Dích dắc ‘xây thành đắp lũy’
Một cuộc ngã giá vô tiền khoáng hậu. Theo nguồn tin nội bộ, chấp nhận ghế Chủ tịch nước ngày 22/5/2024, Tướng Tô Lâm đã đặt điều kiệnvới Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Trung ương đảng, phải bầu bổ sung hai tướng ba sao của ông là Lương Tam Quang và Nguyễn Duy Ngọc, đều là dân gốc Hưng Yên, vào Bộ Chính trị. Nhưng rồi ‘mộng đẹp không thành’, Tô Lâm ‘đành cài số lùi’.
Ông Tô Lâm tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam, Hà Nội, ngày 22/5/2024. Pham Trung Kien/VNA
Hôm 6/6, khi Quốc hội bấm nút chấp thuận tướng Quang vào ghế Bộ trưởng Công an, cũng là lúc Tô Lâm cho CO3 ra tuyên bố công khai : Cơ quan An ninh Bộ Công an chấm dứt điều tra giai đoạn 2 vụ án hình sự Vạn Thịnh Phát (1). Vậy là, Lê Minh Hưng, tân Chánh Văn phòng Trung ương Đảng – người từng đứng đầu Ngân hàng Nhà nước vào những năm Trương Mỹ Lan ‘múa gậy vườn hoang’ giữa Đô thành, gây thiệt hại cho người dân khoảng 30.869 tỷ VND – có khả năng sẽ thoát nạn. ‘Bánh ú trao đi bánh chì trao lại’. Người của Tô Lâm ‘ấm ghế’ ở Trung ương để hy vọng vào Bộ Chính trị nay mai, thì ngay lập tức Lê Minh Hưng, trong cùng ngày 6/6 ‘gần như khỏi lo’ bị điều tra ngược. Không cần trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, chỉ là ‘phó thường dân dự khuyết’ cũng biết được, Cựu Cục trưởng Đỗ Thị Nhàn một mình không thể nuốt trôi 5,5 triệu USD do Trương Mỹ Lan lại quả.
Lương Tam Quang và Nguyễn Duy Ngọc đã không gom đủ số phiếu tại Hội nghị Trung ương 9 (2). Tô Đại tướng đành quyền biến, ‘lùi một bước tiến hai bước’ khá ngoạn mục. Ngày 3/6, Tô Lâm tạm thỏa mãn ghế Chánh Văn phòng Trung ương Đảng đối với Thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc, để ngày 6/6 vừa qua, ông đạt được đòi hỏi thứ hai, tức là gần như 100% Quốc hội bầu Thượng tướng Lương Tam Quang vào ghế Bộ trưởng Công an. Trong Hội nghị Trung ương 9, ‘tâm phúc’ của Tô Đại tướng chưa dành ngay được hai vị trí trong Bộ Chính trị, nhưng với ghế Chánh Văn phòng Trung ương đảng và Bộ trưởng Công an, tương lai Ngọc và Quang vào Bộ Chính trị vẫn chưa hết hy vọng. Chậm nhưng chắc, theo bước chân của người tiền nhiệm Lê Minh Hưng, trước mắt, tướng Ngọc sẽ được vào Ban bí thư. Cuộc ngã giá của tân Chủ tịch nước đã buộc Trung ương và Bộ Chính trị phải chấp thuận cho các thủ túc của ông ‘gác cửa’ ở Trung ương Đảng và thay ông ‘trông coi’ Bộ Công an. Đối với tân Chủ tịch nước, đây là thành công bước đầu ngoạn mục, mặc dầu để cài tiếp hai ‘đệ tử của mình’ ở Bộ Công an leo tiếp trên các nấc thang quyền lực vẫn còn là một tương lai bất định.
Bộ Chính trị lúc đầu vốn quan ngại vây cánh của Tô Lâm quá mạnh trong Trung ương và Bộ Chính trị nên chưa đồng thuận cho hai Thượng tướng Công an Nguyễn Duy Ngọc và Lương Tam Quang vào Bộ Chính trị ngay trong đợt bầu bổ sung tại Hội nghị Trung ương-9. Nhưng với kế hoạch ‘bao vây’ và ‘đánh lấn’ của Tô Lâm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cuối cùng cũng đã thúc thủ. Tại phiên họp Quốc hội hôm 6/6, tân Chủ tịch nước Tô Lâm, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, đã đề nghị Quốc hội phê chuẩn cho tướng Lương Tam Quang làm thành viên Hội đồng. Và Quốc hội đã biểu quyết thông qua đề nghị này với tỷ lệ 100% đại biểu tán thành (3). Trước mắt, tướng Quang và tướng Ngọc sẽ phục vụ hết nhiệm kỳ của ông Tô Lâm đến năm 2026. Nếu Quang không ‘leo’ được tiếp lên Bộ Chính trị, ông sẽ kết thúc cuộc đời binh nghiệp ở tuổi 61 vào tháng 1/2026. Dẫu sao Tô Đại tướng cũng đã ép được Bộ Chính trị và Trung ương chấp thuận kế hoạch ‘xây thành, đắp lũy’ của mình. Bố trí xong hai ghế Chánh Văn phòng Trung ương đảng và Bộ trưởng Bộ Công an cho Ngọc và Quang, vốn là các thủ túc thân tín của ông. Ngay từ đầu, Đại tướng Tô Lâm không dấu diếm, đó là các điều kiện tiên quyết để ông chấp nhận rời ghế Bộ Công an sang ngồi vào ghế Chủ tịch nước.
Liệu có ‘cái chết trên chấm phạt đền’ ?
Giới bình luận quốc tế đánh giá, các điều kiện tiên quyết của Tô Lâm áp đặt lên Bộ Chính trị thực chất là một cuộc chính biến (coup d'etat) hoàn hảo (4). Tô Đại tướng đã hành động ‘tréo ngoe’ so với Hiến pháp cũng như Đảng chế xưa nay. Mọi quyết sách lớn về nhân sự trên thượng tầng Ba Đình thường là do Bộ Chính trị thiết kế, sau đó Trung ương và Quốc hội chỉ bấm nút triển khai thực hiện. Đằng này, vừa qua, bằng một Hội nghị bất thường để lấy phiếu tín nhiệm từ cơ sở cho điều gọi là ‘kiện toàn vị trí Bộ trưởng Công an’, Tô Lâm trên thực tế đã vô hiệu hóa quyết định trước đó của Chính phủ để Trần Quốc Tỏ ‘điều hành Bộ Công an’, áp đặt luôn kết quả bỏ phiếu để đưa Quang vào vị trí làm ‘bàn đạp’ chuẩn bị ‘nhảy lên’ Bộ Chính trị về sau. Điều này liệu có thể diễn ra, khi mà tân Bộ trưởng Lương Tam Quang chưa đủ điều kiện ‘trọn một khóa’ Trung ương và cũng chưa từng qua một khóa công tác ở cấp tỉnh ? Nhưng với ‘tả phù hữu bật’, với ‘thế chẻ tre’ trên bàn cờ chính trị Ba Đình (5), Tô lâm đã ‘xây thành đắp lũy’ thành công mà không sợ các thế lực khác ‘đánh úp’ khi ông buộc lòng phải ‘buông’ ghế Bộ trưởng Công an để tính chuyện được được ‘hưởng suất đặc biệt kéo dài tuổi hưu’ tại Đại hội 14 vào tháng 1/2026. Giới quan sát chính trị Hà Nội đang đặt vấn đề : Nếu một khi có ‘cái chết trên chậm phạt đền’, Tô Lâm có đủ quyền bính để gộp Chủ tịch nước với Tổng bí thư làm một ?
Trong một bài viết súc tích trước khi bị bắt hôm 1/6/2024, nhà báo Huy Đức đã mô tả về cái chết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Huy Đức có ý đổ trách nhiệm cho Tổng bí thư Trọng trong việc ông có vẻ lấn át bộ máy quản trị bên chính phủ, chỉ tập trung ‘gia cố’ hệ thống các Ban bên Đảng (6). Thật ra cuộc tranh giành lúc ngấm ngầm, lúc công khai giữa ‘cung Vua’ và ‘phủ Chúa’ ở Ba Đình khi nhân loại đã đi được một phần tư thế kỷ 21, có lẽ là một trong những chương đen tối của lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Ở một đất nước ‘luật pháp có cũng như không’, gần một tuần lễ trôi qua, người dân và cả hệ thống truyền thông ‘lề đảng’ vẫn chưa biết, Huy Đức đã ‘bị bốc hơi’ cách nào. Mãi đến cách đây vài ngày mới có tin chính thức Huy Đức bị bắt về tội "lợi dụng tự do, dân chủ". Trong khi đó thì tình hình tham nhũng đã tồi tệ đến mức, như một bình luận trên RFA cũng vào ngày 6/6, giới lãnh đạo không thể công khai trước toàn dân về trách nhiệm giải trình. Người dân đứng ngoài ‘trò chơi cung đình’, trong đó sự tranh giành quyền lực và thanh trừng nội bộ ở thượng tầng đang diễn ra khốc liệt. Trong vòng hơn mộ t năm tính từ đầu 2023 đến thời điểm hiện nay, hàng tá các Ủy viên Bộ Chính trị, các Phó thủ tướng, bộ trưởng và nhiều quan chức cao cấp khác bị ‘ngã ngựa’ dưới các hình thức khác nhau… (7).
Trong một nghiên cứu được trao giải quốc tế từ Viện nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) của Singapore, các học giả về Việt Nam đã tiên đoán về sự ‘tắc tử’ của hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự lên ngôi của chế độ độc tài công an trị. Có một số kịch bản phát triển khả dĩ cho Hà Nội như sau : Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục theo con đường hiện tại, từ chối thực hiện các cải cách chính trị và quản trị triệt để hơn và tránh xa thực hành đa nguyên chính trị. Trong trường hợp này, tham nhũng có thể sẽ trở nên lan tràn và gây tổn hại nghiêm trọng hơn và các phe phái cùng các nhóm lợi ích sẽ gây thêm nhiều tổn hại hơn nữa. Một sự phát triển như vậy sẽ dẫn đến sự mất hoàn toàn tính hợp pháp của Đảng Cộng sản. Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam bám giữ chế độ ‘đảng trị’ duy nhất bằng mọi giá và chỉ thực hiện các cải cách phi chính trị. Trong tình huống ấy, thời gian trước khi mất tính hợp pháp có thể kéo dài và Việt Nam sẽ trở thành một loại hình nhà nước cảnh sát toàn trị. Thứ ba, Việt Nam tiến tới đa nguyên chính trị mà không có bất kỳ cải cách toàn diện nào. Trong trường hợp ấy, sự phát triển của Việt Nam sẽ c àng khó dự đoán hơn và sẽ gặp nhiều hỗn loạn và bất định phía trước (8).
Hoàng Trường
Nguồn : VOA, 10/06/2024
Tham khảo :
(2) https://www.voatiengviet.com/a/trung-uong-9-buoc-ngoat-hay-ngo-cut-/7617585.html
Nếu trường hợp Quốc hội sẽ phê chuẩn Phan Đình Trạc làm Bộ trưởng công an thì ‘chung kết’ giữa Đình Trạc, Tô Lâm và Minh Chính sẽ kịch chiến. ‘Trò đời’ (La Comédie Humaine) từ Đảng cộng sản Việt Nam sẽ có nhiều tập hay hơn của Balzac.
Khúc khuỷu đường dẫn đến lễ tuyên thệ
Ông Tô Lâm tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam tại Quốc hội Việt Nam ngày 22/5/2024.
Sáng 22/5/2024, Đại tướng Công an Tô Lâm đã tuyên thệ để trở thành Chủ tịch nước (Chủ tịch nước) mới của Việt Nam.Ông Lâm cam kết sẽ thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đã được Hiến định (1). Đáng chú ý là buổi lễ tại Quốc hội có sự tham dự của đầy đủ các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam, nhưng lại vắng mặt Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vốn theo thông lệ trước giờ đều phải có mặt tại những buổi lễ như thế này, đồng thời cũng không có cả sự hiện diện của cựu Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng để chúc mừng người kế nhiệm (2). Sau khi bầu ông Lâm làm Chủ tịch nước, Quốc hội đã xúc tiến quy trình miễn nhiệm chức Bộ trưởng công an cũng trong buổi sáng cùng ngày.
Tin nội chính của Việt Nam những ngày này xoay như chóng chóng. Mới sáng hôm 19/5, báo chí nhà nước vẫn ‘đồng ca’ bài ‘chưa phê chuẩn hoặc miễn nhiệm Bộ trưởng Bộ Công an tại kỳ họp thứ 7’ (3).Bời lẽ, sau bế mạc Hội nghị Trung ương bất thường (Trung ương 9) ngày 18/5 trước đó, các bên vẫn chưa thể thống nhất được, chọn ra ai sẽ ngồi vào ghế Bộ trưởng công an thay Đại tướng Tô Lâm.
Việc Chủ tịch nước kiêm nhiệm Bộ trưởng công an tưởng như đã là thắng lợi chắc chắn của Đại tướng Tô Lâm. Ấy vậy nhưng trưa ngày 21/5, ‘gió đã đột ngột đảo chiều’. Truyền thông nhà nước đồng loạt thông tin, Quốc hội căn cứ ý kiến ‘cấp có thẩm quyền’ (Bộ Chính trị và cuộc họp của các lãnh đạo chủ chốt), căn cứ quy định pháp luật, sẽ bổ sung thêm nội dung miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng công an đối với Tô Lâm, sau khi ông sẽ được bầu làm Chủ tịch nước trong buổi sáng 22/5. Tức là vào phút 89 của trận đấu, ‘cơ quan có thẩm quyền’ lại lật kèo, từ chỗ đồng ý cho ‘ngồi hai ghế’ đến quyết định chỉ cho ‘ngồi một ghế’, cứu cho Hiến pháp khỏi bị khủng hoảng. Trước đó, trả lời BBC ngày 19/5, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore) nói rằng, theo quy định hiện hành của Hiến pháp, Chủ tịch nước không thể kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng công an. Việc kiêm nhiệm như thế sẽ dẫn đến xung đột thẩm quyền và vi phạm nguyê n tắc phân công, phân nhiệm, phân quyền trong bộ máy nhà nước (4).Tấm hình Tô Đại tướng mà tất cả báo chí nước ngoài chuyển tải trưa 20/5, không thể nào ‘chua’ bên dưới là ‘Nụ cười chiến thắng’ của Tô Lâm ! Chưa thấy Nguyên thủ quốc gia nào nhậm chức mà thiểu não đến như vậy !
Sáng 22/5, Thượng tướng – Thứ trưởng công an Trần Quốc Tỏ đã được Thủ tướng Phạm Minh Chính phân công điều hành hoạt động của Bộ Công an cho đến khi ‘cấp có thẩm quyền’ – tức Bộ Chính Trị, kiện toàn chức danh Bộ trưởng công an.Chỉ có thể giải thích sự ‘lật kèo’ này bằng quyết định trong cuộc họp của lãnh đạo chủ chốt nói trên.
Ở đây mới thấy hết ‘tài thao lược’ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Khi Bộ Chính trị đã ‘trám’ được 4/6 ghế trống trong cơ quan quyền lực cao nhất nước, tức Bộ Chính trị đã có 14 thành viên, lại hầu hết là người bên Đảng, đủ để thay đổi tương quan lực lượng trong Bộ Chính trị, nên đã ‘thuyết phục’ được ông Tô Lâm ‘buông ghế’ Bộ trưởng công an !Trong tay ‘Cơ quan có thẩm quyền’ có Phan Đình Trạc, Trần Cẩm Tú, Nguyễn Hòa Bình. Tất cả đều là Ủy viên Bộ Chính trị, đã từng lãnh đạo ngành, địa phương và đều đang là Đại biểu quốc hội, 100% đạt tiêu chuẩn Bộ trưởng công an, nhưng phía ông Tô Lâm chưa chịu buông. Trong khi đó, các thứ trưởng của Tô Đại tướng lại ‘còn non xanh’, tuy đều Ủy viên trung ương nhưng chưa tròn một khóa, lại không phải là Đại biểu quốc hội, thì rõ ràng đã không thể ‘trám vào’ một trong hai ghế trống của Bộ Chính trị như ý muốn của Tô Đại tướng trước khi chấp nhận rời Bộ Công an.
Không ‘trám’ được hai chiếc ghế trống
Đằng sau câu chuyện Bộ Chính trị không ‘trám đủ’ số ghế trống có thể hé lộ mấy điều sau đây.
Thứ nhất, phơi bày một sự thật là Trung ương 9 vừa qua đã vỡ trận ! Vấn đề nhân sự cấp cao xưa nay phần lớn bàn trong Bộ Chính trị là xong, chỉ đưa ra Trung ương để bỏ phiếu lấy lệ (ít khi nào Trung ương chống lại Bộ Chính trị). Trường hợp đưa ra mà không kỷ luật nổi Nguyễn Tấn Dũng cách đây mấy năm là một ngoại lệ hiếm hoi. Nếu có vị trí nào liên quan bên Nhà nước hoặc Chính phủ thì đưa thêm ra Quốc hội để ‘bấm nút’.‘Đảng chỉ tay, Quốc hội giơ tay, Mặt trận vỗ tay’ là quy trình chán ngắt đến mức người dân chẳng mấy ai quam tâm. Nhưng câu chuyện của tuần qua lại hoàn toàn khác, nó không thể ngụy tạo như từ trước tới nay rằng, ‘Trung ương 9 đã thành công tốt đẹp’.
Thứ hai, hệ lụy của việc ‘để trống’ hai vị trí trong Bộ Chính trị sẽ kéo dài cuộc đấu đá giữa ‘các lãnh đạo chủ chốt’ chưa biết đến bao lâu. Các bè phái trong Đảng phải tiếp tục dàn quân để cho người của mỗi cánh phải ‘trám’ được vào những vị trí béo bở. Theo tin nội bộ không muốn nêu danh tính, Quốc hội sẽ phê chuẩn Phan Đình Trạc làm Bộ trưởng công an. Nếu thế thì ‘cuộc chung kết’ giữa Phan Đình Trạc, Tô Lâm và Phạm Minh Chính có thể kịch chiến.
Thứ ba, không ‘trám đủ’ chỗ trống còn liên quan đến việc tái phân công, phân nhiệm phạm vi công tác của bốn ‘tân Ủy viên Bộ Chính trị’.Ai được kiêm nhiệm công tác cũ, ai phải đưa lại phần việc cho người khác ? Lại một cuộc ‘xáo bài’ mới sẽ tiếp diễn…
Nhưng việc ‘trám’ được hai ghế trống ‘nóng’, để Tô Lâm và Trần Thanh Mẫn tuyên thệ nhậm chức cũng lại gây nên nhiều dư âm trong dân. Theo báo chí nhà nước mô tả, dưới cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước, hai tân thành viên ‘Tứ trụ’ đã thề bồi bằng những đoạn văn mẫu. Lâu nay, thề bồi là quy trình bắt buộc nhưng chả mấy ai để ý. Quốc hội, đồng bào và cử tri cả nước từng nghe quá nhiều các lời thề như thế từ mấy ông Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ… đọc thuộc lòng các ‘đoạn văn mẫu’ ấy và cũng như những phát biểu theo các công thức định sẵn. Chẳng có cách nào thẩm định được các lời thề ấy có xuất phát tự đáy lòng hay không và ràng buộc người đứng ra thề bồi như thế nào ?
Điều nghịch lý trớ trêu là những người dân chưa bao giờ được biết, các ‘Tứ trụ’ bị ‘rớt đài’ từng thề thốt trước ống kính và ‘dưới cờ đỏ thiêng liêng’ cho đến nay, đã mắc phải những tội danh cụ thể gì ? Nặng nhẹ đến mức nào ? Phạm tội vì không giữ được liêm chính trong thực thi công vụ hay phạm tội do phản bội nhân dân, phản bội Tổ quốc ? Người dân giễu nhại ‘thề cá trê chui ống’ (trôi tuột và khó nắm bắt) có phải hàm ý như vậy không ?Bởi vì tất cả thề trước dân nhưng dân không biết chuyện gì thực sự đã xảy ra ở :
‘những chỗ lõm…. lồi trên mặt trăng sao,
những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao ?’
(Thơ Việt Phương)
Thể chế vẫn chưa đến điểm tới hạn
Trước khi ông Tô Lâm chính thức trở thành Chủ tịch nước, Tiến sĩ Bill Hayton đã viết trên trang web của Chatham House, Viện nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh quốc rằng, Việt Nam sẽ ngày càng tô đậm ấn tượng về một ‘nhà nước công an trị’ (5). ‘Tứ Trụ’ giờ đây quy tụ hai người đi lên từ ngành công an là Chủ tịch nước Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính. Tính cả các nhân vật khác như các ông Trạc, Tú và Bình thì Bộ Chính trị có năm nhân vật xuất thân từ tướng tá công an. Nếu tính thêm hai ông Đại tướng (Giang và Cường) và một Thượng tướng (Nghĩa) có gốc gác quân đội thì Bộ Chính trị có tám Ủy viên là từ các lực lượng vũ trang. Tám trên mười sáu, đúng 50%. Bốn nhân vật vừa bổ sung chủ yếu cũng lại là người làm công tác Đảng, trừ Lê Minh Hưng có chuyên môn về Ngân hàng. Nhưng có lẽ ông Hưng giờ đây chẳng muốn ai nhắc lại thời ông làm Thống đốc Ngân hàng, vì đó là những năm tỷ phú Trương Mỹ Lan ‘tác oai tác quái’ trên địa bàn của ông như chỗ không người. Cũng chưa ai chất vấn ông về ‘trách nhiệm người đứng đầu’ từ ngày ông về đầu quân làm Trợ lý cho Tổng bí thư.
Với một thể chế mà đội ngũ "tinh hoa" gồm những thành phần ‘ưu việt’ như trên thì không có gì lạ là những ngày qua, khối ngoại đã bán ròng hơn 5.000 tỷ VND. Nếu tính từ đầu năm đến nay, nhóm này bán ròng 25.000 tỷ VND tương đương với gần 1 tỷ USD, vượt cả giá trị bán ròng trong suốt cả năm 2023 (6). Bên cạnh việc vốn ngoại ồ ạt rút khỏi sàn chứng khoán, Việt Nam đã mất ít nhất 2,5 tỷ USD viện trợ nước ngoài trong ba năm qua và có thể mất thêm 1 tỷ USD nữa do tình trạng tê liệt bộ máy hành chính. Thông tin này từ lá thư do người đứng đầu Liên Hiệp Quốc và Ngân hàng Thế giới gửi Thủ tướng Phạm Minh Chính, kèm theo chữ ký của 18 Đại sứ, trong đó có Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu, Nhật Bản và người đứng đầu Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Hà Nội (7). Trong một diễn biến liên quan, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái hôm 20/5 đã thừa nhận nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng và cho biết chính phủ sẽ cố gắng duy trì các chính sách hỗ trợ tăng trưởng, dù sản xu ất công nghiệp phục hồi chậm. Sản xuất nông nghiệp, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp nhiều khó khăn do hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài và nặng nề hơn (8).
Với những thách thức kể trên, thể chế lạc lõng của Việt Nam vẫn chưa đến điểm tới hạn. Mặc dầu có nhiều dự báo bi quan, nhưng với một thể chế lấy ‘thành tích’ bạo lực và đàn áp dân chúng làm tiêu chí duy nhất để ‘ổn định xã hội’, thể chế đó vẫn còn không gian tồn tại trong một thời gian dài. Dân chúng tuy đã chán ngấy dàn lãnh đạo hiện nay, nhưng tâm lý chung là vẫn là nhẫn nhịn và cam chịu. Chế độ toàn trị không chỉ diệt hết mọi tư duy sáng tạo, mà còn triệt tiêu tất cả mầm mống phản biện và đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hàng ngày. Cả xã hội hầu hư nghẹt thở và lay lắt với những nỗi lo cơm áo. Trình độ cả dân lẫn quan không khá hơn thời kỳ cụ Phan Chu Trinh kêu gọi ‘Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh’ cách đây trăm năm. Phải nhìn thẳng vào sự thật như thế để tránh mọi ảo tưởng ! Đừng thấy lãnh đạo đánh nhau trên thượ ng tầng mà ngộ nhận rằng, đất nước đứng trước bước ngoặt. Các cuộc tiến hóa không từ trên trời rơi xuống, nó phải từ người dân đi lên. Chừng nào người dân còn thái độ cam chịu, thì không có lý do gì để hy vọng vào bước ngoặt hay sự chuyển đổi hệ thống một cách ngoạn mục.
Trần Đông A
Nguồn : VOA, 23/05/2024
Tham khảo :
(4) https://www.bbc.com/vietnamese/articles/ckddwe5k9pjo
Đảng mãi chuyện ‘cưa ghế’ đến độ ngay cả Vua Hà Lan Willem-Alexander cũng ‘hoàn toàn bất ngờ’ và ‘không hề biết lý do’ vì sao chuyến thăm của Ngài bị đình hoãn…
Vua và Hoàng Hậu Hà Lan, Willem-Alexander - Maxima và ông bà Võ Văn Thưởng.
Tin sốt dẻo về ‘sân khấu chính trị Ba Đình’ là tuần này, xê dịch khoảng từ 20 đến 23/3 sẽ có các cuộc họp bất thường của Đảng và Quốc hội Việt Nam. Giấy triệu tập từ Quốc hội, kèm theo ghi chú bên dưới‘không được phép sao chụp’, thậm chí mỗi Giấy Mời đều mang một bí số riêng. ‘Vinh dự’ cho vị đại biểu nào nhận đượcGiấy Mời có bí số ‘E-pas 20658’ ; vì chính văn bản này đã bị / được tung lên mạng mấy ngày nay. Vậy là hơn một năm trước đây, Ban chấp hành trung ương Đảng cũng từng có ‘phiên họp bất thường’ như thế để đưa ông Võ Văn Thưởng lên làm Chủ tịch nước. Hơn một năm sau, ngày 21/3 tới, lá đơn ‘Xin từ nhiệm’ của đương kim Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, viết cách đây suýt soát cũng dăm hôm rày, sẽ được hơn 200 đồng chí ủy viên Trung ương nhất loạt phê duyệt ; và liền kề sẽ là hơn 500 đại biểu ‘ưu tú của nhân dân’ đồng loạt phê chuẩn, để ‘đồng chí Chủ tịch’ bị / được về quê ‘ráng làm người tử tế’ (Ước mong của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) (1).Đảng ta dàn xếp công tác nhân sự đều ‘đẹp’ và ‘tăm tắp’ như duyệt binh tr ên Hồng trường. ‘Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt’, đúng như chỉ lệnh của đương kim Tổng bí thư !
Khúc quanh ‘sinh tử’…
Ai đó nói sinh hoạt chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam nhàm chán, đích thị kẻ ấy là ‘phần tử cơ hội’, chịu ảnh hưởng của ‘các thế lực thân địch’. Ngược lại mới đúng !Các cuộc đua sau hậu trường kỳ này đều ‘trầm trầm mà cương quyết’ (2).
Này nhé : Cuộc đua vào ‘Tứ Trụ’ tuy chưa có còi lệnh của ‘trọng tài’ nhưng đã có ‘vận động viên’ vượt vạch xuất phát chạy một mình (3). Còn các vận động viên khác cũng đang chộn rộn nóng lòng chờ tiếng còi hiệu. Phát biểu của Chủ tịch Quốc hội bình tĩnh tự tại một cách không bình thường ; và nay đặc biệt là ‘việc cưa ghế’ vị Chủ tịch nước được cho là trẻ nhất, hứa hẹn nhất, lại là ‘đệ tử ruột’ của Tổng bí thư… Tất cả, phải chăng là ‘sự chu đáo’, phản ánh ‘tình đồng chí, đồng đội’, ‘sống cùng Đảng chết không rời Đảng/Tấm lòng son chói sáng nghìn thu’ (Tố Hữu) của thế hệ lãnh đạo 4.0 hiện nay ? Phải chăng là ‘hồng phúc dân tộc’, đúng như lời cảm thán của một ‘nữ đồng chí’ phát đi từ ‘thành phố mang tên Bác’ ? (4).
Reuters cách đây hơn một năm từng nhận xét, ông Võ Văn Thưởng được coi là người thân tín với nhân vật quyền lực bậc nhất Việt Nam – Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.Riêng chỗ nội bộ cho biết, ông Thưởng thường xuyên ‘xưng chú – cháu’ với Tổng bí thư. Việc bổ nhiệm chức vụ Chủ tịch nước lúc ấy diễn ra trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng hay còn gọi là ‘đốt lò’ ngày càng mở rộng. Theo đó, hàng trăm quan chức bị ví như ‘củi cả khô lẫn tươi’ đều bị bỏ vào lò để điều tra, hàng loạt chính trị gia hàng đầu bị miễn nhiệm, trong đó có hai Phó Thủ tướng được cho là đại diện ‘khả dĩ’ cho giới kỹ trị (5).
Tuy nhiên, trong phát biểu vào tháng 12/2022, đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định : ‘Đội ngũ cán bộ Đoàn đông đảo, trẻ trung, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đã và đang trở thành nguồn cán bộ kế cận tin cậy của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp’.Nhớ là chữ Đoàn, Đảng ở đây đều phải viết hoa, chứ không được viết thường như chữ ‘kỹ trị’… Trên danh nghĩa, Chủ tịch nước là một trong ‘Tứ trụ’ (A2) của Đảng cộng sản, bên cạnh vị trí Tổng bí thư (A1), Thủ tướng chính phủ (A3) và Chủ tịch quốc hội (A4). Nhưng trên thực tế, A2 này thật ra là ‘A4 – A chót’, nếu ta nhìn vào ‘số phận long đong’ của chiếc ghế ‘Tất tử’ này ! (6)
Kể từ khi giành được quy chế ‘đặc biệt của đặc biệt’ tại Đại hội 13, giờ đây, thế lưỡng nan của A1 đang vào khúc quanh ‘sinh tử’. Ngay sau mấy ngày họp ‘bất thường nhưng rất đỗi bình thường’ vào những ngày tới, câu hỏi ai là kẻ chủ trương ‘cưa ghế’ của Võ Văn Thưởng cũng chưa chắc hy vọng có câu trả lời mạch lạc và logic. Phải vận dụng cặp phạm trù mác-xít ‘khả năng – hiện thực’ vào trường hợp này, may ra mới có thể soi tỏ phần nào. Cũng chỉ phần nào thôi, bởi vì A1 là ‘siêu lý luận gia’ của Đảng ! Có thể dò sông dò biển nhưng thật khó mà ‘dò’ được mạch tư duy của ông. Nguyễn Phú Trọng đã để lại cho hậu thế 3 tập sách, có thể sánh vai với ‘Mao tuyển’, ‘Tập tuyển’ hoặc "Lê Nin toàn tập’… tức là loại sách không bán được trên thị trường, nhưng lại chất đầy trên các giá sách ở chốn ‘cung đình’. Từ những chương sách ‘đậm đặc’ tính mưu mô ấy, có thể dự đoán, ý đồ Tổng bí thư ‘đôn’ Thưởng lên ghế A1 là có thật !Thưởng ngồi vào ghế A1, ông Trọng được hưởng hai cái lợi. Thứ nhất, ông sẽ đ ược an toàn sau khi ‘từ quan’, khó xảy ra chuyện ‘kiến ăn cá’. Thứ hai, điều này mới quan trọng, nguyên Tổng bí thư có thể ‘buông màn chấp chính’… (7) !
Đối với Tổng bí thư ? Với Đảng ? Với Dân ?
Ý đồ ‘đôn’ Thưởng lên cũng chỉ là một giả thuyết. Khả năng thứ hai, mà khả năng này có thể lớn hơn giả thuyết thứ nhất. ‘Đẩy’ Thưởng vào ghế A2 cách đây hơn năm chỉ là một vở diễn của Tổng bí thư. Nay thì ông Trọng có thể nói trong nội bộ, ‘tôi không tham quyền cố vị, tôi đã chọn ra cho các anh ‘một hạt giống đỏ’. Nhưng chỉ sau một năm, các anh dò la ra hạt giống ấy bị thui chột. Thế thì lẽ đương nhiên, 23 tháng tới đây, các anh phải sửa lại Điều lệ Đảng để tôi ngồi tiếp… nhiệm kỳ thứ tư. Liên quan đến điều này, ông Trọng từng ‘nghẹn ngào tâm sự’ với Tập Chủ tịch hồi cuối năm ngoái, trước ông kính truyền hình, rằng ông không muốn vậy ! Thế lưỡng nan của Tổng bí thư ở đây là, nội bộ nếu ai đó dám ‘vuốt râu hùm’ (Cho dù chuyện này khá hiếm hoi, nhưng nếu không dám công khai người ta sẽ ‘rì rầm’ ở mức đủ to để Tổng bí thư, chứ không để cho ‘thế lực thù địch’, nghe thấy).‘Rì rầm’ rằng, thử hỏi trách nhiệm chính trị của người đứng đầu Bộ ‘tham mưu của Đảng’ ở đâu, khi đích thị ông chọn 4 – 5 ‘candidate’ để thay thế, từ Đinh Thế Huynh… đến Võ Văn Thưởng, người thì ‘nhặt lá, đá ông bơ trên đường’, người thì sắp tới Trung ương họp để ‘cưa ghế’ ?
Thế lưỡng nan nói trên của Tổng bí thư đương nhiên cũng là một phần thế lưỡng nan của Đảng cộng sản Việt Nam. Và không chỉ Đảng, mà ngay cả Hành pháp lẫn Lập pháp (tuy phân ra để làm dáng ‘tam quyền’ kiểu xã hội chủ nghĩa cũng bị vạ lây. Đó là việc Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được/bị ghi vào "Kỷ lục Guinness". Tiếc rằng, đó không phải kỷ kục về chiếc bánh chưng to nhất, hay những tượng đài vĩ đại nhất… Lần này, với"scandal đối với Hoàng gia Hà Lan", chắc chắn Hà Nội sẽ được ghi vào "Guinness Khánh tiết", như một thất thố thảm hại nhất về "Lễ tân" trong lịch sử "Ngoại giao Nguyên thủ". Việc nước chủ nhà đình hoãn một phái đoàn hàng trăm yếu nhân, dưới sự dẫn dắt của Đức Vua và Hoàng Hậu Hà Lan mà không đưa ra lời giải thích về nguyên nhân, rõ ràng không chỉ là vô tiền khoáng hậu, mà còn là sự ‘khinh thị’ không thể nào chấp nhận. Trên Diễn đàn Hoàng gia (The Royal Forums), nhiều người bày tỏ thắc mắc về lý do chuyến thăm bị hoãn : ‘Có ai biết ‘tình hình trong nước’ ở Việt Nam là gì mà phải hoãn chuyến thăm không ?’ Người khác đáp lại : ‘Chứ tôi không thấy có tình trạng bất ổn xã hội hay bất cứ điều gì tương tự ! (8)
Cuối cùng, nói về thân phận của ‘LesMisérables’ (Những người khốn khổ, Victor Hugo) sống dưới một thể chế‘dân chủ cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản’ (9). Vâng, 18 triệu nhà nông ở Đồng bằng sông Cửu Long vốn bị xâm nhập mặn bủa vây, đang háo hức đón đợi các ‘đối tác chiến lược’ Hà Lan đến giúp sức để thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý nước, nông nghiệp bền vững, chung tay giúp ứng phó với các thách thức toàn cầu. Đặc biệt là hợp tác từ các lĩnh vực khai thác cát ngoài khơi, phát triển kinh tế xanh… cho đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên nước, thủy lợi, phòng chống thiên tai... (10). Mà không chỉ ở đấy, người dân trên Tây Nguyên, ngoài Cát Bà và nhiều nơi khác trên giải đất chữ S khốn khó này cũng đang cần đội ngũ chuyên gia, các nhà đầu tư đến ứng cứu… Nhưng Đảng đang mãi chuyện ‘cưa ghế’, đến độ Vua Willem-Alexander cũng ‘hoàn toàn bất ngờ’ và ‘không hề biết lý do’ vì sao chuyến thăm của Ngài bị đình hoãn.‘Việc hủy chuyến thăm ấy vào phút chót gần như chưa bao giờ xảy ra. Và việc nước chủ nhà không đ ưa ra lời giải thích rõ ràng lại càng chưa từng có tiền lệ’, truyền thông Hà Lan bình luận (11). Khi quần thần bẩm báo lại với Đức Vua – từ chuyện nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam ‘cưa đục ghế’ cho đến việc đình hoãn chuyến vi hành của Ngài là cả những phương trời cách biệt – không rõ trong đầu Ngài có bật ra câu hỏi, muốn giúp đỡ Việt Nam sao khó thế ?
