ trước đến nay, Trabant đã trở thành biểu tượng cho nền kinh tế trì trệ của Đông Đức.
7. Năm 2015, chỉ 21 trong số 500 người Đức giàu nhất sống ở phía đông. (The Guardian)
8. Ít nhất đã có 138 người "bị bắn chết, bị tai nạn chết người hoặc tự sát sau nỗ lực chạy trốn qua Bức tường Berlin thất bại" - theo Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Đương đại Potsdam và Trung tâm Tài liệu và Khu tưởng niệm Bức tường Berlin.
9. Hai mươi lăm năm sau khi thống nhất đất nước, người Đức ở phía đông vẫn "chỉ kiếm được khoảng 2/3 mức lương trung bình so với phía tây". (The Guardian)
10. Năm 1980, tỷ lệ sinh ở Đông Đức chưa đến 1,5%, trong khi ở Tây Đức khoảng 2,0% (hiện nay đã gần bằng nhau). (The Telegraph)
11. Hai mươi lăm năm sau khi thống nhất, tài sản ở Đông Đức cũ có giá trị bằng một nửa so với tài sản ở Tây Đức cũ. (The Guardian)
12. Hơn 20 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, năng suất lao động trong các nhà máy ở Đông Đức vẫn chỉ bằng 73% so với đối tác phía tây. (The Guardian)
13. Hai mươi lăm năm sau khi thống nhất, người Đức ở phía đông vẫn chi tiêu cho hàng hóa tiêu dùng chưa bằng 79% so với đồng bào của họ ở phía tây. (The Guardian)
14. Kể từ khi thống nhất nước Đức, Tây Đức đã chuyển khoảng 2 nghìn tỉ USD viện trợ kinh tế để giúp đỡ Đông Đức đang gặp khó khăn.
15. Theo Giám đốc Think-tank IWH có trụ sở ở Halle, "tình hình kinh tế ở miền đông nước Đức tốt hơn bao giờ hết. Nhưng khoảng cách giữa Đông và Tây thì vẫn còn". Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người vẫn thấp hơn khoảng 20% so với phía Tây.
16. Tính đến năm 2017, lương ở khu vực phía đông nước Đức vẫn thấp hơn 20% so với khu vực phía tây, Tobias Buck viết trên tờ Financial Times.
17. Tính đến tháng 10 năm 2019, tỉ lệ thất nghiệp ở Đông Đức cũ (6,4%), cao hơn mức trung bình chung của cả nước Đức (5%). (Associated Press)
Ba mươi năm sau, nhiều nhiều người ở Đông Đức cũ tiếp tục cảm thấy hậu quả của các chính sách xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Đức. Bức tường Berlin là một biểu tượng của quá khứ chưa xa. Một người Đông Đức cũ chỉ vào tháp canh trên bức tường Berlin và nói đấy là "biểu tượng cụ thể của hàng rào tàn bạo, giam hãm cả về thể xác lẫn tinh thần của người dân ở phía Đông Berlin".
Hiện nay, Bức tường Berlin là điểm thu hút du khách. Trên tường đầy tranh graffiti và du khách thậm chí có thể mua các những mảnh vụn của Bức tường. Nhưng, như cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ và cũng là cựu giáo sư tại trường cũ của tôi, ông Dean Rusk, tuyên bố,
Bức tường chắc chắn không phải là một đặc điểm trường cửu của cảnh quan châu Âu. Tôi thấy không có lý do gì để Liên Xô… nghĩ rằng để tượng đài nói về sự thất bại của cộng sản ở đây là có lợi cho họ.
Trong khi phần còn sót lại của Bức tường Berlin có thể là điểm thu hút du khách ở Berlin, thì những ảnh hưởng của chính sách trong quá khứ vẫn còn hiện diện. Những người theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tập thể đã được báo trước về những hiểm họa mà những chính sách chắc chắn sẽ thất bại của họ gây ra, cụ thể là sự ép buộc và phá hoại tinh thần của từng con người. Dù những nhà hoạt động này có thiện chí tới mức nào thì lịch sử cũng đã cho thấy bản chất thực sự của hệ thống kinh tế tàn bạo này. Các thế hệ tương lai không được bỏ qua những thất bại trong quá khứ, không thể ủng hộ tầm nhìn "khai minh" không tưởng của họ.
Mitchell Nemeth đã bảo vệ luận án Thạc sĩ Luật học tại Trường Luật thuộc Đại học Georgia. Tác phẩm của ông đã được đăng trên The Arch Conservative, Merion West, và The Red & Black. Mitchell là người sang lập thành lập Young Americans for Liberty chapter at the University of Georgia.
Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn : VNTB, 11/11/2019
****************
Tường Berlin đổ, trông người mà ngẫm đến ta
Nguyên Ngọc, RFI, 10/11/2019
Cách nay 30 năm một sự kiện xảy ra tại Đông Âu gây chấn động toàn cầu. Bức tường Berlin, biểu tượng cho cuộc Chiến tranh Lạnh sụp đổ, báo hiệu cho sự tan rã hoàn toàn của khối cộng sản toàn trị, do Liên Xô đứng đầu. Sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ có ý nghĩa gì với lịch sử Việt Nam đương đại ?
Một đoạn tường chia cắt thủ đô Berlin. Ảnh chụp năm 1986. Noir/wikipedia.org
RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà văn Nguyên Ngọc, một trụ cột của cao trào Đổi mới văn nghệ Việt Nam trong những năm 1987-1989, nhân chứng lịch sử của thời điểm bước ngoặt này. Theo nhà văn Nguyên Ngọc, sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ chấn động này đã làm cho người Việt Nam phải suy nghĩ rất nhiều. Tuy nhiên, tình hình Việt Nam trước đây và hiện nay khác xa với Đông Âu. Bởi chế độ cộng sản tại Việt Nam "ăn sâu, trộn lẫn với chủ nghĩa yêu nước trong một thời gian rất dài". Tìm được con đường thoát khỏi một chế độ như vậy là vô cùng khó. Để tìm ra được một kịch bản khả dĩ giải thoát cho Việt Nam, cần trở lại với sự lựa chọn gốc : văn minh hay chuyên chế, hướng về các nền dân chủ phương Tây hay ngả sang các thể chế độc tài – toàn trị.
Bức tường Berlin sụp đổ, những biến chuyển trong khối cộng sản toàn trị trước và sau biến cố lịch sử này dường như, với nhà văn Nguyên Ngọc, vẫn là câu chuyện của Việt Nam hôm nay. Thời gian 30 năm như ngưng đọng. Việt Nam vẫn đứng trước thách thức chọn đường thoát, như 30 năm về trước.
***
RFI : Ông nhận định ra sao về sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ ngày 09/11/1989 ?
Nguyên Ngọc : Đối với Việt Nam cũng như đối với thế giới, đây là một sự kiện rất lớn. Nó chấm dứt một chế độ đã kéo dài cả thế kỉ. Tôi cũng có ở Liên Xô không lâu trước khi Bức tường Berlin sụp đổ. Và tôi cũng có ở một số nước Đông Âu. Thì tôi nghĩ rằng đã có những dấu hiệu là chế độ này không tồn tại lâu dài nữa đâu. Cho nên đến cái ngày nó sụp đổ, thì cũng là bất ngờ, nhưng đối với riêng tôi cũng là tất yếu thôi. Tôi cũng có ở Đức, ngay Berlin, phía đông Berlin. Tôi thấy rằng đối diện với Tây Berlin, với Tây Đức, một chế độ như vậy không thể kéo dài.
Còn riêng đối với Việt Nam, sự chấn động đó, theo tôi, nó làm cho Việt Nam, cho người Việt Nam phải suy nghĩ rất nhiều. Tôi nghĩ rằng sự thay đổi ở Việt Nam cũng sẽ là tất yếu. Nhưng chưa biết sẽ diễn ra theo kịch bản nào. Đang rất khó chọn kịch bản nào. Nhưng thể nào cũng phải chấm dứt chứ.
RFI : Theo ông, vì sao lại khó ?
