Từ ý thức an sinh xã hội tới nhận thức chính quyền xã hội
Khi nghiên cứu về các vấn đề xã hội của Việt Nam hiện nay, thì ta thấy chính quyền độc đảng đang ít nhất thiếu hai kiến thức : thứ nhất là về đời sống xã hội, thứ nhì là về luật xã hội để bảo đảm sự ốn định về đời sống xã hội. Sự thiếu vắng kiến thức đôi này tới từ sự thiếu kiến thức đôi về :
h Các sinh hoạt xã hội làm nên quan hệ xã hội, cả hai là nội dung để hiểu đời sống xã hội.
h Các luật xã hội làm nên từ chính sách xã hội, chính là nội dung để làm ra các luật lệ về bảo hiểm xã hội.
Thiếu kiến thức về đời sống xã hội, về luật xã hội… là một trong những thảm bại sâu đậm của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi cướp được chính quyền. Địa điểm ATM tư nhân phát gạo miễn phí cho người nghèo giữa đại dịch Covid-19, tháng 4/2020
Nơi đây hội tụ hai chuyên ngành : xã hội học lao động và luật học xã hội, hoàn toàn thiếu vắng trong kiến thức của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà não trạng của họ chính là thượng nguồn của các chính sách xã hội của một độc đảng nắm quyền, độc tài nhưng bất tài, có thể trở thành bất nhân nếu chính quyền này không bảo đảm được : công bằng xã hội. Thiếu kiến thức về đời sống xã hội, về luật xã hội lại thiếu kiến thức chuyên môn về xã hội học lao động và luật học xã hội, lại mang ý đồ toàn trị trùm phủ lên cả xã hội nhưng không có ý thức đầy đủ về tổ chức một xã hội văn minh, chính đây là một trong những thảm bại sâu đậm của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi cướp được chính quyền.
Bộ ba : bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội
Từ thiếu vắng kiến thức về xã hội tới trống vắng kiến thức về chuyên môn, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp thu rất chậm chạp các quy luật về tự do cạnh tranh trong kinh tế thị trường của các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền vì họ có truyền thống văn hóa về luật pháp xã hội. Các quốc gia này có đầy đủ luật để khử ba loại tư bản man rợ đang làm tan nát mọi khả năng đi về phía tiến bộ của xã hội Việt hiện nay, đó là : tư bản gia đình, tư bản thân hữu, tư bản tham nhũng. Từ trống vắng kiến thức về chuyên môn tới hoang vắng ý thức về tiến bộ xã hội nên Đảng cộng sản Việt Nam đủ kiến thức để bất chấp về ba quy luật xã hội đảm bảo sự vận hành bình thường của một xã hội văn minh từ hai thế kỷ qua :
h Bảo hiểm xã hội (sécurité sociale), đã được sáng tạo và lưu hành tại Anh quốc.
h Dịch vụ công cộng (service public), đã được sáng lập và thịnh hành tại Pháp quốc.
h Luật xã hội (droit social), đã được hình thành và luật hóa tại Đức quốc.
Cả ba (bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội) mang đặc điểm của mỗi quốc gia, nhưng cả ba biết bổ sung cho nhau từ hợp tác quốc tế tới tự do cạnh tranh, luật pháp luôn có mặt để bảo vệ công bằng qua công lý bằng công pháp. Cả ba hiện nay đã được vận dụng và trở nên phổ quát trong các quốc gia văn minh biết lấy ưu tiên xã hội làm kim chỉ nam cho mọi hành tác lao động và kinh tế. Chính liên minh giữa công bằng-công lý-công pháp là khuyết điểm đã làm nên khuyết tật không sao chữa được của các thể chế toàn trị độc đảng. Thất bại đã làm nên thảm bại của nó, vì không nó đủ kiến thức để nhận ra là quản lý công bằng-công lý-công pháp chính là tiền đề mà cũng là động cơ để làm nên liên minh thịnh vượng-tiến bộ-văn minh.
Xã hội học lao động và luật học xã hội yêu cầu các chuyên gia khi đánh giá về giá trị các chính sách xã hội thì phải đưa ra những nhận định kèm theo những phân tích về tình hình xã hội, mà tình hình xã hội thì không bao giờ tuyệt đối khách quan, vì nó luôn bị chính quyền, nhất là chính quyền của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) chi phối, thao túng, giật dây. Vậy thực chất của tình hình xã hội Việt Nam hiện nay, bị tác động, bị phân hóa rồi bị hủ hóa bằng ba độc tố gây nên mọi độc hại trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội :
h Độc đảng có độc quyền bằng công an trị.
h Độc tài có độc trị bằng tham nhũng trị.
h Độc tôn chỉ có độc lộ của tham tiền trị.
Tỷ lệ trẻ em thuộc các dân tộc thiểu số suy dinh dưỡng vẫn còn ở mức cao
Hệ đôi : độc và tham
Ba ngữ pháp : công an trị, tham nhũng trị, tham tiền trị làm lộ ra một liên minh đã sinh sản ra hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) được vận hành, được hành tác dựa trên hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) ; cả hai làm ra ung thư hệ đôi độc và tham, nó bắt buộc :
h Cá thể phải có phản xạ mãi lộ để hối lộ công quyền.
h Cá nhân phải có phản ứng tham nhũng để được tham quan mở cửa.
h Công dân không thể phản biện trước tham ô vừa nắm quyền, vừa lách luật.
Nếu cả ba : bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội là tiến bộ trong văn minh, thì hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) trong độc đoán và hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) trong độc hại sẽ truy diệt mọi tiến bộ trong văn minh làm nên an sinh xã hội.
Trong phân tích về quyền lực, thì xã hội học chính trị và chính trị học quyền lực đều công nhận là một chính quyền luôn mang ba nội chất : tham quyền, lạm quyền và lộng quyền trong các chế độ độc tài quân chủ hay độc tài quân phiệt. Chúng ta càng thấy rõ hơn chân tướng của tham quyền-lạm quyền-lộng quyền trong chế độ độc đảng toàn trị tại Việt Nam hiện nay. Chính ba thực thể : bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội gây dựng lên uy tín của một chính quyền, tạo nên tính chính danh của chính quyền, thì uy tín lẫn chính danh đều không hề có trong chế độ độc đảng toàn trị tại Việt Nam hiện nay. Nơi đây hệ bất (bất tín, bất lương bất tài, bất nhân) của Đảng cộng sản Việt Nam, đã ra đời và sinh đôi với hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) mà người dân Việt đã thấy từ cái bất nhân của nó, từ Cải cách ruộng đất tới cái gian xảo che giấu mật nghị Thành Đô, nhận Tàu tặc làm cha đỡ đầu để cứu vãn Đảng cộng sản Việt Nam sau khi chủ nghĩa cộng sản đã thực sự bị khai tử tại Đông Âu từ 1990.
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa hiện nay, chính bộ ba : bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội sẽ là gốc, rễ, cội, nguồn của mọi chính sách xã hội của mọi chính quyền trước tự do cạnh tranh, trước tự do thương mại, trước tự do đầu tư, sản suất, tiêu thụ… Chính bộ ba này cũng là nền, là móng, để xây tường, xây mái cho ngôi nhà vững chắc của một đất nước. Chính cũng bộ ba này sẽ là nền vững, móng chắc để xây rộng thêm, để xây cao hơn để ngôi nhà xã hội mới vừa được cao rộng, vừa được bền vững. Lý luận này hiện nay đang ở ngoài tầm hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Khi ý thức hệ cộng sản thành độc sản để phục vụ độc đảng, thì bộ ba bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội không hề là ưu tiên hàng đầu của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tệ hại hơn nữa là ngày nay Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành một lực lượng tội phạm độc-tài-để-độc-tà. Nếu chúng ta không ngừng lại ngay nguyên nhân và hậu quả của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) đã diệt hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) như thế nào, thì chúng ta sẽ không giải thích được tại sao xã hội Việt Nam không có luật lao động, song hành cùng sự vắng mặt của các công đoàn độc lập. Tại sao không có luật xã hội song lứa cùng sự trống vắng các phong trào xã hội dân sự. Nơi mà luật lao động, luật xã hội luôn đồng hội đồng thuyền với công đoàn độc lập, với xã hội dân sự ; mà đây lại là cốt lõi của hiệp ước giữa Liên Hiệp Châu Âu và chính quyền độc đảng toàn trị của Việt Nam ngày 12/2/2020. Tương lai sống còn của hiệp ước này cùng phải dựa vào bộ ba : bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội để hình thành ra bộ tứ : luật lao động, luật xã hội, công đoàn độc lập, xã hội dân sự. Ngay trong thời điểm này, 2020, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ thấy lợi nhuận xuất khẩu các mặt hàng nông phẩm, hải sản, thủ công… là số lợi phận lời để họ trả nợ công chồng chất tới chóng mặt, để duy trì thêm tà quyền trong độc đảng của họ, mà họ quên khuấy đi (hoặc là họ không biết) các bộ phận pháp lý khác của Liên Hiệp Châu Âu. Trong đó có một cơ quan tối cao chính là Tòa án tối cao Châu Âu, và chính quyền độc đảng của Việt Nam hiện nay, nên và phải nghiên cứu uy quyền của Tòa án tối cao Châu Âu này. Nơi đây là biểu hiện lương tâm của nhân quyền chống cưỡng bức lao động, chống bóc lột lao động thiếu nhi… vì công đoàn độc lập để từ đó bảo đảm bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội với chính nghĩa vì an sinh xã hội.