Trần Đông A
Nguồn : VOA, 19/03/2024
Tham khảo :
(1) https://www.voatiengviet.com/a/rang-lam-nguoi-tu-te/3268616.html
(2) https://tuoitre.vn/nuoc-dai-nam-doi-dien-voi-phap-va-trung-hoa-434726.htm
(3) https://www.voatiengviet.com/a/dai-tuong-to-lam-nen-tro-lai-vach-xuat-phat-/7517717.html
(4) https://www.datviet.com/hong-phuc-dan-toc-nhin-tu-con-gai-xuan-phuc-con-trai-tan-dung/
(5) https://www.voatiengviet.com/a/thay-gi-tu-cac-vu-tram-2-pttg-va-tan-phong-2-pttg-moi-/6913934.html
(9) http://www.nhandan.com.vn/.../vai-tro-l-nh-o-c-a-ng-i-v-i
(10) https://vov.vn/chinh-tri/quan-he-doi-tac-giua-viet-nam-voi-ha-lan-la-mo-hinh-doc-dao-post1067065.vov
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, được bầu ra bởi Đại hội đại biểu Toàn quốc được tổ chức 5 năm một lần. Cơ quan này gồm có 200 ủy viên, nhóm họp 2-3 lần mỗi năm. Đây là một cơ chế đặc biệt và siêu quyền lực vì nó quyết định mọi vấn đề lớn nhỏ liên quan đến đất nước, từ đối nội đến đối ngoại. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Tổng bí thư, Bộ chính trị, Ban bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Giới thiệu và đề cử các ứng cử viên cho chức danh Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch quốc hội. Quyết định các hình thức kỷ luật đối với các đảng viên kể cả ủy viên Bộ chính trị, ủy viên Ban bí thư và ủy viên trung ương Đảng. Đặc biệt Ban chấp hành Trung ương có quyền xem xét Hiến pháp trước khi được quốc hội thông qua.
Hội nghị Trung ương 7 khóa 13 vừa nhóm họp và kết thúc trong hai ngày rưỡi, từ ngày 15/5 đến 17/5/2023. Đây là Hội nghị giữa nhiệm kỳ rất quan trọng để đánh giá tình hình của nửa nhiệm kỳ trước và kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ trong nửa nhiệm kỳ còn lại. Dù vậy nó đã diễn ra một cách nhanh chóng, chỉ trong hai ngày rưỡi, trong khi thông thường các Hội nghị Trung ương diễn ra một tuần lễ. Điều đặc biệt mà ai cũng thấy là nội dung của nó không có gì mới ngoài việc bàn về nội bộ Đảng cộng sản trong đó có việc bỏ phiếu tín nhiệm các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư khóa 13.
Hội nghị trung ương 7 diễn ra ở một thời điểm đặc biệt nghiêm trọng. Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn do hậu quả của hai năm đại dịch Covid-19 và nhất là cuộc chiến xâm lược Ukraine của Putin. Các nước dân chủ đang bị lạm phát vì các lệnh cấm vận Nga để ủng hộ Ukraine. Khi Mỹ, EU và các nước dân chủ bị lạm phát thì những nước nghèo sống nhờ vào gia công và xuất khẩu hàng hóa sẽ gặp khủng hoảng nặng nề ‘nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột’. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm, sản xuất và xuất khẩu giảm, các công ty đều gặp khó khăn, trong khi lạm phát và thất nghiệp gia tăng một cách báo động. Bất động sản đóng băng, mọi ngành nghề đều suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam cũng không còn là điểm đến của các công ty đa quốc gia rời Trung Quốc. Thêm vào đó cuộc bầu cử tại Thái Lan đánh dấu một bước bùng phát của dân chủ ngay cạnh Việt Nam.
Đại dịch Covid-19 đã làm khựng lại làn sóng đầu tư của các công ty đa quốc gia vào Việt Nam sau khi rút khỏi Trung Quốc. Tiến trình này có mọi dấu hiệu thoái trào khi Việt Nam luôn đứng về phía Trung Quốc, ủng hộ cho cuộc chiến phi nghĩa và dã man nhất trong thế kỷ 21 của Putin và nước Nga vào lãnh thổ Ukraine. Thế giới dù muốn hay không cũng đã chia thành hai cực : Độc tài và Dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh cho cả thế giới lẫn người dân Việt Nam thấy rằng họ chọn đứng về phía các nước độc tài. Các nước dân chủ đã thấy rõ điều đó và các công ty đa quốc thay vì đến Việt Nam thì họ đã tìm đến các nước khác trong khu vực như Ấn Độ, Pakistan, Indonesia…
Việc Mỹ, EU và các nước dân chủ như Nhật, Hàn vẫn tiếp tục "ve vãn" Việt Nam không có gì lạ. Họ đang muốn cô lập Trung Quốc và vì thế họ không muốn Việt Nam lún sâu vào quĩ đạo của Trung Quốc như Bắc Hàn, họ không muốn Việt Nam trở thành một người lính ‘xung kích’ của Trung Quốc. Họ sẽ cố gắng chìa tay ra cho Việt Nam chừng nào còn có thể, cho đến khi Trung Quốc suy sụp hoàn toàn. Đảng cộng sản Việt Nam không nên hoang tưởng, nghĩ mình có nhiều ‘thế giá’. Thế giới cũng không đặt quá nhiều hy vọng vào Việt Nam như nhiều người nghĩ, họ chỉ làm những việc cần làm chứ họ hiểu rõ và không trông chờ gì vào Việt Nam. Họ biết Việt Nam rất khó đoạn giao với Trung Quốc. Bài phỏng vấn của ký giả Quốc Phương (đài RFA) với giáo sư người Nhật Hirohide Kurihara cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Mô hình chính trị-kinh tế của Trung Quốc đã đạt đến giới hạn của nó. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc không còn khả năng che giấu sự khủng hoảng của họ được nữa.
Như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã phân tích và nhận định, thế giới đã và đang thay đổi sâu sắc sau cuộc chiến tranh xâm lược của Nga vào Ukraine. Dù vậy Đảng cộng sản Việt Nam vẫn không nhận thức được sự thay đổi lớn lao đó, hoặc là họ biết nhưng không có giải pháp nào vì muốn thay đổi thì phải có dân chủ. Hội nghị Trung ương 7 chỉ tập trung vào những vấn đề nội bộ đảng, với những kết luận như "kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa". Bởi vì "các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ chúng ta". Ngoài ra không có kết luận nào về tình hình Việt Nam cũng như thế giới.
Đảng cộng sản Việt Nam từ xưa đến nay vẫn thần phục và khâm phục Đảng cộng sản Trung Quốc. Cứ Trung Quốc làm gì thì Việt Nam sẽ làm y như thế. Đảng cộng sản Việt Nam tin rằng cứ làm theo Trung Quốc là mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên mô hình chính trị-kinh tế của Trung Quốc đã đạt đến giới hạn của nó. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc không còn khả năng che giấu sự khủng hoảng của họ được nữa. Kinh tế Trung Quốc đang suy giảm một cách đáng lo ngại, một báo cáo cho biết hơn 20% thanh niên Trung Quốc bị thất nghiệp, đây là một con số rất lớn. Có đến 1,3 triệu người Trung Quốc sang Việt Nam tìm việc làm. Bất động sản vẫn đóng băng trong khi hơn 75% tài sản của người dân đang chôn trong bất động sản. Khối nợ của các công ty ‘phi tài chính’ Trung Quốc lớn hơn 120% GDP (gấp đôi ngưỡng an toàn cho phép là 60% GDP), thực tế thì con số này lớn gấp 5 lần ngưỡng an toàn.
Khủng hoảng môi trường của Trung Quốc cũng rất nghiêm trọng, lượng nước dùng của người dân nước này chỉ bằng 1/4 trung bình của thế giới. Dân số Trung Quốc đang suy giảm, tỉ lệ sinh của phụ nữ chỉ còn 1,2 con. Trung Quốc đã phát triển ‘thần kỳ’ trong 4 thập niên qua vì họ đã giải phóng con người, nay nó chấm dứt vì Tập Cận Bình có khuynh hướng trói xã hội Trung Quốc lại một lần nữa. Sự tăng trưởng hoang dại của Trung Quốc đã tàn phá môi trường nghiêm trọng, tức là tàn phá đất nước, tàn phá sự sống.
Đảng cộng sản Trung Quốc tất nhiên là khôn và giỏi hơn Đảng cộng sản Việt Nam rất nhiều, tuy nhiên có những cái họ muốn làm nhưng không được. Ví dụ, Đảng cộng sản Trung Quốc thừa hiểu phải dân chủ hóa đất nước thì Trung Quốc mới có thể phát triển nhưng họ không thể làm được điều đó, vì Trung Quốc là một ‘đế quốc’. Nếu dân chủ hóa thì Trung Quốc sẽ tan vỡ thành nhiều quốc gia. Mặc dù điều đó hoàn toàn bình thường, tự nhiên và cần thiết nhưng không ai trong Đảng cộng sản Trung Quốc dám lấy quyết định đó. Việt Nam khác với Trung Quốc. Việt Nam là một quốc gia nên có thể dân chủ hóa đất nước nhưng Trung Quốc thì không.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên luôn mong muốn Đảng cộng sản Việt Nam làm tác nhân của lịch sử thay vì nạn nhân của lịch sử, bằng cách chủ động đối thoại với các tổ chức chính trị dân chủ để tìm ra một lối thoát cho đất nước trong hòa bình và trong tình anh em. Tuy nhiên có lẽ Đảng cộng sản Việt Nam vẫn ‘cố đấm ăn xôi’, mù quáng và ngoan cố đến cùng trong sự tuyệt vọng để rồi mất cả chì lẫn chài. Việc Võ Văn Thưởng, một nhân vật rất mờ nhạt, bảo thủ và không có một thành tích nào đã được Nguyễn Phú Trọng cất nhắc lên làm Chủ tịch nước cho thấy sự bế tắc không có lối thoát của Đảng cộng sản Việt Nam. Có thể mục đích chính của Hội nghị Trung ương 7 là để ông Nguyễn Phú Trọng bàn giao chức vụ Tổng bí thư Đảng cho Võ Văn Thưởng nhưng sự việc không thành nên hội nghị đã kết thúc sớm vì Đảng cộng sản Việt Nam không còn gì để nói với nhau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế-chính trị thế giới, hậu quả của cuộc chiến Nga-Ukraine sẽ còn kéo dài và những nước nghèo như Việt Nam sẽ gánh chịu những hậu quả rất nghiêm trọng. Không chỉ người nghèo phải khóc mà người giàu rồi cũng phải khóc. Nhiều năm qua giới trung lưu mới nổi của Việt Nam đã chọn cách im lặng, lợi dụng tình thế để làm giàu cho bản thân. Giai đoạn đó đã chấm dứt, đã đến lúc họ phải hiểu rằng sự giàu có và thành công trong một chế độ độc tài rất bấp bênh và nguy hiểm. Sẽ sớm đến lúc mọi người dân Việt Nam nhận ra rằng, chỉ có một thể chế dân chủ mới đảm bảo cho sự phát triển của đất nước và sự thăng tiến cho mỗi người trong an toàn và nhân phẩm được tôn trọng. Sẽ sớm đến lúc giới trung lưu và trí thức Việt Nam nhận ra rằng Đảng cộng sản Việt Nam không còn là giải pháp cho đất nước.
Việt Hoàng
(22/05/2023)
Đảng cộng sản Việt Nam
Dùi cui tao
"Dùi cui tao đập vỡ miệng mày, loại trí thức mày,
vì tao không muốn có đối thoại !"
"Dùi cui tao đập bể đầu mày, kiểu kiến thức mày,
vì tao không muốn có đối luận !"
"Dùi cui tao đập nát sọ mày, cách ý thức mày,
vì tao không muốn có đối trọng !"
"Dùi cui tao đập vụn não mày, phận nhận thức mày,
vì tao không muốn có đối kháng !"
Điếm nhục hóa giáo dục
Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong giáo dục đã điếm nhục hóa giáo khoa thật, giáo trình thật, giáo án thật ra thành quái thai trong học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Nó đã và đang gây hậu nạn cho bao thể hệ, cho cả xã hội hiện nay và mai sau phải nhận lảnh đa ung thư của kiến thức giả, tri thức giả, ý thức giả, nhận thức giả.
Chuồng trại hóa y tế
Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong y tế, đã đồi bại hóa y học thật, y khoa thật, y thuật thật, y sĩ thật, biến hóa cái thật thành quái tướng khám bịnh giả-phẫu thuật giả-y trị giả-thuốc giả. Với bịnh viện bị chuồng trại hóa, con người bị đối xử như súc vật, giữa nhân sinh bị nạo rỗng mọi nhân cách, một giường bịnh mà nhiều bịnh nhân, với điều kiện chữa trị phản vệ sinh, cộng với hệ lụy từ tham ô tới tham nhũng biến bịnh viện thành nơi moi móc để vơ vết tiền bạc của người bịnh và gia đình họ.
Rác rưởi hóa môi trường
Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam về môi trường, đã rác rưởi hóa từ khai thác bừa bãi tài nguyên của đất nước tới ô nhiễm hóa quê hương gấm vóc của tổ tiên, từ nguồn nước tới đất đai, từ thiên nhiên tới không khí. Biết quê hương Việt thành một bãi rác khổng lồ, với công nghiệp bẩn của hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu gian, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…). Không những ô nhiễm hóa toàn bộ đất nước mà còn ô uế hóa ngay trong nội chất của gióng nòi Việt, ngày ngày bị nhiễm ô thâm nhập sâu đậm vào thể chất, với thực phẩm bẩn, với môi trường, không khí bẩn, biến cuộc sống thường nhật ngày càng nhớp nhúa.
Nguồn cơn thảm bại
Ba thảm bại này của Đảng cộng sản Việt Nam có gốc, rễ, cội, nguồn sâu xa trong các thảm bại khác rộng hơn, lớn hơn :
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tài nhưng bất tài, từ kinh tế tới thương mại, từ sản xuất tới tiêu thụ, từ xuất nhập khẩu tới đầu tư vào các cơ sở hạ tầng…
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc trị nhưng không biết quản trị, từ văn hóa tới nghệ thuật, từ chủ trương sáng tác tới tổ chức sáng tạo trong văn học, âm nhạc, hội họa… cho tới định hướng bảo vệ thủ công nghệ tới quá trình đầu tư vào các chuyên nhành mũi nhọn tự thông tin tới truyền thông.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền nhưng độc đoán trong độc hại, tự tạo đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong nội bộ đảng, mà không hề có kiến thức gì về công ích xã hội làm chỗ dựa cho bình đẳng xã hội, tạo nên công bằng xã hội, với quyền lợi công dân song hành cùng bổn phận công dân.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn và không biết tôn trọng tổ tiên và dân tộc, vô minh về văn hiến của Việt tộc, vô tri về văn minh của tổ tiên Việt, tạo ra vô giác trong thương nước yêu nòi, nên vô cảm trước nỗi khổ niềm đau của Việt tộc, nên sẽ vô hậu trong tương lai, vì ăn ở không có hậu với tổ tiên, dân tộc, giống nòi.
Ký sinh trùng-ký sinh thể-ký sinh cách
Qủy thuật của Đảng cộng sản Trung Quốc, có nội công tổ chức lao động quốc gia để biến thành công xưởng cho cả thế giới. Từ đó có bản lĩnh học hỏi dù qua trộm, cắp, cướp, giựt các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương Tây. Rồi sau đó có tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật không những cho chính mình mà còn biết bán lại cho thế giới hiện nay. Ngược lại, tà dạng của Đảng cộng sản Việt Nam, trống nội công tổ chức lao động quốc gia, vắng bản lĩnh học hỏi các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương Tây, rỗng tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật. Trống vì vô tri, vắng vì vô minh, rỗng vì vô trí, và qủy quyền của các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã biết rất rõ trình độ trống, vắng, rỗng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, nên chỉ xem các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam là đám lãnh đạo : lúc thì tự điếm nhục hóa nhân cách của chính mình trong cố đấm ăn xôi ; lúc thì ký sinh trùng trong vị thế chờ sung rụng ; lúc thì là ký sinh thể trong tật nguyền não bộ gà què ăn quẩn cối xay ; lúc thì ký sinh cách trong não trạng thừa nước đục thả câu ; lúc thì ký sinh dạng trong não trạng đục nước béo cò.
Cái ác : cực đoan, cực quyền
Nơi đây, cái ác được hiểu rồi đươc vận dụng trên quy trình cứu cánh ác biện minh cho phương tiện ác vì quyền lực ác, để biến quyền lực thành độc quyền, mà không quên biến quyền lực thành quyền lợi, tiếp theo là biến quyền lợi thành tư lợi trong đặc lợi, đặc ân, đặc sủng… Đây là định đề làm nên định nghĩa về bạo quyền, dùng cái ác để trị, sâu xa hơn là dùng cái ác giết cái thiện, để diệt cái nhân có trong nhân tính và nhân lý được giáo dưỡng bằng nhân từ và nhân tâm. Cái ác cực đoan không biết nhân nhượng nhân đạo và nhân nghĩa, nó không biết khoan dung trước nhân tri và nhân trí, nên nó sẵn sàng siết cổ cho tới tắt thở nhân bản và nhân văn. Khi cái ác không tôn trọng nhân quyền của các nạn nhân bị nó diệt, thì bản thân nó khi hề có ý niệm gì về nhân phẩm của chính nó. Giáo lý sống lâu mới biết lòng người có nhân làm trò cười cho nó ; giáo dục đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn là trò hề đối với nó, nên sự giáo dưỡng một duyên, hai nợ, ba tình là chuyện trừu tượng đối với nó.
Cái ác : tà lộ trong điếm kiếp
Cái ác lén lút để lẩn khuất trong tà lộ với ma lực và qủy quyền, ma lực hành tác trong bóng tối, qủy quyền hành động sau lưng người ngay, kẻ thẳng, lúc thì như chó cắn trộm, lúc thì đâm người sau lưng, kể cả khi nó xử tử hình các nạn nhân liêm chính của nó, ngay lúc hành quyết nó cúi đầu, nó chột mắt, khom lưng để nhắm bắn, chớ không dám thản nhiên nhìn thẳng để tranh luận với nạn nhân liêm chính bị nó (lén) giết.
Nên cái bạo của cái ác chính là cái hèn của cái độc, nó cúi đầu, khom lưng để luồn lách như âm binh chuyên nghề đâm lén, chém sau lưng, nên đừng mong nó quang minh chính đại mà trực diện với Công ước xã hội dựa trên hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) luôn đối trọng để vạch mặt chỉ tên hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tin, bất trung) của cái ác. Quy ước xã hội dựa trên hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) để đối nghịch với hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) chính là cứu cánh của cái ác. Nhận thức xã hội, dựa trên hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, tỉnh thức) để đối luận với hệ vô (vô cảm, vô giác, vô tri, vô minh) sinh đôi cùng hệ bất (bất tài, bất trung, bất tín, bất nhân) để đưa đẩy cái ác lộng hành trong nhân thế.
Cái ác : mượn đấu tố để giết người
Nơi nào có đấu tố trong cùng một làng, một tộc, một họ, một gia đình mà con tố cha, em tố anh, cháu tố ông… thì chỗ đó cái ác đã xuất hiện, nơi đây kẻ ác vừa là đao phủ thủ, vừa là quan tòa, vì nó tự phong cho mình chức năng đôi là vừa là thẩm phán, vừa là luật sư, trên tay phải của nó đang cầm cán cân công lý đã bị nó bẻ cong, rồi tay trái của nó đã cầm dao với lời lẽ lăm le là nó sẽ giết người không gớm tay để đào tận gốc, trốc tận rễ.
Cái ác giết người để diệt quan hệ
Cái thiện không những đứng về phía sự sống để bảo vệ sự sống còn của nó, mà nó chọn sự sống để chống lại cái chết do cái ác làm ra ; vì chỉ có sự sống mới bảo vệ được các quan hệ mà con người thừa hưởng khi được sống cùng và sống chung với tha nhân, với đồng loại. Đó là quan hệ gia đình, quan hệ thân tộc, quan hệ xóm giềng, quan hệ bạn bè, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ xã hội… Từ đây, tư tưởng gia này giải thích chính sự sống và tất cả quan hệ có trong cuộc sống là nền tảng của mọi định nghĩa về hạnh phúc, mà cái thiện có thể mang tới cho con người. Nên cái thiện luôn đối nghịch với cái ác chính là cha sinh mẹ đẻ ra cái chết giết người để diệt không những mọi quan hệ, mà còn hủy diệt luôn cơ may mưu cầu hạnh phúc của con người muốn sống cùng và sống chung với tha nhân, với đồng loại.
Ý đồ của kẻ ác
Lý giải cái ác bằng triết luận để phân tích cái thiện phải luôn trực diện với cái ác bằng nhân tính làm nên thành lũy của nhân lý bằng chất liệu của cái thiện ; nên cái thiện luôn có ý thức cao cùng nhận thức rộng để nhìn ra ý đồ của kẻ ác là luôn toan tính đánh đổ để thiêu hủy thành lũy của cái thiện. Từ đây tâm địa của kẻ ác mang động cơ tận dụng cái ác để diệt ý chí của cái tốt, giết ý lực của cái đẹp, hủy ý muốn của cái lành, nên trong thâm ý của kẻ ác là khi nó thủ tiêu được cái thiện, thì kẻ này tự thỏa mãn là nó không những đã truy diệt được cái thiện, mà nó còn truy sát luôn cái tốt, cái đẹp, cái lành làm nên nhân sinh quan của nhân tâm, tạo ra thế giới quan của nhân từ, sinh ra vũ trụ quan cho nhân tri.
Một tổ chức ác giết người cướp của
Cái ác được sinh sôi nảy nở trong một tổ chức ác biết giết người cướp của, tới cơ chế ác biết dính máu ăn phần, nơi mà chế độ ác được biển lận trong hiến pháp ác với điều lệ ác. Tại đây, đất là sở hữu của toàn dân (chớ không phải là sở hữu của người dân) do nhà nước quản lý (để chính quyền độc đảng tha hồ quy hoạch mà trộm, cắp, cướp, giật) bằng chính sách ác. Chính liên minh nội kết tổ chức ác-cơ chế ác-chế độ ác-hiến pháp ác-điều lệ ác-chính sách ác được nuôi dưỡng không những bằng bạo quyền công an trị, mà còn bằng tà quyền tham nhũng trị, sinh đôi với ma quyền tham tiền trị, cả ba đang trùm phủ lên cả nhân kiếp của Việt tộc bằng mùng mền của cái ác, nơi mà con dân Việt đang sống trong một xã hội dễ dàng sa vào cái ác, rồi rơi sâu vào tội ác !
Buôn dân bán nước
Ngay trong nội tạng của độc quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, bạo quyền, tà quyền, ma quyền, qủy quyền, cực quyền, cuồng quyền do Đảng cộng sản Việt Nam sinh đẻ ra từ khi nó nắm nhân kiếp của dân tộc và tài nguyên của đất nước, thì ta thấy đây không phải là chuyện thương mại ! Vì trong thương mại là có mua và có bán, tức là có mua và có bán, mà Việt tộc chỉ thấy bọn bán nước này chỉ bán chớ không hề mua. Chúng bán quê hương gấm vóc của Việt tộc, vì chúng biết đất nước Việt là rừng vàng biển bạc để chúng tha hồ nạo vét ; chưa xong chúng còn biến đất nước Việt thành một bãi rác, để Tàu tà tha hồ từ ô nhiễm môi trường tới hủy diệt môi sinh. Giờ đây đã xuất hiện các xóm ung thư, các làng ung thư, các vùng ung thư… với các thành phố lớn loại ô nhiễm nhất thế giới, ngày ngày ung thư hóa nội tạng của bao thế hệ Việt.
Từ thanh trừng tới diệt chủng
Lý luận cạn tàu ráo máng là mọi chức năng, mọi phần tử đều có thể thay thế được, như người ta thay thế cầu chì, bóng đèn là điện cứ phát điện, nên khi áp dụng vào nhân sinh, thì nó càng ráo máng cạn tàu hơn, vì nó luôn có ý đồ vắt chanh bỏ vỏ ! Đây là cách đối nhân xử thế giữa những người cộng sản, mà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam rất nhẫn tâm trong vô cảm khi họ thanh trừng nhau. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới này điều bị vướng vào tội ác này, không những thanh trừng nhau mà họ còn tàn sát dân lành, họ diệt chủng luôn chính dân tộc họ, đó là trường hợp của bọn diệt chủng Khmer đỏ, mà Việt tộc không quên bao sinh linh đã bị thảm sát trong Cải cách ruộng đất. Nên khi định lượng về các cuộc thảm sát do các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới, từ khi có chế độ độc đảng-toàn trị tại Liên Xô 1917, thì con số nạn nhân đã vượt lên hơn một trăm triệu người, gấp nhiều lần tội ác của bọn Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Cấu trúc luận lưu manh
Cấu trúc luận xếp cá nhân vào trật tự sống còn của tập thể, nên nó tổ chức luôn nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của cá nhân. Tại đây, cấu trúc luận đã bị các đảng cộng sản lạm dụng để lập ra một cơ chế xã hội toàn trị, nơi mà độc tài qua độc đảng nắm toàn bộ bộ máy tuyên truyền để đánh lận con đen về các sự thật của nhân sinh, các chân lý của nhân tính, các lẽ phải của nhân tâm, để chế tác ra các quái thai chống nhân lý và nhân tri : "dân chủ thì phải tập trung" ; "dân làm chủ nhưng đảng lãnh đạo" ; "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý và đảng chỉ đạo". Đây không phải là cấu trúc luận khoa học mà là kiến trúc luận lưu manh ! Nơi mà duy vật hiểu theo nghĩa tồi tệ nhất để trở thành tội lỗi nhất, kiến trúc lưu manh với lý luận côn đồ xuất đầu lộ diện để truy diệt duy lý theo nghĩa nhân lý nhất ; và duy tâm theo nghĩa nhân tâm nhất.
Tấn công văn hóa, truy diệt truyền thống của đạo lý
Chính văn hóa xếp đặt các hành vi của cá nhân được lập lại theo truyền thống, nó xếp đặt luôn các lề thói về cưới hỏi, kinh tế, trao đổi… Văn hóa luận còn đi xa hơn nữa khi nó tổ chức các sinh hoạt ưu tiên : ngôn ngữ trong truyền thông, tư tưởng trong xã hội, ý thức trong hành động, nên văn hóa vừa có mặt trong quản lý xã hội, vừa có mặt trong môi trường giáo dục của một cộng đồng của một dân tộc. Chính văn hóa làm nên cho ý thức tập thể ; văn hóa biết biến cái tối đa của kiến thức thành cái tối đa của ý thức, để tạo nên sự đồng cảm giữa các thành viên có chung một văn hóa. Khi các đảng cộng sản muốn cướp chính quyền, để sau đó áp đặt độc đảng qua độc trị, độc tài, độc quyền, độc tôn, thì các lãnh đạo cộng sản luôn tìm cách tấn công văn hóa, truy diệt truyền thống của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của một dân tộc, giúp dân tộc đó sống có bổn phận với giống nòi, và sống có trách nhiệm với đất nước.
Rỗng, trống, vắng công lợi chính trị
Công lợi chính trị là phạm trù của quyền lực chính trị quản lý công sản của quốc gia, tài sản của dân tộc, và luôn đặt công sản và tài sản này lên trên mọi tư lợi của giai cấp, nhất là giai cấp thống trị. Vì khi đặt quyền lợi của giai cấp thống trị lên trên quyền lợi của quốc gia và dân tộc thì sẽ trực tiếp tạo ra bất bình đẳng, tức khắc tạo ra bất công ; chính bất bình đẳng và bất công là gốc rễ cội nguồn của mọi xung đột xã hội, dẫn tới bạo động ngay trong xã hội. Đây lại là thảm họa mà Đảng cộng sản Việt Nam đang trấn, áp, đè, đặt lên vai, lên lưng, lên đầu Việt tộc khi độc đảng được độc quyền qua đặc lợi ; khi độc tài dùng độc trị để có đặc ân, của một thiểu số bất chính dẫm lên mọi ý thức về công sản quốc gia. Sự bất chính này sẽ nhân đôi khi bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền sân sau dùng hệ tham (tham quyền, tham ô, tham nhũng) để làm giàu, đã giàu rồi lại muốn giàu hơn, đã có nhiều rồi lại muốn có nhiều hơn. Khi đã có đặc quyền, đặc ân, đặc lợi thì sự bất chính sẽ tăng lên, vì tà quyền này sẽ bám cho bằng được qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc tôn) để có độc quyền mà trục lợi cho tư lợi, chúng chặn các tiến bộ xã hội, chúng ngăn thăng tiến giáo dục, chúng nghiền cấp tiến kinh tế, để lấp công bằng, để vùi công lý. Bi kịch của bọn bám quyền chỉ vì tư lợi ích kỷ mà không có một nhận thức nào về công sản chính trị chính là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với Đảng cộng sản Việt Nam.
Hàng vạn bút nô, ký nô, văn nô
Khi ta đi tìm sự thật trên một sự kiện, ta phải nhận ra ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra nó : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó có và xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian, đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian của xã hội. Ngay trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối tổ chức của xã hội, trong điều kiện đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần 800 cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có hàng vạn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống tin tức tồn tại chỉ để viết những chuyện phản lại sự thật. Bọn này sinh hoạt như chó săn theo lịnh chủ, áp đảo để trấn dẹp, vu khống để vu cáo những công dân nào muốn hiểu, muốn thấy, muốn nói, muốn viết ra sự thật của sự độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị hãm hại để trừng trị, từ truy diệt đến truy sát, với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy độc đảng công an trị hiện hành.
Tham
Ngay trong khẩu hiệu hiện nay của bạo quyền độc đảng toàn trị, trên đầu dòng trên mỗi văn bản, mỗi tờ giấy hành chính đều có một câu mơ tưởng trong mơ ảo với ba mệnh đề : độc lập - tự do - hạnh phúc. Cả ba khẩu hiệu này đều không có thật trong một chế độ ngày ngày tạo ra bất công, cho sản sinh ra hai quái thai thất nhân bất đức : tà quyền tham nhũng trị và ma quyền tham tiền trị. Hai quái thai này vừa tham tài nguyên, vừa tham đất đai, ăn chia cùng bạo quyền độc đảng toàn trị để một sớm một chiều biến dân lành thành dân đen và dân oan.
Hèn
Trước Tàu tặc thì cúi đầu để mất đất, khom lưng để mất đảo, quỳ gối để mất biển, nắm quyền mà bị chính dân dán cho khẩu hiệu : "hèn với giặc, ác với dân", mà hèn với giặc thì làm sao có độc lập, mà ác với dân thì làm sao dân có hạnh phúc. Còn tự do thì hoàn toàn là mơ mòng dẫn tới mơ hảo trong một chế độ qủy quyền công an trị, đã đày ải những đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh chống bất công vì dân chủ, tự do và nhân quyền. Những đứa con tin yêu đều bị biến thành các tù nhân lương tâm trong vòng lao lý của một nền tư pháp bị âm binh hóa bởi tà pháp của Đảng cộng sản Việt Nam, sau khi ngồi xổm lên hiến pháp, giờ thì ngồi-đè-cho-ngộp luôn cả tư pháp. từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.
Rác
Quê hương gấm vóc của tổ tiên trong tay họ giờ thì trở thành bãi rác của Tàu tặc, với không khí bị nhiễm ô của Tàu họa, với môi trường bị ô nhiễm từ Tây Nguyên tới Formosa. Bỉ ổ nhất là con dân Việt sa vào xuất khẩu lao động, với con đường làm thuê trong nhục kiếp, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, ngày càng sinh ra bao kỳ thị khinh miệt người Việt trên các châu lục. Trong tay Đảng cộng sản Việt Nam, Việt tộc đã bị mất nhân vị ngay trong nhân sinh quan của các lãnh đạo đảng lấy bạo quyền công an trị để nuôi nấng tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi dưỡng âm binh trị chính là bọn xã hội đen, với côn đồ, lưu manh, du đảng đang ung nhọt hóa đời sống xã hội. Bài học của triết học đạo đức có bạn đồng hành là tâm lý học xã hội đã giải luận rõ : kẻ mất niềm tin sẽ mất tự tin, kẻ không tự tin thì khó tìm được niềm tin. Chẳng lẽ đây là nhân kiếp hiện nay của Việt tộc sao ?
Rỗng
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không dám tới các hội thảo có vai vóc chuyên môn để đối luận với các chuyên gia quốc tế về các hệ vấn đề tự do là tiến bộ, công bằng là nhân quyền và bác ái là dân chủ. Thậm chí, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có nội lực tự tin để tới các đại học mà đối thoại để đối lý với các sinh viên trong các hội luận như các lãnh đạo của nhiều quốc gia châu Á, châu Phi… Đây là câu chuyện hoàn toàn thể nghiệm được, khi ta vận dụng ba chuyên ngành sắc nhọn của khoa học xã hội và nhân văn hiện nay ; Chính trị học tri thức, tức là chỉ có tri thức luận của chính khách mới làm nên tri thức học của chính sách. Còn chính khách mà vô minh và vô tri thì chính sách sẽ vô giác và vô cảm. Tâm lý học truyền thông, nơi mà nội dung truyền thông của một lãnh đạo có trong ý nghĩa ngôn ngữ mà lãnh đạo đó muốn truyền đạt đã chuyển tải các giá trị nhân bản và nhân văn nào ? Từ đây, nội dung truyền thông, ý nghĩa ngôn ngữ, giá trị nhân bản chỉ là một trong tuyên bố, trong lời ăn tiếng nói của lãnh đạo đó. Xã hội học ngôn ngữ, tại đây ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của một lãnh đạo làm nên thuật ngữ ngay trong chính ngữ của chính khách. Qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp, người nghe khi tiếp nhận tin tức, dữ kiện, chứng từ của lãnh đạo này thấy và thấu được nhân tính, nhân lý, nhân cách của lãnh đạo đó.
Trống
Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây, từ Âu châu tới Bắc Mỹ, được-hoặc-bị tiếp xúc với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì tất cả họ đều nhận ra rằng : các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam dù có trọn chính quyền trong tay, họ độc tài nhưng họ lại bất tài, họ độc trị nhưng họ không biết quản trị. Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây tiếp cận để tìm hiểu về nội công chính quyền, bản lĩnh chính phủ, tầm vóc lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì họ nhận ra rằng các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thiếu, vắng, trống, rỗng ba loại kiến thức căn bản sau đây để lèo lái một dân tộc về hướng văn minh vì nhân phẩm :
Vắng
Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây tiếp xúc với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì họ nhân ra ngay là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vắng ba kiến thức cần thiết cho lãnh đạo.
Thứ nhất là kiến thức tổng quát, từ nhân sinh tới nhân loại, từ nhân tri tới nhân trí có rễ của lịch sử, có gốc của văn hóa, có cội của giáo dục, có nguồn của đạo lý… các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có kỹ năng lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận. Họ không có những tri thức cần thiết trong lãnh đạo trước hiện tình của thế giới và họ có kiến thức mờ nhạt về văn hóa Việt, họ có ý thức lỏng lẻo về văn minh Việt, họ có nhận thức lèo bèo về văn hiến Việt…
Thứ nhì là kiến thức chuyên môn, nơi mà một lãnh tụ hay một lãnh đạo phải là chuyên gia có chuyên môn, được giáo dục qua một chuyên khoa, được đào tạo bằng một chuyên ngành. Lại phải liên tục được huấn nghiệp để có chuyên nghiệp sắc nhọn trước tình hình tiến hóa của nhân loại. Ngược lại các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cạn cợt với sách lược đoản kỳ, họ lạng quạng với chính sách trung kỳ, họ hời hợt với quyết sách trường kỳ.
Thứ ba là kiến thức hợp tác, nơi mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tự đóng khung vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa viễn vông, mà không có đồ án về liên minh ngoại giao quốc tế, không có dự án về liên hiệp chính trị quốc ngoại, không có phương án về liên kết kinh tế liên châu lục, với tầm nhìn của một toàn cầu hóa mở, rộng, nhanh…
Giả
Nhân tính, nhân lý, nhân cách của một lãnh đạo này tới từ nhân tri, nhân trí, nhân văn của hắn, biểu hiện nhân đạo, nhân tâm, nhân nghĩa của hắn trước hằng số của nhân quyền và nhân phẩm của nhân loại. Nên khi xem, xét, tra, kiểm nhân cách, phong cách, tư cách của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì ta có các kết quả rất cụ thể, mà đây là một thảm kịch cho Việt tộc là từ ông Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam kiêm chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tới thủ tướng đại diện cho hành pháp, qua tới bà chủ tịch Quốc hội thì các chuyên gia quốc tế phải kết luận là trình độ học vấn và học lực của họ không hơn một sinh viên cấp cử nhân của các quốc gia phương Tây có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Các học hàm lẫn học vị của các lãnh tụ hoặc lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là cao học hay tiến sĩ, vì các bằng cấp mà họ trưng ra trong lý lịch và hồ sơ cá nhân của họ không hề là kết quả của học thật. Nên các học hàm lẫn học vị của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đến từ một hệ thống giáo dục học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Và chỉ có (sự) thực mới vực được đạo, chỉ có học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật tới từ học thật bằng học lực mới làm nên học vấn của lãnh đạo. Đối với các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây thì chuyện đánh lận con đen trong mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền chỉ làm trò hề, trò cười, trò bịp trong hợp tác quốc tế mà thôi !