Nguyên Ngọc : Hiện nay ở Việt Nam, có nhiều người suy nghĩ về điều đó rồi, nhưng cũng thường nói với nhau là : chưa thấy kịch bản. Tôi thì tôi thấy thế này. Ở Việt Nam, có chỗ khác thế này : Ớ các nước Đông Âu, sau khi quân đội Liên Xô đánh Đức ở các nước đó, rồi áp đặt chế độ cộng sản vào các nước đó, cho nên khi họ rút xe tăng đi, thì chế độ cộng sản cũng đi theo luôn. Nhưng ở Việt Nam, "cộng sản" gọi là nội sinh. Và có thể nói là nó chui được vào trong chủ nghĩa yêu nước, nó lẫn lộn với chủ nghĩa yêu nước. Cho nên nó sâu đậm hơn rất nhiều. Nó ăn sâu, trộn lẫn với chủ nghĩa yêu nước trong một thời gian rất dài. Qua hai cuộc chiến tranh.
Tôi cũng có sống cuộc chiến tranh thứ nhất, cuộc chiến tranh chống Pháp. Theo tôi, nó hoàn toàn là cuộc chiến tranh yêu nước, mặc dầu đã mượn chủ nghĩa cộng sản về để làm việc này rồi… Ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc sau năm 1950, sau khi giải phóng biên giới với Trung Quốc và ông Mao Trạch Đông đã xuống đến Hoa Nam rồi, thì tác động của Liên Xô, Trung Quốc đến Việt Nam ngày càng đậm. Làm biến dạng tính chất của cuộc chiến tranh đi.
Nhưng ở Việt Nam hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam rất khó ở chỗ chủ nghĩa yêu nước vẫn còn, vẫn có trong đó, nó lẫn lộn với chủ nghĩa cộng sản, mặc dù cái chủ nghĩa cộng sản càng về sau càng bộc lộ rõ rệt hơn. Cái phần đó nặng hơn, nhiều hơn. Cho nên việc gỡ ra ở Việt Nam, khó khăn hơn rất nhiều. Nó ăn quá sâu trong mấy mươi năm, trong gần một thế kỉ (tính đến nay).
RFI : Trước khi Bức tường Berlin sụp đổ, chính quyền Việt Nam cũng tiến hành "Đổi mới" song song với quá trình Perestroika ở Liên Xô. Việc Bức tường Berlin sụp đổ, rồi sau đó tác động dây chuyền đến việc Liên Xô tan rã, có tác động cụ thể gì đến tiến trình thay đổi tại Việt Nam ?
Nguyên Ngọc : Lâu nay tôi vẫn thường nói thế này. Cái (mốc) 1986 mà Việt Nam gọi là "Đổi mới", tức là Đảng cộng sản Việt Nam cởi trói cho xã hội, theo tôi không phải như vậy. Thực ra, nó đã bí bức đến mức mà người ta tự phá trói người ta đi ra. Với các tác động của sự sụp đổ của Liên Xô, của việc Bức tường Berlin sụp đổ, người ta càng cảm thấy không thể sống trong một cơ chế như thế nữa. Vào cái năm đó, tôi bảo là không có sự cởi trói đâu ! Không có chuyện cởi trói cho Dân đâu ! Mà là Dân tự phá trói, người ta đi ra. Trước hết là trong đời sống, trong nông nghiệp, rồi đến trong xã hội, trong văn học nghệ thuật, đời sống tinh thần cũng thế… Nhưng ở Việt Nam lại có một chỗ khác, như điều mà tôi nói vừa nãy : cái "cộng sản" nó lẫn lộn vào trong chủ nghĩa yêu nước. Còn một điều này nữa : Trong thực tế, những người cộng sản đầu tiên người ta cũng xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, người ta đi mượn một hệ thống lý thuyết để mong giải phóng dân tộc.
Thế nhưng, anh đã mượn rồi thì anh mắc nợ, rồi từ chỗ mắc nợ rồi anh vùng vẫy, rồi anh muốn thoát ra, nhưng mà vùng vẫy mãi cũng không được, không thể thoát được. Vì thoát ra thì làm sao ? Anh đã chọn con đường bạo lực để giải phóng dân tộc. Thì để… anh phải mượn, mà anh mượn thì anh mắc nợ. Anh mắc nợ thì anh vùng vẫy mãi không ra…. Cái này có lẽ chỉ có văn học mới có thể nói được thôi…
Ở Việt Nam, chúng tôi thấy có một chuyện thế này : Lúc đó chỉ có một người duy nhất thấy không thể làm như thế được, không thể chọn con đường đó được (con đường bạo lực cộng sản). Người đó là Phan Châu Trinh. Vì ông Phan Châu Trinh, ông ấy đặt vấn đề khác : Độc lập mà không phát triển, thì không để làm gì cả ! Phát triển thì nhất định phải hướng về phương Tây…. Chúng tôi rất muốn là tìm hiểu vì sao Phan Châu Trinh lại có thể sáng suốt đến mức như thế ? Ông thấy con đường phát triển duy nhất là phải hướng về phương Tây. Phải trở nên văn minh. Sở dĩ Việt Nam mà bị nô lệ là vì Việt Nam quá ư lạc hậu so với đối thủ của mình. Muốn thoát ra khỏi tình trạng thê thảm đó, thì phải hướng về nền văn minh của phương Tây.
RFI : Xin cảm ơn nhà văn Nguyên Ngọc.
Trọng Thành thực hiện
Nguồn : RFI, 10/11/2019
*******************
Bức tường Berlin, câu hỏi nhân kỷ niệm 30 năm
Tuấn Khanh, RFA, 09/11/2019
Thế giới vừa nhắc tên việc sụp đổ của một bức tường dài đến 155 cây số. Berlin Wall, bức tường là biểu tượng của một phần nhân loại bị ám đỏ, tuyệt vọng và khao khát tự do. Ngày 9/11 năm 2019 đánh dấu 30 năm hàng hàng lớp lớp con người bước ra ánh sáng, chào nhau và dặn dò với mai sau, rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một thứ trá hình của cuộc hôn phối quái đản giữa chế độ phong kiến và độc tài hiện đại.
Hàng ngàn người dân cũng đổ xô, tràn vào các văn phòng của cơ quan mật vụ Stasi để lôi ra những hồ sơ mà ngày thường họ bị theo dõi, bị nghe lén, báo cáo...
Nhưng ý nghĩa hơn nữa, đó là ngoài việc bức tường ô nhục Berlin sụp đổ, người ta nhìn thấy một cuộc tháo chạy, hốt hoảng đến điên cuồng của giới mật vụ, an ninh Stasi, vốn được coi là hung thần số một ở đằng sau bức màn sắt Đông Âu.
Không lâu sau khi hàng trăm người dân Đông Đức kéo nhau chạy qua đường biên giới, đánh dấu cho sự sụp đổ toàn diện đế chế cộng sản Đông Âu, hàng ngàn người dân cũng đổ xô, tràn vào các văn phòng của cơ quan mật vụ Stasi để lôi ra những hồ sơ mà ngày thường họ bị theo dõi, bị nghe lén, báo cáo... bao gồm luôn cả những người tìm kiếm tin tức thân nhân của họ đã bị an ninh bắt đi nhiều năm không còn tin tức.
Các nhân chứng vào giờ phút ấy, kể lại rằng nhân viên mật vụ Stasi cuống cuồng tiêu hủy các hồ sơ, nhằm tránh các cuộc phanh phui và trả thù của dân chúng, nhưng không kịp. Các máy hủy tài liệu chạy hết công suất, nghẽn hay cháy, khiến các nhân viên an ninh hoảng loạn xé bằng tay, nhồi vào túi hay thùng và đổ xăng đốt đi. Nhưng rồi các cánh cửa bật mở, đám đông giận dữ xông vào khiến những nhân viên Stasi phải buông tay, chạy trốn.
Ngày thường, các tay an ninh mặt sắt đen sì, cười kiêu ngạo, là nỗi ác mộng của hàng triệu người Đông Đức. Nhưng giờ đây, họ chỉ còn một mong ước cuối cùng là thủ tiêu những vết tích đã chống lại con người, chống lại ngay chính dân tộc của họ, và tháo chạy.
Tuy vậy, hàng triệu bản ghi âm, hình chụp, hồ sơ báo cáo... vẫn được giữ lại. Thậm chí những bản hồ sơ xé vụn cũng được các nhà hoạt động nhân quyền gom về, phục dựng, nối ráp. Thậm chí, vì khao khát tìm lại sự thật và công bằng cho các nạn nhân, suốt 10 năm, các nhà nghiên cứu ở Berlin Fraunhofer Institute vẫn tìm tòi và công bố bản nhu liệu E-puzzler có khả năng sao lưu, dùng thuật toán AI để gắn lại các mảnh vụn thành bản hoàn chỉnh, dựa trên tương ứng màu giấy, phông chữ, hình dạng... để phục vụ cho hồ sơ khoảng 3 triệu người Đức vẫn luân phiên nộp đơn về Federal Archives (Cơ quan lưu trữ liên bang) xin đọc và tìm kiếm về họ hoặc về người thân.