Tòa án Công lý Châu Âu cũng là Tòa án Tối cao của Liên Liên Hiệp Châu Âu về các vấn đề luật pháp của Liên Hiệp
An sinh xã hội
Không có kiến thức xã hội sẽ không thể hiện được ý thức xã hội. Chính bộ ba bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội là tiền đề và là gốc rễ của mọi quan niệm và tri thức về an sinh xã hội. Không có an sinh xã hội thì sẽ không có nền móng để xây dựng một xã hội văn minh, một thể chế vì nhân quyền, nhân dân Việt thấy rất rõ là chính quyền độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong quản lý nạn đại dịch coronavirus đầu năm 2020.
Khi chính quyền Trung Quốc đã phong tỏa rồi cách ly Vũ Hán ngay trước Tết âm lịch tức 25 tháng 1 dương lịch, thì chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn bị động, không dám đóng cửa như các nước láng giềng với Trung Quốc, mà cũng không có chính sách minh bạch phòng chống đại dịch này. Không những làm tăng số người bị lây của đại dịch này, mà hậu quả là ngày 12 tháng 2 năm 2020 một số quốc gia văn minh đã bắt đầu ngăn dân của họ tới Việt Nam, trong đó có Châu Âu mà cả Hàn Quốc.
Không có nhận thức an sinh xã hội chỉ vì không được giáo dục bằng giáo lý tập thể, bằng đạo lý cộng đồng của tổ tiên Việt có nền là tương thân tương trợ trong nhân lý nhìn xa trông rộng của ăn ở có hậu trong đối nhân xử thế. Đây chính là luân lý xã hội làm nền cho tổ chức xã hội, trợ lực cho bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội có chỗ đứng trung tâm trong các cơ chế xã hội văn minh. Nhưng chính hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) khi mở cửa cho hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) thì :
h sinh hoạt xã hội bị "bôi trơn hóa" ;
h quan hệ xã hội bị "sân sau hóa" ;
h đời sống xã hội bị "chống lưng hóa".
Đây là thực tế xã hội hằng ngày bị thống trị bởi liên minh bạo quyền độc đảng công an trị-tà quyền tham quan trị-ma quyền tham tiền trị. Chính liên minh này đã tha hóa mọi chính sách, mọi tiến bộ tới từ an sinh xã hội, mọi văn minh tới từ bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội. Độc trị mà không biết quản trị chỉ là hiện thân của độc tài nhưng bất tài, đã lạc vào quỷ lộ của bất nhân thất đức, ngày ngày trôi dạt xa bờ văn minh của dân chủ, xa bến văn hiến của nhân quyền.
Xã hội dân sự
Xã hội dân sự, có hùng lực của dân chủ để bảo hành bộ ba bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội, có sung lực của nhân quyền để trợ lực cho an sinh xã hội, đó là định nghĩa của xã hội dân sự, bằng định chế của công bằng làm nên các cơ chế của công lý. Còn có cả định đề làm nên định luận của xã hội dân sự là công dân thực sự là chủ thể trong chính tư tưởng của họ để có chủ quyết khi bỏ phiếu cho các chính sách xã hội được đại diện bởi các đảng phái, các công đoàn, các hội đoàn, để chủ động qua đa nguyên chính là nơi hẹn của đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu… Hệ chủ (chủ thể, chủ quyết, chủ động) dựa trên tự do biết song hành cùng công bằng để chế tác bác ái chính là nội công làm nên bản lĩnh của xã hội dân sự.
Xã hội dân sự được vận hành và được củng cố bằng chính các thử thách trong khủng hoảng kinh tế, bằng chính các thăng trầm trong lạm phát tài chính, trong đó thiên tai và nhân tai đều được phân tích và giải quyết bằng công pháp dựa trên công lý. Cụ thể là :
h Bảo hiểm xã hội sẽ được bảo hiểm bởi chính quyền và chính phủ khi gặp các biến cố bất thường xảy ra ngay trong đời sống xã hội.
h Dịch vụ công cộng được bảo đảm ở mức nhất định trước các sự cố dị thường đang xảy ra ngay trong sinh hoạt xã hội.
h Luật xã hội được bảo hành trong quan hệ xã hội và được tuân thủ như là hằng số của luật pháp.
Vì vậy, khi Đảng cộng sản Việt Nam độc đảng trong độc quyền, độc trị trong độc tôn, luôn tìm cách hủy hại để huy diệt xã hội dân sự, mà cụ thể là tha hóa bộ ba : bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội để duy trì chế độ độc đảng toàn trị mà tha hồ vận dụng trong lạm phát rồi phạm pháp bằng tham quyền-lạm quyền-lộng quyền. Chính đây là thất bại xã hội không chối cãi được của Đảng cộng sản Việt Nam đã không có kiến thức lẫn nhận thức về :
h giá trị của bảo hiểm xã hội,
h đạo lý của dịch vụ công cộng,
h công pháp của luật xã hội.
Chính trên những giá trị, đạo lý, công pháp này đã làm nên văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền, tại đây mọi chính sách xã hội tới từ một độc đảng trong độc quyền cai trị mà không có lá phiếu của dân chủ, không có sự đồng thuận với dân tộc trên nền của nhân quyền đều mang lỗi bất tín, và một sớm một chiều trở thành bất nhân nếu nó không tận tâm phục vụ cho bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội tức là cho sự thăng hoa của an sinh xã hội.
Bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội tức là cho sự thăng hoa của an sinh xã hội.
Hằng số nhân phẩm
Khi giá trị của bảo hiểm xã hội, đạo lý của dịch vụ công cộng, công pháp của luật xã hội, có chỗ dựa là văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền, thì :
h Định chế xã hội không do chính quyền độc đảng quyết định mà do dân tộc quyết định trên định đề nhân phẩm của dân tộc đó.
h Cơ chế xã hội không do chính phủ độc tôn áp đặt mà do dân tộc đề ra qua tự do đầu phiếu trên định luận nhân lý của dân tộc đó.
h Hành chính quản lý xã hội không do bộ máy độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra mà do dân tộc quyết đoán dựa trên bằng quyết luận nhân nghĩa của dân tộc đó.
Đừng xem giá trị của bảo hiểm xã hội, đạo lý của dịch vụ công cộng, công pháp của luật xã hội, bằng xảo luận bất tài kiểu nắng sớm chiều mưa, bằng gian lận bất tín kiểu vật đổi sao dời, mà phải phân tích bộ ba này (bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội) như là hằng số của định chế, hằng sản của cơ chế, hàng tâm của hành chính. Đây chính là định nghĩa văn minh của an sinh xã hội, đây chính là định nghĩa thông minh của xã hội dân sự. Chỉ có văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền biết dựa trên hệ đa, nơi mà đa nguyên đã tạo nên lực hội tụ của đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu… để :
h bảo hiểm xã hội luôn cao hơn định chế xã hội,
h dịch vụ công cộng luôn rộng hơn cơ chế xã hội,
h luật xã hội luôn sâu hơn hành chính quản lý xã hội.
Vì bảo hiểm xã hội không chỉ là một khung luật lệ mà còn là một không gian công cộng để đối luận được đối thoại trong dân chủ. Vì dịch vụ công cộng có liên minh của nhân tính điều hành nhân lý luôn được trợ lực bởi chỉnh lý của khoa học, bởi toàn lý của lợi ích tập thể bảo đảm. Vì luật xã hội mang nhân đạo và nhân vị làm nên nhân phẩm có sức mạnh tổng hợp tới từ luật lao động và luật công đoàn. Khi độc đảng dùng độc quyền để vùi dập luật xã hội bằng chính sách ngu dân, để vùi diệt luật lao động bằng tà sách tuyên truyền, và để truy diệt luật công đoàn bằng ma luật mưu hèn kế bẩn, thì chính độc đảng đang tự bất chính không những trước tiến bộ mà cả trước định nghĩa về nhân phẩm, một ngữ pháp luôn vắng mặt trong các văn bản của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhân phẩm vắng mặt thì nhân văn và nhân bản cũng trống vắng theo, vì độc đảng để độc trị luôn luồn lách ít nhất các loại chính quyền liêm chính :
h chính quyền bằng hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri)
h chính quyền bằng hệ công (công bằng, công lý, công pháp)
h chính quyền bằng hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức)
h chính quyền bằng hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin)
h chính quyền bằng hệ luận (lý luận, lập luận giải luận, diễn luận)
h chính quyền bằng hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo)
h chính quyền bằng hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp)
Tất cả các hệ này đều phải dựa trên hệ đa, nơi mà đa nguyên chính là tụ điểm của đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu…
Văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền trong quá trình toàn lý để bảo vệ nhân phẩm trong nhân sinh đã cho xuất hiện chính quyền xã hội là một hình thái cao hơn và đi xa hơn
Chính quyền xã hội
Văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền trong quá trình toàn lý để bảo vệ nhân phẩm trong nhân sinh đã cho xuất hiện chính quyền xã hội là một hình thái cao hơn và đi xa hơn :
h chính quyền dân chủ chính trị dựa trên đầu phiếu có ứng cử và bầu cử,
h chính quyền dân chủ pháp trị dựa trên công lý vì thương tôn pháp luật,
h chính quyền dân chủ đối lập trong nghị trường và ngoài xã hội.
Chính quyền xã hội có :
h thế chân kiềng của bộ ba bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội.
h lý của an sinh xã hội làm khung cho mọi chính sách xã hội.
h lực của xã hội dân sự chủ động trong đấu tranh vì công bằng.
Thế, lý, lực của chính quyền xã hội không dính dáng gì với :
h chính quyền xã hội chủ nghĩa rỗng luật xã hội,
h chính quyền độc đảng trống an sinh xã hội,
h chính quyền cộng sản vắng xã hội dân sự.