Ký sinh
Trong không gian các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chính là nơi tập hợp bọn quan tham ký sinh trùng, bọn lãnh đạo ký sinh vật, bọn cầm quyền ký sinh thể, chúng "ăn trên ngồi trốc", với nhân diện điếm đàng của Mã Giám Sinh : "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao", với nhân dạng điếm chủ của Tú Bà : "đưa người cửa trước, đón người cửa sau", với nhân cách điếm hèn của Sở Khanh : "nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Chúng là bọn ký sinh trùng âm binh trong âm giới địa đạo ma bùn của chúng, chúng tham quyền để tham nhũng, tham ô để tham tiền, và khi bị ra tòa để nhận tội thì chúng mới lộ bản chất ký sinh trùng của chúng. Từ tướng trong quân đội tới tướng công an, từ bộ trưởng này tới ủy viên Trung ương kia, lạy van đảng trưởng của chúng hãy tha tội cho chúng. Loại ký sinh này không biết tự trọng, vì không có được giáo dục với chữ tâm, không hề được giáo dưỡng về chữ nhân.
Nạo vét rồi van lạy
Khi bọn quan tham ký sinh trùng, bọn lãnh đạo ký sinh vật, bọn cầm quyền ký sinh thể, nhận tội chúng không biết nhân văn, vì chúng không có nhân tính, chỉ quen lân la lui tới trong âm giới để thanh trừng nhau, thanh toán lẫn nhau vì tư lợi, nên chúng không có nhân lý để phục vụ nhân sinh. Khi nhận tội là chính chúng đã nạo vét tiền tài của dân, nhưng chúng không hề biết xin lỗi dân, mà chỉ van lạy đảng trưởng của chúng bằng bản chất thấp hèn, tới từ bản năng bầy đàn quy phục đầu đàn, mà chúng không có khái niệm gì về nhân pháp lẫn nhân luật. Chúng không biết gì về nhân quyền, nên đã tự phủ nhận nhân vị của chúng, nên dễ dàng chối bỏ luôn nhân bản của chúng. Vì là ký sinh trùng nên chúng không hề biết gì về nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa làm nên nhân phẩm của mỗi nhân vị biết quý trọng và tôn vinh nhân quyền.
Đa hậu nạn
Thảm trạng của bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam từ thế kỷ XX qua tới thế kỷ XXI của Việt Nam là một trường hợp đặc thù đòi hỏi các chủ thể đấu tranh cho đa nguyên, dân chủ và nhân quyền phải có những phân tích sắc trong chính trị học, nhọn trong luật học và bén trong xã hội học. Tại đây, ta phải nhận ra đa hậu nạn của đa bản chất của bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, từ đó lập ra một hệ thống đa giải luận để thấy những thử thách lớn đang chờ Việt tộc trên con đường đa nguyên để đi tới văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền trước các hậu nạn của bạo quyền công an trị ; tà quyền tham nhũng trị ; ma quyền tham tiền trị ; qủy quyền ngu dân trị ; cuồng quyền vô minh trị ; cực quyền tuyên truyền trị…
Ô uế hóa
Thảm kịch thất bại toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam, có ngay trong các thảm bại sau đây : thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong giáo dục đã điếm nhục hóa giáo khoa thật, giáo trình thật, giáo án thật ra thành quái thai trong học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Nó đã và đang gây hậu nạn cho bao thế hệ, cho cả xã hội hiện nay và mai sau phải nhận lãnh đa ung thư của kiến thức giả, tri thức giả, ý thức giả, nhận thức giả.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong y tế, đã đồi bại hóa y học thật, y khoa thật, y thuật thật, y sĩ thật, biến hóa cái thật thành quái tướng khám bịnh giả-phẩu thuật giả-y trị giả-thuốc giả. Với bịnh viện bị chuồng trại hóa súc vật giữa nhân sinh, một giường bịnh mà nhiều bịnh nhân, với điều kiện chữa trị phản vệ sinh, cộng với hệ lụy từ tham ô tới tham nhũng biến bịnh viện thành nơi moi móc để vơ vét tiền bạc của người bịnh và gia đình họ. Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam về môi trường, đã rác rưởi hóa từ khai thác bừa bãi tài nguyên của đất nước tới ô nhiễm hóa quê hương gấm vóc của tổ tiên, từ nguồn nước tới đất đai, từ thiên nhiên tới không khí. Biến quê hương Việt thành một bãi rác khổng lồ, với công nghiệp bẩn của hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu gian, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…). Không những ô nhiễm hóa toàn bộ đất nước mà còn ô uế hóa ngay trong nội chất của giống nòi Việt, ngày ngày bị nhiễm ô thâm nhập sâu đậm vào thể chất, với thực phẩm bẩn, với môi trường, không khí bẩn, biến cuộc sống thường nhật ngày càng nhớp nhúa.
Khuyết tật
Khi các chủ thể lãnh đạo đa nguyên muốn tháo gỡ các cấu trúc của bạo quyền độc đảng toàn trị, thì các móc xích của nó sẽ để lộ ra các khuyết tật trầm kha của nó là phản văn minh, ngược văn hiến với : bạo quyền công an trị thì bè phái cùng xã hội đen ; tà quyền tham nhũng trị thì sinh đôi với mua quyền bán chức ; ma quyền tham tiền trị thì có bè cánh là trọc phú sân sau ; qủy quyền ngu dân trị thì gian trá trị qua mua bằng bán cấp ; cuồng quyền vô minh trị thì song hành cùng vô học trong vô hậu ; cực quyền tuyên truyền trị thì phải ăn gian nối dối.
Bạo quyền
Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam là sinh hoạt phản chính trị tri thức, tại đây không có chính giới lẫn chính khách, vì chúng không có tri thức chính trị căn bản của hai hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) và hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng, đối lập). Hai hệ này vừa giúp nhau trong phản biện đa nguyên, vừa tương trợ nhau để xây dựng dân chủ.Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam không có chính giới với quan hệ chính trị đối lập, với sinh hoạt chính trị đối kháng, với đời sống chính trị có đối thoại, biết vận dụng lý để luận, biết tận dụng luận để phân tích và giải thích, với dữ kiện của khoa học, với chứng từ của pháp lý. Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam không có chính khách với đối thoại qua kiến thức chính trị để đối luận qua tri thức chính trị, không có chính khách với đối trọng bằng giải luận chính trị để đối kháng bằng diễn luận chính trị.
Thảm bại
Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam có gốc, rễ, cội, nguồn sâu xa trong các thảm bại khác rộng hơn, lớn hơn, đó là thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tài nhưng bất tài, từ kinh tế tới thương mại, từ sản xuất tới tiêu thụ, từ xuất nhập khẩu tới đầu tư vào các cơ sở hạ tầng… Đó là thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc trị nhưng không biết quản trị, từ văn hóa tới nghệ thuật, từ chủ trương sáng tác tới tổ chức sáng tạo trong văn học, âm nhạc, hội họa… cho tới định hướng bảo vệ thủ công nghệ tới quá trình đầu tư vào các chuyên ngành mũi nhọn từ thông tin tới truyền thông. Đó là thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền nhưng độc đoán trong độc hại, tự tạo đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong nội bộ đảng, mà không hề có kiến thức gì về công ích xã hội làm chỗ dựa cho bình đẳng xã hội, tạo nên công bằng xã hội, với quyền lợi công dân song hành cùng bổn phận công dân. Đó là thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn và không biết tôn trọng tổ tiên và dân tộc, vô minh về văn hiến của Việt tộc, vô tri về văn minh của tổ tiên Việt, tạo ra vô giác trong thương nước yêu nòi, nên vô cảm trước nỗi khổ niềm đau của Việt tộc, nên sẽ vô hậu trong tương lai, vì ăn ở không có hậu với tổ tiên, dân tộc, giống nòi.
Tà dạng
Muốn biết tà dạng của Đảng cộng sản Việt Nam các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải phân biệt : qủy thuật của Đảng cộng sản Trung Quốc, có nội công tổ chức lao động quốc gia để biến thành công xưởng cho cả thế giới. Từ đó có bản lĩnh học hỏi dù qua trộm, cắp, cướp, giựt các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương Tây. Rồi sau đó có tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật không những cho chính mình mà còn biết bán lại cho thế giới hiện nay. Tà dạng của Đảng cộng sản Việt Nam, trống nội công tổ chức lao động quốc gia, vắng bản lĩnh học hỏi các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương Tây, rỗng tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật. Trống vì vô tri, vắng vì vô minh, rỗng vì vô trí, và qủy quyền của các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã biết rất rõ trình độ trống, vắng, rỗng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, nên chỉ xem các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam là đám lãnh đạo : lúc thì tự điếm nhục hóa nhân cách của chính mình trong cố đấm ăn xôi ; lúc thì ký sinh thể trong vị thế chờ sung rụng ; lúc thì ký sinh trùng trong tật nguyền não bộ gà què ăn quẩn cối xay ; lúc thì ký sinh cách trong não trạng thừa nước đục thả câu, lúc thì ký sinh dạng trong não trạng đục nước béo cò.
Không có trình độ tri thức
Lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vô minh nên có phản xạ của bạo lực với chính dân tộc, vô tri nên có phản ứng với bạo hành với chính xã hội. Lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam còn mang phản xạ tuyên truyền, phản ứng tuyên giáo, mà không tự có một hệ đủ trình độ tri thức để dẫn dắt một lý luận chỉnh lý tới một lập luận hợp lý để kết cuộc đi tới một giải luận toàn lý để thuyết phục đối tác hay đối phương. Các chính khách, các chuyên gia, các lãnh đạo của các đảng phái yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền của phương Tây biết rất rõ là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không có nội công chính trị của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) cũng không có luôn bản lĩnh của hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng, đối lập). Nên các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thường tránh họp báo với ký giả quốc tế, và nhất là lẩn trốn các trí thức và chuyên gia trên chính trường quốc tế.
Không phải là chính trị gia
Bi kịch vắng bóng nhân tài, biệt tăm minh chủ, biệt dạng chủ thể lãnh đạo, có chủ quyết sáng suốt làm nên quốc sách vị Việt tộc, chỉ vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, vừa không phải là chính trị gia theo nghĩa thông thường, vừa không phải là những lãnh tụ quốc gia dám kham, lãnh, nhận, cõng các quốc sách làm được chuyện thay đời đổi kiếp cho Việt tộc. Bi kịch làm bi đát não trạng, bi thảm cho não bộ của họ. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề là :
"Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa ra tới biển đã dò nông sâu",
họ lại càng không chịu học hỏi để nắm chân lý của sinh hoạt chính trị là thường xuyên phải : "So ra mới biết ngắn dài" qua ứng cử-bầu cử-đắc cử theo phương cách đa nguyên. Họ tầm thường trong ích kỷ của những kẻ "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau". Họ vô tri vì không biết là trí thức Việt tộc nhìn họ (như không nhìn họ) và ngượng vì họ : "Đứa ngu cởi truồng, người khôn mất mặt". Và "nói gần nói xa không qua nói thật" là trong âm giới của bạo quyền độc tài toàn trị của họ, thì họ không có tư cách liêm khiết đường đường chính chính, không có phong cách quang minh chính đại.
Gà què… dại chợ
Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà các lãnh đạo có ít nhất là bốn khuyết tật trong hành tác ngoại giao quốc tế : khôn nhà dại chợ, trong chính trường quốc tế tự hành động tham gia tới hành tác tham dự vào các công trình lớn của nhân tri rộng của nhân loại. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là loại gà què ăn quẩn cối xay, giấu cái vô tri của mình bằng cách tránh đối thoại và hợp tác với nhân tri rộng của nhân loại, ăn bám sống nhờ qua tiền của cùng tài nguyên của dân tộc lại bắt buộc dân tộc mang ơn đảng. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là loại khôn (nhà) quá hóa dại (người), nên cúi đầu-khoanh tay trước Tàu tặc cướp đất, biển, đảo quê hương Việt trong mọi thương lượng song phương, nên tiếp tục khom lưng-quỳ gối trước Tàu tặc tại Liên Hiệp Quốc, tại các Liên Minh quốc tế hiện nay. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là đang thiếu hoạc chưa hiểu một bài học của tổ tiên Việt là vắng mợ chợ vẫn đông, nơi mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không có mặt trong các "sân chơi quốc tế" có văn minh của dân chủ, trong các "trò chơi quốc tế" có tiến bộ của nhân quyền. Với láng giềng Tàu nạn đã đè đầu cỡi cổ các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vì các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã mại quốc cầu vinh với phản xạ cúi đầu-khoanh tay, với phản xạ khom lưng-quỳ gối trước Tàu họa, nhận Tàu tà là bạn vàng, láng giềng tốt, nên hiện nay trên chính trường quốc tế, các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không có bạn tốt, không có láng giềng thật.
Con đường hầm đen nghịt
Con đường hầm đen nghịt dẫn tới ngõ cụt của bạo quyền độc đảng toàn trị, thì các lối ra để sống còn là đường đi nẻo về của bạo lực, mà những kẻ có phản xạ chuyên chính, có phản ứng chuyên quyền luôn sử dụng trong môi trường nội bộ của mọi đảng cộng sản, và Đảng cộng sản Việt Nam không hề là một ngoại lệ, đó là sinh hoạt bầy đàn, nơi mà nội bộ giữa các lãnh đạo của phản xạ chuyên chính, của phản ứng chuyên quyền là sinh hoạt bản năng của bầy đàn, với bản năng đói ăn khát uống quyền lực không đạo lý, với trực năng ăn tươi nuốt sống quyền lợi. Quan hệ bầy đàn, theo bản năng, là tên lãnh đạo chóp bu là đầu đàn áp lệnh trấn quyền bằng bạo lực của bạo hành qua bạo quyền mạnh được yếu thua, nơi mà phản xạ súc sinh, phản ứng súc vật hiện hình trong bạo luật rừng : cá lớn nuốt cá bé. Với Đời sống bầy đàn, dựa trên so sánh lực lượng, thì các tham vọng về quyền lực để thành đầu đàn là mọi cơ hội, chờ đục nước béo cò để hãm hại nhau, chờ thừa gió bẻ măng để truy diệt nhau. Trong khi chờ đợi cướp được quyền, thì sống còn nhờ phản xạ ký sinh trùng là chờ sung rụng, muốn rình rập ngày đêm để chụp giựt quyền lực và quyền lợi của đầu đàn thì cứ giữ phản xạ súc vật ăn nhờ ở đậu, ngày ngày đóng trọn vai đúng bản chất của mình là : gà què ăn quẩn cối xay.
Không có kẻ minh anh
Thay đổi từ nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam luôn là giả thuyết khả thi nhất để hiểu các chuyển biến về vận mệnh của một dân tộc trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị. Chính tình hình Đông Âu dưới loại chế độ này, cùng với vai trò cá nhân như Gorbachev đã làm sụp đổ cả một hệ thống cộng sản cuối thế kỷ XX là định đề cần đào sâu trong tương lai học. Nhưng định đề này sẽ gặp ít nhất ba loại trở lực trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có loại minh chủ như Gorbachev, rồi minh chúa cũng không có bóng dáng hoặc diện mục trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Minh chủ xoay chuyển tình hình để thay đổi số kiếp một dân tộc, luôn có nội cộng chính trị, bản lĩnh chính khách, tầm vóc chính tri để thấy được lối ra cho giống nòi. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có chính khách đúng nghĩa trong định nghĩa về nhân tri chính trị, nhân trí chính trường với kỹ năng đối thoại với thực năng kiến thức để thuyết phục xã hội và dân tộc bằng các chính sách nhìn xa trông rộng. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có các chủ thể biết chọn đối thoại để đối luận bằng lý luận chỉnh lý, bằng lập luận hợp lý, bằng giải luận toàn lý, lấy lý trí cá nhân để xây trí tuệ tập thể, để dựng tuệ giác cho lãnh đạo chính trị.
Tà cách
Tà cách của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã lộ qua điếm cách của bọn cướp ngày là quan thôi ! Thậm chí đang là lãnh đạo từ lập pháp tới hành pháp, là trong túi đã có quốc tịch ngoại, tiền đã chuyển ra ngoài, và con cái đã qua phương Tây từ lâu. Phân tích sâu như vậy để thấy thật rõ họa cảnh tối tăm của một dân tộc nạn nhân của ngu dân trị tới từ một đảng cầm quyền mang cốt, lõi, cội, rễ của ngu trị não trạng (vắng kiến thức, rỗng tri thức, trống trí thức). Khi các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam lập ban cố vấn, tìm tư vấn, thì những chuyên gia làm việc cận kề các lãnh đạo này cũng không có lý trí khoa học, trí tuệ văn minh, tuệ giác minh triết. Từ lý lịch đến hồ sơ cá nhân, từ bản lai diện mục tới phương pháp luận đề ra đường lối chỉ đạo, các chuyên gia quốc tế không thấy nội công chính sách, bản lĩnh chính trị, tầm vóc quốc sách của các lãnh đạo lẫn các cố vấn của họ. Rốt cuộc, thì "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", nên "âm binh tìm âm binh" để lập cuộc sống chung "cá mè một lứa" trong đặc quyền, đặc lợi, đặc ân mà thôi
Ăn bám… ăn tàn… ăn nhặt
Khi nghiên cứu về nội dung truyền thông qua chính trị học tri thức được song hành với xã hội học quyền lực về các phát biểu, các nhận định, các phê bình, các đánh giá, thì các chuyên gia quốc tế đã thấy và thấy là các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhìn thấu mọi nhược điểm cũng như khuyết tật của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ là bọn bám gót ăn theo, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để bám máu ăn phần. Bọn ăn tàn phá sạch, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để ăn hôi uống bẩn cũng là bọn bám gót ăn theo, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để trây máu ăn phần. Bọn dựa hơi bám thế, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để bám theo dựa ké cũng là bọn qua sông lụy đò, lụy Đảng cộng sản Trung Quốc để cúi đầu ăn nhặt.
Không biết nên không có
Thảm trạng của Việt tộc hiện nay, thảm kịch của đất nước Việt hiện giờ là bạo quyền độc đảng toàn trị trong tay Đảng cộng sản Việt Nam không có chính sách cứu nguy dân tộc, không có quốc sách nhân bản vì giống nòi, không có quyết sách về các nhu cầu cơ bản. Mà ngược lại, dân tộc chỉ thấy một tập đoàn lãnh đạo bán tài nguyên cho Tàu tặc ngoại xâm, tiêu hoang thiên nhiên, xài phí môi trường, với cây rừng nguyên sinh thành vật liệu xây cất và trang trí các biệt dinh, biệt phủ, biệt thự của các lãnh đạo, đã vào lộ trình buôn dân bán nước.
Giả giấy… giấy giả
Sau gần nửa thế kỷ hết chiến tranh, thống nhất đất nước với độc đảng toàn trị kiểu Đảng cộng sản Việt Nam từ định chế tới cơ chế, từ giáo dục tới hướng nghiệp, thì cả dân tộc trong đó có hai giai cấp công nhân và nông dân mang tiếng được đi học, nhưng họ lại phải nhận cả một quá trình mua bằng bán cấp với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ; giả vì hữu danh vô thực. Có học vị mà không phải là chuyên gia trong chuyên môn của mình ; có học hàm mà không biết chuyên ngành cùng chuyên khoa của mình là gì ; để tới khi chính các chuyên gia thực thụ hỏi về học lực tức là học thật qua trường thật-học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật thì không trả lời được. Có học vị, học hàm mà không có học lực tức là học thật nên tránh hội luận, trốn hội thảo, chuồn hội nghị về chuyên môn, chuyên ngành, chuyên khoa, tức là chuyên nghiệp của mình. Trong trà dư tửu hậu thì từ chê bai tới mạt sát nhau là : cao học giả, tiến sĩ giấy… lấy chuyện mua bằng bán cấp ra để mua chức bán quyền, để phỉ báng nhau trước bàng quan thiên hạ rồi tự vỗ ngực để tự nhận là mình : khôn lanh hơn người. Khi bị đồng bào hỏi lại ngược lại : dân tộc cần người khôn có thông minh biết yêu nước thương nòi, chớ không hề cần bọn lanh (đầu khờ miệng lanh) trong buôn gian bán lận từ bằng câp tới lý lịch, thì lại đớ lưỡi, cứng họng, nghẹn cổ mà chẳng trả lời được ! Đây không phải là vô minh thì là gì ? Đây không phải là vô tri thì là gì ? Đây không phải là vô học thì là gì ?
Tư lợi hóa : đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng
Khi bạo quyền lãnh đạo, chia chát cùng tà quyền tham quan, cả hai có liên minh với ma quyền tham đất, vì tất cả bọn chúng đều tham tiền, thì hệ lụy của tuyên truyền không còn là chuyện ăn gian nói dối, mà là chuyện tổ chức để cướp của hại người, theo nghĩa sâu xa nhất mà thí dụ cụ thể là bứng dân lành ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để một sớm một chiều thành dân oan, phải màn trời chiếu đất, phải đầu đường xó chợ. Tiểu luận này đề nghị phân tích và giải thích tuyên truyền ngu dân như quá trình độc quyền sinh sát của một độc đảng đứng và đạp trên tất số phận của một dân tộc, tận dụng tuyên truyền ngu dân như một quá trình giáo dục ngu dân. Độc quyền hóa từ quyền lực tới quyền lợi của một độc đảng, vừa độc tôn vừa độc trị để truy diệt từ khả năng phát triển kinh tế tới tiềm năng làm chủ tri thức nhân bản để có cuộc sống văn minh. Độc đảng này luôn tìm mọi cách hủy diệt đa nguyên của đa đảng biết tận dụng đa trí, đa tài, đa lực, đa năng, đa hiệu… Tư lợi hóa qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của một giai tầng thống trị, chỉ là một thiểu số gần 5 triệu đảng viên là thành phần nòng cốt tự lãnh đạo tới cán bộ để bòn rút tài nguyên đất nước, tiền của đồng bào, tiền tài của một dân tộc khoảng 100 triệu dân.
Tà giới
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền bằng vốn vô học của họ dựa trên công an trị, đang điều hành chính phủ bằng tuyền truyền trị, cụ thể là đang điều khiển không những tổ chức chính trị mà cả tổ chức kinh tế, tổ chức khoa học, tổ chức xã hội bằng ngu dân trị. Các lãnh tụ trước đây và các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có điều kiện được học hành trước khi lãnh đạo thì đây không phải là một cái tội. Nhưng khi họ nhận các chức năng trong quản lý trong chính quyền, nhận các chức vụ trong quản trị trong chính phủ mà không chịu học hỏi là một cái lỗi lớn. Và với chức quyền mà họ đang nắm hiện nay họ còn thông đồng hoặc thỏa hiệp với ma trận học-giả-thi giả-điểm giả-bằng giả không những cho họ mà cho thân thuộc của họ trong tà giới quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ. Mà trực tiếp hay gián tiếp diệt trí tuệ, triệt nguyên khí quốc gia, chặn những chân tài, ngăn những thực tài của dân tộc, thì đây là một cái tội, một tội rất lớn ! Đây vừa là chân dung của vốn vô học làm nên chân tướng tướng vô học trị.
Mua chức bán quyền
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền có những tướng trong từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an, đã phá kỷ lục thế giới về số lượng hơn 500 tướng, cụ thể là phá kỷ lục về mua chức bán quyền. Đám tướng này có chức tướng không hề qua kiến thức an ninh quốc phòng, lẫn tri thức trật tự xã hội của một thể chế văn minh biết dựa vào một dân tộc có văn hiến. Mà lũ tướng này, dân chúng gọi là tướng cướp, các tướng của Bộ Quốc phòng thì biến đất quốc phòng thành đất kinh doanh, ăn đất để ăn tiền. Cùng các tướng của Bộ Công an đã tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong sào huyệt của Bộ Công an, nơi mà các tướng công an trở thành những tên đầu nậu, lấy xâu bài qua chủ cái bằng tham nhũng lên tới bạc tỷ mỗi tháng. Đây là là chân dung của tham ô trị làm nên chân tướng tướng vô học trị có anh em sinh đôi là tham nhũng trị.
Liên minh với côn đồ, lưu manh, du đãng, của xã hội đen
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an đã liên minh với côn đồ, lưu manh, du đảng mà tên gọi thông dụng là xã hội đen để tiếp tục làm đầu nậu từ đất đai tới các dịch vụ phạm pháp trầm trọng nhưng lại được các tướng bảo kê. Chúng sẵn sàng phá nhà để cướp đất của dân ; biến dân lành, dân đen một sớm một chiều thành dân oan trong với thảm họa màn trời chiếu đất, với thảm cảnh đầu đường xó chợ. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng côn đồ trị. Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an liên minh sử dụng côn đồ, lưu manh, du đảng của xã hội đen để hành hung, khủng bố, truy diệt các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì tiến bộ, vì văn minh, đây là những đứa con tin yêu của Việt tộc, chính các chủ thể này đại diện cho có học-có hậu để chống lại tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô học. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng vô học trị.
Tà nghiệp trong ma lộ
Tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô học, hãy cùng nhau nhận ra nội dung và nội hàm của có học-có hậu của các lãnh tụ và lảnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trước hết qua đạo đức được kết tinh bằng đạo lý của hai hệ. Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) có tình cảm chân thiện ăn hiền ở lành, thì sẽ dễ có tâm cảm thương người như thể thương thân, từ đó sẽ nhận ra sức liên kết giữa quá khứ-hiện tại-tương lai trong phương trình ăn ở có hậu chính là cốt lõi của lương tri, một tri thức biết nhận ra điều hay lẽ phải. Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) để trong sạch khi học làm người, trong sáng khi nhận trách nhiệm và khi lảnh bổn phận trước đồng bào, đồng loại ; lại biết giữ sĩ diện cho mình và cho người bằng sự tôn trọng lẫn nhau qua công bằng xã hội, qua công lý của pháp luật.
Vắng lương, trống liêm, rỗng công
Hai hệ lương và liêm dựng lên đạo đức được kết tinh bằng luân lý trách nhiệm và bổn phận, sẽ mở ra hai hệ khác chính là giáo lý của dân chủ luôn có cùng một dòng sinh mệnh với có học-có hậu. Hệ công (công bằng, công lý, công tâm) công bằng xuất hiện vì con người luôn muốn xóa bất bình đẳng trong nhân sinh ; công lý trực diện với bất công bằng đạo lý và luật pháp để chống lại bất công. Và công tâm cũng có mặt để trợ lực cho công lý có thêm tình người, biết hiểu hoàn cảnh để thấy cho thấu tâm cảnh, từ đó có tâm cảm trong rộng lượng, trong khoan dung, biết lấy từ tâm để trợ duyên cho công tâm. Hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng), nơi mà tự do là nhân quyền cơ bản để vừa bảo vệ công bằng giữa mọi người, vừa giúp mọi người được mưu cầu hạnh phúc cho chính bản thân của mình. Với lực tự chủ từ học hành tới nghệ nghiệp, từ kinh tế tới xã hội, từ văn hóa tới giáo dục, luôn được củng cố bằng lòng tự tin vào công lý trong giáo dục lương thiện, trong giáo dưỡng liêm chính, để có tự trọng với tư cách có học trong nhân cách có hậu.
Vắng thông, trống sáng, rỗng đức
Khi hai hệ lương và liêm của đạo đức biết chung lưng đấu cật với hai hệ công và tự của công lý, thì dân tộc được tiến bộ, giống nòi được thăng hoa, qua hai hệ tinh anh của có học-có hậu ; Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) bằng vốn liếng của Việt tộc đã là một minh tộc biết dựng nước và giữ nước bằng chính sự thông minh của mình, với tri thức tinh tế về đất nước, về địa dư, về tiềm năng… Thông minh được thể hiện, được hành tác bằng sự thông thạo vận dụng các tiềm năng có sẵn, tận dụng lòng yêu nước của Việt tộc luôn là một dũng tộc có can đảm trong kiên cường quyết tâm bảo vệ quê hương và giống nòi, bằng sự thông thái trong chiến lược quân sự và ngoại giao chống ngoại xâm. Hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng chế, sáng tạo), bằng sự chủ động ngay trong tư duy, lấy sáng kiến để vượt thoát mọi hiểm nạn từ nội xâm buôn dân bán nước tới ngoại xâm lòng lang dạ thú như Tàu tặc hiện nay. Cả hai, nội xâm lẫn ngoại xâm, đều vô học vì vô đạo đức và vô công lý, nên chúng sẽ vô hậu vì vô lương tâm và vô liêm sỉ. Chúng sẽ bị triệt hạ bởi những lực lượng tiến bộ của xã hội dân sự, biết sáng lập ra những phong trào dân chủ, biết sáng chế ra những trào lưu nhân quyền, để nhận lại nhân phẩm Việt luôn có học đạo đức và công lý, luôn có hậu từ lương thiện tới liêm khiết.
Độc đạo nên độc hại
Cuộc hành trình của Việt tộc trong thời điểm lịch sử sắp tới và đang tới là một quá trình đảm nhận đầy đủ hai hệ lương và liêm của đạo đức, để lảnh nhận trọn vẹn hai hệ công và tư của công lý, từ đó sử dụng, vận dụng, tận dụng hai hệ thông và sáng, có sẵn trong vốn liếng của dân tộc, của giống nòi, mang tinh anh của có học trong thể phách có hậu. Các dân tộc cùng nôi văn hóa và văn hiến với chúng ta trong tam giáo đồng nguyên đã thành công, như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… thì chúng ta phải thành công như họ. Câu chuyện thành công trong dân chủ, thành tựu trong đa nguyên, thành đạt trong nhân quyền phải bắt đầu dẹp để xóa đi độc đảng toàn trị bằng vốn vô học ; độc tài nhưng bất tài vì vô học trị ; độc trị nhưng không biết quản trị vì ngu dân trị ; độc quyền nhưng cuồng quyền bằng công an trị ; độc tôn nhưng không thượng tôn pháp luật vì tham nhũng trị. Tất cả đều là độc đạo nên vô cùng độc hại vì tham quyền, tham tiền, vì lạm quyền, lộng quyền, đây là chân dung vô học trong cực quyền làm nên chân tướng vô hậu trong cuồng quyền.
Không thực nên không đạo
Có thực mới vực được đạo, mà thực đối với các người là thực phẩm cũng như tiền bạc phải ăn càng nhiều càng tốt, còn đối với trí thức chân chính thì thực phải là sự thực làm nên sự thật có rễ của chân lý để lẽ phải được đâm lộc kết chồi. Nhưng bi kịch của Việt tộc trong tay cuồng quyền của các người đã gian trá hóa sinh hoạt xã hội, đã gian manh hóa quan hệ xã hội, đã gian xảo hóa đời sống xã hội, mọi cái thực trong cái thật đã bị giả hóa. Học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để chuyện mua bằng bán cấp và chuyện mua chức bán quyền là loại ung thư đôi có trong bi hài kịch của xã hội ngày nay, có bằng cao học mà lái xe ôm, có bằng tiến sĩ mà trốn chuyên môn [1]. Vỗ ngực là chuyên gia với bằng cao chức rộng mà lách hội thảo, né hội nghị, tránh hội luận, cái giả được bày biện trong xảo trá. Vì muốn làm trí thức thì phải biết biến năng lực thành năng lượng, học thật để hiểu thấu, nơi mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã mô thức hóa : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông", nơi mà thật và giả được phân loại để phân tích, nơi mà thật hư được phân biệt để phân minh [2].
Gian nhà đểu chợ
Khôn nhà dại chợ kiểu gà què ăn quẩn cối xay, loại chó cậy gần nhà, để khi ra gặp hợp tác quốc tế thì cúi đầu ; khi gặp chất vấn quốc tế thì khoanh tay ; khi gặp đối đáp quốc tế thì khom lưng mà niểng cho qua chuyện. Ma xó bị ngợp dưới mặt trời. Các chuyên gia quốc tế tư vấn cho các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ không lầm khi họ nhận ra nhân diện của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không có ánh sáng của nhân vị, khi nhân dạng của các lãnh đạo này không có hào quang của nhân cách. Chỉ vì các chuyên gia quốc tế này không thấy nhân tri và nhân trí trong nhân bản và nhân văn của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, họ không thấy nhân lý và nhân tính, họ không nhận ra nhân tâm và nhân từ của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Họ không thấy thông minh Việt : "Người khôn chưa đắn đã đo. Chưa ra tới biển đã dò nông sâu" trong nhân diện lẫn nhận dạng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Không minh, không sư
Khôn nhờ dại chịu lại là một bất công khác đang đổ trên đầu, trên vai, trên lưng Việt tộc, khi lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam khờ trước quốc tế nhưng ác trước quốc nội, dại với người ngoài nhưng độc với đồng bào, theo biểu tượng thấp tồi mà dân Việt đã đặt tên để gọi kiếp cho các người : hèn với giặc, ác với dân ! Đây là thảm kịch đôi của Việt tộc đã bị một độc đảng cường quyền chặn dân chủ, dẹp nhân quyền, mà chính trong nội bộ của các người cũng không bao giờ có tài, loại minh vương mà các đời Lý, Trần đã có. Không có luôn minh chủ của đời Ngô, đời Đinh ; càng không có minh quân với tầm vóc của Trần Hưng Đạo, với vai vóc của Quang Trung… Còn minh sư kiểu Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm, Ngô Thời Nhiệm [3]… đang có mặt trong giới trí thức Việt hiện nay, thì ngày ngày bị các người trù, dập, truy, diệt. Vì trong thâm tâm của các người rất lo là nhân trí của minh sư sẽ dẹp âm tri của các người ; các người đã mất ăn mất ngủ vì trong tâm địa của các người mang một nỗi sợ là nhân lý của minh sư sẽ xóa đi âm dạng của các người.
Ô nhục hóa Việt tộc
Đại ngục trần gian với qủy dữ giữa trần gian đang bẩn thỉu hóa trần thế để ô nhục hóa Việt tộc bằng bạo quyền công an trị, bằng tà quyền tham quan trị, bằng ma quyền tham tiền trị khi các người biến thanh niên Việt thành lao nô, các phụ nữ Việt thành nô tỳ cho các nước láng giềng trong kiếp nô lệ với điều kiện lao động bại nhân vị, thảm nhân cách ! Biến đồng bào thành lao nô để thu ngoại tệ cùng lúc để tổ chức các đường dây buôn người, bòn rút tận xương tủy tiền bạc của đồng bào là một ý đồ ma luôn song hành cùng với mưu đồ qủy là diệt nhân tài, giết hiền tài. Tránh tri thức vì sợ bị lột mặt nạ là các người bất tài ! Tránh trí thức vì sợ bị vạch mặt chỉ tên là các người ôm độc trị nhưng không biết quản trị ! Chẳng cần cháy nhà mới lòi mặt chuột, vì Việt tộc hiểu Việt sử hơn ai hết : bọn cướp ngày là quan, tà quan trong điếm quyền, ngụp lặn trong tham quan để tham ô, đuối ngộp trong tham nhũng vì tham tiền [4]. Các phong trào đấu tranh cho công lý vì công bằng xã hội đang lớn mạnh ! Các người có thấy các phong trào phấn đấu tranh cho dân chủ vì tiến bộ nhân sinh đang lớn lên ! Các người có thấy các phong trào đối kháng vì văn minh nhân quyền đang lớn rộng !
Tà lộ của tà quyền
Phản dân hại nước là tà lộ của tà quyền, chóng chầy sẽ sa vào ma lộ của buôn dân bán nước cho Tàu tặc. Trong lúc chờ đợi đa nguyên trong đa đảng để Việt tộc có đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu [5]… mà thăng hoa cùng nhân loại, thì chính các phong trào của xã hội dân sự sẽ tạo ra sung lực để tẩy, xóa, khử, trừ đi tà quyền đang tham quyền, ma quyền đang tham tiền. Âm binh nội xâm đã sa vào tà lộ của loài cõng rắn cắn gà nhà, nhưng thật xót xa là bọn âm binh này sẽ đẩy Việt tôc vào tử lộ ! Mà muốn làm người thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam phải tẩy, xóa, bứng, nhổ mọi tạp chất của nội xâm (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) đây là loài ký sinh trùng làm ô nhiễm nội chất, làm ô tạp nội lực, làm ô uế nội công của Việt tộc. Muốn làm người thì hãy tái tạo lại nội công cho Việt tộc mà trước mắt là dựng lên một tòa án dân tộc, đầy đủ lương tâm dày dạn trí tuệ, lấy lương tri để dẫn dắt tuệ giác biết luận-tội-án để xử tội ác.
Việt tộc đang chờn vờn bên bờ vực thẳm
Việt tộc đang chờn vờn bên bờ vực thẳm mà thủ phạm là bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, là tà quyền tham nhũng buôn dân bán nước, là ma quyền tham tiền buôn tông bán tổ. Liên minh âm binh này luồn lách trong bóng tối để vơ vét tiền bạc của đồng bào, bòn rút tài nguyên của đất nước nhưng sẵn sàng biệt tăm biệt tích khi đất nước bị Tàu tặc xâm lược, khi đồng bào phải chịu số phận bị đồng hóa của Tàu tà. Hai chữ đồng bào [6] hoàn toàn ngược chiều với đồng bạo, đồng tà, đồng ma để bị đồng bẩn, vì đồng bào đã thấy rồi bạo quyền, tà quyền, ma quyền khi thành cuồng quyền trong Đảng cộng sản Việt Nam đang đồng liệt, đồng bại, đồng quỵ ngay trong nhân vị Việt của chúng !