Nước Đức đã chi hơn 2 triệu Euro để phục vụ cho việc sao lưu và phục hồi các dữ liệu này, như một lịch sử của tội ác không chỉ ở riêng nước Đức, mà cả thế giới cũng không muốn quên. Có không ít người đã tìm thấy các văn bản điều tra, ép tội, bỏ tù mình khi các hồ sơ được phục hồi. Có không ít người tìm thấy thầy giáo hay bạn mình, chính là người đã mật báo về mình với công an.
Nước Đức tự do hôm nay ghi nhận rằng chủ nghĩa cộng sản đã tạo ra guồng máy an ninh mật vụ theo dõi, kiểm soát đến 5,6 triệu người Đông Đức bị coi là "phản động". Tức là khoảng 6 người dân thì có một nhân viên an ninh chính thức hay bán thời gian theo dõi. Mỉa mai thay, càng đồ sộ và tinh vi để trói buộc con người, vết tích của bộ máy an ninh độc tài càng lớn, khó mà che đậy.
30 năm sau cái chết của một nhà nước Cộng sản, sự tổn thương của người dân Đông Đức vẫn mới nguyên. Đặc biệt với các thành phần nghĩ rằng mình chỉ cắm cúi kiếm sống và chấp nhận chế độ nên sẽ thoát nạn. Thế nhưng khi đọc các hồ sơ theo dõi, tầng lớp đó lại sững sờ khi thấy họ cũng không vô can.
Có tin là chính phủ Đức muốn đóng lại toàn bộ các chứng tích đó vào năm 2020, như một cách khép lại quá khứ, chấm dứt sự căm hận không nguôi đang xâu xé con người. Trong đó, bao gồm việc cứu rỗi hàng chục ngàn cựu nhân viên Stasi vẫn nơm nớp sợ bị nhận mặt trả thù, hoặc đầy mặc cảm vì đã nhúng chàm theo một cách nào đó. Nhưng việc chính phủ muốn đóng lại kho dữ liệu này hiện cũng đối diện với sự phản đối của giới luật sư nhân quyền, các tổ chức xã hội dân sự và các nhà hoạt động. Lý giải cho việc có thể đóng lại kho lưu trữ này, một người từng làm việc cho Federal Archives nói rằng "một nhà nước văn minh ắt sẽ không thể hành động như cộng sản, tạo điều kiện cho con người căm thù và chà đạp nhau, và từ đó hưởng lợi".
Câu hỏi vẫn còn vọng lên, sau 30 năm thống nhất nước Đức, vì sao cũng cùng là con người, nhưng các chế độ độc tài cộng sản lại có thể biến một lớp người chỉ còn thú tính và thuần túy khao khát danh lợi. Không chỉ Stasi, mà cả KGB (Nga), Securitate (Rumani), AVH (Hungary)... đều là guồng máy giỏi tạo ra những nhân viên an ninh xảo quyệt và tàn nhẫn. Và họ, cũng là những kẻ chạy trốn nhanh nhất, giả dạng nhanh nhất khi triều đại nuôi dạy họ sụp đổ.
Nhưng vẫn còn một câu hỏi nữa, mà lịch sử vẫn đặt ra với mỗi chúng ta : có triều đại nào chống lại con người mà không sụp đổ ?
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 09/11/2019 (tuankhanh's blog)
Berlin : Vị đắng từ một cuộc Cách Mạng thành công
Đức kỷ niệm 30 năm Bức Tường Berlin sụp đổ trong đêm 09/11/1989. Nhưng có không ít người dân Đông Đức cho rằng phương Tây cướp đoạt cuộc Cách Mạng Hòa Bình của người dân tại Cộng Hòa Dân Chủ Đức tiến hành năm xưa.
Ảnh tư liệu : Dân Đức trèo lên Bức Tường Berlin tối ngày 09/11/1989 để đòi phá bỏ hàng rào ngăn cách Đông-Tây này.Françoise CHAPTAL / AFP
Nói đến sự kiện 09/11, hình ảnh đầu tiên là làn sóng người từ Đông Đức tràn qua biên giới trong sự hân hoan và trước mặt họ là những vòng tay đang mở rộng, những nụ cười trong nước mắt của những người dân ở phía Tây Berlin, là hình ảnh đô trưởng Berlin ăn mặc đơn sơ ra đón những đồng bào ở bên kia bức tường, cùng họ đi những bước đầu trên mảnh đất tự do, đưa họ đi tham quan "phần bên này" của thành phố. Mười một tháng sau, Cộng Hòa Dân Chủ Đức bị khai tử khi nước Đức thống nhất. Thủ tướng Tây Đức thời bấy giờ Helmut Kohl đi vào lịch sử. Có mấy ai nhắc nhiều đến Lothar de Maizière vị thủ tướng cuối cùng của Đông Đức và cũng là người từng chung sức với chính quyền Bonn trong quá trình thống nhất đất nước ?
Truyền thông quốc tế dồn dập đổ về Berlin nhân kỷ niệm 30 năm một cuộc Cách Mạng Hòa Bình nhưng không mấy ai màng đến Leipzig, nơi khai sinh phong trào phản kháng cho phép dẫn tới kết quả tốt đẹp đó ? Đúng một tháng trước ngày người lính biên phòng Harald Jäger mở hàng rào cho người dân Đông Đức bước sang bờ Tây, 70.000 người tại Leipzig đã xuống đường đòi tự do và dân chủ. Phong trào không bị đàn áp. Đấy là nhát cuốc đầu tiên đào mồ chôn chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Âu và kể cả đảng Cộng Sản của Liên Bang Xô Viết.
Một nhà nghiên cứu về lịch sử đương đại của Đức từng có mặt tại Leipzig đêm ấy kể lại rằng, theo chỗ ông biết, có ít nhất "6 nhân sĩ trí thức tại thành phố này đã đàm phán và thuyết phục chính quyền không can thiệp". Mới trước đó vài tháng, chính quyền Honecker đã ủng hộ Bắc Kinh đàn áp đẫm máu phong trào đòi dân chủ trên quảng trường Thiên An Môn, Trung Quốc.
Cuộc "Cách Mạng Hòa Bình" trước hết là cuộc cách mạng của những người dân Đông Đức và nước Đức Thống Nhất, nhưng tiến trình thống nhất nước Đức lại do phương Tây định đoạt. Chính quyền Bonn trực tiếp đối thoại với Liên Xô, rồi Mỹ và các đồng minh Tây Âu là Pháp và Anh. Trong quá trình đàm phán, Đông Đức gần như không có tiếng nói. Cựu đại sứ Thụy Sĩ tại Đức trong thời gian từ năm 2010 đến 2015, Tim Guldimann cho rằng, đó là nguyên nhân khiến 30 năm sau nhìn lại, một phần người dân Đông Đức cảm thấy bị "cướp công", họ cảm thấy "một phần lịch sử của chính người dân Đông Đức bị cưỡng đoạt hay bị chối bỏ". Hans, người đàn ông ngoài 60 tuổi, sống với cô con gái tại một căn hộ tập thể xây gần một nhà máy công nghiệp bị bỏ hoang, xót xa nói với phóng viên của RFI tiếng Việt rằng, ông đã "trả giá đắt" cho tiến trình thống nhất đất nước đó và với ông Bức Tường vẫn tồn tại trong tâm khảm.
Harald Jäger, người đã mở bức màn sắt của Berlin năm nào, khi trả lời báo Die Welt ngày 06/11/2019, hồi tưởng lại : đêm mồng 09/11/1989 là đêm "đẹp nhất và hãi hùng nhất trong cuộc đời". Hãi hùng bởi vì vào giờ phút lịch sử đó ông ý thức được rằng "Đảng đang bỏ rơi nhân dân và thế là cả một thế giới của ông bị sụp đổ".