Mỗi lần nhân loại có luật xã hội được chế tác từ tương trợ xã hội dựa vào đoàn kết xã hội, là văn minh sẽ xuất hiện với dịch vụ công cộng trong sinh hoạt xã hội
Chính quyền xã hội không chỉ là công cụ phục vụ các nhu cầu xã hội, mà nó chính là câu hỏi cần có câu trả lời thỏa đáng cho tất cả các chính quyền muốn đưa dân tộc và đất nước đi về hướng văn minh của công bằng và văn hiến của bác ái. Về mặt lịch sử chính quyền xã hội đã có mặt ngay từ thế kỷ thứ XIX khi nó giải quyết điều kiện lao động phải nhân đạo để chống lại bóc lộc lao động, và nó phát triển không ngừng nghỉ cả thế kỷ XX tại phương Tây với các luật xã hội về bảo hiểm lao động, bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp cho tới luật xã hội được nghỉ lễ và nghỉ hè mà lương bổng vẫn được bảo đảm. Tại đây phải lấy ra một định nghĩa thật văn minh của chính quyền xã hội là chính quyền ra đời để phục vụ lợi ích xã hội bằng an sinh xã hội, luôn vận dụng luật xã hội để thăng trưởng rồi thăng hoa tương trợ xã hội bằng chính đoàn kết xã hội.
Mỗi lần nhân loại có luật xã hội được chế tác từ tương trợ xã hội dựa vào đoàn kết xã hội, là văn minh sẽ xuất hiện với dịch vụ công cộng trong sinh hoạt xã hội, nơi mà đời sống xã hội có bảo hiểm xã hội trong mọi dịch vụ về y tế, có giáo dục miễn phí từ tiểu học lên đại học. Chính sự thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam về y tế với bệnh viện quá tải, người bệnh phải điều trị trong điều kiện của một trại súc vật. Thảm bại thứ hai của Đảng cộng sản Việt Nam mang hậu quả đã thành hậu nạn cho nhiều thế hệ, đó là một nền giáo dục không miễn phí và ngày càng đắt đỏ như một gánh nặng ngộp thở cho mọi gia đình có con em luôn phải trả giá cao học phí, bi đát nhất là nó song hành cùng một hệ thống giáo dục gian lận tạo ra học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để mua chức bán quyền. Kết luận phải có là dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, với chính quyền độc đảng thì chính quyền này là loại chính quyền phản tượng trợ xã hội, phản đoàn kết xã hội, nên nó phản lại mọi định nghĩa liêm chính của một chính quyền xã hội.
Vì tất cả chính quyền loại độc tài này chỉ biến cộng-sản-thành-độc-sản-cho-độc-đảng, không hề có tư tưởng lý luận nên không hề có một sáng tạo gì về năm thực thể : bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội, an sinh xã hội, xã hội dân sự. Trên lãnh vực này, thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có những tuyên bố liều nói lên thực chất ngu của họ, cái tục ngôn đến từ cái vô minh trước các tiến bộ của nhân loại vì nhân quyền. Thí dụ thì quá nhiều về chuyện nói liều vì vô tri ; thí dụ như Lê Duẩn : "chúng ta làm cách mạng thì không cần luật học", lợm giọng nhất vẫn là kiểu nói liều của Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư hiện nay Nguyễn Phú Trọng : "chưa bao giờ đất nước ta được như ngày hôm nay" ; "chưa có đảng nào trên thế giới được nhân dân tin tưởng như Đảng cộng sản Việt Nam" ; "chưa bao giờ nhân dân ta được hạnh phúc bên Đảng cộng sản Việt Nam như ngày hôm nay"… Nói liều ung thư hệ đôi tuyên bố loạn, chính là thảm bại ngay trong thượng nguồn não trạng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam mà cũng là thảm nạn của Việt tộc đã trao thân gởi phận cho một lực lượng kiêu căng trong vô tri, tự kiêu trong vô minh, đang ngày ngày ngăn chặn mọi tiến bộ xã hội mà các dân tộc khác đã được hưởng từ lâu. Trong quá trình hình thành của mình, chính quyền xã hội mang nội chất văn minh ngay trong lý luận và lập luận của nó :
h Con người không phải là thú vật để chịu những sức ép của nguồn máy sản suất xem con người như công cụ để làm ra sản phẩm.
h Con người từ chối vào nguồn máy sản xuất có tính toán như một loại đồng hồ khổng lồ với giờ giấc áp đặt năng xuất, với hiệu xuất hằng giờ, hằng ngày…
h Con người là chủ thể lao động với chuyên môn của mình được sự hỗ trợ của tượng trợ xã hội, của đoàn kết xã hội.
Trong quá trình trưởng thành của mình, chính quyền xã hội đã vận hành để luật hóa bằng cách nhân đạo hóa quá trình lao động của con người :
h Con người không còn cúi đầu tuân lệnh từ trên xuống, từ nguồn máy, từ chủ nhân, mà con người lao động bằng chuyên môn với kinh nghiệm làm người của mình được chính quyền, đảng phái, công đoàn đồng ý vì đồng lòng trên cùng một thỏa thuận, chính là thượng nguồn của mọi luật xã hội.
h Con người không còn cúi đầu tức là con người không phục dịch một cách vô điều kiện các ý muốn hoặc các ý đồ của kẻ nắm tư liệu sản suất, mà con người trong lao động có khả năng của năng khiếu và của tài năng của mình để có cùng một mục đích giữa kẻ làm chủ và người làm công.
h Con người lao động với khả năng, với năng khiếu, với tài năng của mình thì con người lao động này sẽ có kinh nghiệm trong không gian và thời gian lao động để xem lại các mục đích lao động bằng kinh nghiệm lao động của mình, từ đó xét lại các chỉ tiêu của lao động do tập thể đề ra.
Trong quá trình vận hành của mình, chính quyền xã hội không tự thần tượng hóa các thành tựu của nó trong bảo hiểm xã hội, trong dịch vụ công cộng, trong luật xã hội ; vì nó biết rất rõ là suy thoái kinh tế, khủng hỏang chính trị, tai họa chiến tranh hoặc thiên tai có thể xóa đi hoặc đổi đi các thành tựu này. Nhưng chính quyền xã hội có một nền tảng vững bền tự nhân lý tới nhân đạo, giúp cho nó trụ chắc vào nhân sinh, bắm chắc vào nhân quyền, đó là trải nghiệm về công bằng xã hội làm nên tri thức về công lý xã hội. Từ đây, chính quyền xã hội khi có định hướng về công bằng xã hội, sẽ có chính nghĩa qua công lý xã hội. Hãy trở về câu chuyện của xã hội Việt Nam hiện nay dưới độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với nhận định : mọi chuyện trong nhân sinh đều có cái giá của nó, mọi cái giá đều mang theo sự mất mát hoặc hy sinh của nó. Nhưng nếu bỏ một này để được một kia thì vẫn còn công bằng, và mất một độc đảng mà được đa đảng thì công lý còn đó, mà thắng lợi cũng đoán được. Ngược hẳn với sự mất mát một tiến bộ, một văn minh của một Việt tộc bị thí đi vì một độc đảng độc tài nhưng lại bất tài, ngược hẳn với sự hy sinh một dân tộc, một giống nòi vì một độc đảng độc trị mà không biết quản trị một đất nước thì cái mất mát này, cái hy sinh này quá lớn ! Quá bất công ! Vừa vô nhân lý vừa phản công lý, nên nó không thể chấp nhận được.
Lê Hữu Khóa
(10/05/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
"Công đoạn thực thi EVFTA, có thể bắt đầu từ tháng 06/2020, sẽ quyết định liệu hiệp định này chỉ phục vụ các đại gia kinh tế, hay còn đem lại lợi ích cho cả những người dân bình thường. Chương 13 của EVFTA, xoay quanh ‘Thương mại và Phát triển Bền vững’, có các cơ chế để báo chí và xã hội dân sự Việt Nam tác động vào quá trình thực thi Hiệp định".
Tọa đàm cập nhật EVFTA tại Hà Nội hôm 1/11/2019 - Courtesy of FB Friedrich-Ebert-Stiftung Vietnam
Đó là thông điệp mà ông Bernd Lange, Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế Nghị viện Châu Âu (INTA), đưa ra trong buổi Tọa đàm "Cập nhật EVFTA I", do Viện Nghiên cứu Chính sách và phát triển (IPS), Trung tâm Phát triển và hội nhập (CDI) và Viện Friedrich Ebert Stifung (FES) đồng tổ chức tại Hà Nội sáng 01/11/2019.
Mới đây, ông Lange và phái đoàn INTA đã có chuyến công tác tới Hà Nội, nhằm đánh giá sự chuẩn bị của Việt Nam với việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA). Hai bên đã trao đổi nhằm thống nhất cách hiểu về một số vấn đề còn chưa được làm rõ trong Chương 13 của Hiệp định, xoay quanh "Thương mại và Phát triển Bền vững".
Ông Axel Blaschke – Trưởng Văn phòng đại diện Viện Friedrich Ebert Stifung tại Việt Nam Hình do tác giả cung cấp
Sau đó, Nghị viện Châu Âu (EP) sẽ tiếp tục thảo luận về Hiệp định vào ngày 06/11, trước khi bỏ phiếu vào ngày 31/01/2020. Nếu đủ phiếu thuận, EP sẽ phê chuẩn Hiệp định vào tháng 02/2020, mở đường cho Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định vào tháng 5, để EVFTA có hiệu lực từ tháng 6.
Lange cho biết ông "lạc quan" về khả năng phê chuẩn EVFTA, vì Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong cả 2 vấn đề chính của Chương 13, là quyền lao động và môi trường.
Cụ thể, về quyền lao động, Việt Nam đã gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), xoay quanh việc áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Hai bên cũng đã thống nhất rằng Việt Nam sẽ xem xét phê chuẩn Công ước số 87 - Tự do Liên kết và Bảo vệ Quyền Tổ chức, và Công ước số 105 - Xóa bỏ Lao động Cưỡng bức. Lange cho rằng việc Việt Nam bỏ phiếu thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi ngay trong kỳ họp Quốc hội tháng 11 sẽ mở đường cho việc phê chuẩn hai công ước cơ bản còn lại của ILO, tạo một bước tiến lớn để thuyết phục EP thông qua EVFTA.