Nội xâm cuồng quyền, nội tặc qủy quyền
Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi, đó là câu chuyện ân nghĩa đồng bào đã làm nên ánh sáng để lành mạnh hóa cuộc đời, đây là một câu chuyện vừa chân thật lại vừa thông minh trong lương tri chính trị, vì nó nghịch chiều với câu chuyện của các người là : hứa cuội, hứa hão, hứa điêu, hứa ngoa, hứa láo với dân tộc bằng một ý thức hệ ngoại lai về một thiên đường cộng sản. Để khi dân tộc khám phá ra lực lượng cộng sản chỉ là một tập đoàn tội phạm của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, tất cả chỉ là một tạp-hợp âm binh luôn tránh né cái lành, vì luôn lo sợ cái sáng : ánh sáng của sự thật, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của lẽ phải. Lột mặt nạ bọn buôn dân bán nước, là thượng nguồn của mọi hành trình trong ý thức dân tộc, mà con dân Việt hiện nay phải vận hành để trở thành chủ thể, để chủ quyết trong chủ động, để bảo vệ Việt tộc, nơi mà mọi con dân Việt đều có chung một dòng sinh mệnh với giống nòi Việt, đồng mệnh [7] trước hai họa nạn : nội xâm cuồng quyền vì dại tiền, ngoại xâm qủy quyền vì tham đất, tham biển.
Những cái bất nhân
Tàu tặc đang chiếm biển, đảo của Việt tộc ; Tàu họa đang gây nhiễm ô từ không khí bằng các nhà máy nhiệt điện than cho tới Formosa đã hủy diệt cả một vùng biển miền Trung ; Tàu nạn đang buôn người, buôn nội tạng, buôn ma túy ; Tàu hoạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc, tất cả tạo nên một chướng khí trong âm địa mà Tàu tà đang trùm phủ lên nhân kiếp Việt. Giờ thiêng của Việt tộc, ngày linh của đất nước Việt đã tới, con dân Việt phải quyết đoán trong quyết tâm, để quyết liệt bằng quyết luận là không lùi, để không bị rơi bẫy của Tàu tà. Và trước mắt và ngay trên đất nước mình, con dân Việt phải đối diện với bạo quyền để đối trọng với tà quyền, đối luận với nội xâm để đối kháng chống ngoại xâm, như chống lại những cái bất nhân, phi nhân, xảo nhân đang có mặt ngay trong chế độ độc hại trong lộng quyền của nó trong sinh hoạt xã hội, cái lạm quyền của nó trong quan hệ xã hội, cái tham quyền của nó trong đời sống xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam có cả ba : lộng quyền, lạm quyền, tham quyền. Khi chính chế độ độc đảng trong độc hại đang xóa, tẩy, hủy, diệt mọi khái niệm đồng bào trong đồng cam cộng khổ, trong đồng hội đồng thuyền để giờ đây mỗi con dân Việt chỉ là một cá thể ích kỷ trong đơn lẻ, không hề đồng tình, đồng tâm, đồng lực để thăng hoa cuộc sống bằng sự thật-chân lý-lẽ phải ! Đây chính là sự thảm bại lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, mà cũng là một trong những cái tội to nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
Chống tự do và phản nhân quyền
Nhìn xa trông rộng để được làm người, các tư tưởng gia, các lý thuyết gia, các chuyên gia quốc tế hầu hết đều nhận ra là chủ nghĩa cộng sản là một thảm họa không sao lường được cho nhân loại ! Duy vật biện chứng sản sinh ra duy vật sử quan là một luận thuyết thô sơ để mị dân, thô bạo để ngu dân, thô tục để ru dân, thô lậu để lừa dân. Nên nó đã sát nhân từ khi Lenin hành tác trong chuyên chính vô sản ; từ khi Staline hành động trong thanh trừng để thanh toán hàng triệu người ; từ khi Mao đã tổ chức cuộc thảm sát bằng Cách mạng văn hóa, mà đàn cha, đàn chú của các người lúc đó đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã lập lại bản sao qua Cải cách ruộng đất. Nói người rồi nghĩ tới ta, xem xét lại các tự do cơ bản của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền thì hãy kết luận rành mạch là dưới chế độ độc đảng hiện nay mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc thì dân tộc Việt, xã hội Việt không có tự do ! Và nhân quyền không được tôn trọng ! Vì chế độ toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam mang thực chất của nó là hoàn toàn chống tự do và phản nhân quyền, bằng hành động độc quyền, bằng hành tác độc tài của nó qua bạo quyền độc đảng dùng công an trị để truy hiếp nhân tâm Việt, nhân từ Việt. Tà quyền tham quan dùng tham ô, tham nhũng để tiêu hủy nhân tính Việt, nhân lý Việt. Ma quyền tham tiền dùng tiền tệ và quan hệ để xóa trừ nhân nghĩa Việt, nhân đạo Việt, cực quyền độc trị dùng khủng bố, đàn áp, sát hại… để vùi dập nhân tri Việt, nhân trí Việt. Cuồng quyền độc tôn dùng vu cáo, tù đày, lao lý để tẩy khử nhân vị Việt, nhân bản Việt.
Bản năng nghịch nhân tính
Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo và đang hoàn toàn chịu trách nhiệm về vận mệnh của giống nòi Việt, cơ đồ của tổ tiên Việt, trước họa nội xâm tham nhũng song lứa cùng đôi với họa ngoại xâm Tàu tặc. Các lãnh dạo của Đảng cộng sản Việt Nam tự chọn làm người hay làm ngợm, trong hiện tại, trong vị lai, trong Việt sử mai hậu, trước giáo lý của Việt tộc. Vì muốn làm người phải có nhân làm lõi, làm rễ, làm cội, làm gốc, làm nguồn, làm nên nhân tính [8]. Mà nhân tính thì ngược lại với bản năng đói ăn khát uống của những kẻ chưa trưởng thành vì chưa có nhân tính, qua giáo dục của nhân tri, qua giáo lý của nhân trí, nên chưa thể là : người. Nhưng nghịch lý là chính chế độ độc đảng nó độc hại trong độc tài của các người đã cho sản sinh ra loại người giật ăn cướp uống, đó là đồng bọn mà các người gọi là đồng chí, tranh tham ô để giành tham nhũng. Ăn ở bất nhân nên sống chết vô hậu, loại này thì không sao có nhân được, nên chúng sẽ không thành người theo nghĩa nhân vị biết dựa vào nhân tính, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo [9] ; chúng sẽ không có nhân cách vì chúng trống nhân lý, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn.
Không đủ tâm cũng chẳng đủ tầm
Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tâm vì chẳng đủ tầm để làm được ba chuyện sau đây của một chính quyền có nội công, một chính đảng có bản lĩnh để chính thức hóa bằng chính sách quốc gia về hòa hợp hòa giải dân tộc, đưa thảm nạn của huynh đệ tương tàn trong quá khứ của cuộc nội chiến 1954-1975 về tận suối giải oan, để thực hiện cho bằng được giáo lý tổ tiên Việt : người trong một nước phải thương nhau cùng. Bằng ngữ vựng hòa giải để hóa giải oan kiếp nội chiến, để hứa là sẽ không đưa một ý thức hệ ngoại lai nào nữa vào đất nước Việt để Việt tộc phải chịu cảnh gà nhà bôi mặt đá nhau… giết nhau. Hợp thức hóa bằng chính sách xóa để xây ngay lại hiện tại với ngữ văn hòa hợp để cùng nhau hợp tác với một trọng tài chỉnh lý trong liêm chính là : tam quyền phân lập, có văn hóa của đa nguyên để tạo dựng văn minh của dân chủ, để dựng văn hiến của nhân quyền. Hãy nhận ra công bằng trong tiến bộ, với công lý diệt được nội xâm, có công pháp loại được ngoại xâm, bằng công tâm của con dân Việt, chớ không bằng thái độ và hành xử của một độc đảng chỉ muốn độc tài trong độc quyền, độc tôn trong độc trị. Thích ứng hóa bằng thông minh nội bộ ngay trong Đảng cộng sản Việt Nam của các người để quản lý tương lai gần là tìm cho ra được những nhân vật gánh vác được vận nước kiểu minh quân, minh chủ, minh chúa đã có nhiều lần qua các đời Lý, Trần, Lê… bằng chính ngữ pháp lương thiện của chính quyền trong liêm chính của chính phủ, trong khi chờ đợi tương lai lớn của dân chủ, tương lai cao của đa nguyên.
"Vỡ lẽ"… "chưng hửng"… "té ngửa"
Thì nhân dân mới "vỡ lẽ" ra, thì dân chúng mới "chưng hửng", thì đại chúng mới "té ngửa" ra là các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ không hề có một kiến thức cơ bản nào, không hề có một cơ sở gì cho trí thức về giáo lý tri thức làm nên giáo trình trí thức này. Tại sao vậy ? Chỉ tại vì lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết, không hiểu vì không học và không đọc gì về các kiến thức và tri thức của nhân loại. Lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề biết, không hề hiểu, không hề học, không hề đọc thì làm sao họ xây dựng được giáo lý, giáo luận, giáo dục trên các kiến thức và tri thức của nhân loại mà họ không biết. Lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết, không hiểu, không học, không đọc thì làm sao họ tạo dựng được giáo khoa, giáo trình, giáo án trên các kiến thức và tri thức của nhân loại mà họ không biết. Ngay khi họ "biết sơ sơ" và "hiểu sới sới" về các cuộc cách mạng đã khai sáng nhân tri, đã khai phá nhân trí, đã khai phóng nhân quyền, thì họ lại tìm mọi cách để ngăn, chặn, hủy, diệt, triệt cho bằng được ! Vì cách mạng khai sáng nhân tri trực tiếp tẩy xóa đi chính sách ngu dân trị của họ ; vì cách mạng khai phá nhân trí trực tiếp khử trừ đi chính sách tuyên truyền trị của họ, vì cách mạng khai phóng nhân quyền trực tiếp bứt bứng đi chính sách vô học trị của họ. Đây không phải là vô học vì không có kiến thức đã làm nên vô hậu là diệt tri thức ngay trong trứng nước thì còn là gì nữa đây ?
Thâm não lòng tham không đáy
Ngoại xâm hiện nay đang trước mặt, trước mắt Việt tộc, đã và đang được nội xâm mở cửa để có mặt trên mọi vùng miền của đất nước, trong hang cùng ngõ hẻm của mọi thành phố Việt. Việt tộc sẽ không nhận ra chân dung ngoại xâm của Tàu tà (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu nạn, Tàu hoạn) nếu Việt tộc không nhận ra hình tướng của nội xâm của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc làm bạn vàng, đang cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu tà với hội nghị Thành Đô, với hàng loạt ký kết giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Tàu tà mà cho đến nay không được công bố, vẫn bị giấu kín. Hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) sẽ tiếp tục vơ vét tiền thuế của đồng bào, nạo vét tài nguyên thiên nhiên của đất nước, với hành tác cướp ngày là quan cùng thâm não lòng tham không đáy của chúng. Chính chúng sẽ bòn rút tới cạn kiệt mọi sinh lực của đồng bào, mọi nguyên khí của quốc gia, để khi đất nước lâm nguy, đồng bào lâm nạn là chúng cao bay xa chạy qua phương Tây, với quốc tịch ngoại, thẻ xanh cùng vàng bạc trộm, cắp, cướp, giật được của dân lành, dân đen, dân oan. Đừng sai định đề về ngoại xâm để đừng sai lẫn định luận về nội xâm, để không bị sai định nghĩa : Việt tộc là sắc tộc như thế nào ? Việt sử thì rất rõ ràng và rành mạch : Việt tộc là một dũng tộc biết thắng mọi ngoại xâm bằng sự dũng cảm của chính mình, Việt tộc là một minh tộc biết thắng mọi nội xâm bằng sự thông minh của chính mình !
Không có năng lực để khách quan hóa đời sông xã hội
Nguồn gốc câu chuyện tới từ chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi họ giành quyền lãnh đạo dân tộc và đất nước bằng độc quyền qua độc đảng, với độc tài sinh ra độc tôn, chưa bao giờ được Việt tộc bầu ra, với bao hậu quả từ thù trong (tham quan-tham ô-tham nhũng) tới giặc ngoài (Tàu nạn với nạn xâm lấn-Tàu họa với họa xâm lược-Tàu hoại với hoại xâm lăng) đó là một viễn ảnh đen tối cho dân tộc : bị đô hộ thì sẽ bị đồng hóa, một việc mà tổ tiên ta đã ngăn chặn được từ hơn bốn nghìn năm nay. Ta tôn trọng văn hóa và nhân dân Trung Quốc nhưng ta phải gọi bọn lãnh đạo bành trướng và bá quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc là Tàu tặc qua hệ Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại, trong đó Việt tộc ta đang là nạn nhân chính ! Để tránh hậu quả "sai một ly đi một dặm". Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có cùng một nhịp sống với hệ cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh) của xã hội, hiểu được tâm cảnh của quần chúng. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chọn độc đảng để độc tài, nên không có năng lực để khách quan hóa đời sống xã hội, họ tạo ra dân đen, dân oan, mà họ vẫn mù quáng hóa làm như không thấy nỗi khổ niềm đau của họ ; lấy độc tôn để độc trị nên hoàn toàn không có khả năng để khoa học hóa các dữ kiện xã hội, ngày ngày tự thui chột hóa chính họ, làm như không có tham nhũng đang thối nát hóa đời sống xã hội hiện nay.
Cái vô tri : không đắn, chẳng đo
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có bản lĩnh chính trị, không có tầm vóc quốc gia, không có nội công lãnh đạo, vì không biết lắng nghe để thâu nhận hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức) của các chuyên gia, từ đó tạo ra sung lực trong chính sách, biến thành hùng lực trong xã hội qua chính hệ năng (năng khiếu, năng lực, năng động) của chính họ, để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) từ khoa học, kỹ thuật tới văn hóa, giáo dục để thăng hoa dân tộc của họ. Đó cũng là bài học mà tổ tiên Việt đã giáo dưỡng con cháu Việt nhận ra chân tướng kẻ lãnh đạo mình : "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu". Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chọn "thừa gió bẻ măng" của tham quan, qua "đục nước béo cò" của tham ô, qua "thừa nước đục thả câu" của tham nhũng, thì đối thoại này sẽ bị nhiễm ô bởi tham quyền vì bị lạm quyền. Nên nó bỉ ổi chống lại hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ), nó thô bỉ vì chống lại hệ tài (thực tài, chân tài, hiền tài), vì nó tồi tệ chống lại hệ thực (sự thực, chân thực, thành thực) mà nhân dân đã quá rõ qua các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không hệ có ba hệ (liêm, tài, thực) này.
Không có chính sách đúng, với chính trị cao, được chỉ đạo bởi lãnh đạo giỏi
Nhân lý của lãnh đạo dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có nền móng từ luân lý của trách nhiệm bảo vệ nhân dân, của bổn phận bảo toàn tổ quốc, thì cũng chưa đủ để thắng địch. Để lật ngược đối phương nhất là đối phương đó lớn và đông cả nước lẫn dân, như Tàu tặc hiện nay, chúng thật sự là tặc vì chúng đã cướp nước và áp đặt nền thống trị để đô hộ ta qua nhiều lần trong lịch sử, hiện nay chúng cũng đang cướp biển, cướp đảo của ta. Kẻ lãnh đạo giỏi là kẻ chuẩn đoán chính xác ý định của giặc (đi guốc trong bụng giặc), kẻ lãnh đạo tài là kẻ dự đoán đúng ý muốn của giặc (đi bộ trong não bộ giặc), kẻ lãnh đạo lớn là kẻ nhập nội được vào ý đồ của giặc (đi dạo trong mưu đồ giặc). Có chính sách đúng, với chính trị cao, được chỉ đạo bởi lãnh đạo giỏi, theo đúng bài học của tổ tiên : có tích mới dịch nên tuồng, dựa trên năng lực lãnh đạo (khôn cậy, khéo nhờ, khó chịu), lấy tự chủ để làm chủ (khôn làm cột cái, dại làm cột con), có định hướng chủ lực, biết thời hiểu thế, nắm kế thấu mưu, làm lớn thắng to, để sớm thăng hoa dân tộc.
Không biết cởi bỏ để cởi mở trong lãnh đạo chính trị
Cởi bỏ các ý thức hệ ngoại lai làm băng hoại dân tộc, khẳng định khả năng cởi bỏ cái độc hại của cái độc đảng, để cởi bỏ cái độc đoán tới từ cái độc quyền, để cởi bỏ cái độc tôn tới từ cái độc trị. Độc đảng luôn độc hại, nếu lãnh đạo không phải là minh quân, minh chủ, minh chúa, vì nó làm đui chột hóa kẻ lãnh đạo, tạo ra vô minh đưa lãnh đạo tới vô tri, cuối cùng là vô giác trước nỗi khổ của dân tộc, niềm đau của giống nòi, với cái độc chỉ thấy nó mà không thấy nhân tình chung quanh để có nhân tính trong kiếp làm người ! Cởi bỏ để cởi mở trong lãnh đạo chính trị. Cởi mở trong lãnh đạo chính trị là khả năng đón tiếp kiến thức mới, kinh nghiệm lành, phương án tốt, tư vấn hay, trong tư thế luôn luôn mong muốn học hỏi, biết nghe để biết đón, biết tiếp để biết nhận, biết nhận vì biết trao ! Cởi mở trong lãnh đạo chính trị vừa là nền trong đạo lý chính trị, luôn gần dân, không xa rời quần chúng, vừa là cầu nối để dân chúng được trao đổi về chính sách với lãnh đạo, được đối thoại với chính quyền, được thảo luận với chính phủ. Không mỵ dân, cũng không đạo đức giả, mà dựa vào khả năng lãnh đạo với lý luận về chính sách, với lập luận về đường lối, luôn có giáo khoa chính trị khi gặp nhân dân.
Không có lý trí lãnh đạo vì nhân dân
Mở lý trí lãnh đạo để nhân dân có thể nói, tiếp, nghe, nhận chính kiến của họ mà không có chuyện "ăn trên, ngồi trốc" để áp đặt chuyện "cả vú lấp miệng em". Không rơi vào tuyên bố xuẩn động trong thụ động của chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trước làn sóng xuống đường, biểu tình phản đối luật đặc khu (Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc) ngày 10 tháng 6 năm 2018, một cơn lốc dầy cường lực của nhân dân yêu nước mà lại bị bà chủ tịch ghép là "…quá khích !". Thật bất hạnh cho dân Việt ! Sự thật vẫn là thử thách hàng đầu của lãnh đạo chính trị, dùng cái thực để làm nên cái tốt, ngày ngày xóa cái nghèo để tránh cái khổ cho dân. Để nhìn thấy được cái khổ trong cõi người thì không khó ! Tại đây, cái khổ được nhận diện qua sự sống còn, ngược lại sống thường là sống bình thường, bình an trong thoải mái, sống mà không phải đấu tranh từng ngày, từng giờ như dân đen, dân oan hiện nay. Trong khi đó sống còn là phải đấu tranh để sống, muốn sống phải tranh sống, sống mà như "dở chết, dở sống", sống lây lất, cụ thể trước mắt chúng ta vẫn là trường hợp của dân đen, dân oan, nơi mà oan khiên xuất hiện rõ ràng trong cuộc sống, trong xã hội, nếu làm lãnh đạo mà nhắm mắt, không xử lý, không giải quyết thì không những đã có lỗi mà còn mang tội nữa ! Đó là thực trạng hiện nay của đất nước, dân đen lầm lũi, dân oan thành bụi đời, lang thang ngay trên đất nước của chính mình, trong khi đó bọn tham quan vơ vét cho đầy túi, mua bất động sản tại phương Tây, với thẻ xanh, rồi quốc tịch ngoại, khi có biến loạn thì chúng cao bay, xa chạy.
Không có linh động thích ứng để có linh động tìm lối thoát
Linh động thích ứng để linh động tìm lối đi, linh hoạt của hành động trước thời thế, thuận lợi hay bất lợi của nhân cảnh. Lý lịch của các lãnh tụ tài giỏi luôn có một hằng số, có lúc đi ngược với thời thế, đó là ý chí ; tại đây tiềm ẩn một hằng số khác là năng lực của lãnh đạo qua quá trình giải bày ý chí bằng đề nghị-đàm phán-quyết định-hành động khi thuyết phục các đối tác. Tại đây, sự chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án vừa đối phó, vừa đối trọng ngay trên thượng nguồn để dàn xếp chu đáo mọi so sánh lực lượng để cân đối phương trình thời thế-ý chí, để duy tâm không "trùm phủ" lên duy lý. Muốn thành công thì lý trí lãnh tụ phải nhận được sự đồng tình của tất cả hoặc của đa số không những của các thành viên lãnh đạo, mà luôn cả các liên minh trong nội bộ ; từ đó ý chí cá nhân sẽ hình thành ra lý trí của tập thể. Câu chuyện thượng nguồn để chuyển hóa thời thế-ý chí qua thực lực của ý chí-lý trí là quá trình vừa giải thích, vừa phạm trù hóa ý chí dựa trên tính hiệu quả, có cơ sở của điều tra sơ khởi, thực địa, làm sáng mọi mối tương quan giữa sáng kiến của ý chí và tình huống tới từ thời thế. Trên thực tế lãnh đạo, phải nên phân biệt : ý chí thường thì dựa trên mô hình, còn hiệu quả thường dựa vào sự biến đổi của tình hình.
Không biết nắm thực tế có nội lý diễn biến riêng của nó
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các lãnh đạo vừa có nhiều tin tức, dữ kiện, chứng từ luôn đa diện, đa chiều, để lấy những quyết định đúng trong chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, cùng lúc có các chuyên ngành, với cái chuyên gia để có được những chỉ báo chính xác để dự đoán được những chỉ tiêu. Đây lại là hài kịch của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam lúc 3 giờ đêm 09 tháng 6 năm 2018 hoãn lại việc bỏ phiếu của quốc Hội về luật đặc khu (Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc), để xoa dịu sự phẫn nộ của toàn dân, nhưng họ lầm to trong ngây dại chủ quan của họ : ngày 10 tháng 6 năm 2018, cả nước trên cả ba miền nhân dân đã xuống đường, đã biểu tình, đã hét lớn, đã gào to trong hùng khí : Không đặc khu ! Không Trung Quốc ! Không bán nước ! Mọi xảo ngữ "ý đảng, lòng dân" đều là loại xảo ngôn. Thực tế được nhận định không theo mô hình mà theo quy luật biến đổi thường trực của tình thế ; luôn được nhận ra từ tình huống, khi tình huống làm xoay chuyển môi trường hiện tại tạo ra thực trạng của xã hội, bất lợi hoặc thuận lợi cho dân tộc, cho đất nước ; làm lãnh đạo chính trị là nhận định, phân tích để điều tiết hoặc khai phá các thực trạng này.Thực tế có nội lý diễn biến của nó được nhận diện qua biến đổi của thời thế, mở lối cho chính sách hoặc đóng cửa mọi sáng kiến ; làm lãnh đạo chính trị là thấy được, nhận ra nội lý diễn biến của tình hình, sẽ quyết định đúng hiệu quả của một chính sách, và nếu quyết định sai sẽ gây ra hậu quả cho xã hội, cho dân tộc.
Không biết khai thác tiềm năng của thực trạng
Diễn biến thực tế khi được lãnh đạo chính trị đánh giá qua diễn biến của tình hình, thì kẻ lãnh đạo giỏi biết khai thác tiềm năng xấu hoặc tốt của thực trạng ; còn kẻ lãnh đạo tài thì biết khai triển vốn có sẵn để tăng lợi thế trong thời thế mới ; riêng kẻ lãnh đạo lớn thì biết tìm cho ra các nội lực mới, các đồng minh mới, các liên minh mới, để củng cố thời-thế-vị của đất nước, của dân tộc. Diễn biến thực tế trong tư duy của lãnh đạo chính trị chấp nhận chuyện "nắng sớm chiều mưa" trong so sánh lực lượng, bất lợi hay thuận lợi cho mình ; công nhận luôn chuyện "sớm nở, tối tàn" trong các liên minh giữa các đồng minh, bên này hay bên kia ; sẵn sàng đón nhận luôn chuyện "vật đổi, sao dời" không những giữa bạn và thù, mà cả về chuyện bất biến giữa chung thủy và phản bội ngay trong các liên minh, làm được tất cả các chuyện này thì xem như "đắc đạo" khi quản lý phương trình lãnh đạo trong nội lý diễn biến thực tế-nội lý biến thiên nhân tâm. Chuyện này đã xẩy ra trong tháng 6 năm 2018, theo kiểu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược giữa các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, cái quái thai chính thể là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố : "lắng nghe ý kiến nhân dân…" về luật đặc khu ; bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thì thấy nhân dân xuống đường : "vì bị kích thích… quá khích…", cùng lúc tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không dám xuất hiện ít nhất một lần để bảo vệ chính sách đặc khu của ông, của Bộ Chính trị trong một bi hài kịch làm trò cười cho quốc dân và quốc tế.
Ung thư hóa nhân lý
Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước đầu tiên trong nhập lý vào nội lực của bối cảnh, trong đó bối cảnh của thực tế làm chuyển đối hệ ý (ý muốn-ý định-ý đồ), lãnh đạo chính trị tài ba sẽ chuyển hóa linh động hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) của mình theo bối cảnh để biến bối cảnh thành thực lực của mình. Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ hai là mô hình đôi : mô hình cứng mang ý chí của chính sách, mô hình mềm đưa thực tế của môi trường, của bối cảnh để làm tăng hiệu lực cho vốn đầu tư, trong đó sự phối hợp nhuần nhuyễn mô hình đôi (cứng và mềm) là khả năng và ý chí của lãnh đạo vừa biết cõng chính sách qua trở ngại, trở lực, vừa biết buông thư khi mô hình bóp ngộp thực lực trong thực tế. Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ ba là chiến lược đôi khi gặp nước chảy xiết, thì biết chọn nơi để làm đập nước mà giữ nước, cùng lúc biết chọn chỗ thông nước để cho thoát nước ; và trên cùng một dòng nước : hai chiến lược này không hề mâu thuẫn nhau, được xử theo lý luận đôi trong thông minh linh động để giải quyết. Luật an ninh mạng vừa được đại biểu quốc hội "cúi đầu bấm nút thông qua" ngày 12 tháng 6 năm 2018 là phản lý chống lại nhập lý trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nơi mà tự do mạng xã hội chính là lý trí của xã hội, nơi mà đa nguyên truyền thông là lực trí tuệ của tập thể, là vóc thông minh của cộng đồng, là dạng đa năng của dân tộc, thì lại bị thui chột hóa qua một đạo luật khinh mạt nhân trí, mạt vận với nhân tri, ung thư hóa nhân lý.
Không có lý tri biết tự ngăn các chủ quan thui chột
Không có lý trí biết tự ngăn chặn lại chủ quan thui chột của chính sách mà không tôn trọng quy luật của tình hình, gạt bỏ điều tra cơ bản, loại trừ nghiên cứu thực địa để nắm thực trạng-thực cảnh-thực tế của nhân dân, của xã hội. Lý trí được dùng để thấy rõ các trở ngại, các chướng ngại mà thuận lý là bắt đầu bằng chuẩn đoán tình hình theo các chỉ báo khách quan để thoát các lý thuyết xơ cứng, các ý thức hệ mù quáng, từ đó có các hành động cụ thể mang nội chất tích cực là hiểu vấn đề để vượt khó khăn, lấy sáng kiến để vượt qua các ngõ cụt, lấy sáng tạo để biến vượt thoát thành vượt thắng. Thuận lý sẽ cho xuất hiện khả năng thích ứng với môi trường, thích nghi với tình thế, thích hợp với hoàn cảnh, trong đó hiện tại của bây giờ và ở đây là dàn nhún để làm tốt hơn, hay hơn cho dân tộc, cho đất nước. Thuận lý theo lời dạy của tổ tiên : "tùy cơ ứng biến" nhưng cùng lúc phải sáng tạo ra các thuận lý mới để xoay chuyển tình thế, cụ thể là chuyển hóa các so sánh lực lượng, biến bất lợi thành thuận lợi. Tại sao các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chỉ tính tới chuyện buôn đất, bán khu qua bất động sản, mà không có một chính sách nào về thông minh Việt trong sáng tạo Việt từ khoa học kỹ thuật tới hiện đại hóa đất nước, như các quốc gia láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc) đã thành công ? Hiền tài trong lãnh đạo chính trị phải là chân tài trong thống hợp tất cả nội lực thông minh của nhân dân để làm nên một hùng lực trong phát triển chứ !
Không có phản xạ trong não
Trọng não, là bản chất của chính quyền không xóa não, là chính quyền biết trọng chất xám, nâng niu tri thức, quý trọng trí thức, vì quý yêu kiến thức, biết dụng không những khoa học kỹ thuật, mà khai thác sáng suốt các nghiên cứu, điều tra, điền dã của khoa học xã hội và nhân văn, nắm chắc các kết quả của học thuật để hiểu sâu nhân tình, hiểu rộng nhân loại, hiểu cao nhân thế, luôn đưa nhân tri vào nhân trí để nâng nhân bản. Chính quyền trọng não, là chính quyền biết khai thác sử học, để tra đúng sử liệu, tìm trúng sử luận, để hiểu sử tính của một dân tộc, sử địa của một đất nước, và không lập lại sai lầm của quá khứ, biết ưu điểm, trọng điểm của tổ tiên nhưng cũng thấu luôn yếu điểm, nhược điểm, khuyết điểm, kể cả khuyết tật của họ. Hiểu thấu lịch sử để làm khá hơn, tốt hơn, hay hơn, cùng lúc đặt Việt sử vào sử quốc tế để so sánh từ đồng sử đến dị sử giữa người và ta, trong đó so sánh sắt se với láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta. Đó là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, cùng văn hóa với ta tại sao họ thành công làm chủ, còn ta thất bại trong thảm hại là phải nhận kiếp làm công, làm thợ cho họ, thậm chí lao động trong vai nô tỳ, nô bộc cho họ. Chính quyền phải dùng quyền lực của trí tuệ dân tộc, tài nguyên đất nước để chế tác ra hợp lực trong đó giáo dục phục vụ nhân tri và nhân trí, kinh tế phục vụ cho nhân sinh, văn hóa phục vụ cho nhân văn, đạo lý phục vụ cho nhân cách, lấy nhân nghĩa làm nhân bản.
Tham nhũng trong tham ô, tham quyền để lộng quyền
Ý nghĩa của hợp lực có trong kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của tổ tiên qua thuật ngữ cả nước-toàn dân. Đây chính là thành công của một chính quyền biến hợp lực thành tổng lực. Chính quyền dùng quyền lực của định chế và quyền hạn của các cơ chế để làm ra tổng lực cho dân tộc, cho đất nước. Lãnh đạo không lòn lách qua lách luật, tránh luật, thậm chí xé luật để tham nhũng trong tham ô, qua tham quyền và lộng quyền. Bọn xé lẻ để đi đêm với ngoại bang, xé lẻ để đi lén với ngoại xâm không thể dung thân chúng trong một chính quyền sạch ! Nếu Đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại từ khi thống nhất đất nước năm 1975 trong quá trình tập hợp tổng lực này, thì tại sao không vào quy luật của đa nguyên trong đa đảng để đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu được xuất hiện ngay trong đồng bào, ngay trên đất nước ? Mà ông bà ta đã giáo dục con cháu ta là : vắng mợ chợ vẫn đông mà ! Lương tri trực diện để chống lãnh đạo chính trị vô tâm vì vô trách nhiệm, đây chính là lòng lương thiện nếu những kẻ lãnh đạo nhận bổn phận với chí công vô tư trong hệ trình của lương thiện-lương tâm-lương tri, không có hệ trình này thì không có công tâm, không có hệ trình này mà đòi lãnh đạo thì không chóng thì chầy cũng thành kẻ bất lương ; từ sâu dân mọt nước sẽ tới buôn nước, bán dân. Lương tri luôn là hệ kiến thức đôi : kiến thức liêm chính về luân lý làm nền kiến thức sáng suốt về quản lý, trong đó bọn tham quan không có chỗ đứng để tham nhũng, không có chỗ ngồi để tham ô.
Không có tâm thức lãnh đạo
Với tư duy ích kỷ tối đa làm quan để vơ vét, làm lãnh đạo cào nạo của cải nhân dân, nên chúng đã bị ung thư ngay trong não bộ và luôn nghĩ hệ trình lương thiện-lương tâm-lương tri chỉ dành cho những ai ngây thơ, thật thà, thậm chí là ngu dại. Lương thiện, lấy cái trong làm cái sáng, lấy cái thẳng làm cái ngay, công nào đức nấy, ngược lại với bọn tham quan làm quan để tham nhũng, sẽ bị lột mặt nạ vì là bọn cướp ngày là quan (cắp của công-cướp của tư), giữa công và tư chúng chỉ thấy chúng, chuyện ai chết mặc ai có trong phản xạ của chúng, chuyện cao chạy, xa bay khi đất nước bị ngoại xâm có trong vô tâm, vì lối nghĩ vô thức của chúng. Tâm thức của lãnh đạo có ý thức là hải đăng, có nhận thức làm kim chỉ nam, vì biết thao thức với tiền đồ Việt tộc, và ý thức-nhận thức-thao thức chính là định nghĩa của tâm thức ! Biết nhận trách nhiệm và biết giáo dưỡng về quần chúng vì họ chỉ là hậu quả của một loại giáo dục tha hóa một chiều qua tuyên truyền ngu dân : vô tri trước nỗi khổ niềm đau của đồng loại, vì không có đạo lý"một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ" ; vô minh trước nỗi khó nghiệp quẩn của đồng bào vì không có đạo đức "máu chảy, ruột mềm", vô giác trước cảnh "ăn bờ, ở bụi" của dân đen, dân oan, vì không có luân lý "miếng khi đói bằng gói khi no". Vô tri, vô minh, vô giác trong xã hội theo giáo lý của tổ tiên Việt tộc và cũng theo phân tích của chính trị học, của xã hội học, chắc chắn là tới từ bề trên tồi tệ, từ các lãnh đạo chính trị sâu dân mọt nước !
Không có trong sáng để trong sạch
Một lực lượng lãnh đạo có bản lĩnh chính trị thì luôn lấy nhân cách tổ tiên đã chống ngoại xâm, để gạt đi cái nhục kiếp phải làm nô lệ, dù phải can đảm lấy thân, quả cảm lấy mạng của chính mình để làm cho bằng được chuyện "châu chấu đá xe", dù chúng bất cứ là loại thiên triều nào ! Dù chúng có mãnh lực quân sự tới đâu đi nữa, nhớ lại bọn hung hãn nhất là Nguyên Mông trong thế kỷ 13 đã bị đời Trần ta làm cho quỵ sụp tới ba lần. Chủ quyết để có kiếp người trong sáng vì trong sạch, bằng kiếp tự nhận tự do để có tự quyết, có tự lập để có tự chủ, lấy tự lực tạo ra tự cường. Khẳng định kiếp chủ : có chủ động để hành động, có chủ trì của ý thức để tạo ra chủ lực cho tương lai, và lấy chủ trí để thực thi chủ quyết. Nhận cho rõ cái quyền để quyết đoán trong quyết định. Quyết đoán bằng năng lực biết chủ động để khách quan hóa các kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức trong tỉnh táo, để sáng suốt khi xây dựng quyết tâm, hoàn toàn ngược lại với độc đoán không chấp nhận kiến thức của tha nhân, loại bỏ tư vấn như tự cạo rổng não bộ của chính mình, không nhận tri thức nhân loại để khôn lên, trừ khử đối thoại để độc quyền xuẩn động trong độc đảng. Chủ quyết để mở cửa khi quyết, ngược lại với độc đoán đóng mọi cửa trước và sau khi quyết. Chủ quyết để đi về phía chân trời có mặt trời, trái hẳn với độc đoán, đã quyết trong cực đoan, với hành vi quá khích, nên "cắm đầu, cắm cổ" đi mà không tỉnh táo tìm phương hướng, đi mà không sáng suốt song hành cùng dân tộc.
Tội
Cái ác gây ra tội ác
Nội chất của lý thuyết là biến đúc kết kiến thức thành mô hình qua công thức, khi kiến thức trở thành mô thức thì tri thức thành hình qua lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận của lý thuyết. Lý thuyết luận dụng lý thuyết mới để xét nghiệm lại lý thuyết cũ, tập hợp lý thuyết cũ và mới để lý thuyết luận có thể sử dụng lý thuyết để củng cố lý thuyết ; từ đó lý thuyết luận tận dụng lý thuyết để bổ sung cho lý thuyết. Tại đây, định chất lý thuyết luận của tội phạm học mang nội hàm của các thành quả đã đạt được trong tất cả các nghành khoa học xã hội nhân văn, và từ các thành quả này tội phạm học phải đủ lực, đủ tầm, đủ vóc, đủ dạng để có các sung lực cần thiết của mình qua các quá trình xây dựng lý thuyết, vừa có cơ sở, vừa có tiềm năng ; Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái thiện, vì nó diệt không những nhân phẩm có trong nhân tính, nhân bản có trong nhân tri, nhân nghĩa, nhân từ có trong nhân văn và nhân vị ; mà nó còn giết, diệt, hủy, thiêu các điều kiện làm người bình thường nhất đã có trong nhân loại, nhân tình, nhân thế, nhân sinh. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái lành, vì chính cái lành làm nền cho hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), có trong quan hệ giữa người, tạo nên sự sống chung trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội. Chính từ cái lành này, mọi người có cùng một quá trình tư duy tự làm người biết sống chung qua sự tôn trọng lẫn nhau để tiến tới chuyện làm người biết làm việc chung, biết chia sẻ với nhau trong điều kiện làm người vì cái lành.
