Các chương I và II và III của tài liệu ‘Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai’ đã phác họa một bức tranh tổng thể về bối cảnh thế giới và trong nước, trong dòng chảy của lịch sử. Điều quan trọng nhất của những chương này là đã minh định, mục đích tranh đấu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là rộng lớn hơn nhiều so với vấn đề Quốc – Cộng mới chỉ nảy sinh vài chục năm gần đây. Tất nhiên là với tầm nhìn sâu rộng đó, Tập Hợp sẽ có đầy đủ các câu trả lời cho các vấn đề cụ thể, nhưng vấn đề là ở chỗ, dùng một tầm nhìn sâu rộng để tranh luận với những người còn đang mắc kẹt trong một vấn đề hạn hẹp là một điều bất khả thi, một điều thường được mô tả bằng hình ảnh "không ở trên cùng một trang sách của cùng một quyển sách".
Những vấn đề hạn hẹp mà nhiều người còn đang mắc kẹt trong đó, nghiêm trọng nhất là vết thương hận thù Quốc - Cộng và vũng lầy những "giá trị" Nho giáo.
Sau khi đã phác họa một bức tranh tổng thể, tài liệu ‘Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai’ bắt đầu đi vào chi tiết bằng chương IV – Nền tảng tư tưởng cho kỷ nguyên dân chủ. Tập Hợp luôn đề cao tầm quan trọng của vấn đề tư tưởng.
"Đồng thuận căn bản của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên gồm năm điểm sau đây :
1. đất nước phải được quan niệm như một tình cảm, một không gian liên đới và một tương lai chung ;
2. thể chế chính trị cho Việt Nam là dân chủ đa nguyên ;
3. tinh thần chỉ đạo của cố gắng làm lại đất nước là hòa giải và hòa hợp dân tộc ;
4. tổ chức xã hội Việt Nam phải thể hiện một cách thật quả quyết những giá trị tiến bộ ;
5. cố gắng phát triển kinh tế phải đặt trên nền tảng kinh tế thị trường và sáng kiến cá nhân".
Trong năm điểm nói trên, có lẽ 4 điểm, 1 và 2 và 4 và 5, là không gây tranh cãi, bởi vì nếu không đứng trên căn bản Đất Nước, không muốn Dân Chủ Đa Nguyên, Tiến Bộ, Tự Do Cá Nhân, thì sẽ không còn cần gì để đối thoại thêm với nhau nữa. Chỉ có điểm 3, Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, bằng một cách nào đó đã gây ra nhiều tranh cãi.
Hãy bắt đầu từ góc độ Chính-tả : Trình tự đúng của các chữ là và phải là : Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc. Góc độ Chính-tả ở đây sẽ có những ý nghĩa như sau :
- Hòa-Giải diễn ra trước, sau đó mới có thể Hòa-Hợp.
- Hòa-Giải là để Hòa-Hợp, để cùng nhau xây dựng một tương lai chung.
- Hòa-Giải và Hòa-Hợp là vì tương lai của Dân-Tộc, do đó phải diễn ra trên bình diện Dân-Tộc.
Tiếp theo là góc độ Ngữ-pháp : Hòa-Giải và Hòa-Hợp có thể là những Danh-từ (Nouns), với Dân-Tộc là Tính-từ (Adjective) bổ nghĩa cho những Danh-từ đó, trong chừng mực đây là những mục tiêu mà Tập Hợp hướng tới, trước mắt và hy vọng là chỉ trong ngắn hạn (vì chẳng lẽ chúng ta cứ mãi mãi phải đối mặt với vấn đề này ?).
Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc là những điều mà chúng ta sẽ làm : Hiện tại chúng ta nêu gương và tuyên truyền, khi tham chính chúng ta sẽ ban hành các chính sách.
"Do hoàn cảnh lịch sử, chất liệu nhân xã của chúng ta đã bị tổn thương nặng nề. Những đổ vỡ đòi hỏi một thời gian hàn gắn rất lâu dài, do đó tinh thần căn bản của mọi chính sách cho nhiều thế hệ tới sẽ phải là Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc".
Vậy Hòa-Giải và Hòa-Hợp cũng có thể là, và nên là những Động-từ (Verbs), cũng vẫn với Dân-Tộc là Trạng-từ (Adverb) bổ nghĩa cho những Động-từ đó. Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc là những điều mà chúng ta sẽ làm : Hiện tại chúng ta nêu gương và tuyên truyền, khi tham chính chúng ta sẽ ban hành các chính sách.
Lưu ý rằng, hàn gắn những đổ vỡ và làm lành những tổn thương, như những đổ vỡ và tổn thương mà đất nước của chúng ta đã từng phải chịu đựng, khó có thể là công việc có thể hoàn thành nhanh chóng trong một vài thế hệ. Nhưng điều đó chỉ để thấy rằng, đó quả thật là điều đáng để phấn đấu.
Năm 1802 đã có thể là một cơ hội của Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, và vua Gia Long cũng đã có gần đủ những tố chất để Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, ví dụ như tha thứ cho binh lính và trọng dụng nhân tài của kẻ thù cũ, cởi mở trong các mối quan hệ trong nước và quốc tế… Điều duy nhất ngăn cản cơ hội trở thành hiện thực là Nho giáo, điều mà vua Gia Long cho là cần thiết để củng cố thành quả của mình.
Năm 1945 đã có thể là một cơ hội của Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, sau một thời gian "Pháp đã còng tay Việt Nam và dẫn vào thời đại mới", trí thức Việt đang học hỏi và trưởng thành trên nhiều mặt, rồi Thế chiến II kết thúc để lại những khoảng trống… Đáng tiếc là mọi sự còn chưa chín muồi để có thể lấp đầy những khoảng trống đó một cách đúng đắn. Tệ hơn nữa, chỉ vì một chút xíu chưa trưởng thành đầy đủ đó mà đất nước, thay vì quẹo đúng đã quẹo sai đi vào thảm họa.
Năm 1975 đã có thể là một cơ hội của Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, nhưng nói cho cùng đó chỉ là tiếp nối của những gì đã bị bỏ lỡ, bị nhầm lẫn từ năm 1945, cộng thêm với việc tầng lớp trí thức Việt đã bị tiêu diệt hoàn toàn, cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. (Cũng có thể nói một cách khác rằng, từ năm 1954, đất nước có một nửa quẹo sai và một nửa quẹo đúng, nhưng tốc độ của cái sai nhanh hơn nhiều so với cái đúng, cho nên kết cục rồi cũng như đã thấy).
Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc là điều không thể có được bằng sự cầu xin của kẻ yếu.
Những người chủ trương Dân-Chủ và Đa-Nguyên và Tiến-Bộ theo những cách khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau, phải Hòa-Giải với nhau trước, để Hòa-Hợp cùng nhau thành một lực lượng đủ mạnh để khuất phục bạo quyền. Lực lượng mạnh mẽ này không phải được nuôi dưỡng bằng lòng hận thù, không bao giờ củng cố quyền lực bằng cách "nhổ cỏ tận gốc".
Khi Dân-Chủ, Đa-Nguyên và Tiến-Bộ đã đủ mạnh thì bạo quyền, và cả những mầm mống của bạo quyền, sẽ phải bị tiêu diệt, nhưng đó là theo nghĩa bóng, tức là những tư tưởng và thể chế nào đó tạo điều kiện cho bạo quyền sinh sôi nảy nở sẽ phải bị tiêu diệt, chứ không phải theo nghĩa đen là những kẻ xấu cụ thể nào đó. Số phận của những kẻ xấu cụ thể nào đó chỉ là những việc của cá nhân kẻ đó, sẽ phải trả lời trước một phiên tòa công bằng về những tội ác cụ thể của mình. Chính quyền của Dân-Chủ và Đa-Nguyên và Tiến-Bộ lúc đó sẽ thực thi mọi chính sách trên nền tảng Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc.
Hòa-Giải và Hòa-Hợp Dân-Tộc, khác với tất cả những biến đổi lịch sử từ trước tới nay vốn chỉ là "được ăn cả ngã về không", "được làm vua thua làm giặc", zero-sum… sẽ là giải pháp win-win cho tất cả các bên, mở lối thoát cho cả những trường hợp tuyệt vọng nhất để cuối cùng, mọi việc đều có thể được giải quyết một cách công bằng trong hòa bình.
Dòng Sông Việt
(17/05/2023)
Không khó để nhận ra chúng ta đang có một cuộc nội chiến không tiếng súng trên không gian mạng xoay quanh hiện tượng Donald Trump. Người Việt đã chia rẽ, mạt sát nhau, thù ghét nhau chỉ vì sự khác biệt quan điểm về nhân vật Donald Trump. Cuộc nội chiến không tiếng súng này đang tới giai đoạn cuối và có nhiều triển vọng là sẽ kết thúc sau ngày 20/1/2021. Đây là lúc chúng ta cần hòa giải với nhau để hàn gắn những đổ vỡ do hiện tượng Donald Trump gây ra, cũng là để tránh những đổ vỡ có thể còn lớn hơn sau những xung đột như đã từng xảy ra trong lịch sử.
Đây là lúc chúng ta cần hòa giải với nhau để hàn gắn những đổ vỡ do hiện tượng Donald Trump gây ra
Tuy vậy những thảo luận xung quanh vấn đề Hòa giải dân tộc cho thấy chúng ta vẫn chưa thực sự có cùng một cách nhìn về tinh thần này, vậy nhân đây tác giả xin đưa ra một vài ý kiến để hâm nóng lại cuộc thảo luận về Hòa giải dân tộc. Thiết nghĩ đó là điều rất cần thiết, bởi dân tộc ta rất cần tinh thần này, không chỉ xoay quanh mỗi hiện tượng Doanld Trump.
Hòa giải dân tộc là gì ?
Trước hết chúng ta cần thống nhất về các khái niệm. Hòa giải dân tộc là xóa bỏ những hận thù và hiềm khích trong quá khứ, với mục đích là để đi đến hòa hợp dân tộc, tức là tiến tới tình trạng người Việt tin tưởng và quý mến nhau trong cố gắng xây dựng một tương lai chung.
Đối tượng Hòa giải ?
Hòa giải là một vấn đề tình cảm giữa người và người, nên đối tượng Hòa giải ở đây là những người Việt Nam với nhau. Trong sự kiện Donald Trump là giữa những người Việt Nam ủng hộ nhiệt thành cho Trump và những người chống Trump ; trong những mâu thuẫn về tôn giáo là giữa những người Công giáo và những người Phật giáo, hay không tôn giáo ; trong những xung đột liên quan tới vấn đề sắc tộc là giữa những người Kinh và những người thuộc các sắc tộc thiểu số ; hay là giữa những người cộng sản và những người Việt Nam khác trong cuộc nội chiến 1945-1975 và thời gian sau đó.
Phải nhìn rõ đối tượng Hòa giải ở đây là "người cộng sản" chứ không phải "đảng cộng sản" hay "chế độ cộng sản". Nhiều người phản đối lập trường Hòa giải dân tộc mà Tập Hơn Dân Chủ Đa Nguyên đề xuất vì họ đồng hóa các khái niệm này với nhau, nhưng thực ra chúng rất khác nhau, vấn đề Hòa giải với "đảng cộng sản" hay "chế độ cộng sản" không đặt ra, giữa các tổ chức dù thân tình lắm thì cũng chỉ có thỏa hiệp hay hợp tác. Đảng cộng sản sẽ tan vỡ nhanh chóng sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, nhưng những người cộng sản vẫn còn đó, và trước hết họ cũng là những người Việt Nam.
Động cơ để Hòa giải ?
Hòa giải không phải là một giá trị được coi trọng trong suốt dòng lịch sử của đất nước ta, thế nên trong văn hóa và tâm lý của chúng ta "Hòa giải" khó hơn là "không hòa giải". Nhưng tại sao chúng ta lại phải vượt lên trên di sản văn hóa và lịch sử này ? Lý do, nếu không Hòa giải chúng ta sẽ không có một tương lai nào cả. Một dân tộc mà luôn nhìn nhau như là kẻ thù thay vì là anh em, chỉ nghĩ tới việc hại nhau thay vì giúp nhau, chỉ muốn đẩy nhau xuống thay vì nâng nhau lên, thì dân tộc đó sẽ không bao giờ vươn lên nổi.
Chúng ta đang là một dân tộc như vậy, đó là di sản của những cuộc nội chiến trong quá khứ, 50 năm trước chúng ta cầm súng để sát hại lẫn nhau, 50 năm sau, súng đã không còn nhưng tinh thần "hại nhau" thì vẫn ở đó và vẫn hiện diện rất rõ trong xã hội Việt Nam, trong mọi lĩnh vực, cũng như trong mọi mối quan hệ. Di sản của 400 năm nội chiến "huynh đệ tương tàn" vẫn hiện diện rất rõ rệt trong mỗi con người Việt Nam. Chừng nào chúng ta chưa đoạn tuyệt với tinh thần này, chưa thực sự Hòa giải với nhau, chúng ta sẽ không thể vươn lên nổi.