Về lĩnh vực môi trường, Việt Nam là một trong những nước mà EU có thể sớm thảo luận về vấn đề quản lý rừng bền vững, trong khuôn khổ thực hiện Thỏa thuận Paris về Biến đổi Khí hậu.
Tuy nhiên, vì chỉ còn 3 tháng trước thời điểm bỏ phiếu về Hiệp định, ông Lange cho rằng quá trình trao đổi sẽ "khá gai góc".
Trong buổi hội thảo, ông Bernd Lange cho biết quá trình thực thi EVFTA, có thể bắt đầu sau tháng 06/2020, mới là khâu quyết định liệu Hiệp định có hay không đem lại lợi ích cho những người dân bình thường. Chương 13 của EVFTA đã tạo ra một cơ chế giúp xã hội dân sự tác động vào quá trình thực thi Hiệp định, là "Nhóm Tư vấn Trong nước" (Domestic Advisory Group – DAG).
Theo đó, DAG là một hội đồng gồm đại diện của các tổ chức dân sự độc lập, nhóm họp để giám sát, tư vấn cho chính phủ về quá trình thực thi EVFTA. Báo cáo của DAG được công bố công khai sau khi trình lên Ủy ban chuyên trách về Thương mại và Phát triển Bền vững. Việt Nam và EU sẽ tự quyết định thủ tục để thành lập DAG, và bổ nhiệm thành viên cho DAG của mỗi bên. DAG của hai bên sẽ gặp nhau mỗi năm một lần để đối thoại.
Ông Lange cho rằng các tổ chức dân sự ở Việt Nam cần chủ động tận dụng cơ chế DAG để tham gia vào quá trình thực hiện Chương 13 EVFTA. Việt Nam có thể tham khảo trường hợp của Canada, nơi DAG đã tích cực thúc đẩy việc giảm thiểu nhiệt điện than, và việc áp chế tài cụ thể cho các vi phạm.
Trong 5 năm tới, EU sẽ không ký thêm nhiều FTA, để tập trung vào việc giám sát thực hiện các FTA mới ký.
Cuối buổi tọa đàm, ban tổ chức đã khởi động Chương trình Hỗ trợ báo chí viết về EVFTA. Theo đó, IPS, CDI và FES sẽ thành lập nhóm tư vấn, hỗ trợ phóng viên khai thác tuyến đề tài liên quan đến thương mại và phát triển bền vững. Nếu đề tài được duyệt, phóng viên sẽ được hỗ trợ kinh phí để gặp gỡ người lao động và các tổ chức công đoàn, nhằm hoàn thành loạt bài viết.
Đa số các tổ chức dân sự Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận cơ chế DAG, do chính quyền là bên quyết định danh sách thành viên của nhóm tư vấn này, cũng như cấp kinh phí cho nó hoạt động. Dù vậy, người viết cho rằng xã hội dân sự vẫn có thể tận dụng DAG để giám sát quá trình thực thi Chương 13 EVFTA, thông qua hai phương thức.
Một, là cung cấp thông tin về các vụ vi phạm cho DAG của EU.
Hai, là tác động đến các quyết định của DAG của Việt Nam bằng dư luận.
Ngoài ra, cũng nên khuyến khích DAG của Việt Nam tổ chức các cuộc thảo luận mở, cho phép nhiều bên tham gia, để cơ chế DAG nằm trong tầm với của xã hội dân sự.
Tử Dương
Nguồn : RFA, 06/11/2019
Phụ lục 1 – Một số thông tin bổ sung :
- Link sự kiện :
https://www.facebook.com/events/968397890175170
- Thông tin và ảnh chụp của FES về buổi tọa đàm :
https://www.facebook.com/FriedrichEbertStiftung.Vietnam/posts/2768081063231624?__tn__=-R
Khoảng hơn 10 năm trước, tại Việt Nam, thuật ngữ xã hội dân sự (civil social) đã trở thành một thuật ngữ thời thượng. Nhiều học giả nhà nước và báo chí nhà nước đã bàn luận về khái niệm xã hội dân sự một cách khá cởi mở. Nhưng rồi, sự sôi nổi và nhiệt tình về xã hội dân sự trên báo chí nhà nước nhanh chóng biến mất, thay vào đó là sự im lặng. Thay vào đó là những quy kết của chính quyền rằng, các tổ chức xã hội dân sự chính là những tổ chức phản động.
Sự sôi nổi và nhiệt tình về xã hội dân sự trên báo chí nhà nước nhanh chóng biến mất, thay vào đó là những quy kết của chính quyền rằng, các tổ chức xã hội dân sự chính là những tổ chức phản động.
Dù báo chí nhà nước không còn nhắc đến xã hội dân sự, nhưng trên thực tế, ở Việt Nam vẫn xuất hiện các tổ chức xã hội dân sự như là một yêu cầu không thể khác được. Trong các năm 2013 và 2014, khá nhiều tổ chức xã hội dân sự ra đời, có thể kể đến Hội anh em dân chủ, Hội bầu bí tương thân, Mạng lưới bloggers Việt Nam, Hội đồng liên tôn, Hội nhà báo độc lập Việt Nam… Vào tháng 6/2014, 16 tổ chức xã hội dân sự đã có cuộc gặp gỡ tại chùa Liên Trì (Sài Gòn) để bàn luận về hiện tình đất nước. Sự kiện này có ý nghĩa to lớn trong quá trình hình thành và xác lập xã hội dân sự ở Việt Nam trong bối cảnh cả đất nước kể từ ngày bị độc tài đảng trị đã không hề có các tổ chức xã hội dân sự đúng nghĩa. Sau sự kiện diễn ra tại chùa Liên Trì, chính quyền đã không hề đả động đến xã hội dân sự, và chính thức coi các tổ chức xã hội dân sự non trẻ là thù địch.
Nhưng, xã hội dân sự vẫn được một số học giả có tâm huyết và trách nhiệm quan tâm lý giải bằng học thuật. Hai học giả trẻ tuổi là Nguyễn Khắc Giang và Nguyễn Quang Thái ở Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) vào năm 2018 đã cho ra đời công trình "Xã hội công dân Việt Nam dưới góc nhìn thể chế" (sách tham khảo). Công trình này được Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản rất thầm lặng vào cuối năm 2018. Không hề có bài điểm sách, bài bình luận sách nào về công trình nghiên cứu rất công phu này. Cũng dễ hiểu thôi, khi mà hai học giả trẻ tuổi đã phải dùng khái niệm xã hội công dân thay cho khái niệm xã hội dân sự. Dù không thích suy đoán và suy diễn, nhưng những người yêu sách ở Việt Nam đều có chung nhận định rằng, hai học giả trẻ phải dùng một khái niệm tiếng Việt khác (dù vẫn chú thích bằng tiếng Anh), và không sử dụng chiến dịch truyền thông để quảng bá cho cuốn sách hay nhằm tránh sự dòm ngó và kiểm duyệt của chính quyền.
Có gì đặc sắc trong cuốn "Xã hội công dân Việt Nam dưới góc nhìn thể chế" ?
Nếu như học giả Eamonn Butler trong cuốn "Những nền tảng của xã hội tự do" cho chúng ta biết rằng, tự do không phải là một sản phẩm của Châu Âu mà là sản phẩm của Châu Á từ 2000 năm trước, thì hai học giả trẻ tuổi người Việt cũng cho chúng ta biết những điều thú vị không kém, rằng, người Châu Âu khi đến Châu Á vào thế kỷ 13 đã ngạc nhiên về các tổ chức xã hội dân sự ở Châu Á. Cuốn sách của của hai học giả Việt cho biết : "Marco Polo, nhà thám hiểm phương Tây khi đến Hàng Châu (Trung Quốc) vào thế kỷ 13, cho rằng, ông ấn tượng bởi thành phố sầm uất này có những "tổ chức thiện nguyện" mang tính hiệp hội rất mạnh như nhà tế bần, trại dưỡng lão, những phường hội kinh doanh… (Edward, 2004). Có lẽ khắp những đô thị phồn hoa của Châu Á trong thời kỳ trung cổ, từ Nhật Bản, Hàn Quốc, cho đến Việt Nam, những tổ chức mang tính hiệp hội như vậy cũng đã tồn tại rất mạnh mẽ.
Những xã hội mang đậm ảnh hưởng của Khổng tử và hơi hướng Phật giáo ở Đông Á có những đặc điểm rất gần với ý tưởng xã hội công dân ở phương Tây. Trước hết, việc đề cao "việc chung" lên trước "việc riêng", tinh thần cộng đồng, triết lý hòa hợp giữa cá nhân trong xã hội là những cấu phần tư tưởng quan trọng về xã hội công dân của các triết gia phương Tây như Tocqueville hay Putnam. Thứ hai, cùng với sự phát triển kinh tế như đề cập ở trên, các tổ chức hiệp hội phôi thai, đại diện cho quyền lợi của những nhóm dân cư khác nhau ra đời và phát triển rất mạnh ở các đô thị Châu Á như các phường, hội kinh doanh, thủ công mỹ nghệ, thi ca, nhạc họa…" (trang 8 và 9, sách đã dẫn).
Về sự hình thành và phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam, cuốn "Xxã hội công dân Việt Nam dưới góc nhìn thể chế" cho rằng, "xã hội Việt Nam từ trước đến nay, với đặc trưng của văn hóa làng xã, mang nặng tính kết nối tự nguyện, đã xuất hiện nhiều dạng thức mà hiện nay được tập hợp chung trong nhóm "xã hội công dân", như, hội, phường, dòng họ, phe giáp… vốn được khai thác, sử dụng để hợp tác và tương trợ không chỉ trong sản xuất kinh doanh mà còn trong các hoạt động khác nhau của đời sống…
Không gian công dân mang tính bán tự nguyện ở làng quê Việt Nam trở nên tự nguyện hơn khi dịch chuyển từ xã hội làng xã sang phường, hội ở các đô thị lớn như Thăng Long, Vân Đồn, Hội An. Qua các thời kỳ lịch sử, hệ thống phường, hội kinh doanh phát triển rất mạnh, là chỗ dựa cho việc phát triển cộng đồng kinh doanh ở đây" (trang 14 và 15, sách đã dẫn).