Cái ác ngự trị như phản xạ
ái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái tốt, vì chính cái tốt chế tác ra hệ công (công ích, công lợi, công pháp, công luật để bảo vệ công bằng), trực diện để đối kháng lại với cái ác. Và, chính cái tốt nói rõ bổn phận với cộng động, trách nhiệm với tập thể của mỗi công dân, từ đó biến đoàn kết thành tương thân, tương trợ làm nền cho bản chất của cái tốt : bác ái ! Từ định chất này, cái tốt làm được bác ái, vì nó mang nội hàm của vị tha, khoan dung, rộng lượng để tới thẳng từ bi, mà nhân từ là kết quả tích cực của cái tốt biết làm nên nhân phẩm. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái hay, không hề là chuyện của bẩm sinh, mà là chuyện của giáo dục. Nó không trên trời rơi xuống mà là chuyện rèn luyện qua phẩm chất của giáo khoa, làm nên giá trị nhân tính qua giáo trình, chế tác ra chất lượng của nhân bản qua giáo án. Vì cái hay mang cái thiện, cái lành, cái tốt vào cuộc sống xã hội, qua đường đi nẻo về của nhân sinh quan hay của mỗi cá nhân, qua thế giới quan hay của một dân tộc, qua vũ trụ quan hay của một chính quyền. Và, nếu chính quyền này chỉ là bạo quyền, hoặc tà quyền thì không thể cấy, cày, tới, tẩm được cái hay để chống lại cái ác.Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái đẹp, tới từ ý muốn của nhân phẩm, ý định của nhân ái, ý lực của nhân lý.
Diệt công bằng để giết công lý
Cái ác gây ra tội ác, luôn tìm mọi cách để tiêu diệt chủ thể, chính là cá thể có cá tính luôn biết đòi hỏi công bằng qua công lý, luôn thấu hiểu tự do để có tự chủ. Chủ thể tôn trọng bổn phận và trách nhiệm, nhưng chủ thể muốn làm công dân trong ý nghĩa toàn vẹn nhất, với giá trị phổ quát nhất : chủ thể của tự do hành động vì công lý. Cá tính của chủ thể trong sáng tạo biết song hành, biết chung lưng đấu cật với cái lành, cái tốt, cái hay, cái đẹp để sáng tạo của chủ thể phải là tác phẩm của cái thiện, hoàn toàn mâu thuẩn với cái ác. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái nhân, vì trong cái nhân có sự thương yêu biết hiến dâng lòng bác ái, có thiện chí biết hiến tặng thiện tâm ; trong khi đó cái ác không những gây nên nổi khổ, niềm đau cho nạn nhân của nó, mà còn truy, hủy, giết, diệt nhân phẩm của nạn nhân này. Cái ác không phải chỉ là lỗi, mà chính là tội : tội ác đã giết thân xác, diệt cuộc sống, hủy nhân cách của nạn nhân, bằng bạo lực của bạo quyền, bằng bạo hành của tà quyền, nó mang bản chất của bạo động, hoàn toàn ngược lại với phẩm chất bất bạo động của hệ nhân (nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn).
Bạo quyền : quyền lực gây tội ác
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái sinh, chính là sự sống đang bị cái ác gây thương tích, tạo thương tật, gây ra thương xót trong xã hội, quần chúng. Chính cái ác báo hiệu cái chết đang tới, nó báo động cái sinh trong sự sống đang bị đe dọa bởi bạo lực, được bảo kê bởi bạo quyền, được hà hơi tiếp sức bởi tà quyền, bất chấp công tâm và công lý. Muốn chống lại cái ác, thì sự hiểu biết về công bằng và công lý không đủ, sự thấu đáo về tự do, tự chủ không đủ, mà phải vận động tư duy qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên hệ nhân (nhân phẩm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn). Cả hai hệ (luận và nhân) này, phải đủ hùng lực để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) biết bảo vệ cái sinh trong nhân thế, bảo hành sự sống cho nhân sinh. Tội phạm học tổng quan đã kết luận được : các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác nhiều hơn các chế độ dân chủ ; các chế độ độc đảng-toàn trị giết người nhiều hơn các chế độ tôn trọng nhân quyền ; các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác qua nhiều thế hệ đậm hơn, sâu hơn, rộng hơn các chế độ dân chủ, biết tôn trọng nhân quyền.
Cải cách ruộng đất : tội phạm cầm dân tội ác cầm cân
Tội phạm học khi tìm hiểu nguyên nhân của tội ác được thể hiện qua hành động của tội phạm trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại trên nạn nhân từ tính mạng cá nhân tới thân thế của gia đình, thân tộc, họ hàng, đồng nghiệp, các thế hệ sau của nạn nhân, thì tội ác gây ra trong giai đoạn của Cải cách ruộng đất 1956-1958 đã có nhiều chứng từ nhưng vẫn còn nhiều ẩn số. Chính các ẩn số này giúp nghiên cứu, điều tra, khảo sát của các nghành KHXHNV không chỉ ngừng ở giai đoạn thảm sát các nạn nhân bị quy chụp là địa chủ mà thống kê chỉ phỏng đoán hằng trăm ngàn nạn nhân bị hành quyết. Hãy đi sâu vào các hậu nạn. Tội ác chống đạo lý, chính Cải cách ruộng đất đã gây ra sự rạn nứt trầm trọng trên các tổ chức truyền thống của nông thôn, từ giáo dục tới văn hóa, từ đạo lý tới truyền thống… Diệt tình nghĩa làng xóm để thế vào đó là sự tố cáo lẫn nhau, tạo ra quan hệ từ ngờ vực tới thù hằn, mà nhiều thế hệ mai sau còn phải nhận hậu quả của sự xung đột giữa hai chiến tuyến : một bên là nạn nhân, một bên là tòng phạm với tội ác. Tội ác chống luân lý, qua tổ chức các tòa án nhân dân, trong đó nhân dân chỉ là con cờ bị thao túng rồi giật dây, bị đưa đẩy trong nhào nặn để tham dự vào một tội ác mà họ là nạn nhận-đồng loã. Từ đây, họ biến thành tác nhân-đồng phạm để ý đồ của Đảng cộng sản Việt Nam được thực hiện trước thành thiên bạch nhật.
Tội ác luôn bồi đắp cho tội ác
Tội ác liên thế hệ, mà Cải cách ruộng đất tạo dựng nên trong một thời gian dài trên môt không gian rộng của miền Bắc, đó là tội ác thuộc hành chính và cơ chế. Từ đây tạo phân biệt đối xử để truy đuổi các thế hệ sau của các nạn nhân đã bị giết : con cái, cháu chắt vẫn bị loại bỏ khỏi trong nhiều sinh hoạt xã hội, bị trừ khử trong nhiều ngành nghề, bị tiếp tục truy lùng qua các lần thi cử, tuyển sinh. Tội ác luôn bồi đắp cho tội ác để khỏa lấp cái ác của tội ác, qua các chiêu trò bày biện giả tạo của phê bình và tự phê bình của các đảng cộng sản, từ khi chủ nghĩa cộng sản biến thành phong trào cộng sản để cướp chính quyền một cách sắc máu nhất trên nhiều quốc gia trong thế kỷ XX. Trong trường hợp của Việt Nam, thì các chuyện như : Hồ Chí Minh "giả dạng" đứng khóc trước quần chúng để xin lỗi các sai lầm trong Cải cách ruộng đất ; Trường Chinh "bị cắt chức" tổng bí thư… như để xác nhận các sai lầm trong Cải cách ruộng đất. Thực chất chỉ là những màn kịch thô thiển để che lấp một tội ác mà Việt tộc cần đòi hỏi công pháp phải bảo vệ công lý cho tới nơi tới chốn, vì công chứng hóa tội ác này vẫn chưa hề trễ, nếu một chính quyền liêm chính mới ra đời thì có thể thực hiện các quy trình nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của tội phạm học.
Phản xạ gây tội ác để thuần hóa dân chúng
Tội phạm học đóng góp tích cực vào quá trình từ nghiên cứu tới khảo sát, từ điều tra tới điền dã, từ phân tích tới giải thích, từ giải luận tới diễn luận, đóng góp của tội phạm học có mặt trong tìm hiểu sự thật, cùng lúc thấu hiểu cường độ của tội ác, tìm hiểu chân lý, cùng lúc thấu hiểu mật độ hành sát của tội phạm.Từ đây, tội phạm học làm sáng lên liên minh của sự thật và chân lý để làm rõ lẽ phải là các chế độ của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) mang bản chất toàn trị từ hành vi tới hành động, có phản xạ gây tội ác để thuần hóa dân chúng. Các chế độ độc đảng-toàn trị mang phản ứng dễ dàng gây tội ác vì không có công lý nghiêm minh của tam quyền phân lập như các chế độ dân chủ.Các chế độ độc đảng-toàn trị không có tam quyền phân lập, không có dân chủ, nên có phản xạ và phản ứng truy hiếp nhân dân, vì không có lý trí, không có trí tuệ, không có tuệ giác về nhân quyền. Tội phạm học tổng quan sẽ kết luận được là các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác nhiều hơn các chế độ dân chủ, các chế độ độc đảng-toàn trị giết người nhiều hơn các chế độ tôn trọng nhân quyền. Các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội phạm qua nhiều thế hệ đậm hơn, sâu hơn, rộng hơn các chế độ dân chủ, biết tôn trọng nhân quyền.
Nhân Văn – Giai Phẩm : diệt nhân tri, hủy nhân tính
Tội phạm học nhận ra các thủ đoạn thâm, độc, ác, hiểm của đám lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ 1954 tới 2000. Đây là một đoạn đường dài của đời người, một giai đoạn dài trong lịch sử tội phạm của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Khi cái ác cầm quyền để cái độc bỏ tù dai dẳng các nạn nhân của nó, để truy cùng diệt tận từ nghề nghiệp tới sáng tạo, từ cá nhân tới gia đình, từ lý lịch cá nhân tới quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, một loại tội ác vừa thường trực trong cuộc sống hằng ngày, vừa thâm sâu ngay trong tư tưởng qua khủng bố với cường độ cao của bộ máy công an trị. Những khủng bố thường xuyên sau vòng lao lý với các tên gọi khác nhau là trại học tập, trại cải tạo… là một giai đoạn dài của một thủ đoạn bạo quyền qua cơ chế song hành cùng tà quyền qua hành chính để vô hiệu hóa sáng tác giới văn nghệ, cô lập hóa cá nhân, lũng đoạn hóa đời sống gia đình, thân quyến của văn nghệ sĩ. Mỗi trí thức trong nhóm Nhân Văn : Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đều chịu chung một số phận là không được sống với học thuật, cụ thể là không được tiếp tục nghiên cứu trong chính chuyên nghành của mình. Khủng khiếp hơn nữa là sự khủng bố trên các văn nghệ sĩ : Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, kể cả Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Bính… thường xuyên và lâu dài, áp chế tâm thần các nạn nhân, mà hậu quả là nỗi lo sợ bị khủng bố, bắt bớ, tra tấn bất cứ lúc nào, ảm ảnh cả đời người. Thí dụ rõ nhất là trường hợp của Trần Dần, đặt sẵn các hành lý cá nhân, chuẩn bị là bị bắt bất cứ lúc nào.
Nhóm xét lại : diệt đối trọng để hủy đối luận
Trước hai tội ác là Cải cách ruộng đất và Nhân văn giai phẩm, thì tội ác thứ ba xảy ra trong giai đoạn nội chiến Bắc-Nam (1954-1975), với sự hiện diện của quân đội Mỹ, chiến dịch "chống xét lại" ra đời để truy diệt những nhân tố muốn thay đổi đường lối sắc máu của Đảng cộng sản Việt Nam, bị quy chụp là nhóm xét lại. Vụ án này, khác với hai thảm họa trước là một cuộc thanh trừng ngay trong nội bộ của những người cộng sản, mà chuyên chính vô sản kiểu Đảng cộng sản Việt Nam đã để lộ nguyên hình tính chất thanh trừng như truy sát, không thương tiếc các đồng chí, từ đó biến phản xạ thanh trừng truyền thống nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời điểm này là cặp bày trùng Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, cả hai đều chủ mưu để độc quyền hóa độc tài-toàn trị, với tên đồ tể là Lê Đức Thọ, một nhân vật thao túng từ Trung ương đảng tới Bộ Chính trị, vây siết chính phủ để tóm gọn chính quyền. Qua quyền lực của Ban bí thư trung ương và Ban tổ chức trung ương được cá nhân hóa trong tay tên đồ tể này, với độc quyền sử dụng công an và tình báo trong quá trình quy chụp các nạn nhân rồi hãm hại họ, trong đó có ám sát, có thủ tiêu, thanh trừng và thanh toán các đồng chí của họ. Các nạn nhân của nhóm xét lại bị tù đày vô hạn định, không được xét xử, không có tòa án, với sự vắng mặt tuyệt đối của tư pháp, của tòa án, và nhất là sự im hơi lắng tiếng trong toàn bộ của các đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Truy diệt sự khác biệt
Khi tội phạm học đi sâu vào quan hệ quyền lực giữa các lãnh đạo cấp trung ương, các kết quả điều tra về sử tính của Đảng cộng sản Việt Nam cho xuất hiện các hằng số : Tội ác thượng tầng. Tội phạm học không ngưng đọng lại tại hạ nguồn để chỉ nghiên cứu về hình sự của tội phạm, mà nó phải trở lên thượng nguồn thật xa để điều tra thật sâu, khảo sát thật rộng về các chính sách tổ chức chiến tranh như các quyết sách, như một loại tử sách của lãnh đạo chính trị đưa dân tộc, đẩy bao thế hệ thanh niên vào tử chiến, vào chỗ chết ! Chính ý đồ chiến tranh làm nên ý độc của tử chiến là thượng nguồn của tội ác cấp quốc gia, ở đây các lãnh đạo chính trị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm và phải được phân xử công minh từ sử học tới công pháp. Lịch sử của các độc đảng-toàn trị từ thế kỷ XX tới nay là lịch sử của tội ác tồn tại qua tội luận là : diệt cái khác biệt, từ chính kiến tới xã hội, từ tín ngưỡng tới tôn giáo… lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam không nằm ngoài quy luật này. Đảng cộng sản Việt Nam từ trước 1945 tới lúc độc trị trên toàn bộ xã hội Việt từ 1975, thì nó chưa một ngày nào ngưng nghỉ trong quá trình tiêu diệt cái khác biệt, đã và đang đi ngược, đi ngoài vong kiềm tỏa của nó ; nhất là khi cái khác biệt tới từ hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu, đa đảng). Đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng gây tội ác, và tội ác của nó phải được nghiên cứu như phản xạ của nó giờ đã thành truyền thống của nó.
Truyền thống truy diệt đối thoại
Đảng cộng sản Việt Nam có truyền thống về tội ác, đó là truyền thống truy diệt đối phương, không những bị xem là đối thủ, mà chóng chầy bị xét xử như kẻ thù để phải mang kiếp tử tù. Ngay khi chưa cướp được chính quyền, Đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức thanh trừng có hệ thống, một cách máy móc các đảng phái chính trị không đi cùng đường với nó. Các đảng phái quốc gia đã có nhiều lãnh tụ bị thủ tiêu, kể cả các nhóm Đệ tứ cộng sản strokistes, cũng là nạn nhân của Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm ròng từ khi Đảng cộng sản Việt Nam thành lập 1930 cho tới khi họ cướp được chính quyền 1945. Ám sát hoặc thảm sát, trong nước và ngoài nước, các hội, các đoàn, các nhóm, các phái trong phong trào Việt kiều tại Pháp trong giai đoạn đệ nhị thế chiến cũng bị chiêu dụ rồi lôi kéo vào quá trình gây tội ác này do Đảng cộng sản Việt Nam điều hành và hoạt náo. Trong đó có những cuộc thanh trừng bằng thảm sát giữa các nhóm lính thợ (maind’oeuvre indigène) tại các trại miền Trung và miền Nam nước Pháp trong giai đoạn 1941-1944. Truyền thống tận diệt mọi chống đối, tới từ các ý định muốn làm khác, các ý muốn đi còn đường khác với Đảng cộng sản Việt Nam, đều bị trực tiếp hay gián tiếp trừ khử.
Dùng tội ác để tổ chức lại nội bộ
Đảng cộng sản Việt Nam muốn giữ địa vị độc tôn trên chính trường, với sự hỗ trợ của các đảng cộng sản anh em, mà cũng là những sát thủ như họ. Những ý nguyện mở ra đối thoại, tạo ra đối luận với Đảng cộng sản Việt Nam trước sau đều bị vùi dập rồi thủ tiêu bằng tội ác, và trong các nạn nhân là các trí thức luôn chủ trương bất bạo động của các hội, các đoàn, các nhóm, các phái không theo cộng sản, số lượng nạn nhân của các cuộc thanh trừng này trải dài trong lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam từ trước đến nay. Truyền thống sát hại sự khác biệt, ngay như sự khác biệt có nguồn gốc của văn hóa, lịch sử, giáo dục… không hề dính dáng gì tới chính trị hay đe dọa gì tới quyền lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó giới văn nghệ sĩ muốn tự do sáng tác, hoặc tự chủ ngay trên các đề tài sáng tạo của mình cũng là nạn nhân của Đảng cộng sản Việt Nam. Sau cuộc truy cùng diệt tận nhóm Nhân Văn giai phẩm, nhiều cá nhân trí thức hoặc văn nghệ sĩ liên tục bị trừng phạt, trừ khử, có khi bị thủ tiêu nếu đi ngược hoặc đi khác đường lối toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Thanh trừng nội bộ vẫn là hằng số của Đảng cộng sản Việt Nam, với ba thành phần nạn nhân của ba hệ nội. Thanh trừng nội bộ giữa các lãnh đạo, cụ thể là giữa các bè nhóm cấp trung ương, nơi mà nạn nhân tăng lên, nhân lên trước mỗi kỳ chuẩn bị các đại hội Đảng cộng sản Việt Nam. Các tướng quân đội, các ủy viên trung ương, tại đây dùng tội ác để tổ chức nội bộ, thêm bớt lại nhân sự.
Truy sát chính các đồng chí của mình
Cái ác cho ra đời hành động truy sát chính các đồng chí của mình, giờ đã thuộc về bản chất và phản xạ của các lãnh tụ trung ương, luôn dùng nhân lực của Bộ Công an cùng các cục tình báo pha lẫn với nhân sự của Ban bảo vệ trung ương để làm nhiệm vụ ám sát, sát hại các đối thủ. Quá trình này không hề ngừng nghỉ với các nhóm lợi ích hiện nay trong thế kỷ XXI này, được tổ chức cụ thể như các tập đoàn tội phạm, với bản chất mafia. Sát hại lẫn nhau qua nhân lực của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, mà các nạn nhân hiện nay, ngoài các tướng, các ủy viên trung ương, còn có các doanh nhân, các nhà tài phiệt, các "đại gia" sân sau của nhóm bại này mà không phải của nhóm thắng kia. Thanh trừng nội bộ giữa các cấp địa phương, tiêm nhiễm và ảnh hưởng vừa là bản chất vừa là phản xạ từ các đàn anh trung ương, các lãnh đạo địa phương không thống nhất trong quá trình chia chác từ tham ô qua tham nhũng, cũng sãn sàng sát hại, truy diệt nhau ở cấp địa phương, cấp tỉnh, cấp thành phố… qua các thủ đoạn của tội ác được trá hình như thuốc độc, các tai nạn giao thông… mà đàn anh trung ương đã sử dụng như "cơm bữa", như "đi chợ". Thanh trừng nội bộ giữa hai đảng"anh em" (Đảng cộng sản Trung Quốc đàn anh, và Đảng cộng sản Việt Nam đàn em), mà đàn anh là kẻ tính toán, chỉ đạo, giật dây qua hai thủ đoạn : Đảng cộng sản Trung Quốc mời những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đang chống hoặc đi khác ý đồ của mình qua các chuyến thăm, sau các cuộc họp với Đảng cộng sản Trung Quốc đàn anh, thì các lãnh đạo này của Đảng cộng sản Việt Nam đàn em, lần lượt tử vong bởi các độc xạ nguyên tử, bởi "nhiễm vi trùng lạ".
Truy diệt tôn giáo
Lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam đàn em trong tổ chức nhân sự luôn bị thao túng, điều hành, giật dây, gài bẫy bởi Đảng cộng sản Trung Quốc đàn anh. Đây vừa là phản xạ tội ác trắng trợn, vừa là một dấu chàm điếm nhục của Đảng cộng sản Việt Nam đàn em không bao giờ có tự do, tự chủ để có tự tin và tự lập trước Đảng cộng sản Trung Quốc đàn anh sẵn sàng giết đàn em như giết : sâu bọ, theo ngôn ngữ của các lãnh tụ, các quân sư thời Tam Quốc trong lịch sử của Tàu hoạn. Khi nghiên cứu và điều tra về các tội ác do các tội phạm của Đảng cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản khác trên thế giới trong thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu về tội phạm học phải nhận ra là khi đối diện với hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu, đa đảng) thì Đảng cộng sản Việt Nam không bao giờ chọn hệ đối (đối chiếu để đối chứng, đối thoại để đối luận), mà ngược lại họ sẵn sàng gây tội ác để diệt vừa hệ đa, lẫn hệ đối như diệt các đối kháng bằng bạo lực của tội ác. Lịch sử của các đảng cộng sản từ thế kỷ XX tới nay là lịch sử của truy hại tôn giáo bằng những thủ đoạn trực tiếp hay gián tiếp được chủ mưu và bày biện bởi tội ác. Để phục vụ không những ý thức hệ vô thần của Đảng cộng sản Việt Nam, mà chủ yếu là tiêu diệt tín ngưỡng rồi tiêu hủy niềm tin, để mở đường cho tuyền truyền một chiều ngu dân do tuyên giáo tổ chức và chỉ đạo, để thay thế cùng lúc cả ba : tôn giáo, tín ngưỡng, niềm tin… Lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam chưa hề ngừng quá trình truy hại tôn giáo dựa trên quy luật này, từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền 1945 tới lúc độc trị trên toàn bộ xã hội Việt 1975.
Độc trị của tuyên giáo độc ngôn
Khi lập đồ hình phân tích các nạn nhân tôn giáo, hãy phải định vị ít nhất ba chỉ báo, để có chỉnh lý từ điều tra tới điền dã, để có hợp lý từ phân tích tới giải thích, để được toàn lý trong tổng kết các hậu quả truy hại tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ báo thực cảnh, từ khi chưa cướp được chính quyền tới khi có chính quyền toàn trị trong độc đảng, chính thực cảnh làm nên bối cảnh của độc trị. Đảng cộng sản Việt Nam dùng chiêu trò thành lập Việt Minh để sử dụng và thao túng như một mặt trận rộng rãi, trong đó các tôn giáo có mặt để tập hợp được số đông quần chúng ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ báo thực chất của chính quyền cộng sản độc đảng trong chuyên chính và toàn trị lên toàn thể sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, dựa trên thực tế của hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn), từ đây không có chuyện phân chia quyền hạn giữa các tôn giáo và quyền lực độc đảng. Chỉ báo thực trạng, tới từ hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn), tại đây chuyên chính của hệ độc không nhân nhượng với bất cứ tôn giáo nào, không nương tay với bất cứ tín ngưỡng nào, không thỏa hiệp với bất cứ niềm tin nào, từ đó tạo ra thế độc tôn của tuyên truyền độc đảng. Trong độc trị của tuyên giáo độc ngôn, ở đây độc mang hai nghĩa : chỉ có nó là độc nhất để độc tài, nên nó là mảnh đất độc ác, để cái độc xuất hiện cùng cái ác.
Quá trình truy hại tôn giáo
Quá trình truy hại tôn giáo, từ thái độ tới cách hành xử, từ hành vi tội ác tới hành động tội phạm rất khác nhau giữa các nạn nhân tôn giáo. Thiên chúa giáo liên tục và thường xuyên bị đàn áp, khủng bố, truy hại như là một lực lượng tín ngưỡng tới đất Việt qua con đường truyền đạo, đã là kẻ thù của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Mặc dù Thiên chúa giáo không mang bản chất chính trị, nhưng thiên chúa giáo trực tiếp hay gián tiếp mang nội dung của nhân quyền và văn minh của phương Tây, lại có giá trị về vị tha được cổ vũ bởi kinh nghiệm lâu đời của dân chủ, trong đó có tự do ngôn luận. Thiên chúa giáo mang ý nghĩa nhân văn có nền là nhân bản trên một đức tin là thượng đế, một phạm trù tâm linh mà các lãnh đạo công sản vô thần không chấp nhận khi họ luôn đi trên con đường cướp chính quyền bằng bạo lực của cái ác. Với thảm kịch của Phật giáo : mê tín cầu vong, Phật giáo thương mại vì tiền, Phật giáo quốc doanh với sư công an… Cao Đài và Hòa Hảo đã là nạn nhân của Đảng cộng sản Việt Nam trong nội chiến Bắc-Nam (1954-1975) qua các cuộc thủ tiêu, ám sát các lãnh tụ của tôn giáo này. Sau 1975 thì Cao Đài và Hòa Hảo bị đàn áp, bị khủng bố trên quy trình toàn diện và vĩ mô, với các chiến dịch trấn áp, khủng bố liên tục. Cao Đài và Hòa Hảo là hai tôn giáo mang thực tiễn địa phương miền Nam không có hậu thuẫn của hệ thống Thiên Chúa giáo quốc tế bảo hộ, không được đông đảo quần chúng hỗ trợ như Phật giáo, nên Cao Đài và Hòa Hảo đang là nạn nhân của các tội ác bất nhân nhất hiện nay tại miền Nam của đất nước.
Quá trình truy hãm dân tộc thiểu số
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt chế độc độc đảng-toàn trị lên toàn lãnh thổ, thì các dân tộc thiểu số miền cao, miền xa là những nạn nhân thường xuyên những tội ác, trên nhiều lĩnh vực. Trong đó : tài nguyên thiên nhiên luôn bị khai thác, tàn phá, nhiều nơi bị tận diệt ; môi trường sống luôn bị tấn công, đe dọa, truy diệt. Những chính sách mang tính bày biện là bảo vệ, văn hóa, truyền thống, ngôn ngữ cho các dân tộc thiểu số đi cùng với các chính sách hỗ trợ về giáo dục và thi cử chỉ là trò mị dân. Bởi vì khi tài nguyên thiên nhiên nuôi sống họ, khi môi trường cùng môi sinh dính liền với sự sống còn của họ bị đe dọa bởi bạo quyền trung ương, bởi tà quyền tham quan, bởi ma quyền tham đất, tham mỏ, tham quặng, ngày ngày đe dọa sinh sinh tồn của họ. Chính vì không có đường sống trước các tội ác chiếm tài nguyên, chiếm đất của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, mà họ đứng lên đòi hỏi công bằng. Và, bạo lý của Đảng cộng sản Việt Nam đã trả lời bằng các vụ bắt bớ, đẩy các nạn nhân này vào vòng lao lý, mà các chứng nhân đã thuật rõ sự dã man của công an khi tra tấn họ, để họ phải ký vào các lời khai không căn cứ là họ "chống chính quyền cách mạng", "nổi loạn đòi tự trị", sự thô bỉ đến tàn mạt đã dẫn cái ác tới cái tội thảm sát đồng bào Hmong năm 2011. Hiện nay, người dân tộc là nạn nhân của tội ác cướp tài nguyên, cướp khoáng sản, cướp đất đai đang sống trong nơm nớp lo sợ tại Thái Lan, lo sợ bị trục xuất và trả về lại Việt Nam.
Truy vong tù nhân lương tâm
Nhà tù hiện nay của chế độ độc đảng toàn trị không có những mục đích luật pháp và xã hội chính đáng của một công pháp bình thường là : cách ly tù nhân với xã hội, mà vẫn bảo đảm quyền tính mạng của họ, Hướng nghiệp tù nhân, để tạo điều kiện trở thành công dân đúng và tốt, tạo điều kiện tích cực cho quá trình tái hội nhập xã hội khi mãn tù… Mà ngược lại nhà tù hiện nay của chế độ độc đảng-toàn trị được tổ chức như hiện cảnh của một địa ngục trần gian, tạo nên bối cảnh thuận lợi để tội ác xuất hiện với điều kiện giam cầm khắc khe, mà theo nhân chứng nó còn tồi tệ hơn nhiều lần so với các nhà tù thời thực dân của thế kỷ qua. Xếp đặt phản công lý và tổ chức phản nhân quyền đến độ bất nhân khi giam các tù nhân lương tâm cùng với các tù hình sự. Ngược đãi tù nhân hình sự, đặc biệt là dùng nhà tù để "trả thù" bằng những thủ đoạn tồi tệ nhất các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền-đây chính là số phận của các tù nhân lương tâm hiện nay. Nhà tù thời nay của chế độ độc đảng toàn trị là ổ của buôn lậu, tham nhũng, bóc lột. Buôn lậu ma túy công khai dưới sự tổ chức của các quản giáo, và cai tù như một nguồn lợi nhuận bán công khai.Tham nhũng thực phẩm nuôi tù nhân, bằng cách vừa thu hồi thực phẩm thăm nuôi của các giá định tù nhân, vừa bắt ép các tù nhân phải dùng thực phẩm bán tại nhà tù với giá cao, tạo nên khó khăn tài chính bất thường vừa cho tù nhân, vừa cho gia đình họ.
Hình sự hóa lương tri
Nhà tù hiện nay của chế độ độc đảng toàn trị là chế độ lao động ngặt nghèo, với sự bóc lột sức lao động của tù nhân qua các sản phẩm mà họ làm ra, để làm giầu cho bọn quản giáo và cai tù… Nhà tù hiện nay của chế độ độc đảng toàn trị là nơi truy vong, tạo ra cái chết ở mức độ cao và cường độ mạnh, mà các hội đoàn quốc tế về nhân quyền biết rất rõ : sử dụng tù hình sự để hành hạ, hành hung, kể cả hành sát các tù nhân lương tâm, với sự tổ chức công khai của ban giám đốc nhà tù. Sử dụng điều kiện sống hằng ngày, từ thiếu thực phẩm tới thiếu vệ sinh để đầy dọa, vùi dập các tù nhân lương tâm theo quy trình "trả thù" đê tiện. Sử dụng các nhà tù xa nhà, xa nơi ăn chốn ở của gia đình tù nhân, cũng trong mục đích hành hạ, đầy dọa các gia đình của những tù nhân lương tâm. Các quốc gia đã và đang bị địa ngục trần gian của độc tài-toàn trị, thì tội phạm học luôn bị cấm đoán và truy nã. Đối với thảm trạng độc đảng-toàn trị của Việt Nam hiện nay, thì các nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về các nhà tù với dữ kiện khách quan qua phân tích và giải thích chỉ thực hiện được thật đầy đủ khi Đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ.
Truy hủy Việt tộc : (Lê Duẩn) "Đánh thay cho Liên Xô và Trung Quốc"
Với não trạng của tín đồ vô điều kiện với hai đàn anh đầu sỏ lãnh đạo phong trào cộng sản của nửa cuối thế kỷ XX. Chỉ một não trạng cá nhân, đã kéo theo một tập thể mà cụ thể là Bộ Chính trị thời bấy giờ, cùng lúc kéo cả một dân tộc, cả hai miền Bắc và Nam vào một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, với nhiều triệu nạn nhân đã phải nhận cái chết. Với khoảng cách lịch sử cần thiết về thời gian, sau khi đất nước thống nhất, thì não trạng "thí dân, thí nước" để đánh thay cho Liên Xô và Trung Quốc, mà hai tên đầu sỏ phong trào cộng sản thế giới này đã có xung đột với nhau về chính sách quốc tế cũng như tư lợi của chúng ngay trong khi cuộc chiến chống Mỹ (1954-1975). Để sau đó Việt Nam phải nhận hai cuộc chiến tiếp theo : biên giới Tây Nam chống Khmers đỏ bắt đầu năm 1977, biên giới phía Bắc chống Trung Cộng bắt đầu năm 1979, với bao ngàn nạn nhân đã chết. Đây không phải chỉ là chuyện đánh giá sai tình hình của Lê Duẩn về các tư lợi của các đảng cộng sản, sẵn sàng dẫn dắt đồng chí không đồng chính kiến với mình vào tử lộ ; mà còn là một loại não trạng hiếu chiến trong tử lộ với sinh mạng của chính đồng bào mình : không hề là một ưu tiên trong quá trình cân nhắc (lý luận tỉnh táo-đề nghị sáng suốt-thảo luận khách quan-quyết định chính chắn-hành động liêm sỉ) dựa trên nhân tính lãnh đạo làm nên nhân đạo chính trị mà một tổ chức chính trị (đảng, bè, phái…) phải có khi buộc đi vào tử lộ của chiến tranh.
Với nhiều triệu nạn nhân trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn
Một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, với nhiều triệu nạn nhân, không có nội dung đạo lý, không có ý nghĩa luân lý, không có tư tưởng đạo đức cho tương lai của dân tộc và đất nước ; mà chỉ để lại một chế độ toàn trị dựa trên hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị). Nơi mà tuyên truyền "chiến thắng chống Mỹ", "thống nhất đất nước", "xây dựng đất nước mười lần giàu đẹp hơn"… chỉ để lại một thực trạng hiện nay là của một đất nước cạn kiệt tài nguyên với ô nhiễm môi trường trầm trọng, với một dân tộc nheo nhóc trong túng quẫn, với xuất khẩu lao động để làm lao nô, nô tỳ… cho các nước láng giềng với vị thế quốc tế tủi nhục nhất. Tất cả thực trạng này nằm trong một tâm trạng chung của một Đảng cộng sản Việt Nam : hèn với giặc, ác với dân, đã và đang mở đường cho Tàu tặc làm ra Tàu họa, Tàu tà sinh ra Tàu nạn… đang phủ trùm lên số phận của Việt tộc. Thấy và thấu nguồn của nó luôn ở cấp thượng tầng, tiếp tục gây ra tội ác trong những năm tháng tới tới hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) với một hệ thống công an trị tiếp tục gây tội ác với nhân dân, nhất là với các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền cho một tương lai của công bằng, tự do, bác ái.
Một tập đoàn lãnh đạo diệt dân ở nhiều mức độ khác nhau
Đảng cộng sản Việt Nam mở đường cho ngoại xâm, trước là cõng rắn cắn gà nhà, sau đó là mang voi về dày mả tổ qua hệ tham (tham quan vì tham quyền, tham ô rồi tham nhũng, tham đất để tham tiền), một bọn nội xâm buôn chức bán quyền để sau đó là buôn dân bán nước. Tội phạm học không ngừng ở các "vở kịch" chống tham nhũng kiểu "đốt lò" của Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, mà tội phạm học phải lần tìm gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích dây mơ rễ má của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị như một tập đoàn lãnh đạo sát nhân), sẵn sàng thí dân, thí nước qua chiến tranh, tạo ra nội chiến để thực hiện một ý thức hệ ngoại lai, phản dân tộc. Như một tập đoàn lãnh đạo tội nhân, tiếp tục dùng công an trị để đàn áp, khủng bố, truy diệt những công dân yêu công bằng, quý tự do, trọng dân chủ, nâng nhân quyền. Như một tập đoàn lãnh đạo tư lợi của các nhóm lợi ích, được tổ chức như những mafia, sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau qua phản xạ bạo lực di truyền của cộng sản là thanh trừng nội bộ, bất chấp công lý, khinh miệt công pháp, xem thường công luận. Như một tập đoàn lãnh đạo diệt dân ở nhiều mức độ : nhắm mắt mà vơ vét tiền tham ô mặc cho Tàu tặc đang xâm lấn đất, biển, đảo ; cúi đầu mặc cho Tàu họa ô nhiễm môi trường, truy diệt môi sinh của đất nước, khoanh tay mặc cho Tàu họan đưa tràn lan thực phẩm bẩn, hóa chất độc cùng với các công nghiệp nhiệt điện, hóa học, luyện thép đầy tội lỗi, gây ra ung thư cấp làng, cấp vùng, rồi cấp quốc gia.
Truy sát nguyên khí quốc gia
Không ngừng ở mức độ cá nhân gây ra tội ác, mà đi xa để đi rộng, đi sâu để đi cao lên tới thượng tầng lãnh đạo, nơi trung tâm của các bạo ý đã trở thành quyết sách, các tà ý đã thành chính sách, các qủy ý đã thành tử sách đã và đang đưa Việt tộc vào tử lộ ! Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền (1954-1975), xuất hiện một chuỗi hệ luận của tội ác mà những kẻ cầm quyền đã tự cho phép chúng gây tội ác mà không ai được buộc tội chúng là tội phạm. Tư duy tội ác của bọn lãnh đạo này là : "thí lính", "nướng quân" trong các chiến dịch, trên các mặt trận mà sinh mạng đồng bào của chúng bị đặt thấp hơn chiến thắng trên chiến trường để phục vụ chiến sách của chúng, từ đó mọi chiến thắng phải phục vụ ý đồ dùng tử lộ của lính, của quân như các con cờ để chúng đấu giá, mặc cả, thương lượng cho quyền lực và quyền lợi của chúng. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam gây ra trong cả thế kỷ XX thì không ngừng lại trong khuôn khổ của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, giữa hai miền (1954-1975), mà phải đi trở lên thượng nguồn từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam dẫn tới chiêu bài Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Chính trong thời điểm này đã có nhiều sự cố xác nhận quá trình "thí lính", "nướng quân", nơi mà mạng sống của các thế hệ thanh niên đã bị sử dụng trong tham vọng "phải giành chiến thắng bằng mọi giá", vận dụng trong ý đồ "phải tới toàn thắng bằng mọi giá".
