Chúng ta cũng không phải lo ngại sự cáo chung của chế độ cộng sản sẽ tạo ra một giai đoạn hỗn loạn. Hoàn toàn không. Đặc tính chung của các đảng và chế độ cộng sản, như kinh nghiệm Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng tỏ, là chúng bốc hơi ngay tức khắc khi dân chủ được công nhận bởi vì sự sống của chúng là sự phủ nhận dân chủ, cũng giống như những bóng ma biến mất ngay khi ánh sáng bừng lên.
Việc bãi chức Võ Văn Thưởng đang gây xôn xao trong dư luận. Nó đã khiến mọi người đồng ý là nội bộ đảng và chế độ cộng sản đang rất rối loạn, điều đáng lẽ đã có thể nhìn thấy trước đó. Hơn lúc nào hết chúng ta cần hiểu là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đến lúc phải tan biến và chế độ cộng sản Việt Nam đã đến lúc phải cáo chung. Để chuẩn bị cho tương lai đất nước.
Việc bãi chức Võ Văn Thưởng đang gây xôn xao trong dư luận.
Khi sự sống ra đi
Trong hai bài gần đây tôi đã báo động là chế độ cộng sản đang rất phân hóa và sắp cáo chung (1). Có lẽ chúng ta sẽ nhìn rõ hơn nếu nắm bắt được logic sống còn của phong trào cộng sản và các chế độ cộng sản, tại Việt Nam cũng như trên thế giới.
Hãy nhìn lại cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe cộng sản và tư bản -hay giữa hai phe cộng sản và dân chủ tùy theo cách gọi- từ sau Thế Chiến II đến khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991. Phe tư bản mạnh gấp hơn mươi lần phe cộng sản về kinh cả kinh tế lẫn quân sự, nhưng trừ mười năm chót, khi tiến trình sụp đổ của phong trào cộng sản đã gia tốc, phe cộng sản liên tục thắng lợi trong khi phe tư bản liên tục thất bại. Chỉ riêng trong thời gian 5 năm, từ 1975 đến 1980, khối cộng sản đã chinh phục được thêm khoảng mười nước, trong đó có Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại sao phe cộng sản yếu hơn hẳn mà lại luôn thắng ? Nghịch lý này có một nguyên nhân : chủ nghĩa cộng sản, hay chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngay khi ra đời – giữa thế kỷ 19 với bản Tuyên Ngôn Cộng Sản- chủ nghĩa cộng sản, với tên gọi lúc đó là chủ nghĩa Mác-xít, đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Sức quyến rũ này càng được tăng cường bởi niềm tin ở thắng lợi chắc chắn sau Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 và chủ nghĩa cộng sản mang tên mới là chủ nghĩa Mác-Lênin. Ở khắp nơi trên thế giới rất nhiều người sẵn sàng làm tất cả và hy sinh tất cả cho lý tưởng cộng sản.
Sự sai trái và độc hại của chủ nghĩa Mác-Lênin không khó nhìn thấy, nhiều nhà bình luận đã thấy ngay từ đầu và đã vạch ra một cách rất rõ ràng. Tuy vậy cho đến cuối thập niên 1970 nó vẫn lôi kéo được một số rất đông người, kể cả những trí thức danh tiếng nhất. Lý do là vì vấn đề mà nó nêu ra cũng là vấn đề mà lương tâm con người đã đặt ra từ rất lâu mà vẫn chưa có giải đáp, đó là bất công xã hội và chênh lệch giầu nghèo. Kể từ khi bắt đầu văn minh thế giới đã luôn luôn phải sống trong một mâu thuẫn nhức nhối giữa những tư tưởng quảng đại coi mọi người là anh em và một thực trạng xã hội phân biệt chủ và tớ, giầu và nghèo, sang và hèn. Thời nào cũng có những người ao ước xóa bỏ mâu thuẫn đó mà vẫn không được, dần dần sự giầu có trở thành gần như một tội ác. Giêsu Kitô từng nói linh hồn người giầu vào được thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Thế rồi từ thế kỷ 19 một yếu tố rất quan trọng và rất mới xuất hiện và gây choáng váng. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã tạo ra một quyền lực hoàn toàn mới : quyền lực của những nhà tư bản chủ nhân, những công ty lớn theo nhau ra đời. Đây là một quyền lực rất lạ vào lúc đó bởi vì nó không đặt nền tảng trên bạo lực, mà trên sự giầu có. Trong những năm đầu của nó xã hội tư bản cũng cực kỳ man rợ, các trẻ thơ mười tuổi cũng phải làm việc quần quần quật từ sáng sớm đến tối mịt để được miếng ăn. Sự căm phẫn lên đến mức độ cùng cực. Pierre Joseph Proudon, một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Pháp và Châu Âu lúc đó đã hét lên "tài sản chỉ là trộm cướp !" (la propriété, c'est le vol !). Thế giới gần như phát điên (2). Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mac-xít đã ra đời như một giải đáp. Luận điệu giản dị và mị dân nhưng hùng hồn của Marx đem lại cho chủ nghĩa cộng sản một sức thuyết phục gần như vô địch. Phần lớn các trí thức đã bị lôi kéo và đóng góp lôi kéo theo quần chúng vốn đã phẫn nộ. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga của Lenin còn đem lại cho cho chủ nghĩa cộng sản, từ đó mang tên chủ nghĩa Mác-Lênin, niềm tin rằng thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp -cuộc đấu tranh tiêu diệt giai cấp tư sản để xóa bỏ phân biệt giầu nghèo và xây dựng thế giới đại đồng của những con người bình đẳng làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu- là tất yếu. Không phải là không có những trí thức đủ sáng suốt, như John Lock, Stuart Mills, John Maynard Keynes và nhiều người khác nữa nhưng tiếng nói của họ bị lạc lõng trong cơn cuồng nhiệt Mác-Lênin. Cuộc chiến tranh lạnh vì thế đã khởi đầu gần như với trái tim của thế giới được dành cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Phong trào cộng sản càng mạnh hẳn lên nhờ lòng tin vào chiến thắng sau Thế Chiến II khi cả khối Đông Âu rơi vào quỹ đạo Xô Viết. Nó cũng được các nước nhược tiểu hoan hô vì phần lớn các nước dân chủ Châu Âu đang bị lên án là các đế quốc thực dân. Một cách rõ rệt, chủ nghĩa Mác-Lenin đã là sức mạnh duy nhất của phong trào cộng sản. Trong thập niên 1960 tại Pháp và phần lớn các nước Châu Âu có một câu nói thường được nhắc lại là ở lứa tuổi 20 mà không theo cộng sản là không có trái tim. Sức mạnh của phe cộng sản không chỉ là những nước cộng sản mà còn hiện diện ngay trong lòng các nước dân chủ. Thí dụ là tại Pháp cho tới năm 1968 Đảng Cộng Sản luôn luôn được hơn 30% dân chúng ủng hộ, chân dung Marx, Lenin và Mao được dán khắp nơi, các cuộc biểu tình và đình công diễn ra hàng ngày.
Tại Việt Nam, khi chủ nghĩa cộng sản được du nhập năm 1945, các trí thức danh tiếng nhất -như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ), Hoàng Xuân Hãn, Cù Huy Cận và nhiều người khác- đã ồ ạt hưởng ứng. Cho tới thập niên 1960, sau khi rất nhiều tội ác của Đảng Cộng Sản đã được phơi bày, rất nhiều trí thức và sinh viên đầy thiện chí của miền Nam vẫn say mê đi theo phe cộng sản. Tại Pháp nơi tôi du học trong giai đoạn đó tôi đã mất rất nhiều bạn mà tôi quý mến cả về trí tuệ lẫn nhân cách. Họ đều thuộc thành phần khá giả được ưu đãi tại miền Nam, đều biết đã có những vụ Cải Cách Ruộng Đất và Nhân Văn Giai Phẩm nhưng vẫn theo phe cộng sản. Họ biết tôi nhưng vẫn buộc tôi đủ thứ tội chỉ vì tôi chống lại chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ tất cả đều thất vọng.
Sự mê cuồng chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng cho phép phong trào cộng sản thế giới -các đảng cộng sản cũng như các chế độ cộng sản- sử dụng một vũ khí quyết định : khủng bố. Trong đầu óc của đa số quần chúng tại hầu hết các quốc gia, cuộc đấu tranh giai cấp là một lý tưởng đúng và đẹp đến nỗi có thể biện minh cho tất cả mọi phương tiện, kể cả bạo lực khủng bố. Và sự thực là khủng bố đã là phương pháp của phong trào cộng sản, để giành chính quyền cũng như để giữ chính quyền. Người ta lên án bạo lực của đế quốc Mỹ nhưng lại tán thành các hoạt động khủng bố dữ dội hơn rất nhiều của phe cộng sản. Hơn thế nữa, khủng bố cộng sản còn được coi là dũng cảm, lãng mạn, anh hùng. Che Guevara (một tay khủng bố cộng sản lừng danh, bạn của Fidel Castro, từng tàn sát một cách lạnh lùng hàng ngàn tù nhân chính trị tại Cuba và sau đó muốn chinh phục Châu Mỹ La Tinh bằng chiến tranh khủng bố, cuối cùng bị bắt và hành quyết tại Bolivia) đã là một thần tượng của tuổi trẻ trong thập niên 1960.
Chính phương pháp khủng bố đã khiến phe cộng sản luôn luôn thắng dù yếu hơn nhiều so với phe dân chủ về kinh tế cũng như về quân sự, bởi vì để thắng một lực lượng khủng bố, một lực lượng mạnh gấp trăm lần cũng chưa chắc đã đủ. Ngay trước mắt chúng ta trong lúc này, cả thế giới cũng chưa dẹp nổi tổ chức khủng bố Nhà Nước Hồi Giáo (IS).
Tóm lại, sức thu hút mãnh liệt chủ nghĩa Mác-Lênin và bạo lực khủng bố mà nó cho phép đã là lẽ sống, sức sống và sự sống của các đảng và chế độ cộng sản. Hệ luận tự nhiên là khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị cả thế giới vất bỏ thì các đảng cộng sản cũng phải tan biến và các chế độ cộng sản cũng phải cáo chung. Và sự thực hiện nay là thế, chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ bị vất bỏ như một sai lầm lố bịch mà còn bị lên án như một tội ác. Sự cáo chung của các chế độ cộng sản không chỉ tất nhiên mà còn nhanh chóng như một sự thức tỉnh.
Tiến trình sụp đổ của các chế độ cộng sản một khi đã mất lý tưởng. Ảnh minh họa
Tiến trình sụp đổ
Bao giờ chế độ cộng sản Việt Nam mới cáo chung ?
Đây là câu hỏi mà đa số người Việt Nam đã đặt ra từ lâu, nhưng đang làm mọi người bồn chồn trong lúc này. Để trả lời ta cần nhìn vào tiến trình sụp đổ của các chế độ cộng sản một khi đã mất lý tưởng.
Điều chắc chắn là một chính đảng chỉ có thể tồn tại được nhờ một lý tưởng đẹp chung, cũng như mọi tổ chức phải có một tinh thần và một muc tiêu đúng đắn chung. Chính vì thế mà các băng đảng xã hội đen đã không lớn lên được. Điều này đúng trong mọi trường hợp nhưng càng đúng trong trường hợp các đảng cộng sản mà lý tưởng cộng sản là lẽ sống và sức sống duy nhất. Khi đảng đã không còn lý tưởng, và hơn nữa lại mang sẵn bản chất khủng bố bất chấp các giá trị đạo đức, thì người ta không còn lý do gì để gia nhập hay tiếp tục ở lại trong đảng. Lý do duy nhất để làm đảng viên cộng sản là quyền lợi cá nhân. Những đảng viên bình thường để khỏi bị chèn ép, những đảng viên năng động để có quyền và tiền. Chỉ còn những người đồng đảng chứ không làm gì còn những đồng chí. Nguyễn Phú Trọng đã rất nông cạn khi nghĩ rằng có thể đốt lò chống tham nhũng. Tham nhũng là bệnh ung thư tự nhiên và bắt buộc của mọi chế độ cộng sản. Nó có sẵn trong bản chất của các chế độ cộng sản và bùng phát khi chủ nghĩa Mác-Lênin bị lột mặt nạ và để lộ chân dung độc hại. Lúc đó tiến trình đào thải bắt đầu.
Có hai biến chuyển chính cần được nhìn rõ trong tiến trình đào thải của một chế độ cộng sản khi lý tưởng Mác-Lênin đã sụp đổ : sự chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân và vai trò ngày càng quan trọng của hai thế lực kình địch tuyên giáo và công an trong đảng.
Trước hết chế độ dần dần chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Lý do là vì một khi đã mất lý tưởng chung người ta không còn lấy được các quyết định chung nữa, những mâu thuẫn nhỏ cũng có thể trở thành khó thỏa hiệp, thậm chí không thể thỏa hiệp. Tập trung quyền lực vào tay một người là một bắt buộc vận hành (operational requirement) để có thể xử lý những vấn đề đặt ra trong đảng cũng như trong bộ máy nhà nước. Chế độ cộng sản Trung Quốc vì vậy đã phải tập trung quyền lực vào Tập Cận Bình mặc dù ông này chẳng có gì là xuất chúng, tương tự như chế độ cộng sản Việt Nam phải tập trung vào Nguyễn Phú Trọng, một người rất giới hạn về kiến thức và tầm nhìn, hơn nữa lại rất yếu bệnh. Nhưng tập trung quyền lực vào một người, ngoài việc khiến đảng mất thực quyền và vai trò, còn đặt ra một vấn đề mới : làm thế nào để thay thế nhà độc tài này khi ông ta không thể tiếp tục cầm quyền được nữa ? Không có giải đáp bởi vì trong không khí kình địch và tranh giành người ta không thể nhượng bộ ; trao toàn quyền cho đối thủ cũng tương đương với đưa gươm cho hắn để giết mình. Kết quả là chế độ bế tắc và sụp đổ. Đó đang là tình trạng của đảng và chế độ cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng Sản đã nhất trí là phải thay thế ông Nguyễn Phú Trọng trong chức tổng bí thư ngay từ đại hội 13 đầu năm 2021 bởi vì các ủy viên trung ương đã biểu quyết không thay đổi điều lệ đảng theo đó tổng bí thư chỉ được giữ chức hai nhiệm kỳ, nhưng ngày hôm sau họ đã phải vi phạm nội quy và giữ ông ở lại chức tổng bí thư bởi vì không thể thỏa thuận trên một tổng bí thư mới. Việc loại bỏ Võ Văn Thưởng, đệ tử ruột mà Nguyễn Phú Trọng đã chọn để kế vị mình, chứng tỏ bế tắc vẫn còn nguyên vẹn.
Biến chuyển quan trọng thứ hai sau khi lý tưởng cộng sản sụp đổ là sự mạnh lên của hai phe tuyên giáo và công an. Tuyên giáo để cố giữ độc quyền ngôn luận và cố thuyết phục đảng viên cũng như quần chúng rằng chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn giá trị. Công an để đàn áp những phần tử cứng đầu không thuyết phục được. Hai thế lực này không thể liên đới với nhau bởi vì không còn lý tưởng chung mà đương nhiên phải tranh giành quyền lực. Ở đầu tiến trình suy thoái, phe tuyên giáo mạnh hơn vì đại diện cho ý chí của đảng và chế độ cộng sản nhưng chủ nghĩa càng bị phản bác, số người phản kháng càng đông thì nhu cầu đàn áp càng lớn hơn và phe công an càng mạnh hơn. Tại Liên Xô trước đây, Brezhnev đã chọn Chernenko một người cũng giáo điều như mình để thay thế mình sau 16 năm cầm quyền nhưng ngay khi ông chết phe công an đã làm cuộc đảo chính cung đình và đưa Andropov lên cầm quyền. Tại Trung Quốc sau khi chính sách "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" phơi bày bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã nhìn thấy mối nguy và liên tục đưa Hồ Cẩm Đào rồi Tập Cận Bình thuộc phe tuyên giáo lên cầm quyền (cả hai đều là hiệu trưởng trường đảng trược khi làm tổng bí thư đảng). Hiện nay chế độ cộng sản Trung Quốc đang khủng hoảng nặng, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu phe tuyên giáo bị loại trừ trong một tương lai gần. Tại Việt Nam ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã chọn một người tuyên giáo như ông để thay thế ông, việc nhưng việc bãi chức Võ Văn Thưởng chứng tỏ phe công an đã mạnh hơn.
Nếu ông Thưởng tiếp tục làm chủ tịch nước rồi kiêm nhiệm thêm chức tổng bí thư Đảng cộng sản thì tương lai của ông ấy cũng sẽ chỉ là vai trò hẩm hiu của một người tắt đèn và đóng cửa.
Theo logic cũng như kinh nghiệm của các chế độ cộng sản đã sụp đổ thì bình thường phe công an sau cùng thắng phe tuyên giáo, nhưng điều quan trọng nhất cần được nhận định thật rõ là dù phe nào thắng cũng chỉ là để nhận ra rằng mình không thể lãnh đạo. Cả hai phe đều bị cô lập và thù ghét trong quần chúng cũng như ngay trong nội bộ đảng.
Phe tuyên giáo bị ghét vì đã ngăn cấm tự do thông tin và ngôn luận quá lâu để giành độc quyền lải nhải những lập luận nhàm chán về sự cao siêu của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng vô duyên như cứ nhắc đi nhắc lại rằng Lào là nước có những bãi biển đẹp nhất thế giới. Sự nhàm chán dần dần nhường chỗ cho phẫn nộ.
Phe công an đã gây ra quá nhiều thù oán, trong cũng như ngoài đảng. Đã bách hại quá nhiều tù nhân lương tâm, đã vu cáo quá nhiều người vô tội, đã ép buộc các thẩm phán vô liêm sỉ của các vụ án chính trị phải đọc những bản án đã quyết định trước bất chấp những lời bào chữa của các luật sư, đã đánh chết người trong đồn công an, v.v. Ngay trong đảng thì tại sao điều tra, buộc tội và bỏ tù người này mà để yên người khác cũng sai phạm không kém. Căm tức chồng chất trong khi quân đội, mạnh hơn nhiều, không thấy có lý do gì để phải phục tùng.
Nói chung, dù phe nào thắng cũng phải nhận ra rằng lối thoát duy nhất là chấp nhận dân chủ để làm tác nhân thay vì nạn nhân của của một thay đổi bắt buộc phải đến.
Đến đây chúng ta có thể trả lời câu hỏi "bao giờ chế độ cộng sản sẽ cáo chung ?". Câu trả lời là rất gần. Chế độ cộng sản cáo chung vào lúc những xung đột phe phái trong nội bộ đảng trở thành dữ dội đến độ khiến những người cầm quyền hiểu rằng ngoan cố duy trì chế độ còn nguy hiểm cho họ hơn là nhượng bộ dân chủ. Chế độ sụp đổ từ bên trong. Việc trong vòng một năm loại bỏ bốn ủy viên bộ chính trị, truất phế hai chủ tịch nước, cách chức hai phó thủ tướng, khai trừ và bỏ tù hàng tá ủy viên trung ương đảng, bí thư tỉnh ủy, bộ trưởng, thứ trưởng, v.v. chứng tỏ rằng thời điểm này đã đến, vấn đề chỉ là những người trong cuộc chưa dám hoặc chưa đủ can đảm để nhìn nhận mà thôi. Họ không thể chần chừ lâu bởi vì chuông đồng hồ đã điểm rồi và hơn nữa một cuộc khủng hoảng kinh tế đang đến gần.
Khai sáng kỷ nguyên thứ hai
Chúng ta cần một dự án chính trị đúng đắn và khả thi khẳng định tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để mọi người Việt Nam thuộc mọi quá khứ chính trị lập tức nhận nhau là anh em
Hạn kỳ dân chủ đã đến rất gần. Dĩ nhiên không một người Việt Nam nào có thể có bất cứ lý do chính đáng nào để thương tiếc chế độ này. Phải nhìn nó như một cơn điên của đất nước trong một cơn điên của cả thế giới. Chúng ta đã điên lâu hơn các dân tộc khác do di sản văn hóa văn hóa Khổng Giáo, tương tự như Trung Quốc và Triều Tiên. Phải quên hẳn cơn điên này để chỉ nhìn về tương lai.
Chúng ta cũng không phải lo ngại sự cáo chung của chế độ cộng sản sẽ tạo ra một giai đoạn hỗn loạn. Hoàn toàn không. Đặc tính chung của các đảng và chế độ cộng sản, như kinh nghiệm Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng tỏ, là chúng bốc hơi ngay tức khắc khi dân chủ được công nhận bởi vì sự sống của chúng là sự phủ nhận dân chủ, cũng giống như những bóng ma biến mất ngay khi ánh sáng bừng lên.
Điều mà chúng ta phải sợ là sự ngớ ngẩn không biết phải làm gì khi dân chủ đến. Trách nhiệm của những người mong muốn một tương lai khác cho đất nước là phải chuẩn bị cho một cuộc chuyển hóa về dân chủ trong những điều kiện tốt đẹp nhất. Chúng ta cần một đội ngũ gắn bó của những con người lấy lẽ phải, lòng yêu nước và ý chí xây dựng một nước Việt Nam giầu mạnh làm lý tưởng của đời mình. Chúng ta cần một dự án chính trị đúng đắn và khả thi khẳng định tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để mọi người Việt Nam thuộc mọi quá khứ chính trị lập tức nhận nhau là anh em, cùng bắt tay nhau xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, đưa đất nước vào kỷ nguyên dân chủ đa nguyên, kỷ nguyên thứ hai trong lịch sử dân tộc.
Một lời sau cùng về trường hợp Võ Văn Thưởng. Trái với suy nghĩ của nhiều người, ông Thưởng không phải là nạn nhân của cuộc đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng Sản. Trái lại nên nghĩ rằng ông ấy đã may mắn. Nếu tiếp tục làm chủ tịch nước rồi kiêm nhiệm thêm chức tổng bí thư Đảng Cộng Sản thì tương lai của ông ấy cũng sẽ chỉ là vai trò hẩm hiu của một người tắt đèn và đóng cửa.
Nguyễn Gia Kiểng
(28/03/2024)
-----------------------
(1) Chuẩn bị cho sư cáo chung của chế độ cộng sản, Thông Luận, 16/02/2024
Phải rất cảnh giác trong năm nay, Thông Luận, 16/01/2024
(2) Nhìn lại chủ nghĩa Mác – Lênin, Thông Luận, 17/08/2017
Nghĩ về một cơn điên của thế giới, Thông Luận, 17/08/2017
Dư luận bị đánh lạc hướng trong vụ Võ Văn Thưởng
Nguyễn Anh Tuấn, RFA, 29/03/2024
Đã một tuần trôi qua kể từ cuộc từ chức vô tiền khoáng hậu của ngôi sao chính trị đang lên Võ Văn Thưởng, dư âm của vụ việc dường như vẫn chưa lắng xuống.
Đời tư và quá trình công tác chủ yếu ở cơ quan đoàn và đảng khiến ông Võ Văn Thưởng ít gặp điều tiếng gì về tiền bạc - một điểm tương đồng với ông Nguyễn Phú Trọng. Ảnh minh họa
Dư luận xôn xao và bất ngờ cũng hợp lý vì ngay cả những nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm trong và ngoài nước cũng không lường trước được số phận chính trị của ông Thưởng - người từng được kỳ vọng sẽ kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng trong vai trò Tổng bí thư, lại kết thúc chóng vánh như vậy.
Sự bất ngờ của công chúng và giới quan sát là có cơ sở, bởi lẽ cho tới trước khi thông tin được lan truyền, ông Thưởng đang nắm giữ nhiều lợi thế hơn cả so với các ứng viên khác cho vị trí Tổng bí thư. Lợi thế cả về vị trí đương quyền, kinh nghiệm công tác đảng, lý lịch ý thức hệ, và cả sự dư dả về thời gian. Đặc biệt hơn, đời tư và quá trình công tác chủ yếu ở cơ quan đoàn và đảng khiến ông ít gặp điều tiếng gì về tiền bạc - một điểm tương đồng với ông Nguyễn Phú Trọng.
Công chúng và giới quan sát cứ thế không ngớt đồn đoán về điều gì thực sự đã khiến ông Thưởng phải ra đi. Ngay cả khi bằng nhiều cách khác nhau, những người buộc ông Thưởng từ chức đã hé lộ điều được cho là sai phạm của ông trong quá khứ, điều này có lẽ vẫn chưa thuyết phục được dư luận.
Cụ thể, vài ngày sau khi ông Thưởng ra đi, một bài viết lạ được Ban Chỉ đạo 35 một số địa phương đăng tải đã tiết lộ sai phạm của ông Thưởng trong thời gian làm Bí thư tỉnh Quảng Ngãi là để cho "doanh nghiệp mượn danh [Phúc Sơn - ghi chú của người viết] đảm nhận nhiều dự án, can thiệp công tác cán bộ, làm mất lòng tin trong nhân dân". Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là nhân dân nào mất lòng tin khi mà nội tình của sự việc đã không được làm rõ, và vì sao Bộ Công an lại chọn thời điểm Đảng khởi động công tác nhân sự khóa mới để làm án Phúc Sơn và lật lại sai phạm của ông Thưởng.
Tương tự vậy, dư luận không thấy thuyết phục khi án Phúc Sơn được Bộ Công an làm rất nhanh, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi có quyết định về số phận ông Thưởng chỉ chưa đầy một tháng. Vì sao một vụ án nghiêm trọng như vậy mà tiến hành thật cấp tốc ? Vì sao Bộ Công an có thể bắt các Ủy viên Trung ương Đảng có liên quan trong vụ án mà không cần Bộ Chính trị, Trung ương Đảng thông qua các bước kỷ luật đảng như trước kia ? Vẫn còn rất nhiều câu hỏi bỏ ngỏ.
Tuy nhiên, việc dư luận mãi thắc mắc về những gì ông Thưởng đã làm có thể ví như "thấy cây mà không thấy rừng" và vô tình lại phù hợp với mong muốn của người đã loại bỏ ông Thưởng : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Bởi lẽ khi đó dư luận đã ngầm giả định sự thưởng - phạt trong cuộc đốt lò của ông Trọng là công minh, trong khi trên thực tế chưa hẳn đã vậy.
Ai cũng biết những cán bộ chủ chốt hiện tại đều từng kinh qua các chức vụ lãnh đạo địa phương hoặc bộ ngành, như ông Phạm Minh Chính từng là Bí thư Quảng Ninh, ông Vương Đình Huệ làm Bộ trưởng Tài chính, hay ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng từng làm Bí thư Hà Nội. Lật lại mấy chục năm công tác của họ liệu lấy gì đảm bảo không mắc những sai phạm tương tự như ông Thưởng, trong bối cảnh chủ nghĩa bè phái thân hữu trục lợi hoành hành ở Việt Nam hàng mấy thập kỷ qua ?
Do đó, vấn đề không phải là trong quá khứ có mắc sai phạm hay không, mà nằm ở chỗ có đang nắm quyền lực thống soái để có thể lật lại sai phạm của đồng chí mình hay không.
Nhìn nhận dưới góc độ này sẽ thấy những đồn đoán, tranh luận, nghi vấn về sai phạm trong quá khứ của ông Thưởng không thật nhiều ý nghĩa, và có khi lại là dấu hiệu cho thấy dư luận đã bị đánh lạc hướng trong vụ việc này.
Chuyện cần đào sâu và thảo luận nhiều hơn là động cơ của người nắm quyền hành cao nhất trong Đảng hiện nay - Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông Thưởng.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 29/03/2024
***************************
Chính trường tanh tưởi
Đặng Đình Mạnh, VNTB, 24/03/2024
Chính trường cộng sản đang đặc tanh mùi máu. Chưa lúc nào bằng lúc này, tình "đồng chí" hay "đồng bọn" giữa các đảng viên cao cấp đang bộc lộ cho bằng hết bản chất… Số đảng viên có đủ tiêu chuẩn ngồi vào ghế tổng bí thư đầy quyền lực trong nhiệm kỳ tới lần lượt dính vào các đòn thù dưới thắt lưng, gồm : Vương Đình Huệ, Phạm Minh Chính, Trương Thị Mai và Võ Văn Thưởng.
Chưa lúc nào bằng lúc này, tình "đồng chí" hay "đồng bọn" giữa các đảng viên cao cấp đang bộc lộ cho bằng hết bản chất… Ảnh minh họa Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đến dự Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV, ngày 15/01/2024. Ảnh : Trí Dũng/TTXVN
Võ Văn Thưởng, chủ tịch nước. Thưởng là kẻ đầu tiên bị loại khỏi đường đua với lý do nhận hối lộ 60 tỷ đồng của một doanh nghiệp từ hơn 10 năm trước. Đây là đòn thậm đau đối với Thưởng, vì lẽ, số tiền 60 tỷ đối với một ủy viên bộ chính trị chỉ nhỏ như cái móng tay mà thôi. Cứ xem bí thư của một huyện đã ung dung có đến 170 tỷ đồng trong tài khoản, hoặc một giám đốc công an tỉnh có đến 40 sổ đỏ, nhà ở vài cái như cung điện, sở hữu khối tiền bạc của chìm, của nổi đồ sộ, thì có thể suy ra ủy viên bộ chính trị sẽ sở hữu bao nhiêu tài sản… Thế nhưng, thật sự thì Thưởng đã "chết" chỉ vì cái móng tay cỏn con ấy.