Như vậy động cơ của Hòa giải chính là lòng yêu nước, chúng ta phải hòa giải với nhau nếu chúng ta muốn đất nước vươn lên hay nếu chúng ta có một tham vọng, một mơ ước nào đó cho đất nước. Gần đây có người đã lấy vấn đề Hòa giải giữa một đôi vợ chồng đã ly dị ra để so sánh với chủ trương Hòa giải dân tộc của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, và kết luận là rất khó Hòa giải. Điều này có một phần đúng. Động cơ của Hòa giải là để tiến tới hòa hợp, để cùng xây dựng một tương lai chung với nhau. Khi chấp nhận để gia đình tan vỡ (ly dị) thì rất khó Hòa giải vì không còn động cơ để Hòa giải nữa. Với đất nước cũng vậy, nếu đã chấp nhận đất nước tan vỡ, tụt hậu, chia rẽ, thù hận nhau thì chúng ta không còn động cơ để Hòa giải.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẵn sàng Hòa giải với những "người cộng sản" nhưng không bao giờ hòa giải với "chủ nghĩa cộng sản" và "đảng cộng sản"…
Chắc chắn không người Việt Nam nào muốn một tương lai như vậy cho đất nước. Hơn nữa vợ chồng li dị vẫn có thể lấy người khác còn với đất nước thì chúng ta không thể thích là li dị. Chỉ có một phần rất nhỏ có khả năng ra nước ngoài định cư còn đại đa số người dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục chung sống với nhau. Hòa giải để chung sống là điều bắt buộc, gần như là không có lựa chọn khác.
Hòa giải không đứng cao hơn lẽ phải
Dù là một giá trị đúng và rất đáng được tôn vinh trong sinh hoạt xã hội nhưng Hòa giải không đứng cao hơn lẽ phải. Hòa giải đứng dưới lẽ phải và cũng chỉ có ý nghĩa nếu đặt nền tảng trên lẽ phải. Thí dụ như vấn đề Hòa giải với những người cộng sản, chúng ta không thù hận hay ghét bỏ gì họ, chúng ta vẫn coi họ là những người Việt Nam, là những đồng bào của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phải nói một cách thành thật và ôn hòa rằng chủ nghĩa cộng sản là sai và đảng cộng sản là một đại họa cho đất nước.
Còn nếu vì một lý do gì đó mà chúng ta đặt Hòa giải lên trên lẽ phải, chấp nhận cả những sai trái để tránh làm mất lòng một số người, thì nó chỉ dẫn tới hệ quả là một phía vẫn huênh hoang đắc thắng và phía còn lại thì tức tối tủi hờn, đó không phải là Hòa giải thực sự, hơn nữa hành động đó cũng là tiếp tay đánh lừa người đối diện với mình. Lẽ phải luôn cần được nói lên, điều chúng ta cần làm là nói lên lẽ phải một cách thẳng thắn, ôn hòa và thân thiện.
Donald Trump và vấn đề Hòa giải ?
Nếu nhìn kỹ thì những đổ vỡ xoay quanh nhân vật Donald Trump chúng ta có thể nhận thấy rằng chúng không phải do những khác biệt về quan điểm mà là bởi cách chúng ta ứng xử với những khác biệt đó. Sẽ chẳng có đổ vỡ nào nếu chúng ta ứng xử với những khác biệt về quan điểm bằng những buổi thảo luận ôn hòa, thân thiện với một trái tim nóng và một cái đầu nguội.
Sự kiện chúng ta ứng xử với những khác biệt quan điểm bằng cách tạo ra một cuộc nội chiến (bằng lời) cho thấy cách suy nghĩ, hành động và ứng xử, tức là văn hóa chính trị của chúng ta vẫn chưa thay đổi bao nhiêu sau gần nửa thế kỷ kể từ cuộc nội chiến Quốc - Cộng. Thời gian đã không chữa lành vết thương của cuộc nội chiến vì đã không có Hòa giải dân tộc sau ngày 30/4/1975. Chúng ta có muốn tinh thần nội chiến này tiếp tục hay không? Chúng ta có muốn một cuộc nội chiến mới trong tương lai hay không? Nếu không, hãy đưa bàn tay của mình ra.
Những đổ vỡ xoay quanh nhân vật Donald Trump không phải do những khác biệt về quan điểm mà là bởi cách chúng ta ứng xử với những khác biệt đó.
Cái bắt tay phải xuất phát từ cả hai phía
Cái khó của Hòa giải là nó phải xuất phát từ cả hai bên, như cái bắt tay phải xuất phát từ cả hai phía. Tuy nhiên trong suốt dòng lịch sử của chúng ta, mỗi khi kết thúc một cuộc xung đột hay chiến tranh thì cả hai phía đều chưa từng nghĩ tới việc đưa bàn tay của mình ra. Thực hiện được Hòa giải dân tộc vì vậy là điều rất khó trong bối cảnh văn hóa và tâm lý của chúng ta.
Nhưng dù sao cũng đã đến lúc phải thay đổi, điều chúng ta có thể làm là đưa bàn tay của mình ra, sẵn sàng bắt lấy bàn tay của những người Việt Nam khác ngay cả khi họ không đưa bàn tay của họ ra. Chúng ta không có lý do gì thù hận hay ghét bỏ gì họ bởi vì họ vẫn là đồng bào, là những người anh em Việt Nam của chúng ta. Dù muốn hay không, dù có bất đồng chính kiến đến đâu đi nữa thì chúng ta vẫn cứ phải tiếp tục chung sống với nhau. Hãy luôn nghĩ về điều đó trước khi gây gỗ với người khác.
Trần Hùng
(14/12/2020)
Từ câu chuyện Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tản mạn về hòa giải hòa hợp dân tộc trong khoảng thời gian này, gần nửa thế kỷ sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc 30 năm đi đến thống nhất hai miền Nam, Bắc, tôi xin khởi đầu từ câu chuyện qua đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tháng 2 năm 2018 vừa qua.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (trái) cùng vợ và nhạc sĩ Trần Quóc Bảo chụp trước cửa tiệm Nhiên Hương năm 1996 - Hình nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cung cấp
Nguyễn Văn Đông là nhạc sĩ miền Nam, từ lâu nổi tiếng với những ca khúc Chiều mưa biên giới, Phiên gác đêm xuân, Mấy dặm sơn khê, Sắc hoa màu nhớ… Ông còn là soạn giả hoặc đạo diễn của khoảng 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng, như Nửa đời hương phấn, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng, Đoạn tuyệt, Tướng cướp Bạch Hải Đường ...
Vì nguyên là đại tá Cục trưởng Cục An ninh Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thuộc "bên thua cuộc", ông được đưa đi học tập cải tạo đến năm thứ 11 khi gần chết mới được cho về, may sao được gia đình chăm sóc phục hồi sức khỏe, thoát chết, nhưng từ đó ông hoàn toàn im lặng, không hề phát biểu phê phán tiếng nào đối với chế độ mới, từ chối mọi cuộc phỏng vấn của một số nhà báo, kể cả những chương trình trực tiếp ghi hình ở hải ngoại. Cũng không đi xuất ngoại theo diện HO, mà ở lại với quê hương, sống lặng lẽ trong sự thanh bần với cửa hàng tạp hóa khiêm tốn của gia đình ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, Thành phố Hồ Chí Minh, và mất ngày 26/02/2018, thọ 86 tuổi.
Trong bối cảnh hậu chiến, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có lẽ đúng là một trong những người Việt yêu nước, trong sạch tiêu biểu, xứng đáng được nêu ra để làm gương cho tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc ! Vì ông đã tự giác hơn ai hết xóa bỏ quá khứ, hận thù, chấp nhận sống vui với những gì đang có.
Trước đó, Nguyễn Văn Đông tuy là người lính Việt Nam Cộng Hòa (cấp bậc đại tá, không phải "tâm lý chiến" như người ta đồn đại), nhưng nhạc ông toàn mang dấu ấn phản chiến làm nhụt ý chí binh sĩ. Cá nhân ông vốn có cái nhìn đối lập với cuộc chiến, nên năm 1961 Bộ Thông tin chế độ Sài Gòn đã ra lệnh cấm phổ biến hai nhạc phẩm Chiều mưa biên giới và Mấy dặm sơn khê, và bản thân tác giả cũng đã từng bị trừng phạt, cho ngưng chức một thời gian dài (theo Trần Hữu Ngư, Ủa, sao kỳ lạ vậy ?, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2016, tr. 134).
Nguyễn Văn Đông thời còn trong quân ngũ Việt Nam Cộng Hòa
Như vậy về mặt khách quan, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã gián tiếp góp công không nhỏ cho "bên thắng cuộc", bởi tính ra về mặt quân sự ông chẳng có thành tích gì đáng được nhắc tới trong chuyện hành quân chống cộng, trái lại chỉ vô tình hay cố ý tuyên truyền cho lính hoặc người sắp đi quân dịch phe mình bị nhũn đi không còn muốn đánh đấm gì nữa, khi ông cho họ nghe hàng ngày những lời nhạc văng vẳng khắp hang cùng ngõ hẻm suốt thời gian dài, được chuyển tải một cách truyền cảm bởi một số ca sĩ tài danh một thời :
"… Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều anh ơi…"
(Chiều mưa biên giới, 1956).
Hoặc :
"Chốn biên thùy này xuân tới chi ?
Tình lính chiến khác chi bao người
Nếu xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi, thì đừng đến xuân ơi !"
(Phiên gác đêm xuân, 1956).
Sau khi đi học tập cải tạo hơn 10 năm trở về, Nguyễn Văn Đông đã trở thành một công dân tốt, nếu không nói quá tốt. Ấy vậy mà khi ông qua đời đầu năm nay, gia đình cho đăng cáo phó trên mục quảng cáo báo chí, đã có hai tờ báo lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh từ chối không đăng !
Những người biết chuyện đều cho việc từ chối đăng cáo phó là một thái độ nhỏ nhen hèn kém, không biết phân biệt phải quấy (không biết câu "nghĩa tử là nghĩa tận") của anh em làm báo, nhưng dường như đây không phải lỗi riêng của họ, vì sự thù dai thù vặt kiểu chủ nghĩa lý lịch hèn kém vốn đã được truyền từ trên xuống, thâm nhiễm trong các cấp chính quyền lớn nhỏ, và có tính hệ thống.
Tôi được biết cựu dân biểu Dương Văn Ba của chế độ cũ khi qua đời tháng 11 năm 2015 cũng gặp một trường hợp tương tự. Tuy nhiên, điều quan trọng là từ sự kiện bề ngoài trông nhỏ nhặt này, những người có lương tâm trong bộ máy chính quyền hiện tại sẽ phải suy nghĩ thêm về thực chất thái độ hòa giải hòa hợp dân tộc của "bên thắng cuộc", và nhớ lại cho kỹ hơn lời nói 13 năm về trước của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi năm 2005 ông nhắc lại chiến thắng nhân dịp kỷ niệm ngày 30/4 :
"Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu".
Nhưng hòa giải hòa hợp dân tộc phải có điều kiện và cũng phải xuất phát từ thiện chí hai phía, trên cơ sở xóa bỏ quá khứ hướng về tương lai, từ đó không còn mọi thứ mặc cảm, cả tự tôn lẫn tự ti.
Cho đến hiện nay, trừ những ý kiến phê phán nghiêm chỉnh của một số trí thức Việt kiều hải ngoại có gốc "cách mạng" (như Bùi Tín…) hay "ngụy quyền" đối với chế độ cộng sản Việt Nam, không ít cá nhân người Việt ở nước ngoài vẫn còn hậm hực chửi càn cộng sản và tôn vinh chế độ cũ Việt Nam Cộng Hòa là có lý do chính đáng của họ. Bởi gia đình họ phải trực tiếp chịu đựng quá nhiều nỗi đắng cay khi còn là "thuyền nhân" di tản trong cuộc chuyển hình kỳ lịch sử, và cũng vì trông thấy các nhà đương cuộc Việt Nam liên tiếp phạm phải nhiều chính sách sai lầm cả về kinh tế lẫn chính trị, nhưng đây dường như không phải là hành động sáng suốt thức thời vụ, cần thiết cho một nước Việt Nam đang cần có sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ để vừa phát triển, vừa đối phó hiệu quả với những khó khăn nguy hiểm từ bên ngoài đưa lại.
Trên thực tế, lịch sử đã sang trang.
Điểm lại sẽ thấy, cách chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa khá văn nghệ tài tử, nên không thua mới lạ. Luật pháp ngăn cấm tuy có đó nhưng áp dụng không nghiêm vì còn có sự ràng buộc của Hiến pháp với nguyên tắc phải tôn trọng tự do dân chủ, và người ta cứ thoải mái sáng tác/ca hát nhạc vàng, nhạc phản chiến ; báo chí khuynh tả hoạt động công khai đầy rẫy (như các tờ Tin Văn, Hành Trình, Đất Nước, Đối Diện…) ; văn học các thể loại thì trừ văn học thông tin tuyên truyền do nhà nước bảo trợ, hầu như không có bài văn bài thơ nào cổ vũ cho việc đánh nhau, trái lại chỉ "chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện"...