Đồ hình và hậu nạn của tội ác
Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, giữa hai miền (1954-1975), quy luật độc đảng trong toàn trị, thì bọn lãnh đạo tự cho phép mình độc đoán trong quyết định, mặc cho hậu quả độc hại đến với đồng bào, dân tộc, đất nước. Nơi đây, hằng số "quyết chiến" song hành cùng hàm số "quyết thắng" cho xuất hiện một ẩn số trong tư duy (bất nhân) của kẻ lãnh đạo là : "tử chiến"- với mạng sống của lính, của quân, chớ không phải của chúng. Tội phạm học khi khảo sát các sự cố "thí lính", "nướng quân" tới từ các tướng bất tài, từ các quyết đoán hồ đồ tới bất nhân của lãnh đạo, các tiên đoán sai lầm của việc dùng quân. Hậu quả của "thí lính", "nướng quân" tiếp tục xẩy ra trên chiến trường Tây Nam chống bọn diệt chủng Khmers đỏ sau 1977, và bọn Tàu tặc 1979. Không được quên sự hy sinh làm bia đỡ đạn cho quân thù Tàu tặc tại Gạc Ma, nơi mà tên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lúc đó đã cấm các chiến sĩ giữ đảo được nổ súng để tự bảo vệ, nếu tên này trực tiếp tạo ra tội ác, thì phải sử hóa hành động phản bội của nó như một tội đồ. Thống kê hóa để định lượng là vai trò của tội phạm học phân tích, không ngừng ở hình sự hóa cá nhân, mà phải đi xa, rộng, dài, sâu hơn nữa để tới một phân tích định lượng về thiệt hại nhân mạng quá lớn lên số phận của Việt tộc cả thế kỷ XX.
Tội ác vẫn đang nối đường cho tội ác
Các diễn luận từ đạo lý tới công lý, từ sinh mạng tới tòa án, từ thống kê hóa tới sử hóa một cách khách quan nhất. Đối với Việt tộc, các kết luận sau đây vẫn chưa được minh bạch hóa các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có tòa án công minh để xử chúng ; các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có sử luận khách quan về chúng ; các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có công pháp quốc tế nhận diện chúng. Trên các nhận định này, lý luận của tội phạm học tổng quan, đề nghị nghiên cứu, điều tra phải tới các nhận định khác : định lượng thiệt hại về tính mạng quá lớn trong chiến tranh so với số phận nghèo nàn trong nheo nhóc hiện tại của Việt tộc. Định lượng thiệt hại về tính mạng quá nhiều trong thời chiến so với các điều kiện vật chất và tinh thần hiện tại mà Việt tộc đang có. Định lượng thiệt hại về tính mạng quá dài trong chiến sự so với chế độ độc tài nhưng bất tài hiện nay, ngày ngày đẩy Việt tộc vào ngu dân trong tuyên truyền. Chế độ độc tài hiện nay không hề có ý thức về sự thật của tội ác, để sáng suốt ra, không hề có nhận thức về tội phạm đang cầm quyền, để làm rõ lịch sử. Nên tội ác vẫn đang nối đường cho tội ác, để tội ác tự nối dài trên số phận của Việt tộc !
Bạo trị : tội ác của công an
Tội phạm học phân tích phải biết đường đi nước bước để tìm tới tội phạm học định hướng nhân bản, mà rõ các định đề của nhân quyền, biết lấy nhân vị của tự do để bảo vệ nhân bản và nhân văn ; có nhân tri của dân chủ để bảo đảm nhân lý và nhân tính ; nhận nhân đạo của bác ái để bảo hành nhân tâm và nhân từ, tất cả hệ nhân này phải trực tiếp phục vụ cho : nhân phẩm để chống lại tội ác, vô hiệu hóa tội nhân, vô dụng hóa tội đồ, cô lập hóa toàn bộ liên kết tội ác-tội nhân-tội đồ. Với hàng trăm nạn nhân hàng năm bị hành hung, tra tấn cho tới mất mạng trong các đồn công an, và xã hội sẽ không tính được bao nhiêu nạn nhân khác bị tra tấn đến trọng thương, khi về lại được gia đình chỉ vài ngày là tử thương. Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia có thống kê tử xuất trong các đồn công an cao nhất. Đây là một thực tế với các chứng tích về một loại tội ác chỉ có trong các chế độ độc đảng-toàn trị, nơi mà pháp luật của dân chủ, công lý của nhân quyền không sao tới được để bảo vệ các nạn nhân nằm trong bàn tay giết người của cả một hệ thống công an trị, bất chấp công lý.
Hành hung-hành sát : giết người trong đồn công an
Tội ác giết người trong các đồn công an, phải được tội phạm học khảo sát và điều tra qua ít nhất là ba định hướng đã làm nên tầm vóc của chuyên ngành này, khi nó nghiên cứu về các chế độ độc đảng-toàn trị, kiểu Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba và Việt nam. Nạn nhân tràn lan, nơi mà tội ác tới từ công an trị luôn được bảo kê và bao che bởi độc đảng-toàn trị, nơi mà chính các thủ phạm là công an có đầy đủ ý thức khi giết hại dân chúng với khẩu hiệu của bảo hộ độc đảng-toàn trị : "còn đảng, còn công an". Hậu nạn không tư pháp, nơi mà tòa án cùng công lý không có các điều kiện bình thường để điều tra về thực cảnh của tội ác, hành vi của tội phạm, từ đó kiểm tra về bản chất của cái ác trong tay các công an khi cái ác quyết định cái độc "đòn thù" của công an đã dẫn đến cái chết.
Hệ lụy của tử nạn, thân nhân của nạn nhân muốn biết sự thật trong các đồn công an đã gây ra cái chết, thì họ sẽ bị một hệ thống tư pháp là công cụ đã bị thuần hóa bởi cơ chế độc đảng-toàn trị, ngăn cản không cho tiếp nhận sự thật về tội ác. Thủ phạm chính là công an, những kẻ nhận nhiệm vụ phải bảo vệ công dân, nhưng làm chuyện ngược lại là giết dân.
Tội ác công an trị và tội ác độc đảng-toàn trị chỉ là một
Đưa ánh sáng của chân lý, để công lý nhận định được tội ác công an trị và tội ác độc đảng-toàn trị chỉ là một ; nơi mà tội ác công an trị là hạ nguồn của tội ác độc đảng-toàn trị là thượng nguồn, chính cái ác của lãnh đạo làm ra tội ác của công an để bảo vệ nó. Tội ác công an trị và tội ác độc đảng-toàn trị chỉ là một ; nơi mà tội ác công an trị là hạ tầng của tội ác độc đảng-toàn trị là thượng tầng, nơi mà chính sách của độc đảng-toàn trị đã mở cửa, đặt nền, dựng tường, che mái cho các tội ác của kẻ giữ cửa, giữ nhà, giữ đất, giữ quyền cho độc đảng-toàn trị. Tội ác công an trị và tội ác độc đảng-toàn trị chỉ là một ; nơi mà tội ác công an trị là hành động của tội ác độc đảng-toàn trị là ý đồ, nơi mà tội ác đóng đầy đủ vai của nó là lấy cái ác để gieo sợ hãi, diệt đối kháng. Rất nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế có đầy đủ các chứng từ, chứng tích, chứng nhân về một chế độ độc đảng-toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam và một hệ thống công an trị ngày ngày gây ra tội ác. Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng công an để khủng bố, bắt bớ, truy sát… với mức độ và mật độ khốc liệt, nơi mà tội ác đi từ tra tấn bằng cực hình, bằng nhục hình cho tới tổ chức bức tử hay thủ tiêu, những tội ác ngang hàng với những quốc gia độc tài tàn ác bất nhân nhất hiện nay.
Cực hình và nhục hình
Khi nghiên cứu về các tội ác của Đảng cộng sản Việt Nam đang độc quyền trong độc tài của độc trị, đi từ hành hạ tới hành sát chính nhân dân của mình, nhất là các chủ thể yêu công bằng để quý tự do, trọng dân chủ để nâng nhân quyền, thì tội phạm học phải theo các quy trình khách quan của nghiên cứu. Tội phạm học khảo sát và điều tra, nơi mà định chất song hành cùng định lượng, có nền là sự kiện để hiểu sự cố, có gốc là chứng từ tới từ chứng nhân và chứng tích. Tội phạm học phân tích và giải thích, nơi mà phân tích khách quan các sự kiện, sự cố với chứng từ, chứng nhân, chứng tích được đặt trong thực tế của độc đảng, thực trạng của độc tài, thực cảnh của độc trị. Tội phạm học giải luận và diễn luận, chỉ có thể lý luận và lập luận để thấu cái độc hại của tội ác khi hiểu được gốc, rễ, cội, nguồn của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) làm nên cái độc đoán của tội phạm. Tội phạm học giết người để diệt nhân, nơi mà các chuyên gia của tội phạm học chỉ có thể am tường và thấu hiểu cái độc có trong cái ác khi nó quyết định sát nhân (giết người để diệt nhân). Đây là hành động song đôi làm nên hậu quả song lứa của tội ác ; trước hết là giết người tức là diệt sinh mạng để thủ tiêu : thể lực, trí lực, tâm lực của một cá thể không tuân theo hoặc chống đối lại bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Diệt nhân là diệt toàn bộ hệ nhân có trong một cá thể, từ nhân tính tới nhân lý, từ nhân tâm tới nhân từ, từ nhân trí tới nhân trí, từ nhân bản tới nhân văn, từ nhân đạo tới nhân nghĩa, từ nhân vị tới nhân phẩm.
Truy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ và nhân quyền
Các chuyên gia của tội phạm học không chỉ nhìn tội ác đơn lẻ qua hành vi đơn phương của tội phạm, mà phải hiểu để thấu tới nơi tới chốn tội ác của một chế độ độc đảng-toàn trị là tội ác diệt cả một hệ nhân (nhân tính, nhân lý, nhân tâm, nhân từ, nhân trí, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân vị, nhân phẩm) trên cả một mạng chằng chịt, dầy đặc : giết người để diệt nhân. Các nhà hoạt động vì dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam hiện nay là những chủ thể yêu nước thương nòi, những đứa con tin yêu của Việt tộc, cũng chính là những nạn nhân trực tiếp bị hành hung, khủng bố, bắt bớ, tù đày… từ ám hại tới ám diệt. Dưới chế độ độc đảng-toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam thì hệ thống ám hại-ám diệt trùm phủ lên toàn bộ lên đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội không những của các nhân tố đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền, vì công bằng và tự do, mà còn trên cả thân quyến, bạn bè, đồng nghiệp của họ. Đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức hệ thống hệ thống ám hại-ám diệt các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam hiện nay bằng : Các thủ đoạn bất nhân để bảo vệ cái bất chính của nó, vì dân tộc Việt không hề chính thức bầu cho Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo dân tộc và đất nước Việt Nam.
Tội ác là động cơ và động lực để điều khiển bạo quyền, tà quyền, ma quyền
Các hành xử bạo động để bảo hành bạo quyền bất lương của nó, vì nó rất lo sợ trước dân chủ và nhân quyền sẽ dẫn tới đa nguyên, đa đảng. Các ý đồ tà gian để bảo kê tà quyền thâm độc của nó, vì nó muốn giữ đặc quyền âm binh của nó qua tham quyền để tham ô, tham nhũng vì tham tiền. Bạo quyền độc đảng-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền không phải chỉ là ngữ pháp để hiểu thực tế của tội phạm mà còn là mô thức giải thích về nguồn cội của cái ác, làm nên tội ác mà nạn nhân vĩ mô chính là dân tộc và đất nước. Độc tài bất tài-độc quyền lạm quyền-độc trị bất trị không phải chỉ là ngữ pháp để nêu rõ thực trạng của đất nước Việt là Đảng cộng sản Việt Nam độc tài mà còn bất tài trong quá trình phát triển đất nước, để đưa dân tộc tới văn minh. Độc quyền trong lãnh đạo nên lạm quyền để toàn quyền trong hành pháp, để thao túng lập pháp, để thuần hóa tư pháp. Độc trị nhưng không biết quản trị dân tộc bằng công bằng, tự do, bác ái, và bất trị khi sẵn sàng nhúng tay vào tội ác giết người, diệt nhân, hại đồng bào, hủy đất nước.Tội ác là động cơ và động lực để điều khiển bạo quyền-tà quyền-ma quyền.
Trù diệt các phong trào xã hội
Các phong trào xã hội sau đây đã là nạn nhân của tội ác do công an tổ chức, do các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo, nơi mà tội ác đã có mặt và tội phạm là công an luôn được chế độ độc đảng-toàn trị bao che, bảo kê. Phong trào yêu nước qua các cuộc biểu tình chống Tầu tặc cướp đất, biển, đảo, trong đó các người tham dự biểu tình bị đàn áp thẳng tay. Phong trào yêu nước qua các cuộc biểu tình chống ô nhiễm môi trường qua sự cố Formosa đã truy diệt môi sinh của nhiều tỉnh miền Trung, trong đó các người tham dự biểu tình từ phụ nữ tới trẻ em đều bị hành hung. Phong trào tôn giáo để bảo vệ tín ngưỡng thiêng liêng của mình, trong đó các người lãnh đạo tôn giáo bị truy cùng diệt tận ngay trong nơi tu hành của họ. Phong trào Thiên Chúa giáo chống ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra, cũng là phong trào chống Tàu tặc xâm lược, có cùng tâm điểm và cùng có hội tụ với các phong trào đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền. Phong trào đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền cũng là phong trào chống ô nhiễm môi trường, chống hủy diệt môi sinh, cũng là phong trào chống đàn áp tôn giáo, có cùng tâm điểm và cùng có hội tụ với các phong trào về tự do tín ngưỡng. Phong trào Thiên chúa giáo chống ô nhiễm môi trường, phong trào đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền, có cùng tâm điểm để hội tụ với các phong trào tín ngưỡng địa phương Cao Đài, Hoà Hảo, tất cả cùng nhau chống bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, tất cả đấu tranh vì công bằng, tự do, bác ái.
Gian thông công an-côn đồ
Thấy để thấu tại sao độc đảng toàn trị rất lo âu về tính liên kết dẫn tới tính liên minh của các phong trào có mặt trong toàn xã hội dân sự hiện nay tại Việt Nam. Độc đảng toàn trị đã đàn áp tàn nhẫn, khủng bố khốc liệt, bắt bớ tràn làn, tù đày dài hạn, hãm hại với các thủ đoạn bất nhân nhất các phong trào này. Hiện nay với độc đảng-toàn trị, dân tộc Việt khám phá ra một bộ mặt mà không sao tưởng tượng được, là đáy sâu cái ác của chế độ là : công an dùng côn đồ, lưu manh, xã hội đen, lẫn cả tù hình sự đã và đang lãnh án để khủng bố, truy hiếp, sát hại dân lành, mà các kinh nghiệm giờ đây đã thành chứng tích, có chứng từ với chứng nhân. Công an sử dụng côn đồ để hiếp đáp, đánh đập dân oan bị cướp đất, khi họ quyết tâm bảo vệ mảnh đất, mái nhà của họ. Công an phối hợp côn đồ để đàn áp, hành hung các công nhân đình công tại các nhà máy, trong các khu công nghiệp. Công an sử dụng côn đồ để đàn áp, đánh đập các công dân biểu tình vì yêu nước, chống ô nhiễm môi trường. Công an cùng côn đồ khủng bố các nhà đấu tranh vì nhân quyền và dân chủ ngoài đường phố ; hành hung họ trước gia đình ngay trong nhà của họ. Công an mua chuộc và chỉ huy côn đồ để đàn áp, đánh đập các công dân đấu tranh chống các trạm thu phí trái phép.
Khủng bố vừa để trừng trị các nạn nhân
Công an bao thầu và chỉ đạo côn đồ để khủng bố, đáp áp các tu sĩ và tín đồ của các tôn giáo (Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, Tin Lành…). Công an chỉ huy và phối hợp với côn đồ để trấn lột, bắt cóc, hành hung các công dân xuống đường chống Tàu tặc, chống ô nhiễm môi trường.Công an chỉ đạo và bao thầu ngay cả các tù hình sự đang tại án để hành hung, khủng bố, đánh đập các thân nhân đi thăm các tù nhân lương tâm. Công an trực tiếp hướng dẫn côn đồ đàn áp, hành hung, trấn lột các chủ thể thiện nguyện của các hội đoàn từ thiện và các phong trào nhân đạo trên đường cứu trợ các đồng bào nạn nhân của thiên tai, của nghèo đói tại các vùng sâu, vùng xa. Đây chính là hành vi và hành động của tội ác, được tổ chức bởi các lãnh đạo công an từ cấp địa phương tới cấp trung ương, dưới sự chỉ đạo cao nhất là trong Bộ Chính trị. Với ý đồ của một chính quyền độc tài trong toàn trị dùng khủng bố vừa để trừng trị các nạn nhân ở cấp điếm nhục nhất, vừa để gieo nỗi sợ hãi lên toàn xã hội. Tại đây thì chính các chủ thể của xã hội dân sự, mọi thành phần nghề nghiệp, mọi tín ngưỡng… có cùng một nguyện vọng dân quyền trong dân chủ, công bằng trong công lý, nhân phẩm trong nhân quyền phải thực hiện được.
Tội phạm học xâm lược (Tàu tặc-Tàu phỉ-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu phạm-Tàu tà)
Đảng cộng sản Trung Quốc không ngừng ở ý đồ xâm lấn đất, biển, đảo của Việt tộc ; không ngừng ở thâm đồ xâm lược để áp đặt sự thống trị bằng đô hộ rồi nô lệ hóa Việt tộc như Tàu tặc đã thực hiện nhiều lần trong Việt sử. Chúng cũng sẽ không tự ngừng lại ở hiểm ý xâm lăng trọn vẹn đất nước Việt, mà còn biến Việt tộc thành một nô tộc tật nguyền ở mọi mức độ từ thiên nhiên tới tài nguyên, từ thể lực tới trí lực, để các thế hệ Việt tương lai mang đầy khuyết tật của một sắc tộc đã bị thuần hóa. Từ thượng nguồn của ý đồ xâm lấn tới hạ nguồn của thâm đồ xâm lược, để vĩnh viễn nô lệ hóa Việt tộc thì từ sách lược tới chiến lược hiểm ý của Tàu thực hiện một quá trình tội ác tổng hợp (trộm, cặp, cướp, giựt đất biển đảo ; ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh ; đầu độc thực phẩm, buôn người, lấy nội tạng…). Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển, rồi còn bắn giết, sát hại ngư dân Việt trước một Đảng cộng sản Việt Nam nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tầu tặc. Từ ngày quy hàng Đảng cộng sản Trung Quốc qua mật ước Thành Đô, từ đó cho tới nay Tầu tặc đã nắm dao đằng chuôi để Đảng cộng sản Việt Nam phải đứng trước mũi dao để ngày ngày phải : hèn với giặc-ác với dân. Chất tặc của Tàu đã là chất độc sẵn sàng chế ra chất ác, xem mạng sống của Việt tộc không có một giá trị đạo lý gì với chúng, nên chúng ngày ngày bắn giết ngư phủ Việt, chúng vào hoạn lộ của cái ác mà không có một chút lương tâm.
Tàu tặc là bạn vàng, láng giềng tốt, vừa đồng chí vừa là anh em
Ngữ pháp Tàu tặc chỉ bọn cướp có phản xạ giết người để đoạt của, chiếm đất, biển, đảo. Ngữ pháp này dựng nên mô thức giải luận để phân tích và giải thích các quá trình mà tội phạm học phải điều tra, phải khảo sát, phải nghiên cứu sau đó về : Tàu nạn, Tàu hoạn, Tàu họa, để đi đến mô hình diễn luận thế nào là Tàu tà nơi mà thâm, độc, ác, hiểm xuất hiện để biến thành hành động hại, hủy, giết, diệt dân tộc Việt như chúng đã làm liên tục từ nhiều ngàn năm qua trong xâm lược, trong đô hộ, trong đồng hóa, trong ý đồ diệt vong Việt tộc. Một kẻ thù truyền kiếp, mà tổ tiên dặn dò con cháu không được quên, vì chúng có dịp là lập lại tội ác ăn tươi nuốt sống dân Việt, để lấy đất Việt, vậy mà Đảng cộng sản Việt Nam gọi tên chúng là bạn vàng, láng giềng tốt, vừa đồng chí vừa là anh em. Việt tộc đừng trong chờ gì ở Đảng cộng sản Việt Nam đã quy phục để được-và-bị Đảng cộng sản Trung Quốc thuần hóa. Quy phục qua cúi đầu-khoan tay-quỳ gối để được bảo kê bởi Đảng cộng sản Trung Quốc, thuần hóa chỉ biết thưa-bẩm-dạ-vâng trước đàn anh Tàu, vì đàn anh này biết thâm tâm, ưu tiên số một của bọn lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là cứu chúng, tức là cứu đảng, chớ không phải là cứu dân, hay cứu nước ; đây là một tội ác ngầm đặt Việt tộc trước diệt vong trong nanh vuốt của Tàu tặc.
Ma thuật đầy tội ác của Tàu tặc
Nhận lấy trách nhiệm khoa học để khách quan mà xây dựng các định hướng cho nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về tội phạm học trong phạm trù Tàu tặc. Nghiên cứu về quá trình mất đất, biển, đảo từ địa lý thực địa tới địa dư chính trị để nhận ra sự lệ thuộc của Đảng cộng sản Việt Nam trước Đảng cộng sản Trung Quốc, từ khi lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930 tới hiệp định Genève 1954, ma thuật đầy tội ác của Tàu tặc đã cụ thể hóa bằng cách chia cắt Việt Nam qua vĩ tuyến 17. Đây là một tội ác lịch sử sẽ giúp tội phạm học lập nên sử kiện, để hiểu sử tính tội phạm của Tàu tặc, từ đó gây dựng lên sử luận với chứng từ, chứng nhân của tội ác này. Khảo sát từ tư duy của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký công hàm giao Hoàng Sa cho Tàu tặc, cho tới quá trình gây tội ác liên tục của Tàu tặc để chiếm luôn Trường Sa, với hành vi ăn hiếp Đảng cộng sản Việt Nam, với hành động để giết ngư dân Việt trên lãnh hải của Việt tộc. Điều tra về những bước lùi của Đảng cộng sản Việt Nam từ mật ước Thành Đô tới nhiều thoái bộ đã nhường đất, biển, đảo, cùng lúc mở cửa cho công nghệ Tàu, xí nghiệp Tàu, công nhân Tàu, hàng hóa Tàu… tràn lan trên đất Việt, để thảm trạng hiện nay là chế độ độc đảng-toàn trị lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc và kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Tàu tặc. Điền dã qua điều tra thực địa về các công nghệ bẩn của Tàu nạn đang gây những tội ác về môi trường, cùng lúc khảo sát thực trạng di dân của Tầu tặc tới đất Việt, để toan tính không những ăn nằm ở dề, mà còn lấy vợ Việt để tạo ra một thành phần lai mới mà ý đồ mai phục lâu dài để xâm lược cho bằng được đất nước ta.
Tàu phỉ buôn lậu, hối lộ, bài bạc, ma túy… ung thư hóa đời sống xã hội
Khi liên kết được các kết quả của nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về Tàu tặc phải nhận ra thâm tính làm nên ý đồ của một mô hình tội ác có xếp đặt trên một không gian dài thường xuyên, trong một không gian rộng từ vĩ mô (từ chế độ, cơ chế, hành chính tới sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội tới) tới vi mô (từ các huyện, xã, vùng, miền, thành phố tới cá nhân, gia đình, thân tộc). Tàu tặc luôn thực hiện tội ác của chúng bằng mua chuộc qua tham nhũng, thao túng thị trường qua tham ô, đầu cơ tích trữ qua môi giới với các tham quan, vì tham tiền mà rơi vào tà lộ của buôn dân bán nước ! Ngữ pháp Tàu phỉ dựa trên thực tế lịch sử có cùng với sự xuất hiện và có mặt người Tàu trên quê hương Việt bao thế kỷ qua, họ tới nơi nào là họ tổ chức buôn lậu, bất chấp luật pháp quốc gia và địa phương mà họ đang định cư. Hối lộ, có tổ chức để điều khiển bọn tham quan, rồi lũng đoạn cơ chế tại chỗ. Bài bạc, tổ chức các khu bài bạc, tổ chức mạng đánh bạc qua công nghệ truyền thông trong nhiều thành phố của Việt Nam. Ma túy, được tổ chức trên quy mô rộng lớn, từ vận chuyển tới phân phối, mà hệ lụy không những trên thể lực của thanh thiếu niên Việt, mà còn trên rất nhiều thành phần xã hội. Đây là tiền đề để tạo tội ác của Tàu tặc đặt lên toàn sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội, với sự bất lực của chính quyền trung ương.
Nội xâm đã mở cửa cho Tàu phỉ
Từ hối lộ qua tham nhũng Tàu phỉ, đã mở cửa để Tàu tà xâm nhập vào mọi cơ chế tổ chức quốc gia, tạo ra một không gian ngầm chính là nền cho Tàu tặc thực hiện âm mưu thôn tính đất nước Việt, vì Tàu phỉ trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ cho Tàu nạn đầu cơ nông phẩm, thao túng nông dân, Tàu họa ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh, Tàu phạm buôn người, lấy nội tạng. Giải thích tội ác để nhận ra tội phạm trực tiếp gây ra tội ác (Tàu tặc-Tàu phỉ-Tàu nạn–Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu phạm- Tàu tà). Và Đồng phạm, gián tiếp tham gia vào tội ác (bạo quyền lãnh đạo trung ương, tà quyền tham quan sống bằng tham nhũng, ma quyền môi giới nhận hối lộ) để mở cửa cho các tội đồ thâm nhập, đột nhập vào các tổ chức của sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội của Việt tộc. Những chủ thể yêu nước thương nòi, trong tự do-công bằng-bác ái, vì dân chủ và nhân quyền để xây dựng được một hệ thức : có kiến thức và tri thức về ý đồ của Tàu tặc, có ý thức sâu rộng để có nhận thức sâu xa về Tàu phỉ-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu phạm- Tàu tà.
Tàu nạn
Tàu nạn đã có mặt
Tàu nạn, đã có mặt và đang hằng ngày đe dọa Việt tộc với ô nhiễm môi trường, nơi mà môi sinh bị truy diệt bởi chính các tập đoàn mang công nghiệp bẩn của Tàu sang đất Việt. Các nhà máy luyện thép tới các nhà máy điện than, đang tạo ra các làng ung thư tới Tây nguyên bị khai thác vô tội vạ, bầy nhầy nhiễm ô. Ta không được quên thực phẩm bẩn với hóa chất độc tới từ Tầu tạo ra ung thư cấp quốc gia mà các cơ quan y khoa quốc tế đã xếp Việt Nam là một quốc gia đang trong vòng tử nạn của ung thư hóa cao, một chuyện chưa bao giờ có tại Việt Nam, và không thể tưởng tượng được trong tư duy bình thường của các công dân các quốc gia văn minh. Tàu nạn chính là hệ quả của hành vi và động thái cúi đầu-khoan tay-quỳ gối của Đảng cộng sản Việt Nam trước Đảng cộng sản Trung Quốc, chính là hệ lụy của chuyện mở cửa tràn lan cho doanh nhân Tàu, thương gia Tàu tới đầu cơ nông phẩm, thao túng nông dân, làm điêu đứng nông nghiệp Việt. Hệ quả và hệ lụy này đưa về hệ kết là ý đồ xâm lấn-xâm lăng-xâm lược của Tàu tặc làm bất cứ hành động tội ác nào để đạt được mục đích cướp đất Việt và diệt dân Việt. Chính quyền độc đảng-toàn trị hiện nay- đang trong vòng kềm tỏa của Tàu tặc mà phải nhận lấy bổn phận khoa học để tìm, thâu, nhận, phân, giải một cách khách quan, định hướng cho nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về tội phạm học. Nơi mà hậu quả của Tàu nạn được tính toán từ thượng nguồn bên Tàu tà Bắc Kinh, qua các tác nhân Tàu tặc ngay trên đất nước Việt.
Nhắm mắt mà mở cửa, câm miệng để Tàu họa tuôn hàng
Tàu tặc báo với cấp trên của chúng là : quan chức Việt hầu hết là tham quan, chúng tham quyền để tham tiền, quyền lực sánh vai cùng quyền lợi. Chúng dễ dàng bị mua chuộc bởi đồng tiền rồi rơi vào đường tội phạm, nhưng thường được bảo kê bởi độc đảng-toàn trị bất chấp luật pháp của chúng. Nông dân Việt cũng dễ dàng bị chiêu dụ trước cái lợi trước mắt, nhắm mắt chạy theo lợi nhuận tức thì, nên rất dễ bị phản bội trong hợp đồng, và sau đó để doanh nhân Tàu, thương gia Tàu sẽ thao túng giá cả, o ép mặt hàng. Tàu tà sẽ thực hiện các chính sách thay đổi liên tục để tạo ra các bất lợi, cũng như để xáo trộn thị trường thương mại của Việt Nam. Chính quyền Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam lại sợ Tàu qua chính trị, nên sợ mất lòng Tàu qua trao đổi thương mại, qua xuất nhập khẩu. Nhắm mắt mà mở cửa, câm miệng để Tàu tuôn hàng độc hại cùng lúc chính quyền Tàu đặt ra những chính sách thuế quan để chèn ép, hạ giá nông phẩm, sản phẩm của Việt Nam. Chính các tội lỗi ngấm ngầm này luôn được "bật đèn xanh" bởi hệ thống trung ương lệ thuộc Đảng cộng sản Trung Quốc về chính trị, song hành tham ô trong cơ chế địa phương tạo ra môi trường thuận lợi để tội lỗi ngầm này được sánh đôi rồi chung sức cho các tội ác trắng trợn khác của Tàu tặc.
Tàu họa ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh
Tàu họa, vì đúng là họa : họa mất nước, họa nô lệ, họa diệt vong… tất cả từ Tàu tặc, dưới bóng đêm của bọn âm binh buôn dân bán nước, có mặt trong trung tâm của bạo quyền độc đảng tới tham quan địa phương. Bắt đầu là Tàu trúng thầu qua tham nhũng để tham quan vơ vét trước, sau đó chính dân tộc Việt lãnh mọi hậu nạn, với các công trình đội vốn, rồi dân Việt còng lưng để trả thuế, lẫn nợ công đã ngập đầu, ngập mặt. Dưới độc quyền của một Đảng cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc trong nheo nhóc trong mê lộ, với một tập đoàn lãnh đạo mà thực chất là một tập đoàn tội phạm đã có nhà, có của, có thẻ xanh, có thẻ cư trú tại phương Tây. Trong hệ lụy của Tàu họa, tội phạm gây tội ác trực tiếp luôn có sự thông đồng của động phạm tại chỗ, có mặt trong guồng máy quốc gia, có quyền lực trong chính quyền địa phương : Các công nghệ bẩn của Tàu cùng hóa chất độc làm ô nhiễm môi trường, truy diệt môi sinh luôn có sự thông đồng qua hối lộ với các tham quan địa phương cấp xã, huyện, tỉnh, vùng, thành phố. Formosa là một thí dụ rất rõ về quá trình tham nhũng của chính quyền Hà Tĩnh được " đèn xanh " của những nhân vật trong Bộ Chính trị. Các công nghệ của Tàu khai thác tài nguyên trong một không gian rộng, vừa làm ô nhiễm môi trường, vừa hủy hệ sinh thái tới tận gốc rễ. Diệt quá tình tái tạo lại rừng, tái tạo môi trường xanh có sự thông đồng ngay trong chính sách cấp cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tàu họa : đại nạn
Khai thác boxite tại Tây Nguyên là thí dụ mà Tàu họa được cõng, bồng, bế, nâng bởi chính Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Các chính sách xuất nhập khẩu tối đa có lợi cho Tàu, cùng lúc hại tối đa cho kinh tế, thương mại, xã hội… của Việt Nam được mở cửa, được thực hiện, được tạo điều kiện bởi bọn Hán gian. Bọn này có chức năng nội gián, có địa vị gián điệp, có vai trò dắt voi dày mả tổ, có hành tác cõng rắn cắn gà nhà. Tướng Trương Giang Long thuật lại là "chúng không ít", "vì trăm này sinh ra trăm kia" để buôn dân bán nước, đẩy Việt tộc vào tội ác của Tàu nạn, đưa Việt tộc vào chốn diệt vong qua xâm lược của Tàu nạn. Hãy hệ thống hóa các sự cố về ô nhiễm môi trường, từ đại nạn kiểu Formosa tới các tai nạn trong sông ngồi, đồng ruộng, thành phố… mà không quên các hậu nạn do hàng loạt các nhà máy nhiệt điện sử dụng than đá do Tàu chủ thầu... Hãy thống kê hóa từ sự kiện tới sự cố, tất cả các thiệt hại về môi trường, môi sinh, bệnh tật… qua các thế hệ, từ cấp xã, huyện, tỉnh, vùng, thành phố tới cấp quốc gia. Hãy tư liệu hóa có hệ thống tất cả các thiệt hại mà trước mắt nạn nhân chính là môi trường, trực tiếp là con người, và lâu dài trên nhiều thế hệ. Kinh nghiệm cho thấy là hóa học da cam mà quân đội Mỹ đã dùng trong chiến tranh tại Việt Nam, với hậu nạn mà dân chúng vẫn phải lãnh chịu qua các thế hệ sinh ra sau chiến tranh để tư duy và lý luận.
Tàu hoạn đậu độc thực phẩm
Tàu hoạn, dựa vào bọn phản dân hại nước ngay trong, Đảng cộng sản Việt Nam mà Việt tộc gọi chúng là : nội xâm ! Ngoại xâm Tàu hoạn và nội xâm buôn dân bán nước thâm ô (tham quyền để tham tiền, tham quan để tham nhũng, đã và đang biến dân Việt thành lao nô, nô tỳ thấp kém nhất cho chúng sỉ nhục ngay trên đất Tàu, bị hành hạ như loại nô lệ giữa thế kỷ XXI này. Chưa hết, chúng còn tổ chức bắt cóc người Việt từ trẻ con tới phụ nữ để mổ mà cướp nội tạng, cái hoạn của Tầu là cái hèn của Đảng cộng sản Việt Nam làm nên cái nhục cho Việt tộc. Trước sự nhắm mắt trong câm miệng, cúi đầu trong vô trách nhiệm của Đảng cộng sản Việt Nam đối với các hóa chất độc hại có trong thực phẩm từ rau quả tới thịt cá… không được kiểm duyệt an toàn thực phẩm, không kiểm dịch trước khi tới tay người tiêu dùng, tồn tại trong các chợ, siêu thị, trong các cửa hàng, trong nhà hàng Việt… là nguồn cơn của bao bệnh tật, mà thảm họa chính là ung thư người tiêu dùng Việt. Các tội ác do hóa chất độc gây ra bệnh tật, tạo ra ung thư, rồi dẫn tới chết người qua thực phẩm, thì các chuyên gia cần sự hỗ trợ của nhiều thành phần xã hội, từ người tiêu dùng là nạn nhân tới các nhà khoa học, từ hóa học tới sinh học.
Mạng lưới đồng lõa với tội ác
Hệ dây chuyền là thượng nguồn của tội ác là chính sách của Tàu hoạn có âm mưu chính trị song hành cùng các tội phạm là tác nhân chế tác ra các hóa chất độc được dùng từ chăn nuôi qua trồng trọt. Chính sách có chủ mưu của bọn lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc song lứa với đường dây nhập cảnh các hóa chất độc do các doanh nghiệp Tàu sản xuất và do các tội phạm Việt phân phối từ cửa khẩu tới các trung gian là con buôn đồng lõa với tội ác này. Chính sách có ý đồ của tội ác được ngụy trang qua buôn bán với phương cách của Tàu hoạn : "vừa nhiều, vừa rẻ" để "dễ mua, dễ dùng", nơi mà sự túng nghèo của dân chúng đã dễ dàng đưa họ dùng hóa chất độc hại gây bệnh rồi chết người. Các hậu quả, nơi mà tội ác được thực hiện với sự thông đồng của một mạng lưới đồng lõa. Đồng lõa với tội ác ở cấp chính quyền, nơi mà mức độ và số lượng ung thư đang ở cấp cao nhất, thì chính phủ không hề có một chính sách gì hiệu quả để ngăn chặn, ngăn cấm tự nhập khẩu tới tiêu dùng để bảo vệ người dân. Đồng lõa với tội ác ở cấp địa phương, với các tham quan bị mua chuộc bởi tham nhũng đã để các hóa chất không những có trong thực phẩm, mà còn có ngay trên thượng nguồn nuôi gia súc và trồng cây trái. Đồng loã với tội ác ở cấp phân phối, với các con buôn Việt chỉ thấy lợi nhuận nhiều và dễ qua đường dây buôn bán hóa chất độc trong phân phối thực phẩm và trong chế biến ẩm thực.
Tàu phạm buôn người, lấy nội tạng
Các hệ luỵ làm nên nhiều hệ quả cho các thế hệ tương lai.