Kẻ dính đòn kế tiếp là Vương Đình Huệ, chủ tịch quốc hội. Chẳng phải tự nhiên mà công chúng được bơm thổi tràn ngập tin tức và cả hình ảnh minh họa về cô ca sĩ H.T. xứ Nghệ xinh đẹp bồng hai con thơ với tên gọi xách mé "Hai con đom đóm". Không cần quá uyên bác, công chúng vẫn dễ dàng nhận ra cái tên "đom đóm" nói về ông chủ tịch quốc hội. Người được chính thân mẫu quảng cáo trên báo về sự hiếu học, bắt chước theo câu chuyện của thần đồng Mạc Đĩnh Chi chong chiếc đèn đom đóm để học trong đêm khuya, bất chấp tính phi khoa học về những chiếc đèn đom đóm ấy.
Nhưng chỉ cần câu chuyện hủ hóa như thế, bất chấp thật giả, thì chủ tịch họ Vương cũng đã đủ mất sạch uy tín trước công chúng nếu có ý định tham gia cuộc đua tử thần vào chiếc ghế tổng bí thư. Dĩ nhiên qua đó, họ Vương cũng nhận được thông điệp không gì có thể rõ ràng hơn : Ông ấy không được chào đón vào cuộc đua như là một ứng viên.
Phạm Minh Chính, thủ tướng. Vẫn là mô típ cũ về câu chuyện hủ hóa được đồn thổi khá lâu về mối quan hệ tình ái ngoài luồng giữa ông thủ tướng đã lập gia đình với người phụ nữ đầy quyền lực trước đây : Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Bà Thanh Nhàn đang bị truy nã đỏ về nhiều vụ án tham ô, tham nhũng trong nước. Để nhắc nhở ông thủ tướng về tội hủ hóa và cả khả năng là đồng bọn giúp sức cho bà Thanh Nhàn trong các phi vụ đắt tiền, thỉnh thoảng, đối thủ của ông vẫn nhờ các KOLs (những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội) lên tiếng về nghi án ấy để nhắc nhở thân phận ông thủ tướng và nhân tiện, cũng làm mất uy tín thủ tướng. Như họ Vương, ông thủ tướng họ Phạm cũng nhận được thông điệp không gì có thể rõ ràng hơn : Ông ấy không được chào đón vào cuộc đua như là một ứng viên.
Ngay cùng thời điểm có tin đồn ông Võ Văn Thưởng nộp đơn xin từ chức chủ tịch nước, thì cũng kèm theo tin đồn bà Trương Thị Mai cũng xin nghỉ hưu sớm.
Trương Thị Mai, thường trực ban bí thư, ủy viên bộ chính trị. Bà được công chúng đánh giá là có nhiều nét tương đồng với Võ Văn Thưởng, ít nhất về 2 phương diện : Bất tài nhưng sạch sẽ. "Sạch sẽ", đó là nói về thời điểm trước khi Thưởng bị lộ mặt. Thật vậy, kinh qua nhiều chức vụ, bà hầu như chưa từng để lại dấu ấn gì đặc biệt để khẳng định tài năng cả. Sống lâu lên lão làng, cứ thế bà được đẩy dần lên các ghế lãnh đạo cao cấp. Thế nhưng, ngay sau thời điểm họp Tiểu ban Nhân sự Trung ương để chuẩn bị cho đại hội XIV, bắt đầu có tin đồn râm ran về tư cách đạo đức của bà khi dính đến nghi án bí thư tỉnh ủy tỉnh Lâm Đồng, người vừa bị bắt giữ, khởi tố hình sự có thể đã cung phụng việc xây dựng biệt thự nghỉ dưỡng cho bà tại Đà Lạt bằng ngân sách nhà nước.
Dĩ nhiên, hư thực chưa từng được chứng minh. Nhưng như trường hợp ông chủ tịch quốc hội họ Vương, đối thủ của bà chỉ cần những tin đồn thổi để dọn đường dư luận và cũng để nắn gân bà.
Ngay cùng thời điểm có tin đồn ông Võ Văn Thưởng nộp đơn xin từ chức chủ tịch nước, thì cũng kèm theo tin đồn bà Trương Thị Mai cũng xin nghỉ hưu sớm. Không rõ, bà đã sớm ngửi thấy mùi tanh máu của đồng bọn nên đành áp dụng kế "tẩu vi thượng sách" trong tam thập lục kế để sớm thoái lui khỏi đấu trường đẫm máu, hoặc chỉ là hư chiêu, trước khi tung thực chiêu dành suất trên đường đua ?
Còn những Phan Đình Trạc. Nhưng có lẽ, Trạc chưa từng sẵn sàng cho bất kỳ trò chơi quyền lực nào cả, ít nhất trong thời điểm này.
Vậy, cuối cùng thì ai sẽ là ứng viên tại vạch xuất phát cuộc đua tử thần ? Dĩ nhiên, người trong sạch nhất.
Vậy, ai là người trong sạch nhất ? Dĩ nhiên, là người không bị vướng vào các lời đồn thổi về bê bối tình, tiền.
Vậy, ai là người không bị vướng vào các lời đồn thổi về bê bối tình, tiền ? Dĩ nhiên, là người tung lời đồn thổi cho các đối thủ.
Đến đây, các bạn biết ai là ứng viên nhỉ ?
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an trung ương đến dự hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74 ngày 4/1/2019
Kể từ khi quyền lực quốc gia bị thoán đạt bằng một cuộc "Cướp chính quyền" vào năm 1945, thay thế cho bầu cử tự do, văn minh, thì chính trường xứ này bắt đầu sa vào cái "dớp" truyền kiếp không thể thoát ra được.
Lúc này, thời điểm chuẩn bị cho một cuộc thay đổi quyền lực quốc gia cũng vậy, công chúng, người chủ đất nước đã hoàn toàn bị đẩy ra rìa cuộc chơi. Thay vì là nhân vật chính trong một cuộc bầu cử tự do, văn minh, họ chỉ còn là những khán giả thụ động chứng kiến cuộc chơi tanh tưởi đang diễn ra trên sân khấu. Cho dù kẻ thắng trong cuộc chơi quyền lực có là ai chăng nữa, thì vai trò khán giả của công chúng vẫn không có gì thay đổi, họ vẫn phải cày bừa để cung phụng cho các cuộc chơi mới của kẻ thắng cuộc…
DC, ngày 24/03/2024
Đặng Đình Mạnh
Nguồn : VNTB, 24/03/2024
*************************************
3 lý do Tổng Trọng phải trảm Võ Văn Thưởng theo lệnh của Bắc Kinh ?
Trà My, Thoibao.de, 25/03/2024
Sự nghiệp chính trị của ông Võ Văn Thưởng đã chính thức khép lại ở tuổi 54. Tuy nhiên, lý do vì sao ông Thưởng bị bãi chức, thông báo của Ban Chấp hành Trung ương khóa 13, tại phiên họp "bất thường" ngày 20/3, đã không nêu rõ.
Ngày 20/10/2023, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng kết thúc tốt đẹp chuyến tham dự BRF lần thứ ba tại Bắc Kinh, Trung Quốc - Ảnh minh họa
Công luận thấy rằng, với những lời lẽ được cho là rất nặng nề trong thông báo trên, nhưng lại không ai hiểu, ông Thưởng đã sai phạm những gì, đến mức bị buộc phải thôi chức, và vì sao Đảng không nói rõ cho dân biết ?
Giới quan sát nhận xét rằng, Chủ tịch nước ông Võ Văn Thưởng là một chính khách trẻ, có lý luận, có mối quan hệ "gần gũi" và được đích thân TổngTrọng đào tạo và dìu dắt. Sự thăng tiến của ông Thưởng trong tương lai, có khả năng tiến xa và trở thành người đứng đầu của Đảng, trên cương vị Tổng bí thư. Nhưng, ông lại đột nhiên "rớt đài".
Theo đồn đoán, lý do ông Thưởng ngã ngựa liên quan tới một số bê bối về tham nhũng xảy ra từ 12 năm về trước. Điều này đã được nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, từ Học viện Chính trị Đông Nam Á, có trụ sở tại Singapore, xác nhận :
"Các nguồn tin không chính thức nhưng đáng tin cậy cho biết, trong thời gian ông còn giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2011 – 2014), một người thân của ông Thưởng đã nhận 60 tỷ đồng từ Tập đoàn Phúc Sơn, được cho là [đã hối lộ] cho Thưởng để xây dựng nhà thờ tổ của mình".
Dù không có bằng chứng xác thực, nhưng công luận và giới thạo tin vẫn cho rằng, Bộ trưởng Công an Tô Lâm là kẻ đứng sau vụ hạ bệ ông Thưởng. Lý do, ông Tô Lâm muốn đoạt lấy chức Chủ tịch nước, để được hưởng suất "trường hợp đặc biệt" ở lại Đại hội 14, sẽ tổ chức vào tháng 1/2026.
Có ý kiến cho rằng, bất kể Bộ trưởng Công an Tô Lâm là nhân vật "siêu quyền lực" trong bộ máy lãnh đạo Đảng, thì việc ông Tô có thể "diệt" được ông Thưởng là điều không dễ dàng. Bởi đây là một nhân vật gần gũi với ông Trọng.
Hơn nữa, với nguyên tắc lãnh đạo tập thể, thì việc ra đi hay ở của Thưởng phụ thuộc theo đa số phiếu biểu quyết của Bộ Chính trị, mà phe Tổng vẫn chiếm đa số. Điều này cho thấy, dù Tô Lâm có rất muốn trảm ông Thưởng, thì không phải cứ muốn là được !
Đó là lý do, một số người cho rằng, chính Tổng Trọng là người chủ động "diệt" Thưởng ! Vì sao ?
Việc Võ Văn Thưởng lâu nay vẫn được đánh giá là nhân vật trẻ tuổi, thuộc phái "cấp tiến" được phe cộng sản miền Nam ủng hộ, là điều có thật. Đồng thời, Thưởng có xu hướng chính trị nghiêng về phương Tây nhiều hơn. Đó là những lý do khiến Ban lãnh đạo Bắc Kinh và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, không hài lòng.
Trong chuyến thăm của ông Thưởng đến Trung Quốc, dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế "Vành đai và Con đường" lần thứ 3, được tổ chức tại Bắc Kinh, vào tháng 10/2023, ông Thưởng không được chào đón lắm.
Cụ thể, nước chủ nhà Trung Quốc đã bố trí cho ông Thưởng một chỗ đứng không thể "khiêm tốn" hơn, khi để ông đứng ngoài rìa (chỉ còn cách một người) bên trái, trong bức hình lễ khai mạc. Điều đó đã khiến cho có nhiều người cảm thán rằng : Ông Thưởng tham dự Diễn đàn "Một vành đai, một con đường" với tư cách một nhân vật "chầu rìa", đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩ bóng.
Điều vừa kể phù hợp với việc, trước chuyến đi này của ông Thưởng, công luận và mạng xã hội Việt Nam đánh giá là "lành ít, dữ nhiều".
Cũng như sau đó, trong chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Hà Nội vào tháng 12/2023, tại tiệc chiêu đãi "quốc khách" chiều ngày 12/12/2023, Tổng Trọng đã nghẹn ngào khi đọc diễn văn trước Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Theo đó, Tổng Trọng đã thổ lộ với người đồng cấp Trung Quốc rằng : "Đồng chí Tập Cận Bình còn trẻ hơn tôi nhiều. Nhưng mà tôi thì cũng đã già rồi, rất muốn gửi gắm và trao trách nhiệm cho thế hệ trẻ".
Theo giới phân tích, sự thổ lộ này đã khiến Tập Cận Bình và lãnh đạo Bắc Kinh không hài lòng.
Trong bối cảnh, Tổng Trọng và Ban lãnh đạo Hà Nội có nhiều chỉ dấu ngả sang phương Tây nhiều hơn, bằng chứng là họ đã nâng cấp quan hệ ngoại giao với hàng loạt các quốc gia như, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc, lên mức cao nhất, là "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện". Điều này khiến Bắc Kinh rất không hài lòng, mà trong đó có những đóng góp to lớn của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.
Đó là lý do, vì sao Tổng Trọng không còn lựa chọn nào khác, buộc phải xử lý ông Thưởng.
Mới đây, ngày 22/3/2024, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Lê Hoài Trung, đã hội kiến với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại Bắc Kinh, đã khẳng định, Việt Nam khẳng định tăng cường quan hệ mật thiết hơn với việc Trung Quốc, là câu trả lời./.
3 lý do ông Tổng phải trảm V.V Thưởng theo lệnh của Bắc Kinh ?
Trà My
Nguồn : Thoibao.de, 25/03/2024
****************************
Biến Trần Cẩm Tú thành vô dụng, âm mưu hóa giải sức mạnh ông Tổng của phản nghịch Tô ?
Thái Hà, Thoibao.de, 25/03/2024
Thông báo của Trung ương Đảng ngày 20/3 về việc cho thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác đối với ông Võ Văn Thưởng, có đoạn :
"Vừa qua, theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, ông Võ Văn Thưởng đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chịu trách nhiệm người đứng đầu, theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước".
Tô Lâm đã làm thay công việc của "Công an nội bộ trong Đảng", điều đó có nghĩa là, ông Tô Lâm đã biến Trần Cẩm Tú thành vô dụng, trong vụ kỷ luật Võ Văn Thưởng. Ảnh minh họa : ông Trần Cẩm Tú
Tuy ông Thưởng viết đơn từ chức, nhưng thực chất, đây là hình thức kỷ luật cách chức. Việc viết đơn "từ chức" chỉ là cách để bảo vệ danh dự cho ông Thưởng – một nhân vật thuộc Tứ trụ và cho Đảng.
Vậy câu hỏi đặt ra là, đâu là nơi xuất phát của áp lực này ?
Báo cáo của Trung ương Đảng chỉ nói chung chung về tội trạng của ông Thưởng, chứ không nói gì cụ thể. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cũng đã soi rất kỹ câu từ của bản kết luận do Trung ương Đảng công bố. Đó là, "theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng". Câu hỏi đặt ra là, cái gọi là "cơ quan chức năng" kia là cơ quan nào ? Tại sao lại phải giấu giếm ?
Thông thường, về mặt Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương do ông Trần Cẩm Tú đứng đầu, sẽ làm công việc điều tra sai phạm và đề nghị mức kỷ luật. Đây là quy định bao lâu nay của Đảng. Vậy tại sao, đối với trường hợp của ông Thưởng, lại có một "cơ quan chức năng" bí ẩn nào đó nhảy vào, tranh làm công việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương ?
Thật ra, cũng không khó đoán, cái gọi là "cơ quan chức năng" này chính là Bộ Công an của Tô Lâm.
Lâu nay, Đảng quy định, muốn kỷ luật về mặt Đảng một cán bộ lãnh đạo, thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện việc điều tra, đưa ra kết luận và đề xuất lên Bộ Chính trị, về mức kỷ luật. Ủy ban Kiểm tra Trung ương được ví như "công an của nội bộ của Đảng", còn Bộ Công an là công an của thường dân.
Sau khi "Công an nội bộ của Đảng" đề nghị kỷ luật, ở mức khai trừ Đảng đối với một ai đó, và đẩy họ về phía thường dân thì mới đến lượt Tô Lâm ra tay. Nhưng nay thì khác, Tô Lâm đã làm thay công việc của "Công an nội bộ trong Đảng", điều đó có nghĩa là, ông Tô Lâm đã biến Trần Cẩm Tú thành vô dụng, trong vụ kỷ luật Võ Văn Thưởng.
Thông tin nội bộ cho biết, chính Tô Lâm đã tự ý điều tra và lập hồ sơ của Võ Văn Thưởng, rồi gây áp lực buộc ông Trọng phải ra tay với Võ Văn Thưởng. Từ đó, ông Trọng mới cho Trần Cẩm Tú kết luật sai phạm của Võ Văn Thưởng theo nội dung mà Tô Lâm cung cấp. Nói thẳng ra, Trần Cẩm Tú đã bị Tô Lâm dắt mũi, trong vụ kỷ luật Võ Văn Thưởng.
Hôm nay Tô Lâm "dắt mũi" được Trần Cẩm Tú, thì không có gì đảm bảo rằng, ông không có âm mưu vô hiệu hóa Trần Cẩm Tú. Bởi lâu nay, Trần Cẩm Tú là sức mạnh của ông Nguyễn Phú Trọng. Việc điều tra các "đồng chí" sai phạm được ông Trọng giao cho Trần Cẩm Tú đi trước.
Việc vô hiệu hóa Trần Cẩm Tú chỉ mới diễn ra trong thời gian gần đây, kể từ vụ "bắt sống" ông Trần Đức Quận – Bí thư ; và ông Trần Văn Hiệp – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, vào ngày 24/1. Sau đó là vụ "bắt sống" bà Hoàng Thị Thúy Lan – Bí thư ; và ông Lê Duy Thành – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, cùng lúc với việc bắt ông Đặng Văn Minh – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Tất cả những người này là do Tô Lâm bắt trước, không qua Trần Cẩm Tú.
Phải chăng, đây là dấu hiệu cho thấy, Tô Lâm đã vô hiệu hóa được Trần Cẩm Tú để hóa giải sức mạnh của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ?
Biến Trần Cẩm Tú thành vô dụng, âm mưu hóa giải sức mạnh ông Tổng của Tô ?
Thái Hà
Nguồn : Thoibao.de, 25/03/2024
Lời thưa
Bước vào thế kỉ 20, các nước đã làm cách mạng dân chủ tư sản hối hả công nghiệp hóa đất nước. Cũng vì công nghiệp hóa cần tài nguyên, cần thị trường, cần thị phần thế giới dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu. Mất quá nhiều thời gian và sức sản xuất váo chiến tranh tàn phá, sau chiến tranh, các nước đã làm cách mạng giải phóng cá nhân, giải phóng súc sáng tạo của cá nhân càng hối hả công nghiệp hóa đất nước.
Khai phá thuộc địa Việt Nam cho công nghiệp hóa nước Pháp, tư bản Pháp cũng mang triết học Ánh Sáng và tư tưởng cách mạng Tư Sản Dân Quyền đến Việt Nam, đánh thức tài trí Việt Nam, tạo nên một tầng lớp trí thức và tư sản dân tộc đầy tài năng và nồng nàn yêu nước. Những trí tuệ, tài năng nồng nàn yêu nước đó hội tụ lại ở chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim.
Thể chế quân chủ, quyền lực tối cao của đất nước tập trung ở ngôi vua. Chính phủ Trần Trọng Kim do vua Bảo Đại thành lập là chính phủ hoàn toàn hợp pháp. Chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim tập trung những trí tuệ Việt Nam yêu nước đang theo con đường Mahatma Gandhi, khai dân trí, dùng sức mạnh dân trí giành độc lập bằng luật pháp dân chủ tư sản, đưa Việt Nam hòa nhập với dòng chảy lịch sử loài người, đi vào văn minh công nghiệp.
Thủ tướng Trần Trọng Kim (file photo)
Phất ngọn cờ độc lập tập hợp người dân đang khát khao độc lập nhưng dân trí còn thấp, chưa có cá nhân, chưa nhận thức được thời cuộc, đảng cộng sản cướp được chính quyền của chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim, làm cách mạng tháng tám 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng tháng tám 1945 đã chặt đứt gãy tiến trình lịch sử Việt Nam, kéo xã hội Việt Nam lùi về thời phong kiến bầy đàn, không có cá nhân.
GẦN MỘT THẾ KỈ LẠC BƯỚC là bài viết dài gồm 6 phần, mỗi phần gần hai ngàn từ. Nhân 77 năm cuộc cách mạng lập nên nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
*******************
Kỳ 1
Từ tư bản hoang dã đến cộng sản
Suốt chiều dài lịch sử chỉ có hai thế lực nước ngoài xâm lược đất nước Việt Nam, dìm dân tộc Việt Nam hiền hoà, sáng tạo và kiên cường vào máu và nước mắt nô lệ lầm than là Đại Hán phương Bắc và thực dân Pháp phương Tây.
Trống đồng Đông Sơn của Việt Nam
Các hoàng đế phương Bắc tự coi là con Trời, Thiên tử, thế Thiên hành đạo, thay Trời cai trị thiên hạ. Mang quân chinh phạt tộc người lạc loài Việt Nam, xóa bỏ biên cương Việt Nam đã được lịch sử phân định là trách nhiệm, là sứ mệnh của Thiên tử. Đào cột đá phân chia cương vực lãnh thổ, xóa bỏ biên giới quốc gia. Đốt sách, đập nát văn bia, lùng diệt tận cùng nền văn hóa đã tạo ra trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ để không còn có tộc người Việt Nam tồn tại một cõi riêng trong thiên hạ của Đại Hán.
Ngàn năm Bắc thuộc giống nòi Việt Nam không bị đồng hóa với Đại Hán nhờ mạch nguồn văn hóa Việt Nam bền bỉ trong máu người Việt Nam, nhờ câu ca dao dân ca mẹ ru con thấm vào hồn những lớp người ra đời và lớn lên dưới bóng tre, bóng dừa, dưới rập rờn cánh cò bay ra từ lời ru của mẹ.
Giặc phương Bắc xâm lược có thể đốt gia phả những dòng họ người Việt nhưng chúng không đốt được tiếng Việt, không đốt được câu ca dao, tục ngữ, không đốt được lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt. Giặc phương Bắc xâm lược có thể đào mồ những hào kiệt làm nên lịch sử Việt Nam, yểm long mạch để hào kiệt không còn xuất hiện nhưng chúng không thể đào được hết những trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ chôn sâu dưới tầng tầng lớp lớp phù sa sông Hồng, sông Mã.
Nhà nước của những chủ tư bản hoang dã vừa ra đời sau cách mạng tư sản dân quyền Pháp năm 1789, đưa pháo hạm chạy bằng máy hơi nước, từ biển ngược sông Hương nã pháo vào kinh thành Huế, từ biển ngược sông Hồng nã pháo vào thành cổ Hà Nội. Xâm lược Việt Nam, vơ vét tài nguyên, nguyên liệu sản xuất, mở thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, nhà nước thực dân Pháp vẫn bảo đảm sự tồn tại của đất nước Việt Nam và trân quí giữ gìn nền văn hóa Việt Nam khẳng định sự có mặt của dân tộc Việt Nam trong cộng đồng nhân loại.
Pháp liên tiếp kí hai hiệp định lịch sử phân định biên giới Việt – Hoa với nhà Thanh năm 1885 và năn 1887. Tên nước Việt Nam khắc chìm vào cột mốc bê tông xác định chủ quyền ở biên giới Việt – Hoa còn lại đến ngày nay đều được người Pháp dựng lên sau hiệp định Pháp – Thanh năm 1887. Những khối bê tông bia chủ quyền in chìm tên nước Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều do người Pháp dựng từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20.
Dìm những cuộc khởi nghĩa của lòng yêu nước Việt Nam chống Pháp xâm lược vào biển máu, Pháp cũng xây bảo tàng lịch sử, bảo tàng văn hóa Việt Nam, bảo tàng các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn, lưu giữ bằng chứng lịch sử dựng nước Việt Nam, lưu giữ di sản văn hóa khẳng định sự có mặt của dân tộc Việt Nam trong lịch sử và văn hóa nhân loại.
Tìm kiếm lợi nhuận, tích lũy tư bản bằng bóc lột sức lao động trong nước và bóc lột tài nguyên ngoài nước, tư bản hoang dã phải chiếm thuộc địa tìm nguyên liệu cho sản xuất, tìm thị trường cho sản phẩm. Trí tuệ đưa khoa học kĩ thuật phát triển. Lợi nhuận không chỉ đến từ bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên nữa mà còn đến từ trí tuệ, từ khoa học kĩ thuật. Trí tuệ và khoa học cho lợi nhuận nhanh, nhiều và rẻ gấp trăm lần, ngàn lần sức người. Trí tuệ và khoa học đã đưa xã hội tư bản vượt qua thời kì hoang dã bóc lột sức người, bóc lột tài nguyên thiên nhiên đến xã hội tư bản văn minh, biết coi trọng những giá trị nhân văn, biết giữ gìn tài sản thiên nhiên.
Quyền tự do của con người, quyền tự quyết của các dân tộc được nhà nước tư bản văn minh nhìn nhận và trở thành luật pháp quốc gia và quốc tế. Màu xanh của trái đất, không khí trong lành của sự sống, con thú hoang trong rừng đều là thành phần hữu cơ của trái đất, đều là tài sản chung của loài người không những được luật pháp bảo vệ mà ứng xử với tài sản vô giá chung của loài người còn là đạo đức của con người văn minh.
Thế kỉ 18, 19, các nước công nghiệp phát triển đi xâm lược các nước nông nghiệp trì trệ, chậm phát triển, chiếm đóng thuộc địa, từ giữa thế kỉ 20 lại lần lượt trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Chế độ thuộc địa vĩnh viễn kết thúc với nghị quyết 1514 của Liên Hiệp Quốc ngày 1/4/1960 trịnh trọng Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.
Tuyên bố 1514 của Liên Hiệp Quốc ngày 1/4/1960 không chỉ là Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa mà còn là Tuyên bố của lịch sử văn minh nhân loại chấm dứt vĩnh viễn chủ nghĩa tư bản hoang dã xâm chiếm thuộc địa trên phạm vi thế giới, là cột mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của tư bản văn minh, xác định một bước tiến dài của loài người tới những giá trị nhân văn cao cả.
Tư bản hoang dã phương Tây xâm chiếm thuộc địa chỉ là tình thế lịch sử. Tình thế qua đi khi công nghiệp phát triển tạo ra của cải làm giầu cho xã hội cũng làm giầu cho tâm hồn con người. Giá trị nhân văn là tài nguyên của tâm hồn con người còn cần thiết và quí giá hơn cả tài nguyên thiên nhiên của sản xuất công nghiệp. Với tư bản văn minh, nhu cầu thuộc địa không còn nữa, không còn chiến tranh xâm lược. Không còn xứ sở thuộc địa và con người nô lệ nữa. Kết thúc vai trò lịch sử, bước vào tư bản văn minh nhưng tư bản hoang dã đã để lại di hoạ nặng nề cho loài người, cho lịch sử. Tư bản hoang dã bóc lột sức người, bóc lột thiên nhiên tàn tệ, tạo ra thời kì ngập ngụa máu và nước mắt của bất công đã làm nảy nòi ra ảo tưởng chủ nghĩa cộng sản, những vô sản bị áp bức bóc lột liên hiệp lại đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng thiên đường cộng sản không còn bất công xã hội.
Ra đời từ xã hội tư bản hoang dã, chủ nghĩa cộng sản với nhà nước độc tài chuyên chính vô sản sắt máu còn dã man, độc ác, mất tính người hơn cả tư bản hoang dã. Dưới ánh sáng của cách mạng tư sản dân quyền, nhà nước tư bản hoang dã đã xây dựng những bộ luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân của mọi người dân. Nhiều thế kỉ tồn tại, xã hội tư bản hoang dã không thể có những vụ giết hàng trăm ngàn người dân vô tội như trong cải cách ruộng đất ở nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam, giết hàng triệu quí tộc, trí thức, nhà giầu Nga, thảm sát hàng chục triệu người dân các nước Cộng hoà Xô Viết của nhà nước độc tài cộng sản Liên Bang Xô Viết, giết hại hàng triệu tinh hoa của đất nước như trong mười năm cách mạng văn hóa 1966 – 1976 ở nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa. Chỉ mấy chục năm tồn tại, các nước độc tài cộng sản đã giết hại hơn trăm triệu người lương thiện và phần nhân loại sống trong ánh sáng văn minh công nghiệp phải dựng ở thủ đô Washington D.C. nước Mỹ tượng đài ghi nhận và tưởng niệm hơn trăm triệu con người bị nhà nước độc tài cộng sản thảm sát và đoạ đày đến chết.
Giữa thế kỉ hai mươi, tư bản hoang dã vĩnh viễn chấm dứt mở ra kỉ nguyên tư bản văn minh nhưng chủ nghĩa cộng sản độc tài phản con người, phản tiến bộ, liên tiếp phát động những cuộc cách mạng bạo lực chống con người và những cuộc chiến tranh xâm lược đe doạ nền độc lập của các dân tộc vẫn dai dẳng tồn tại.
************************
Kì 2
Chọn con đường giành độc lập bằng máu của dân là tội ác khi lài người đã bước vào văn minh công nghiệp
Thời thế giới còn hoàn toàn chìm đắm trong phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống cổ hủ, trì trệ, ngưng đọng, khép kín, vùng nào biết vùng nấy, người dân Việt Nam trong nô lệ Bắc thuộc âm thầm rèn kiếm, mài gươm, tập hợp lòng yêu nước, khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược là con đường duy nhất giành độc lập. Nhưng khi loài người đã bước vào văn minh công nghiệp, tư duy công nghiệp, tiết tấu công nghiệp, lối sống công nghiệp, nhu cầu công nghiệp nối các nước lại với nhau trong nền văn minh của luật pháp, của trí tuệ và nhân văn thì bạo lực không còn là con đường duy nhất giành độc lập của các nước thuộc địa nữa.