Thanh Hà
**********************
30 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Đức đã hoàn toàn thống nhất ? (RFI, 07/11/2019)
Trong những ngày này, nước Đức kỷ niệm dịp 30 năm bức tường Berlin sụp đổ. Nhiều người quan tâm đặt câu hỏi "Đông Đức có gì mới ?". Báo Les Echos nhận định Đông Đức không có gì mới ! 30 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chỉ có 38% người dân Đức cho rằng công cuộc thống nhất đất nước đã thành công.
Hình ảnh cựu tổng bí thứ đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev hôn cựu lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker, trên một mảng tường Berlin còn lại, Berlin, Đức, ngày 23/08/2019. Reuters/Fabrizio Bensch
Từ năm 1989 đến năm 2015, 2 triệu người phía đông vẫn tiếp tục di cư sang phía tây. Khoảng cách thu nhập giữa Đông và Tây Đức vẫn cao. Trong khi lương tháng trung bình trước khi trừ các khoản đóng góp xã hội ở Tây Đức đã tăng gấp đôi, đạt 2.790 euro vào năm 2018, thì mức lương ở Đông Đức chỉ tăng 48%. Vào năm 2017, mức lương trung bình ở Đông Đức mới bằng mức lương ở Tây Đức hồi năm 2005.
Trụ sở chính của đa phần các doanh nghiệp lớn vẫn đặt tại Tây Đức. Không một đơn vị nào trong số 30 doanh nghiệp có vốn lớn nhất Đức đặt tại Đông Đức. Ở các vùng nông thôn, mặc dù có thêm 3.000 doanh nghiệp cỡ vừa được thành lập ở phía đông, nhưng các tập đoàn lớn thì vẫn tập trung tại miền tây. Quy mô nhỏ và vừa cũng khiến các doanh nghiệp ở Đông Đức khó trang bị công nghệ mới và ít có cơ hội mở rộng thị trường.
Mặc dù đã giảm mạnh từ 18,7% vào năm 2005 xuống còn 6,4% vào năm 2018, nhưng tỉ lệ thất nghiệp ở Đông Đức cũ vẫn cao hơn Tây Đức (4,3%). Do ít chịu sự tác động quốc tế, nên các doanh nghiệp Đông Đức lại đạt mức tăng trưởng 1,6%, cao hơn một chút so với các công ty Tây Đức (1,4%).
Sử dụng hiệu quả năng lượng trên thế giới tiến triển quá chậm
Trong lĩnh vực năng lượng, đáng chú ý là bài viết trên báo le Monde "Sử dụng hiệu quả năng lượng tiến triển quá chậm". Theo báo cáo ngày 04/11/2019 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, các ngành công nghiệp vẫn tiêu tốn rất nhiều nhiên liệu, người tiêu dùng lại có những thói quen mới vô cùng tốn kém về năng lượng. Trong khi đó, mức đầu tư của thế giới để cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, cho dù tăng 1,6% do với năm 2017, nhưng vẫn là quá ít, không đủ để giảm hiệu ứng nhà kính.
Cường độ sử dụng năng lượng, (năng lượng để tạo ra một đơn vị tổng sản phẩm quốc nội), chỉ được cải thiện 1,2%, mức thấp nhất kể từ đầu thập niên. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tỉ lệ trên là quá thấp : mức cải thiện cường độ sử dụng năng lượng trên toàn thế giới phải đạt 3% thì mới đủ để đạt các mục tiêu đã đề ra về khí hậu, năng lượng và chất lượng không khí.
Lý do chủ yếu là nhu cầu năng lượng của các ngành công nghiệp ở Trung Quốc và Mỹ tăng mạnh. Trong cuộc sống hàng ngày, phương thức tiêu dùng của con người cũng làm giảm hiệu quả sử dụng năng lượng, chẳng hạn về giao thông, mặc dù xe hơi ngày càng được cải thiện để tiêu tốn bớt năng lượng, song người tiêu dùng lại muốn mua xe hơi to rộng hơn, và số người đi trên xe lại giảm. Nhà ở cũng vậy, người dân chuộng những ngôi nhà, căn hộ lớn, với rất nhiều thiết bị điện. Các điều kiện thời tiết không thuận lợi cũng khiến mọi người dùng nhiều máy điều hòa nhiệt độ hơn. Và kết quả là lượng năng lượng thế giới sử dụng trong năm 2018 đã tăng 2,3%, mức cao nhất kể từ năm 2010.
Nghịch lý Đông Âu : Các nước tuyển lao động Châu Á vì dân di cư ồ ạt sang Tây Âu
Chuyển sang lĩnh vực xã hội, tỉ lệ sinh nở thấp và nạn di cư ồ ạt sang Tây Âu đã khiến nhiều nước Đông Âu thiếu nhân công nghiêm trọng. Báo Le Figaro gọi đó là một "nghịch lý".
4/5 doanh nghiệp Romania gặp khó khăn khi tuyển dụng nhân công. Các doanh nghiệp Romania đã tuyển một triệu lao động Châu Á, từ lái xe, công nhân xây dựng, cho đến kỹ sư, bác sĩ. Hungary cũng thiếu hàng chục ngàn lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Mặc dù các nước đều muốn tuyển lao động từ những nước láng giềng để thuận lợi về mặt ngôn ngữ, chẳng hạn Ba Lan rất chuộng lao động Ukraine, Romania thì muốn tuyển người Moldavia, nhưng "cung vẫn không đủ cầu". Năm nay, Hungary cấp khoảng 75.000 giấy phép lao động cho người ngoài Châu Âu, và ngày càng nhiều người đến từ Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và Mông Cổ.
Ngoại trừ nhân công Ukraine, giấy phép lao động được các nước Liên Hiệp Châu Âu nói chung cấp nhiều nhất cho người Ấn Độ. Năm ngoái, có hơn 70.000 người Ấn Độ tới làm việc tại Anh, Đức, Ý và Đông Âu.
Còn theo Le Figaro, Việt Nam xuất khẩu nhiều lao động sang Cộng hòa Czech, Romania và các nước lân cận. Ông Daniel Bauta, người đứng đầu một quận tại Bucarest, Romania, cho biết có hơn 500 lao động Việt Nam trên một công trường xây dựng trong địa bàn quận. Họ nhận lương khoảng 900 euro/tháng sau khi trừ các khoản đóng góp xã hội, trong khi cũng với công việc đó, người bản địa chỉ được trả 532 euro. Chính khoảng cách thu nhập này đã khiến người bản địa bất mãn.
Một nhà hoạt động nghiệp đoàn của Hungary nói với báo Le Figaro là nếu không có lao động nước ngoài này, nhiều doanh nghiệp Hungary sẽ phải đóng cửa, nhưng nếu người lao động Hung được trả lương cao hơn, họ sẽ không phải rời bỏ đất nước.
Chile : Khủng hoảng xã hội và vi phạm nhân quyền
Nhìn sang Nam Mỹ, cuộc khủng hoảng ở Chile vẫn thu hút sự chú ý của báo Libération. Kể từ khi phong trào phản kháng, chống bất bình đẳng xã hội bùng nổ, có ít nhất 23 người thiệt mạng, trong đó 5 người chết vì bạo lực của cảnh sát và binh lính. Đây là con số do Viện Công Tố Chile công bố.
Còn theo Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chile, một tổ chức công độc lập, có hơn 145 người đệ đơn lên tòa án về việc bị lực lượng an ninh tra tấn, đối xử vô nhân tính và làm mất phẩm giá con người. Đây là con số cao kỷ lục kể từ khi tổ chức này được thành lập cách nay 9 năm. Trong khi đó, giám đốc tổ chức Chữ Thập Đỏ chi nhánh Chile cho biết có hơn 2.000 người bị thương, trong đó có nhiều trẻ vị thành niên.
Bà Nancy Yanez, giám đốc trung tâm nhân quyền của đại học Chile, tại thủ đô Santiago, nhận định các vụ vi phạm nhân quyền ồ ạt cho thấy mức độ nghiêm trọng chưa từng có kể từ khi đất nước Nam Mỹ này chuyển sang chế độ dân chủ hồi năm 1990, sau khi nhà độc tài Pinochet bị lật đổ.
Việc tổng thống Sebatian Pinera ban bố tình trạng khẩn cấp tại thủ đô Santiago, rồi ở nhiều thành phố lớn khác và trao quyền cho quân đội đối phó với phong trào phản kháng xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho các vụ vi phạm nhân quyền, nhất là sau khi ông tuyên bố đất nước đang "trong tình trạng chiến tranh chống kẻ thù nội bang".