Có một điều đặc biệt trong cuốn sách "Xã hội công dân Việt Nam dưới góc nhìn thể chế", đó là cuốn sách đánh gia cao về xã hội dân sự thời Việt Nam thuộc Pháp và miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
Đánh giá về xã hội dân sự Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay, hai học giả Nguyễn Khắc Giang và Nguyễn Quang Thái cho rằng, không gian xã hội công dân bắt đầu được trao quyền trở lại cho tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội độc lập phát triển mạnh ; hệ thống pháp luật về tổ chức xã hội phát triển tích cực nhưng chưa đầy đủ ; nhà nước nắm quyền kiểm soát không gian xã hội công dân qua chính sách, quản lý nhà nước, và các tổ chức quần chúng. Từ đánh giá chung đó, hai học giả đã có một cái nhìn điềm tĩnh về xã hội công dân Việt Nam hiện tại : "xã hội công dân, với tư cách là một định nghĩa phương Tây, đòi hỏi những điều kiện mà ở Việt Nam trên thực tế chưa tồn tại. Việc có một "không gian công cộng" hoàn toàn tách biệt khỏi nhà nước, và thậm chí đối lập với nó, ở điều kiện của Việt Nam hiện tại là không thể. Chính vì thế, cần phải xét "xã hội công dân" và "tổ chức xã hội" ở Việt Nam với góc nhìn đặc trưng hơn, và có những đánh giá mang tính thực tiễn hơn" (trang 23, sách đã dẫn). Đánh giá điềm tĩnh của hai học giả trẻ tuổi cần được hiểu rằng, các tổ chức xã hội và tổ chức quần chúng được hưởng lương từ ngân sách hoặc được ngân sách tài trợ một phần không phải là những tổ chức xã hội dân sự- tổ chức xã hội công dân mà chính là những tổ chức nối dài của chính quyền và đảng cầm quyền.
Ở một đất nước từ lâu vắng bóng tự do học thuật, vắng bóng những nhà nghiên cứu độc lập, cần phải ghi nhận rằng, việc hai học giả trẻ tuổi Nguyễn Khắc Giang và Nguyễn Quang Thái tiên phong và can đảm lao vào nghiên cứu một phạm trù nhạy cảm trong nhận thức của chính quyền là một hành động có trách nhiệm của những người có tâm huyết với sự tồn vong của đất nước. Nếu các học giả ở các xứ sở tự do được đi trên con đường thẳng tắp, thì hai học giả Nguyễn Khắc Giang và Nguyễn Quang Thái buộc phải đi trên những con đường vòng vo và quanh co để truyền tải ý niệm của mình đến công chúng. Bạn hãy đọc "xã hội công dân Việt Nam dưới góc nhìn thể chế" trước khi trách móc họ hay khen ngợi họ !
Tâm Don
Nguồn : VNTB, 23/10/2019
Hôm 16/11/2018, tổ chức Freedom Now công bố báo cáo về tình trạng chính quyền Việt Nam sử dụng luật như một vũ khí để khống chế, đàn áp Xã hội Dân sự.
Việt Nam dùng luật để khống chế xã hội dân sự - Ảnh bìa bản báo cáo - Screen shot
Buổi công bố báo cáo được tổ chức tại Washington DC với sự tham gia của các diễn giả đại diện cho Freedom Now ; tổ chức Boat People SOS ; tổ chức Voice, Văn phòng Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Bản báo cáo được tổ chức Freedom Now và Trường luật Washington thuộc Đại học Hoa Kỳ phối hợp thực hiện. Họ đã phỏng vấn 25 người Việt tị nạn vùng Đông Nam Á cùng một số trường hợp khác và qua đó nêu lên một bức tranh ảm đạm về nhân quyền Việt Nam với những vụ quấy rối, đàn áp, hăm dọa, thậm chí bắt giữ và bỏ tù những nhà hoạt động xã hội.
Cô Anna Nguyễn, Giám đốc chương trình của Voice cho chúng tôi biết một phần trong quá trình hình thành bản báo cáo này :
"Voice với Freedom Now làm việc từ năm 2015. Lúc đó Freedom Now có liên lạc với Voice và muốn có thông tin những người hoạt động từ Việt Nam và muốn viết báo cáo cho Nhóm Làm việc của Liên Hiệp Quốc về Bắt giữ tùy tiện. Đầu năm nay, Freedom Now liên lạc với Voice một lần nữa và cho biết họ muốn viết một bản báo cáo cùng với trường Luật ở DC. Freedom Now muốn nhờ Voice giúp liên lạc phỏng vấn một số người tị nạn ở Thái Lan".
Cô Anna Nguyễn cho biết quá trình phỏng vấn không có gì trở ngại, chỉ có một số người không muốn nêu tên thật của họ mà thôi.
Cô Carol Nguyễn, Điều phối viên chương trình của Tổ chức BPSOS, một trong những tổ chức giúp Freedom Now, là một trong các diễn giả của buổi công bố báo cáo, hôm 16 tháng 11 nói rằng :
"Bất chấp những chỉ trích từ quốc tế này, Việt Nam tiếp tục gia tăng đàn áp tôn giáo với Luật tín ngưỡng, tôn giáo được sửa đổi và có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 nhằm gia tăng sự kiểm soát của Chính phủ lên các nhóm tôn giáo và dùng luật này để trừng mạnh mạnh tay những người mà họ cho là vi phạm luật tín ngưỡng. Bởi luật có những quy định cụ thể như cấm lợi dụng tự do tôn giáo gây tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng".
Bản báo cáo cũng chỉ ra hiện nay Việt Nam có hơn 150 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Việt Nam. Một số được Freedom Now nhắc đến như Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Nguyễn Hữu Quốc Duy, Trần Hoàng Phúc, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Phan Kim Khánh, bác sĩ Hồ Hải, đặc biệt là trường hợp Nguyễn Văn Hóa.
Người tù chính trị chỉ mới 22 tuổi, Nguyễn Văn Hóa vừa được tổ chức Freedom Now và Công ty luật toàn cầu Dechert LLP thay mặt gửi bản kiến nghị đến Nhóm Làm việc của Liên Hiệp Quốc về Bắt giữ tùy tiện và yêu cầu có hành động ngay lập tức về trường hợp này hôm 6/11/2018.
Bà Kate Barth, Giám đốc pháp lý của tổ chức Freddom Now nói với RFA rằng bà hy vọng Chính phủ Việt Nam sẽ có hành động tích cực về trường hợp này :
"Chúng tôi hy vọng chính phủ sẽ có hành động trong trường hợp Nguyễn Văn Hóa. Đó là lý do mà chúng tôi lập hồ sơ về Nguyễn Văn Hóa. Một phần công việc của chúng tôi là chắc chắn rằng chính phủ Việt Nam biết rằng cộng đồng quốc tế và các chính phủ trên thế giới quan tâm đến trường hợp của Nguyễn Văn Hóa. Và Nguyễn Văn Hóa không thể "biến mất" trong nhà tù Việt Nam".
Khi chúng tôi hỏi rằng nếu Chính phủ Việt Nam vẫn im lặng về trường hợp của Nguyễn Văn Hóa thì bước tiếp theo Freedom Now sẽ làm là gì, bà Barth cho biết :
"Một phần lý do mà chúng tôi lập hồ sơ về đảng cầm quyền để có được những bằng chứng đáng tin về việc chính phủ Việt Nam vi phạm luật quốc tế.. Và khi có đủ bằng chứng, chúng tôi sẽ mang đến cho các thành viên khác nhau của cơ quan luật pháp ở điện Capital cũng như các chính phủ mà chúng tôi nghĩ là có quan tâm để có những áp lực chính trị hữu hiệu lên chính phủ Việt Nam. Đó là bước tiếp theo của chúng tôi".
Bà Barth cho biết thêm về những trường hợp mà Freedom Now lên tiếng đã có kết quả :
"Đã có vài trường hợp thành công là các nhà nhà hoạt động đã được phóng thích sớm như blogger Mẹ Nấm hay luật sư Nguyễn Văn Đài. Cũng có những trường hợp chúng tôi cũng xem là đã thành công không phải đơn thuần là các nhà hoạt động được phóng thích sớm mà là họ không bị lãng quên. Tôi nghĩ điều đó là sự khác biệt lớn không chỉ cho những người trong tù mà cho cả những người bên ngoài vì họ có được niềm hy vọng cũng như là những người trong tù được đối xử tử tế. Khá nhiều trường hợp bị bạo hành và bị dùng nhục hình trong tù và chúng tôi cũng đã tìm kiếm áp lực quốc tế lên những trường hợp đó để giúp bảo vệ họ và có được những điều kiện tốt hơn trong tù và không bị nhục hình".
Ngoài các luật được sửa đổi nhằm sử dụng như vũ khí để tấn công các quyền cơ bản của người dân, bản báo cáo còn nêu bật việc sử dụng các hình thức tra tấn trong quá trình điều tra, giam giữ cũng như điều kiện vệ sinh tồi tệ trong các trại giam, nhà tù ở Việt Nam. Bên cạnh đó là việc các tù nhân không được chăm sóc y tế đúng mức.
Ngoài ra còn có tình trạng bắt giam không đúng quy trình pháp luật, thời gian tạm giam kéo dài, các phiên tòa không công bằng.