Mahatma Gandhi đã dẫn dắt giới tinh hoa Ấn Độ, trí thức, thủ lĩnh tôn giáo, thủ lĩnh các tầng lớp xã hội và thủ lĩnh các phe phái chính trị sử dụng luật pháp dân chủ tư sản trong đấu tranh nghị trường bất bạo động giành độc lập
Dân tộc Ấn Độ bị chia rẽ sâu sắc bởi tôn giáo và đẳng cấp xã hội. Trên thế giới không có dân tộc nào có nhiều giáo phái và chia rẽ giáo phái, chia rẽ đẳng cấp xã hội nghiệt ngã, sâu sắc đến thành hận thù như xã hội Ấn Độ. Xâm lược Ấn Độ, đế quốc Anh càng khoét sâu chia rẽ tôn giáo và đẳng cấp xã hội làm suy yếu dân tộc Ấn Độ để cai trị. Mahatma Gandhi đã dẫn dắt giới tinh hoa Ấn Độ, trí thức, thủ lĩnh tôn giáo, thủ lĩnh các tầng lớp xã hội và thủ lĩnh các phe phái chính trị sử dụng luật pháp dân chủ tư sản trong đấu tranh nghị trường bất bạo động giành độc lập. Tập hợp mọi tầng lớp xã hội, mọi giáo phái, Mahatma Gandhi đã tập hợp được sức mạnh cả dân tộc Ấn Độ. Đấu tranh bằng luật pháp dân chủ tư sản, Mahatma Gandhi đã có được sức mạnh thời đại.
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại bền bỉ và mạnh mẽ hơn sức mạnh súng đạn của mọi cuộc khởi nghĩa vũ trang. Sức mạnh bạo lực vũ trang có cao trào, có thắng lợi nhưng chỉ nhất thời. Dù có đi đến thắng lợi cuối cùng là giành được độc lập cũng chỉ nhất thời vì đó chỉ là thắng lợi của kẻ có quyền lực còn nhân dân vẫn trắng tay. Người dân không có tự do, đất nước không có độc lập thực sự, người dân phải chọn con đường đấu tranh bằng luật pháp dân chủ tư sản giành tự do, độc lập thực sự. Chỉ có thắng lợi của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mới là thắng lợi đích thực và mãi mãi của cả dân tộc.
Bằng đấu tranh bất bạo động, không phải trải qua con đường bạo lực máu và nước mắt, năm 1947 Ấn Độ đã giành được độc lập thực sự. Độc lập thực sự vì giành độc lập không phải bằng học thuyết cách mạng vô sản của quốc tế cộng sản, nhà nước độc lập nhưng đảng chuyên chính độc tài cầm quyền chỉ là một đảng bộ, một chư hầu của quốc tế cộng sản. Nền độc lập của nhà nước chuyên chính vô sản chỉ là nền độc lập vay mượn, cầm cố. Mang cả đất nước, cả giống nòi ra cầm cố để có nền độc lập tạm bợ và mong manh. Đảng cầm quyền chỉ là một đảng bộ, một chư hầu của quốc tế cộng sản và nhà nước độc tài cộng sản được bạo lực của cả thế giới cộng sản bảo đảm cho sự cầm quyền. Ấn Độ giành độc lập bằng luật pháp dân chủ tư sản không bị trói buộc vào bất cứ thế lực nước ngoài nào và giữ độc lập không phải bằng súng đạn cầu xin từ nước ngoài rồi phải chịu sự áp đặt của nước ngoài mà giữ độc lập bằng quyền làm chủ đất nước của người dân.
Với luật pháp dân chủ tư sản, ngày 1/4/1960 Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết 1514, tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa. Nước Anh dân chủ tư sản đã đi trước Nghị quyết 1514 của Liên Hiệp Quốc 13 năm, trao trả quyền tự quyết cho người dân Ấn Độ, trao trả độc lập thực sự cho đất nước Ấn Độ từ năm 1947.
Lãnh đạo các quốc gia cùng ký vào bản Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 tại San Francisco. Ảnh tư liệu
Gần một thế kỉ thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, lòng yêu nước và ý chí quật cường Việt Nam càng được nuôi dưỡng và hun đúc. Những cuộc khởi nghĩa, những cuộc bạo động chống Pháp như những lớp sóng của lòng yêu nước dồn dập dâng lên. Từ cuộc khởi nghĩa bảy năm của Nguyễn Trung Trực, 1861 – 1868 ở bưng biền sông Tiền, sông Hậu, Nam Bộ đến cuộc khởi nghĩa ba mươi năm, 1884 – 1913 của Hoàng Hoa Thám ở núi rừng Yên Thế, Việt Bắc. Từ cuộc bạo động do đại thần Tôn Thất Thuyết phát động nổ súng đánh Pháp năm 1885 ở kinh thành Huế mở đầu phong trào Cần Vương kéo dài nhiều năm ở miền Trung đến bạo động Yên Bái của Quốc Dân Đảng năm 1930 do Nguyễn Thái Học lãnh đạo…
Tất cả những cuộc vũ trang khởi nghĩa và bạo động chống Pháp xâm lược đều thất bại trong máu lênh láng chỉ chứng minh hùng hồn lòng yêu nước, chí quật cường Việt Nam không khi nào chấp nhận mất nước, không khi nào chấp nhận nô lệ nhưng cũng nghiêm khắc nhắc nhở rằng khi loài người đã bước vào văn minh công nghiệp, sức mạnh không chỉ là bạo lực, sức mạnh quyết định sự thành bại của sự nghiệp giữ nước và dựng nước phài là trí tuệ, khoa học, là luật pháp dân chủ tư sản. Máu không còn là con đường giải phóng dân tộc duy nhất, tối ưu và hữu hiệu nữa.
Cùng với đội quân nhà nghề Pháp xâm lược Việt Nam, cùng với những chủ tư bản hoang dã vào khai thác thuộc địa Việt Nam, triết học Ánh sáng giải phóng cá nhân, khẳng định sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời khởi đầu từ nước Pháp cũng vào Việt Nam, lí tưởng Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái của cách mạng tư sản dân quyền Pháp năm 1789 và luật pháp dân chủ tư sản cũng vào Việt Nam.
Ý thức về cá nhân và lí tưởng Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái đã tạo ra một lớp người Việt Nam tiên tiến, lớp người đi đầu hăm hở bước vào văn minh công nghiệp, văn minh đô thị. Văn minh công nghiệp đánh thức tài trí dân tộc, đánh thức nội lực dân tộc, mang lại cho lòng yêu nước một hình hài mới, một nội dung mới, một sức vóc mới. Lòng yêu nước, chí quật cường không còn là quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của xã hội nông nghiệp cổ hủ, ngưng đọng, lẻ loi, khép kín, coi con người chỉ là phương tiện, là công cụ để giành độc lập. Con người, dù là thường dân lam lũ cũng là một công dân có quyền làm chủ đất nước, cũng là chủ thể của nền độc lập. Lòng yêu nước phải là ý chí khai dân trí, chấn dân khí, nâng cao nhận thức của người dân về thời đại mới, mở rộng tầm nhìn ra thế giới, đón nhận những tư tưởng tiến bộ, nhân văn, đón nhận phương thức sản xuất hiện đại về Việt Nam và đưa Việt Nam ra với loài người, ra với thời đại đang sôi sục làm cách mạng dân chủ nhân quyền, giải phóng cá nhân, giành quyền làm người, giải phóng dân tộc, giành quyền tự quyết của các dân tộc.
Con người có mặt trong cuộc đời với tư cách là những cá nhân với đầy đủ quyền con người làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Trí tuệ quyết định giá trị con người, đưa con người thoát khỏi bầy đàn nô lệ, thoát khỏi kiếp công cụ chỉ là vật hi sinh cho một lí tưởng. Những cá nhân ý thức được sự có mặt trong cuộc đời, hăm hở khám phá tự nhiên, phát minh khoa học, sáng tạo kĩ thuật đưa loài người bước vào cách mạng tư sản dân quyền, cũng bước vào văn minh công nghiệp.
Cách mạng tư sản dân quyền là Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái. Con người sống trong yêu thương. Xã hội sống trong tự do. Loài người sống trong bình đẳng. Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái được luật pháp hóa trở thành luật pháp của nhà nước dân chủ tư sản. Là thuộc địa của nước Pháp dân chủ tư sản, người dân Việt Nam vẫn được thực sự tự do ứng cử và bầu cử vào các viện dân biểu, cơ quan quyền lực của người dân Việt Nam, nói tiếng nói của dân Việt Nam. Dù là dân nô lệ mất nước, trong văn minh công nghiệp, trong luật pháp dân chủ tư sản, người dân Việt Nam vẫn được ra báo tư nhân. Là thuộc địa của Pháp nhưng ở các đô thị lởn, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn đã có hàng trăm tờ báo chữ Việt của chủ báo người Việt, nói tiếng nói của văn hóa Việt Nam, của hồn Việt Nam.
Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái trở thành luật pháp quốc gia và quốc tế đã thực sự khép lại thời kì giành độc lập bằng bạo lực, bằng máu và mở ra kỉ nguyên đấu tranh giành độc lập bằng luật pháp, bằng trí tuệ, bằng sức mạnh văn hóa, bằng khí phách dân tộc, bằng đấu tranh nghị trường. Trí tuệ là con người. Luật pháp là xã hội loài người. Luật pháp dân chủ tư sản cho con người có cả nhân loại, cho các dân tộc có cả thế giới. Con người không còn đơn độc. Dân tộc không còn lẻ loi. Cuộc đấu tranh giành quyền con người, cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của các dân tộc bằng luật pháp dân chủ tư sản, bằng trí tuệ đã là xu thế và sức mạnh thời đại. Tách khỏi xu thế và sức mạnh thời đại, giành độc lập bằng bạo lực chuyện chính vô sản, dìm cả dân tộc Việt Nam vào biển máu, giành độc lập chỉ để giành quyền làm chủ đất nước cho một nhóm người, một đảng phái, Việt Nam trở thành lạc lõng với thời đại, lạc lõng với nhân loại văn minh.
Cá nhân có mặt trong cuộc đời làm chủ vận mệnh mỗi người, làm chủ vận mệnh đất nước. Tổ quốc không phải chỉ là khái niệm trừu tượng, không chỉ là núi sông biển trời cao xa. Tổ quốc còn là con người làm chủ núi sông biển trời đó. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, con người không còn là thành phần làm nên Tổ quốc mà chỉ là vật hi sinh cho một thế lực làm chủ Tổ quốc ! Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh chỉ có thể đúng, chỉ có thề cần thiết ở thời cá nhân chưa được nhìn nhận, con người chỉ là bầy đàn, là cộng cụ trong tay lãnh chúa và chủ nô, ở thời vương triều phong kiến "Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".
Lịch sử các nước công nghiệp phát triển đã chứng minh đầy đủ và khẳng định dứt khoát rằng ánh sáng trí tuệ là động lực phát triển xã hội. Lịch sử giành độc lập của Ấn Độ và nhiều nước thuộc địa khác cũng chứng minh và khẳng định về thời đại ánh sáng trí tuệ đã là động lực giải phóng dân tộc và luật pháp dân chủ tư sản là vũ khí quyết định, không thể thiếu đã thực sự thay bạo lực giáo mác súng đạn giành độc lập dân tộc. Loài người đã bước vào văn minh công nghiệp mà vẫn thiển cận và sôi sục chọn con đường giành độc lập dân tộc bằng máu dân là một tội ác với dân. Tội ác đó còn khắc ghi muôn đời trong lịch sử.
*******************
Kì 3
Cách Mạng Tháng 8 chặt đứt gãy tiến trình lịch sử Việt Nam, đưa xã hội Việt Nam lùi về thời phong kiến, người dân chỉ là bầy đàn không có cá nhân
Tư tưởng cách mạng tư sản dân quyền đã tạo ra những trí thức và những nhà chính trị lớn mang tinh thần yêu nước, chí quật cường giành độc lập bằng luật pháp dân chủ tư sản, bằng sức mạnh văn hóa dân tộc và bằng sức mạnh dân trí. Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, Lưu Văn Lang, Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Ngọc Anh… là những tâm hồn và trí tuệ Việt Nam thời loài người bước vào xã hội công nghiệp, khẳng định sự có mặt dân tộc Việt Nam trên con đường loài người đi đến văn minh công nghiệp. Những tên tuổi đưa xã hội Việt Nam hòa nhập với thế giới, hòa nhập với xu thế giành độc lập dân tộc bằng luật pháp dân chủ tư sản, bằng sức mạnh dân trí.
Lòng yêu nước, chí quật cường còn là ý chí làm giầu của những tài trí Việt Nam làm xuất hiện một giai cấp mới, giai cấp tư sản dân tộc, những nhà tư sản dân tộc tích luỹ tư bản đưa đất nước cùng nhịp bước với thế giới đi vào công nghiệp hóa. Giai cấp tư sản dân tộc chấn hưng đất nước về kinh tế, tạo ra chỗ đứng và tư thế Việt Nam trong cộng đồng nhân loại, là thực lực, là cơ sở vật chất của đấu tranh nghị trường, của đấu tranh chính trị. Không có nền tảng kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc cũng không có tầng lớp trí thức dân tộc tiếp nhận triết học Ánh sáng, tiếp nhận tư tưởng cách mạng tư sản dân quyền, không có những nhà chính trị đấu tranh bằng luật pháp, bằng nghị trường.
Lòng yêu nước, ý chí tự cường cùng với tài trí Việt Nam đã tạo nên những nhà tư sản dân tộc tiêu biểu : Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Ngô Tử Hạ, Phạm Chấn Hưng, Bùi Hưng Gia… Những tên tuổi đi vào lịch sử Việt Nam với công trạng lớn đưa xã hội nông nghiệp trì trệ Việt Nam bước những bước đầu tiên vào xã hội công nghiệp năng động, phát triển, mở ra hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp, đưa dân tộc Việt Nam chập chững nhưng quả quyết bước vào ngưỡng cửa công nghiệp hóa đất nước, theo chân các nước phát triển đi vào văn minh công nghiệp. Kinh tế là nền móng của chính trị. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện là cơ sở xã hội bảo đảm cho sự xuất hiện những nhà chính trị của văn minh công nghiệp, đấu tranh bằng luật pháp giành độc lập.
Với những cơ sở công nghiệp và những đô thị hiện đại do nhà nước tư sản Pháp và giai cấp tư sản Pháp tạo dựng ở Việt Nam, với đội ngũ những nhà công thương người Việt giầu tài năng và lòng yêu nước thành đạt chính đáng và đang phát triển mạnh mẽ, đang đưa đất nước và xã hội Việt Nam vững bước vào văn minh công nghiệp, văn minh đô thị. Xã hội Việt Nam đã thực sự bước vào ngưỡng cửa văn minh công nghiệp cần một nhà nước pháp trị của trí thức dân tộc. Chính phủ Trần Trọng Kim với những trí thức hàng đầu của trí tuệ Việt Nam, của văn minh công nghiệp chính là nhà nước xứng đáng và cần thiết của dân tộc Việt Nam ra đời đáp ứng đòi hỏi của lịch sử.
Nội các Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn bốn tháng. Ảnh tư liệu
Ra đời từ đòi hỏi của lịch sử, Chính phủ Trần Trọng Kim đang thực thi sứ mệnh lịch sử, đang triển khai những công việc cấp bách của thời đại và đã làm được những việc lớn khẳng định vị trí, tư thế Việt Nam. Xóa bỏ hiệp định nhượng địa của triều đình nhà Nguyễn với Pháp, đưa mảnh đất nhượng địa Nam Bộ trở về Tổ quốc Việt Nam. Loại bỏ chữ Pháp và tiếng Pháp, dùng chữ Việt, tiếng Việt trong giáo dục, trong hành chính nhà nước. Ráo riết thiết lập quan hệ quốc tế để được quốc tế công nhận, để Việt Nam có mặt trong cộng đồng nhân loại, nhịp bước cùng nhân loại đi vào văn minh công nghiệp. Và công việc trọng đại, lớn lao, khẩn thiết hơn cả là đang khéo léo và bền bỉ dùng luật pháp dân chủ tư sản giành độc lập thực sự cho dân tộc Việt Nam như Mahatma Gandhi đang làm ở Ấn Độ.
Nhưng bất hạnh thay cho dân tộc Việt Nam và nghiệt ngã thay cho lịch sử Việt Nam. Chính phủ chính danh, hợp pháp của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, xứng đáng với nền văn hiến Việt Nam, phù hợp xu thế thời đại dân chủ Trần Trọng Kim đang ráo riết thực thi đúng đắn và đầy hiệu quả sứ mệnh lịch sử thì cách mạng tháng tám 1945 do đảng cộng sản phát động bùng nổ.
Gây chiến tranh xâm lược châu Á, quân Nhật thay quân Pháp chiếm đóng Việt Nam hối hả cướp thóc lúa của dân Việt Nam nuôi chiến tranh, gây nên nạn đói khủng khiếp hai triệu người Việt ở vựa lúa đồng bằng Bắc Bộ chết đói. Tháng tám năm 1945, thác dân nghèo đói cơm ăn được những người cộng sản dẫn dắt ầm ầm đi cướp thóc ở những kho thóc Nhật. Như thác dân nghèo đói cơm được những người cộng sãn dẫn đi cướp thóc, thác dân đô thị đói tự do đang ngơ ngác, bơ vơ trước biến động chính trị dồn dập và mau lẹ cũng được những người cộng sản phất lá cờ độc lập dân tộc lôi kéo xuống đường ầm ầm đến các công đường cướp chính quyền của Chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim cho đảng cộng sản.
Dân đói cơm ăn bỗng cướp được vài thúng thóc là có thực. Nhưng dân đói tự do bỗng cướp được độc lập chỉ là ảo tưởng. Cuộc cách mạng nào cũng diễn ra trong không khí thần thoại và thủ lĩnh cách mạng bao giờ cũng xuất hiện trong hào quang thần thánh, siêu nhân. Xuất hiện như thần thánh trong truyện cố tích và trong không khí huyền ảo thần thoại đó, đảng cộng sản liền gấp gáp tổ chức tổng tuyển cử, bầu Quốc hội, lập Chính phủ có đủ mặt các đảng phái chính trị và thành phần xã hội. Từ đó đến tận hôm nay, hơn nửa thế kỉ, bộ máy tuyên truyền nhà nước cộng sản vẫn miệt mài ca ngợi nhà nước cộng sản là nhà nước dân chủ đa nguyên, đa đảng do người dân thực sự tư do bầu lên mà họ cố lờ đi sự thật những người không cộng sản được ứng cử và có mặt trong Quốc hội, trong Chính phủ đầu tiên chỉ là hình thức, chỉ để những người cộng sản mượn danh rồi lập tức bị đảng cộng sản vô hiệu trở thành bù nhìn, trở thành những thây ma vật vờ trong chính quyền cộng sản và lặng lẽ bị loại bỏ thảm hại.
Chính phủ Trần Trọng Kim của trí thức, của tinh hoa đất nước đang đưa Việt Nam vào văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, hòa nhập với thế giới văn minh. Chính phủ Trần Trọng Kim bị lật đổ, tiến trình công nghiệp hóa tất yếu xã hội loài người phải đi đến bị chém đứt gãy, bị chặn đứng. Cướp được chính quyền, đảng cộng sản lấy lí tưởng công nông tập hợp lực lượng. Tiêu diệt trí thức, tiêu diệt tư sản dân tộc, huỷ bỏ, hoang phế những cơ sở công nghiệp đã hình thành. Đưa Việt Nam lùi về xã hội nông nghiệp cổ hủ, ngưng đọng, khép kín.
Cá nhân có mặt trong cuộc đời gắn liền với quyền tư hữu tài sản. Không có quyền tư hữu là không có cá nhân. Quyền tư hữu quan trọng nhất, căn cơ nhất khẳng định những cá nhân có mặt trong cuộc đời là có thật, không phải hư vô là quyền tư hữu mảnh đất sống. Quyền tư hữu cho con người làm chủ cuộc đời, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ những nền văn minh. Tước đoạt quyền tư hữu mảnh đất sống của người dân là tước đoạt nền tảng cơ bản nhất của quyền con người. Giữa thế kỉ 21, loài người đã bước vào văn minh tin học, con người đã làm chủ cả vũ trụ mà ông đầu đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng còn nói với dân như ông chủ nô nói với bầy đàn nô lệ: Người dân chỉ có quyền sử dụng đất, không có quyền sở hữu đất!
Lấy lí tưởng vô sản làm mục đích, xóa bỏ tư hữu cũng xóa bỏ cá nhân, xóa bỏ quyền con người. Toàn bộ tài sản, tư liệu sản xuất, toàn bộ quyền con người của người dân về tay nhà nước công nông. Quyền tư hữu, quyền con người, ý thức về sự có mặt của cá nhận trong cuộc đời trở thành hư vô, không được nhà nước công nông nhìn nhận. Việt Nam thực sự trở về xã hội phong kiến nhưng là phong kiến đau khổ hơn, tăm tối hơn phong kiến trung cổ và tư bản hoang dã: Phong kiến cộng sản. Không còn tư hữu. Không còn cá nhân. Không còn quyền con người. Không còn luật pháp. Chỉ có quyền lực của đảng. Đảng là luật pháp. Luật pháp là đảng. Phép vua thua lệ làng ở thời phong kiến trung cổ. Luật pháp thua lệ đảng là thời phong kiến cộng sản.
Chính phủ Trần Trọng Kim đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, phù hợp xu thế thời đại đang kiên trì theo đuổi con đường giành độc lập bằng dân trí, bằng trí tuệ, bằng khí phách dân tộc và bằng pháp luật dân chủ tư sản. Cướp được chính quyền của Chính phủ chính danh, hợp pháp Trần Trọng Kim, đảng cộng sản lại theo lối mòn trung cổ đã bị lịch sử loại bỏ, lại đưa dân tộc Việt Nam vào con đường bạo lực chuyên chính vô sản đẫm máu, giành quyền thống trị xã hội cho đảng bằng máu người dân và duy trì chính quyền chuyên chính vô sản bằng tước đoạt quyền con người, tước đoạt tự do của người dân, đưa xã hội trở về thời tối tăm, ai oán, oan khiên ngút trời tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Đấu tranh bằng luật pháp của nhà nước dân chủ tư sản, không mất một mạng dân, từ năm 1947 Ấn Độ đã giành được độc lập thực sự. Với Nghị quyết 1514 của Liên Hiệp Quốc, thế giới đã không còn thuộc địa từ năm 1960. Núp dưới ngọn cờ giải phóng, giành độc lập dân tộc để làm cách mạng vô sản Việt Nam, phần hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, đảng cộng sản đã đưa dân tộc Việt Nam vào con đường bạo lực chiến tranh máu và nước mắt suốt ba mươi năm, từ 1945 đến 1975 chỉ để giành quyền cai trị toàn thể dân Việt Nam, giành quyền làm chủ cả dải đất Việt Nam cho đảng cộng sản!
Ba mươi năm chiến tranh với vũ khí ngày càng hiện đại, máu người dân Việt Nam thấm đẫm đất đai Việt Nam. Xác người dân Việt Nam rải khắp mặt đất, rải khắp đáy sông, đáy biển Việt Nam.
"Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm"
Phải có hàng trăm người lính chết trận chìm dưới đáy một khúc sông Thạch Hãn mới có câu thơ của người lính sống sót Lê Bá Dương ngậm ngùi viết về khúc sông đã trở thành nghĩa trang lính như vậy. Ngày nay ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam, bước ra khỏi cửa là thấy mênh mông, bạt ngàn nghĩa trang liệt sĩ. Mồ liệt sĩ trắng rợn chân trời là trang sổ nợ trải rộng đến chân trời của đảng cộng sản với dân tộc Việt Nam, với lịch sử Việt Nam. Trang sổ nợ trải ra theo rộng dài đất nước là bằng chứng về con đường máu và nước mắt người dân Việt Nam phải trải qua dưới sự dẫn dắt của đảng cộng sản. Mất mát lớn như vậy để rồi người dân Việt Nam lại phải nhận kiếp nô lệ cộng sản, không có cả những quyền cơ bản, tối thiều của con người là quyền tư hữu mảnh đất hương hoả, quyền tự do ngôn luận. Tồi tệ hơn cả kiếp thần dân phong kiến, kiếp nô lệ thực dân.
Danh nghĩa là giành độc lập cho dân tộc Việt Nam nhưng thực chất chỉ là giành quyền thống trị cho đảng cộng sản Việt Nam, cho nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam. Thay trí tuệ bằng máu. Thay tinh hoa bằng công nông. Ba mươi năm bằng chuyên chính vô sản, đảng cộng sản đã tàn bạo và quyết liệt tuyệt diệt giai cấp tư sản dân tộc non trẻ nhưng đầy tài năng vừa hình thành đang đưa đất nước Việt Nam vào cách mạng công nghiệp. Ba mươi năm chuyên chính vô sản, đảng cộng sản đã xóa trắng những cơ sở công nghiệp vừa được đội ngũ tư sản dân tộc gây dựng cho đất nước Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, đi vào văn minh đô thị. Ba mươi năm chuyên chính vô sản, đảng cộng sản đã đưa xã hội Việt Nam trở về xã hội phong kiến cộng sản. Hơn cả phong kiến trung cổ, phong kiến cộng sản công cụ hóa, súc vật hóa con người. Không nhìn nhận con người, coi con người chỉ là bấy đàn, chỉ là quần chúng cách mạng, chỉ là công cụ để sử dụng, chỉ là súc vật để bị chăn dắt. Kỉ nguyên văn minh tin học, cô gái H’Mông trên đỉnh núi heo hút chỉ nhấn nút điện thoại là thác thông tin từ khắp thế giới liền ùa đến, là cô gái H’Mông đã ở giữa dòng chảy cuộc sống cả loài người. Coi người dân chỉ là bầy đàn, giữa kỉ nguyên văn minh tin học, nhà nước cộng sản vẫn đặt loa phường trên đầu người dân!
Nhà nước cộng sản ghi trong Hiến pháp bánh vẽ: Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28, Hiến pháp 2013). Tham gia quản lí nhà nước và xã hội, người dân phải được tự do ứng cử, bầu cử, hiền tài trong dân mới dược người dân phát hiện và bầu chọn thay mặt dân quản lí nhà nước và xã hội. Đảng cử, dân bầu, người dân chỉ là những rô bốt đi bỏ phiếu bầu cử theo lập trình cái đặt và điều khiển của đảng. Để được thể hiện minh, dòng hiền tài phải lũ lượt bỏ nước ra đi kéo dài trong thời gian.
Tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, người dân phải có quyền tự do ngôn luận. Nhưng các điều 79, 88, 258 luật Hình sự 1999 và các điều 109, 117, 331 luật Hình sự 2015 đã hình sự hóa quyền tự do ngôn luận của người dân. Phạm Đoan Trang, Nguyễn Thúy Hạnh, Đỗ Nam Trung, Trần Bang, Nguyễn Lân Thắng và hàng trăm khí phách và tâm hồn Việt Nam nói và viết về sự thật đau lòng của hiện trạng đất nước, nói và viết về khát vọng tự do dân chủ chính đáng đều bị buộc tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117 Bộ luật hình sự năm 2015" phải nhận những bản án cả chục năm tù đày.
Cá nhân nói tiếng nói trung thực, chính đáng của công dân động chạm đến quyền uy và sự cai trị không chính danh của đảng cộng sản đều bị tù đày. Cá nhân thành hư vô. Trong tình thế đó, người dân chỉ còn tồn tại, chỉ thực sự có tiếng nói, có sức mạnh trong tư thế, trong đội ngũ Nhân Dân. Người dân chỉ thực sự có quyền thảo luận và kiến nghị bằng tiếng nói của số đông, bằng biểu tình. Nhưng người dân biểu tình hợp pháp phản đối dự luật đặc khu kinh tế dành lãnh thổ đón đội quân Tàu cộng xâm lược vào lót ổ, phản đối dự luật an ninh mạng bóp nghẹt thêm quyền tự do ngôn luận của người dân liền bị công an còn đảng còn mình quát vào mặt dân: Mọi việc đã có đảng và nhà nước lo ! Mưa roi điện, dùi cui giáng xuống đầu dân. Còng sắt số 8 bập vào tay dân. Dân bị tống vào trại giam, bị công an hành hung đến chấn thương sọ não, bị dẫn giải ra tòa án của đảng, bị buộc tội theo các điều 79, 88, 258 luật Hình sự 1999 và các điều 109, 117, 331 luật Hình sự 2015 và cuộc đời lay lắt mút mùa trong ngục tối.
Với chuyên chính vô sản, chỉ có lợi ích của đảng cộng sản được luật pháp nhìn nhận và khẳng định. Lợi ích của đất nước, lợi ích của dân tộc, lợi ích của người dân chỉ là hư vô. Đảng cộng sản cai trị Việt Nam thực sự là quốc tế cộng sản độc tài cai trị Việt Nam. Đất nước không có độc lập. Lãnh thổ thiêng liêng không còn toàn vẹn. Người dân không có tự do. Trong nô lệ thực dân Pháp, người dân Việt Nam vẫn có quyền tự do ứng cử, bầu cử vào nghị viện của dân, có quyền ra báo tư nhân. Trong nhà nước độc tài cộng sản, người dân Việt Nam trắng tay cả những quyền con người, quyền công dân tối thiểu, sơ đẳng. Tự do báo chí là bảo đảm cơ bản nhất của tự do ngôn luận. Trong nhà nước độc tài cộng sản, người dân Việt Nam không có quyền ra báo tư nhân là mất quyền tư do ngôn luận triệt để nhất, đau đớn nhất, mất quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người.