Thể loại bút ký phát triển mạnh trong giai đoạn chiến tranh ác liệt (1965-1975) nhưng chỉ mô tả toàn những chuyện đau khổ trong chiến tranh, đầy khóc thương ai oán (như Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam, Nhật ký của người chứng của Thái Lãng, Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca…).
Quân đội thì trừ một số muốn tiến thân trên đường binh nghiệp, trở thành tướng tá, hầu hết đều đi đánh trận một cách bất đắc dĩ (kiểu người lính-nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vậy), ai cũng sợ chết. Không ít lính Việt Nam Cộng Hòa còn rất thông cảm trong cùng cảnh ngộ với người lính Bắc phương, như khi Phan Xuân Sinh viết :
"Người lính nào mà chẳng rét lúc ra quân
Khi lâm trận mà không té đái"
("Uống rượu với người lính Bắc phương", 1972).
Cũng nhà thơ Phan Xuân Sinh, sau hơn 30 năm trở lại thăm quê nhà, ngồi uống rượu đế với người lính già mới quen gốc Việt cộng, đã cảm hứng viết tiếp với giọng điệu cảm thông như cũ :
"Người lính già bên kia chiến tuyến, gật gù say
Tôi thầm cám ơn viên đạn, anh em tôi bắn trật
Nên ông còn sống sót cùng tôi đối ẩm
Chúng tôi nghẹn ngào chia xớt nỗi lòng nhau"
("Người lính già, bên kia", 2011).
Tướng lãnh cấp cao Việt Nam Cộng Hòa có người còn ăn chay niệm Phật, thiền định, như các ông Cao Văn Viên (Tổng tham mưu trưởng), Trần Văn Chơn (Đề đốc, Tư lệnh Hải quân), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh Quân đoàn IV, tự sát ngày 1/5/1975)…
Trong cuộc đối đầu, hệ thống tuyên truyền chống cộng của miền Nam rất kém so với Bắc Việt. Thế thì đánh không thua mới lạ !
Cùng lắm sẽ nói an ủi gỡ gạt nhưng rất chân thật và nhân văn như ông Hồ Văn Kỳ Thoại (cựu Phó đề đốc, cựu Tư lịnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải, Việt Nam Cộng Hòa), nghe cũng dễ thương :
"Dù thắng hay bại, trong cuộc chiến, tất cả chiến sĩ hai bên đều làm nhiệm vụ của mình dù theo lý tưởng khác nhau. Sau cuộc chiến, những chiến sĩ dù hi sinh cho một lý tưởng nào đó, khi chết trong bộ quân phục, đều là những anh hùng, thì khi đã nằm xuống phải được sự kính nể của những thế hệ sau"
(Can trường trong chiến bại, 2007, tr. 319).
Trong khi đó, miền Bắc Việt Nam chủ trương rầm rộ kéo quân vào đánh tới tấp, tốn bao nhiêu sinh mạng của nhân dân cũng không ngại, "còn cái lai quần cũng đánh", "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"...
Để thành công bằng mọi giá, phía Bắc Việt Nam còn sử dụng một hệ thống tuyên truyền rộng khắp, từ trong sách giáo khoa dành cho học trò nhỏ, cho đến tất cả mọi thể loại văn học-nghệ thuật, đặc biệt là về âm nhạc. Rồi cải cách ruộng đất (1953-1956), rồi Nhân Văn Giai Phẩm (1955-1958), rồi có những câu thơ kích động lòng căm thù giai cấp như :
"Chém chém chém
Giết giết giết
Bàn tay không phút nghỉ"…
Quyết tâm chiến đấu như thế, tuy kéo dài đến 30 năm mới thắng lợi, bằng cách hi sinh tính mạng dân, lính quá nhiều cũng là dở, nhưng không thắng mới lạ !
Bây giờ ngẫm lại, nếu cho cá nhân được quyền lựa chọn, tôi sẽ mạnh dạn chọn "bên thua cuộc", vì xem ra bên thua cuộc có phần nào hiền hòa lành mạnh tử tế hơn. Theo cách nhìn này, bên thua cuộc nên tự cảm thấy danh dự và không còn gì để mặc cảm tự ti, hay cần phải tiếp tục trách móc chửi bới cho hả giận. Hơn nữa, đa số những người Việt di tản sau 30/04/1975, giờ đây cũng đã ổn định cuộc sống khá tốt, nhờ sự run rủi của hoàn cảnh thua cuộc, với hoàn cảnh thắng thua không chỉ do người Việt quyết định, mà còn chịu ảnh hưởng/lệ thuộc bởi một số cường quốc !
Trái lại, "bên thắng cuộc" cũng chẳng có gì đáng tự hào, để cứ tổ chức mãi những ngày lễ kỷ niệm chiến thắng, tiếp tục xưng hùng xưng bá, mà còn cần phải thành thật sám hối xin lỗi nhân dân, do đã nướng quá nhiều con dân trong lửa đỏ, và phạm phải nhiều sai lầm trong các chủ trương-chính sách kinh tế trước và sau 1975, khiến cho nhân dân cả hai miền Nam, Bắc phải gian nan đồ khổ trong một thời gian dài. Như ý kiến phát biểu thẳng thắn của một vị Phó Giáo sư của chính bên thắng cuộc (ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh) :
"Cần có lời thành tâm sám hối và xin lỗi từ đảng Cộng sản tới nhân dân – cộng đồng các dân tộc Việt về những quyết sách sai lầm từng đưa đến những đau thương mà dân tộc phải gánh chịu như đã nêu ở trên. Hòa giải, hòa hợp dân tộc là chuyện lớn của dân của nước không thể tiếp tục quay lưng lại được. Sám hối và xin lỗi nếu được thực hiện là sự thành tâm, thiết nghĩ rất cần có cho hòa giải hòa hợp dân tộc".
Tóm lại, hòa giải hòa hợp dân tộc phải được thực hiện từ thiện chí của cả hai phía thắng cuộc lẫn thua cuộc, từ sự thâm sâu suy nghĩ bằng tinh thần bao dung truyền thống của người dân Việt, trên cơ sở xóa bỏ mọi mặc cảm tự tôn hoặc tự ti và thái độ thù dai thù vặt nhỏ nhen dù thuộc bất cứ bên nào. Nhưng nói chung "bên thắng cuộc" cần phải thể hiện tích cực trước bằng hành động thực tế cụ thể, chứ không chỉ nói suông, để cho những người Việt có hoàn cảnh như nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cựu dân biểu Dương Văn Ba… sau này mà có ai chết nữa thì gia đình họ ít nhất cũng được trả tiền đăng cáo phó như mọi công dân bình thường khác !
(14/11/2018 )
Trần Văn Chánh
Nguồn : Viet-studies, 26/11/2018
Quan hệ Triều Tiên – Hoa Kỳ đang làm cả thế giới như nín thở hồi hộp. Có cuộc họp thượng đỉnh Trump – Kim tại Singapore vào tháng 6 này hay không. Không có ! Rồi lại sẽ có ; rồi có thể có. Và cuối cùng là vẫn sẽ có như đã định – ít ra là đến giờ phút này.
Cuộc gặp lịch sử lần thứ nhì tại Bàn Môn Điếm.
Thật không bíết đâu mà lần !
D. Trump từ nhà buôn tỷ phú thành đạt bước vào làm chính trị ở tuổi 72, đã mang tài thương lượng, mặc cả trong kinh doanh vào cái nghề mới - tổng thống - rất gay go liên quan đến hòa bình hay chiến tranh thế giới.
Ông khẳng định, rồi lại phủ định, chê hết lời đối thủ của mình rồi lại xoay qua ca ngợi hết mức, không còn biết lập trường đích thật của mình.
Ông Tập Cận Bình bị hăng, mừng hụt, khi thấy Hoa Kỳ vẫn cho ra đồng xu-đôla kỷ niệm in hình 2 ông Trump và Kim, đánh dấu một sự kiện lịch sử của thế kỷ.
Ông Tập cảm thấy cô đơn, cô độc hơn lúc nào hết, khi thấy Hoa Kỳ, Nhật Bản, 2 miền Triều Tiên bàn với nhau hầu như sau lưng mình. Cay lắm !
Cuối cùng có vẻ như các nút thắt rồi sẽ được mở, vì cái trở ngại chính có vẻ như đã được các bên nhận ra rõ rệt.
Cái trở ngại chính đó là anh Tàu, anh Trung Cộng - Đại Hán, anh Tập Cận Bình và giấc mộng hão bá chủ thiên hạ trong tương lai gần, làm Hoàng đế vĩnh cửu Trung hoa và số 1 Cường quốc trong Thiên Hạ.
Tập Cận Bình đã dại dột nôn nóng làm vội, làm nhanh điều mà Đặng Tiểu Bình đã thầm thì tiểu di khi sắp tắt thở : "Thao quang dưỡng hối", từ từ mà tiến, dấu kỹ ý đồ chiến lược kẻo bị cả thế giới cảnh giác ngăn chặn, chống đối.
Quả nhiên thực tế cho thấy ông Tập Cận Bình khôn mà không ngoan, nhanh nhẩu đoảng, sớm phơi bày dã tâm và cuồng vọng, bị cả thế giới ngăn chặn, bị D. Trump coi là đối thủ chiến lược số 1 của Hoa Kỳ về thương mại, kinh tế, tài chính cũng như về đối ngoại, quốc phòng. Do tham vọng bị phơi trần, Hoa Kỳ đã thiết kế "liên minh tứ giác Kim cương gồm Hoa Kỳ - Nhật Bản - Ấn Độ - Úc" để chống lại Trung Cộng, mà một trọng điểm được xác định là Biển Đông của Việt Nam.
Trong vấn đề Triều Tiên – Hoa Kỳ, rõ ràng là Trung Cộng đóng vai trò phá đám, chọc gậy bánh xe, phá Bắc – Nam Triều Tiên hòa giải theo chiến lược Đại Hán chia để trị, duy trì dài dài xung đột Bắc – Nam để đục nước béo cò, duy trì Bắc Triều Tiên trong vùng phụ thuộc che chở của mình, chống lại một Triều tiên thống nhất độc lập sát biên giới ; đồng thời Trung Cộng ngăn chặn sự cải thiện quan hệ Hoa Kỳ - Bắc Triều Tiên lo rằng sự cải thiện đột nhiên này sẽ làm cho thế cô đơn của Trung Cộng nổi bật thêm trên vùng Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương rộng lớn.
Thế là Tập Cận Bình bị lật tẩy nhìn nhận là kẻ phá hoại từ mọi phía : từ Nam Hàn, Nhật Bản, từ cả Bắc Hàn và Hoa Kỳ, và họ gần như đồng thuận : đường ta ta cứ đi, ta là ta, độc lập tự chủ, không phụ thuộc anh nào, nhưng ta sẽ kết liên minh trong từng vấn đề để cô lập anh Trung Cộng tham vọng quá lớn. Chiếc tầu hàng không mẫu hạm kiểu Liêu Ninh và thủy phi cơ lớn do Bác kinh hạ thủy chỉ tỏ ra công nghiệp quân sự và hải quân TQ còn lâu mới sánh đươc với các cường quốc hải quân khác. Lực bất tòng tâm là đây !
Bộ chính trị và ông tổng Trọng rất nên cắp sách sang học hỏi kinh nghiệm của 2 miền Triều Tiên.
Họ đã cùng nhau dựa trên tinh thần dân tộc độc lập, Bắc Nam hòa giải và gắn bó hướng tới tương lai một Triều Tiên thống nhất, giàu mạnh, đẩy lùi tham vọng bành trướng bá quyền của họ Tập, dựa vào các cường quốc khu vực và thế giới, cùng chung sức ngăn chặn, đẩy lùi tham vọng toàn cầu của Trung Quốc, xác to mà không mạnh, chưa giải quyết được 2 vấn đề nổi cộm của nước mình là vấn đề Đài Loan và Hồng Kông, cùng nhau bảo vệ chế độ dân chủ chống lại chế độ cộng sản toàn trị lạc lõng, trơ trọi, cuối mùa.
Đảng cộng sản từng cho rằng phê và tự phê ngay thật là động lực của tiến bộ, vậy lúc này họ nên so sánh với con đường hòa giải dân tộc "chúng ta là anh em một nhà", ngẫm nghĩ về cái bắt tay chặt chẽ và ôm hôn nhau khăng khít giữa tổng thống Nam hàn Moon Jae-in và lãnh đạo trẻ măng Kim Jong-Un ngày 27/4, nay lại lặp lại chặt chẽ hơn ngày 26/5 tại làng Hòa Bình Bàn Môn Điếm, thúc tổng thống Hoa Kỳ D. Trump phải quyết định duy trì cuộc họp thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên tại Singapore ngày 12 tháng Sáu tới.