Freedom Now và Trường Luật thuộc Đại học Hoa Kỳ kêu gọi chính phủ Việt Nam phải sửa đổi hoặc bãi bỏ một số điều luật nhất định để Việt Nam tuân thủ luật nhân quyền quốc tế và bảo đảm Việt Nam phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều luật đó ; Công khai lên án bất kỳ hành vi vi phạm nhân quyền nào với bất cứ một cá nhân nào ; Cung cấp các khóa đào tạo về nhân quyền cho người dân trong nước ; Phải thả các tù nhân lương tâm.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 16/11/2018
Sáng ngày 16/11, tại Tòa nhà Văn phòng Hạ viện Hoa Kỳ, tổ chức Freedom Now trình bày báo cáo về tình hình nhân quyền của Việt Nam. Phúc trình mới nhan đề "Đàn áp theo luật : Việt Nam dùng luật làm võ khí chống lại xã hội Dân sự" do Freedom Now và trường Luật của Đại học American University hợp tác thực hiện tập trung chi tiết vào tình trạng gia tăng bắt bớ những người bất đồng chính kiến, những nhà báo và nhà hoạt động dân chủ dám thể hiện quan điểm trái chiều với chính thể tại Việt Nam trong các cuộc biểu tình chống luật an ninh mạng, đặc khu kinh tế hay đơn giản chỉ là thể hiện quan điểm cá nhân trên mạng xã hội thời gian gần đây.
Ảnh tư liệu - Người thân và các nhà hoạt động kêu gọi trả tự do cho các nhà bất đồng chính kiến tại Hà Nội, ngày 27/8/2018.
Freedom Now cho biết họ thực hiện những cuộc điều tra và phỏng vấn chi tiết hàng chục cá nhân đã bị chính quyền bắt giữ hoặc đang bị quản chế tại Việt Nam hiện nay. Qua đó, 88% những người được phỏng vấn khẳng định đã bị giam giữ trong một thời gian dài mà không qua xét xử, không được tiếp xúc với luật sư hoặc nếu có thì cũng chỉ được xét xử ở một phiên tòa bí mật với những mức án đã được định trước. 68% số người được phỏng vấn cũng cho biết họ đã từng bị tra tấn hoặc bị nhục hình trong quá trình giam giữ.
Freedom Now nói điều đáng quan ngại là Việt Nam hiện đang tìm mọi cách để xây dựng và sử dụng luật pháp như là một thứ vũ khí để bảo vệ lợi ích của chế độ. Điều này, theo Freedom Now, đi ngược hoàn toàn với giá trị đích thực của luật pháp là để bảo vệ công dân.
Trao đổi với VOA Việt ngữ, bà Kate Barth, Giám đốc Pháp lý của tổ chức Freedom Now cho biết :
"Theo tôi thì tình hình thực sự đang rất tồi tệ tại Việt Nam hiện nay. Các bạn có thể thấy rằng trong 2 năm qua các nhà hoạt động dân chủ hay là bất cứ người dân nào nếu tham gia vào các cuộc biểu tình hoặc thể hiện quan điểm chính kiến khác biệt là lập tức bị chính quyền nhắm tới sách nhiễu hay thậm chí là có thể bị quản chế, bỏ tù. Trong đó nhiều người đã phải chịu những mức án rất nặng nề. Nhà cầm quyền Việt Nam đang thực sự sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền lợi chế độ mà không đoái hoài đến người dân".
Báo cáo cũng chỉ ra rằng có tới 60% số người được phỏng vấn cho biết bị khủng bố và bức hại bởi các lực lượng an ninh khác nhau tại Việt Nam chỉ vì thể hiện và thực hành niềm tin tôn giáo của mình. Điều này, theo FreedomNow, cho thấy tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam cũng đặc biệt tồi tệ. Phần lớn người dân chỉ được khuyến khích tiếp cận với các niềm tin tín ngưỡng và cơ sở tôn giáo có thỏa hiệp với chính quyền các cấp ; thậm chí cơ sở tôn giáo còn được điều hành bởi các nhân viên an ninh nhà nước khoác áo tu hành, báo cáo nói.
Vẫn theo phúc trình của Freedom Now, trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực từ phía Hoa Kỳ và các nước phương Tây, chính quyền Việt Nam thường chọn giải pháp trục xuất, bắt buộc các nhà hoạt động dân chủ-nhân quyền phải sống lưu vong ở nước ngoài trái với ý muốn và nguyện vọng của họ mà hai trường hợp gần đây nhất là luật sư Nguyễn Văn Đài trong Hội Anh em Dân chủ và blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS có trụ sở tại bang Virginia, Hoa Kỳ, đã có nhiều năm theo dõi và vận động cho dân chủ-nhân quyền tại Việt Nam.
"Ngày qua ngày, những người dân vô tội bị sách nhiễu, thậm chí là bỏ tù hay tra tấn vì thực hiện những quyền căn bản của con người tại Việt Nam. Rõ ràng điều này là không thể chấp nhận được. Chúng tôi lo sợ rằng nếu chúng ta không có những hành động kịp thời thì tình hình sẽ ngày càng xấu đi. Sẽ ngày càng có nhiều người bị bỏ tù hơn để Việt Nam lấy họ làm vật trao đổi với Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác", đại diện của BPSOS, cô Carol Nguyễn, phát biểu trong buổi tường trình.
Giám đốc Pháp lý của tổ chức Freedom Now, Kate Barth, cho rằng phản ứng và áp lực từ Hoa Kỳ chưa đủ trước đà gia tăng đàn áp các tiếng nói dân chủ tại Việt Nam trong thời gian qua.
"Theo tôi, Hoa Kỳ và các nước dân chủ đã không có được những áp lực đầy đủ lên chính thể tại Việt Nam trong thời gian vừa qua. Điều này là rất nguy hiểm, bởi Hà Nội sẽ nhân cơ hội đó gia tăng bắt bớ, dập tắt mọi tiếng nói phản kháng đòi tự do, dân chủ và những quyền cơ bản cho con người ở Việt Nam. Những hành động về kinh tế và pháp lý cần từng bước được tiến hành để hạn chế việc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng tại Việt Nam hiện nay".
Báo cáo của tổ chức Freedom Now cũng trình bày cụ thể về hệ thống báo chí tại Việt Nam và cách mà đảng cộng sản cầm quyền kiểm soát truyền thông. Nếu không có những tiếng nói phản biện của các cá nhân từ hệ thống mạng xã hội thì người dân ở Việt Nam sẽ hoàn toàn bị bưng bít thông tin, bị cầm tù về mặt nhận thức và chỉ được nghe những điều đảng cầm quyền muốn, Freedom Now nhận xét.
Kết quả điều tra của Freedom Now và ý kiến trao đổi từ các chuyên gia sẽ được tổng hợp để trình lên Hạ viện Hoa Kỳ để thúc đẩy những hành động cứng rắn hơn trong việc gia tăng áp lực buộc Việt Nam phải tôn trọng những quyền căn bản của con người như đã cam kết với quốc tế.
Freedom Now là tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ, phi đảng phái, có trụ sở tại Mỹ. Mục tiêu hoạt động của Freedom Now là vận động giúp phóng thích tù nhân lương tâm quốc tế thông qua các nỗ lực về tư pháp, chính trị, và quan hệ quốc tế.
Nguyễn Lại
Nguồn : VOA, 17/11/2018
Ngày 8/11, tại trường Đại học Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương) đã diễn ra buổi thành lập Hiệp hội nhà vệ sinh Việt Nam.
Cần thiết ?
Sự kiện này trở thành thời điểm để nhiều người bình luận trên mạng xã hội châm biếm. Tuy nhiên, dưới góc nhìn người viết, thì đây là một điều cần thiết và mang tính nghiêm túc.
Ngày 8/11, tại trường Đại học Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương) đã diễn ra buổi thành lập Hiệp hội nhà vệ sinh Việt Nam.
Thực tế, câu chuyện nhà vệ sinh là nhu cầu cơ bản và nó cũng biểu hiện phần nào tính văn minh của xã hội. Sự ra đời của Hiệp hội này có thể bổ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến nhà vệ sinh công cộng kém chất lượng tại nhiều tỉnh thành trên đất nước, đặc biệt là khu vực Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như cũng góp phần xóa bỏ tâm lý e ngại nhà vệ sinh ở khu vực bệnh viện, bến xe hay trường học.
Sự ra đời của Hiệp hội này cũng là cơ sở trợ giúp minh bạch hóa các dự án tiền tỷ liên quan đến nhà vệ sinh công cộng ở các tỉnh thành, cũng như kiểm soát chất thải – vốn gây tác động không nhỏ đến đời sống môi sinh người dân.
Người viết từng chứng kiến một cô bé đã kiến quyết không bước vào nhà vệ sinh xí bệt đặt cạnh Hồ Gươm, vì cô bé ấy chưa từng bao giờ chứng kiến và sử dụng cầu xí vốn là sản phẩm của thời bao cấp đó. Nói cách khác, hiệp hội ra đời sẽ là giúp đồng bộ hóa nhà vệ sinh theo hướng thân thiện với con người và môi trường hơn.
Chúng ta cần ủng hộ sự ra đời của tổ chức này, và gạt qua những ‘dị ứng’ liên quan đến câu chuyện nhà vệ sinh, ít nhất, nhu cầu này mang tính tồn tại của một con người. Nếu bản thân điều này là sự giễu cợt hay châm biếm, thì nó chẳng khác gì việc, chúng ta từ chối văn minh của con người, bởi tại Mỹ, Singapore hay Anh Quốc đều có tồn tại hiệp hội này.
Liệu ‘hữu danh vô thực’ ?