*******************
Kì 4
Luật pháp Nhà nước dân chủ tư sản bảo đảm quyền của người dân
Luật pháp Nhà nước độc tài cộng sản chỉ để tước đoạt quyền dân
Để có lợi nhuận, tư bản hoang dã hối hả phát triển công nghiệp, liên tiếp làm cách mạng khoa học kĩ thuật. Cách mạng khoa học kĩ thuật cho tư bản lợi nhuận và cho loài người bước những bước dài tới văn minh. Cách mạng khoa học kĩ thuật nối tiếp đưa loài người bước lên những tầm cao văn minh, văn minh công nghiệp, văn minh tin học, bước đến những giá trị nhân văn cao cả. Hiện thực đó là sự phản bác mạnh mẽ, dứt khoát và chứng minh hùng hồn, xác đáng, đầy đủ về sự sai trái tệ hại, lầm lạc nghiêm trọng trong học thuyết cộng sản của ông Karl Marx và ông Lenin.
Trí tuệ và khoa học là động lực thúc đẩy xã hội loài người phát triển
Theo học thuyết cộng sản hàm hồ, hão huyển và đầy ma mị do ông K. Marx khởi thảo thì công nghiệp phát triển buộc các nước tư bản phát triển phải cạnh tranh, thôn tính nhau dẫn đến chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tận cùng của chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh đế quốc sẽ thi hành bản án của lịch sử : Tử hình, kết liễu chủ nghĩa tư bản. Giai cấp công nhân công nghiệp làm chủ lịch sử, nắm vững qui luật lịch sử phát triển xã hội loài người sẽ là giai cấp đào mồ chôn thây ma chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội cộng sản nhân văn, thiên đường của loài người trên trái đất, mùa xuân vĩnh viễn của nhân loại.
Chỉ nhìn thấy sự hoang dã buổi ban đầu khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời mà vội vàng phỏng đoán sự tiệm tiến tưởng là tất yếu của sự hoang dã đó. Không đủ tinh tế, không đủ lịch lãm từng trải để thấy rằng khi nghèo đói thiếu thốn, con người bằng mọi giá phải chiếm đoạt giá trị vật chất. Dù phạm tội ác đẫm máu, dù phạm pháp phải nhận án treo cổ thì con người sinh vật mang nỗi thèm khát vật chất của ngàn đời nghèo đói cũng liều lĩnh chiếm đoạt bằng được, thỏa mãn bằng được nỗi thèm khát vật chật. Nhưng khi trí tuệ và khoa học cho con người đầy đủ giá trị vật chất, thỏa mãn phần thể xác sinh vật, con người lại có đòi hỏi mạnh mẽ giá trị nhân văn của tính Người. Nỗi khát khao vật chất của con người sinh vật dù lớn đến đâu cũng có giới hạn. Nỗi khát khao nhân văn của tính Người thì vô cùng. Sự phát triển kì diệu của khoa học kĩ thuật thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng mở ra nhu cầu khẩn thiết của tính Người cao cả. Văn minh sông Hồng cho người nông dân Việt Nam đủ lịch lãm để nhận ra sự giầu có vật chất dẫn đến ứng xử văn hóa, lễ nghĩa, nhân văn : Phú quí sinh lễ nghĩa. Nhưng nhà triết học Karl Marx dù trí tuệ thông thái và kiến thức ngồn ngộn cũng không đủ tỉnh táo khoa học, không dủ mẫn cảm nghệ sĩ để nhận ra.
Thực tế cho thấy trí tuệ và khoa học là động lực thúc đẩy xã hội loài người phát triển, đưa xã hội loài người đi từ Tư Bản Hoang Dã đến Tư Bản Văn Minh là tất yếu. Thực tế cũng cho thấy chỉ có nhà nước pháp quyền, nhà nước công bộc của dân, thực sự do dân bầu chọn lên bằng quyền tự do ứng cử, bầu cử, nhà nước quản trị xã hội bằng luật pháp mới bảo đảm cho sự thăng hoa của trí tuệ và khoa học. Từ học thuyết sai trái tệ hại của ông Marx : Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội loài người phát triển đã ra đời nhà nước chuyên chính vô sản, quản trị xã hội bằng bạo lực nhà nước, công an, tòa án, nhà tù
Lí luận dông dài và hàm hồ của ông Karl Marx lại gán cho sức mạnh bạo lực man rợ của đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội và gán cho nhà nước chuyên chính vô sản tàn bạo sứ mệnh dùng bạo lực nhà nước thay luật pháp thống trị xã hội, dùng bạo lực chiến tranh cách mạng thâu tóm thế giới về tay giai cấp vô sản là qui luật lịch sử tất yếu. Tính người là khối óc minh mẫn, là trái tim yêu thương. Con người cần sống trong yêu thương. Lí luận của ông Marx đã đẩy con người vào hận thù mù quáng, vào những cuộc đấu tranh giai cấp liên miên và đẩy các nước, các dân tộc vào cách mạng vô sản và chiến tranh giai cấp không có điểm dừng.
Học thuyết cộng sản Karl Marx là cơ sở lí luận, là bản thiết kế giúp ông Lenin dựng lên nhà nước độc tài chuyên chính vô sản Liên Bang Xô Viết. Giai cấp vô sản Nga đã bị đầu độc bởi học thuyết cộng sản độc hại cùa Karl Marx trở thành tầng lớp chủ nô, lãnh chúa mới thống trị dân tộc Nga, thống trị mười sáu dân tộc từ Trung Á sang Đông Âu trong Liên Bang Xô Viết, thống trị cả khối cộng sản và đang quyết liệt làm cách mạng vô sản thế giới thống trị cả loài người. Mô hình nhà nước chuyên chính vô sản Liên Bang Xô Viết là mô hình nhà nước độc tài ở tất cả các nước theo đuổi lí tưởng cộng sản. Còn nhà nước độc tài là còn tước đoạt tự do của con người và tước đoạt độc lập của các dân tộc, còn chiến tranh xâm lược.
Loài người đã bước sang văn minh công nghiệp với nhà nước dân chủ tư sản. Nhưng với nhà nước chuyên chính vô sản, Marx và Lenin đã làm sống lại nhà nước phong kiến của lãnh chúa, chủ nô. Chỉ khác là nhà nước phong kiến lãnh chúa, chủ nô xa xưa là nhà nước của giai cấp có của cải, có trí tuệ, nhà nước của đẳng cấp quí tộc, thượng lưu có nhu cầu văn hóa cao, có lý tưởng vươn tới những giá trị nhân văn. Nhà nước phong kiến lãnh chúa chủ nô cộng sản là nhà nước của giai cấp vô sản, không tài sản, không trí tuệ. Không trí tuệ nên tăm tối, vắng bóng con người nhân văn, chỉ có con người sinh vật, chỉ có nỗi thèm khát vật chất, chỉ có lí tưởng hưởng thụ vật chất.
Không tài sản, không trí tuệ, nhờ cách mạng vô sản trở thành lãnh chúa, chủ nô cộng sản và hầu hết lãnh chúa chủ nô cộng sản với nỗi thèm khát tài sản của ngàn đời đói khổ chỉ chăm chăm mang quyền lực lãnh chúa, chủ nô ra vơ vét tài sản. Như tư bản hoang dã khi mới ra đời thèm khát cháy bỏng lợi nhuận. Những quan chức cộng sản trắng tay tài sản, trống rỗng trí tuệ, thiếu hụt nhân cách, chỉ có thành phần giai cấp công nông, chỉ có lõm bõm, mơ hồ chút lí luận hàm hồ của ông Marx được đảng đặt vào chiếc ghế quyền lực liền hối hả vơ vết như Lê Thanh Hải, Tất Thành Cang, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Nguyễn Đức Chung, Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long… Chỉ riêng tên tuổi những quan chức tội phạm lộ mặt đã nối dài như vô tận. Học thuyết cộng sản của ông Mác đã đi từ sai lầm tệ hại này đến sai lầm tệ hại khác và sai lầm tệ hại nhất, khủng khiếp nhất, đẫm máu nhất, phản con người, phản lịch sử nhất là tạo ra cơ sở lí luận cho sự ra đời nhà nước độc tài chuyên chính vô sản.
Nhà nước dân chủ tư sản chăm lo nâng cao trí tuệ, làm chủ khoa học, liên tiếp làm cách mạng khoa học kĩ thuật đưa xã hội tới ánh sáng văn minh, đưa con người tới tầm vóc vũ trụ. Ngược lại, nhà nước độc tài cộng sản lại chỉ lo củng cố quyền lực, liên tục làm cách mạng xã hội ra uy quyền lực, tù đầy, bức hại người dân mà tập trung cao nhất vào giết hại, loại bỏ lớp người tinh hoa của dân tộc.
Nhà nước độc tài cộng sản dù có lao vào làm khoa học kĩ thuật cũng chỉ để có thêm sức mạnh củng cố quyền lực độc tài, dìm xã hội trong máu và nước mắt, làm cho con người trở nên nhỏ bé, hèn yếu trong nỗi khiếp sợ quyền uy và bạo lực chuyên chính vô sản. Nhà nước độc tài cộng sản chỉ để cho sống những con người sinh vật, con người thú, con người công cụ. Những con người có cá nhân, có tầm vóc con người tự do, không chịu làm con người công cụ đều bị vô hiệu, đều bị loại bỏ, tiêu diệt.
Mô hình nhà nước Xô Viết đã tạo ra nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa. Làm cách mạng xã hội ra uy quyền lực, nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa làm cách mạng văn hóa kéo dài suốt mười năm 1966 – 1976 say mê cuồng nhiệt giết hại hàng triệu tinh hoa của chính dân tộc Trung Hoa. Thèm khát quyền lực, quyết giữ quyền lực bằng máu dân, nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa cho cả sư đoàn xe tăng nghiến nát hàng ngàn thân xác sinh viên biểu tình nói tiếng nói của con người cá nhân đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh, tháng 6/1989.
Không có lãnh thổ rộng nhất thế giới như Liên Bang Xô Viết, nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa lại có số dân lớn nhất thế giới. Sức mạnh tài nguyên lãnh thổ cho nhà nước Liên Bang Xô Viết khát vọng thống trị thế giới. Sức mạnh tài nguyên dân số cho nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa tham vọng dân tộc Đại Hán tràn ngập thế giới, làm chủ thế giới. Ngay sau khi ra đời, nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa liền ráo riết, mải miết phát động liên tiếp những cuộc chiến tranh xâm lược. Án ngữ hướng chính, hướng thuận lợi nhất đưa sức mạnh độc tài cộng sản Trung Hoa tràn ra thế giới, Việt Nam là mục tiêu thôn tính nung nấu nhất, rõ rệt nhất, quyết định nhất sự thành bại mộng làm chủ thế giới của độc tài cộng sản Trung Hoa. Chư hầu hóa chính quyền Việt Nam, thâu tóm lãnh thổ Việt Nam là mục tiêu hàng đầu trên con đường tràn ra thế giới của độc tài cộng sản Trung Hoa.
Mô hình nhà nước Xô Viết tạo ra nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam. Nhà nước dân chủ tư sản làm ra luật pháp để bảo đảm quyền của người dân. Nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam hối hả xây dựng luật pháp chỉ để tước đoạt quyền của người dân. Điều 4 Hiến pháp 2013 tước đoạt quyền người dân làm chủ đất nước. Điều 4 luật Đất Đai 2013 tước đoạt quyền tư hữu thiêng liêng nhất là quyền sở hữu mảnh đất sống của người dân. Những điều 109 ; 117 ; 331 luật Hình Sự năm 2015, hình sự hóa quyền tự do ngôn luận của người dân đã thực sự vô hiệu hóa, bánh vẽ hóa quyền tự do ngôn luận ghi trong Hiến pháp. Nhà nước dân chủ tư sản do người dân thực sự tự do bầu chọn từ tinh hoa trong dân, làm công bộc cho dân và quản trị xã hội. Đảng cộng sản cầm quyền dựng lên nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam chỉ là công cụ của đảng cộng sản cai trị người dân. Do đó, quan chức nhà nước cộng sản Việt Nam không cần là tinh hoa của dân, chỉ cần trung thành với đảng cộng sản chủ nô.
************************
Kì 5
Bài học thuộc lòng của Nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam
Những cuộc cách mạng và chiến tranh đẫm máu nối tiếp kéo dài suốt ba mươi năm, từ 1945 đến 1975 chỉ là cách mạng và chiến tranh giành chính quyền và thâu tóm chính quyền trên cả dải đất hình chữ S cho đảng cộng sản Việt Nam. Thâu tóm chính quyền bằng máu dân, bằng bạo lực cách mạng vô sản, Đảng cộng sản Việt Nam lập lên nhà nước độc tài chuyên chính vô sản Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hệ thống nhà nước độc tài cộng sản thế giới, một mắt xích trong chuỗi xiềng xích quốc tế cộng sản nô dịch loài người để đi tới ảo ảnh thiên đường cộng sản hão huyền.
Thâu tóm chính quyền bằng máu dân, bằng bạo lực cách mạng vô sản, Đảng cộng sản Việt Nam lập lên nhà nước độc tài chuyên chính vô sản Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật pháp dân chủ tư sản nhìn nhận và bảo đảm sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội. Tự khẳng đinh sự có mặt trong cuộc đời, mỗi cá nhân đều gắng gỏi mang trí tuệ và tài năng thể hiện mình, đóng góp cho cuộc sống, đóng góp vào tiến trình phát triển xã hội loài người. Văn minh công nghiệp, văn minh tin học ra đời đều từ những phát minh, sáng tạo kì diệu của những trí tuệ cá nhân như vậy. Con người tự do có sức sáng tạo vô tận nâng những con người bình thường cũng trở thành những người khổng lồ.
Con người bầy đàn trong xã hội độc tài cộng sản không có cá nhận, chỉ là những sinh vật nhỏ bé, thấp hèn. Phản con người, tước đoạt quyền con người, xóa bỏ cá nhân, nhà nước độc tài cộng sản đi ngược với tiến trình lịch sử loài người. Trong khi xã hội công nghiệp giải phóng cá nhân. Cá nhân được thể hiện sức sáng tạo cao nhất đưa loài người đến xã hội văn minh thì nhà nước độc tài cộng sản tước đoạt quyền con người, đưa xã hội về thời không còn cá nhân, người dân chỉ tồn tại trong bầy đàn được đảng độc tài gọi là "Quần chúng cách mạng". Xã hội trở về thời phong kiến trung cổ, chỉ có cá nhân của lãnh chúa, chủ nô là những chức sắc cộng sản có quyền lực.
Đi ngược tiến trình lịch sử loài người, chà đạp lên những giá trị làm người của người dân, để giữ chính quyền, nhà nước độc tài cộng sản càng phải lấy sức mạnh bạo lực nhà nước chống lại người dân, giết chết những khát vọng chân chính, cháy bỏng về tự do, dân chủ của người dân.
Giữ chính quyền, nhà nước độc tài cộng sản Trung Hoa cho ba trăm ngàn họng súng AK bao vây, xả đạn vào biển sinh viên biểu tình đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh rạng sáng 4/6/1989. Cả sư đoàn xe tăng truy đuổi, tràn qua dòng thác sinh viên bỏ chạy khỏi sự bao vây của ba trăm ngàn lính cộng sản Trung Hoa. Xích xe tăng nghiến nát hàng ngàn thân xác sinh viên đòi dân chủ ở Thiên An Môn, Bắc Kinh mờ sáng ngày 4/6/1989 cũng là bài học mới mẻ và khẩn thiết mà nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam phải gấp gáp học thuộc lòng. Bài học đó còn là sức mạnh giữ chính quyền của nhà nước độc tài cộng sản không chỉ là súng đạn, không chỉ là xích xe tăng mà còn là sự độc ác man rợ với dân.
Thế kỉ 20 Mahatma Gandhi lấy luật pháp dân chủ tư sản thức tỉnh người dân Ấn Độ. Thế kỉ 21, văn minh tin học đưa người dân Việt Nam hòa nhập với thời đại dân chủ. Run rảy trước sự thức tỉnh của người dân giành lại quyền làm người, quyền làm chủ đất nước, đảng cộng sản cầm quyền coi sức mạnh bạo lực nhà nước cộng sản Trung Hoa như sự bảo kê cho sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chuyến đi đêm của đầu đảng Nguyễn Văn Linh đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa đầu tháng chín, 1990 là chuyến đi tìm sự bảo kê ô nhục, đưa dân tộc Việt Nam vào chiếc ô Bắc thuộc. Năm 939 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc. Năm 1990, đầu đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên Trung Hoa kí giao kèo đưa Việt Nam vào thời Bắc thuộc mới.
Dưới bóng chiếc ô Bắc thuộc, sức mạnh bạo lực của đảng cộng sản Trung Hoa cũng là sức mạnh, là chỗ nương tựa của đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam. Chỉ cần giữ chính quyền, không cần độc lập, đảng cộng sản Việt Nam nhỏ bé và lạc lõng trong thời đại dân chủ, tăm tối và mông muội trong thế giới văn minh càng phải cố kết chặt chẽ với thế lực độc tài cộng sản Trung Hoa liền kề, càng phải nép vào chiếc ô Bắc thuộc.
Khát vọng xâm lược thâu tóm thế giới là đặc tính di truyền bền bỉ, mạnh mẽ của các triều đại vua chúa Trung Hoa, là gien nổi trội và tiêu biểu nhất trong máu các hoàng đế Trung Hoa từ phong kiến đến cộng sản. Cần nhắc lại rằng thực chất thế chế cộng sản cũng chỉ là thể chế phong kiến ở mức độ tăm tối hơn. Độc tài hơn. Tàn bạo hơn. Tham lam hơn. Man rợ hơn. Đẫm máu hơn. Dù là cộng sản lớn có sức mạnh lãnh thổ mênh mông như cộng sản Liên Bang Xô Viết, có dân số khổng lồ như cộng sản Trung Hoa hay cộng sản nhỏ yếu, nghèo khổ bền vững như cộng sản Triều Tiên, cộng sản Cuba, cộng sản Việt Nam chỉ là sự nối tiếp chế độ nông nô, phong kiến nhưng mất tính người tinh vi hơn, tàn bạo hơn.
Bước vào thế kỉ 21, vòng xoáy lịch sử lại đưa loài người về tình thế hiểm nghèo như tình thế của loài người một thế kỉ trước. Như trước chiến tranh thế giới thứ hai nhưng hiểm nghèo hơn, khốc liệt hơn, khủng khiếp hơn vì chiến tranh thế kỉ 21 là chiến tranh điện tử, chiến tranh hạt nhân. Những năm hai mươi, ba mươi thế kỉ trước ở Châu Âu, nước Đức của Adolf Hitler hối hả công nghiệp hóa, ồ ạt sản xuất vũ khí hiện đại, gấp gáp xây dựng quân đội hùng mạnh, phát động chiến tranh giành lại thế giới đã bị các nước tư bản hoang dã Tây Âu công nghiệp phát triển phân chia cho nhau sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Ở Châu Á, nước Nhật hùng mạnh sau công nghiệp hóa cũng muốn phân chia thế giới với Adolf Hitler liền phối hợp với Adolf Hitler, phát động chiến tranh thâu tóm Châu Á và thâu tóm cả Thái Bình Dương. Hai lò lửa chiến tranh Đức Quốc Xã ở Châu Âu và Nhật phát xít ở Châu Á đã nhấn chìm loài người vào biển máu chiến tranh thế giới thứ hai.
Mầm mống chiến tranh của thế giới hôm nay ở Châu Âu là nước Nga với kho đầu đạn hạt nhân đứng đầu thế giới trong tay độc tài Vladimir Putin đang nuôi tham vọng khôi phục lại quyền uy và sức mạnh thống trị của nước Nga Putin với các nước Cộng Hòa Xô Viết cũ nay đã tách ra thành những nước độc lập, khôi phục và mở rộng quyền uy sức mạnh hạt nhân của nước Nga khống chế, chi phối cả thế giới. Ở Châu Á nhà nước cộng sản Trung Hoa trong tay độc tài Tập Cận Bình sau khi trở thành cường quốc hạt nhân, sau khi hối hả hiện đại hóa quân đội đã có đội quân hạt nhân với số quân lớn nhất thế giới càng công khai, ráo riết thực hiện giấc mộng của các hoàng đế Trung Hoa, thâu tóm thế giới, thống trị loài người.
Trước hiểm họa chiến tranh xâm lược thâu tóm thế giới của hai thế lực độc tài nước Nga Putin và Trung Hoa Tập Cận Bình, các nước dân chủ thế giới đang gấp gáp củng cố và tăng cường sức mạnh các liên minh quân sự đã có, hình thành thế trận với những liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh dân chủ bao vây, cô lập hai nhà nước độc tài đã trở thành hai hiểm họa chiến tranh.
**************************
Kì 6
Dốc ngân sách nghèo tổ chức bộ máy cảnh sát khổng lồ, duy trì sự cầm quyền không chính đáng của Đảng cộng sản
Ngày 24/9/2021 đầu đảng cộng sản Việt Nam có cuộc bẩm báo qua điện thoại với đầu đảng cộng sản Trung Hoa. Phía cộng sản Việt Nam giấu nhẹm cuộc bẩm báo thực ra chỉ là cuộc chầu kiến online để nhận chỉ thị của đảng lớn cộng sản Trung Hoa. Nhưng phía cộng sản Trung Hoa đã huênh hoang công bố chỉ thị của đầu đảng lớn Tập Cận Bình với đầu đảng nhỏ Nguyễn Phú Trọng : Bảo vệ an ninh cầm quyền của Đảng cộng sản và an ninh chế độ xã hội chủ nghĩa là lợi ích chiến lược căn bản nhất của hai nước Hoa – Việt.
Tập Cận Bình chúc mừng Nguyễn Phú Trọng đắc cử nhiệm kỳ 3
Nhắc nhở bảo vệ an ninh cầm quyền là nhắc tới bài học Thiên An Môn, Bắc Kinh, 4/6/1989. Bài học về khát vọng tự do dân chủ của dân là nỗi đe doạ cận kề nhất, to lớn nhất với nhà nước độc tài cộng sản. Bài học về bố trí và sử dụng sức mạnh bạo lực thường trực bóp chết khát vọng tự do dân chủ của người dân là bài học còn mất, sống chết với sự cầm quyền không chính danh của đảng cộng sản.
Để sử dụng bạo lực nhà nước với dân, cả hệ thống truyền thông khổng lồ của nhà nước độc tài cộng sản luôn ra rả lu loa vu cho những tiếng nói sự thật, thẳng thắn, trung thực của người dân, vu cho khát vọng tự do dân chủ của người dân là thế lực thù địch.
Đảng cử dân bầu, chính quyền không chính danh vì không do người dân tự do bầu chọn, không mang ý chí của người dân. Không chính danh nên càng nơm nớp nỗi sợ nhân dân thức tỉnh giành lại quyền làm người, giành quyền làm chủ đất nước, đảng cộng sản cầm quyền dè sẻn tối đa tiền đầu tư cho y tế, chắt bóp đến tận cùng tiền đầu tư cho giáo dục, cầm chừng ngân sách quốc phòng để dồn ngân sách nhà nước, dồn tiềm lực quốc gia tổ chức bộ máy công cụ bạo lực khổng lồ, trang bị đến tận răng, chăm bẵm đến đời con, đời cháu lực lượng công cụ còn đảng còn mình.
Mua sắm, trang bị vũ khí hiện đại nhất có uy lực lớn, sát thương nhanh và rộng cho công an. Biến lực lượng bán vũ trang giữ gìn an ninh xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân thành đội quân chiến đấu tinh nhuệ, hiện đại được vũ trang từ gót chân tới đỉnh đầu để đối đầu với khát vọng tự do dân chủ của dân. Sẵn sàng dìm tiếng nói đòi quyền sống, đòi tự do dân chủ của người dân vào biển máu mà trung đoàn cảnh sát cơ động cùng các lực lượng phối thuộc lên đến hơn ba ngàn cảnh sát vũ trang rầm rập xe bọc thép, xe trang bị điện tử tập kích vào thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội giết dân rạng sáng ngày 9/1/2020 như một cuộc diễn tập, rèn luyện trái tim chai lì, vô cảm trước nhân dân của con người công cụ, kiểm tra sức chiến đấu của đội quân còn đảng còn mình. Máu dân thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội rạng sáng 9/1/2020 chính là bài thực hành của công an Việt Nam khi học bài học máu ở Thiên An Môn Bắc Kinh, Trung Hoa rạng sáng 4/6/1989.
Thời thuộc Pháp, để giữ gìn bản sắc văn hóa rất đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên, chính quyền thuộc địa Pháp có chính sách hạn chế người Kinh lên Tây Nguyên khai phá đất rừng màu mỡ và bạt ngàn. Nhưng từ sau năm 1975, người Kinh tràn lên Tây Nguyên, tàn phá rừng ngàn tuổi, làm chủ đất đai Tây Nguyên. Đồng bằng hóa rừng đại ngàn. Kinh hóa sinh hoạt dân cư và văn hóa Tây nguyên. Các dân tộc Tây Nguyên trở thành những tộc người nhỏ bè, yếu thế, mất quyền làm chủ núi rừng ngàn đời của họ. Mất núi, mất rừng, không còn hồn núi, hồn rừng cũng không còn nền văn hóa của núi rừng Tây Nguyên.
Năm 1954, các dân tộc Tây Nguyên chiếm 85 phần trăm dân số : 510 ngàn dân trên tổng số 600 ngàn dân. Tỉ lệ và con số đó những năm sau là : Năm 1976 chỉ còn 69,7 phần tram : 853 ngàn dân Tây Nguyên trên tổng số 1,225 triệu dân. Năm 2004 tỉ lệ dân tộc Tây nguyên chỉ còn chiếm 25,3 phần tram : 1,181 triệu trên 4,668 triệu dân.
Năm 2004, hơn ba mươi ngàn người dân các dân tộc niềm núi Tây Nguyên biểu tình đòi quyền tự trị, quyền tự do tôn giáo, quyền giữ gìn di sản văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, quyền làm chủ những cánh rừng của sử thi, của cội nguồn văn hóa Tây Nguyên đang bị những tập đoàn tư bản hoang dã và gia dình người Kinh di dân tự do tràn đến chiếm đoạt, tàn phá.
Một nhà nước nhân văn biết lắng nghe dân phải điều chỉnh chính sách để bảo vệ không gian sinh tồn và không gian văn hóa dân tộc. Nhưng ỷ vào sức mạnh bạo lực nhà nước, nhà nước cộng sản Việt Nam đã đưa súng đạn quân đội và còng số 8 công an ra trả lời tiếng nói chính đáng của người dân Tây Nguyên.
Súng của quân đội, dùi cui, roi điện, còng số 8 và nhà tù của công an nhanh chóng dập tắt tiếng nói dân sự của người dân Tây Nguyên rồi nhà nước độc tài cộng sản vội vã lập ra ba bộ máy giám sát và phản ứng nhanh với người dân ở ba vùng rộng lớn, xa xôi, khuất nẻo mà lực lượng bạo lực nhà nước mỏng. Ba bộ máy giám sát dân vùng xa có tên rất hiền lành là Ban Chỉ Đạo. Ban Chỉ Đạo Tây Nguyên, Ban Chỉ Đạo Tây Bắc, Ban Chỉ Đạo Tây Nam Bộ ra đời từ đó. Đại tướng, Bộ trưởng bộ Công an luôn trực tiếp đứng đầu Ban Chỉ Đạo Tây Nguyên, vùng chứa chất bất công xã hội lớn nhất cũng là vùng đáng lo ngại nhất của nhà nước cộng sản.
Không phải chỉ người dân vùng xa đòi quyền tự trị, tiếng nói đòi tự do dân chủ của người dân ngày càng lan rộng và mạnh mẽ ở các đô thị, các trung tâm dân cư. Cùng với sự ra đời các Ban Chỉ Đạo là các trung đoàn cảnh sát cơ động trực thuộc bộ Công an vội vã được thành lập.
Chống lại đòi hỏi tự do dân chủ của dân, lính cảnh sát cơ động từ đầu đến chân được bọc trong lớp thép vừa để chống lực tác động, vừa để biến con người bọc trong những lớp dày sắt thép không còn là con người mà chỉ là công cụ, ngăn cách trái tim con người ở người lính công an với trái tim người dân. Chỉ còn là công cụ, vũ khí hiện đại có sức huỷ diệt nhanh và lớn trong tay chỉ còn biết theo lệnh dìm khát vọng tự do dân chủ chính đáng của dân trong máu. Và máu dân đã lênh lảng ở thôn Hoành, Đồng Tâm, Hà Nội đêm 9/1/2020 là một dẫn chứng xác thực.
Từ 2001, mười bốn Trung đoàn Cảnh sát cơ động trong tay bộ Công an lần lượt ra đời, tạo thành tấm lưới bạo lực nhà nước trùm kín đất nước. Họng súng cảnh sát cơ động lăm lăm chĩa vào cuộc sống người dân.