Một bệnh viện Nhà nước ngày nào cũng tiếp nhận các bệnh nhân bị cảnh sát bắn đạn chì hoặc đạn cao su vào mắt. Ít nhất 130 người bị thương nặng ở mắt, khoảng 30 người mất hẳn thị lực một bên mắt. Báo cáo trước Thượng viện, chủ tịch một hiệp hội nhãn khoa cho biết đây là con số cao kỷ lục trên thế giới tính trong một thời gian ngắn như vậy. Và điều này là đặc biệt nghiêm trọng và chứng tỏ lực lượng an ninh nhắm bắn vào mặt người biểu tình.
Các quan sát viên của Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chile cũng ghi nhận là trên đường phố, trong nhiều trường hợp, kể cả khi người biểu tình không tấn công cảnh sát, thì lực lượng này cũng không tuân thủ quy định và nhắm bắn đạn cao su hoặc đạn chì vào phần thân trên người biểu tình.
Một trong những người trong ban lãnh đạo của Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chile nhận định mặc dù đa phần thành viên lực lượng an ninh gia nhập hàng ngũ sau khi đất nước đã quay lại chế độ dân chủ, nhưng họ lại có nhiều hành động lạm quyền, biện pháp trấn át như ở thời độc tài quân sự Pinochet.
Tình hình nghiêm trọng đến mức Liên Hiệp Quốc đã cử một phái đoàn đến Chile để điều tra về các cáo cuộc vi phạm nhân quyền. Các nhà điều tra cũng tìm hiểu về các biện pháp mà chính phủ cho áp dụng để đối phó với các cuộc biểu tình và các yêu sách xã hội của người dân.
Ấn Độ mất 9 triệu việc làm trong 6 năm
Trên lĩnh vực kinh tế, nhìn sang Châu Á, trong bài viết "Trong 6 năm, Ấn Độ mất 9 triệu việc làm", báo Le Monde cho biết tỉ lệ thất nghiệp tại Ấn Độ đã tăng từ 2,2% vào năm 2012 lên thành 6,1% vào năm 2018. Đây là tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng có tại đất nước này kể từ năm 1970. Đáng lo ngại hơn nữa là hơn 50% dân số Ấn Độ dưới 25 tuổi. Mỗi tháng, trung bình có 1 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập thị trường lao động.
Theo các nhà nghiên cứu của hai trường đại học Jawaharlal Nehru và Azim Premji, nguyên nhân chính khiến nạn thất nghiệp bùng nổ là việc chính phủ bất ngờ thu hồi lại 86% tiền đang lưu thông để đổi tiền mới hồi tháng 11/2016. Dù mục tiêu là chống tham nhũng, nhưng biện pháp này đã làm tê liệt nền kinh tế của đất nước : lĩnh vực phi chính thức, nông nghiệp và cả công nghiệp đều vận hành thông qua tiền mặt. Ngoài ra, công nghiệp hóa và hạ tầng cơ sở yếu kém, bộ máy quản lý hành chính nặng nề, trung ương tập quyền, khiến Ấn Độ không thu hút được các nhà đầu tư quốc tế.
New Delhi bị "cầm tù" trong bầu không khí ô nhiễm
Vẫn liên quan đến Ấn độ, nhưng về môi trường, khí hậu, báo La Croix hướng tới thủ đô New Delhi, nơi đang hứng bụi mịn ở mức 810 microgram/m3 không khí, cao gấp 32 lần khuyến cáo của tổ chức Y Tế Thế Giới (25 microgram/m3). Không khí tại New Delhi là thuốc độc. Sống tại New Delhi là tự sát.
Tuy nhiên, tại Ấn Độ, không chỉ có New Delhi bị ô nhiễm không khí. Theo một báo cáo của Greenpeace và tổ chức đo lường chất lượng không khí Air Visual, trong số 30 thành phố ô nhiễm nhất thế giới có 22 thành phố của Ấn Độ. Ô nhiễm không khí khiến 1,2 triệu người chết sớm tại Ấn Độ hồi năm 2017.
Thùy Dương
*********************
Berlin, 30 năm một cuộc cách mạng hòa bình (RFI, 06/11/2019)
Kể từ ngày 04/11/2019 đến 10/11/2019, tại Berlin diễn ra hàng chục sinh hoạt, lễ hội đánh dấu 30 năm ngày một thành phố, một đất nước và cả thế giới không còn bị ngăn đôi. Đỉnh điểm mùa lễ hội năm nay là buổi hòa nhạc đêm mồng 9/11 tại Cổng Thành Brandenburger, biểu tượng Tự Do của một thành phố từng bị chia đôi.
Hình ảnh cựu tổng bí thứ Đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev hôn cựu lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker, được chiếu trên một mảng tường Berlin còn lại, Berlin, Đức, ngày 04/11/2019 Reuters/Fabrizio Bensch
Cũng tại cồng thành nổi tiếng này, hai sự kiện đã diễn ra từ đầu tuần : Nổi bật nhất là một tấm thảm khổng lồ với muôn vàn tâm tình của người dân Đức phất phới bay trong gió trên con lộ 17 Tháng Sáu. Tấm thảm nhiều mầu ấy được nghệ sĩ người Mỹ, Patrick Shearn "dệt" bằng 100.000 mảnh vải mỏng, với 30.000 lời nhắn nhủ, tâm sự và ước mơ hòa bình và hạnh phúc của những con người từng sống trên một đất nước bị chia cắt. Tác phẩm nghệ thuật thứ nhì được trưng bày ngay ở địa điểm then chốt này của thủ đô Berlin là một tác phẩm xếp đặt nghệ thuật mang nhan đề "Bức tường chính kiến" mà ở đó các tác giả đã nêu bật vết hằn từ sự phân chia trong xã hội do những bức tường gây nên, cách xoa dịu những viết thương đó …
Về nghệ thuật sân khấu, nhà hát Deutsch Theater cho diễn một loạt các vở kịch, tổ chức nhiều buổi nói chuyện về "cuộc cách mạng hòa bình" của 30 năm về trước. Deutsch Theater từng là điểm hẹn của giới nghệ sĩ, trí thức Đông Berlin hội họp để bàn về chiến lược đấu tranh vì tự do, dẫn tới sự sụp đổ của Bức Tường 30 năm trước. Còn tại quảng trường mang tên Đại Đế Alexandre I của Nga, tối mồng 04/11/2019 đoàn kịch PKRK đã kết hợp thể loại kịch và múa để hồi tưởng lại đúng giờ này 30 năm trước, hàng trăm ngàn người dân Đông Berlin đã tràn ngập quảng trường Alexanderplatz để tự định đoạt lấy tương lai nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Quảng trường này năm xưa, tại một quốc gia cộng sản độc tài, người dân Đông Berlin đã hô to khẩu hiệu "Chúng Tôi Là Nhân Dân" đòi tự do và dân chủ. Gần khu vực East Side Gallery, nơi còn lại một "mẩu" của bức tường thành có chiều dài 155 km, cao 3,5 mét từng phong tỏa Tây Berlin trong lòng một đất nước Đông Đức Xã Hội Chủ Nghĩa, suốt từ tháng 6/1961 đến cái đêm định mệnh 09/11/1989 dọc theo bờ kè dòng sông Spree là hàng loạt các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật khác : nào là các buổi hòa nhạc, chiếu phim, rọi đèn nghệ thuật hay những vở kịch ngắn về hai bộ mặt của cùng một thành phố. Ở bên phía Tây bức tường, là cảnh người người ăn chơi nhảy múa, ở phía Đông là những con người lam lũ … Đến đêm mồng 9 tháng 11, thị trưởng Berlin, tổng thống Đức sẽ cùng có bài phát biểu trước buổi hòa nhạc khổng lồ mừng 30 một Cuộc Cách Mạng diễn ra trong Hòa Bình.
Du khách quốc tế, nhất là từ Áo và Hungary và cả những người dân Đức ở các thành phố khác đang tề tựu về Berlin. Nhiều khách sạn chung quanh khu trung tâm lịch sử đã kín phòng.