Một xã hội thật sự văn minh vì nhân quyền trong đó có tính mạng con người được xem như vô giá. Một dân tộc có văn hiến biết chuộng tiến bộ trong đó an toàn thực phẩm phải được kiểm soát, kiểm tra bằng sức mạnh của dân chủ. Trong đó, người tiêu dùng là chủ thể của nhận thức biết tự bảo vệ mình trong mọi công đoạn sản xuất thực phẩm và chế biến ẩm thực, không những bằng hành pháp, lập pháp, tư pháp mà còn biết vận động xã hội dân sự, với các phong trào an sinh xã hội, với các tập thể biết bảo vệ thể lực cho cộng đồng và cho dân tộc. Tàu phạm với tội phạm lúc trắng trợn, lúc công khai, lúc lén lút để buôn người với dụng ý là lấy nội tạng, thì đây chính là tội ác ! Tội phạm học hình sự song hành cùng tội phạm học phân tích gọi tên ngắn gọn là : giết người-cướp mạng, để lấy nội tạng là truy diệt mạng sống, hủy sự sống, hại chất sống của con người. Hiện nay, Đảng cộng sản Trung Quốc đã làm chuyện này trên quy mô lớn đối với các dân tộc thiểu số, như tại Tân Cương, với các đạo giáo không phục tùng độc tài-toàn trị Đảng cộng sản Trung Quốc, như tôn phái Pháp Luân Công, đều là nạn nhân của hệ thống tội ác : mổ nạn nhân để lấy nội tạng. Chính đây là sự tàn ác mà thế giới hiện nay đang ngạc nhiên trong sửng sốt và trong hốt hoảng, vì không ngờ chính quyền Tàu phạm có thể đi tới loại tội ác này.
Tàu tặc làm nên Tàu tà-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu phạm
Với Việt tộc, qua bao kinh nghiệm với Tàu tặc làm nên Tàu tà-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu phạm, thì chúng ta không mấy ngạc nhiên khi biết trong tư duy, chúng tự xem mình là "thiên triều". Ở đây, đối phương hoặc đối thủ của chúng chỉ là thú vật, mục súc, để chúng muốn lấy mạng bao giờ thì lấy, cướp mạng của đối phương, đối thủ để phục vụ cho thân thể, cho thể lực của chúng. Các lứa tuổi của nạn nhân Việt bị mổ để cướp nội tạng, trong các lứa tuổi không những có người lớn từ thanh niên tới trung niên, mà còn có các lứa tuổi rất thấp từ thiếu nhi tới thiếu niên. Các trường hợp bị thương tật nặng, hoặc bị tử vong sau khi mất nội tạng, trong đó có các nạn nhân bị mất mạng ngay bên Tàu, có người bị mất mạng sau khi trở về Việt Nam. Các đường dây buôn nội tạng có khi lén lút, có khi bán công khai, ít nhiều xuất hiện trên các mạng xã hội một cách trá hình.
Tàu tà trong tội ác được nối giáo
Quá trình tội ác của Tàu họa trên tổng thể của một âm mưu xâm lược, sẵn sàng dẫn Việt tộc tới diệt vong bằng cách vây bủa toàn bộ các lối thoát của Việt Nam. Phía Bắc, thì Tàu tặc trực tiếp chiếm đất, đổi đường biên giới thuận lợi cho chúng, rồi bắt buộc các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam phải thuận phục chúng. Phía Đông, thì Tàu tặc trắng trợn chiếm biển, cướp đảo, ngày ngày giết hại ngư dân Việt, tự ý xây các căn cứ quân sự để quân sự hóa biển đông bằng bạo lực. Phía Tây Nam, thì giật dây Lào, thao túng Campuchia, không những chặn dòng chảy sông Mékong để tiêu diệu đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của đất nước, giờ lại cho phép Tàu lập căn cứ quân sự ngay trên đất Campuchia. Các điều kiện dẫn tới tội ác của Tàu tà càng được phát huy thuận lợi, khi Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn bị cô lập, vì phải làm theo lệnh của Đảng cộng sản Trung Quốc đàn anh xâm lược là không được theo một liên minh quân sự nào để tạo đồng minh chiến đấu cạnh mình. Không được chấp nhận một căn cứ quân sự nước ngoài nào đặt trên lãnh thổ Việt Nam. Không được kiện cáo Tàu tặc qua tòa án quốc tế như Philippines đã thực hiện. Cái tròng đã mở, đang đặt vào vào cổ của dân tộc Việt, để tội ác của Tàu tặc dễ dàng diễn ra với một Đảng cộng sản Việt Nam tha hóa trong tham nhũng, với những lợi ích nhóm mà thực chất là những tập đoàn tội phạm đi từ sâu dân mọt nước tới buôn dân bán nước. Và sa lầy trong độc tài nhưng bất tài, không biết tự chuyển mình theo tiến bộ, theo văn minh, theo nhân quyền và dân chủ.
Tận diệt an ninh của tha nhân
Đảng cộng sản Việt Nam chối từ đa nguyên, loại bỏ đa lực, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu, chấp nhận đa dạng, đa phương với các đảng phái, đoàn thể, phong trào để cùng bảo vệ dân tộc và đất nước. Nên khi phân tích và giải thích về các tội ác của Tàu tà, thì không được quên trách-nhiệm-trong-vô-trách-nhiệm của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay đã tạo những điều kiện quá thuận lợi để tội ác của Tàu tà được thực hiện dễ dàng trong thảnh thơi. Diệt sinh mạng của tha nhân, chặn đường sống rồi dẫn tới hủy diệt thân thể, tương lai, sự sống còn của tha nhân, gây đổ vỡ cho gia đình nạn nhân, truy diệt các quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội bình thường của nạn nhận và thân quyến của họ. Vì vậy, định luận của tội phạm học không ngừng ở cá nhân gây tội ác mà đi xa hơn để thấy được là có : các tập đoàn tội phạm, từ xã hội đen tới các tướng lĩnh quân đội, công an giết người để cướp của, và còn phải đi sâu hơn để nhận diện ra chính quyền tội phạm, mà chính trị học về tội ác đã đặt ra phạm trù nghiên cứu : tội ác chính quyền, mà tội ác trong Cải cách ruộng đất 1956-1958 là một thí dụ điển hình. Tận diệt an ninh của tha nhân, tạo bất an tính mạng đưa tha nhân rời sinh lộ, đẩy họ vào tử lộ. Nạn nhân càng biểu lộ rõ nhân tính bằng nhân đạo, qua nhân từ của họ thì càng bị thủ phạm tội ác truy diệt tàn khốc ; nạn nhân càng nói rõ, hô to tính bất nhân thất đức của tội phạm thì càng bị trừng phạt, tra tấn khốc liệt, đây là trường hợp của các tù nhân lương tâm trong phong trào đòi dân chủ và nhân quyền hiện nay tại Việt Nam.
Tội phạm cướp quyền sống của tha nhân
Giết người, bỏ tù vô cớ nạn nhân, ám hại hoặc khủng bố từ tính mạng tới an ninh xã hội của gia đình nạn nhân, đe dọa an toàn tính mạng của từng quan hệ xã hội chung quanh nạn nhân. Thủ phạm gây tội ác chối từ nhân tính, tức là gạt bỏ nhân đạo, xóa diệt nhân bản, chối từ nhân văn làm nên nhân tâm của nạn nhân. Đó là trường hợp của dân oan hiện nay tại Việt Nam : bị cướp đất lại còn bị đàn áp, bị cướp của lại còn bị khủng bố, bị mất trắng lại còn bị ở tù, với các bản án dựa trên vu khống là "phá rối trật tự an ninh", dựa trên vu cáo là "chống người đang thi hành công vụ", bị vu oan là các "lực lượng thù địch" theo giọng điệu của đám tuyên giáo. Tội phạm cướp quyền sống của tha nhân, để trộm, cắp, cướp, giật, sẵn sàng giết người để đoạt của cải, đe dọa sự sống, tạo bất an trong xã hội. Bạo quyền dùng bạo động để song hành với tà quyền qua tham quan để liên minh qua tham nhũng với ma quyền buốn đất, bán nhà, vì tham tiền. Sẵn sàng dùng côn đồ, du đảng của xã hội đen để gây tội ác một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Một bạo quyền tội phạm bảo kê cho đám âm binh "đâm thuê, chém mướn" cho nó, mà một bạo quyền không còn nhân tính.
Giết người để cướp quyền lực
Tội phạm giết người để chiếm của cải, hãm hại cộng đồng cùng lúc hủy diệt truyền thống, truy diệt các tập quán tốt để vùi dập nhân tính. Khai thác không khí xã hội sợ hãi vì sợ chết, giết chóc đi cùng với tù đầy, để khủng bố tinh thần một dân tộc, đặt quyền sống của nhân dân dưới bạo quyền. Loại tội phạm này sẵn sàng giết người, để tồn tại bằng ác quyền. Hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã, đang, sẽ bỏ tù và truy diệt mọi công dân yêu nước xuống đường đòi lại chủ quyền lãnh thổ, đảo biển của đất nước, khi họ hô to Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Yêu nước và muốn bảo vệ tiền đồ tổ tiên, muốn bảo tồn trọn vẹn lãnh thổ quốc gia, muốn bảo an tương lai các thế hệ con cháu sau này, đều có thể là nạn nhân của bạo quyền độc đảng. Hậu phương để bảo đảm sự tồn sinh của chính quyền độc tài này không phải là Việt tộc, mà là một tập đoàn tội phạm khác : Đảng cộng sản Trung Quốc. Giết người để cướp quyền lực, cướp chính quyền bằng giết chóc, lấy bạo động chính trị để tạo ra bạo lực tràn lan trong xã hội, tức là tạo ra bối cảnh, lấy bạo lực làm hằng số, lấy tội phạm làm hàm số, lấy tội ác làm ẩn số để làm nên phương trình :
ác quyền = độc quyền + bạo quyền + tà quyền
để thao túng xã hội, để vây bủa dân tộc. Từ âm binh buôn chức bán quyền tới buôn dân bán nước chỉ vài bước đối với chúng, nhưng là tội ác chống tổ tiên, dân tộc, đất nước.
Núp bóng che thân bởi Tàu tặc
Đây là phương trình mà Việt tộc đã thấy đáp số toán học phi nhân tính, phản nhân đạo của Đảng cộng sản Việt Nam : hèn với giặc, ác với dân ; thay vì giết giặc cướp nước Việt, thì lại đi giết dân Việt để được núp bóng che thân bởi Tàu tặc. Đã gây tội và liên tục tạo ra tội qua các con đường bạo động, đàn áp, khủng bố, tù đầy, tra tấn để gây ra nỗi sợ hãi trong cộng đồng, nỗi bất an trong tập thể, nỗi kinh hoàng trong dân tộc, ngày ngày thấm thỏm lo sợ : kẻ ác đang giết người chính là kẻ đang cầm quyền. Tội phạm học đề nghị không chỉ nghiên cứu tội phạm của bạo quyền mà phải điều tra sâu xa về chính sách tội phạm hóa bằng hệ thống tuyên truyền của nó, cụ thể là dùng hệ thống báo chí và truyền thông với bút nô, ký nô, văn nô… để che lấp tội phạm của chính quyền, cùng lúc biện minh cho tội ác của chính quyền đó. Khi nghiên cứu về thủ phạm giết người, thì phải điều tra kỹ lưỡng về các tòng phạm vì đặc quyền, đặc lợi qua ân sủng và bổng lộc nhận được từ thủ phạm gây ra tội ác. Đây là hiện tình của hơn 800 cơ quan truyền thông cùng với hằng nghìn nô bộc ngày ngày che lấp sự thật của tội ác, tung hỏa mù của tuyên truyền một chiều để khoả lấp chân lý, cùng lúc diệt luôn lẽ phải về đạo lý cũng như đạo đức các nạn nhân của tội ác.
Tội ác vĩ mô
Phải thấy các tội ác vĩ mô trong xã hội Việt Nam hiện nay, từ ô nhiễm môi trường để diệt môi sinh của Việt tộc cho tới sự tràn làn các độc chất trong thực phẩm để diệt dần mòn sinh lực Việt. Tội phạm học sẽ phải đi sâu vào sự liên minh bất chính, đang bất chấp sinh mạng của một dân tộc để thấy hết thủ đoạn của Tàu tặc cùng sự thất nhân của chính quyền và sự thất đức của các tập đoàn công nghiệp gây ô nhiễm cùng các con buôn đưa độc chất vào thực phẩm. Tâm lý học nhận diện phạm nhân gây tội ác song hành cùng xã hội học phòng ngừa tội ác qua các phân tích nhóm, bè, phái, đảng… gây ra tội ác để cùng luật học mà minh sử tội phạm, cùng sử học xác chứng tội ác. Tội phạm học phải nghiên cứu sự tương quan giữa các cuộc thanh trừng nội bộ trong đám chóp bu đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, ứng xử bằng quyền bính và hành xử qua tư lợi, để thấy rõ sự tương tác giữa các tập đoàn tội phạm này với các tội ác mà công an và quân đội là công cụ của chúng đã, đang và sẽ gây ra cho cả một xã hội đang bị mất đạo đức, một dân tộc bị lạc đạo lý, vì bị tội ác thao túng, giật dây, gài bẫy... Chính tội ác trong quan hệ quyền lực đã gây ra các tội ác khác trong buôn quyền bán chức, qua buôn chức bán bằng, tạo ra một sinh hoạt giáo dục có tra tấn trẻ em trong các trường mẫu giáo ; có bạo lực trong cách ứng xử của thầy cô, có bạo động của học sinh sẵn sàng đe dọa tính mạng của thầy cô…
Dụng bạo quyền cực quyền
Tội ác thượng tầng luôn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tội ác hạ tầng đang lan trong khắp mọi sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội của Việt tộc.
Chính văn minh tới cùng với dân chủ đã bảo vệ dân quyền bằng tư pháp nghiêm minh của tam quyền phân lập làm lùi các ác, đẩy cái tội vào nhà tù, khi công lý có mặt để bảo vệ người dân, với công pháp nhìn thẳng vào tội ác để vạch mặt chỉ tên tội phạm với công luận thẳng lưng còn không sợ, không cúi đầu, không khoanh tay, không quỳ gối trước cái ác đe dọa sự sống. Nhưng trong tình hình của Việt Nam, khi độc đảng còn toàn trị thì : cái ác còn đứng đó, các tội còn ra đời ! Độc đảng chuyên chính không muốn chia quyền lực qua đa nguyên, để xã hội nhận hưởng đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu… thì độc đảng phải dùng bạo quyền để tiếp tục tham quyền, mà tư quyền song hành cùng tư lợi của độc đảng, nên bạo quyền độc đảng sẽ dùng bạo lực, tức đưa cái ác, đẩy cái tội vào cuộc để tội ác có mặt trong xã hội để khủng bố dân tộc, để truy diệt cái đa của nhân trí, của nhân tính. Độc đảng thì độc tài, nhưng bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam là độc tài nhưng bất tài, chính cái ung thư đôi độc tài-bất tài sẽ đưa dân tộc xuống vực, đưa đất nước xuống hố, và chính nó sẽ tạo ra hệ đối (đối kháng, đối lập, đối trọng). Lãnh đạo độc tài nhưng bất tài thì sẽ chịu những phong trào dân chủ, nhân quyền, công bằng, tự do, văn minh đối đầu với nó bằng phương trình đa tài-thực tài.
Tà lộ của tham quyền
Trong bối cảnh độc tài-bất tài sẽ dùng bạo lực để bạo hành thường xuyên các phong trào tiến bộ, độc đảng độc tài-bất tài sẽ cho cái ác xuất hiện, để cái ác ra đời cùng cái tội mà đàn áp, mà tiêu diệt phương trình đa tài-thực tài. Độc đảng thì độc trị, nhưng thảm kịch của Đảng cộng sản Việt Nam là không biết quản trị, kéo dân tộc từ nghèo nàn tới lạc hậu, từ nheo nhóc tới tận cùng với tham nhũng song đôi cùng nợ công, với tham ô song hành cùng bòn rút tài nguyên cho tới kiệt quệ, thì chính dân đen, dân oan sẽ tự hình thành những phong trào đấu tranh cho công bằng và công lý. Chính độc đảng trong độc trị lại không biết quản trị, sẽ sinh ra một xã hội bất trị (trên nói dưới không nghe ; đảng muốn dân không muốn…) mâu thuẫn không giải quyết thì xung đột sẽ tới với đối kháng. Phản xạ của độc đảng trong độc trị là lăn xả vào phương trình bạo quyền-bạo lực-bạo hành để nhảy vào bạo ác, cho tội ác xuất hiện khi chính độc đảng-độc trị phải đối mặt với các phong trào xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội mà bất trị được ý thức rồi nhận thức như bất tuân dân sự. Độc đảng thì độc quyền, trong tà lộ của tham quyền, trong ma lộ của bám quyền, để tiếp tục cuộc sống âm binh của cái ác là lạm quyền, khi phương trình độc quyền-tham quyền-bám quyền-lạm quyền như ung thư trầm kha đã biến thành phản xạ phải cướp quyền, thì nó đối diện rồi đấu đầu với bất tuân dân sự đại diện cho phong trào tiến bộ, dân chủ, nhân quyền.
Bạo kiếp, tà nghiệp, ma phận
Với công bằng, tự do, văn minh, thì Đảng cộng sản Việt Nam sẽ rơi vào ngõ cụt, bí lối vì bí cách giải quyết, nên phản xạ độc đảng trong phản ứng của độc tài-độc trị-độc quyền là mở cửa để tội ác vào xã hội, mà giết dân, mà truy diệt các các phong trào này. Đây là cách loại phản xạ- phản ứng của lãnh đạo mang ung thư đôi, nơi mà cái bất tài làm ra cái xấu, tồi, tục, dở sẽ đón, chào, nhận, tiếp nhận cái ác được nuôi bởi cái thâm, độc, ác, hiểm. Cái ác chỉ chờ dịp để làm ra cái tội, vì đây là bạo kiếp, là tà nghiệp, là ma phận của nó. Hãy loại cái ác ngay trong trứng nước để nó không làm ra tội ác. Một đất nước văn minh, một gióng nòi có văn hiến làm nên một dân tộc không có ai là nạn nhân của cái ác ! Không bao giờ trễ để ra khỏi con đường của tội ác, không bao giờ muộn để rời xa đường đi nẻo về của tội phạm, hãy tìm lại nhân phẩm bằng cách trở lại với nhân đạo để nhận lại nhân tính, bằng cách nhìn thẳng vào tội ác mà định nghĩa nó cho đúng, để có định luận trúng về các hậu quả mà nó gây ra trên số phận và tương lai của chính số mạng của con người và trên chính số phận của đồng bào mình. Nếu dân chủ chưa tới với đa nguyên để bảo vệ nhân quyền trong thảm cảnh hiện nay của Việt tộc, thì công dân Việt có toàn quyền yêu cầu những kẻ sẽ lãnh đạo tương lai nhận nhiệm vụ bảo vệ đồng bào và đất nước phải có có lương tâm, với lương tri lãnh đạo để bảo vệ dân tộc và đất nước.
Các tội ác tới từ đàn áp, bắt bớ, tra tấn, tù đày, hành hạ…
Đảng cộng sản Việt Nam không có khả năng để tự tạo điều kiện cho một "minh chủ" ra đời với nội công chống lại tội ác ; cho một "minh chúa" ra đời với bản lĩnh chống lại tội phạm ; cho một "minh vương" ra đời có tầm vóc chống lại tội lỗi do chính Đảng cộng sản Việt Nam của họ gây ra từ khi nó nắm độc quyền cai trị dân tộc và đất nước. Hợp đồng xã hội giành cho "minh chủ", "minh chúa", "minh vương" không khó thực hiện, mà trong Việt sử đời Lê, Lý, Trần, Nguyễn... Việt tộc đã có. Hiện nay các quốc gia láng giềng đã và đang có, thí dụ rõ nét là thành công của Lý Quang Diệu qua kinh nghiệm của Singapoure, theo quỹ đạo của một dân tộc có văn hiến, một đất nước có văn minh. Cụ thể là vị "minh chủ", "minh chúa", "minh vương" này phải ngừng ngay tức khắc các tội ác tới từ đàn áp, bắt bớ, tra tấn, tù đầy, hành hạ… các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì công bằng, tự do, bác ái bằng dân chủ và nhân quyền mà các tổ chức nhân đạo và Liên Hiệp Quốc gọi đúng tên họ là các tù nhân lương tâm. Trong mùa hè 2019, với những cơn nóng tại miền Trung vượt qua 45 độ, mà quản giáo và cai tù lại thu các quạt điện, để giết dần giết mòn các tù nhân lương tâm, mặc cho gia đình họ sẵn sàng nhận chi phí mua quạt điện mới cho họ, mặc cho cả xã hội lên án thái độ bất nhân, hành vi vô lương tâm này, đây là một tội ác được thi hành bởi những tên lãnh đạo trại tù số 6 tại Nghệ An, với trách nhiệm tội phạm của cả Bộ công an và tất cả lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Biến không gian sống của dân lành thành địa ngục của các làng ung thư
Hành hung và khủng bố các thân nhân và bạn bè của là các tù nhân lương tâm, trên đường tới thăm họ. Một tội ác quá thấp hèn trong bẩn thỉu (mạt vận bạo, đốn mạt tà).
Trộm, cắp, cướp, giựt đất của dân lành, biến họ thành dân oan, từ đầu đường xó chợ tới màn trời chiếu đất, mà không bồi thường xứng đáng lại không định cư họ trong điều kiện nhân đạo tương đối, thì đây chính là tội ác của bạo quyền đã thông đồng cùng tà quyền tham quan, đồng lõa với ma quyền tham đất. Tất cả đều là âm binh để hãm hại dân lành, lại còn mướn côn đồ, du đảng, xã hội đen, cùng công an hành hung, khủng bố, bắt bớ, đánh đập… dân oan. Mà dân oan chính là nạn nhân đôi : nạn nhân của trộm, cắp, cướp, giựt đất, rồi nạn nhân của bạo lực độc đảng dùng bạo hành công an và côn đồ để bịt miệng dân oan khi họ đòi công lý. Công nghiệp bẩn với hóa chất độc làm ô nhiễm môi trường, truy diệt môi sinh, biến không gian sống của dân lành thành địa ngục của các làng ung thư, các vùng ung thư… mặc cho bạn tham quan tha hồ vơ vét qua tham nhũng, qua các ma đạo của âm binh Tàu tặc đang gây những họa nạn khủng khiếp cho Việt tộc.
Tội đôi-tội lứa : tội sâu-tội xa, tội trên-tội dưới
Lột trần tội ác, lột mặt nạ tội phạm qua các phân tích song phương : tội đôi-tội lứa (độc tài-bất tài), khi độc đảng dùng độc quyền để độc tài nhưng lại bất tài trong tổ chức xã hội không thể đưa dân tộc về hướng thăng hoa theo tiến bộ, đưa đất nước về phía thăng tiến theo phát triển, thì cái độc sẽ tới để gây tội ác, từ đó khỏa lấp, che dấu cái bất tài trong độc tài. Tội sâu-tội xa (tội giết người-tội hại người bằng lý lịch), khi giết người qua Cải cách ruộng đất, qua trại cải tạo, bây giờ tội ác tìm đến các chủ thể, các phong trào đòi công bằng, đòi, dân chủ, đòi nhân quyền… để truy cùng diệt tận các cá nhân, các tập thể không cùng chính kiến, không đồng ý với Đảng cộng sản Việt Nam. Sau đó lại dùng lý lịch của các nạn nhân để vùi dập mọi con đường tiến thân, mọi ý nguyện hội nhập bình thường nhất vào xã hội của gia đình, của con cái của họ. Đây là một tội ác liên thế hệ, phải được xem xét tới nơi tới chốn trên các hậu quả của nó Tội trên-tội dưới (tội lãnh đạo-tội cán bộ), chính sách gây ra tội ác đi từ trên xuống dưới qua chỉ thị, qua văn bản, qua quyền lệnh, thì hậu quả gây ra tội ác sẽ đi từ dưới lên trên, vì thế tội phạm học đề nghị nghiên cứu hậu quả dây chuyền của hàng ngang nơi mà tội phạm gây ra tội ác, mà không được quên lãnh đạo của chế độ, của cơ chế, của quyền lực hàng dọc chủ trì các tội ác. Khi tội phạm của hàng ngang chịu trách nhiệm vi mô trong cục bộ, thì lãnh đạo của hàng dọc phải nhận mọi trách nhiệm vĩ mô trên toàn thể.
Vô cảm-vô giác-vô tâm vì vô tri-vô trí-vô minh
Tội nay-tội mai (tội tuyền truyền-tội giáo dục), tuyên truyền bằng hận thù tạo điều kiện thuận lợi để tội ác xuất hiện, nơi mà tội phạm hại người và giết người dễ dàng khi xem tha nhân là kẻ thù rồi tử thù, phải diệt. Tuyên truyền dù qua khẩu lệnh hay văn bản đều có thể lập lên các nhân tố, biến tội phạm thành tội nhân với các ý thức hệ tàn bạo lấy hận thù để giết chóc. Việt tộc đã trả giá quá đắt về cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn của loại ý thức hệ giả tạo nhưng chết người là : cách mạng bằng cộng sản song đôi cùng lứa với chuyên chính của độc đảng. Mà giờ đây đã qua thế kỷ mới, XXI, ý thức hệ giả mạo diệt người này vẫn giữ quyền lực độc tôn trên đất nước của Việt tộc. Thảm cảnh đã làm nên thảm trạng khi tuyên truyền đã trở thành giáo huấn trong học đường, trong trường lớp, có chỗ đứng trung tâm trong hệ thống giáo dục, từ giáo khoa tới giáo trình, từ giáo lý tới giáo án để tiếp tục tái sản xuất ra chiến tuyến của hai loại người ngay trong lòng một dân tộc : ta và địch, ta của Đảng cộng sản Việt Nam gọi tắt là "đảng ta", và những ai không đồng ý với là "những lực lượng thù địch". Từ tuyên truyền tới giáo dục, tất cả nhằm chế tác ra một xã hội, một quần chúng cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước tội ác để càng ngày càng vô cảm-vô giác-vô tâm vì vô tri-vô trí-vô minh trước tội phạm gây ra tội ác !
Tổ chức thảm sát chính dân tộc mình
Hãy cụ thể hóa trường hợp của Đảng cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử cận đại và hiện đại mà nạn nhân lần này là cả một dân tộc : Việt tộc ! Khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, thì giai đoạn tội phạm đầu tiên là truy diệt các đối thủ bị xem như " tử thù " có mặt trong chính giới, hiện diện trong chính trường mà nạn nhân là các đảng, các nhóm từ Quốc dân đảng tới Đệ tứ cộng sản… Chính kinh nghiệm giết hại các đối phương, mà dân tộc không có quyền năng và phương tiện để buộc tội, không có pháp luật để truy tố Đảng cộng sản Việt Nam, nên cướp chính quyền bằng bạo lực năm 1945 thì sẽ nắm chính quyền qua bạo hành sau 1954 ; cái ác đã lần mò tới để tổ chức thảm sát chính dân tộc mình qua Cải cách ruộng đất 1956-1958. Bạo lực theo vòng xoáy bạo lực, với đàn anh là Mao tác giả của tử thuyết : "sự thật chỉ nằm trên đầu súng", trong bối cảnh của các phong trào cộng sản mà Liên Xô chủ trương "bạo động cách mạng" để lập "chuyên chính vô sản", thì mọi tội ác được tầm thường hóa với cuộc nội chiến mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc vào tử lộ với hơn 6 triệu đồng bào cả hai miền Bắc Nam bị giết hại. Tầm thường hóa cái ác để bình thường hóa cái bạo chủ mưu của cái tội, thì chuyện bỏ tù (trá hình với tên gọi trại học tập) các trí thức, nghệ sĩ, viên chức… của miền Nam sau 1975 là một quy trình tội phạm vĩ mô trên bình diện quốc gia. Từ đó, chuyện bao triệu đồng bào bỏ trốn chính quyền này bằng đường biển, mà số liệu người bỏ mạng trong biển khơi hoặc bị hải tặc truy giết lên tới nhiều trăm ngàn nạn nhân.
Tầm thường hóa cái độc, bình tường hóa cái tà để làm chỗ dựa cho cái ác
Tầm thường hóa cái độc để bình thường hóa cái tà làm chỗ dựa cho cái ác đối với Đảng cộng sản Việt Nam giờ đã thành "cơm bữa". Bỏ tù những người yêu nước biểu tình chỉ vì hô to "Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam" ; khủng bố những ai bảo vệ môi trường chỉ vì chỉ mặt gọi tên bọn Formosa là bọn giết môi sinh miền Trung của đất nước ; bắt bớ các nhà hoạt động cho dân chủ chỉ vì công bằng và tự do ; truy nã những nhà hoạt động cho nhân quyền chỉ vì muốn sống trong một thể chế pháp quyền, nơi mà tự do được làm người lương thiện phải được bảo vệ bằng pháp luật trước tội ác hằng ngày của chính quyền. Bi nạn của Đảng cộng sản Việt Nam là không muốn nhận ra là thế giới đã tiến quá xa trong thực tiễn toàn cầu hóa, nơi mà dân chủ là trụ cột của lương tri để bảo vệ nhân quyền, là chỗ dựa của nhân vị, bảo đảm nhân văn và nhân bản trên cơ sở của nhân đạo, bảo trì nhân tính bằng nhân tri và nhân trí, nơi mà nhân phẩm là lõi của mọi cuộc đấu tranh đòi tự đo, đòi công bằng. Tất cả hệ nhân này hiện đang nằm trong quỹ đạo của toàn cầu hóa, nơi mà mạng xã hội là mạng truyền thông toàn diện với tin tức trực tiếp, với dữ kiện khách quan trực tuyến, với chứng từ có nội dung công pháp quốc tế ở dạng trực luận.
Bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền
Các chính quyền quốc tế nhìn thế nào về nhân cách của thể chế độc đảng, chế độ công trị của Việt Nam hiện nay ? Họ thấy rõ là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có nhân lý, nhân tri, nhân trí khi đối đáp với họ tại Liên Hiệp Quốc hay trên chính trường quốc tế, cùng lúc các lãnh đạo không có nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân đạo với chính đồng bào của họ, nên mới để thảm cảnh vô gia cư tràn lan khắp các nẻo đường đất nước Việt, hằng triệu con dân Việt phải : bụi đời ! Khi Đảng cộng sản Việt Nam dụng cái thâm, độc, ác, hiểm qua bạo quyền lãnh đạo ăn nằm chung chạ với tà quyền tham quan cùng ma quyền tham tiền để hình thành một liên minh âm binh ô dù-chống lưng-sân sau, thì chính cái thâm, độc, ác, hiểm sinh đôi cùng cái xấu, tồi, tục, dở. Tại đây, thì nhân cách của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đã hoàn toàn mất, nên khi chúng ta mô thức hóa liên minh này là một loài âm binh để mô hình hóa các giải luận về thảm nạn vô gia cư tức là đang cùng lúc phân tích sự thất bại tuyệt đối của liên minh âm binh này. Nên khi Đảng cộng sản Việt Nam "tự hào về trật tự xã hội" mà họ đã áp đặt lên dân tộc, đất nước Việt Nam hiện nay bằng các chính sách vô nhân của khuất phục dân chúng để thuần hóa giống nòi, mà chúng ta đã phải vận dụng qua trạng động từ : súc vật hóa ! Nên niềm "tự hào về trật tự xã hội" này chính là thảm bại bi đát nhất của Đảng cộng sản Việt Nam !
Một cơ chế gây tội ác đang diệt quốc thể Việt
Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy cái vô nhân để truy, diệt, triệt, hủy cái có nhân, thì niềm "tự hào về trật tự xã hội" chỉ có loài âm binh mới có loại tự hào ma tính này. Một cơ chế gây tội ác đang diệt quốc thể Việt, đã biến một bộ phận của Việt tộc đang lạc loài trong vô gia cư ! Hành động chính trị có chính nghĩa là hành động trên nguyên tắc của công lý. Đây chính là định nghĩa thượng nguồn của mọi động cơ chính trị từ chính giới tới chính khách. Nó chính lý là nên nó chính ngôn trong mọi chính sách mà nội dung là quyết sách vì công lý. Khi tôi phạm trù hóa chế độ độc đảng hiện nay đang vô cư hóa người nghèo tới cảnh khốn cùng vì họ không tự bảo vệ được nhân quyền và nhân phẩm của họ, và chính Đảng cộng sản Việt Nam là tác giả nên cùng lúc cũng là thủ phạm của thảm cảnh này, vì các thảm bại của nó ngay trên thượng nguồn. Độc tài nhưng bất tài trong mọi chính sách về an sinh xã hội. Độc trị nhưng không biết quản trị mọi chính sách về công bằng xã hội. Độc tôn nhưng không biết tôn trọng dân tộc, giống nòi, đất nước… Độc quyền nhưng không biết vận dụng quyền lực để phục vụ bác ái. Vì độc đảng nên độc đoán, gây ra bao độc hại cho Việt tộc trong hiện tại và tương lai, hãy trở lại các định nghĩa căn bản của hành động chính trị để có những quyết sách về an sinh xã hội nhằm phục vụ cho công bằng xã hội, biết tôn trọng dân tộc, giống nòi, đất nước bằng hành động cụ thể là đề cao, vinh danh, thăng hoa bác ái ngay trong mọi hành động chính trị của chính quyền.
Nhân trí của nhân tài còn bị đánh gục rồi vứt ra đường, ra nước ngoài
Chữ nhân không phải là một từ, mà là một phạm trù nhận định giúp con người có nhân và không nhân, mà nhân đây là nhân đạo, nhân từ, nhân tâm, nhân nghĩa làm nên nhân tính để vinh hoa nhân vị trong nhân bản làm nên nhân văn, có văn minh nhân cách trong tiến bộ xã hội. Phạm trù của nhận định này biết mở của mời mô thức phân tích cùng mô hình giải thích nhập cuộc để nhận ra nguyên nhân đã làm nên hiện tượng. Mà hiện tượng cứ kéo dài trong thời gian, trải dài trong không gian, thì hiện tượng này đã biến thành hằng số, và khi gạn đục khơi trong hằng số này thì sẽ nhận ra thủ phạm chính là tác giả đã tạo ra hằng số độc đảng bảo lãnh cho độc tài đảng trị đã là một thảm kịch cho dân chủ vì nhân quyền rồi, mà ngay trên thực tế thì thảm kịch này thành một hoạn cảnh khi độc tài lại bất tài trong quản lý xã hội, đất nước, giống nòi… Chính hoạn cảnh này làm nên hiện tượng luận vô gia cư, với bi kịch của kẻ ăn trên ngồi trốc nhìn đồng bào họ vô gia cư, với vô cảm : bay chết mặc bay ! Độc đảng bảo kê cho độc trị, với tục cảnh của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, nơi mà trí tuệ của nhân tài là nguyên khí của quốc gia cũng bị đánh văng ra đường để chịu nạn cảnh tứ cố vô thân như các đồng bào vô gia cư, không nhà chẳng đất để dung thân. Nơi mà nhân trí của nhân tài còn bị đánh gục rồi vứt ra đường, ra nước ngoài, thì còn nói chi tới dân oan thấp cổ bé họng trước bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất.
Nạn cảnh, bạo cảnh, tà cảnh
Nạn cảnh đã ngày ngày trở thành bạo cảnh với một tà cảnh của độc trị mà không hề biết quản trị ngay trên định đề căn bản nhất của quyền lực chính trị là bảo đảm nguyên lý công bằng xã hội, để bảo toàn nguyên tắc bác ái trong xã hội, vì dân tộc, vì đất nước. Đánh văng nhân đạo, nhân từ, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân cách thì chắc chắn đã thành loài : bất nhân, vô nhân, thất nhân rồi ! Tức là không còn là người-của-nhân mà là loại người thấp hơn cầm thú mạnh được yếu thua, ăn tươi nuốt sống đồng loại lại chính là đồng bào của mình. Hiểu để thấu định luận này để rà soát lại Việt sử cận đại là từ khi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc tôn, độc quyền) lãnh đạo Việt tộc thì nó không đề nghị được bất cứ một nhân lý nào tốt lành, một đạo lý nào hay đẹp cho Việt tộc, mà nó chỉ biết ngày ngày thực hiện bạo cảnh để thể hiện hoạn cảnh có trong bản chất của nó : bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quyền, ma quyền tham tiền. Chưa bao giờ Việt tộc có nhiều quan tham như hiện nay, chúng bám vào ung thư đại tràng của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) của Đảng cộng sản Việt Nam để sinh sôi nảy nở như ký sinh trùng qua hệ tham (tham quyền để trở thành tham quan, dùng tham ô để tham nhũng vì tham tiền). Mô thức giải thích về bạo quyền lãnh đạo mở cửa mô hình giải luận về tà quyền tham quan, mà cả hai đều có sân sau của ma quyền tham tiền, nên chúng tham đất mà biến dân lành thành dân oan, biến dân đen thành dân vô gia cư.