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Tây Nguyên E20, thành lập năm 2003, đóng ở Buôn Ma Thuột.
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động E21 – 2001 – Cần Thơ
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Thủ đô E22 – 2003 – Hà Nội
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Nam Trung Bộ E23 – 2010 – Quy Nhơn.
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Tây Bắc Bộ E24 – 2010 –Điện Biên
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Đông Nam Bộ E25 – 2010 – Biên Hòa
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Bắc Trung Bộ E26 – 2014 –Nghệ An
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Đông Bắc Bộ E27 – 2014 – Tỉnh Quảng Ninh
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Trung Bộ E28 – 2010 – Đà Nẵng
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Đông Nam Sài Gòn E29 – 2014 – Sài Gòn.
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Bảo vệ cơ sở ngoại giao E30 – 1999 – Hà Nội
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Bảo vệ chính trị, kinh tế E31 – 2014 – Hà Nội
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Không quân E32 – 2021 – Hà Nội
- Trung đoàn Cảnh sát cơ động Kỵ binh – 2020 – Thái Nguyên
Cùng với 14 Trung đoàn Cảnh sát cơ động rải ra khắp nước, ba đô thị trung tâm ba miền đất nước tập trung dân cư đông đúc, sôi động nhất nước còn có 3 Tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm tinh nhuệ và có sức chiến đấu cao hơn cả cảnh sát cơ động.
- Tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm số 1 ém quân ở thủ đô Hà Nội.
- Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm số 2 đứng chân ở trung tâm dân cư Đà Nẵng.
- Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm số 3 chốt trong khối hơn mười triệu dân Sài Gòn.
Các Trung đoàn cảnh sát cơ động Việt Nam được trang bị máy bay vũ trang, tàu thuyền chiến đấu, xe bọc thép và súng lớn có sức cơ động nhanh và tầm hỏa lực rộng.
Thiên An Môn, Bắc Kinh 4/6/1989 chỉ có lưới đạn AK và xích xe tăng. Các trung đoàn cảnh sát cơ động Việt Nam có sức chiến đấu, sát thương lớn hơn nhiều. Trung đoàn cảnh sát cơ động Việt Nam được trang bị máy bay vũ trang, tàu thuyền chiến đấu, xe bọc thép và súng lớn có sức cơ động nhanh và tầm hỏa lực rộng. Khi những họng súng hiện đại của những trung đoàn cảnh sát cơ động và những tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm trực thuộc bộ Công an đã phủ lưới lửa kín cả nước, năm 2018, nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam mới yên tâm giải thể ba Ban Chỉ Đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ.
Không phải chỉ các trung đoàn cảnh sát cơ động và các tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm, cả công an quản lí hành chính cũng được trang bị như những đơn vị chiến đấu mạnh, sẵn sàng mang vũ khí hiện đại giết người nhanh nhất, nhiều nhất ra đối đầu với dân. Theo thông tư 17/2018TT-BCA của bộ Công an, từ 1/7/2018 công an cấp tỉnh, công an quận, huyện, thị xã… ngoài các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ đã có còn được trang bị súng tiểu liên, trung liên, đại liên, súng cối, súng ĐKZ, trực thăng vũ trang, tên lửa chống tăng. Theo lệnh đảng, ngày 14/6/2022 Quốc hội lại thông qua luật Cảnh Sát Cơ Động với nhiệm vụ tấn công giải tán các vụ tập trung đông người. Ngoài vũ khí trang bị theo thông tư 17/2018 TT-BCA, các trung đoàn Cảnh sát cơ động còn được trang bị máy bay vũ trang, tàu thuyền chiến đấu.
Tăng cường sức mạnh đàn áp dân núp dưới danh nghĩa chống tội phạm, tháng 6/2020 Bộ Công an đã cho ra đời Trung đoàn cảnh sát cơ động kị binh. Rồi lần lượt công an các tỉnh cũng gấp gáp tổ chức trung đoàn cảnh sát cơ động cấp tỉnh với hơn ngàn tay súng được trang bị súng lớn, hiện đại, sát thương hàng loạt.
Sau hai đô thị Hà Nội và Sài Gòn, Thanh Hóa với gần 4 triệu người là tỉnh có dân số lớn nhất nước cũng là tỉnh đi đầu thành lập trung đoàn cảnh sát cơ động thuộc chính quyền tỉnh. 11/11/2021 ra mắt trung đoàn cảnh sát cơ động thuộc công an Thanh Hóa với 3 tiểu đoàn, 9 đại đội, 30 trung đội, 90 tiểu đội, hơn nghìn tay súng do đại tá, phó giám đốc công an tỉnh là trung đoàn trưởng.
Ngày 25/6/2022, ra mắt trung đoàn cảnh sát cơ động trực thuộc công an tỉnh Đồng Nai. Đại tá, phó giám đốc công an tỉnh là trung đoàn trưởng.
Ngày 4/8/2022 Công an tỉnh Bình Phước công bố quyết định của bộ trưởng Bộ Công an thành lập Trung đoàn Cảnh sát cơ động chiến đấu với hơn 1.000 quân do đại tá, phó giám đốc Công an tỉnh làm trung đoàn trưởng.
Ngày 10/8/2022 ra mắt trung đoàn Cảnh sát cơ động chiến đấu thuộc công an Sài Gòn với 1.279 quân do thiếu tướng phó giám đốc Công an thành phố là trung đoàn trưởng cùng 3 phó trung đoàn trưởng cấp đại tá.
Theo kế hoạch, 14 tỉnh thành trọng điểm có trung đoàn cảnh sát cơ động quân số đông, trang bị hiện đại luôn trong tư thế trực chiến sẵn sàng ra quân. Các tỉnh còn lại xa trọng điểm chính trị có tiểu đoàn cảnh sát cơ động.
Công an là sức mạnh bạo lực nhà nước đối nội. Thời yên hàn mà phải duy trì và chăm bẵm một bộ máy công cụ bạo lực nhà nước khổng lồ. Bộ máy công an vốn có đã quá đông lại thêm 14 trung đoàn cảnh sát cơ động và 3 tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm trực thuộc bộ Công an. 14 trung đoàn cảnh sát cơ động trực thuộc công an các tinh, thành phố trọng điểm. 49 tỉnh còn lại có tiểu đoàn cảnh sát cơ động trang bị vũ khí hiện đại, đắt tiền là một gánh nặng, một nguồn chi quá lớn với ngân sách còm của đất nước, làm hao hụt lớn nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế và làm cạn kiệt quĩ phúc lợi xã hội.
Gần nửa thế kỉ đất nước thanh bình vẫn đổ tiền vô tội vạ tổ chức nuôi dưỡng gần ba chục trung đoàn và hơn năm mươi tiểu đoàn độc lập cảnh sát cơ động tinh nhuệ, vẫn đổ tiền trang bị máy bay, tàu chiến, súng lớn hiện đại, sát thương rộng, súng điện tử cho công an. Vì vậy gần nửa thế kỉ hòa bình phát triển kinh tế xã hội mà ba, bốn người dân đau bệnh vẫn phải chồng chất trên một giường bệnh. Học sinh cả nước từ mẫu giáo, tiểu học vẫn phải nộp đủ các loại phí mới được vào lớp học và học sinh miền núi phải ngồi học trong những lớp học tranh tre xác xơ tuềnh toàng như những túp lều coi nương.
Lực lượng cảnh sát khổng lồ cùng những họng súng, dùi cui, roi điện nhìn thấy và những vũ khí điện tử hiện đại vô hình để kìm kẹp, không chế dân không những là gánh nặng của đời sống kinh tế đất nước mà còn là bóng đen đè nặng xuống đời sống tinh thần người dân và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực sự là nhà nước cảnh sát trong thời đại dân chủ, trong kỉ nguyên văn minh tin học.
Phạm Đình Trọng
(06/09/2022)
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam luôn cho rằng, tham nhũng là do quan chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chứ không phải do bản chất chế độ. Bởi vậy, Đảng gây sức ép tối đa đối với quan chức trong bộ máy lãnh đạo giúp củng cố chế độ. Nửa đầu năm 2021, có 51 người đứng đầu đã bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ; Đầu tháng 9/2021 Ủy ban Kiểm tra Trung ương thông báo rằng tại Kỳ họp thứ 6 rằng nhiều cán bộ liên quan đến tha hóa quyền lực trong lĩnh vực kinh tế bị kỷ luật…
Một gia đình người dân đứng mua kem trước một tấm biển cổ động cho Đại hội 13 Đảng cộng sản Việt Nam ở Hà Nội hôm 24/1/2021 – AFP - Ảnh minh họa
Việt Nam vừa trải qua thập kỷ khó khăn của hai nhiệm kỳ Đại hội đảng toàn quốc năm năm (2011-2021) với "bất ổn" kinh tế vĩ mô và thể chế, trong đó sự tha hóa quyền lực của cán bộ lãnh đạo diễn ra nghiêm trọng đe doạ sự tồn vong chế độ. Giới lãnh đạo chính thức đặt vấn đề cải tổ chính trị tại Đại hội Đảng CS lần thứ 13 đầu năm 2021, nhấn mạnh củng cố hệ thống chính trị, trong đó kiện toàn tổ chức cán bộ là trọng tâm trong cải cách, được cho là điểm mới so với các Đại hội trước đó.
Cách tiếp cận cải cách như vậy xuất phát từ bản chất của chế độ tập quyền. Giáo sư chính trị học Fransis Fukuama đã chỉ ra rằng chế độ đảng cộng sản toàn trị có "hai cội nguồn" với chế độ phong kiến tập quyền Á Đông. Đó là giáo dục giới quan lại thấm nhuần tư tưởng nho giáo đồng thời với trừng phạt nghiêm khắc họ nếu bất tuân và hư hỏng. Chức năng "đao phủ" này được thực hiện bởi các thái giám (tương tự như Uỷ ban kiểm tra Trung ương) và tội nặng nhất là khi "quân", "bất trung", nghĩa là phỉ báng và không trung thành với nhà vua…
Cách đối phó với khủng hoảng chế độ hiện nay đang diễn ra dưới nhiều hình thức, nhưng phổ biến nhất là chống tham nhũng "không vùng cấm" đồng thời với sàng lọc nhân sự đảng thông qua "kiện toàn" tổ chức bộ máy. Trước hết, sức ép lớn nhất được tạo ra đối với lãnh đạo đảng các cấp. Trước Đại hội 13 hàng chục nghìn cán bộ bị kỷ luật với lý do vi phạm quy chế làm việc của đảng, lợi dụng chức vụ quyền hạn và tham nhũng, và quá trình này vẫn đang tiếp tục. Quá nửa dàn lãnh đạo mới trong số 200 uỷ viên trung ương khóa 13 xuất thân từ các ban của đảng, đoàn hay các lĩnh vực quân đội, an ninh. Họ được xem là chỗ dựa trung thành cho quyền lực tuyệt đối.
Cựu quan chức ngành dầu khí Trịnh Xuân Thanh (giữa) và các đồng phạm tại phiên tòa ở Hà Nội hôm 8/1/2018. Ông Trịnh Xuân Thanh bị cáo buộc tội tham ô. AFP
Hàng loạt quy chế, quy định mới của Đảng về ứng cử, đề cử nhân sự đứng đầu tổ chức, siết chặt kỷ luật cán bộ và nêu gương lãnh đạo được ban hành, thực thi theo hướng tập trung quyền lực cao hơn. Các ban của Đảng như Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính, Ban Tuyên giáo được tăng thêm quyền lực. Và mới đây, Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng được bổ sung quyền hạn chống "tiêu cực" và đổi tên thành Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Điều này cho thấy chiến dịch thanh trừng "làm trong sạch" đội ngũ tiếp tục được đẩy mạnh. Những hiện tượng "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" hay "suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống" của quan chức thường là định tính nhưng có thể vận dụng theo ý lãnh tụ.
Việc tăng cường những động thái cải cách trong thời kỳ khủng hoảng cho thấy đặc điểm mang "tính thích nghi, tính tinh vi, tính tự trị và tính gắn kết" của chế độ, như một trong các nguyên nhân quan trọng tạo nên "sự dẻo dai" chính trị trong suốt hơn một phần ba thế kỷ. Điều này được Giáo sư chính trị học Samuel P. Huntington (1927-2008), tác giả của quan điểm "Sự va chạm của các nền văn minh" (1994) chỉ ra khi nghiên cứu chế độ đảng cộng sản toàn trị ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, điều mà Giáo sư Samuel P. Huntington chưa thể dự đoán là sự thay đổi diễn ra nhanh chóng trong cải cách thị trường dưới chế độ này. Nhà nghiên cứu Isabella Weber đã mô tả quá trình này như trò chơi rút gỗ [game of Jenga] : chỉ rút ra những thanh gỗ nào khi có thể sắp xếp lại được mà không làm sụp đổ cả khối gỗ, nghĩa là gây hại đến sự ổn định của chế độ, và các khoảng trống để lại được chính sách thị trường lấp đầy. Kết quả của cải cách thị trường là tăng trưởng nhanh sau hơn một phần ba thế kỷ đã giúp Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế, nhưng về bản chất là chủ nghĩa tư bản chính trị, thân hữu. Sự không tương thích giữa "thượng tầng kiến trúc" là chế độ toàn trị và "hạ tầng cơ sở" là kinh tế thị trường phản ánh vấ n đề mấu chốt là đảng cộng sản lãnh đạo kinh tế thị trường thế nào khi mâu thuẫn cơ bản giữa hai hệ tư tưởng đối kháng : chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Sự thay đổi lớn đang diễn ra ở Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực kinh tế, tài chính, văn hóa và chính trị từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền ở Trung Quốc từ 2013. Mới gần đây, ông ta chỉ đạo ‘tấn công’ vào giới nhà giàu công nghệ như Alibaba, Tencent và hãng gọi xe khổng lồ Didi Global trong chính sách "thịnh vượng chung", nghĩa nhà nước giành lấy chức năng tái phân phối của cải, lấy từ giới tỷ phủ chia cho người nghèo, và gửi đi thông điệp rằng "thị trường tư bản sẽ không còn là thiên đường cho các nhà tư bản làm giàu nhanh chóng". Ngoài ra, các hãng phim giải trí, sao điện ảnh, các công ty giáo dục tư nhân cũng bị đàn áp, tư tưởng của Tập Cận Bình bắt buộc phải đưa vào chương trình học từ cấp tiểu học trở lên…
Ông chủ Alibaba Jack Ma (giữa) và CEO của Tencent trong lễ kỷ niệm 40 năm thực hiện chính sách mở cửa của Trung Quốc ở Bắc Kinh hôm 18/12/2018. AFP
Việt Nam đang cải cách thị trường về cơ bản theo cách trên khi có chế độ chính trị tương đồng với Trung Quốc dù thấp hơn về trình độ phát triển. Ngoài ra, những động thái cải cách sửa sai và củng cố chế độ hiện nay ở Việt Nam cho thấy bản chất chính trị không hề thay đổi : chế độ phụ thuộc vào người đứng đầu ; Sử dụng bộ máy cai trị đặc quyền đặc lợi tập hợp những quan chức phải tuyệt đối trung thành, bởi vậy thiếu tính độc lập ; chấp nhận ý thức hệ CNXH xa với thực tế, nên dễ sa vào giáo điều ; Thực hành vô điều kiện các tiêu chuẩn đạo đức cách mạnh sẵn có, và sẵn sàng hành động theo cương lĩnh mang tính bạo lực dựa trên đấu tranh giai cấp và sự tương phản giữa "chúng ta" và "bọn phản động" để bảo vệ chế độ…. Những thay đổi gần đây của chế độ Đảng cộng sản lãnh đạo ở Trung Quốc như phân tích ở trên liệu có phải là "tương lai" xa hay gần của chế độ ở Việt Nam hay không và bài học "tránh" sai lầm thế nào đang là vấn đề chưa có câu trả lời.
Khủng hoảng kinh tế và thể chế gây nên sự bất bình của nhân dân đối với "bộ phận không nhỏ" cán bộ lãnh đạo nhũng nhiễu và tham lam. Đây là nhân tố chủ chốt khiến người ta mong có một chế độ quyết đoán và đòi hỏi phải có những hành động khẩn trương và quyết liệt. Trong tình hình như thế, một chính khách tỏ ra dũng cảm, sẵn sàng "hành động", sẽ là người được quần chúng "gửi gắm" để trừng trị những quan chức "hư hỏng". Đó là lý do khiến người cầm đầu có được hậu thuẫn, một sự hậu thuẫn giúp cho ông ta gây sức ép tối đa trong nội bộ để củng cố chế độ. Tuy nhiên, sự kỳ vọng về chính sách đột phá để chuyển đổi dân chủ chỉ là ảo tưởng rằng khi vượt qua khủ ng khoảng ông ta sẽ thực hiện được mọi điều.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 14/09/2021
Không ai có thể chống chính quyền chỉ bằng miệng !
Diễm Thi, RFA, 19/05/2021
"Thông tin xấu độc"
Cách đây đúng một tuần, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng hoạt động truyền thông, báo chí phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ; kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông. Chỉ thị nêu rõ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị.
Một sạp báo trên đường phố Hà Nội. Reuters
Theo đó, tất cả các Bộ, Ngành liên quan như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông… đều có trách nhiệm chủ động cung cấp thông tin nhằm định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin, văn hóa xấu độc, nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá.
Bên cạnh đó, Báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam có nhiệm vụ tuyên truyền bằng nhiều hình thức. Nếu báo chí vi phạm sẽ bị xử lý.
Nhà báo Lê Trung Khoa từ Đức nêu nhận xét, trước tình hình internet ngày càng toàn cầu hóa, không thể giấu diếm mãi những thông tin không đúng sự thật nữa thì Đảng cộng sản Việt Nam phải tìm cách đàn áp, đe dọa những tiếng nói trung lập và trung thực để họ không dám viết những thông tin sự thật lên nữa. Đó là lý do Nhà nước đưa ra những chính sách nhằm áp đặt những ý đồ đen tối của họ với những người viết trong nước và thậm chí cả những người Việt ở nước ngoài. Ông Khoa nói thêm :
"Theo tôi thì Đảng cộng sản Việt Nam từ trước đến nay luôn luôn dùng những lời lẽ mị dân và dối trá để che giấu sự thật phía sau. Họ định hướng dư luận bằng cách sử dụng toàn bộ những hệ thống, cơ quan báo chí của Nhà nước và không cho báo chí tư nhân xuất hiện và phát triển.
Chính vì vậy mà họ rất sợ những thông tin sự thật được đưa ra, được lan truyền, được bình luận của người dân, bởi nó sẽ làm cho việc tự diễn biến, tự chuyển hóa… mà ông Nguyễn Phú Trọng đang rất lo sợ.
Cũng chính vì vậy mà họ phải tìm mọi biện pháp, họ vận động mọi cơ quan, đoàn thể trong nước, mọi Ngành và mọi Bộ để làm sao dập tắt những thông tin mà họ nói rằng xấu độc, nhưng thực tế đó là những thông tin nói lên sự thật."
Theo định nghĩa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thông tin xấu độc "là những thông tin bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, ‘đổi trắng, thay đen, lẫn lộn đúng sai, thật giả hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu thù địch".
Nhà báo Nguyễn An Dân thì có cái nhìn khác. Ông nói :
"Hiện giờ thông tin xấu độc được xem là thông tin không theo định hướng của Đảng. Người ta nói sự thật mất lòng. Kể cả mình nói đúng, nói sự thật nhưng làm mất uy tín của Đảng thì Đảng cũng coi đó là thông tin xấu độc.
Báo chí Việt Nam bây giờ nhiều nhu cầu lắm chứ không chỉ nhu cầu về thông tin. Cũng có khi người viết báo có cái bức xúc của họ, muốn làm đúng tâm nhà báo. Còn về luật pháp thì quy định trong lĩnh vực báo chí lại không rõ ràng. Tùy theo quyết định cá nhân của người quản lý báo chí thôi. Khi nào mà người quản lý báo chí thấy nội dung đó họ không thích thì họ tạm xếp vào thông tin xấu độc. Còn nó xấu với ai, độc với ai thì tính sau.
Nói thông tin xấu độc là nói rất chung chung. Có khi cán bộ của Đảng ở cấp dưới họ thấy đó là xấu độc, lên tới cấp cao thì lại là thông tin tốt thì sao ?"
"Âm mưu, thủ đoạn chống phá"
Từ nhiều năm qua, những từ ngữ như "chống phá" hay "thế lực thù địch" luôn được chính quyền nhắc đến trong tất cả các hình thức tuyên truyền lẫn hành động cụ thể.
"Chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch" là những cụm từ thường xuyên được lặp đi lặp lại từ trên các phương tiện báo chí truyền thông của Nhà nước cho đến các bài diễn văn của các cấp lãnh đạo cao nhất ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong bài "Nhận diện, phản bác các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội" trên trang web của Đảng cộng sản, bà Nguyễn Thị Lan, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo, viết rằng : Các đối tượng chống phá còn tập trung lựa chọn những nhân tố "điển hình", "sám hối", "trở cờ", suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ để tập hợp lực lượng chống đối từ bên trong, xem đây là nguồn tán phát trực tiếp, hiệu quả nhất những thông tin xấu, độc.
Nhà báo Nguyễn An Dân cho rằng, không ai có thể chống phá Chính quyền chỉ bằng miệng :
"Cái gọi là chống phá nó cũng chung chung lắm. Nếu nói về chống phá thì người dân lấy phương tiện gì để chống phá chính quyền ngoài cái miệng của họ ?
Người dân nói Đảng là xấu hay tốt không có nghĩa người dân đó xấu mà bản thân anh tốt đi thì người dân đâu có nói gì được. Cái quyền tự do ngôn luận như vậy mà tại sao gọi là người ta chống phá ?
Không ai có thể chống phá chính quyền chỉ bằng cái miệng cả. Bây giờ dân trí cao rồi, nếu anh nói chống phá một cách chung chung như vậy là anh coi thường dân trí đó."
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam bằng nhiều hình thức, là mục tiêu của cả hệ thống chính trị Việt Nam, đặc biệt là những năm gần đây.
Cuối tháng tư vừa qua, Báo Quân đội Nhân dân, cơ quan truyền thông của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, đã phát động cuộc thi báo chí "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới". Theo đó, các tác phẩm báo chí tham dự cuộc thi sẽ góp phần đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Ngay trong thời gian diễn ra Đại hội 13, ông Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng cộng sản, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu bên lề đại hội rằng : "Chúng ta càng thành công thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị càng điên cuồng chống phá vì chúng chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá chúng ta."
Chỉ trong 20 ngày đầu năm 2021, tòa án Việt Nam đã kết tội chín người trong đó có ba nhà báo của Hội Nhà báo độc lập với mức án tổng cộng lên đến hơn 60 năm tù giam.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 19/05/2021
**********************
Người Buôn Gió, 18/05/2021
Từ lúc làm bí thư thành ủy Hà Nội đến khi làm chủ tịch quốc hội. Nguyễn Phú Trọng thể hiện là một con người ôn hòa trong đảng, không có tham vọng quyền lực, một người thiên về sách vở và lý luận. Nhờ vậy qua được mắt mọi ủy viên trung ương, giành được chiếc ghế tổng bí thư khóa 11, khi mà Hồ Đức Việt ứng cử viên chức tổng bí thư đột ngột bị bệnh lạ và sau đó qua đời ít lâu.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhắc nhở nhân dân phải tin vào Đảng - Ảnh minh họa
Lúc ban đầu trên ghế tổng bí thư khóa 11, Trọng không thể hiện gì nhiều ngoài việc ra ra cái gọi là nghị quyết trung ương 4 và 19 điều đảng viên không được làm, sau đó là nghị quyết 244 về việc bầu bán trong đại hội đảng khóa 12. Còn lại Trọng ngồi khích động cho cặp Tư Sang và Ba Dũng đấu đá nhau liên miên. Cuộc chiến căng thẳng đến hồi cao trào là tất cả những bên tham chiến đều phải về hưu, nhưng do hệ quả của cuộc chiến Ba Tư. Trọng ngồi lại để gìn giữ sự ổn định trong đảng thêm một nhiệm kỳ nữa, đồng thời dự định trao lại quyền tổng bí thư giữa nhiêm kỳ cho người khác, đó là ứng cử viên Đinh Thế Huynh và Trần Đại Quang.
Thật bất ngờ, khi Trọng tạm ngồi khóa 12 thì các ứng cử viên kế tục Trọng đều bị bệnh lạ như ứng cử Hồ Đức Việt trước kia. Ông Huynh bị bệnh mất trí nhớ đột ngột, còn ông Quang chết vì bệnh gì thì đến các bác sĩ giỏi nhất của Nhật cũng không biết được nguyên nhân.
Đến khóa 13 thì thường trực ban bí thư Trần Quốc Vượng về hưu vì quá tuổi, không đủ uy tín để lấy được phiếu bầu ở lại cho chức tổng bí thư, bởi lúc Trọng không hề dứt khoát việc mình sẽ về nghỉ hưu. Nếu Trọng không dứt khoát về và vẫn mặc kệ cho người ta bỏ phiếu tín nhiệm những ứng cử viên bao gồm cả Trọng, đương nhiên sẽ không ai dám bỏ phiếu cho Vượng khi mà Trọng vẫn còn cầm súng chưa giao cho ai. Cũng may cho Trần Quốc Vượng rằng ông ta bị loại vì kém phiếu, vì biết đâu nếu phiếu chọn ông ta cao hơn Trọng, thì có lẽ Trần Quốc Vượng sẽ đi tiếp con đường mà các đối thủ của Trọng đã đi như Hồ Đức Việt, Đinh Thế Huynh, Trần Đại Quang.
Các đối thủ tự chết, tự bệnh lạ và các đối thủ tiềm năng xâu vào cánh xé lẫn nhau là hai thứ đặc trưng nhất diễn ra dưới thời của Nguyễn Phú Trọng.
Không chết, không bệnh thì cũng cắn xé nhau tàn khốc. Kịch bản dường như có vẻ lại lặp lại ở khóa 13 này khi Trọng sắp cho Phúc cùng ở lại giữ ghế chủ tịch nước, để Phạm Minh Chính làm tổng bí thư, cho Vương Đình Huệ làm chủ tịch quốc hội. Chia ra ba nhánh quyền lực kiềm chế nhau, để rồi tất cả đều phải hướng về Trọng.
Trong tác phẩm của tiểu thuyết gia lừng danh thế chiến thứ hai, cuốn tiểu thuyết có tên Lối Thoát Cuối Cùng của văn hào Consantin Virgil Gheorhiu (bản dịch từ tiếng Pháp của Hằng Hà Sa và Bích Tỵ nhà xuất bản Lá Bối, Việt Nam Cộng Hòa) có miêu tả về một tên bí thư hèn nhát nhưng đầy thủ đoạn, hắn tạo ra những mâu thuẫn và đấu đá trong cấp dưới, trong nhân dân và mọi người tự phải tìm đến hắn trông cậy giải quyết, từ đó hắn kiểm soát được quyền lực trong tay. Hắn phát biểu rằng muốn có quyền lực luôn phải tạo ra sự đố kỵ, ganh ghét, nghi ngờ và những đấu đá trong nội bộ.
Phải nói thêm ngoài thủ đoạn cá nhân, Trọng còn được sự hỗ trợ của đảng Dân Chủ Hoa Kỳ và đảng CS Trung Quốc. Lần đầu tiên tổng thống Hoa Kỳ Obama gửi lời mời và đón tiếp một tổng bí thư đảng cộng sản đang cầm quyền ở một nước độc tài một cách chính thức đối với Nguyễn Phú Trọng. Cũng lần đầu tiên đánh giá của Hoa Kỳ (đảng Dân Chủ) về một tướng an ninh nước cộng sản độc tài là hiểu biết, đó là lời đánh giá về thứ trưởng công an Tô Lâm, sau này Lâm thành bộ trưởng công an.
Trung Quốc và Hoa Kỳ dù có mâu thuẫn về tranh giành vai trò ảnh hưởng ở một số khu vực, nhưng dưới thời đảng Dân Chủ những mâu thẫn ấy còn được gắn cái gọi là đồng quan điểm từ chủ trương toàn cầu hoá. Sẽ không có chuyện Hoa Kỳ của Dân Chủ sẽ làm điều gì quá căng thẳng với Trung Quốc để dẫn đến việc phá vỡ kế hoạch toàn cầu hoá, một kế hoạch suýt nữa bị kẻ tay ngang như Trump làm đổ vỡ.
Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ luôn dùng chiêu bài " nhân quyền " để làm áp lực với với chế độ Việt Nam, họ bỏ ra vài triệu usd một năm để xúi bẩy những người Việt Nam yêu tự do, dân chủ gồng mình chiến đấu với thể chế độc tài cộng sản Việt Nam. Một số tổ chức , một số người Việt kinh doanh dân chủ đã lợi dụng điều này để trục lợi dưới chiêu bài cổ vũ, ủng hộ phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam, qua đó tạo ra những làn sóng, những phong trào để giải ngân số tiền mà đảng Dân Chủ Mỹ chi ra.