Thanh Hà
Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc vào năm 1945, nước Đức chia đôi. Đông Đức thuộc về Liên Xô dưới chế độ cộng sản (Cộng Hòa Dân Chủ Đức,) Tây Đức thuộc về các nước Mỹ, Anh và Pháp (Cộng Hòa Liên Bang Đức). Thành phố Bá Linh nằm trong vùng do Liên Xô kiểm soát cũng bị cắt đôi : Đông và Tây Bá Linh. Liên Xô tìm cách phong toả Tây Bá Linh trong một thời gian dài nhưng không thành công.
Bức tường Bá Linh
Năm 1949, khi Liên Xô quyết định ngưng phong toả Tây Bá Linh, gần ba triệu người đã chạy trốn khỏi Đông Đức, trong số đó có nhiều trí thức có chuyên môn như bác sĩ, giáo sư, kỹ sư.
Từ đó cho đến năm 1958, người dân Đông Đức vẫn vẫn tiếp tục ồ ạt ra đi. Tính đến tháng 6-1961, khoảng 19.000 người rời Cộng Hòa Dân Chủ Đức qua Tây Bá Linh. Tháng 7 sau đó, 30.000 người, và chỉ trong 11 ngày vào tháng 8, có tới 16.000 người Đông Đức vượt qua ranh giới để vào Tây Bá Linh. Đặc biệt là vào ngày 12/8, 2.400 người đã di tản khỏi Đông Đức, con số lớn nhất trong riêng một ngày, như một cơn thác lũ không có gì ngăn chận nỗi.
Ngay đêm đó, chính quyền Đông Đức quyết định ngăn dòng người di tản bằng cách đóng cửa biên giới vĩnh viễn. Chỉ trong hai tuần, quân đội, cảnh sát và các công nhân xây dựng của Đông Đức đã hoàn tất hàng rào thép gai và bức tường bê tông, ngăn đôi thành phố.
Nhưng việc xây bức tường Berlin này có nhiều sơ hở, đã không ngăn được dòng người di tản từ Đông sang Tây, nên sau đó, năm 1961, chính quyền Đông Đức thay thế bức tường tạm bằng một bức tường kiên cố hơn, dựng bằng các tấm bê tông cốt thép cao 3,6 m, rộng 1,2 m chôn sâu dưới đất khiến việc trèo qua tường gần như không thực hiện được. Đông Đức gọi bức tường này là để ngăn chận Phát Xít xâm nhập (!) nhưng thực sự là để ngăn chận dân chúng Đông Đức chạy trốn chế độ cộng sản. Những khẩu súng máy, vọng gác và lính canh, đèn pha quét hàng đêm, chó dữ, với chỉ thị bắn bỏ những người có ý định trèo qua bức tường bỏ trốn.
Cho đến ngày bức tường Bá Linh sụp đổ ngày 12 tháng 11 năm 1989, trong lịch sử vượt thoát đã có 171 người thiệt mạng khi cố vượt qua bức tường, nhưng cũng đã có hơn 5.000 người Đông Đức (trong đó có cả 600 lính biên phòng Đông Đức,) đã vượt qua được bức tường bằng cách nhảy từ cửa sổ tòa nhà gần bức tường, trèo qua dây thép gai, bay bằng khinh khí cầu, bò qua cống và lái xe băng qua những phần bỏ ngỏ của bức tường.
Vào ngày 1/11/1989, kinh tế Đông Đức đang trên bờ vực sụp đổ và chính quyền không thể trả lãi cho những món nợ khổng lồ, các cuộc biểu tình chống chính phủ quy mô lớn nổ ra ở Leipzig lan tới Bá Linh. Đông Đức cần được Liên Xô hỗ trợ về tài chính và quân sự ngăn chận tình trạng suy sụp, tuy nhiên, Gorbachev tuyên bố Liên Xô không có trách nhiệm ngăn lượng người di tản quy mô lớn khỏi Đông Đức.
Vào ngày 9/11/1989, Đông Berlin mở cửa cho dân chúng được tự do vượt qua ranh giới.
Ngay sau đó, bức tường bị đánh sập và Berlin lần đầu tiên được thống nhất ngày 3/10/1990, trở thành nước Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm 1945, Triều Tiên bị chia cắt làm hai với ranh giới là vĩ tuyến 38 : Bắc Hàn - Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên theo chính thể cộng sản và Nam Hàn - Đại Hàn Dân Quốc theo chính thể tư bản. Năm năm sau, ngày 25/6/1950, 135.000 binh sĩ Bắc Hàn đổ quân dọc vĩ tuyến 38, và để chống lại sự xâm lược này, tháng 7/1950, quân đội Mỹ lâm trận cùng với Nam Hàn để chống lại sự bành trướng của Bắc Hàn. Sau khi quân đội Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38, quân đội Bắc Hàn bị dồn tới sông Áp Lục, sát biên giới Trung Cộng. Tháng 10/1950, quân đội Trung Cộng vào vòng tham chiến, đánh qua sông Áp Lục, tạo nguy cơ về cuộc Thế chiến III sắp xảy ra, nên Mỹ quyết định rút quân. Tháng 7/1953, hiệp định đình chiến được ký kết, hình thành khu phi quân sự dọc vĩ tuyến 38 trở lại như cũ.
Trong khi đó tại bán đảo Triều Tiên, giữa Nam và Bắc không có "bức tường ô nhục", nhưng tính tới cuối tháng 8/2016, đã có 29.688 người người Bắc Hàn vượt thoát sang Nam Hàn sinh sống vì điều kiện sống ở xứ này càng ngày càng trở nên khắc nghiệt, trong đó cả các lính Bắc Hàn và ngay cả Thae Yong-ho, Phó Đại sứ Bắc Hàn tại Luân Đôn cũng xin tỵ nạn chính trị. Park Kun-ha phải trốn qua ngã Trung Cộng trong cuộc hành trình đầy nguy hiểm phải mất 5 năm mới đặt được chân tới thủ đô Hán Thành. Eunsun, một cô gái trốn khỏi địa ngục Bắc Hàn, phải mất 9 năm mới đến được bờ Nam.
Sau hiệp định Geneva tháng 4/1954, Việt Nam bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải-Cầu Hiền Lương) làm ranh giới, khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu thủy do Pháp và Mỹ tổ chức. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khiếu nại cho rằng chính phủ quốc gia đã ép buộc đồng bào di cư vào Nam. Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của Bắc Việt, nhưng trong số 25.000 người được Ủy Hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả, như lời t ố cáo của phe cộng sản.
Thêm vào đó, còn tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để vào Nam.
Trong số các nhà văn nhà thơ từ miền Nam đi tập kết ra Bắc vào năm 1954 có Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ. Xuân Vũ sau này, khoảng 1965, đã vượt Trường Sơn vào Nam cầm bút trở lại để phơi bày thực trạng của nhân dân miền Bắc và cái giá mà ông và bạn hữu phải trả vì sự lầm lẫn của mình về cộng sản, thì nhà thơ Vũ Anh Khanh, trong khi bơi qua sông Bến Hải, bị bắn chết giữa dòng sông.
Ngày 30/4/1975, vi phạm hiệp định Paris, chế độ Hà Nội tiến công chiếm miền Nam, để tránh nạn cộng sản, đã có hàng nghìn người di tản khỏi Việt Nam. Sau đó, với tính chất cai trị sắt máu, cộng sản cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng.
Đến cuối năm 1977, đã có trên 15.000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Năm 1978, khi nhà cầm quyền cộng sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân sang Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Vào cuối năm 1978, đã có 62.000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54.000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Hàng chục nghìn thuyền nhân bỏ nước ra đi đã bị bão tố, bị nạn hải tặc đánh cướp, hãm hiếp, giết chết bỏ thây trên biển cả.
Theo số liệu của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849.228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ đến định cư tại các nước tự do, nhưng số người vượt biên chỉ thành công 50%, cứ một người đến được bờ tự do thì có một người chết trên Biển Đông hay trong rừng thẳm.
Và vào thời điểm 2017, người Việt Nam dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam- Độc Lập- Tự Do- Hạnh Phúc sau 42 năm đã thấm đòn cai trị của đảng cộng sản, còn đóng tàu vượt biển sang Úc.
Bây giờ sau 42 năm, người Việt trong nước đã biết rõ thế nào là chế độ cộng sản rồi, nếu có một cơ hội để rời đất nước ra đi, thì đây là một cơ hội tốt không ai từ chối.