Để xem Tập Cận Bình sẽ phá thối ra sao hay đành ngậm bồ hòn làm ngọt.
Cuối cùng cả thế giới phải nể chú bé lãnh tụ Kim Jong-Un mới hơn 33 tuổi đã dày dạn sáng suốt và lãnh đạo có hiệu quả hơn cả cha Kim Jong-Il và ông nội Kim Nhật Thành để chấm dứt hẳn chiến tranh, chìa tay hòa giải để đi đến thống nhất Triều Tiên trong kỷ nnguyên Hòa bình và Thịnh vượng.
Xin nhớ ông Trọng có tuổi hơn gấp đôi chú Un. Hậu sinh khả úy là vậy.
Cái tài, cái khôn, cái giỏi của lãnh tụ hạt tiêu Kim là dám tách dần ra và chống sức ép của Trung Cộng cường quốc ở sát biên giới phía Bắc để thực hiện quyền độc lập tự chủ được toàn thế giới hoan nghênh và Liên hợp Quốc bảo vệ. Học ở Thụy Sỹ, nói tiếng Anh rất sõi, học tiếng Pháp ngang cấp đại học, mê bóng rổ, fan của nhạc rock và jazz, phi ngựa, lái máy bay, đâu phải chỉ là "chú bé tên lửa" như ông Trump đánh giá.
Hãy quan sát kỹ một nguyên thủ 33 tuổi ở Singapore ngày 12/6 tới, ngang hàng với lão già - cụ Trump 73 tuổi. Rất lạ và thú vị.
Bùi Tín
Nguồn : VOA, 31/05/2018
Ngày 28/4/2018, anh Nguyễn Trung cho đăng trên Viet-studies bài "Khao khát của chữ tâm" (1) do cảm hứng về cuộc gặp lịch sử thượng đỉnh liên Triều 27/04/2018. Đây là một "lời tiên tri" của anh dựa trên cơ sở của chữ "nếu", được trình bày trong một bài viết ngắn mà chủ yếu là :
"Nếu lãnh đạo hai miền Triều Tiên cùng nhau đặt lợi ích của tổ quốc chung lên trên hết, đủ thông minh và nghị lực vượt lên chính họ, kiên trì lý tưởng hòa hợp dân tộc, để từng bước theo đuổi một lộ trình khả thi và có các giai đoạn khác nhau trên con đường đi tới thống nhất đất nước, thì ngay trong quá trình vận động có thể kéo dài nhiều năm này, song chắc chắn vẫn còn ngắn hơn rất nhiều con đường đã cắt đôi bán đảo này cho đến hôm nay…".
Lãnh đạo hai miền Nam – Bắc Hàn trao đổi vãn kiện lịch sử . Ảnh : NK News
Anh Nguyễn Trung có nhắc đến "sự thống nhất nước Đức là một thí dụ vẫy gọi những nỗ lực" của hai miền Triều Tiên nhưng cũng nhận định rằng "con đường này còn vô cùng mờ nhạt, chắc chắn sẽ vô cùng phức tạp và gian khổ". Anh Trung còn gọi đây là một "thực tế vô cùng mong manh" nhưng anh vẫn tin tưởng vững chắc ở hướng đi tất yếu của xứ sở Triều Tiên. Là một trí thức luôn luôn trăn trở về tình hình đất nước, anh kết luận cho cả Triều Tiên lẫn Việt Nam :
"Thực tế vô cùng mong manh nói trên vẫn khẳng định đanh thép : Trong thế giới đã sang trang hôm nay mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi sống còn phải đứng lên tự quyết định vận mệnh của chính mình ! Chính thực tế vô cùng mong manh này, tự nó vạch ra hướng đi và thôi thúc hai miền Triều Tiên phải hành động… Nghĩ về đất nước mình, tôi càng thấy chỉ có một lẽ phải như vậy".
Khao khát của anh Nguyễn Trung cũng chính là khao khát của toàn thể nhân dân Triều Tiên, nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Ở đây, tôi muốn góp thêm ý kiến là ngoài niềm khao khát chung dựa vào chữ "nếu", chúng ta cần tìm hiểu khả năng hiện thực của niềm khát khao đó, liệu có diễn ra được hay không. Trước hết, hãy xem xét những kinh nghiệm đáng bi quan trước đây trong quan hệ giữa hai miền Triều Tiên.
Ngày 27/04/2018 không phải là lần đầu tiên mà lãnh đạo hai miền gặp nhau để thương thuyết về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân và hòa giải dân tộc.
– Ngày 20/01/1992, thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Chung Won-shick đã gặp Thủ tướng Đại Hàn Dân quốc Yon Hyong-muk và ký Tuyên bố chung về phi hạt nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên. Một liên Ủy hội Kiểm soát Hạt nhân được thành lập nhưng sau 13 lần hội họp đã không đạt được thỏa thuận nào và các cuộc họp phải chấm dứt năm 1993.
– Ngày 15/06/2000, cuộc họp Thượng đỉnh đầu tiên được diễn ra giữa Tổng thống Đại Hàn Kim Dae-jong và Chủ tịch Cộng hòa nhân dân Triều Tiên Kim Jong-il. Bản Tuyên bố chung của hai vị nguyên thủ xác nhận ý nghĩa lớn lao của nhu cầu thống nhất đất nước trong hòa bình và hòa giải dân tộc qua phát triển kinh tế, trao đổi thăm viếng của những gia đình bị chia cách, trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể thao, y tế, môi sinh và nhiều lãnh vực khác. Trong khi những cuộc tiếp xúc giữa hai miền tiến hành một cách chậm chạp, Bắc Triều Tiên cũng thương thuyết với Hoa Kỳ và ký một Khung Thỏa thuận (Agreed Framework) ngày 21/10/1994. Theo bản thỏa thuận này, Bắc Triều Tiên sẽ ngưng xây dựng và hoạt động các lò phản ứng hạt nhân để đổi lấy hai lò phản ứng chống phổ biến năng lượng hạt nhân. Hoa Kỳ đồng ý sẽ cung cấp nhiên liệu cho Bắc Triều Tiên trong khi chờ đợi xây dựng hai lò phản ứng này. Một tổ chức quốc tế có tên là Tổ chức Phát triển Năng lượng trên Bán đảo Triều Tiên được thành lập để thi hành thỏa thuận này.
– Ngày 2/10/2007, cuộc họp Thượng đỉnh lần hai diễn ra trong ba ngày giữa Tổng thống Roh Moo-hyun (Nam) và Chủ tịch Kim Jong-il (Bắc). Theo quan sát viên Choe Sang-hun của báo New York Times, Tổng thống Roh đưa ra một sáng kiến mạnh bạo là nếu miền Bắc thực thi hòa giải dân tộc, hợp tác toàn diện, tiến đến thống nhất trong hòa bình, và từ bỏ chế tạo vũ khí hạt nhân thì miền Nam sẽ giúp miền Bắc vực dậy nền kinh tế đang kiệt quệ để có thể cùng phát triển vững mạnh.
Mặc dù đôi bên đã có những bản tuyên bố và lời lẽ hứa hẹn tốt đẹp, thực tế đã chứng tỏ rõ ràng là Bắc Triều Tiên không hề tôn trọng những điều đã thỏa thuận với Hàn Quốc trong những bản Tuyên bố chung mang dấu ấn lịch sử. Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục chống hòa giải và thống nhất trong hòa bình, gia tăng vũ khí hạt nhân và thường xuyên đe dọa tấn công miền Nam. Lãnh đạo miền Bắc chỉ tỏ ra thiện chí thương thuyết với Hàn Quốc và Hoa Kỳ khi gặp khó khăn về kimh tế, chính trị (như sự sụp đổ của khối Xô-viết,) hay khi nhân dân bị đói kém trầm trọng.
Những hứa hẹn và thỏa thuận trong tiến trình thương thuyết chỉ là mưu chước kéo dài thời gian cho những toan tính hiểm độc, hoặc để đổi lấy những sự giúp đỡ tối cần thiết. Bình luận gia Max Boot của tờ Washington Post nhắc đến trường hợp cố Tổng thống Đại Hàn Kim Dae-jung với chính sách hòa giải Sunshine Policy đã đem lại cho ông giải thưởng Nobel Hòa Bình vì cuộc họp Thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong-il năm 2000. Trong khoảng từ năm 1998 đến 2008, Nam Hàn đã viện trợ cho miền Bắc 8 tỉ đô-la, với hi vọng sẽ tạo lập được một chế độ tử tế, nhân hậu hơn. Đó là một thất bại lớn. Sau này, tin tức được tiết lộ là Kim Dae-jong đã hối lộ cho Kim Jong-il 500 triệu đô-la để có được cuộc họp thượng đỉnh "lịch sử" năm 2000.
Tóm lại, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đều có thừa hiểu biết và kinh nghiệm về tâm địa dối trá, lật lọng của Bắc Triều Tiên, từ sau cuộc đình chiến năm 1953. Họ chỉ chú trọng phát triển sức mạnh quân sự, đặc biệt là khả năng chế tạo và thiết lập một kho vũ khí hạt nhân khiến Hoa Kỳ và thế giới phải nể sợ và Nam Hàn sẽ phải chịu khuất phục. Như Walter Russell Mead của tờ Wall Street Journal đã nhận xét :
"Bình Nhưỡng có thể sẽ chấp nhận phi hạt nhân hóa như ‘một mục tiêu’ để đổi lấy việc Hoa Kỳ bãi bỏ ngay một số biện pháp trừng phạt và khởi sự thương thuyết về một hiệp ước hòa bình. Điểm then chốt là chương trình chế tạo tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM)".
Được biết những tên lửa này nếu mang đầu đạn hạt nhân sẽ có thể tấn công bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Như vậy, tại sao bỗng nhiên Bắc Triều Tiên lại đưa đề nghị họp thượng đỉnh với Mỹ và trước đó họp thượng đỉnh với Nam Hàn ? Và tại sao cả Nam Hàn và Mỹ đều nhận lời mời không do dự ?
Tình thế đã đổi khác
Sau những nỗ lực phi thường và liều lĩnh, Bắc Triều Tiên đã trở thành một lực lượng hạt nhân đáng nể sợ và có tiếng nói ảnh hưởng đối với các cường quốc hạt nhân. Dù biết mình còn kém Hoa Kỳ rất xa và sẽ bị tiêu diệt mau chóng nếu gây chiến với Hoa Kỳ, Bình Nhưỡng cũng tin chắc là Washington muốn giải quyết hòa bình vấn đề bán đảo Triều Tiên cả về quân sự lẫn chính trị. Trong khi đó, Kim Jong-un cũng biết rằng lãnh đạo Bắc Kinh muốn Bắc Triều Tiên phải lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc, do đó không thể để cho Bắc Triều Tiên trở thành một quốc gia phát triển, nhất là sở hữu một sức mạnh hạt nhân.
Lịch sử quan hệ giữa hai nước đã cho thấy từ thời cổ đại, các bộ tộc Triều Tiên thường nổi dậy chống "thiên triều" Trung Quốc. Tinh thần độc lập của dân tộc Triều Tiên thể hiện mạnh mẽ trong những cuộc chiến chống quân xâm lược Mông Cổ (nhà Nguyên) mà hoàng tử Việt Nam tị nạn Lý Long Tường (đời Trần) đã có công lớn giúp Triều Tiên chiến thắng quân Nguyên hai lần trong thế kỷ 13. Đến thế kỷ 17, Triều Tiên chống quân xâm lược Mãn Châu nhưng thất bại và phải chịu sự bảo hộ của nhà Thanh cho tới cuối thế kỷ 19 khi Nhật Bản đánh bại quân Thanh trong chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895). Triều Tiên hoàn toàn bị Nhật đô hộ từ 1910 cho đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945. Ngay sau đó, Triều Tiên bị Nga và Mỹ chia đôi ở vĩ tuyến 38.
Nhân dân Triều Tiên, dù dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc hay chế độ cộng hòa ở miền Nam cũng đều nuôi dưỡng khát vọng độc lập và thống nhất trong hòa bình, thịnh vượng. Kim Jong-un thấy rất rõ, nhờ liên kết với Hoa Kỳ, Hàn Quốc đã phát triển mau chóng về khoa học công nghệ và trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 ở Á Châu. Đó là lý do ngấm ngầm khiến Bắc Triều Tiên luôn nghi ngại "giấc mơ Trung Quốc" của Tập Cận Bình với chủ trương sáp nhập và Hán hóa các dân tộc láng giềng nhỏ như Triều Tiên và Việt Nam cũng như tham vọng bá quyền của Trung Quốc tại Á Châu và thế giới.