Chỉ có những con người trong sáng, dấn thân cho một Việt Nam dân chủ với ước mơ của mình, nhưng đã bị những kẻ cơ hội dẫn dắt, họ thường có kết cục bi hùng. Đây là một thực tế cay đắng đã diễn ra, nhưng nhiều người không muốn nhìn thẳng sự thật và một số kẻ kinh doanh " dân chủ " sẽ lấp liếm và la lối ai nói lên điều này là kẻ phá hoại phong trào đấu tranh dân chủ. Nhưng một lần nữa, khách quan các bạn đọc đánh giá, cái gọi là phong trào dân chủ nở rộ một thời ấy nay đã đi đến đâu ?
Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng quá hiểu trò áp lực nhân quyền của đảng Dân Chủ Hoa Kỳ, cho nên họ cũng hòa nhịp chơi lúc thì bắt bớ hàng loạt, lúc lại cho một vài những kẻ được ra nước ngoài tị nạn, những kẻ mà họ biết khi sang đến Hoa Kỳ gần như 90% vô tác dụng. Nếu các bạn không tin, xin cứ theo dõi thực tế là như thế nào. Chắc hẳn những người này sẽ phản biện rằng họ phải mưu sinh, phải học tiếng, phải xây dựng lại cuộc sống. Đúng, đương nhiên là vậy, đó cũng chính là lý do mà đảng cộng sản Việt Nam yên lòng khi để họ đi. Chưa kể đến những lý do khác. Ví dụ như ý kiến của các nhà dân chủ, về trường hợp của tôi đi sang Đức là để lên án, đánh phá phong trào dân chủ qua những quan điểm tôi đang viết đây. Mọi cái đều có thể, đấu tranh để được định cư, đấu tranh để đội lốt phá hoại... tôi cũng không hề loại mình ra khỏi những nghi vấn.
Nếu như Dân Chủ Hoa Kỳ thực sự quan tâm đến dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, thì số tiền mà họ chi ra ít nhất phải vài chục triệu usd một năm, sau đó tăng dần. Đáng tiếc là đảng Dân Chủ Hoa Kỳ chỉ mục đích dùng quyền con người ở Việt Nam, cộng với một số chính sách kinh tế , viện trợ , quan hệ để áp lực đảng CSVN có thái độ giằng co với Trung Quốc. Rồi từ sự giằng co của Việt Nam với Trung Quốc, Hoa Kỳ lấy điều đó để mặc cả ảnh hưởng của mình với Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, khu vực Triều Tiên, Nhật Bản, Nam Hàn hay những lợi ích kinh tế khác trong quan hệ song phương.
Và đương nhiên một lần nữa phải nói lại, đảng Cộng Sản Việt Nam hiểu rõ điều ấy. Họ có hàng đống người chuyên tâm nghiên cứu , dự đoán những đối sách của Hoa Kỳ với họ. Một điều rất thực là cộng sản Việt Nam chưa bao giờ lo lắng về làn sóng dân chủ trong nước sẽ khiến chế độ này đổ vỡ, họ chỉ la làng trên mặt báo, thổi phồng nguy cơ mà thôi. Nếu bạn nào có bạn bè, người thân làm việc tương đối khá trong chế độ Việt Nam, bạn cứ thử hỏi họ rằng họ có cảm thấy nguy cơ chế độ bị phong trào dân chủ lật đổ không ? Bạn có ngay câu trả lời.
Đừng có lên mạng nghe mấy thằng buôn dân chủ nó phét lác rằng CSVN đang run sợ , đang suy yếu, chúng ta đã gần chiến thắng. Cũng đừng nghe bọn báo công an, quân đội, tuyên giáo nó la lối rằng nguy cơ đổ vỡ chế độ, mầm mống biểu tình, bạo loạn từ phong trào dân chủ rất lớn...Cả hai bọn đều bịp bợm cả vì tính chất công việc của chúng mà thôi.
Thái độ và hành động của Phương Tây bây giờ, không có cơ hội thực sự nào cho phong trào dân chủ Việt Nam. Thái độ và hành động của họ bây giờ khác xa với những thái độ trước kia ở Đông Âu. Xin tạm thời gác hy vọng vì thời thế đã khác, đừng tham gia ba cái tổ chức dân chủ gì mà chỉ tội thiệt thân. Nếu mong muốn sự thay đổi ở tương lại, hãy chỉ trích khéo léo chế độ để bản thân an toàn, gây sự chán nản và căm phẫn tích tụ dần trong lòng dân chúng, nuôi sự chán ngán chế độ này âm ỉ, chờ cơ hội thế giới có gì xoay chuyển.
Cuối cùng cũng nên nhìn nhận sự thật rằng công cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra và chế độ cộng sản Việt Nam tạm thời đang được vững mạnh nhờ cái công cuộc này. Việc bàn về các nhà dân chủ tạm thời gác lại ở đây để tiếp tục vấn đề về nội tình Cộng Sản Việt Nam đang ở kịch bản chia để trị mà Nguyễn Phú Trọng đang dùng.
Hẳn ai cũng thấy thái độ thân thiện của thủ tướng Phạm Minh Chính với Trung Quốc khi còn làm bí thư Quảng Ninh và ai cũng biết thái độ của chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc vui mừng thế nào khi tiếp xúc với Hoa Kỳ. Chắc ai cũng thấy luôn Nguyễn Phú Trọng được Obama tiếp đón chân tình thế nào, cũng đương nhiên thấy Tập Cận Bình tin cậy thằng em Trọng ra sao.
Chúng ta nhìn tưởng rằng đây là chính sách nhân sự hợp lý, thỏa đáng cho các mối quan hệ quốc tế. Nhưng đằng sau đó là sự nham hiểm của Nguyễn Phú Trọng, âm mưu muốn hai hổ gườm nhau, một mình y thủ lợi. Phúc với một lô nhóm lợi ích, tập đoàn sân sau được hưởng lợi trước đây do vai trò thủ tướng của Phúc, giờ những nhóm sân sau này liệu còn được Chính ưu ái nữa không ?
Không ưu ái, tất sẽ có mâu thuẫn giữa Phúc và Chính.
Ưu ái hóa ra Chính là thủ tướng bù nhìn, làm con rối cho Phúc giật dây.
Chủ tịch nước và thủ tướng gầm ghè nhau, kịch bản Ba Tư trước kia lại quay trở lại. Đất nước khó mà có cơ hội phát triển vì gằm ghè rình miếng cắn phá nhau.
Chỉ có Trọng là đắc lợi mà thôi, sự hám danh, hám quyền của y còn cao hơn cả quyền lợi đất nước.
Người Buôn Gió
Nguồn : nguoibuongio1972, 18/05/2021
Bằng cấp giả : Lừa đảo về học thuật !
Diễm Thi, RFA, 01/12/2020
Một sự kiện liên quan đến giáo dục Việt Nam được báo chí chính thống lẫn cư dân mạng xã hội bàn tán suốt tuần qua liên quan đến Trường Đại học Đông Đô ở Hà Nội - một trong những đại học ngoài công lập được thành lập sớm nhất tại Việt Nam.
Facebook Đại học Đông Đô - Ảnh minh họa
Theo kết luận điều tra của Cơ quan Công an, Trường Đại học Đông Đô đã cấp bằng cử nhân giả cho 193 người không qua tuyển sinh, đào tạo. Trong đó có 55 trường hợp sử dụng bằng giả này để xét tuyển nghiên cứu sinh hoặc bảo vệ luận án tiến sĩ.
Bộ Giáo dục và đào tạo cho biết quan điểm của bộ là kiên quyết xử lý bằng cách thu hồi và hủy bỏ những văn bằng này. Còn việc công khai hay không công khai danh tính những cá nhân sử dụng văn bằng mà bộ gọi là văn bằng ‘không hợp pháp’ sẽ do cơ quan có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật.
Chuyện bằng cấp giả các loại được in ấn như thật và được mua bán ngầm nhưng công khai tràn lan trong xã hội, không là chuyện lạ hay mới. Nhưng chuyện một trường đại học cấp hàng trăm văn bằng giả là chuyện chưa từng nghe tới, như chia sẻ của Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng với RFA tối ngày 1 tháng 12 :
"Thật ra việc làm bằng giả như vậy lâu nay chỉ một vài cá nhân. Đến Đại học Đông Đô thì tình hình đã quá tệ. Tức là các cấp lãnh đạo cao nhất của trường có chủ trương như thế. Đây là điều xưa nay chưa từng có.
Một cái lỗi to hay nhỏ thì cũng chỉ là lỗi nếu sau đó cái nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh lỗi đó được khắc phục. Nếu người ta chỉ giải quyết hậu quả do lỗi đó sinh ra mà không giải quyết cái nguyên nhân gây ra lỗi thì đó không phải là lỗi bình thường nữa. Phải làm sao để trường hợp như Đại học Đông Đô không xảy ra nữa là cái mà về mặt quản lý người dân quan tâm hơn rất nhiều, so với việc giải quyết vụ việc này riêng lẻ".
Đã từ lâu, nhiều người hoạt động trong lãnh vực giáo dục đã lên tiếng cảnh báo chuyện học giả nhưng có bằng thật, bởi nhiều nhà tuyển dụng còn quá thiên về bằng cấp, họ đòi hỏi bằng cấp này, chứng chỉ kia mới tuyển dụng. Thêm vào đó là bệnh háo danh của một bộ phận trong xã hội. Họ không học nhưng lại muốn có bằng cấp cao để lòe người khác nhằm tiến thân một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.
Giáo sư Đặng Hùng Võ cho biết ông không hề ngạc nhiên khi sự việc cấp bằng giả hàng loạt ở Trường Đại học Đông Đô đổ bể. Ông giải thích :
"Thực sự tôi không ngạc nhiên với chuyện Đại học Đông Đô. Với cách thức học tập, cách thức tiếp cận bằng cấp ở Việt Nam, kể cả bảo vệ luận án thạc sĩ, tiến sĩ nó vẫn đang có cái gì đấy lệch lạc. Nó không thể đi vào học thuật, nó không thể đi vào con đường khoa học mà vẫn là cái tiêu chí để vào được cương vị này, cương vị khác, từ công ty nhỏ đến bộ máy hành chính Nhà nước. Với cách tiếp cận như vậy thì nó không cổ vũ cho việc học hành. Bây giờ phải làm sao để đừng có tiến sĩ giấy nữa mà phải là tiến sĩ thật mới có đất dụng võ".
Làm sao để tránh chuyện tương tự
Theo cơ quan điều tra, các trường hợp sử dụng văn bằng giả mạo của Trường đại học Đông Đô đều là những người có uy tín, vị trí chủ chốt trong các cơ quan, ban, ngành ; phần lớn đang làm thạc sĩ, nghiên cứu sinh. Có người là cán bộ chủ chốt của một số cơ quan ở Hà Nội, có người là giảng viên một cơ sở đào tạo đại học ngành tư pháp.
Buổi lễ cấp bằng giáo sư và phó giáo sư tổ chức tại Văn Miếu, Hà Nội ngày 24/12/2012. Ảnh minh họa.
Sau khi sự việc được truyền thông chính thức lên tiếng, cả người dân lẫn một số vị lãnh đạo lên tiếng yêu cầu công khai danh tánh 55 vị mua bằng giả của Trường Đại học Đông Đô.
Trao đổi với báo chí trong nước vào trưa 30 tháng 11, ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng, phải nêu danh tính những người gian dối đó để làm gương cho các thế hệ sau và là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những người sau này không dám làm như vậy nữa. Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học cho rằng cần phải công khai danh tính của 55 người mua bằng này, bởi đây là hành vi thách thức sự trong sạch của nền giáo dục. Nếu không xử lý nghiêm sẽ tạo ra tiền lệ rất xấu.
Trên mạng xã hội, hôm 29/11, nhà báo Nguyễn Như Phong cho biết ông có danh sách 55 vị này. Ông gia hạn nếu trong một tháng, các vị này không làm đơn xin rút ngay khỏi các chức vụ hiện có thì ông sẽ công khai danh tính từng vị. Ông cho biết sẽ chịu trách nhiệm về tính trung thực của danh sách này.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng cho rằng, nếu cơ quan có thẩm quyền mà không công khai danh tánh ‘những người có uy tín’ kia thì dư luận sẽ nổi giận và nhà nước để cho một cá nhân như ông Nguyễn Như Phong tung danh sách ra thì nhà nước đã thua ngay trên sân nhà. Tiến sĩ Hoàng Dũng nêu quan điểm của ông :
"Một trong những điều khiến cho người dân tin rằng nhà nước quyết tâm giải quyết triệt để vụ này, là những người được cho là ‘có uy tín’ bỏ tiền ra mua bằng có được công khai danh tánh hay không.
Tôi thấy không có lý do gì mà không công khai danh tánh những người này. Mà nếu họ không công khai thì người dân bắt buộc phải đặt ra câu hỏi ai đứng đằng sau 55 người này. Và 55 người này chắc chắc không phải ‘dân đen’, bởi nếu ‘dân đen’ thì đã bị trị từ lâu. Những người này chắc có chức vụ gì đó nên họ không tiện công bố. Nếu vậy thì đây là cái thể chế đứng về phía những người có chức, có quyền chứ không phải đứng về phía công lý".
Giáo sư Đặng Hùng Võ cũng đồng quan điểm khi cho rằng phải công khai danh tánh chứ không có lý do gì giấu diếm cả. Đã gian trá trong học thuật thì phải thừa nhận điều đó. Ông nói tiếp :
"Tôi cho rằng việc đầu tiên là phải xử rất nặng tất cả những người can dự vào việc man trá về học thuật này, bởi trong học thuật không thể có man trá. Đây là lừa đảo về học thuật. Phải xử gấp theo khung phạt trong BLHS không kiêng nể một ai cả để sau này không ai làm thế nữa.
Đây là việc phải làm ngay lập tức kể cả phải hy sinh mấy chục cán bộ nhà nước cấp cao thì cũng phải làm. Không có cách nào khác cả.
Tiếp theo đó là thay đổi cơ chế từ quản lý sang quản trị. Cách quản trị mềm dẻo để người dân tham gia vào giám sát tất cả mọi hoạt động, kể cả các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp lẫn các hoạt động dịch vụ công".
Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền lực nhà nước không chỉ là thống nhất, phân công, phối hợp mà còn được kiểm soát. Quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhà nước của dân nên quyền lực phải được kiểm soát. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Với nguyên tắc quyền lực thuộc về Nhân dân, thống nhất và kiểm soát trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nguyên tắc tiếp theo được khẳng định là cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phục tùng Nhân dân, giữ mối liên hệ chặt chẽ và chịu sự giám sát của Nhân dân.
Hiến pháp quy định như thế nhưng thực tế thì khác hẳn vì người dân không có chỗ nào để công bố ý kiến giám sát cả.
Thu Thủy, Thoibao.de, 27/11/2020
Bộ Công an Việt Nam hôm 25/11 đã xác định trong số 193 người được Đại học Đông Đô cấp bằng giả, có 55 trường hợp sử dụng bằng giả để bảo vệ luận án tiến sĩ.
Một bằng tốt nghiệp đại học do Đại học Đông Đô Hà Nội cấp năm 2019
Tuy nhiên 55 vị tiến sĩ bằng giả này hiện đang được giữ bí mật danh tính khiến dư luận nhiều người tỏ ý bất bình.
Được biết có nhiều vị tiến sĩ dùng bằng đại học giả này là cán bộ công chức, có lẽ đây cũng là lý do tế nhị mà báo chí và cơ quan điều tra muốn giữ kín tên tuổi chức vụ của họ.
Truyền thông nhà nước Việt Nam đồng loạt loan tin này vào cùng ngày. Được biết, trường Đại học Đông Đô chưa được Bộ Giáo dục và đào tạo cấp phép đào tạo văn bằng 2, trong đó có văn bằng 2 ngành ngôn ngữ Tiếng Anh. Tuy nhiên, từ 2015 đến 2017, lãnh đạo của trường này đã đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh hệ văn bằng 2 chính quy.
Điều đáng nói là Bộ Giáo dục và đào tạo vẫn cho phép trường này đăng tải thông báo chỉ tiêu hệ văn bằng 2 chính quy lên cổng thông tin tuyển sinh của Bộ. Truyền thông đang đặt nghi vấn liệu một số đơn vị của Bộ Giáo dục và đào tạo có "tiếp tay" cho Đại học Đông Đô trong việc cấp bằng giả hay không ?
Trong khi đó, sau khi thông báo tuyển sinh được "hợp thức hoá" trên cổng tuyển sinh của bộ, trong suốt thời gian từ 2015 đến 2017, Đại học Đông Đô đã tuyển sinh hàng ngàn học viên và cấp 626 bằng cử nhân ngôn ngữ Anh. Tuy nhiên, cơ quan điều tra chỉ tìm được 217 cá nhân có thông tin để xác minh.
Trong số này, 193 người được Đại học Đông Đô cấp bằng không qua tuyển sinh hoặc không đủ điều kiện nhưng vẫn được cấp. Toàn bộ bằng giả do ông Dương Văn Hòa (nguyên Hiệu trưởng) ký theo chỉ đạo của Trần Khắc Hùng (cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị nhà trường, đang bị truy nã).
Tuy nhiên, theo kết luận điều tra của công an thì trong số 193 bằng giả, chỉ có thông tin về trường Đại học Đông Đô thu tiền của 161 trường hợp với tổng số tiền 2,5 tỷ đồng.
Như vậy, ngoài 217 người đã được làm rõ, vẫn còn 409 cá nhân đang có bằng cử nhân được làm giả hoặc không có giá trị của Trường Đại học Đông Đô.
Những người này hiện không thể xác định là ai, đang làm việc ở đâu, sử dụng bằng hay chưa… Điều này có thể dẫn tới hệ lụy các tấm bằng không có giá trị nêu trên được chủ nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau mà không bị phát hiện.
Với 409 cá nhân chưa thể xác định, nhiều người trong số họ cũng có thể đã sử dụng văn bằng 2 của Trường Đại học Đông Đô vào các mục đích tương tự.
Đáng chú ý, để cấp bằng giả, Hiệu trưởng Trần Khắc Hùng giao Trần Kim Oanh và Lê Ngọc Hà (hai cựu phó hiệu trưởng) chỉ đạo cấp dưới tiếp nhận hồ sơ học viên, không tổ chức thi đầu vào, không đào tạo theo chương trình, đồng thời hướng dẫn học viên hợp thức các bài thi bằng cách phát đề thi và đáp án rồi chép lại. Cá biệt có trường hợp không phải hợp thức hóa bài thi.
Điều này đồng nghĩa các cá nhân được cấp bằng giả của Trường Đại học Đông Đô biết rõ bản thân họ không đủ điều kiện để cấp bằng, nhưng vẫn đồng ý phối hợp với nhà trường sử dụng các thủ đoạn nêu trên để hợp thức bài thi.
Trong số 193 bằng giả được cấp, có 60 người sử dụng bằng giả này, trong đó có 55 người sử dụng bằng để nộp hồ sơ xét tuyển nghiên cứu sinh hoặc bảo vệ luận án tiến sĩ ; 1 trường hợp thi nâng ngạch thanh tra viên, 1 trường hợp thi công chức, 2 trường hợp khai vào hồ sơ cán bộ và 1 trường hợp nộp hồ sơ xét tuyển thạc sĩ.
Tuy không công khai danh tính nhưng báo chí Việt nam cũng tiết lộ có khá nhiều cán bộ công chức đã mua bằng giả ở Đạo học Đông đô
Hiện nay 55 vị tiến sĩ dùng bằng Đại học giả này vẫn được giữ bí mật danh tính trong khi dư luận đòi hỏi được công khai tên tuổi chức vụ cũng như việc xử lý cụ thể thế nào, tuy nhiên chưa có nhà báo nào có thể tiếp cận và công bố thông tin.
Bình luận về sự việc này, nhà báo Nguyễn Tiến Tường viết trên Facebook cá nhân rằng :
"Quý vị mua dâm người mẫu các thứ, được bí mật danh tính
Con cái quý vị hối lộ nâng điểm, được bảo vệ danh tính
Quý vị léo lên máy bay nguyên thủ đi ké sang Hàn Quốc, cũng không lộ danh tính
Rồi bây giờ quý vị dùng bằng giả của đại học Đông Đô để làm tiến sĩ, quý vị cũng không bị công khai danh tính
Không ấy quý vị lên bàn thờ quốc gia ngồi rồi xong ăn gì dân cúng, chứ có đâu quốc pháp mà lại bông phèng như rứa.
Thần trên đỉnh Olympia làm bậy còn bị nhắc tên, quý vị quyền năng hơn cả họ luôn rồi !", nhà báo Nguyễn Tiến Tường nêu thái độ.
Cơ quan Công an đã kiến nghị các cơ quan chủ quản xử lý cán bộ theo quy định đối với 58 người, 2 trường hợp còn lại một người đã chết, người còn lại xin thôi không học thạc sĩ trước khi cơ quan điều tra khởi tố vụ án nên không kiến nghị xử lý.
Các bị can Dương Văn Hòa (SN 1983, Hiệu trưởng) ; Trần Ngọc Quang (SN 1962, Phó trưởng Phòng quản lý đào tạo và quản lý sinh viên) ; Phạm Vân Thùy (SN 1981, cán bộ đào tạo)
"Dấu hỏi" danh tính 55 người dùng bằng giả Đại học Đông Đô để bảo vệ luận án tiến sĩ
Nhiều người cho rằng phải công khai danh tính 55 người đã dùng bằng giả của ĐH Đông Đô phục vụ cho việc xét tuyển nghiên cứu sinh, làm luận án tiến sĩ để xem hiện nay họ công tác ở đâu, đảm nhiệm vị trí gì.
Một giảng viên đại học nêu ý kiến : "Tôi không thể tưởng tượng được khi đọc thông tin có đến 55 người dùng bằng giả cho việc xét tuyển nghiên cứu sinh hoặc bảo vệ luận án tiến sĩ.
Bằng giả tức là bằng không có giá trị, không qua học tập mà có, cũng có thể những người này không biết lấy một chữ tiếng Anh nhưng dùng tiền mua bằng để vượt qua tiêu chuẩn về tiếng Anh phục vụ cho làm nghiên cứu sinh và tiến sĩ.
Thử hỏi, một nhà khoa học nhưng đến tiêu chuẩn ngôn ngữ cũng không có, chưa nói đến việc đạo đức của người làm nghiên cứu cũng không thì họ có xứng đáng với hai từ "tiến sĩ" ?
Một người làm nghiên cứu khoa học mà gian dối thì không thể chấp nhận được. Tôi đề nghị phải công khai danh tính của những người này để dư luận biết, để thấy những con người dối trá trong làm khoa học thế nào".
Cơ cở chính trường đại học Đông Đô ở Hà Nội
"Nghiên cứu sinh và tiến sĩ mà trắng trợn mua bằng, làm giả chứng chỉ để lừa lọc thì không có đủ tư cách.
Không có lòng trung thực mà lại tham gia vào nghiên cứu khoa học để trở thành tiến sĩ rồi từng bước leo cao, tiến xa trên con đường quan trường thì thực sự những con người ấy sẽ gây nguy hại cho xã hội.
Phải công khai danh tính 55 cán bộ đã mua bằng giả để phục vụ cho việc làm luận án tiến sĩ này, xem hiện nay họ đang công tác ở đơn vị nào, đảm nhiệm vị trí gì, nếu cần thiết thì đề nghị xử lý kỷ luật và xử lý hình sự vì tội mua bán bằng giả.
Phải mạnh tay để làm tấm gương cho những tiến sĩ "rởm" có ý định mua bán bằng với mục đích làm đẹp hồ sơ, tiến thân… Làm sao có thể chấp nhận những kẻ dùng tiền để mua tri thức sau đó lại xếp ngang hàng với những trí thức thực thụ đổ mồ hôi, công sức trên giảng đường, trong các trung tâm nghiên cứu được.
Nếu không xử lý mạnh tay, để họ len lỏi vào đội ngũ tiến sĩ thật sẽ là sự xúc phạm với đội ngũ nghiên cứu khoa học nước nhà", một nhà nghiên cứu Toán (Đại học Sư phạm Hà Nội) nói.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, Hiệp hội các trường đại học, Cao đẳng Việt Nam cho rằng, về trường hợp 55 người sử dụng văn bằng 2 ngôn ngữ Anh của Đại học Đông Đô để tham gia thi tuyển hoặc làm điều kiện bảo vệ luận án tiến sĩ, cần xác định rõ những người này vô tình hay cố ý sử dụng bằng giả.
Nếu vô tình thì trách nhiệm sẽ nhẹ nhàng hơn, còn nếu là cố tình gian lận thì chắc chắn phải xử lý nghiêm, thậm chí là là tội hình sự "mua bán bằng giả" mới đủ sức răn đe.
Ông Bùi Văn Cường vẫn bí tỉnh ủy Đắc lắc vẫn tái đắc cử với 100% phiếu bầu mặc dù bị tố cáo 70% nội dung luận án tiến sĩ là sao chép
Tuy nhiên, dù là vô tình hay cố ý sử dụng bằng giả ngôn ngữ Anh để thi tuyển/làm điều kiện bảo vệ luận án tiến sĩ thì các trường đều phải vô hiệu hóa giá trị của tấm bằng này ngay lập tức.
Đồng thời, các trường nên rà soát lại toàn bộ các học viên, thạc sĩ, nghiên cứu sinh, tiến sĩ của trường đã và đang đào tạo để phát hiện thêm các trường hợp sử dụng văn bằng 2 ngôn ngữ Anh của Đại học Đông Đô.
Về tư cách của các nghiên cứu sinh, tiến sĩ sử dụng văn bằng 2 ngôn ngữ Anh giả, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến đề nghị huỷ bỏ kết quả học và thi của các cá nhân này, kể cả những người đã được các trường cấp bằng tiến sĩ. Vì gian lận không những là điều tối kị, trái đạo đức người làm nghiên cứu mà nó còn vi phạm cả tội hình sự cần xử lý theo pháp luật.
Cơ quan Công an đến làm việc với cán bộ trường
Theo luật sư Tạ Hồng Thái (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội), để xử lý 55 trường hợp sử dụng văn bằng 2 ngôn ngữ Anh giả tham gia thi tuyển/làm điều kiện bảo vệ luận án tiến sĩ, cơ quan công an điều tra phải xác định rõ và có đầy đủ bằng chứng, chứng minh 55 người này cố tình mua bán bằng giả.
Như những thông tin được công bố, có thể những người này không biết Đại học Đông Đô cấp bằng "chui" và họ vẫn đi học đầy đủ và làm bài kiểm tra bình thường. Đây là điểm cần làm rõ, luật sư Thái cho biết thêm.
Tuy nhiên, trên thực tế, không khó để chứng minh 55 người này cố tình gian lận trong việc đào tạo văn bằng 2 ngôn ngữ Anh bởi hầu hết văn bằng này đều được trường tổ chức học và thi theo dạng "chép bài, làm cho có, tất cả đều sẽ vượt qua". Luật sư Thái nhấn mạnh, những văn bằng, chứng chỉ do Đại học Đông Đô cấp không đạt yêu cầu cần thu hồi ngay lập tức.
Trên quan điểm cá nhân, luật sư Thái cho rằng, với những người sử dụng bằng giả để làm nghiên cứu sinh, là điều kiện để bảo vệ, xin cấp bằng tiến sĩ thì đồng nghĩa họ không đủ điều kiện đầu vào hoặc đầu ra của đạo tạo trình độ tiến sĩ. Do đó, cần xem xét, kiểm điểm tư cách của những người này, nếu mạnh tay thì các trường có thể thu hồi quyết định trúng tuyển nghiên cứu sinh hoặc bằng tiến sĩ.
Thu Thủy (tổng hợp)
Nguồn : Thoibao.de, 27/11/2020
Nói "sức khỏe của hệ thống chính trị" hay "sự bền vững của thể chế" là những ngôn từ có vẻ hàn lâm, học thuật, nhưng ngụ ý chính của nó theo ngôn ngữ dân gian thì chính là câu hỏi : chế độ này bao lâu thì sụp đổ và nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào.
Ảnh : Nhân dịp 75 năm ngày Quốc khánh, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (hàng đầu, thứ hai từ trái qua) tái xuất hiện ở khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 1-9 với dáng vẻ mệt mỏi và giọng nói hơi đứt quãng, di chuyển chập chững với đôi mắt luôn nhìn xuống chân vì sợ ngã, thân người lắc lư khi di chuyển như chiếc thuyền tròng trành
Đó là mối quan tâm đặc biệt của rất nhiều người Việt Nam hiện nay, nhưng vẫn chưa ai có lời giải cụ thể cho câu hỏi này.
Việt Nam vừa kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2/9/1945 -2020 với truyền thông nước này nêu ra nhiều thông điệp khác nhau, nhấn mạnh đến ổn định chính trị.
Có ý kiến nói về bài học ‘bất biến ứng vạn biến", không cần thay đổi cơ bản về thể chế, kiên định chủ nghĩa xã hội để phát triển và đảm bảo chế độ vẫn "vững mạnh".
Các báo khác thì đặt điểm nhấn vào "đoàn kết và đặt lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia lên trên hết".
Cùng lúc, theo một số nhà quan sát thì hệ thống chính trị do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo gặp thách thức về câu hỏi mô hình thể chế cũ kỹ, ‘vững vàng’ bên ngoài nhưng bên trong gặp khủng hoảng.