Nhưng vấn đề là, mặc dù ông Lê Văn Hiệp kỳ vọng 60% mật độ nhà vệ sinh ở các tỉnh phải được cải thiện chất lượng, miễn phí cho người dùng bằng cách vận động xã hội hóa, không dùng ngân sách nhà nước để xây. Tuy nhiên, hiệp hội này lại đặt dưới sự lãnh đạo của khối nhà nước, cụ thể là chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ và Bộ Tài nguyên và môi trường (không giống như Hiệp hội các nước khác là phi chính phủ), do đó, hệ thống nhân sự và cơ sở có thể sẽ nhận được nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo Điều 10, Điều 16 Nghị định 163/2016/NĐ-CP.
Thứ hai, mặc dù mang ý chí và mục đích tốt đẹp, nhưng vì nằm trong sự ‘lãnh đạo của đảng và nhà nước’, nên Hiệp hội này có khả năng sẽ rơi vào tình trạng ‘hữu danh vô thực’, như Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hội bảo vệ quyền trẻ em,… trong khi nguồn kinh phí cấp hằng năm cho các hội kiểu này không phải là ít.
Fanpage Chất lượng sống thâu tóm toàn bộ sự hữu danh vô thực của hội đoàn được bảo trợ bởi nhà nước : Bởi nhìn từ thực tế nước ta, cả nghìn hội đoàn tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhưng hoạt động không hiệu quả. Thậm chí, một số Hiệp hội còn có nhiều hành động đi ngược lại mục tiêu : Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng thì đi hãm hại người tiêu dùng mà vụ nước mắm bẩn là ví dụ điển hình ; Hiệp hội Chống hàng giả thì tôn vinh doanh nghiệp và thuốc ung thư giả Vinaca ; Hội phụ nữ thì im lặng khi trẻ em xâm hại ; Công đoàn thì lặng thinh trước bữa ăn ngày một đói kém của công nhân...
Ra đời nhằm mục đích ?
Tất nhiên, sự ra đời của Hiệp hội nhà vệ sinh là cải thiện vấn đề nhà vệ sinh trên cả nước, thế nhưng mục đích của sự ra đời này là nhằm tái khẳng định sự tự do lập hội của nhà nước Việt Nam. Thực tế cho thấy, nhà nước Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện cho ra đời rất nhiều hội đoàn (tổ chức xã hội - nghề nghiệp được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo nhiệm vụ Nhà nước giao) để làm phong phú cho cam kết nhân quyền cũng như hiện thực hóa Điều 25, nhưng các hội đoàn này buộc phải nằm dưới một cơ quan nhà nước (ví dụ : Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam nằm trong Cục cạnh tranh thuộc Bộ Công thương)... Các hiệp hội này không được chạm đến các vấn đề mà nhà nước Việt Nam đã độc quyền cho 6 tổ chức chính trị - xã hội như Hội sinh viên, Hội nhà báo, Hội phụ nữ…
Sự kiện ra đời Hiệp hội nhà vệ sinh cũng khiến cho nhiều người lầm tưởng rằng, nhà nước Việt Nam đang cởi mở lại xã hội dân sự. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một thực tế rõ ràng rằng, nếu có điều đó xảy ra thì đó chỉ thể hiện tính hình thức của của xã hội dân sự, bởi mặc nhiên, mọi tổ chức được ra đời bởi bảo trợ nhà nước, dùng nguồn kinh phí nhà nước, hoạt động theo định hướng nhà nước sẽ không tạo ra quá nhiều tác động tích cực cho xã hội, mà ngược lại còn tạo thêm gánh nặng của nền tài chính nước nhà. Và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ấy mặc nhiên là một yếu tố hỗ trợ cho các báo cáo chính trị - dân sự Việt Nam ra thế giới được đẹp đẽ hơn.
Sự ra đời của Hiệp hội nhà vệ sinh cũng cho thấy rằng, nhà nước Việt Nam chưa có một thực tâm hiện thực hóa những điều khoản đã ký kết về dân sự - chính trị, bởi những tổ chức liên quan mật thiết đến đời sống người dân như quyền tự do báo chí, tự do lập hội, tự do xuất bản đến nay vẫn bị nhà nước đặt trong vùng kỳ thị và đấu tố (nếu cần). Hiện tượng một hiệp hội giải quyết vấn đề bài tiết ra đời tại một nước mà nhu cầu nhân quyền chưa được đáp ứng đã trở thành một tấn bi hài kịch trong lịch sử xã hội dân sự Việt Nam ở một khía cạnh nào đó.
Ánh Liên
Nguồn : VNTB, 11/11/2018
Báo Quân đội Nhân dân trong bài viết ngày 1/4/2018 đã phác họa một cảnh tượng đầy mơ hồ : Cảnh giác với chiêu trò cổ vũ cho sự ra đời, hoạt động của tổ chức xã hội dân sự độc lập.
Xã hội dân sự độc lập cũng là nằm trong khối xã hội dân sự với tính chất - vị trí và vai trò được quy định như pháp luật cho phép mà thôi. Ảnh : minh họa
Nội dung bài viết quy nạp xã hội dân sự độc lập là đến từ các thế lực thù địch ; quy chụp thiếu cơ sở về một luận điểm của một ít người để đả phá xã hội dân sự độc lập – "chỉ có xã hội dân sự độc lập mới bảo đảm được dân chủ và quyền con người" ?
Bài viết cũng không quên nhắc lại về câu chuyện Ba Lan với tổ chức ‘công đoàn đoàn kết’ cũng như sự sụp đổ của Liên Xô do xã hội dân sự độc lập được gán như nguyên nhân chính.
Bài viết cũng đánh tráo khái niệm khi gán giữa tổ chức bạo động vũ trang – FULRO trở thành một thành tố của xã hội dân sự độc lập.
Và bằng những thủ thuật như vậy, bài viết đã kết luận : sử dụng các tổ chức xã hội dân sự độc lập là thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch, nhằm "cài cấy" người của chúng chi phối hoạt động của nhân dân. Thậm chí còn đi xa hơn, tác giả bài viết còn nâng cao luận điểm chính trị rằng, ‘chúng [xã hội dân sự độc lập] "rèn luyện" lực lượng chống phá chế độ’.
Bài viết này có lẽ là phần kế tiếp, sau khi Công văn từ Ban tuyên giáo trung ương gửi Bộ giáo dục đòi hỏi phải loại bỏ những tác phẩm của thành viên Ban vận động Văn đoàn độc lập ra khỏi đề án sách giáo khoa ngữ văn mới.
Bối cảnh bài viết cũng ra đời khi lãnh đạo Việt nam liên tục công du ra nước ngoài để tìm kiếm các tín hiệu hỗ trợ về mặt kinh tế lẫn quân sự. Và trong số lần tìm kiếm đó, bản thân nhân quyền cũng được thường xuyên đề cập đến.
Trở lại câu chuyện ‘cảnh giác’, đến nay cần phải thừa nhận, Nhà nước đã bớt ‘đấu tố’ hơn đối với các xã hội dân sự độc lập về mặt truyền thông. Tuy nhiên, mức độ ‘hành xác’ các thành viên trong các tổ chức xã hội dân sự độc lập không phải vì thế mà giảm. Từ câu chuyện ngăn chặn các thành viên tham gia hoạt động mít-tinh, biểu tình ; cho đến câu chuyện gây áp lực khi tham gia hội thảo về nhân quyền….
Câu chuyện ‘cảnh giác’ vẫn cứ lập lại đều đều khi mà quan điểm giữa Nhà nước Việt nam và các tổ chức xã hội dân sự độc lập vẫn chưa gặp nhau. Đó là giữa một sự thành lập, hoạt động trên cơ sở đề ra của Hiến pháp về quyền lập hội ; trên nền tảng của một khối tồn tại như một quy luật cần thiết của thị trường là "xã hội dân sự" với một nguyên tắc là tất cả các tổ chức xã hội nghề nghiệp đều thuộc sự quản lý, lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, thực tế cuộc sống sẽ tự điều chỉnh những gì nó được coi là phù hợp. Kể cả hiện tượng năm 2014, khi hàng loạt các hội đoàn dân sự độc lập ra đời trong sự phản ứng dữ dội của báo chí nhà nước, và cho đến nay, chỉ có một vài hội đoàn còn hoạt động về mặt thực chất. Đặc điểm này ngoài sự góp phần của áp lực nhà nước thì phải thừa nhận, hoạt động của các hội đoàn vẫn chưa thực sự lan tỏa về mặt hiệu quả, định hướng lẫn sự chuyên nghiệp. Qua đó để thấy rằng, bản thân các tổ chức xã hội dân sự độc lập còn tồn tại được, hoặc cao hơn là sự trưởng thành, nó vừa là nỗ lực hoàn thiện, vừa là một sự chấp nhận của thực tiễn đời sống.
Chấp nhận của thực tiễn đời sống hiện đại, đồng nghĩa bản thân những tổ chức xã hội dân sự độc lập đáp ứng các tiêu chí về nhân quyền trên cơ sở của sự ôn hòa. Và thực tế đã cho thấy, các tổ chức xã hội dân sự độc lập còn tồn tại được không rơi vào khuynh hướng như cổ vũ hoạt động ra đời của một đảng phái ; gây mâu thuẫn sắc tộc ; kêu gọi lật đổ - xóa bỏ chế độ nhà nước. Lý do đơn giản, vì bản thân xã hội dân sự độc lập cũng chỉ là một tổ chức xã hội dân sự mà thôi.
Ví như Hội Cựu tù nhân lương tâm ra đời để thông tin và chăm sóc các cựu tù nhân lương tâm ; Ban vận động Văn đoàn độc lập ra đời để anh chị em nghệ sĩ tập hợp lại sáng tác thi ca ; Hội nhà báo độc lập Việt Nam cũng là để mọi người tự do bày tỏ quan điểm của mình theo công ước mà Việt nam đã ký kết. Nghĩa là tất cả những hoạt động này hoàn toàn nằm trong các quyền tự do căn bản mà Pháp luật nhà nước Việt nam quy định. Chỉ vậy thôi, mà Nhà nước không những ‘cảnh giác’, mà còn áp đặt cho các tổ chức này là ‘thế lực thù địch’, sao mà nghe nó chuyên chính vô sản quá đà đến thế !