Quả thật trong nhiều năm qua, quan hệ thân thiết giữa Bình Nhưỡng và Bắc Kinh ngày càng lạnh nhạt. Bắc Kinh bỏ phiếu tán thành quyết định của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trừng phạt Bắc Triều Tiên về vũ khí hạt nhân. Một tài liệu lưu trữ tại The Wilson Center, Washington, DC, cho thấy ngay từ năm 1973, Đại sứ quán Nga Xô đã tiết lộ là "Trung Quốc không muốn thấy một nước Triều Tiên thống nhất vì với tổng số 50 triệu dân (nay đã lên tới 80 triệu) Triều Tiên sẽ trở thành một yếu tố chính trị quan trọng và tinh thần độc lập sẽ mạnh mẽ hơn nữa… Lãnh đạo Trung Quốc sẽ chỉ ủng hộ Triều Tiên thống nhất nếu họ có đủ bảo đảm là một Triều Tiên thống nhất sẽ đi theo đường lối thân Trung Quốc".
Dù sao, không thể đơn giản kết luận rằng những lý do trên đã dẫn đến việc Bắc Triều Tiên bỗng nhiên xoay trục về chính sách đối ngoại, biến kẻ thù thành bạn, muốn hợp tác với Mỹ và hòa giải với Nam Hàn. Thực tế là Kim Jong-un muốn gấp rút đem lại cho Bắc triều Tiên một vị thế thuận lợi và một tiếng nói thuyết phục hơn, không chỉ với Mỹ và Nam Hàn, mà cả trong những cuộc đàm phán sáu bên về vấn đề giải trừ hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên mà họ đã tự ý rút khỏi năm 2009. Sáu nước tham gia gồm có : Trung Quốc (chủ nhà), Hoa Kỳ, Nga, Nhật, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc.
Sau khi đã thành công trong việc phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa năm 2017, họ Kim thấy đã đến lúc có thể mở những cuộc thương thuyết ở cấp cao nhất với Mỹ và Nam Hàn đồng thời trở lại bàn đàm phán sáu bên để có thể thoát khỏi tình trạng kiệt quệ về kinh tế do quyết định cấm vận của Liên Hiệp Quốc. Kim Jong-un cũng đủ khôn ngoan không làm mất lòng Trung Quốc nên đã bí mật qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình trước khi có cuộc hội đàm với Moon Jae-in vào tháng Tư và cuộc thương thuyết với Donald Trump được chuẩn bị vào tháng Sáu.
Đường lối mới của Bắc Triều Tiên được tất cả các đối tác hoan nghênh, khích lệ và đặt hi vọng vào kết quả tích cực của những vòng đàm phán tương lai. Trung Quốc dù không mong muốn có hòa giải giữa hai miền Nam – Bắc Triều Tiên, cũng hiểu rằng, để tránh chiến tranh, miền Bắc cần phải chứng tỏ thiện chí với miền Nam để làm cầu nối cho cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Triều. Tập Cận Bình thông báo cho Donald Trump biết rằng, chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kim Jong-un "đã diễn ra rất tốt đẹp" và Chủ tịch Kim đang mong chờ cuộc hội kiến với Tổng thống Trump.
Tập Cận Bình cho hay, ông ủng hộ những nỗ lực gỡ bỏ các mối căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên và tuyên bố với Tân Hoa Xã rằng "Năm nay có nhiều thay đổi hứa hẹn trong tình hình Triều Tiên. Chúng tôi trân trọng những cố gắng cải thiện của chủ tịch Kim".
Về phía Hoa Kỳ và Nam Hàn, hai nước đều không muốn chiến tranh Triều Tiên lại xảy ra một lần nữa, và đều muốn chấm dứt tình trạng căng thẳng và những hành động hiếu chiến của miền Bắc đã kéo dài 65 năm. Với tư cách một quốc gia thịnh vượng và tiến bộ, và vì lợi ích của dân tộc, Nam Hàn mong muốn thương thuyết và ký kết với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên một thỏa ước hòa bình vĩnh cửu thay thế cho hiệp định đình chiến (thực tế là một thỏa thuận ngưng bắn) ký kết giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên năm 1953.
Miền Nam cũng mong muốn thực hiện hòa giải dân tộc và sẵn sàng trợ giúp miền Bắc về kinh tế và phát triển về mọi mặt. Để đạt mục đích ấy, Bắc Triều Tiên phải chấm dứt những hành động chuẩn bị chiến tranh mà chủ yếu là giải trừ vũ khí hạt nhân. Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in thừa hiểu rằng, Kim Jong-un không muốn có một cuộc chiến tranh tự sát với Hoa Kỳ nhưng nhất quyết không chấp nhận điều kiện giải trừ vũ khí hạt nhân, vì đây là chỗ dựa duy nhất để Bắc Triều Tiên tạo được vị thế vững chắc trong những cuộc thương thuyết với Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Như vậy, mục đích thầm kín của Kim Jong-un không phải là làm cho Bắc Triều Tiên trở thành một cường quốc hạt nhân, mà làm sao được bảo đảm là sẽ không bị Mỹ lật đổ và tương lai có thể trở thành một nước giàu có và phát triển như Nam Hàn.
Trong hội nghị thượng đỉnh 27/4, Chủ tịch Kim đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng tụt hậu của Bắc Triều Tiên và khi Tổng thống Nam Hàn nhận lời mời sang thăm Bình Nhưỡng vào mùa Thu năm nay, ông Kim đã khuyên ông Moon nên đi bằng phi cơ vì hệ thống giao thông đường bộ ở Bắc Triều tiên quá tồi để đi bằng xe hơi. Có thể hai nhà lãnh đạo của hai miền Nam – Bắc đã tiến đến đồng ý về một lịch trình phi hạt nhân hóa với những bước cụ thể có kiểm soát để đổi lấy việc Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc hủy bỏ một số biện pháp trừng phạt và khởi sự thương thuyết về một hiệp ước hòa bình. Vấn đề là giải pháp này có được Tổng Thống Trump chấp nhận hay không. Chỉ biết rằng ông Trump đã mau chóng chấp thuận đề nghị của ông Kim về một cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Triều và cho rằng, đây là cơ hội tốt để phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và đem lại hòa bình cho cả hai miền Nam, Bắc.
Cuối tháng Tư, tân Ngoại trưởng Mike Pompeo đã bay sang Bình Nhưỡng gặp Kim Jong-un để chuẩn bị chi tiết cho cuộc họp Trump-Kim. Ông nói với hãng truyền hình ABC rằng : "Tôi đem theo một thông điệp minh bạch của Tổng thống Trump và Chủ tịch Kim đã hiểu rõ sứ mạng của tôi là phải đạt được mục tiêu phi hạt nhân hóa toàn diện, có kiểm chứng và không thể đảo ngược". Chủ tịch Kim cho hay, "ông đã chuẩn bị sẵn sàng để đưa ra một bản đồ có thể giúp chúng tôi hoàn tất sứ mạng".
Ngày 4/5, Bạch Ốc lại loan tin, Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ tiếp đón Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in tại tòa Bạch Ốc vào ngày 22/5 và đôi bên sẽ thảo luận về thượng đỉnh Mỹ-Triều sắp tới. Trong dịp này, chắc chắn ông Moon sẽ tìm mọi cách thuyết phục ông Trump chấp thuận giải pháp phi hạt nhân hóa Triều Tiên bằng một lịch trình được thực hiện dưới sự kiểm soát chặt chẽ của tất cả sáu bên đối tác, thay vì đòi hỏi Bắc Triều Tiên phải lập tức hủy bỏ toàn diện các phương tiện chế tạo vũ khí hạt nhân. Các bình luận gia quốc tế đang theo dõi sát tình hình hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều với những phân tích và dự đoán khác nhau, nhưng không ai muốn thấy cơn thịnh nộ của ông Trump nếu chẳng may cuộc hội nghị này thất bại. Nếu hội nghị thành công thì cả hai ông Donald Trump và Kim Jong-un đều xứng đáng lãnh giải Nobel hòa bình.
Thấy người lại ngẫm đến ta
Trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến hội nghị thượng đỉnh liên Triều, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết :
"Việt Nam chúc mừng và đánh giá cao những nỗ lực của Hàn Quốc và Triều Tiên trong việc tổ chức thành công Hội đàm thượng đỉnh liên Triều ngày 27/4, góp phần quan trọng vì hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới, trong đó có việc thúc đẩy phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Việt Nam tin tưởng Triều Tiên và Hàn Quốc cùng các bên liên quan sẽ tiếp tục nỗ lực thúc đẩy đối thoại, phát huy các kết quả tích cực đã đạt được thời gian qua, đặt nền móng lâu dài cho hòa bình, ổn định, phát triển tại bán đảo Triều Tiên và trong khu vực, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai miền Triều Tiên cũng như vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế".
Cho đến nay, chưa thấy một lãnh đạo Việt Nam nào cho biết cảm tưởng về hội nghị thượng đỉnh liên Triều, nhất là đối với vấn đề hòa giải dân tộc đã được hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Triều Tiên nhấn mạnh trong bản Tuyên bố chung :
"Hàn Quốc và Triều Tiên sẽ nối lại quan hệ huyết thống giữa người dân hai nước nhằm đem lại tương lai cùng thịnh vượng và thống nhất bằng việc tạo dựng mối quan hệ liên Triều toàn diện và đột phá. Thúc đẩy quan hệ liên Triều nhằm đáp ứng khao khát của toàn dân tộc và sự cấp thiết của thời đại khiến cho mối quan hệ này không thể tiếp tục bị kìm hãm nữa...
Hàn Quốc và Triều Tiên thống nhất khuyến khích hợp tác, trao đổi, thăm hỏi và liên lạc ở tất cả các cấp một cách tích cực hơn nhằm hồi sinh khát vọng hòa giải và đoàn kết dân tộc. Hai bên sẽ tiếp tục khuyến khích bầu không khí hòa bình và hợp tác bằng cách tổ chức hàng loạt các sự kiện chung trong những ngày lễ trọng đại đối với cả hai nước như ngày 15/6 với sự tham gia của Chính phủ, Quốc hội, các đảng phái chính trị, tổ chức dân sự hai nước".
Một sự kiện đột phá đáng ghi nhớ là em gái Chủ tịch Kim Jong-in và phái đoàn cao cấp Bắc Triều Tiên đã tham dự khai mạc Thế vận hội Olympic mùa Đông năm nay tại Nam Hàn, và hai đoàn lực sĩ hai miền Nam, Bắc đã cùng diễn hành dưới một lá cờ truyền thống chung.
Chính những nỗ lực "nhằm hồi sinh khát vọng hòa giải và đoàn kết dân tộc" của Triều Tiên đã khiến anh Nguyễn Trung liên tưởng đến trường hợp Việt Nam :
"Trong thế giới đã sang trang hôm nay mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi sống còn phải đứng lên tự quyết định vận mệnh của chính mình ! Chính thực tế vô cùng mong manh này tự nó vạch ra hướng đi và thôi thúc hai miền Triều Tiên phải hành động… Nghĩ về đất nước mình, tôi càng thấy chỉ có một lẽ phải như vậy".
Tôi đồng ý với anh Nguyễn Trung nhưng muốn nhấn mạnh rằng, "đòi hỏi sống còn" của dân tộc Việt Nam quá cấp bách và cơ hội hồi sinh mong manh hơn nhiều so với Bắc Triều Tiên :
1. Từ nhiều năm qua, đặc biệt từ hội nghị Thành Đô 1990, Trung Quốc tiếp tục từng bước chiếm đoạt đất nước Việt Nam và Hán hóa chủng tộc Việt.
2. Lãnh đạo Việt Nam đặt sự tồn tại của Đảng công sản lên trên sự sống còn của đát nước, tuân thủ một chiều quan hệ 16 chữ và 4 tốt do Trung Quốc áp đặt. Quan hệ hợp tác với Mỹ chỉ là một xảo thuật để thuyết phục Trung Quốc giảm bớt tôc độ thôn tính Việt Nam.
3. Sự tranh giành quyền lực và trừng phạt lẫn nhau giữa các phe phái trong Đảng không vì lợi ích của đất nước mà chỉ vì muốn giành độc quyền tham nhũng và bóc lột nhân dân.
Trí thức và các tổ chức xã hội dân sự đã nhiều lần kiến nghị lãnh đạo cải thiện chính sách để tạo sự đoàn kết và hậu thuẫn của toàn dân trong sứ mạng bảo vệ độc lập, chủ quyền và phát triển đất nước, nhưng chỉ được chính quyền trả lời bằng thái độ lạnh nhạt, ngăn cấm hay đàn áp.
Bệnh ngu dốt, độc tài và tham nhũng của lãnh đạo Việt Nam đã hết thuốc chữa, chỉ có thể thay thế chứ không thể sửa đổi. Đất nước chỉ có hi vọng hồi sinh nếu có sự xuất hiện của một đảng đối lập được lãnh đạo bởi những người thật sự yêu nước, không kể tuổi tác và giới tính, có tầm nhìn, có bản lãnh và lề lối làm việc dân chủ để lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân và các đảng viên đã và đang "tự diễn biến, tự chuyển hóa".