BBC News tiếng Việt ghi nhận ý kiến của bốn nhà bình luận từ Việt Nam và hải ngoại :
Tiến sĩ Phạm Quý Thọ - Viện Chính sách công, Hà Nội :
Chế độ tiêu biểu ở Trung Quốc và ở Việt Nam thực ra có một sức sống rất là dẻo dai, nhưng lý do rất đơn giản đó là nó duy trì một sự chuyên chế, mà thường thường là trấn áp và bạo lực, khiến cho mọi người rất là sợ phải tuân thủ. Thứ hai nữa là nó cũng linh hoạt, sau ba mươi năm đổi mới, nó luôn áp dụng những chính sách người ta gọi là ‘sai-sửa’, tức là thấy sai thì sửa và được thích nghi với tình hình mỗi khi mà bị dồn đến chân tường, thí dụ như là đói kém hoặc là khi có những tình huống cấp bách.
Sử gia Lê Văn Sinh- Đại học Quốc gia Hà Nội :
Mới trải qua 75 năm tồn tại, chế độ Việt Nam hiện thời đã lâm vào tình trạng bất ổn. Khi đánh giá " sức khỏe " chế độ, một số người trong giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhận ra chế độ bị lỗi hệ thống.
Đó là cách nói ẩn dụ, thay vì chỉ ra rằng một cuộc đổi mới chính trị bị trì hoãn đã lâu dẫn tới tình trạng này.
Nhà văn Võ Thị Hảo- tỵ nạn chính trị tại Berlin, Đức :
Tôi xin dùng hình tượng để nói chế độ hiện nay thể hiện đúng sức khỏe của một ông lão dưới 80 mặc bộ đồ complê Trung quốc, đi giày tây, có song song hai quốc tịch Việt Nam và quốc ngoại (như Cyprus chẳng hạn) để nếu có biến thì có thể sẵn sàng thoát li đi thật nhanh, để lại sau lưng mọi hậu quả.
Chế độ sau 75 năm Quốc khánh, nay mang nhiều bệnh nan y nhưng lại chối từ mọi chữa trị, trái lại lại sẵn sàng cầm dao súng đánh đuổi, bỏ tù những bác sĩ đưa ra kết quả chẩn bệnh và thuốc thang cứu mạng cho thể chế này.
Ông Trần Tiến Đức- cựu Vụ trưởng, Hà Nội :
Kỷ niệm ngày độc lập, theo thiển ý của tôi, chế độ này vẫn còn đang vững vàng, chưa có gì đe dọa sự tồn vong của chế độ này, tuy nó gặp khá nhiều khó khăn và thách thức kể cả về đối nội và đối ngoại.
Về đối nội, thách thức lớn nhất là thể chế chính trị chưa được đổi mới cho sự đổi mới về mặt kinh tế, chưa phù hợp với xu thế của thời đại mà đổi mới về kinh tế, nước Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986. Nếu nói một cách hình tượng, cái áo thể chế hiện nay đã quá chật đối với một nền kinh tế thị trường đang phát triển và cần phát triển.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói chuyện tại khu di tích chủ tịch Hồ Chí Minh
Về đối ngoại, Việt Nam nằm sát một ông láng giềng khổng lồ mạnh về kinh tế và quân sự, lại có nhiều tham vọng lớn về quyền lực, về lãnh thổ, luôn không từ một thủ đoạn nào để phá hoại, để gây rối, và có nhiều hành vi xâm phạm chủ quyền đối với nước Việt Nam.
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn- Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam nói : "Theo tôi, chế độ này đang ở vào giai đoạn cuối của chu kỳ tự nhiên "sinh-lão-bệnh-tử".
Xét cho cùng, sức khỏe của một thể chế cũng không khác gì so với sức khỏe con người. Liên Xô và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu là những ví dụ sinh động. Một loạt các nước Mỹ Latinh cũng đã rơi vào trường hợp đó. Câu chuyện của Việt Nam hiện nay liên quan cả đến đối nội và đối ngoại. Một cơ thể già nua tất sẽ sinh nhiều bệnh tật.
Về các ưu, khuyết điểm chính của mô hình thể chế hiện nay tại Việt Nam ?
Nhà văn Võ Thị Hảo : Tôi cho rằng chế độ hiên nay có khả năng ứng phó và triệt tiêu đối lập để nắm quyền lực tuyệt đối, biết biến hệ thống quyền lực thành hệ thống kiếm tiền bằng quyền lực để neo giữ những nô bộc trung thành. Đảng cộng sản và các cá nhân trong hệ thống chính trị ban đầu là quyền lực tách biệt với kinh tế, nay đã ngày một trở thành tập đoàn tham nhũng và lợi ích nhóm có được từ quyền lực vẫn mang danh xã hội chủ nghĩa.
Người dân dưới chế độ, thời gian đầu dù rất nghèo và chiến tranh nhưng còn đươc hưởng giáo dục và y tế miễn phí nhưng về sau, Đảng và nhà nước cộng sản ngày một tỏ ra chối từ hoặc suy giảm trách nhiệm điều hành phúc lợi và thuế để lo an sinh xã hội cho dân, mặc cho dân phải hết sức chật vật, nhiều người lâm vào cảnh khốn cùng, giàu nghèo quá cách biệt.
Biếm họa xuất hiện trên mạng xã hội sau sự kiện VTV miệt thị gánh hàng rong là ký sinh trùng, ngược lại cư dân mạng chỉ đích danh các đảng viên cộng sản mới là ký sinh trùng của chế độ
Nữ đạo diễn Song Chi đưa ra nhận định rằng : "Có nhiều con đường để đi, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam kiên quyết lựa chọn con đường tệ hại nhất".
"Với "bề dày" 75 năm cầm quyền trên miền Bắc và 45 năm độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc, Đảng cộng sản chắc chắn không bao giờ muốn thay đổi vì như thế là từ bỏ quyền lực, vấn đề là 95, 96 triệu người dân sẽ chịu đựng tới bao giờ"-Đạo diễn Song Chi nêu ý kiến.
Vậy thì, Chế độ cộng sản Việt Nam sẽ tồn tại bao lâu nữa ? đó là câu hỏi mà nhiều người quan tâm và cũng là tựa đề một bài viết của báo Đàn Chim Việt với những phân tích như sau :
Chế độ cộng sản Việt Nam đã thuần hóa được dân tộc sau hơn 45 năm cai trị cả nước bằng chủ nghĩa độc tài, toàn trị. Do bị tuyên truyền, nhồi sọ, không được phép suy nghĩ, có tư duy độc lập ngay từ lúc mới chào đời, đa số người dân kể cả thành phần trí thức, có học sống theo sự điều khiển, giật dây của chế độ một cách vô thức. Số đông nhân dân đã nhận thức được sự toàn trị gian ác của cộng sản nhưng vì an nguy bản thân, gia đình cũng đành im lặng sống qua ngày hoặc tệ hại hơn a dua theo để hưởng lợi.
Chế độ cộng sản với khoảng 4, 5 triệu đảng viên gồm quân đội, công an, cán bộ chính quyền, dân phòng, dư luận viên… cùng với thân nhân, gia đình, những kẻ ăn theo, giai cấp trung lưu buôn bán… phỏng đoán tổng cộng có thể lên đến 20 triệu người hoặc hơn.
Lực lượng này chắc chắn không (hoặc chưa) muốn thay đổi chế độ khi họ vẫn còn có thể kiếm ăn, làm giầu trong tình trạng hiện tại, cho dù nhiều người trong họ cũng thấy được sự bấp bênh và chịu nhiều chèn ép, áp bức trong cuộc sống.
Tranh cổ động ngành Công an treo giữa thủ đô Hà nội với câu "Công an nhân dân, Chỉ biết còn đảng còn mình"
Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng nhất là Việt Nam nằm sát bên cạnh Trung quốc, một đất nước với hơn 1,4 tỉ người, lúc nào cũng muốn đặt ách đô hộ lên VN, họ tìm đủ mọi cách để buộc lãnh đạo cộng sản Hà Nội phải lệ thuộc hoàn toàn vào họ.
Như vậy tương quan lực lượng là 20/74 triệu (trên tổng số dân là 94 triệu) tức gần như 1 chống 4.
Tuy nhiên, phe thuộc chế độ dù là thiểu số nhưng mạnh hơn về vũ khí, trang bị, liên kết (tạm thời) chặt chẽ hơn với nhau về quyền lợi, lại được lãnh đạo rõ ràng. Phe của người dân, dù đông hơn gần 4 lần nhưng vũ khí chỉ là lòng căm thù, thiếu hẳn sự đoàn kết, của một tổ chức chặt chẽ, đủ lớn mạnh để đối phó với chế độ Cộng sản.
Một cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam từ những cuộc biểu tình với sự tham dự của hàng trăm ngàn người ở các thành phố lớn như Sàigòn, Đà Nẵng, Hà Nội sẽ không bao giờ xẩy ra.
Từ những nhận định trên, cho thấy rằng chế độ cộng sản Việt Nam chỉ sụp đổ khi một trong các biến cố dự đoán sau đây trở thành hiện thực :
Một là, một biến động quốc tế ở Biển Đông đẩy hai nước Mỹ-Trung quốc, do xung đột về kinh tế, vừa là thù vừa là bạn vào một cuộc chiến tranh quy ước, kéo theo các nước Nhật, Nam Hàn, Úc, Đài Loan, Việt Nam… vào tham chiến.
Chế độ cộng sản Việt Nam lúc đó bắt buộc phải chọn đứng về một phía, theo Trung quốc hoặc Mỹ. Dù đứng về phía nào thì chế độ cộng sản cũng sụp đổ.
Trong một phát biểu về tình hình Biển Đông hôm 26/4/2020 trên kênh Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói : "Những lúc như thế này chúng ta sẽ biết ai là bạn, ai là bạn thân thiết, ai là người mà chỉ là đối tác. Những lúc như thế này mới thấy rằng khi đất nước mình gặp khó khăn, thì những ai sẽ đến với chúng ta". Từ sau sự kiện Bãi tư chính năm 2019 đến nay thì chỉ có Hoa kỳ là lên tiếng mạnh mẽ nhất ủng hộ Việt Nam.
Hai là, việc "tự diễn biến, tự chuyển hóa" trong đảng cộng sản xẩy ra mạnh mẽ, dữ dội, nhanh chóng hơn khi tài nguyên đất nước cạn kiệt không còn gì để bán, ngân sách trống rỗng, không còn tiền trả lương cho công an, quân đội, dân phòng, dư luận viên… đất nước tan hoang vì các dự án phá hoại môi trường nằm trong âm mưu của Trung quốc trong giai đoạn cuối đang được ồ ạt triển khai. Hàng loạt cán bộ lãnh đạo trung, cao cấp của chế độ sẽ tháo chạy trong tương lai.
Khi chiếc bánh tài nguyên đất nước càng ngày càng nhỏ, số người ăn càng lúc càng đông, các lãnh đạo cộng sản mới lên sau này bắt buộc phải tranh giành, tìm cách cướp lại những gì các người đi trước đã tham nhũng, hối lộ, rút ruột công trình trong mấy chục năm qua. Đó cũng chính là lý do giới tư sản trung lưu hiện đang bị dòm ngó tài sản, nay mai chắc chắn sẽ bị hỏi tội, bằng chứng đầu tiên là vụ đánh thuế hồi tố các doanh nghiệp buôn bán xe hơi với những xe bán sau ngày 01/07/2016.
Ba là, Đảng cộng sản Trung quốc bị phân hóa và sụp đổ do sự tranh giành quyền lực, thanh toán nhau giữa các lãnh đạo cao cấp nhất, khi đó chế độ cộng sản Việt Nam tức khắc tan vỡ theo vì mất chỗ dựa về kinh tế và chính trị, biến loạn xã hội sẽ xẩy ra, máu sẽ đổ. Công an, quân đội sẽ rã ngũ. Một cơn đau khổ và mất niềm tin tột cùng sẽ dẫn đến một thể chế dân chủ tự do mới ra đời".
Đó là dự báo của trang Đàn Chim Việt từ cuối tháng 1/2017, nhưng có vẻ như kịch bản này đang từng bước xảy ra cùng với những biến chuyển ở Việt Nam và trên toàn thế giới xuất phát từ đại dịch virus Cúm Vũ Hán và những biến động từ mối quan hệ Trung quốc đối với Mỹ, Nhật Úc và Tây âu. Cũng như những thay đổi cơ bản liên quan đến thế trận trên Biển Đông, và từ Hong kong đến Đài loan và Ấn độ. Chúng ta hãy chờ xem.
Hoàng Trung
Nguồn : Thoibao.de, 07/09/2020
Mỗi ngày qua đi là thêm một ngày nhà nước cộng sản Việt Nam mất chủ quyền và không có đồng minh ở Biển Đông. Bằng chứng này đang xảy ra từ khi Trung Quốc đem tàu khảo sát dầu khí Hải Dương 8 (HD-8), có các tàu Hải quân và Hải giám võ trang hộ tống vào tìm dầu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời đe dọa dự án đào dầu chung giữa Việt Nam-Nga và Ấn Độ ở khu vực bãi Tư Chính, cách Vũng Tàu khoảng 370 cây số hướng đông nam.
Tàu khảo sát dầu khí Hải Dương 8 (HD-8), có các tàu Hải quân và Hải giám võ trang hộ tống vào tìm dầu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã nhiều lần phản đối Trung Quốc và đòi rút HD-8 và các tàu hộ tống, nhưng Trung Quốc không chỉ làm ngơ mà còn tự ý ra vào vùng biển của Việt Nam, có lần chỉ cách Bình Thuận 185 cây số, như vào sân nhà mình.
Lực lượng Cảnh sát biển và Hải quân Việt Nam đã hiện diện để một mặt theo dõi hoạt động của HD-8, mặt khác bảo vệ các giàn khoan dầu của mình. Tuy nhiên thông tin về các hoạt động của đôi bên không được loan báo nên không ai biết diễn biến ra sao.
Năm 2014, Trung Quốc đã đem giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (200 hải lý tính từ bờ biển) để tìm dầu. Vị trí này cách đảo Lý Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi, khoảng 120 Hải lý, hay lối 220 cây số, về hướng đông, và đứng nguyên ở đó từ ngày 01/05/2014 đến ngày rút lui 16/07/2014, vì vào thời điểm này Trung Quốc chưa tân tạo xong thành đảo bãi đá Chữ Thập.
Nên biết sau cuộc tấn công chiếm đóng và thảm sát 64 quân sĩ Việt Nam ở Gạc Ma (Johnson South Reef), Trường Sa, ngày 14/03/1988, Trung Quốc đã chiếm thêm các đá Châu Viên (Cuarteron Reef), Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Tư Nghĩa (Hughes Reef), Vành Khăn (Mischief Reef) và Xu Bi (Subi Reef).
Sau đó, Trung Quốc đã tân tạo các vị trí chiếm đóng thành đảo nhân tạo với sân bay, bến cảng, trại đóng quân, hệ thống phòng không, radar và một số đài khí tượng và hải đăng
Vì vậy lần này HD-8 tự ý rút khỏi Tư Chính lần thứ nhất ngày 07/08/2019 về nghỉ ngơi và nhận tiếp liệu ở Bãi Chữ Thập ở phía bắc rồi quay lại Tư Chính ngày 13/08/2019. Sau đó HD-8 lại lần mò vào sâu trong vùng biển Bình Thuận rồi lại trở về Tư Chính.
Các tàu võ trang hộ tống của Trung Quốc đi theo HD-8 cũng đã thay phiên nhau quay về Chữ Thập để lấy tiếp liệu rồi lại quay xuống Tư Chính mà không bị tàu Việt Nam ngăn cản.
Khả năng Chữ Thập
Vị trí của Chữ Thập do đó đã biến thành điểm cầu nối chiến lược quan trọng giữa Tư Chính và căn cứ Hải quân và tàu ngầm của Trung Quốc ở đảo Hải Nam ở phía bắc, trong khoảng cách ngót 2.000 cây số.
Vậy Trung Quốc đã biến đá Chữ Thập thành căn cứ quân sự như thế nào ?
Báo Thanh niên viết :
"Tính đến tháng 5/2015, đảo nhân tạo đã có diện tích khoảng 280,3 ha với chiều dài khoảng 3.700 m (rộng nhất 1.100 m, hẹp nhất 60 m) và hồ nhân tạo ở phía đông bắc diện tích khoảng 52 ha với luồng dẫn vào dài khoảng 700 m, rộng 270 + 300 m.
Đến nay, căn cứ Chữ Thập đã hoàn tất với cụm 7 nhà lớn ở khu vực trung tâm (cao 5-6 tầng) và 30 công trình nhà trung bình, nhỏ khác ; 1 đường băng sân bay dài hơn 3.000 m, rộng 50 m phục vụ các loại máy bay vận tải dân dụng, quân sự, du lịch loại nhỏ cất hạ cánh ; các đài chỉ huy không lưu, tháp ra đa không lưu và khoảng 30 nhà chứa máy bay dọc đường băng...
Ngoài ra, căn cứ này còn có các công trình hiện đại như: tháp hải đăng, tháp điều độ cảng, tháp viễn thông (thu phát sóng 4G), tháp ra đa đối không - đối hải, hệ thống liên lạc vệ tinh, sân vận động trung tâm, trạm quan trắc hải dương, trạm lọc nước biển, bệnh viện tiêu chuẩn cấp 2.
Đặc biệt, tại đá Chữ Thập, phía Trung Quốc xây dựng hệ thống công trình ngầm rất lớn và 9 cầu tàu đảm bảo đón nhận tàu trọng tải hàng vạn tấn...
Do là căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất ở Trường Sa nên phía Trung Quốc triển khai nhiều hệ thống, phương tiện bảo vệ. Các tàu thuyền nào vào gần đá Chữ Thập 12 hải lý đều bị xua đuổi, ngăn cản quyết liệt" (Thanh Niên, 13/06/2019).
Trong khi đó, theo Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở) thì : "Từ năm 2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo mở rộng đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) thành đảo nhân tạo lớn nhất quần đảo Trường Sa, có diện tích 2,74 km2 (tính đến tháng 7/2015) với tổng kinh phí hơn 73 tỉ nhân dân tệ (11,5 tỉ USD)"…
Wikipedia viết thêm :
"...Đặc biệt là việc xây dựng một đường băng dài 3.125m và rộng 60m, là đường băng duy nhất đủ lớn cho máy bay ném bom chiến lược tại Trường Sa, cho phép quân đội Trung Quốc bao quát không phận rộng lớn từ Tây Thái Bình Dương gồm cả Guam (nơi có các căn cứ của Mỹ) đến Ấn Độ Dương. Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ (PACOM), Đô đốc Harry Harris, cho biết hiện các vỉa đá ngầm mà Trung Quốc chiếm giữ và xây dựng trái phép ở Biển Đông nhìn giống hệt các căn cứ cho máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, tàu và hoạt động do thám".
Như vậy, rõ ràng Trung Quốc đã sử dụng Chữ Thập qua vụ Tư Chính như một "phép thử" cho khả năng quân sự để đe dọa an ninh Biển Dông và riêng Việt Nam ở phía cực nam của hình Lưỡi bò tự vẽ của Bắc Kinh nhằm dành chủ quyền 90% của diện tích trên 3 triệu cây số vuông ở Biển Đông.
Ngậm miệng ăn tiền ?
Vì vậy, khi tình hình Tư Chính, sau hơn 2 tháng HD-8 và các tàu quân sự của Trung Quốc ra vào biển đảo của Việt Nam như đi chợ mà không thấy Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng hành động gì thì rất nhiều thức giả, trong và ngoài nước, đã bắt đầu hoài nghi về khả năng đối phó với Bắc Kinh của ông Trọng và của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đã có nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ cộng sản Việt Nam phải cương quyết bảo vệ chủ quyền bằng mọi giá và phải dứt khoát một lần với Trung Quốc, thay vì "đại cục", theo ý muốn của Trung Quốc, mà để bị nắm tóc phục tùng.
Một số bài viết của những người nổi tiếng như các ông Hà Sĩ Phu, nguyên Đại sứ Nguyễn Trung, Giáo sư Chu Hảo, Giáo sư Tương Lai, Giáo sư Nguyễn Đình Cống v.v... đã kêu gọi lãnh đạo đảng và nhà nước hãy can đảm "vượt qua chính mình" và đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên quyền lợi của đảng và quyền lợi của cá nhân để thoát vòng nô lệ phương Bắc.
Trong số góp ý này, cũng đã có yêu cầu Việt Nam đưa vụ Tư Chính ra trước Liên Hợp Quốc, rồi sau đó, ra trước Tòa án Trọng tài Quốc tế, nếu cần, như Phi Luật Tân đã làm năm 2016. Nhưng xem ra, sau lưng hậu trường, các đào kép lãnh đạo, đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng, đã bị nhóm "tư tưởng bàn đèn" trong Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo níu áo ghìm lại, sợ phản ứng bất lợi của Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Trung Quốc.
Vì vậy, lần đầu tiên, ông Vũ Ngọc Hoàng, cựu Phó trưởng ban thường trực, Ban Tuyên giáo trung ương, cựu Ủy viên trung ương đảng đã viết bài tâm huyết nói thẳng với lãnh đạo đảng và nhà nước về vụ Tư Chính.
Ông viết :
"Âm mưu của Trung Quốc về việc cưỡng chiếm Biển Đông của Việt Nam đã có từ lâu. Âm mưu đó có nguồn gốc từ bản chất Đại Hán của đế chế Phương Bắc này.
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, đến nay cảm thấy đủ điều kiện nên họ đang quyết tâm thực hiện một bước nhảy vọt đáng kể để thực hiện âm mưu này.
Việc tàu Trung Quốc vào ra vùng biển chủ quyền của Việt Nam vài tháng nay không phải là một cuộc "dạo chơi" mà là một bước leo thang ngoạn mục.
Thế mà phía Việt Nam ta cũng có ý kiến cho rằng "nó vào rồi nó ra chứ đã làm được gì đâu". Nghĩ vậy thật đơn giản và thơ ngây quá ! Nó vào rồi nó ra, nó ra rồi nó lại vào. Nó muốn vào thì vào, muốn ra thì ra, vào nhà người ta mà cứ nhà của nó.
Một đất nước có chủ quyền mà sao có thể chịu vậy. Kiểu này thì có ngày nó bảo "hai nhà là một", nhập chung thôi, rồi lấy tiếng Trung làm tiếng phổ thông vì đại đa số dân chúng đang nói thứ tiếng này. Thế là nó hoàn thành âm mưu thôn tính và đồng hóa, đạt mục đích mà hơn 4000 năm nay họ chưa làm được. Thật nhẹ nhàng, ít tốn công tốn sức.
Biển của Việt Nam mà họ bảo của họ, yêu cầu cùng khai thác. Theo luận điệu đó thì Việt Nam mất biển. Mà mất Biển Đông là mất nước. Phần còn lại nhỏ hẹp, không gian sinh tồn của dân tộc mất đi hơn một nửa, lục địa bị bao vây tứ bề, phần tài nguyên khoáng sản lớn và quý giá nhất bị cướp hết, không còn cửa để ra đại dương - cái mà rất nhiều quốc gia đều cần đến để thành cường quốc, hàng không cũng mất tự do, con cháu muôn đời sẽ bị o ép và lệ thuộc họ đủ điều, mất lần này là mất hẳn, mãi mãi không bao giờ đòi lại được, niềm tự hào về lịch sử bất khuất của một dân tộc văn hiến cũng sẽ mờ nhạt và bị tan biến, đất nước anh hùng chỉ còn lại một cái xác như một mảnh nhỏ vô hồn, một dân tộc sẽ mãi tụt hậu, tủi nhục và đau đớn".
Do đó, ông Hoàng nhấn mạnh :
"Vào lúc này công việc lớn lao nhất, quan trọng nhất, hơn bất cứ thứ gì, là bảo vệ Đất nước, trước mắt là Biển Đông. Tổ Quốc trên hết! Có thể đình hoãn nhiều việc khác, kể cả việc quan trọng, để tập trung suy tính kỹ cả chiến lược, sách lược và giải pháp cụ thể (đừng chủ quan nói đã tính kỹ hết rồi). Đây mới chính là "đại cục" chứ còn cái đại cục gì nữa? Đây là nội dung quan trọng nhất và là cốt lõi, chính yếu của Đại hội lần nầy, chứ không thể nội dung nào hơn được.
Đây là phương hướng và quan điểm để chọn nhân sự chứ không có bất cứ tiêu chí gì quan trọng hơn vào lúc vận mệnh đất nước như thế này. Theo đó, tiêu chí đầu tiên để chọn cán bộ lãnh đạo các cấp các ngành là thái độ rõ ràng, mạnh mẽ và tư duy mạch lạc trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia ở Biển Đông".
Phản ứng trong nước về phát biểu của ông Hoàng có nhiều, nhưng đáng chú ý nhất là những câu chữ của Giáo sư Chu Hảo, cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nhà bất đồng chính kiến ra khỏi Đảng cộng sản Việt Nam.
Ông Hảo viết :
"Chắc chắn đã có "một bộ phận không nhỏ" trong giới cầm quyền cản trở việc tháo gỡ các nút thắt này, nên lãnh đạo Việt Nam mới lúng túng và chần chừ đến như vậy. Có một Trần Ích Tắc dân tộc đã khổ, nếu có một bầy Trần Ích Tắc thì nhân dân ta khó lòng giữ được truyền thống quật cường, không khuất phục của Dân tộc ta đã được hun đúc từ khi dựng Nước. Họa mất Nước đang đe dọa dân ta ! Phải vạch mặt bọn Trần Ích Tắc này, đừng sợ !
...Nếu Dự án Đường cao tốc Băc Nam lại chủ yếu rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc thì liệu chừng ta không chỉ mất Biển mà còn mất nốt cả Đất. Đường về nô lệ đang hiển hiện, phải cùng nhau góp sức làm cho toàn dân thấy rõ nguy cơ này, đừng sợ !".
Quá khứ ông Trọng
Riêng ông Nguyễn Phú Trọng thì bài học Hải Dương 981 đã để lại bản lĩnh ù lì của ông, khi ông tự khoe với cử tri Hà Nội ngày 08/12/2015.
Ông nói :
"Trên Biển Đông, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế dẫn đến hàng hoạt vấn đề bất ổn.
Tuy nhiên, về đại thể, Việt Nam vẫn giữ được ổn định, an sinh xã hội thậm chí được cải thiện ; đường sá xây mới, nhiều trung tâm lớn, nhiều cao ốc mọc lên... Năm 2015, GDP ước đạt 6, 5%, vượt mức đề ra.
Các bác thấy vấn đề Biển Đông chúng ta giải quyết như thế có đúng không ? Chuyện Biển Đông, càng ngày càng thấy tính đúng đắn của hướng giải quyết, vẫn đảm bảo được môi trường ổn định, hoà bình để phát triển.
Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không ?" (Đại hội đảng XII năm 2016).
Ông khoe tiếp :
"Ta xử lý mối quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật... vừa qua như thế hợp lý không ? Để đảm bảo độc lập tự chủ, chơi với mọi nước nhưng không phụ thuộc vào ai mà các nước ta quan hệ, hợp tác đều phải nể trọng như vậy".
Nhưng tình hình HD-981 năm 2014 khác với HD-8 năm 2019. Ông Trọng chắc phải biết như thế, nhưng ông lại sợ có đồng minh để đương đầu với cáo già Tập Cận Bình.
Từ khi lên cầm quyền năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh là người trung thành với Bắc Kinh để Đảng cộng sản Việt Nam được tồn tại bằng mọi giá. Ông Trọng sẽ không thay đổi vì ông không có can đảm "vượt qua chính mình" để ngẩng mặt nhìn vào tương lai.
Do đó, ông rất khó để có đồng minh và sẽ mãi mãi là người cô đơn trong tư duy của một nhà độc tài.
Phạm Trần
(19/09/2019)
Sai lầm lớn là cho rằng chỉ cần đồng ý với nhau trên những vấn đề cụ thể và bắt tay nhau hành động. Sự thực là người ta không bao giờ có thể liên tục đồng ý trên những vấn đề cụ thể bởi vì chúng gần như luôn luôn có thể có những giải đáp khác nhau. Do đó nếu tình cờ người ta đồng ý trên một mục tiêu cụ thể nào đó thì tháng sau sẽ không đồng ý trên một vấn đề cụ thể khác, và chia tay. Đồng thuận trên một tư tưởng chính trị khiến người ta không có những suy nghĩ quá khác nhau trên những chọn lựa cụ thể và do đó có thể hiểu nhau và thỏa hiệp với nhau ngay cả khi không đồng ý.
Cuộc vận động dân chủ sắp có một cơ hội rất lớn không nên để lỡ.
Từ hai tháng nay chúng ta đã bước vào năm thứ 45 từ ngày Đảng cộng sản ngự trị trên cả nước. Dịp kỷ niệm ngày 30/04/1975 năm nay hơi khác với những năm trước ở chỗ ít ai còn đặt ra một câu hỏi quan trọng, rất quan trọng, quan trọng nhất nếu không phải là duy nhất cho những ai mong muốn điều mà cả nước đều muốn, nghĩa là dân chủ. Có lẽ vì sau quá nhiều lần đặt câu hỏi người ta tưởng là đã có câu trả lời, một câu trả lời đau nhức mà người ta không muốn nghe lại nữa.