Qua chuyện chia cắt của Đức Quốc, Triều Tiên rồi đến Việt Nam, các cấp đảng viên cộng sản, dân chúng miền Bắc, các dư luận viên, hàng ngũ bộ đội, công an... nhận định và giải thích ra sao về chuyện dân chúng của các nước trên, luôn luôn liều chết, vượt biên giới bỏ chế độ cộng sản Đông Đức, Bắc Hàn, Bắc Việt và bây giờ là cộng sản Việt Nam để chạy sang phía tư bản, xứ tự do, phía phi cộng sản.
Chế độ cộng sản nếu tốt đẹp, no ấm, tự do, hạnh phúc thì con người không ai liều chết để ra đi như vậy. Rõ ràng bên kia và bên này khác nhau như đêm và ngày, tự do và tù đày, mà con người phải có một lựa chọn cho bản thân mình và con cháu đời sau. Dù tường cao, sông rộng, biển mênh mông cũng không ngăn được bước chân những người ra đi, chọn cuộc sống tốt đẹp hơn cho mình và tương lai cho con cái !
Tổng thống Mỹ Ronald W. Reagan đã có một câu nói vĩ đại : "Tôi có một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo ở các nước chủ nghĩa cộng sản : nếu chủ nghĩa cộng sản có tương lai, tại sao mấy ông cần phải xây dựng những bức tường để giữ mọi người lại và quân đội, cảnh sát chìm để bắt mọi người im lặng" ?
Và Milton Friedman, giải Nobel Khoa học Kinh Tế 1976 : "Hãy nhìn bao nhiêu người từ xứ cộng sản bất chấp cái chết để vượt biên qua xứ tư bản, nhiêu đó cũng cho chúng ta nhân loại đã bình chọn ra sao !".
Helmut Kohl, công dân Châu Âu vĩ đại
Trong bài xã luận mang tựa đề "Bài học Châu Âu của ông Helmut Kohl", cựu thủ tướng Đức vừa qua đời vào cuối tuần trước, Le Monde nhận xét, cái chết đôi khi mang lại công lý cho một vĩ nhân.
Tổng thống Mikhail Gorbachev (Nga), Tổng thống George Bush cha (Mỹ) và Thủ tướng Helmut Kohl (Đức) họp mặt ngày 31/10/2009 tài Berlin nhân dịp kỷ niệm ngày Bức tường Bá Linh sụp đổ- Fabrizio Bensch / Reuters
Trong những năm cuối đời, ông Helmut Kohl chỉ còn là cái bóng của chính mình. Người Đức đã có thói quen nhìn thấy nơi ông Kohl một ông già sức khỏe sa sút, ngồi xe lăn, và báo chí chỉ nhắc đến cùng với vụ kiện tụng nhà báo đã giúp ông viết hồi ký. Cựu thủ tướng cáo buộc nhà báo này đã công bố các cuộc đối thoại mà ông muốn giữ bí mật, về các cuộc đấu đá với nhiều nhân vật trong đó có bà Angela Merkel.
Sự kiện ông từ trần hôm thứ Sáu 16/6 ở tuổi 87, đã đặt lại mọi việc vào đúng chỗ của nó. Đã hẳn là Helmut Kohl rời chính trường Đức một cách không mấy vinh quang, sau khi thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1998 và vài tháng sau thì uy tín bị sút giảm trong vụ quỹ đen của đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) mà ông lãnh đạo suốt 25 năm. Nhưng lịch sử đã lưu lại hình ảnh một Helmut Kohl khác.
Chính khách lớn của nước Đức, công dân Châu Âu
Khi người tiền nhiệm qua đời, bà Angela Merkel đã vinh danh "một người Đức vĩ đại và là một người Châu Âu vĩ đại". Câu này có vẻ công thức, nhưng mang nặng ý nghĩa.
"Một người Đức vĩ đại".Ông Helmut Kohl đúng là một chính khách lớn, một người công giáo bảo thủ của bang Rheinland-Pfanz, không hề nghĩ rằng định mệnh sẽ khiến ông lãnh đạo việc thống nhất một quốc gia đã bị chia đôi, sau khi thất trận trong Đệ nhị Thế chiến. Việc thống nhất nước Đức ngày nay tỏ ra logic, tuy nhiên vào thời đó lại đầy rủi ro chính trị, và cái giá phải trả về kinh tế quy mô đến nỗi chỉ có một vị nguyên thủ mang tầm vóc lớn mới có thể lãnh đạo được.
Khi lao vào công cuộc thống nhất Đức quốc, ông Helmut Kohl có thể quay lưng lại với Châu Âu. Bây giờ thì người ta đã quên, nhưng vào thời điểm đó nhiều người lo sợ chủ nghĩa dân tộc Đức lại trỗi dậy. Tuy nhiên thủ tướng Helmut Kohl - khi công nhận sự bất khả xâm phạm của đường biên giới Oder-Neiße với Ba Lan, được ấn định bởi hiệp ước "2+4" sau Đệ nhị Thế chiến (1990), và áp đặt lên người dân Đức việc từ bỏ đồng Deutsche Mark, thay vào đó là đồng Euro thông qua hiệp ước Maastricht (1992) - đã đi vào lịch sử khi thực hiện thành tích : làm nên một nước Đức thống nhất mà không khiến Châu Âu tan rã.
Nhận định rằng có thể bảo vệ tầm vóc của nước Đức mà vẫn tôn trọng lợi ích Châu Âu, và cả hai mục tiêu này chỉ có thể đạt được qua quan hệ đặt trọn lòng tin với Pháp : chính niềm tin ấy của Helmut Kohl đã mang lại âm hưởng đặc biệt khi ông từ trần.
Vào lúc mà các cuộc thương lượng Brexit đang tiến hành, nước Pháp vừa bầu lên một tổng thống hứa hẹn gầy dựng lại Châu Âu, và thủ tướng Merkel cổ vũ cựu lục địa "tự nắm lấy định mệnh của mình" - vì không thể trông cậy vào một nước Mỹ dưới quyền lãnh đạo của ông Donald Trump, Le Monde cho rằng sự qua đời của Helmut Kohl đã đưa chúng ta quay lại một thời kỳ mà ta cần rút tỉa các bài học. Một thời kỳ mà những biến đổi to lớn về địa chính trị, đồng thời có thể là những cơ hội lịch sử cho tương lai Châu Âu.
Cha đẻ của nước Đức thống nhất
Trong bài "Helmut Kohl, người thống nhất nước Đức", Les Echos nhắc lại, người giữ kỷ lục làm thủ tướng Đức lâu nhất sau thế chiến, cũng là người có viễn kiến về một nước Đức thống nhất và gắn bó với Liên Hiệp Châu Âu.
Cuộc hẹn hò với lịch sử diễn ra vào ngày 09/11/1989, khi "Bức tường ô nhục" chia cắt thành phố Berlin, nước Đức và Châu Âu suốt 28 năm trời đã sụp đổ. Helmut Kohl chủ động nắm lấy tiến trình, mạnh tay áp đặt một liên minh tiền tệ và chính trị mà sau này chính ông thú nhận : "Chúng tôi phiêu lưu vào một miền đất lạ".
Bất chấp những ý kiến phản đối trong Quốc hội, Helmut Kohl có quyết định nổi tiếng "một đổi một" - một đồng mác Đông Đức được đổi ngang với đồng Deutsche Mark hùng mạnh của Tây Đức. Và buộc được điện Kremlin chấp nhận nước Đức thống nhất là thành viên của NATO.
Ngày 01/10/1990, vừa 330 ngày sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, một đám đông khổng lồ tập trung trước Reichstag (Quốc hội liên bang), mừng sự khai sinh một cường quốc 80 triệu dân. Một quốc gia thống nhất đã nhìn nhận trách nhiệm trong việc diệt chủng người Do Thái, và tìm lại thủ đô lịch sử là Berlin.
Ái quốc, nhưng không dân tộc chủ nghĩa
Helmut Kohl bước lên đỉnh vinh quang – tờ Vanity Fair gọi ông là "King Kohl", "nhân vật đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thành lập một hệ thống chính trị mới và đưa đến thành công".
Tiến trình hội nhập năm bang Đông Đức, một công trình to lớn, liên hệ chặt chẽ với việc xây dựng Châu Âu. Theo thủ tướng Đức, đây chỉ là "hai mặt của cùng một tấm mề-đay". Helmut Kohl là người ái quốc, nhưng không dân tộc chủ nghĩa. Ông đóng góp rất nhiều vào việc dựng lên "ngôi nhà Châu Âu", với thị trường chung và hiệp ước Maastricht. Theo ông : "Châu Âu là vấn đề chiến tranh và hòa bình trong thế kỷ 20. Chúng ta, những người Đức, còn cần đến Châu Âu hơn hẳn những nước khác, để không lại bị rơi vào một định mệnh khắc nghiệt".