Được như vậy, khát vọng của anh Nguyễn Trung, dù "vô cùng mong manh", cũng có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Lê Xuân Khoa
Nguồn : Tiếng Dân, 07/05/2018)
**********************
(1) Khao khát của chữ tâm
Nguyễn Trung, viet-studies, 27/04/2018
Như một lời chúc mừng của riêng tôi cho cuộc gặp lịch sử thượng đỉnh liên Triều 27/04/2018, xin cho phép tôi đưa ra một lời tiên tri (prophet) của chữ "nếu", theo hiểu biết và mong muốn của tôi như sau :
Bằng cách nào đó, nếu lãnh đạo hai miền Triều Tiên cùng nhau đặt lợi ích của tổ quốc chung lên trên hết, đủ thông minh và nghị lực vượt lên chính họ kiên trì lý tưởng hòa hợp dân tộc, để từng bước theo đuổi một lộ trình khả thi và có các giai đoạn khác nhau trên con đường đi tới thống nhất đất nước, thì ngay trong quá trình vận động có thể kéo dài nhiều nhiều năm này, song chắc chắn vẫn sẽ còn ngắn hơn rât nhiều con đường đã cắt đôi bán đảo này cho đến hôm nay, hai miền Triều Tiên sẽ trở thành một cục nam châm mạnh. Theo các nấc thang tiến triển của quá trình hòa hợp dân tộc, cục nam châm này sẽ có sức hút ngày càng mạnh một sự hợp tác đầy tính cạnh tranh của những cường quốc liên quan như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga… với hai miền Triều Tiên.
Đấy có thể là sẽ một sự hợp tác mà cả hai miền cần đủ trí tuệ, ý chí và nghị lực, quyết cùng nhau hướng nó vào phục vụ cho lợi ích của bán đảo. Làm được như thế bán đảo Triều Tiên sẽ có thể tự mở ra cho chính mình một tiền đồ hoàn toàn mới ; đồng thời trong khu vực sẽ có thể diễn ra khả năng thay đổi địa chính trị và địa kinh tế sâu sắc... Sự thống nhất nước Đức là một ví dụ vẫy gọi những nỗ lực này. Hiện nay con đường này còn vô cùng mờ nhạt, chắc chắn sẽ vô cùng phức tạp và gian khổ, thậm chí trong bối cảnh quốc tế nhất định nào đó có thể là hoàn toàn duy tâm.
Mặc dù vậy, thực tế vô cùng mong manh nói trên vẫn khẳng định đanh thép : Trong thế giới đã sang trang hôm nay, mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi sống còn phải đứng lên tự quyết định vận mệnh của chính mình ! Chính thực tế vô cùng mong manh này tự nó vạch ra hướng đi và thôi thúc hai miền Triều Tiên phải hành động.
Nghĩ về đất nước mình, tôi càng thấy chỉ có một lẽ phải như vậy.
Nguyễn Trung
Nguồn : viet-studies, 28/04/2018
(04/05/2016)
LTS : Trong dịp nhớ lại ngày 30/4/1975, cộng đồng người Việt trong và ngoài nước đã có nhiều bài viết về biến cố này. 42 năm đã trôi qua, vết thương vẫn còn nguyên vẹn. Nhiều nhân vật cấp tiến và cởi mở của chế độ cộng sản Việt Nam cũng đã viết nhiều bài về biến cố này. Có thể đây là những ý tốt của người người viết, nhưng sau khi đọc kỹ lại những người bạn cấp tiến này người đọc cảm thấy họ đã chỉ lặp những khuôn sáo cũ : kêu gọi hòa hợp dân tộc và nhắc nhở mọi người phải quy phục Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam.
Trước tình thế khó khăn hiện nay của chế độ, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam một lần nữa yêu cầu toàn dân hãy đoàn kết sau lưng Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt lần này những thông điệp kêu gọi đích danh cộng đồng người hải ngoại.
Ông Vũ Ngọc Hoàng, cựu ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, cựu Phó Trưởng ban Thường trực Ban tuyên giáo trung ương, than : "Trong khi chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thành đối tác toàn diện của nhau, các cựu thù là người Việt và người Mỹ đã từng xáp chiến quyết tử năm xưa nay đã thành bạn và đối tác của nhau. Vậy mà người Việt với nhau vẫn chưa xóa bỏ xong ngăn cách".
Ông Vũ Mão, một đảng viên cao cấp, cựu ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt, Ủy ban Thường vụ quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992, nói rõ hơn : "Cũng phải nói rằng vì những vấn đề diễn ra trong quá khứ nên vẫn còn có một bộ phận nhỏ người dân chưa thực sự hiểu biết rõ về chính sách của Đảng, Nhà nước. Thậm chí họ còn bị những thế lực xấu lợi dụng để chống lại đất nước, gây ảnh hưởng tới hòa hợp dân tộc".
Nói chung, khi làm sai hay gặp khó khăn Đảng và Nhà nước cứ đổ lỗi cho "những thế lực thù dịch". Điệp khúc thô sơ và giản dị này ngày nay không còn ăn khách nữa, phải phát minh ra một cái gì mới. Vấn đề là Ban tuyên gáo trung ương đảng cộng sản không còn gì để phát minh nên đã sử dụng lại vế sau của cụm từ hòa giải hòa hợp dân tộc, nghĩa là hòa hợp mà thôi.
Để giải thích rõ lập trường của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên về lập trường hòa giải hòa hợp dân tộc, chúng tôi cho đăng lại một đoạn trong dự án chính trị dân chủ đa nguyên, Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2.
Rất mong đón nhận những đóng góp của đọc giả về đề tài này. Xin lưu ý, chúng tôi không đăng những bài viết vô danh có tính mạ lỵ, phỉ báng và văn phong bất nhã.
Kính mến,
Nguyễn Văn Huy
********************
Những hình ảnh khó quên trong ký ức người Việt miền Nam sau ngày 30/04/1975
********************
Hòa giải và hòa hợp dân tộc
Trong hơn bốn thế kỷ qua, kể từ khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê hồi đầu thế kỷ 16, nước ta liên tiếp đi từ cuộc chiến tranh này đến cuộc xung đột khác. Đất nước bị chia cắt nhiều lần trong hơn hai thế kỷ, bị đô hộ và bị đặt dưới những chế độ hành chánh khác nhau trong gần một trăm năm. Chiến tranh, nội loạn, trả thù, báo oán, bách hại đã là những yếu tố thường trực trong lịch sử cận đại của ta. Khốc liệt nhất là cuộc chiến sau cùng 1945-1975 trong đó lần đầu tiên chúng ta xung đột với nhau cả về ý thức hệ, và sau đó phe chiến thắng thi hành chính sách bỏ tù và hạ nhục, cùng với vô số biện pháp phân biệt đối xử.
Do hoàn cảnh lịch sử, chất liệu nhân xã của chúng ta đã bị tổn thương nặng nề. Những đổ vỡ đòi hỏi một thời gian hàn gắn rất lâu dài, do đó tinh thần căn bản của mọi chính sách cho nhiều thế hệ tới sẽ phải là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù và hiềm khích của quá khứ để đi đến hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng một tương lai chung.
Trong một thế giới thay đổi dồn dập như hiện nay, quốc gia nào cũng phải chịu những xáo trộn không ngừng. Ngành này tiến lên trong khi ngành kia suy thoái, khu vực này bành trướng trong khi khu vực khác trì trệ. Những chênh lệch xã hội liên tiếp xuất hiện và các chính sách dù hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể nào thỏa mãn được tất cả mọi người. Cho nên quốc gia nào, dân tộc nào cũng liên tục phải hòa giải với nhau vì các mối xung đột quyền lợi và căng thẳng luôn luôn xảy ra. Hòa giải đã trở thành triết lý điều hành quốc gia.
Hòa giải là bắt buộc của mọi dân tộc dù ở trình độ nào và có lịch sử nào. Nhưng dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc cần hòa giải hơn cả.
Chúng ta cần hòa giải cộng đồng quốc gia nói chung với các sắc tộc ít người đã có mặt trên đất nước này từ ngày mở nước và luôn luôn bị chà đạp và hắt hủi trong suốt dòng lịch sử.
Chúng ta cần hòa giải các tôn giáo, nhất là Phật Giáo và Công Giáo, hai tôn giáo đã bị các nhà cầm quyền Việt Nam cũng như ngoại bang bách hại, đàn áp, phân biệt đối xử và đặt vào thế đối đầu với nhau. Đã thế, các hiềm khích, hậu quả của một hoàn cảnh lịch sử trong đó cả hai tôn giáo đều là nạn nhân, thay vì được giải tỏa còn đôi khi bị thổi phồng và khai thác cho những tham vọng bất chính.
Chúng ta cần hòa giải và hòa hợp hai miền Nam - Bắc đã thường xuyên bị chia cắt và đặt vào thế tương tranh và kể từ 1975 bị chia rẽ bởi một chính sách không khác gì một sự chiếm đóng của Đảng Cộng Sản.
Chúng ta cần hòa giải đất nước với cộng đồng người Việt hải ngoại đã phải bỏ người thân, tài sản, mồ mả tổ tiên ra đi vì không thể chấp nhận được một chính quyền hà khắc, đã phải chịu đựng những khổ đau và mất mát rất lớn do hải tặc, sóng gió và công an.
Chúng ta cũng cần hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam. Phải nhìn nhận rằng làm người Việt Nam cho đến nay đã là một điều không may. Đất nước đã chỉ là hy sinh. Hơn thế nữa, các tập đoàn lãnh đạo kế tiếp nhau còn nhân danh đất nước để phạm những tội ác rất nghiêm trọng. Dĩ nhiên, đất nước không đồng hóa với người cầm quyền, nhưng vẫn được thể hiện qua người cầm quyền. Vì thế, khi trong một thời gian quá dài chỉ có những người cầm quyền gian trá hay bạo ngược, hay vừa gian trá vừa bạo ngược, thì chính hình ảnh của đất nước cũng bị tổn hại và lòng yêu nước cũng bị suy giảm. Hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam là điều phải làm để phục hồi lòng yêu nước, một yếu tố không thể thiếu nếu chúng ta còn muốn một tương lai cho Việt Nam. Muốn như thế nhà nước, người đại diện đất nước, phải là một nhà nước khiêm tốn, hiền hòa và tuyệt đối lương thiện. Tổ quốc Việt Nam phải được cảm nhận như một tình yêu và một dự án tương lai chung.
Nhưng gần nhất và cũng đau đớn nhất, chúng ta vừa tàn sát nhau trong một cuộc tương tranh kéo dài ba mươi năm. Cuộc chiến này là một cuộc nội chiến vì tuyệt đại đa số những người chủ trương, những người cầm vũ khí tàn sát nhau và những nạn nhân đều là người Việt. Một cuộc nội chiến hổ nhục vì cả hai phe lâm chiến đều nhận mệnh lệnh và phương tiện từ nước ngoài. Sự kiện đảng cộng sản không nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến chỉ làm cho tính nội chiến khốc liệt hơn vì họ không nhìn nhận cả tư cách đồng bào của những người trước mặt. Cần ý thức rằng nội chiến tàn phá hơn hẳn chiến tranh với nước ngoài bởi vì ngoài những thiệt hại sinh mạng và vật chất nó còn hủy hoại cả tinh thần dân tộc và ý chí sống chung, nghĩa là chính nền tảng của quốc gia. Cho tới nay chưa có dân tộc nào trở lại được bình thường sau một cuộc nội chiến trong vòng một hay hai thế hệ, ngay cả với những cố gắng hòa giải tận tình và dù nội chiến chỉ kéo dài vài năm. Cuộc nội chiến của chúng ta dài và khốc liệt hơn nhiều. Những vết thương vẫn còn chảy máu và thay vì được hàn gắn đã bị trầm trọng hóa bởi một chính sách phân biệt đối xử thô bạo sau đó.
Trong cuộc xung đột vừa qua chúng ta đã không có chọn lựa tốt nào. Chúng ta đã chỉ có những chọn lựa đau buồn, giữa cái dở và cái mà một cách chủ quan chúng ta thấy là còn dở hơn. Chúng ta đã chỉ chịu đựng chứ không làm chủ các biến cố. Rất ít người Việt Nam nào đã thực sự tranh đấu cho cái mà mình ưa thích. Trong tuyệt đại đa số, người Việt Nam, quốc gia cũng như cộng sản, đã chỉ chống lại phe mà mình thấy là còn tồi tệ hơn hàng ngũ mình đang đứng. Người không chịu đựng được sự thối nát của các chính quyền quốc gia thì đứng vào hàng ngũ cộng sản, mặc dầu cũng biết bản chất bạo ngược của nó, còn người thấy rằng để đất nước lọt vào tay cộng sản là một tai họa quá lớn thì đứng vào hàng ngũ quốc gia, mặc dầu cũng chán ghét sự tồi dở của nó. Anh em ruột thịt, bạn bè thân thích đã chỉ vì một sự lượng định nặng nhẹ khác nhau, hay đã chỉ bị hoàn cảnh xô đẩy, thậm chí bị bắt buộc, mà phải quay lưng lại với nhau, mạt sát nhau, bắn giết nhau. Cho nên, ngoài những đổ vỡ về vật chất và sinh mạng, còn có một đổ vỡ lớn hơn trong lòng mỗi người Việt Nam.