Câu hỏi đó là : "Tại sao đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ có tầm vóc ?". Nó đi đôi với và hầu như cũng là câu trả lời cho một câu hỏi khác : "Tại sao sau gần nửa thế kỷ được áp đặt lên cả nước chế độ cộng sản vẫn còn tồn tại dù đã thất bại hoàn toàn trên mọi phương diện, trong tất cả mọi địa hạt và theo tất cả mọi tiêu chuẩn ?".
Chúng ta tưởng là đã có câu trả lời, nhưng thực ra đã có chưa ? Hay chỉ vì không dám thẳng thắn trả lời chúng ta đã dừng lại ở những câu trả lời phiến diện, loanh quanh và nhàm chán – như thiếu lãnh đạo, ai cũng muốn lãnh đạo dù không có những khả năng cần có của một người lãnh đạo v.v.- rồi với thời gian tưởng rằng mình đã hiểu. Câu trả lời không giản dị như nhiều người có thể nghĩ. Nó là một câu hỏi không phải chỉ đặt ra cho lý luận mà còn đặt ra cho lương tâm, không phải chỉ đặt ra cho dân tộc mà còn cho mỗi người. Một câu hỏi mà người ta chỉ có thể hy vọng trả lời đúng nếu đồng thời cũng thực tình muốn đóng góp giải quyết.
Với những ai dám chấp nhận sự đau nhức của một câu trả lời thẳng thắn tôi xin góp một vài ý kiến của một kẻ đã đấu tranh chính trị từ hơn một nửa thế kỷ qua và đã trăn trở nhiều trong cố gắng đóng góp xây dựng một tổ chức dân chủ.
Ba lý do đến từ lịch sử
Có ba lý do chính khiến chúng ta vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ mạnh.
Lý do thứ nhất là chúng ta, người Việt Nam, rất thiếu văn hóa tổ chức, rất thiếu khả năng hợp tác để hành động có tổ chức.
Điều này hầu như ai cũng đồng ý vì nó quá hiển nhiên. Không thiếu trường hợp các tổ chức chính trị cũng như ái hữu tan vỡ vì những xung khắc vớ vẩn, người ta tranh giành quyền lực ngay cả trong những tổ chức không có một tầm quan trọng nào. Các hội ái hữu cựu học sinh một trường trung học hay các hội đồng hương mà hoạt động chính là tổ chức vài năm một lần một bữa cơm thân mật cũng có thể tan vỡ vì những tranh chấp vô lý. Tuy vậy rất ít ai ý thức được rằng thực trạng này rất nghiêm trọng và chúng ta phải khắc phục với tất cả quyết tâm.
Khả năng cốt lõi của giống người, khiến loài người thống trị được mọi loài vật không phải là trí khôn, sức khỏe, sự nhanh nhẹn và khéo léo của cơ thể hay các giác quan, hay ngay cả khả năng thích nghi với môi trường chung quanh, mà là khả năng hợp tác một cách uyển chuyển để tạo ra các tổ chức phù hợp với tình huống. Một người không là gì cả nếu phải đương đầu với một con voi hay một con cọp nhưng một trăm người chắc chắn sẽ chế ngự được cả một trăm con voi lẫn một trăm con cọp. Lý do là vì các loài vật hoặc không biết tổ chức (như những con đại bàng), hoặc chỉ biết hợp thành những nhóm nhỏ (như những con sư tử), hoặc các đàn lớn nhưng cứng nhắc theo bản năng sẵn có và không thể thay đổi cơ cấu để thích nghi với hoàn cảnh (như những đàn ong, đàn kiến).
Trình độ tiến hóa và văn minh của một dân tộc trước hết biểu lộ qua khả năng kết hợp thành tổ chức. Tôi đã sống và làm việc khá lâu và có may mắn được đi thăm nhiều nước, quan sát nhiều dân tộc và tiếp xúc với nhiều người trên mọi lục địa để có thể kết luận chắc chắn rằng trí khôn quan trọng nhất của một con người cũng như của một dân tộc là biết cách hợp tác để làm việc có tổ chức. Thiếu khả năng này là chưa thông minh và chưa văn minh. Những kinh nghiệm này cũng cho tôi một nhận xét đáng buồn là tuy kiến thức có thể cao hơn nhưng khả năng kết hợp của người Việt chỉ ngang hàng với các dân tộc Châu Phi Da Đen và Châu Mỹ La Tinh.
Và đó chỉ là so sánh dân tộc Việt Nam nói chung với các dân tộc khác chứ trí thức Việt Nam thì rất không bình thường. Thí dụ có những người dân chủ viết những bài tham luận khẳng định rằng muốn đấu tranh cho dân chủ thì phải có tổ chức, giảng giải về sự cần thiết của tổ chức, khuyên người khác nên dẹp cái tôi của mình để tham gia vào một tổ chức nhưng chính mình lại không tham gia và cũng không có ý định tham gia hay thành lập một tổ chức nào cả mà không hề thấy mâu thuẫn.
Tại sao ? Ảnh hưởng của Khổng Giáo không quan trọng bằng di sản của lịch sử khiến chúng ta thiếu văn hóa tổ chức và khả năng kết hợp. Phải hiểu lịch sử để hiểu lý do. Chúng ta đã là nạn nhân của một cách viết sử đặt tự ái dân tộc lên trên sự chính xác. Chúng ta nhắc đi nhắc lại rằng mình có bốn ngàn năm văn hiến, có trống đồng làm chứng cho một nền văn minh cao. Nhiều người, như Kim Định, còn nói người Trung Quốc chỉ học ở người Việt, rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa tinh hoa và lâu đời bậc nhất. Rồi chúng ta tự mãn và định cư trong sự sai lầm. Sự thực trái hẳn.
Do điều kiện địa lý tổ tiên ta, cũng như các dân tộc Đông Nam Á nói chung, đã chỉ bắt đầu được khai hóa từ khi tiếp xúc với hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, từ hai thế kỷ trước công nguyên. Trước đó chúng ta chỉ là những bộ lạc bán khai. Một bằng chứng là không có vết tích của các tập trung lớn để một nền văn minh có thể xuất hiện. Một bằng chứng khác là ngôn ngữ của chúng ta chỉ có những từ cụ thể, tất cả những từ ngữ và khái niệm trừu tượng chuyên chở tư tưởng và ý kiến đều được du nhập từ tiếng Hán. Không quá nếu nói rằng văn hóa Trung Hoa, và Ấn Độ ở phía Nam, đã giúp chúng ta bắt đầu văn minh. Những người đặt những viên đá đầu tiên cho đất nước Việt Nam –Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, Đào Hoàng, Lý Bôn, Khúc Thừa Dụ v.v.- đến từ Trung Quốc. Hai triều đại lớn đầu tiên của chúng ta –nhà Lý và nhà Trần- cũng đều do những người di dân Trung Quốc. Ngay gần đây, nửa thế kỷ trước, những người Trung Hoa đói khổ tha phương cầu thực chỉ sau một thời gian ngắn đã nắm gần hết kinh tế Việt Nam. Chúng ta chưa đủ văn minh và vì thế chưa có khả năng kết hợp của nhiều dân tộc khác.
Tuy nhiên nói như vậy không phải để tuyệt vọng và chán nản mà ngược lại để có hy vọng và niềm tin. Có thể nói trước công nguyên, khi bắt đầu tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, chúng ta chậm trễ khoảng 4.000 năm so với thế giới văn minh lúc đó về ý thức tổ chức và khả năng kết hợp ; đầu thế kỷ 16 khi người phương Tây đến, chúng ta chỉ còn chậm trễ khoảng 2000 năm. Hiện nay chúng ta còn chậm trễ khoảng 50 năm. Chúng ta đã tiến rất nhanh mặc dù những trở ngại lớn : văn hóa Khổng Giáo rồi chế độ cộng sản, cả hai đều ngăn cấm các kết hợp của xã hội dân sự. Chúng ta cần cố gắng hơn nữa nhưng không cần phải bi quan.
Gần đây nếu nhìn kỹ thì cũng có thể thấy chúng ta đã tiến những bước rất dài. Cuộc tranh đấu giằng co của xã hội Việt Nam để tự cởi trói trong hơn 40 năm qua đã có tác dụng ngày càng mở rộng thêm không gian tự do và chúng ta hiện đã đạt tới tình trạng mà một kết hợp giữa những người dân chủ trong nước có thể hình dung được, dĩ nhiên với những thận trọng cần thiết. Văn hóa tổ chức ngày càng được phản ánh trong các suy nghĩ và phát biểu. Chỉ vài năm trước còn có rất nhiều nhân sĩ thản nhiên nói rằng mình không tham gia một tổ chức nào cả và coi đó như một vinh dự. Bây giờ trái lại ít ai còn chối cãi rằng đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Trí tuệ Việt Nam đã được khai thông. Vấn đề chỉ là làm thế nào để nhanh chóng biến ý thức thành phản xạ. Muốn như vậy phải nhìn nhận văn hóa tổ chức như là văn hóa cao nhất và cần nhất, khả năng sinh hoạt trong một tổ chức là khả năng phải được trân trọng nhất trong một con người. Tiêu chuẩn để đánh giá một người đấu tranh chính trị phải là người đó đã đóng góp xây dựng tổ chức nào và với kết quả nào.
Lý do thứ hai là người Việt Nam rất thiếu, quá thiếu, kiến thức chính trị.
Chúng ta không thấy được điều này chỉ vì chúng ta quá kém để thấy được là mình kém. Đây cũng chủ yếu là di sản của văn hóa Khổng Giáo, một qui luật sống của kẻ nô lệ được tôn lên thành một đạo lý. Hơn nữa Khổng Giáo mà chúng ta tiếp thu và độc tôn cho tới cuối thế kỷ 19 lại chỉ là Khổng Giáo từ đời nhà Đường về trước, nghĩa là một Khổng Giáo xưa cũ trong đó các nho sĩ trúng tuyển các khoa thi thơ phú được cho làm quan để cai trị và bóc lột quần chúng. Tư tưởng và kiến thức chính trị hoàn toàn vắng mặt. Chúng ta tự hào có bốn ngàn năm văn hiến nhưng tuyệt đối không có tư tưởng chính trị, có lẽ chỉ trừ hai câu đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo.
Ngoại trừ một ngoặc đơn ngắn và lộn xộn dưới các chính quyền quốc gia thiếu cả tài năng lẫn ý chí, Khổng Giáo đã chỉ được tiếp nối bằng chủ nghĩa cộng sản về bản chất cũng chỉ là một thứ Khổng Giáo mới trong đó chính trị cũng chỉ có nghĩa là độc quyền thống trị của Đảng cộng sản. Trong lịch sử của nước ta, kiến thức và tư tưởng chính trị chưa bao giờ được khuyến khích, trái lại còn bị cấm đoán. Không ngạc nhiên nếu người Việt Nam thiếu tư tưởng và kiến thức chính trị, ngay cả những người chống cộng sống ở nước ngoài. Đoạn tuyệt với một văn hóa rất khó.
Do di sản lịch sử và văn hóa này rất phần lớn người Việt cho rằng làm chính trị không cần phải học hỏi mà chỉ cần nghị lực và ý chí. Họ không hiểu rằng chính trị đòi hỏi sự hiểu biết về tất cả các bộ môn ở mức độ đủ cao để có thể dung hòa và tổng hợp chúng trong một dự án quốc gia. Sự ngộ nhận này vẫn còn đang tiếp tục bởi vì phải có một trình độ nào đó để biết rằng mình không biết. Nó khiến nhiều người nghĩ rằng mình cũng có thể thành lập hoặc lãnh đạo một tổ chức chính trị. Trong tiềm thức của họ chắc chắn chính trị vẫn chỉ là tranh giành ảnh hưởng và tiếng tăm. Kết quả tất nhiên là những "cố gắng đấu tranh" này chỉ có tác dụng đánh lạc sự chú ý khỏi các tổ chức nghiêm túc, sau cùng gây thất vọng và chán nản cho chính mình và cho phong trào dân chủ.
Một nhận định thường gặp trong các bài tham luận là đối lập dân chủ có quá nhiều tổ chức và các tổ chức không chịu kết hợp với nhau. Nhận định này không còn đúng nữa. Tuyệt đại đa số các tổ chức được thành lập hoặc tuyên bố thành lập trên thực tế đều không còn nữa hoặc đang tàn lụi một cách không thể đảo ngược. Số tổ chức thực sự còn tồn tại và có hy vọng phát triển chưa chắc đã bằng số ngón tay của một bàn tay. Nguyên nhân chính là do không hiểu rằng không thể duy trì, chưa nói phát triển, một tổ chức chính trị nếu không có một tư tưởng chính trị, nghĩa là một đồng thuận trên những câu hỏi nền tảng. Thí dụ như quốc gia và lòng yêu nước phải được quan niệm lại như thế nào trong thế giới này ; cứu cánh của hoạt động chính trị là gì, những khả năng và đức tính nào là cần thiết và đáng tôn vinh nơi một người hoạt động chính trị ; những thử thách nào đang và sẽ đặt ra cho đất nước và thế giới và có thể có những giải đáp nào v.v.
Sai lầm lớn là cho rằng chỉ cần đồng ý với nhau trên những vấn đề cụ thể và bắt tay nhau hành động. Sự thực là người ta không bao giờ có thể liên tục đồng ý trên những vấn đề cụ thể bởi vì chúng gần như luôn luôn có thể có những giải đáp khác nhau. Do đó nếu tình cờ người ta đồng ý trên một mục tiêu cụ thể nào đó thì tháng sau sẽ không đồng ý trên một vấn đề cụ thể khác, và chia tay. Đồng thuận trên một tư tưởng chính trị khiến người ta không có những suy nghĩ quá khác nhau trên những chọn lựa cụ thể và do đó có thể hiểu nhau và thỏa hiệp với nhau ngay cả khi không đồng ý. Nhiều người và nhiều tổ chức vẫn chưa ý thức được là những chọn lựa cụ thể luôn luôn là hệ luận của một niềm tin nền tảng nào đó và không thấy sự cần thiết của một tư tưởng chính trị. Đó là lý do khiến các tổ chức tê liệt và tàn lụi, cùng lắm chỉ có tiếp tục tồn tại trong một thời gian nhờ những điều kiện thuận lợi.
Có nên bi quan không ? Những phát biểu gần đây trên báo chí, trên mạng xã hội cũng như trong những tiếp xúc cho thấy rất nhiều người dân chủ đã ý thức được rằng xây dựng và phát triển tổ chức rất khó, đòi hỏi những cố gắng kiên trì và những kiến thức chính trị vững chắc. Nhiều người cũng đã bắt đầu hiểu rằng tham gia một tổ chức chính trị không có một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị chỉ là một phí uổng thời giờ và công sức. Chúng ta đã tiến và cũng đã tiến khá nhanh mặc dù một di sản văn hóa rất bất lợi. Vấn đề chỉ là cần tiến nhanh hơn nữa.
Lý do thứ ba là chúng ta có một quan hệ quá phức tạp đối với sự thực và lẽ phải.
Nói rằng giả dối có thể hơi quá nhưng cũng không sai bao nhiêu. Chúng ta coi trọng hình thức hơn nội dung và đặt tình cảm trên lý trí mà không ý thức được rằng khi tình cảm thách thức lý trí nó không thể thành thực và lâu bền. Chúng ta coi điều người khác nghĩ về mình quan trọng hơn là điều chính mình nghĩ về mình, rồi vì khó tự dối mình nên chúng ta ít nghĩ về mình. Chúng ta mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm. Chúng ta coi thảo luận không phải là để học hỏi và hiểu nhau hơn mà chỉ là để tranh giành hơn thua.
Một người Việt ở nước ngoài có thể lên án một tổ chức là không chống cộng triệt để nhưng lại rất sợ bị coi là thuộc "các thế lực thù địch" và không được về Việt Nam du lịch. Một người trong nước có thể chửi chế độ một cách thậm tệ trong trò chuyện giữa bạn bè nhưng lại tránh quan hệ với những người dám bày tỏ lập trường. Một người có thể rất tốt trong lúc bình thường nhưng lại không lên án, thậm chí còn bênh vực những hành động sai trái khi chúng đến từ những người thân quen v.v. Tất cả những khuyết tật đó có trong mọi dân tộc, nhưng nơi người Việt Nam, chúng hiện diện một cách áp đảo. Nghiêm trọng hơn, ít người ý thức được rằng sự giả dối ngăn cản mọi kết hợp. Sinh hoạt tổ chức, nhất là các tổ chức tự nguyện, đòi hỏi sự thành thực ở mức độ rất cao bởi vì không có sự giả dối nào có thể che giấu lâu được, nhất là khi tổ chức khá đông đảo. Những người giả dối cô đơn cả với chính mình thì còn kết hợp được với ai ?
Vậy có phải bi quan không ? Một lần nữa câu trả lời là không. Sự giả dối ở mức độ hiện nay chủ yếu là di sản lịch sử, một lịch sử trong đó con người luôn luôn sống trong sự lo sợ. Dưới chế độ cộng sản nó đã biến nó thành một phản xạ sống còn. Trong lòng khinh bỉ và căm thù nhưng ngoài miệng vẫn phải ca tụng và biết ơn Đảng. Chế độ cộng sản không chỉ tàn phá đất nước, nó còn tàn phá cả tâm hồn Việt Nam.
Sau khi ở tù ra và trước khi ra nước ngoài tôi có một người bạn cũng là một người anh em họ xa. Anh này là một sĩ quan được huân chương anh hùng và cũng là một đảng viên xuất sắc được bầu làm đại biểu cho đại hội Đảng cộng sản năm 1982. Anh tâm sự : "mình ghét chúng nó thậm tệ nhưng sợ quá nên đành làm anh hùng". Nguyễn Chí Thiện là một ngoại lệ rất hiếm, ông đáng được tạc tượng để làm chứng cho danh dự còn lại của dân tộc trong một giai đoạn. Tuy vậy nét đậm của đất nước hiện nay là cái sợ đang tan. Chúng ta đang sống trong giai đoạn chuyển hóa. Con người Việt Nam nhiễm thêm nhiều tật xấu khác trong một xã hội băng hoại nhưng ngày càng bớt sợ, đang trút bỏ sự giả dối và tìm lại chính mình.
Ngoại lệ cộng sản ?
Tới đây một số bạn đọc có thể đặt câu hỏi với di sản văn hóa và lịch sử đó tại sao những người cộng sản vẫn thành lập được một đảng đủ mạnh để giành được chính quyền và cầm quyền lâu như vậy, phải chăng họ tài giỏi phi thường ?
Câu trả lời dứt khoát là không. Tổ chức mà chúng ta đang thảo luận là kết hợp của những con người tự do tự nguyện hợp tác với nhau vì cùng trân trọng một số gia trị và cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị. Đó không phải là trường hợp của Đảng cộng sản và vì thế họ không có những khó khăn của những người dân chủ. Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chỉ là một thứ Khổng Giáo mới vì thế người cộng sản không cần một cố gắng về văn hóa và ý thức. Các đảng cộng sản về bản chất cũng không khác với các đảng cướp (chính ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản chứ không phải ai khác đã nói là họ "CƯỚP" chính quyền tháng 8-1945) và vì thế họ có thể dùng bạo lực và khủng bố để xây dựng và giữ gìn đảng, như câu chuyện người bạn mà tôi vừa kể.
Một kết luận cho một khúc quanh lớn
Trở lại câu hỏi tại sao đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ có tầm vóc. Có nhiều lý do nhưng ba lý do kể trên đủ để giải thích tại sao. Quá đủ vì thực ra chỉ cần một trong ba lý do đó cũng đủ. Chúng ta có cả ba và còn có những lý do khác, như sự đàn áp thô bạo của Đảng cộng sản mà theo tôi không còn là lý do chính. Tình trạng hiện nay không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy vậy với một cái nhìn bình tĩnh chúng ta có thể thấy là người Việt đang rũ bỏ di sản văn hóa và lịch sử và vượt qua những trở ngại đó. Chúng ta sẽ còn tiến nhanh hơn, rất nhanh, nếu ý thức được những lý do chính đã khiến cuộc vận động dân chủ chưa mạnh và rút ra một kết luận dứt khoát.
Kết luận đó là : Đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức và một tổ chức chính trị đúng nghĩa chỉ có thể là thành quả của những cố gắng bền bỉ của những người có đủ kiến thức chính trị và cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị đúng. Như thế phải bác bỏ chủ nghĩa nhân sĩ, không ủng hộ những tổ chức thành lập vội vã hay không có tư tưởng chính trị, chỉ tham gia và ủng hộ những tổ chức nghiêm túc.
Điều cần được ý thức rất rõ ràng là cuộc đấu tranh cho dân chủ là cuộc đấu tranh cách mạng hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta bởi vì chúng ta chưa bao giờ có tự do và dân chủ. Đó là cuộc chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai trong lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ. Chính vì thế mà nó khó khăn, đòi hỏi một tư tưởng chính trị mới và một văn hóa mới. Nhưng cũng chính vì thế mà nó vinh quang.
Không chỉ vinh quang mà còn có triển vọng thắng lợi trong một tương lai gần. Đảng cộng sản Việt Nam, cũng như Đảng cộng sản Trung Quốc, đã chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Đây là chặng đường miễn cưỡng trong tiến trình đào thải tất yếu của các chế độ cộng sản khi họ không còn một tư tưởng chung –chính họ cũng đã thấy "tư tưởng Mác-Lênin" là nhảm nhí- để có thể lấy những quyết định tập thể, như người ta đã thấy tại Liên Xô và Đông Âu. Kinh nghiệm cũng cho thấy là các chế độ này đều sụp đổ ngay trong nhiệm kỳ của nhà lãnh đạo "nhất thể hóa" đầu tiên.
Việt Nam còn có thể thay đổi nhanh hơn. Tình trạng sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng không còn cho phép ông đảm nhiệm vai trò mà ông đã được chọn để làm, nghĩa là lấy những quyết định cần thiết thay thế cho một ban lãnh đạo chia rẽ trên gần như mọi vấn đề, và sẽ khó tìm được người thay thế ông. Đảng cộng sản Việt Nam đang rất nguy ngập. Càng ngày sẽ càng có nhiều đảng viên cộng sản hiểu rằng sự cáo chung của chế độ không còn xa và họ phải chọn lựa đứng vào hàng ngũ dân chủ để làm tác nhân thay vì nạn nhân của một thay đổi bắt buộc và đang tới.
Cuộc vận động dân chủ sắp có một cơ hội rất lớn không nên để lỡ.
Nguyễn Gia Kiểng
(27/06/2019)
Theo tin mới nhất, cuộc họp thượng đỉnh lần thứ hai giữa tổng thống Donald Trump và chủ tịch nước Bắc Hàn Kim Jong-un bàn về việc giải trừ vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn sẽ diễn ra tại Hà Nội trong 2 ngày 27-28/02/2019.
"Việt Nam là một đối tác và là người bạn thân thiết của Mỹ…" (phát ngôn viên của bộ ngoại giao Mỹ, Robert Palladino - DVIDS)
Theo một bài báo trên VOA, phát ngôn viên của bộ ngoại giao Mỹ, Robert Palladino tuyên bố như sau :
"Việt Nam là một đối tác và là người bạn thân thiết của Mỹ, và chúng tôi cám ơn chính phủ Việt Nam vì sự hào phóng khi đăng cai hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai này", ông Palladino nói tại trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ tại thủ đô Washington D.C.
Tin này chắc chắn làm buồn lòng không ít những người Việt Nam từng ca ngợi, hoan hô, ủng hộ Donald Trump trong chiến lược tiêu diệt xã hội chủ nghĩa trên thế giới mà Trump đã nhiều lần nói đến trong các diễn văn của mình.
Không ít những người trong họ - từng bị chế độ cộng sản Việt Nam bắt giam, đánh đập, tra tấn, kết án tù... - vui mừng, hớn hở khi Donald Trump trở thành tổng thống thứ 45 của Mỹ. Họ viết bài đăng báo online, viết stt trên facebook, làm thơ, photoshop... mô tả Donald Trump như một thiên sứ, một vị thánh sống được thượng đế sai xuống để cứu vớt nhân loại, cứu đất nước, dân tộc Việt Nam thoát khỏi đảng cộng sản, không bị tên bá quyền Trung Quốc hà hiếp, bắt nạt.
Cuộc họp chưa diễn ra nhưng Trump đã khẳng định Việt Nam là người bạn thân thiết của nước Mỹ. Thế thì những người tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại nghĩ sao về tuyên bố này ?
Khi Donald Trump mở đầu cuôc chiến thương mại với Trung Quốc, nhiều người tin tưởng chỉ trong một thời gian ngắn vài năm, kinh tế của Trung Quốc sẽ sụp đổ, Tập Cận Bình sẽ bị truất phế, đảng cộng sản Tầu sẽ tan rã, Việt Cộng sẽ chết theo...
Cuộc chiến thương mại hiện nay đã tạm ngưng trong 90 ngày để đàm phán cho thấy Mỹ không hề chiến thắng như mong đợi của nhiều người, cũng xất bất xang bang, te tua, tơi tả vì địch có chết ba thì ta cũng chết bộn.
Theo thống kê của chính quyền, Thâm thủng mậu dịch Mỹ-Trung sau khi Trump khai chiến trong năm 2018 chẳng hề sút giảm mà con tăng hơn trước. Chưa kể tháng 12/2018, chênh lệch mậu dịch của Mỹ về nhập siêu là 382,331 tỉ USD so với cả năm 2017 là 375,576 tỉ USD (nguồn thượng dẫn).
Niềm tin vào sự sụp đổ kinh tế của Trung Quốc vì cuộc thương chiến khiến một số người đấu tranh cho dân chủ, tự do, nhân quyền ở Việt Nam trở nên mù quáng, mất hẳn cả lý trí để tìm hiểu sự thật, nhận định về bàn cờ chính trị thế giới, về con người thật của Trump, những việc làm gian dối, lưu manh, xảo quyệt của Donald Trump trong quá trình kinh doanh địa ốc để trở thành tỉ phú.
Họ không nhìn thấy được tính khí thất thường, dễ nóng giận, căn bệnh hoang tưởng, khoác lác, thích khen tặng, nịnh hót, khinh người, nhỏ mọn, đê tiện... của Trump. Qua những phát ngôn ngớ ngẩn, những tuyên bố ngờ nghệch về nguyên nhân cháy rừng, biến đổi khí hậu... cho thấy bản thân Trump không đủ khả năng để điều hành đất nước, không đủ kiến thức chính trị để có thể hiểu biết chủ nghĩa xã hội là gì?
Từ ngày Trump nhậm chức tổng thống đến nay đã hơn 2 năm, tình trạng nhân quyền ở Việt Nam trở nên tồi tệ hơn bao giờ. Chế độ cộng sản đàn áp người bất đồng chính kiến dã man, tàn độc hơn trước, ngang nhiên, trắng trợn cướp bóc đất đai của người dân bằng những thủ đoạn man rợ, giữa ban ngày không hề úy kị gì truyền thông, báo chí thế giới, những bản án tù cho những người bất đồng chính kiến nặng nề hơn trước với những tội danh thật mơ hồ.
Giờ đây được Trump coi như người bạn thân thiết, chế độ cộng sản Việt Nam có thêm được hậu thuẫn thì tương lai đất nước, dân tộc Việt Nam càng trở nên mờ mịt, đen tối, xa vời hơn. Tuy nhiên vẫn có không ít lập luận ngây thơ, tin tưởng rằng khi bắt tay với Trump, được Trump ủng hộ, chế độ cộng sản Việt Nam sẽ phải thay đổi đường lối, chính sách cai trị cho phù hợp với các tiêu chuẩn của Mỹ đặt ra.
Một số khác hoang tưởng, bệnh hoạn hơn, nhận định rằng Trung Quốc và Việt Nam hoảng sợ khi Trump tuyên bố sẽ xóa sổ chế độ xã hội chủ nghĩa, do đó chắc chắn sẽ phải thay đổi chế độ để tồn tại. Họ dẫn chứng tình hình ở Venezuela để khẳng định niềm tin vào Trump nhưng quên rằng bối cảnh xã hội của Việt Nam và Venezuela rất khác biệt nhau.
Một cuộc biểu tình, nổi dậy của người dân Việt Nam như ở Venezuela sẽ khó có thể xẩy ra bởi hiện nay chưa có một tổ chức, lực lượng, cá nhân nào có đủ tầm vóc, ảnh hưởng, tiếng nói để kêu gọi người dân Việt Nam đứng lên lật đổ chế độ cộng sản.
Hơn thế nữa, giờ đây Trump quay sang khen ngợi chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lại còn khuyến khích Bắc Hàn nên theo gương Việt Nam để phát triển kinh tế. Tương lai các phong trào đấu tranh ở Việt Nam ra sao đã rõ.
Chế độ cộng sản Việt Nam sẽ chẳng bao giờ sụp đổ khi những người tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền chỉ trông chờ vào các thế lực ngoại bang, bịt tai, che mắt, cắm đầu nghe theo những lời tuyên bố của một tổng thống nổi tiếng mắc bệnh hoang tưởng, tính khí thất thường, gian manh, nói láo, hành xử côn đồ…
Thạch Đạt Lang
(10/02/2019)