Vị thủ tướng hiểu rõ những gì mình nói. Một người cậu của Helmut Kohl tử trận trong Đệ nhất Thế chiến, còn người anh của ông ngã xuống trong Đệ nhị Thế chiến. Bản thân ông bị buộc phải thề trung thành với chế độ quốc xã ở tuổi 15, rồi sau đó phải lang thang trong một đất nước bị tàn phá vì bom đạn để tìm lại cha mẹ. Trải nghiệm về "cái chết và sự hủy diệt"đã thúc đẩy ông gắn bó với cựu thù là nước Pháp, làm nên cặp đôi cột trụ của Châu lục.
"Sự nghiệp độc đáo, vinh danh đặc biệt". Le Figaro cho biết, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Jean-Claude Juncker đã đề nghị vinh danh cố thủ tướng Đức ở cấp độ Châu Âu chứ không chỉ trong phạm vi nước Đức vì sinh thời ông đã là công dân danh dự Châu Âu. Từ tối thứ Sáu, những lá cờ được treo rủ tại các công sở Đức, và cả tại Quốc hội Châu Âu ở Strasbourg - đây là lần đầu tiên.
"Làn sóng Macron" từ Dinh Tổng thống tràn sang Quốc hội
Chiến thắng đã được báo trước trong vòng hai cuộc bầu cử Quốc hội Pháp của đảng Cộng Hòa Tiến Bước (LREM), do tân tổng thống Emmanuel Macron thành lập chỉ mới một năm, chiếm trang nhất của tất cả các báo Paris ra hôm nay.
Nhật báo cánh hữu Le Figaro chạy tựa : "Sau điện Elysée lại đến Quốc hội". Trang bìa tờ Libération thiên tả là một hình bán nguyệt với tỉ lệ ghế của các đảng trong Quốc hội, trong đó màu vàng của LREM áp đảo, chơi chữ "L’Emprise du Milieu" (tạm dịch "Dấu ấn cánh trung", gợi nhớ đến "L’Empire du Milieu", cụm từ thường dùng để chỉ Trung Quốc). Cũng với biểu đồ này, Les Echos đánh giá Macron đã "Thắng được thử thách", còn theo La Croix thì đây là một "Thành công bị tỉ lệ vắng mặt làm mờ nhòa". Le Monde ra từ cuối tuần nói về những gì đang chờ đợi tại một Quốc hội mà đa số thuộc phe tổng thống.
Libération tóm lược kết quả cuộc bầu cử Quốc hội : Với 310 ghế, ông Emmanuel Macron có được đa số tuyệt đối. Đảng Những Người Cộng Hòa (LR) giữ được thể diện, trong khi đảng Xã Hội (PS) đếm trên đầu ngón tay số người sống sót. Và với không đầy chục dân biểu, đảng Mặt Trận Quốc Gia (FN) chuẩn bị đối đầu với một cuộc nội chiến.
Libération nhận định, cách đây một năm, Emmanuel Macron hầu như chẳng có gì trong tay, bây giờ ông có tất cả. Quyền lực tập trung ? Độc tài cánh trung ? Tờ báo cho rằng cần tỉnh táo : Hiến Pháp vẫn nguyên vẹn, các quyền tự do được tôn trọng, đối lập vẫn giữ được các thành phố lớn và các vùng, một sự hiện diện khiêm tốn nhưng có thực tại Quốc hội. Điều đáng lo là phe đối lập thiếu cân bằng trong Quốc hội mới.
Cánh hữu bị giảm sút, nhưng cánh tả thì chỉ còn hiện diện tối thiểu. Phe Macron có xu hướng hữu khuynh để vô hiệu hóa các đối lập chủ chốt, bằng chứng là ba hồ sơ tình trạng khẩn cấp, luật lao động và giáo dục. Việc này có nguy cơ làm cho tân chính phủ tách rời khỏi cử tri cánh tả. Từ khẩu hiệu "không tả không hữu" trong vận động tranh cử, chính phủ của ông Macron có thể chuyển thành "phi cánh tả" - một sự bội ước.
Đa số tuyệt đối, trách nhiệm tối đa
Trong bài xã luận mang tựa đề "Đa số tuyệt đối, trách nhiệm tối đa", Le Figaro nhận định cuộc cách mạng "Tiến Bước" ào đến như một trận sóng thần. Cánh tả, cánh hữu, cực tả, cực hữu, tất cả những đảng truyền thống trong đời sống chính trị nước Pháp, nếu không bị chìm ngập thì cũng bị rung chuyển. Trên đống gạch vụn của "thế giới cũ xưa" này, một thế hệ mới đã nổi lên nắm lấy quyền lực của ngành lập pháp hôm nay, như đã nắm được chính quyền hôm qua. Đây là sự kiện chưa từng thấy từ năm 1958 đến nay. Tuy đã từng có tình trạng đa số tuyệt đối trong Quốc hội, nhưng đó là nhờ sự liên minh của các đảng chính trị, chứ một đảng nắm độc quyền thì chưa có tiền lệ.
Tổng thống Emmanuel Macron nay chẳng cần đến ai khác để lập đa số, kể cả đảng cánh trung MoDem đang liên kết. Đảng LREM chưa hề hiện hữu trước đó, và các dân biểu của đảng này được bầu lên nhờ gắn với tên ông. Chưa bao giờ một tổng thống được toàn quyền hành động như thế.
Tuy nhiên Le Figaro nhắc nhở, với tỉ lệ cử tri vắng mặt cao trong kỳ bầu cử tổng thống lẫn Quốc hội, chưa bao giờ một tổng thống có quyền lực như thế lại dựa trên một cơ sở bó hẹp đến vậy. Nếu một nước Pháp hầu hết là thị dân, có thu nhập khá sẵn sàng ủng hộ những cải cách của ông Macron, thì còn có một nước Pháp khác là dân ngoại ô có cuộc sống khiêm tốn, (66% công nhân và 61% nhân viên không đi bầu vòng một Quốc hội), đứng bên ngoài sự hồ hởi của giới tinh hoa.
Họ không chống đối ông, nhưng thất vọng với cả cánh tả lẫn cánh hữu, họ chờ đợi. Và các cử tri này sẵn sàng nhảy sang khuynh hướng cực đoan, một khi không có dịp bày tỏ chính kiến bằng lá phiếu (hai năm nữa mới có kỳ bầu cử mới), họ có thể sử dụng những hình thức chống đối khó kiểm soát hơn.
Nhắc lại những kết thúc đáng buồn của các đa số tuyệt đối từ thời vua Louis 18 cho đến Jacques Chirac năm 1987, tờ báo cho rằng Emmanuel Macron đang trên đà thắng lợi, khó thể lắng nghe những lời cảnh báo. Nhưng từ nay ông cần biết rằng việc nắm trọn quyền hành có cái giá của nó.
Donald Trump thu nhập 600 triệu đô la trong năm qua
Nhìn sang nước Mỹ, Le Figaro cho biết "Việc làm ăn của tổng thống Trump rất khấm khá". Nhà tỉ phú đã thu được ít nhất 600 triệu đô la trong khoảng năm 2016 đến tháng Tư 2017, qua nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau.
Theo một tài liệu 98 trang được cơ quan phụ trách về mặt đạo đức chính phủ công bố hôm thứ Sáu, ông Trump có thu nhập ít nhất 594 triệu đô la. Số tài sản này thực ra còn lớn hơn trên thực tế. Chỉ riêng câu lạc bộ Mar-a-Lago tại Florida, mà phí đăng ký đã được tăng gấp đôi, ông Trump đã thu được 37 triệu đô la với "Nhà Trắng mùa đông" này. Sân gôn ở Scotland thu nhập trên 50 triệu đô la, cuốn sách "The Art of the Deal" (Nghệ thuật thương lượng) mang về 5 triệu đô la, và cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ giúp ông bỏ túi 11 triệu đô la. Tuy nhiên làm ăn lớn thì nợ lớn, Donald Trump có số nợ gần 316 triệu đô la.
Thụy My