Để rồi, kẻ thì đã thua trận, bị tù đày và nhục mạ, người thì nhận ra tất cả những hy sinh của mình chỉ là để đóng góp cho một công trình đập phá đất nước. Chẳng có ai có lý do gì để bắt lỗi ai, tất cả chúng ta đều đã thất bại bẽ bàng. Chúng ta đều là nạn nhân. Chúng ta phải bắt tay nhau cùng làm lại lịch sử.
Thách đố trước mắt chúng ta là một tập đoàn cầm quyền đã gây đổ vỡ trầm trọng cho đất nước, đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, nhưng vẫn xấc xược tự cho mình độc quyền cai trị đất nước vô thời hạn và đàn áp thô bạo mọi tiếng nói đối lập, dù là ôn hòa. Tập đoàn này dùng mọi biện pháp để ngăn chặn hòa giải và hòa hợp dân tộc vì họ biết rằng chỉ có thể duy trì được sự thống trị của họ nếu dân tộc Việt Nam bất lực vì hận thù và chia rẽ. Không những không xoa dịu những vết thương của cuộc chiến họ còn mở rộng hiềm khích tới nhiều thành phần dân tộc và kéo dài hận thù tới thế hệ vừa lớn lên bằng những biện pháp đàn áp chính trị, xếp loại dân chúng và phân biệt đối xử.
Ngày hôm nay khát vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam là dân chủ. Nhìn lại anh em, nhận lại bạn bè phải là tinh thần chỉ đạo của một tập hợp dân tộc mới, trong đó không có kẻ đúng người sai mà chỉ có những người anh em bình đẳng cùng ngậm ngùi cho đất nước và cùng kết hợp trong một cuộc vận động dân chủ. Hòa giải và hòa hợp dân tộc chính là điều kiện cốt lõi để cô lập và đánh bại tập đoàn độc tài ngoan cố.
Nhưng vượt lên trên những sôi động nhất thời, hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một đoạn tuyệt lịch sử cần thiết để bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn của hận thù và chia rẽ đã giam hãm chúng ta từ nhiều thế kỷ qua, nhất là từ nửa thế kỷ nay. Đây là một đoạn tuyệt lịch sử rất khó khăn vì ý niệm hòa giải dân tộc hoàn toàn thiếu vắng trong tập quán chính trị Việt Nam. Trong gần tám thế kỷ, kể từ nhà Trần, nhổ cỏ tận gốc, tru di tam tộc, tiêu diệt toàn bộ vẫn là những biện pháp được người cầm quyền sử dụng thay cho hòa giải. Dần dần cách ứng xử hung bạo đó đã ăn rễ vào tâm lý tập thể và làm cho ý niệm hòa giải trở thành xa lạ đối với người Việt Nam. Vì thế nhiều người đã nói rằng dân tộc Việt Nam không có nhu cầu hòa giải trong khi thực sự chúng ta là một trong những dân tộc cần hòa giải nhất. Chính vì thiếu tinh thần hòa giải mà chúng ta đã bị tù hãm trong hận thù. Cái vòng oan nghiệt đó đã khiến chúng ta không động viên được mọi sinh lực của đất nước để vươn lên và giải thích tại sao chúng ta đã phải quằn quại mãi trong nghèo khổ và thua kém.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều kiện cần cho thắng lợi của cuộc vận động dân chủ hiện nay và cũng là điều kiện cần cho thành công của cố gắng phục hưng đất nước ngày mai.
Thực thi hòa giải dân tộc không phải chỉ đơn thuần là một tình cảm mà còn đòi hỏi những biện pháp cụ thể. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ đặt con người tự do làm đối tượng phục vụ cao nhất. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ coi đa nguyên như một giá trị tuyệt đối. Đa nguyên về mọi mặt tâm linh, văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ chế tài nghiêm khắc mọi ngôn ngữ và thái độ xúc phạm với mọi sắc tộc, mọi cộng đồng, mọi tín ngưỡng, mọi quan điểm. Ngược lại nhà nước sẽ khuyến khích và giúp đỡ tận tình mọi sáng kiến và cố gắng đem mọi người Việt Nam thuộc mọi vùng, mọi sắc tộc, mọi tôn giáo, mọi nhân sinh quan, mọi chính kiến đến gần nhau hơn trong tinh thần tôn trọng mọi khác biệt. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị hạ nhục, phải bồi thường thiệt hại, dù chỉ là một cách không đầy đủ, cho những nạn nhân mà không tạo ra những nạn nhân mới. Xóa bỏ hận thù có nghĩa là sẽ không có những vụ án chính trị, ngược lại sẽ có một đạo luật cấm nhà nước truy tố bất cứ ai vì chức vụ mà họ đã giữ, trừ khi họ đã vi phạm một cách rất nghiêm trọng ngay chính những luật lệ đương hành lúc họ tại chức. Mọi công dân có quyền tố cáo những hà hiếp mà mình đã là nạn nhân, và nhà nước sẽ xử lý những tranh tụng đó như những tranh tụng giữa những công dân bình đẳng trước pháp luật trong tinh thần hòa giải dân tộc.
Những biện pháp đó, được thực hiện với thành tâm hàn gắn những vết thương do lịch sử để lại, sẽ giúp chúng ta dần dần tiến tới hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương lai Việt Nam chung. Chúng ta sẽ khép lại một trang sử đau buồn của đất nước và mở ra một trang sử mới viết bằng tình tự dân tộc. Hoà giải và hòa hợp dân tộc sẽ phải là chính sách quả quyết của đất nước ta trong nhiều thế hệ.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
Nguồn : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, 2015
LTS : Chúng tôi đăng lại sau đây bài viết của ông Vũ Mão, một đảng viên cao cấp, cựu ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt, Ủy ban Thường vụ quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992, về vấn đề hòa giải hòa hợp và thống nhất dân tộc.
Muốn xây dựng đồng thuận dân tộc, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc, nghĩa là phải hòa giải trước và hòa hợp sau. Trong bài này, ông Vũ Mão chỉ đề cập đến "hòa hợp dân tộc" và không nhắc gì tới "hòa giải dân tộc", nghĩa là đất nước và dân tộc phải đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Vũ Ngọc Hoàng, cựu ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, cựu Phó Trưởng ban Thường trực Ban tuyên giáo trung ương, than : "Trong khi chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thành đối tác toàn diện của nhau, các cựu thù là người Việt và người Mỹ đã từng xáp chiến quyết tử năm xưa nay đã thành bạn và đối tác của nhau. Vậy mà người Việt với nhau vẫn chưa xóa bỏ xong ngăn cách".
Tại sao ngăn cách ? Ông Vũ Mão dẫn chứng lung tung, nhưng có thể tóm tắt lại như thế này : quyền "cho và tha" thuộc về đảng và nhà nước, còn người dân chỉ có một quyền duy nhất là "xin và nhận". Những tư tưởng hay ý kiến trái ngược với đường lối và chính sách của đảng và nhà nước đều bị chụp lên đầu chiếc nón "phản động" hay bị của "thế lực thù địch" kích động. Hòa hợp thế nào khi chỉ có đảng và nhà nước đúng còn dân thì lúc nào cũng sai ?
Ông Vũ Mão kết luận : "Con người ta sinh ra không ai có quyền lựa chọn dân tộc, nhưng chúng ta có quyền quyết định cho hành động của mình. Đó phải là những hành động đúng đắn nhất, là khát vọng đoàn kết để cùng nhau xây dựng Việt Nam thịnh vượng".
Đúng. Nhưng tìm lại anh em, nhận lại bạn bè là một tình cảm chân thật và đòi hỏi một quyết tâm cao chứ không thể bằng lưỡi gỗ.
Nguyễn Văn Huy
********************
Đã hơn 40 năm trôi qua kể từ ngày đất nước thống nhất, câu chuyện hòa hợp dân tộc vẫn luôn là chủ đề được các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đồng bào ta cả ở trong và ngoài nước hết sức quan tâm.
Câu chuyện hòa hợp dân tộc không phải bây giờ mới nhắc đến. Nhớ lại năm 1972, trong bữa cơm với các cán bộ địa phương ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), Tổng bí thư Lê Duẩn đã đặt ra câu hỏi : "Sau khi Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, việc gì là lớn nhất ?".
Có nhiều câu trả lời đều nói về phát triển kinh tế đất nước, khai thác tài nguyên, phát triển nông thôn... Nhưng, Tổng bí thư Lê Duẩn thì nói rằng : "Vấn đề lớn nhất sau chiến tranh cần phải làm, đó là hòa hợp dân tộc".
Nói như vậy để thấy rằng, vấn đề này đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm, đặt ra ngay từ khi đất nước thống nhất. Dù vậy những biến cố trong quá khứ, những vấn đề do lịch sử để lại có nhiều yếu tố phức tạp, cho nên ít nhiều cũng đã tác động tình hình chính trị xã hội nước ta trong những năm vừa qua.
Thời kỳ sau năm 1975 đã có một bộ phận bà con nhân dân ta ra nước ngoài định cư. Cho tới bây giờ đang có hơn 4 triệu kiều bào ở nhiều nơi trên thế giới. Họ là một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Và, Tổ quốc thiêng liêng luôn đón chào những đứa con xa xứ yêu quê hương, đất nước.
Cũng phải nói rằng vì những vấn đề diễn ra trong quá khứ nên vẫn còn có một bộ phận nhỏ người dân chưa thực sự hiểu biết rõ về chính sách của Đảng, Nhà nước. Thậm chí họ còn bị bị những thế lực xấu lợi dụng để chống lại đất nước, gây ảnh hưởng tới hòa hợp dân tộc.
Xin nhắc lại câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt : "Quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng" ; "Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng".
Quả thật, chúng ta chỉ hòa hợp thật sự nếu như biết chia sẻ, cảm thông cho nhau, hiểu được những mất mát của nhau. Chẳng ai muốn có mất mát, đau thương, nhưng đó là câu chuyện của quá khứ đã lùi xa hơn 40 năm rồi.
Một số bà con kiều bào có lẽ không hài lòng với những điều xảy ra trong quá khứ, thế nhưng nếu một lần đến với nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 nhìn bạt ngàn các ngôi mộ của người lính, hẳn là mỗi chúng ta đều cảm nhận được rằng nếu cứ mãi hận thù nhau thì những nỗi đau trong từng con người, từng gia đình sẽ lại bị khoét sâu thêm.
Nếu không bao dung, tha thứ, không cùng nhau hướng về tương lai thì vô tình chính mỗi chúng ta sẽ tạo ra cơ hội cho những kẻ xấu lợi dụng phá hoại đất nước, phá hoại những giá trị thiêng liêng mà cha ông ta đã phải đổ xương máu hàng nghìn đời mới có được.
Ông Vũ Mão : Bao dung, tha thứ để cùng nhau hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. ảnh : Ngọc Quang.
Nói về hòa hợp dân tộc, tôi xin kể với độc giả hai câu chuyện :
Năm 2006, báo Tuổi Trẻ tổ chức cuộc thi "Chuyện đời tự kể" và anh Trần Đình Ninh – tác giả của bài viết "Lệnh thủ tiêu thành tình giải cứu" đã giành giải nhì.
Anh Ninh là một người lính của chế độ Sài Gòn. Vào năm 1972 tại chiến trường Quảng Nam, đơn vị của anh Ninh bắt được 3 cán binh Việt cộng tên là Thống, Mùi, Quán. Họ đối xử với ba người bị bắt rất tử tế, cho ăn uống, hút thuốc và không ai bị xúc phạm, đánh đập.
Rồi anh Ninh nhận "Ác lệnh" là phải đem bắn ba người này, nhưng anh đã đưa họ ra bìa rừng chờ đêm tối cho họ trốn thoát.
Tôi nhớ trong câu chuyện anh Ninh kể lại "Tình người với nhau tôi phải cứu các anh. Các anh cứ nằm đây, tối tìm cách thoát thân". Rồi, anh Ninh bắn vu vơ vài phát đạn, giả như đã thi hành lệnh hành quyết.
Sau khi đất nước thống nhất, vào năm 1976, anh Ninh đang học tập cải tạo tại Quảng Nam thì ba cán binh Việt cộng năm nào tìm tới tận nơi, làm giấy bảo lãnh để anh Ninh ra trại, về sống ở quê tại Quảng Ngãi.
Mặc dù công tác ở xa, nhưng thỉnh thoảng ba anh cán binh Việt cộng năm nào vẫn dành thời gian đến thăm anh Ninh – vị ân nhân giải cứu cho họ năm nào.
Biết được câu chuyện xúc động ấy, tôi đã viết tặng anh Trần Đình Ninh bài thơ "Chiến chinh – tình đời". Tình người lớn hơn tất cả, cho nên dù lúc ấy làm việc ở hai chế độ khác nhau nhưng vẫn tìm cách bảo vệ, che chở cho nhau.