Thứ nữa, quan điểm áp đặt ‘chỉ có xã hội dân sự độc lập mới bảo đảm được dân chủ và quyền con người’ thực ra chỉ có ở một số cá nhân, hàm nghĩa - nó không được thừa nhận một cách rộng rãi bởi các hội đoàn dân sự độc lập. Bởi đây là một quan điểm gây hiềm khích, chia rẽ giữa các tổ chức NGO thuộc sự quản lý nhà nước và khối NGO độc lập. Bất cứ tổ chức xã hội dân sự nào ra đời đều đặc tính riêng của nó, nhưng mục đích chung nhất là ‘phụ’ Nhà nước làm trong những công việc mà tiềm lực (hoặc năng lực) nhà nước chưa làm tốt được ; cũng như giám sát chính sách/chủ trương nhà nước sao cho không làm tổn thương xã hội hoặc đi ngược lại các các văn kiện, công ước về quyền con người mà Nhà nước đã giao kết với quốc tế. Vậy nên, đừng lấy cụm từ ‘độc lập’ ra để gây chia rẻ và gán ghép nó như một tổ chức chính trị, bởi đó là cách áp đặt hèn hạ, thô bỉ.
Cuối cùng, tiền thân của xã hội dân sự độc lập hay xã hội dân sự là quá trình nảy nở xã hội dân sự từ trước đó, ngay trong thời kỳ thuộc Pháp với những hội đoàn thiện nguyện, rồi kể cả trong thời kỳ miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa và cho đến nay. Các tổ chức xã hội dân sự Việt nam hiện nay không hoạt động về mặt đối kháng chính trị, hay thành lập tổ chức vũ trang để chống lại nhà nước, kêu gọi bạo động, mà ngược lại chính các tổ chức xã hội dân sự (trong đó có cả hội/nhóm xã hội dân sự độc lập) đã thúc đẩy một tiến trình hòa bình bằng những lần biểu tình trong sự ôn hòa (mặc cho sự kích động từ phía quần chúng tự phát), đòi hỏi những quyền dân sinh và dân chủ để nhà nước nắm lấy và thực hiện tốt hơn phương châm nhà nước của dân - do dân và vì dân. Điều quan trọng là các xã hội dân sự độc lập xuất hiện nhiều hơn khi lần đầu tiên Hiến pháp 2013 có hẳn 1 chương về quyền con người – cho phép một địa vị pháp lý, cổ vũ cho sự ra đời của Luật về Hội. Và xã hội dân sự độc lập đã đi trên cơ sở nền tảng về quyền, theo đúng chủ trương – chính sách Pháp luật, vậy hà có sao tác giả bài báo lại dẫn dụ xã hội dân sự độc lập đi ra từ một tổ chức bạo động – vũ trang có màu sắc tôn giáo là FULRO ? Đây có phải là cách thức bẻ cong ngòi bút để đạt được một mưa đồ nào đó chăng ?
Còn quá nhiều thứ để bàn cãi về xã hội dân sự độc lập, nhưng đó phải là làm sao để các tổ chức này góp phần cùng Nhà nước để thúc đẩy xã hội đi lên, chứ không phải vì chữ ‘độc lập’ mà ‘bức cung, nhục hình’ cho các tổ chức này chết dần, chết mòn chỉ vì nỗi sợ vô cớ và phi khoa học về một ‘thế lực thù địch’ qua hình hài xã hội dân sự độc lập.
Nhà giáo Vi Đức Hồi trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành
Sự phát triển của xã hội dân sự là tất yếu - Không qui định nào ngăn chặn được !
Ngày 15/11/2017 vừa qua, Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam ban hành Qui định 102 về xử lý kỷ luật đảng viên. Có thể nói đây là một bộ luật của đảng kiểm soát toàn diện đảng viên trong mọi hoạt động xã hội nhằm ngăn chặn sư suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ đảng cộng sản mà như đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã phải thú nhận : lòng dân ngày càng "mờ đảng, khô đoàn, nhạt chính trị".
Trong Qui định 102, họ cấm đảng viên bàn đến xã hội dân sự, đa nguyên đa đảng và tam quyên phân lập.
Từ Lạng Sơn, nhà giáo Vi Đức Hồi trong cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành đã khẳng định : "sự phát triển của xã hội dân sự là tất yếu - Không qui định nào ngăn chặn được !".
Nội dung như sau, mời quí vị cùng nghe :
Trần Quang Thành thực hiện
Nguồn : Tieng DanViet Media, 14/12/2017
"Đảng viên sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ nếu đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng" ; bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước".
Ông Trần Quốc Vượng thứ 5 từ trái sang.
Báo điện tử Viêtnamnet của Bộ Thông Tin và Truyền Thông tại Hà Nội hôm Thứ Tư 6/12/2017 thuật nội dung lời cảnh cáo tới tất cả đảng viên đảng cộng sản Việt Nam qua một chỉ thị từ ông Trần Quốc Vượng.
Theo nguồn tin vừa kể, ông Trần Quốc Vượng, ủy viên Bộ Chính trị, thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung Ương đảng cộng sản Việt Nam vừa thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành quy định về "xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm".
Quy định này mang số 102-QĐ/TW được ông Trần Quốc Vượng ký từ ngày 15 tháng 11 năm 2017 nhưng không thấy được quảng cáo rộng rãi, mãi ba tuần sau mới thấy Vietnamnet đề cập.
Trong đó, 5 chương với 37 điều nêu các loại tội trạng và các hình thức từ khiển trách, cảnh cáo, cách chức đến khai trừ đảng. Trong trường hợp các vi phạm "đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không "xử lý nội bộ".
Tại điều 7 của quy định trừng phạt đảng viên , khi bị coi là vi phạm nhẹ thôi thì chỉ bị "khiến trách" nếu "Bị người khác xúi giục, lôi kéo, mua chuộc mà có hành vi nói, viết, lưu trữ, tán phát, xuất bản, cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước".
Hoặc là "Phụ họa, a dua theo những quan điểm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; thiếu trách nhiệm trong đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, chống diễn biến hòa bình".
Nhưng nếu "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ :
a. Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc.
b. Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng".
c. Cố ý đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ; bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ; truyền thống của dân tộc, của Đảng và Nhà nước.
d. Lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hoạt động gây nguy hại đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
đ. Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập ; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
e. Hoạt động trong các đảng phái, tổ chức chính trị phản động.
g. Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Vào ngày ông Trần Quốc Vượng ký văn bản "Quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm' ở Hà Nội thì ông tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tới họp với các đảng viên chủ chốt của đảng bộ tỉnh Hải Phòng. Ông nhắc nhở các ông cầm đầu tỉnh này phải "ngăn chặn tình trạng chán Đảng, khô Đoàn, nhạt chính trị" tại địa phương.
Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam cũng đều có điện thoại thông minh, có máy điện toán tại nhà và truy cập internet toàn cầu. Họ có thể biết được mọi thứ thông tin "ngoài luồng" từ các tổ chức, cá nhân không trong hệ thống đảng và nhà nước.
Sự dao động tinh thần dẫn tới "chán Đảng" là điều khó tránh nên Bộ chính trị cộng sản Việt Nam đã nhiều đợt đưa ra các kế hoạch đối phó với các vấn đề "diễn biến hòa bình" và ngay trong nội bộ đảng thì "tự diễn biến, tự chuyển hóa".
Tờ Quân Đội Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền của Bộ Quốc Phòng cộng sản Việt Nam có hẳn một chuyên mục "chống diễn biến hòa bình", hay "Phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa". Không mấy ngày là tờ QĐND không có một bài bình luận, phân tích về các chủ đề vừa kể, đồng thời với các đề nghị giải pháp đối phó.
Ngày 23/08/2017, Hoa Kỳ đã lên án "sự suy thoái của bầu không khí dân chủ tại Cam Bốt", sau khi chính quyền Phnom Penh thi hành các biện pháp cấm đoán đối với báo chí và xã hội dân sự.
Logo của Viện Dân Chủ Quốc Gia (National Democratic Institute, NDI). Ảnh minh họa. CC/National Democratic Institute
Trong cuộc họp báo tại Washington, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Heather Nauert tuyên bố rằng thành công của các cuộc bầu cử địa phương gần đây đã bị che khuất bởi những hành động "đáng quan ngại" của chính quyền Cam Bốt cản trở quyền tự do báo chí và công việc của các tổ chức xã hội dân sự.
Ngày 23/08, chính quyền đã ra lệnh đóng cửa một tổ chức phi chính phủ của Mỹ, Viện Dân chủ Quốc gia (NDI), và trục xuất các nhân viên nước ngoài của tổ chức này, với lý do NDI nợ thuế. Trong những tuần qua, các phương tiện truyền thông thân chính phủ vẫn cáo buộc NDI, mà chủ tịch là cựu ngoại trưởng Madelaine Albright, hỗ trợ cho phe đối lập Cam Bốt để tìm cách lật đổ chính quyền Hun Sen.
Trước đó, thủ tướng Hun Sen đã dọa sẽ đình bản nhật báo Cambodia Daily, một trong số ít tờ báo chỉ trích chính quyền, với lý do tờ báo này nợ tiền thuế lên tới 6,3 triệu đô la.
Ngày 23/08, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ đã kêu gọi chính phủ Phnom Penh cho phép tổ chức NDI, tờ Cambodia Daily, cũng như các phương tiện truyền thông độc lập khác và các tổ chức dân sự được tiếp tục hoạt động "để cho cuộc bầu cử Quốc hội năm 2018 được diễn ra trong một môi trường tự do và cởi mở".
Thanh Phương