Sự đoàn kết của đồng bào cả ở trong và ngoài nước là nguồn sức mạnh vô tận để phát triển Việt Nam thịnh vượng. ảnh : Hà Nội Mới.
Câu chuyện thứ hai là vào năm 2006, trong một chuyến công tác tại Mỹ, tôi có đến thành phố Houston (bang Texas). Lúc rảnh rỗi, tôi đến một cửa hàng mua sắm thì tình cờ gặp cô Bùi Lê Cúc là nhân viên bán hàng.
Qua câu chuyện, tôi biết quê cô ở huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cô kể rằng vì bố và anh trai làm việc cho chế độ cũ nên khi tốt nghiệp lớp 12 xong thì gia đình ra nước ngoài sinh sống.
Bây giờ ở Mỹ, cô có cuộc sống ổn định và đã hai lần về thăm Việt Nam, thấy quê hương phát triển, đổi mới rất nhiều. Khi trở lại Mỹ, cô kể cho mọi người nghe chuyện ở quê nhà gặp bà con chan hòa, yêu thương đầm ấm lắm.
Cô cũng cho biết là ở bên Mỹ có một số người lớn tuổi còn định kiến chống chế độ cộng sản, nhưng cô không bao giờ tham gia vì nhận thấy đó là việc làm không đúng.
Dân tộc của chúng ta đã hy sinh quá nhiều, mất mát quá lớn và hậu quả của chiến tranh cho đến tận bây giờ, dù đã hơn 40 năm vẫn chưa thể giải quyết hết. Rất nhiều đứa trẻ sinh ra đã phải chịu tật nguyền, đó là đau thương từ quá khứ vẫn còn kéo dài đến tận bây giờ. Bởi thế mà chúng ta hiểu hơn ai hết giá trị của hòa bình, giá trị của niềm tin, của tình đoàn kết dân tộc trước mọi kẻ thù.
Trong một gia đình chỉ vài người thôi cũng có những lúc bất hòa. Thế nên trong một đất nước rộng lớn với hơn 90 triệu dân và 54 dân tộc với nhiều sắc màu văn hóa khác nhau, nếu đâu đó còn có những quan điểm khác biệt thì cũng là điều dễ hiểu.
Dù vậy, vượt lên trên tất cả, chúng ta hãy cùng chia sẻ, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng đối thoại để tìm thấy tiếng nói chung, cùng chung mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
Con người ta sinh ra không ai có quyền lựa chọn dân tộc, nhưng chúng ta có quyền quyết định cho hành động của mình. Đó phải là những hành động đúng đắn nhất, là khát vọng đoàn kết để cùng nhau xây dựng Việt Nam thịnh vượng.
Vũ Mão
Nguồn : GDVN, 30/04/2017
Ông Nguyễn Đạc Thành, chủ tịch Hội Người Mỹ gốc Việt (VAF), từng phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hoà với cấp bậc Thiếu tá, cho VOA biết hội VAF đã trùng tu tổng cộng 5.896 ngôi mộ trong thời gian từ tháng 5, 2014 đến hết tháng 12, 2016 tại Nghĩa trang Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 quân nhân miền Nam Việt Nam.
Nghĩa trang Biên Hòa ở tỉnh Bình Dương
Dù có nhiều nỗ lực can thiệp của các dân biểu Hoa Kỳ cũng như phái bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Thành nói chính quyền Việt Nam vẫn chưa chính thức cấp giấy phép cho việc trùng tu nầy :
"Trên mặt giấy tờ thì chưa có, phải chờ thôi. Nhưng trên thực tế thì họ đã cho rồi. Hiện bây giờ đã trùng tu được 5.896 ngôi mộ. Khu vực Đài tưởng niệm Vành khăn tang đã trùng tu 90%."
Ông Thành cho biết trong số 5.896 ngôi mộ đã trùng tu có 3.355 ngôi mộ do VAF và cá nhân ông Lê Thành Ân, cựu Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn thực hiện, còn lại 2.561 ngôi mộ là do Biệt động quân, Hội đoàn Bắc California, và các mạnh thường quân khác thực hiện với tư cách cá nhân.
Ông Thành nói chính quyền Việt Nam chỉ cho các cá nhân chứ chưa cho phép các tổ chức hay hội đoàn trực tiếp ký hợp đồng trùng tu với Ban Quản lý Nghĩa trang, hay với một công ty thực hiện trùng tu do nhà nước chỉ định.
Trước đây, ông Thành đã gửi thư cho đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội và chính quyền địa phương tỉnh Bình Dương, kêu gọi Việt Nam cấp phép cho Hội được chính thức lên kế hoạch và tiến hành công tác trùng tu nghĩa trang một cách đồng bộ, quy củ, và có tổ chức. Tuy nhiên cho đến nay đã gần hai năm, VAF vẫn chưa nhận được phản hồi chính thức bằng văn bản của chính quyền Việt Nam.
Ông Thành nói vào tháng 3/2014, phái đoàn Bộ Ngoại giao Việt Nam do Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn dẫn đầu đã đồng ý cho VAF trùng tu các ngôi mộ trong nghĩa trang Biên Hòa với điều kiện phải tự lo chi phí vì chính phủ Việt Nam không có ngân sách. Cho đến nay chính quyền tỉnh Bình Dương vẫn không thi hành lời hứa đó.
Trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, ngày 3/2, cựu Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb có một cuộc gặp với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, mà theo ông Thành, có nhiều khả năng là nhằm vận động Hà Nội cấp phép cho việc trùng tu nghĩa trang Biên Hòa :
"Tôi nghĩ rằng ông Jim Webb đi qua đó cũng có mục đích đó. Ông Jim Webb là người rất quan tâm đến nghĩa trang Biên Hòa. Ổng ủng hộ 100%. Tôi rất kính trọng sự vô tư của ổng và sự cố gắng của ổng."
Ông Thành xem đây là một dấu hiệu tích cực giúp VAF hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng làm khang trang phần mộ của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa :
"Tôi hy vọng rằng trong tương lai gần (sẽ có được giấy phép). Bởi vì nó có những khó khăn của bên phía Việt Nam. Chúng tôi đã biết được những khó khăn đó. Chúng tôi sẽ vận động ông Nguyễn Phú Bình và ông Dương Trung Quốc."
Ông Nguyễn Phú Bình, nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, người đã "cho phép" VAF thực hiện chương trình "Tử sĩ Trở về" từ năm 2007, một dự án nhằm tìm kiếm, cải táng hài cốt những người lính Việt Nam Cộng hòa đã nằm xuống trong các trại tù cải tạo và tu sửa lại Nghĩa trang Biên Hoà.
Trong cuộc phỏng vấn với Đài Tiếng nói Việt Nam VOV, nhà sử học Dương Trung Quốc, một đại biểu quốc hội thâm niên, kêu gọi "ý thức, trách nhiệm công dân cùng tham gia vào quá trình hòa hợp dân tộc" mà trong đó ông nhìn nhận rằng "về phía đất nước chúng ta cũng có những sai sót."
Vào tháng trước, ông Trương Minh Đức, một blogger ở thành phố Hồ Chí Minh cho VOA biết công an Việt Nam đã câu lưu một số nhà vận động nhân quyền trong 2 giờ khi họ đến thắp hương viếng mộ các chiến sĩ tại nghĩa trang Biên Hòa, nơi mà người đi viếng gặp không ít khó khăn, đòi hỏi phải đăng ký, xuất trình giấy tờ và kê khai địa chỉ.
Nguồn : Tinhdongdoi.com, VietnamPlus
Tổ chức là một hình thái của sự đoàn kết có cơ cấu rõ ràng.
Ngay từ khi mới thành lập năm 1982, chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ, số người không quá mười, thậm chí không có tên, chúng tôi đã lấy lập trường hòa giải hòa hợp dân tộc. Trong lúc mà tất cả mọi tổ chức, kể cả Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam - tiền thân của Đảng Việt Tân - tổ chức lớn nhất với hàng ngàn thành viên, cũng đều chọn lập trường tận diệt người cộng sản, nói không với hòa giải.
Đến ngày hôm nay, từ một nhóm vô danh không quá 10 người bị tất cả các lực lượng chống chế độ phản đối, lập trường hòa giải hòa hợp dân tộc của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã được nhiều tổ chức chấp nhận.
Tuy nhiên vẫn còn một số tổ chức chưa chấp nhận nó.
Có nhiều lí do mà các tổ chức này đưa ra để từ chối lập trường đó. Trong đó có một lí do đã thuyết phục được rất nhiều người từ chối lập trường này, đó là "Hòa giải hòa hợp dân tộc chỉ là việc cố tỏ ra đạo đức đến mức thái quá, là việc tình cảm và vô ích, vì chẳng giúp gì cho công cuộc chống lại chế độ".
Cá nhân tôi không cho là vậy.
Việc có một lập trường hòa giải hòa hợp dân tộc là nên có, không chỉ vì vấn đề đạo đức hay tình cảm, mà nó còn giúp ích rất nhiều trong cả con đường tạo dựng dân chủ và làm lại đất nước.
Trước hết, nếu bạn tỏ ra rằng bạn muốn diệt cỏ tận gốc đối với chính quyền , bạn sẽ chỉ làm họ thêm gắn bó với nhau để bảo vệ tính mạng họ. Đây là điều dễ thấy nhất.
Thứ hai, đây là một điều rất khó nhận thấy nếu không có một sự quan sát tinh tế. Đó là chính quyền cộng sản luôn khơi dậy sự chia rẽ dân tộc, trái ngược với sự hòa giải hòa hợp dân tộc.
Đây là một điều có trong logic của chế độ. Chế độ biết nó là thứ độc hại và cần phải biến mất, nên nó luôn lo sợ những sự kết hợp, những người đấu tranh có tổ chức thường được "chăm sóc" tận tình hơn người không có tổ chức, ông Nguyễn Tấn Dũng cũng đặc biệt kêu gọi công an không để hình thành tổ chức đối lập.
Nhưng họ không chỉ sợ tổ chức. Tổ chức là một hình thái của sự đoàn kết có cơ cấu rõ ràng. Có những sự đoàn kết theo hình thái khác, và nó cũng khiến chính quyền lo sợ-như một kẻ bất lương luôn có tật giật mình.
Vì lẽ đó, chính quyền phải luôn tìm cách khợi động những tị hiềm và chia rẽ quần chúng để giữ quần chúng trong thế bất lực.
Logic này, nếu giải thích sẽ rất dễ hiểu.
Quần chúng gồm nhiều thành phần khác nhau, sự khác nhau này tự nó đã là một nguyên nhân chia rẽ, chưa kể là còn có thể có những tị hiềm do lịch sử để lại.
Trong khi đó thì cuộc nổi dây nào của quần chúng cũng bắt đầu từ một biến cố khởi động xẩy ra cho một tập thể quần chúng, nếu tập thể này không được sự hưởng ứng của các tập thể khác, thậm chí còn bị chống đối, thì biến cố này không thể trở thành khởi điểm cho một cuộc nổi dậy của toàn dân.
Đáng lẽ người ta phải để ý thấy điều này từ lâu, qua những ví dụ rõ nét như biến cố Tam Tòa tại Quảng Bình năm 2009, chính quyền cộng sản đã khơi động tinh thần bài công giáo để huy động những phần tử quá khích hành hung các linh mục và giáo dân.
Đẩy xa lí luận hơn nữa, thì chính quyền luôn thuyết phục người dân rằng có những giải pháp riêng rẽ cho các vấn đề, chẳng hạn anh muốn được yên thân thì anh chỉ cần chấp nhận những khoản "tiền bồi dưỡng" cho công an và cán bộ, trong khi đối lập kêu gọi phải có giải pháp chung - tức là thay đổi chế độ.
Chính quyền cố gắng phân tán tối đa đối lập bằng mọi phương tiện, kể cả mua chuộc một số thành phần chống đối hay thành lập những tổ chức đối lập giả hiệu.
Chính quyền cũng cố gắng tạo tâm lý lo sợ những trả thù báo oán để đoàn kết nội bô trong phản xạ tự vệ. Đây là điều mà ta dễ thấy qua những sự kiện như sổ hưu bị đem ra để đe dọa cán bộ già.
Sau cùng, kể cả khi mâu thuẫn kinh khủng đến mức người ta dùng tới bạo lực mà làm cách mạng dân chủ, thì chúng ta cũng chỉ có được dân chủ trên một đống hoang tàn.
Chúng ta có được dân chủ sau khi đã tự bắn vào mình. Việt Nam có được dân chủ sau khi cơ thể đã đầy máu. Nếu muốn một ví dụ, chúng ta có Rumania - một trong những quốc gia kém nhất Châu Âu hiện nay.
Chúng ta khó hình dung ra được chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu nếu có dân chủ theo cách đó.
Vì vậy, chúng tôi kết luận rằng, hòa giải và hòa hợp dân tộc là ngôn ngữ bắt buộc của một đối lập thông minh.
Yến Vương
(Việt Nam, tháng 12/2016)