Sinh sôi nảy nở như ký sinhg trùng qua hệ tham
Không những gọi tên tội phạm, mà còn vạch mặt gọi tên tội nhân, mà không quên là tội nhân đã phản dân hại nước, sẽ sẵn sàng trở thành tội đồ qua buôn dân bán nước cho Tàu tặc đã cướp đất, biển đảo của Việt tộc. Mà chẳng quên Tàu tà đang gieo cảnh Tàu họa với ô nhiễm môi trường qua các nhà máy nhiệt điện, qua công nghệ bẩn kiểu Formosa, đang âm mưu Tàu nạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc. Phải đặt họa cảnh của các đồng bào vô gia cư vào hoạn cảnh mà cả đất nước đang gánh chịu, tại đây thì đồng bào đang có nơi ăn chốn ở đã và đang đồng họa-đồng nạn với các đồng bào vô gia cư rồi trước hoạn-lộ-dẫn-tới-tử-lộ của cả một dân tộc đang đứng trước họa ngoại xâm Tàu tặc-Tàu tà-Tàu họa-Tàu nạn. "Chém cha cái lũ áo dài. Ăn no cho tới mang tai vẫn lần", tổ tiên Việt rất chính khí trong chính ngôn, rất chính ngữ trong chính lý khi dặn dò con cháu : Chém cha cái lũ áo dài. Ăn no cho tới mang tai vẫn lần, nên đồng bào ta hiện nay mới đặt tên chúng là : Nội xâm ! Nội-để-nối, chúng nối giáo cho giặc. Đừng ngờ vực gì nữa mà phải khẳng định là chúng cam tâm cõng rắn cắn gà nhà, chúng sẽ rắc tâm mang voi dày mả tổ trong tà lộ của chúng từ mua chức bán quyền tới buôn dân bán nước. Khi dân lành một sớm một chiều thành dân oan, không đất không nhà, vô gia cư trong cảnh sống nay chết mai với độc chất của độc đảng, độc hại do độc tố bạo quyền-tà quyền-ma quyền, chỉ biết tham quyền lực để nuốt quyền lợi.
Họa cảnh dân tộc, thảm cảnh đồng bào
Từ bao đời này ông bà ta đã vạch ra chân tướng của chúng : "Ăn no rồi lại nằm khì. Mặc cho dân ngẩn, khốn nguy nhọc nhằn" ; chân tướng làm nên chân dung của bọn ngày ngày ăn tàn phá hại tài nguyên đất nước, nguyên khí quốc gia, sinh lực giống nòi : Tằm đau tằm chẳng ăn dâu. Tằm đói ăn ruộng ăn trâu ăn bò. Chân dung nhập hoạn với chân tướng làm nên diện mạo vắng nhân tâm, trống nhân từ của chúng : Trống chùa ai đánh thùng thùng. Của chung ai khéo vẫy vùng làm riêng. Con dân Việt hiện nay hãy giữ vững hệ thức : lấy kiến thức để dựng tri thức, giữ ý thức để tạo nhận thức, tất cả cùng nhau tỉnh thức trước họa cảnh dân tộc, trước thảm cảnh của các đồng bào vô gia cư : Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Chưa hết, lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã biến đất nước Việt từ quê hương gấm vóc thành một bãi rác mênh mông với môi trường bẩn, với môi sinh độc. Nơi mà Tàu họa từ thủy điện tới nhiệt điện làm ô nhiễm nguồn nước và không khí ; Tàu nạn với công nghiệp luyện thép mà Formosa đã nhiễm ô cả một vùng rộng lớn của miền Trung, song song với Tàu tặc thì chiếm đất, biển, đảo ; song đôi cùng Tàu tà với thực phẩm bẩn, với hóa chất độc đang giết dần mòn từ đất nước Việt tới con người Việt. Nơi mà quê hương Việt từng là nơi sống được, giờ thành nơi khó sống được, để nay mai sẽ thành nơi không sống được. Hãy cẩn trọng : đừng để hai hàm số của hiện tại (nơi khó sống được, nơi không sống được) thành hằng số của tương lai !
Thất bại luân lý, thảm bại đạo lý của người cộng sản
"Đi với ma mặc áo giấy" là bài học cẩn trọng mà tổ tiên để lại, và trong tình hình "chỉ mành treo chuông" hiện nay của kiếp Việt là chúng ta đang bị truy đuổi-truy lùng-truy quét-truy hại không phải bởi một con ma mà ít nhất là hai con ma : Ma quyền Tàu tặc và tà quyền quốc nội. Thất bại luân lý, thảm bại đạo lý của người cộng sản là trong thực chất, khi cướp được chính quyền thì chính các đảng cộng sản luôn tạo ra sinh hoạt riêng, đời sống riêng, tổ chức riêng, cơ cấu riêng... chính những cái riêng này mới là thực chất để hiểu rõ bản chất : đứng riêng để đứng trên cái chung của dân tộc, đây là chuyện lừa đảo, dùng chuyên quyền để tham quyền, dụng tham quyền để tham nhũng. Vì cái riêng của họ, dẫn họ vào cái độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tạo ra cái đặc (đặc quyền, đặc lợi), dành chỗ đặc biệt để "ăn trên ngồi trốc", để ăn riêng (ngon), ở riêng (rộng), đây là khởi điểm báo hiệu ngày tàn của một tập đoàn lãnh đạo (nếu không biết tự thay đổi). Thất bại luân lý vì rỗng luân lý, là thảm bại đạo lý vì trống đạo lý, vì giọng lưỡi "là đầy tớ cho nhân dân" chỉ là xảo ngữ, đã làm họ phải "tự lột mặt nạ" họ, khi họ tạo ra cái riêng thật ưu đãi cho chính họ.
Thất bại luân lý trước mắt dẫn tới thảm bại đạo lý mai sau
Khi họ lấy hằng trăm mẫu đất cạnh thủ đô Hà Nội, với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng để tìm cách xây nghĩa trang cho cán bộ cao cấp ! Một hành động bất chính trắng trợn : lấy tiền người sống để phục vụ cho họ, kể cả khi họ đã rời cõi đời này ! Nếu đúng "là đày tớ cho nhân dân" thì tại sao không lấy tiền này để lo cho dân đen, dân oan ? Từ thất bại luân lý này qua thảm bại đạo lý kia, họ còn tự tạo ra đặc lợi riêng là buôn bán cả trên danh nghĩa của các liệt sĩ, bằng cách xây các tượng đài liệt sĩ, cũng hàng ngàn tỷ. Họ có thấy là người sống không có nhà phải vào ở trong nghĩa trang để sống, họ có thấy là các người dân nghèo đang ăn xin chung quanh các tượng đài liệt sĩ. Thất bại luân lý trước mắt dẫn tới thảm bại đạo lý mai sau, chính cái riêng, cái độc, cái đặc đang nạo diệt cái chung ngay trong tư duy của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, ngày ngày đưa họ xa cái đồng cam-cộng khổ, cái thương nước-trọng dân, cái vì dân-vì nước, họ làm lãnh đạo mà quên các phương châm này thì khoa học lãnh đạo có thể nhắc họ là : họ đang tự đào mồ mà chôn chính họ !
Không biết học tổ tiên, không biết học láng giềng đã thành công, không biết học thế giới văn minh
Cái độc (độc đảng, độc quyền, đôc tài, độc tôn, độc trị) luôn là ổ rắn cho chuyện phát triển cho cái bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành, bạo giới), liên minh giữa độc và bạo sinh ra lầm than trong nhân dân, làm đảo lộn mọi bậc thang tâm linh và tri thức có thể truy diệt được nếu lãnh đạo có bản lĩnh của minh quân, có tầm vóc của minh chúa, có nội công của minh chủ (trong lúc chờ đợi dân chủ rồi nhân quyền thực sự tới với Việt tộc). Chuyện này đã có trong Việt sử qua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn... biết lấy tâm linh để chỉ đạo, biết dụng tri thức để lãnh đạo. Các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đừng ngụy biện là không có gương sáng, không có mô hình hay, không có khuôn mẫu đẹp để lãnh đạo, hãy học kỹ ba điều có thực trước mắt : học tổ tiên, học láng giềng đã thành công, học thế giới văn minh đang đặt tiền đề cho hiện hữu tâm linh-tri thức cho một nhân loại tốt lành giữa toàn cầu hóa hiện nay. Chúng ta thấy rõ được thảm trạng của Việt tộc hiện nay, là kẻ nào được Đảng cộng sản Việt Nam bảo kê, từ đảng viên tới tham quan, từ lãnh đạo tới gian thương sống nhờ lãnh đạo, thì kẻ đó dùng tiền của để sống tách biệt, cách xa với dân chúng đang trong quá trình dân đen hóa.
Đi ngược-đi lách-đi ngang-đi chéo
Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đi ngược-đi lách-đi ngang-đi chéo quá trình chính trị công minh-chính sách công bằng-chính giới công tâm. Có nhiều phương pháp luận để tổ chức chính sách phân phối lại cho đại chúng, bằng ngân sách, qua các dịch vụ chính thức phục vụ đại chúng, qua trung gian của công pháp, qua cầu nối của công sở, qua mạng lưới của cộng đồng, trong đó hai dịch vụ tối thượng-vì-tối hậu là : y tế và giáo dục, sau đó huấn luyện và đào tạo, kế đến bảo hiểm xã hội đi đôi bảo trợ các công trình nhân đạo... tất cả đây đều là : lương tri của một chính sách, lương tâm của một chính phủ, lương thiện của một chính quyền ! Khốn nạn là Việt tộc hiện nay không hề được hưởng ba chữ lương này ! Trong lịch sử chính trị của các quốc gia văn minh, có chính trị học để nhận định chính trường, có triết học chính trị để phân tích bổn phận của chính giới, có xã hội học chính trị để giải thích trách nhiệm của chính khách thì lý luận về công bằng là nguồn cội của mọi lập luận về công lý, cụ thể là không thể nào định nghĩa về công lý, mà không kèm theo một định nghĩa có tính thuyết phục cao về công bằng. Đây là một lỗi đã trở thành tội của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra bất bình đẳng qua đặc quyền và đặc lợi cho đảng viên, từ cán bộ địa phương tới lãnh đạo trung ương, từ đó tạo ra bất công sâu xa ngay trong xã hội.
Liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền trọc phú
Các khẩu hiệu Đảng là đầy tớ của nhân dân chỉ là loại xảo ngôn của gian dối để lừa đảo ở mức trắng trợn vì các khẩu lịnh này rất thô bỉ với sự thực là Đảng cộng sản Việt Nam đã ngồi xổm lên tất cả ! Từ hiến pháp tới tư pháp, chà đạp công lý, vùi dập công pháp, chôn sống công luật. Tại Việt Nam hiện nay, ta thấy rõ qua bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn đất thì tự do của một tên đầu nậu đất đai đã chia chác với các nhóm lợi ích trong chính quyền thì hoàn toàn rộng lớn và chúng "có tự do để giết tự do của dân chúng", để biến dân chúng thành dân oan. Như vậy, tự do phải được nhận định và định nghĩa qua không gian cụ thể, nơi mà bọn bạo quyền, tham quan, ma đất dùng các phương tiện của quyền lực sẵn có trong tay chúng để hủy, diệt, loại, bỏ tự do của dân oan, vừa không có quen biết trong quyền lực, vừa không có các phương tiện pháp quyền để tự bảo vệ tự do của chính mình. Tự do của một con cáo đang lộng hành giết chóc các con cừu trong chuồng mà các nạn nhan không có lối thoát, thì đây không phải là tự do mà là sát hại ! Tự do của liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền trọc phú khi chúng tự do dùng phương châm ma đạo của chúng là : "có tiền mua tiên cũng được", thì đây không phải là tự do trong liêm sỉ mà là hành động âm binh sát hại đồng bào.
Cái bạo của quyên, cái tà của quan
Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra bao thảm kịch nghèo nàn lạc hậu trên lưng, trên vai, trên đầu của Việt tộc, thì lối ra lâu dài là đưa hệ đa vào sinh hoạt chính trị, lấy đa đảng để có đa trí trong xây dựng lại xã hội, lấy đa tài làm nên đa năng, tạo ra đa hiệu từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới văn hóa…Và trước mắt là phải trở lại nhận thức về sự thật đa chiều, đa dạng của không gian chính trị, từ đó có hành động chính trị dựa trên công bằng, để có tổ chức chính trị dựa trên công lý. Với cách giải thích bất chính trong ngây ngô tại sao dân tộc phải mang ơn một đảng độc tài nhưng bất tài, gây bao hậu quả từ tiêu xài đến cạn kiệt tài nguyên của đất nước tới đưa ngoại xâm qua con đường công nghiệp gây ô nhiễm môi trường của đất nước, từ luyện thép kiểu Formosa tới các nhà máy than điện trên khắp các vùng miền, đang tạo ra các làng ung thư (một thảm kịch mới cho Việt tộc), song đôi cùng mưu đồ thâm hiểm qua đường thực phẩm bẩn, với hóa chất độc của Tàu tặc.
Cái uy trong quyền lực chính trị tới từ cái thiện của công bằng, cái đúng của công lý, nó hoàn toàn trái ngược với cái bạo của quyền, cái tà của quan, nơi mà bạo quyền và tham quan dựa trên bạo lực để vơ vét qua cách hành xử của Đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc hiện nay. Ở đây không có một cái uy nào cả, mà chỉ là hành vi hiếp, giành, trấn, lột tạo tiền đề cho hành động trộm, cắp, cướp, giật, chính loại hành vi này, chính kiểu hành động đang nạo rỗng cái uy của bè đảng cầm quyền, nơi mà cái uy đang bị siết cổ bởi cái gian và cái giật.
Bi kịch của bọn bám quyền chỉ vì tư lợi ích kỷ
Bi kịch hiện nay của các dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa, vì không phải là dân tộc kinh nên phải nhận lãnh những bất công không sao lường hết, tạo ra bao nghèo nàn lạc hậu. Và, bi kịch này sẽ là thảm kịch dẫn tới các xung đột giữa các dân tộc ít người và dân tộc Kinh, khi hệ thống bạo quyền trung ương qua các nhóm lợi ích đã thông đồng với các tà quyền tham quan địa phương, cùng tổ chức cho bọn ma quyền lâm tặc chặt cây, phá đồi để buôn gỗ, bán rừng, hủy môi trường, diệt môi sinh của các dân tộc anh em của các vùng xa, vùng sâu. Một chính quyền có nhận thức về công lý chính trị bằng hệ lương (lương thiện trong hành động vì có lương tâm trong lãnh đạo làm nên lương tri cho chính sách) thì không bao giờ hành xử như Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Bi kịch của bọn bám quyền chỉ vì tư lợi ích kỷ mà không có một nhận thức nào về công sản chính trị chính là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã nạo bán tài nguyên đất nước để bỏ túi bằng con đường tham nhũng, rồi chuồn tẩu tiền của qua tham ô của chúng qua phương Tây. Chính tư lợi qua tham nhũng với não trạng ích kỷ vô luân, ẩn sâu trong lòng tham không đáy, nên chúng mới tổ chức các đường dây xuất khẩu lao động để đàn ông Việt làm lao nô, phụ nữ Việt làm tiện tỳ cho các quốc gia láng giềng. Sự bất chính này sẽ không có giới hạn khi tư lợi chỉ thấy độc lợi trong độc đạo của nó, và chúng sẵn sàng đi từ phản dân hại nước tới buôn dân bán nước cho Tàu tặc !
Đảng cộng sản Việt Nam không hề quản lý để phát triển mà chỉ cai trị bằng bạo quyền
Hãy tỉnh táo để có sáng suốt khi đi tìm định nghĩa về tự do, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa… khi ta đặt tự do trong quyền lực chính trị, của chính quyền độc đảng trong thực trạng tự do cạnh tranh qua bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ta sẽ thấy, họ sẽ dùng tự do chính trị để tạo ra các bất công mới, mà ý đồ là để duy trì chế độ độc đảng. Thí dụ quá trình hội nhập vào kinh tế thị trường khi cho phép các doanh nghiệp ngoại quốc vào đầu tư tại Việt Nam với lực lượng lao động Việt dồi dào nhưng lương bổng thấp, bảo hiểm xã hội tồi, an sinh xã hội kém, luôn đi cùng với các chính sách xuất khẩu lao động, biến con dân Việt thành lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng. Chưa bao giờ trong xã hội Việt lại có sự chênh lệch về bất bình đẳng cao một cách bất thường như hiện nay, với các "đại gia" vỗ ngực là "tỷ phú" nhưng tri thức chỉ là "trọc phú" có mức sống xa hoa trong sa đọa, ngày ngày nhìn-mà-không-thấy nỗi khổ niềm đau của dân oan, dân đen, đang dở chết dở sống để sinh nhai ; sống mà không sao vượt qua khó khăn với quá nhiều mức thuế trên lưng, trên vai, trên đầu, và cùng lúc thì chính bọn bạo quyền, tham quan, ma đất… đã tránh được thuế qua tà đạo tham ô và tham nhũng của chúng. Không là chủ thể chính trị để sáng tạo trong lãnh đạo, Đảng cộng sản Việt Nam không hề quản lý để phát triển, mà chỉ cai trị bằng bạo quyền độc đảng, để bảo về đặc quyền, đăc lợi, đặc ân cho chính nó, sai lầm này là chỉ báo rõ nhất về ngày tàn không tránh khỏi của Đảng cộng sản Việt Nam.
Lê Hữu Khóa
(28/05/2021)
[1] GIÁO LUẬN (l’argumentation éducative). Anthropol-Asie. Paris
[2] NGHỆ LUẬN (l’argumentation artistique). Anthropol-Asie. Paris.
[3] SỬ LUẬN (l’argumentation historique). Anthropol-Asie. Paris
[4] OAN LUẬN (l’argumentation contre l’injustice). Anthropol-Asie. Paris
[5] TỰ LUẬN (l’argumentation libérée pour la liberté). Anthropol-Asie. Paris
[6] ĐỒNG LUẬN (l’argumentation fondatrice de la nation). Anthropol-Asie. Paris
[7] VIỆT LUẬN (l’argumentation vietnamienne). Anthropol-Asie. Paris
[8] TỔNG LUẬN. I (l’argumentation synthétique. 1). Anthropol-Asie. Paris
[9] TỔNG LUẬN. II (l’argumentation synthétique. 2). Anthropol-Asie. Paris
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay : Đừng lãnh đạo nữa !
Thường dân chỉ muốn sống vớì cơm no áo ấm của thường dân, còn lãnh đạo phải sống và làm việc vì dân tộc, vì giống nòi, vì đất nước.
Đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có nội công của chính khách, không có bản lĩnh của chính giới, không có tầm vóc của chính trường như đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ muốn sống vì tư lợi của họ, lấy tham quyền để nuôi lạm quyền, lấy tham quan để nuôi hoạn quan, thì họ không phải là lãnh đạo của dân tộc. Đám này chắc chắn không phải là những chính khách có tuệ giác trong chính giới có trí tuệ ; mà tuệ giác và trí tuệ đều có một nền chung là lý trí của đạo đức, có tổ là đạo lý hay, đẹp, tốt, lành ; có tông là luân lý để định vị cho trách nhiệm vì tổ quốc và bổn phận vì đồng bào. Ngay trên thượng nguồn của định đề chính trị : chính khách có tuệ giác trong chính giới có trí tuệ, thì vấn đề trình độ của lý trí làm nên mật độ của tuệ giác, tạo ra cường độ của trí tuệ. Trong không gian tri thức của đạo đức, đạo lý, luân lý thì không một lãnh đạo nào của Đảng cộng sản Việt Nam, từ Bộ Chính trị xuống Trung ương đảng, từ chính quyền tới chính phủ không một cá nhân lãnh đạo nào hiện nay có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo.
Nhận định chung của chính trị học tri thức và triết học chính trị phân tích thì rất rõ là đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, không có một cá nhân lãnh đạo nào tương đối (chớ chưa cần đòi hỏi tuyệt đối) có chiều cao của trình độ lý trí, có chiều dày của mật độ tuệ giác, có chiều rộng của cường độ trí tuệ. Nhận định chung này không hề là chuyện trừu tượng của một lý thuyết chính trị mơ hồ, mà cả ba : chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ, chính là ba chỉ báo của xã hội học kiến thức khi điều tra, khảo sát, nghiên cứu về các lực lượng và các cá nhân lãnh đạo trong bối cảnh toàn cầu hóa của thế kỷ này. Chính ba chỉ báo : chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ là nội dung của ba nội công của ý thức chính trị làm nên ba bản lĩnh của nhận thức chính trị, nếu không có ba loại vốn chính trị này thì sẽ không kham được ba đòi hỏi : phát triển cho đất nước, tiến bộ cho dân tộc, văn minh cho giống nòi. Ba chỉ báo này đã là sự thật hiển nhiên của các quốc gia láng giềng cùng chung nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, trong đó có cả Sinpapour, và ta không quên Trung Quốc. Chính tại đây, từ chuyên gia tới thường dân, ai cũng thấy-và-thấu là đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có nội công của chính khách, không có bản lĩnh của chính giới, không có tầm vóc của chính trường như đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Cũng từ chuyên gia quốc tế về tình hình hiện nay của Việt Nam cho tới thường dân Việt đang ngày ngày bị cai trị bởi dưới bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam bằng công an trị, thì tất cả đều thấy tận gốc, thấu tận rễ là các lãnh đạo chỉ biết loay hoay chung quanh các đứa con âm binh do chính nó sinh ra : tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… Đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đang minh chứng rồi xác chứng một luận thuyết của xã hội học tái sản xuất bất chính : con tham quan thì được tham quan, cháu tham quyền thì được tham quyền, chắt của tham tiền thì được tham tiền. Nơi mà cái độc tài luôn sinh đôi ra độc tài và bất tài ; nơi mà cái độc trị luôn sinh đôi ra độc trị và vô minh trong quản trị ; nơi mà độc quyền luôn sinh đôi ra cực quyền và cuồng quyền. Khi ta vân dụng khoa học tri thức mà tên gọi quen thuộc là khoa học não bộ để song hành cùng tâm lý học xã hội, thì ta phải đi thẳng tới kết luận là đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là ký sinh trùng của quyền lực, đã tà hóa quyền lực vì quyền lợi của chúng bằng tà lộ của lòng tham không đáy. Từ đây, ký sinh trùng của quyền lực sẽ sinh sôi nẩy nở ra vô số ký sinh thể của quyền lợi là đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, dùng phản xạ vụ lợi để củng cố phản ứng tư lợi, vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước.
Trong biệt dinh của các lãnh tụ, trong biệt phủ của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam thì chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ không hề có ghế ngồi ; tại đây thì nội công của ý thức chính trị và bản lĩnh của nhận thức chính trị, không hề có chỗ đứng ! Nên đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn thường mất ăn mất ngủ với ba định đề của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) là đại lộ của dân chủ trong đa nguyên vì nhân quyền. Chưa hết, đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam cũng mất ăn mất ngủ với các chủ thể mang nội công, bản lĩnh, tầm vóc của minh quân, minh vương, minh chủ, minh chúa được trợ lực bởi các minh sư biết nhìn xa trông rộng với chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ.
Nếu lãnh đạo chính trị với bao bất an mất ăn mất ngủ, thì đừng lãnh đạo nữa !
Đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có nội công chính khách, không có bản lĩnh chính giới, không có tầm vóc chính trường, vì đám này không hề có chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ ; họ rỗng nội công của ý thức chính trị, trống bản lĩnh của nhận thức chính trị, đây chính là bi hài kịch của Đảng cộng sản Việt Nam, mà cũng là một thảm kịch cho Việt tộc.
Nguyên khí của quốc gia là thanh niên, thì trong chính sách xuất khẩu lao động của các người trai phải thành lao nô, gái phải là nô tỳ cho các quốc gia láng giềng.
Không có chữ : Thương
Gởi các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam,
Từ tiềm thức tới ý thức, hình như các người không biết một chữ được Việt tộc trân quý, nâng niu, gìn giữ như để bảo bọc chính lương tri của mình, chuyện lạ là chữ này không hề có chỗ đứng ghế ngồi trong tuyên bố, văn bản, nghị quyết của các người, đó là chữ : thương ! Đọc Việt sử thì biết là Việt tộc dắt díu nhau vượt thoát khổ ải, vượt thắng khổ nạn bằng chữ thương này, từ bầu với thương lấy bí cùng tới thương người như thể thương thân. Nội công của nhân nghĩa của Việt tộc là đây, bản lĩnh của nhân tâm là đây, tầm vóc của nhân từ là đây, vậy mà từ bao năm qua từ chữ nghĩa tới lời nói, chữ thương không hề hiện diện trong ngôn ngữ của các người, không hề hiện hữu trong chính sách của các người.
Hãy bắt đầu bằng nghiên cứu của chính trị học tri thức về văn bản của chính sách, cùng lúc phối hợp với khảo sát của văn học nhận thức, thì thấy rõ ngay là không có một lãnh tụ nào của Đảng cộng sản Việt Nam có một tác phẩm về kiến thức tình thương ; không có văn bản lý luận nào của các lãnh đạo hiện nay về tri thức tình thương. Ngược lại ngày ngày, người ta chỉ thấy các người nhìn nhân dân như các lực lượng thù địch, thậm chí các người còn lao lý hóa các đứa con tin yêu của Việt tộc biến các công dân tinh hoa này thành ra các tù nhân lương tâm. Vẫn chưa xong, các người biến dân lành thành dân đen trong nạn cảnh đầu đường xó chợ, dân tốt thành dân oan trong thảm cảnh màn trời chiếu đất, Việt Nam bây giờ thua kém các quốc gia láng giềng về mọi mặt nhưng là cường quốc về dân đen, dân oan.
Việt Nam hiện nay đã là cường quốc về địa ngục trần gian, nơi kiến thức tình thương bị siết cổ tới ngộp thở, nơi mà tri thức tình thương bị diệt ngay trong trứng nước, nơi mà nhận thức tình thương bị thanh trừng khi mới sơ sinh. Vì tất cả phạm trù kiến thức tình thương, tri thức tình thương, nhận thức tình thương không hề có ghế ngồi hoặc chỗ đứng trong bạo quyền công an trị, tà quyền tham quan trị, ma quyền tham nhũng trị, với bạo hành thường nhật đã trở thành bạo động tuyệt đối, ngay trong nội bộ của các người là thanh trừng trị. Với phản xạ giết người diệt khẩu đã thành truyền thống của Đảng cộng sản Việt Nam, tất cả lãnh đạo từ Bộ Chính trị tới Trung ương đảng, từ bạo quyền hành pháp tới quỷ quyền tư pháp, kể cả tật quyền lập pháp, thì từ triết học đạo đức tới xã hội học nhận thức đều phải kết luận rằng tất cả số kiếp của các người cộng lại vẫn không vượt qua nổi một ca từ của Trịnh Công Sơn, khi nhạc sĩ này nói về ngôn ngữ của tình thương : "Miệng ngậm hạt từ tâm".
Làm sao các người có được nhận thức tình thương khi cả gần một trăm triệu công dân Việt bị các người người mạt vận hóa, mà tộc kiếp thường nhật thấp xa so với đảng kiếp của các người. Khi các người đứng trên đất nước của tổ tiên Việt thì các người chỉ có phản ứng nạo vét tài nguyên ; khi các người nắm được tiền bạc của dân tộc trong tay thì các người chỉ có phản xạ vơ vét. Vẫn chưa thỏa dạ các người, nguyên khí của quốc gia là thanh niên, thì trong chính sách xuất khẩu lao động của các người trai phải thành lao nô, gái phải là nô tỳ cho các quốc gia láng giềng. Các người đang điếm nhục hóa cả giống nòi Việt, chỉ vì chữ thương đã bị thanh toán trong não bộ, đã bị thanh trừng trong não trạng của các người.
Đây là thất bại nội tâm làm nên thảm bại nội não của các người, nên từ khi các người cướp được chính quyền, ngày ngày các người cai trị công dân Việt bằng công an trị, trừng trị các đứa con tin yêu của Việt tộc đã không đồng ý với các người bằng lao lý trị, gần như tất cả dân tộc đều bị xem như kẻ thù không đội trời chung với các người. Các người đã đứng ngoài, đứng xa, mà còn đứng chặn giòng sinh mệnh của Việt tộc, vì nơi các người đang đứng trống nhân đạo, rỗng nhân từ, vắng nhân tâm. Các người đã mang một nội thương mà các người không biết, bi kịch của nội thương này đã là một ung thư đại tràng ngay trong não bộ của các người, với não trạng biệt tăm biệt tích tình thương.
Các người đi qua nhân sinh của dân tộc, đi ngang nhân kiếp của giống nòi, mà các người vẫn không hề hiểu giá trị cốt lõi của cuộc sống tích tụ chung quanh chữ thương. Bi kịch vô minh sẽ làm nên thảm kịch vô giác của các người, vì tới ngày các người sắp phải vào quan tài, sắp phải nhập mộ phần của chính các người, mà các người vẫn không hề hiểu gì về : chiều sâu, chiều rộng, chiều dài, chiều cao của một giá trị tâm linh, nơi nhân tâm làm nên nhân vị, nơi nhân từ làm nên nhân bản, nơi nhân nghĩa làm nên nhân tri, tất cả đều quy tụ chung quanh chỉ một chữ : thương !
Tâm khảm người Việt trong và ngoài nước đau xót nhìn miền Trung với bao kiếp người lênh đênh trên nước như lê thê trên tử lộ.
Thấu suốt nỗi đau
Năm 2020, dài đăng đẳng, dài lê thê, dài tưởng chừng như không dứt, ai cũng mong năm này mau dứt để nhìn về những năm tới, để tái tạo lại được hy vọng, để cuộc đời đi về hướng ánh sáng.
Tại sao vậy ? Vì đầu năm 2020 này thì dịch bịnh cúm Tàu bùng lên rồi trùm phủ lên cả nước, giữa năm thì bão táp, cuối năm thì lụt lở, với bao đồng bào bị thiệt mạng. Tâm khảm người Việt trong và ngoài nước đau xót nhìn miền Trung với bao kiếp người lênh đênh trên nước như lê thê trên tử lộ. Nhìn để thấy, thấy để thấu suốt nỗi đau của một đất nước đang bị phanh thây, và trên đất nước đó thì thân thể cùng sinh mạng của đồng bào đã không bám được mảnh đất nơi mình đã chôn nhau cắt rốn. Sinh địa quê hương thủa nào giờ đây đã thành tử địa ! với thiên nhiên bị nhân tai đánh tới gục bằng thủy điện, với môi trường bị rã tan vì tà quyền tham nhũng cấu kết với ma quyền tham tiền đã diệt coi như gần hết rừng nguyên sinh. Tiêu diệt rồi tận diệt, với cường độ vận chuyển lũ lượt đưa gỗ quý về biệt dinh, biệt phủ, biệt thự của tham quan, chính là những đám con nòi của chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả trong hoạn cảnh của Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng tỷ tỷ liên hoan các buổi tụ họp để mừng chuẩn bị cho đại hội sắp tới Đảng cộng sản Việt Nam.
Miền Trung, từ năm này sang năm kia cam nhận giông bão… nhưng năm nay 2020 thì mật độ và cường độ của lụt lở lại mang quỷ dạng của tử thần đang trùm phủ lên miền Trung, rồi sẽ từ từ trùm tỏa lên cả đất nước Việt. Người Việt nghiến răng, bặm môi, điếng nhìn cái chết của môi trường, mà môi sinh chính là tiền đồ của tổ tiên đang bị bức tử, với tử thần chỉ nay mai thôi sẽ lần mò tới để đe dọa chính sự sống của dân tộc. Người dân biết từ lâu là chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị đã áp đặt công an trị để cai trị dân tộc, chỉ để nuôi nấng cho béo bổ hai đứa con nòi của nó là : tà quyền tham nhũng trị và ma quyền tham tiền trị. Nhưng nhân cách của người Việt ngày ngày còn bị đám tuyên giáo thô tục hóa bằng tuyên truyền trị với ý đồ sâu độc của ngu dân trị, chúng gởi đám âm binh đại diện cho quỷ quyền hành pháp tới tuyên bố giữa đám tật quyền lập pháp ngay trong Quốc hội là lý do lụt lở năm 2020 là «do chất da cam của Mỹ» thời xưa, của thế kỷ qua, xảo ngôn đã thành điếm ngữ !
Đám lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ bằng độc đảng, chúng độc tài nhưng bất tài, chúng độc trị nhưng không hề biết quản trị, chúng độc quyền nhưng ngày ngày tham quyền để lạm quyền rồi lộng quyền, mà theo phân tâm học chính trị thì ngay trong cực quyền chúng đã lâm trọng bịnh cuồng quyền. Tại đây thì triết học đạo đức và tâm lý học xã hội đã cùng nhau giải thích rằng đây chính là nội chất của bọn ăn tươi nuốt sống chính sự sống dân tộc, là bọn ăn dày nuốt trọn chính sức sống giống nòi, chuyện "cơm bữa" của chúng là ngày ngày ăn tàn phá sạch từ tài nguyên tới thiên nhiên của đất nước. Chúng bám quyền lực để hủ lậu hóa quyền lợi của chúng, vụ lợi để tư lợi, đặc quyền để đặc lợi, rồi tự đặc lợi để tự đặc ân, nên chúng dễ dàng thô tục hóa nhân dân bằng xảo ngữ của tuyên truyền trị, như từ lâu chúng đã tự điếm nhục hóa chính nhân cách của chúng. Vơ vét tiền bạc của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước, chưa hết chúng tàn phá đến thiên nhiên phải quỵ gục, chỉ để thỏa lòng tham không đáy là đã trộm, cắp, cướp, giật gỗ quý của rừng nguyên sinh với hoạn cớ là xây thủy điện.
Tự điếm nhục hóa nhân cách đã trở thành bản chất của cực quyền trị, tự điếm lận hóa nhân cách đã trở thành bản sắc cuồng quyền trị của chúng. Nếu mỗi người Việt tự đặt câu hỏi đâu là nguồn cơn sâu xa trong nỗi khổ niềm đau của Việt tộc hiện nay ? Thì nội lực liên minh của học thuật, nghiên cứu, khảo sát, điều tra điền dã của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn đã thẳng thắn mà thông báo cho chúng ta biết là nguồn cơn sâu xa tới từ bạo quyền độc đảng toàn trị, bạo hành công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị. Mỗi công dân Việt hãy bắt đầu tự nghĩ suy từ đây, mà thấy cho thấu chiều sâu, chiều rộng, chiều dày, chiều dài về nỗi đau sâu suốt của Việt tộc hiện nay, vì nhìn mà không thấy thì không khác gì đã bị lòa, thấy mà không thấu thì không khác gì đã bị lãng !
Xin kể một chuyện lạ trong (vô) tri thức của các quan chức Đảng cộng sản Việt Nam, đây cũng là câu chuyện kể về miền Trung trong ca khúc Nước non ngàn dặm ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy, ca khúc này kể đoạn đường "đi làm dâu" từ miền Bắc vào miền Trung của Huyền Trân công chúa, đã thuận ý với cha là Trần Nhân Tông để thuận hôn với Chế Mân vì hòa bình của hai quốc gia, Chàm và Việt. Tôi chỉ trích ra chỉ một ca từ thôi trong tuyệt phẩm này :
"Nước non ngàn dặm ra đi…
Dù đường thiên lý xa vời…
cũng không dài bằng lòng thương mến người".
Tôi giới thiệu câu này để đề nghị là các quan chức Đảng cộng sản Việt Nam mà tôi đã được gặp, hãy cùng tôi bình luận để bình phẩm ca từ này. Tại sao phải bình phẩm ca từ này ? Bình-phẩm-để-tiếp-nhận-nhân phẩm của Việt tộc trong lý luận đạo lý Việt "Dù đường thiên lý xa vời… cũng không dài bằng lòng thương mến người", mà tụ điểm đạo đức Việt chính là : lòng thương mến người. Tôi rất ngạc nhiên không những về sự (vô) minh luận của các quan chức Đảng cộng sản Việt Nam khi họ tiếp nhận ca từ này, vì sao bao năm rồi tôi vẫn chưa thấy ai trong đám quan chức Đảng cộng sản Việt Nam bình-luận-đúng-để-bình-phẩm-trúng về ca từ này.
Với tháng rộng năm dài, tôi đã phải kết luận là các quan chức Đảng cộng sản Việt Nam đã không biết hoặc không hiểu gì về nội lý đức hạnh của tổ tiên Việt đã làm nên nội công đạo đức của giống nòi Việt là : "Dù đường thiên lý xa vời… cũng không dài bằng lòng thương mến người". Nếu không biết, không hiểu, không có lòng thương mến người thì làm sao thấu được nỗi khổ niềm đau của dân tộc ! Đây chính là thảm bại vô cùng tận của các quan chức Đảng cộng sản Việt Nam, mà cũng chính là thảm họa vô cùng lớn của Việt tộc.
Lê Hữu Khóa
(03/02/2021)
-------------------
Lê Hữu Khóa là Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học Châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
1. Các người có biết yêu không ?
Trong khoa học xã hội và nhân văn, chủ đề tình yêu sâu rộng trong học thuật, sắc nhọn trong nghiên cứu, không ồn ào trong khảo sát, không gào thét trong điền dã nhưng luôn hiện hiện, nhưng hiện hữu như một ẩn số của nhân tri làm đẹp cho hằng số của nhân sinh. Không tính toán hóa các toan tính như toán học, không thí nghiệm hóa các tri thức như các ngành khoa học thực nghiệm, ngược lại khoa học xã hội và nhân văn đi tìm để hiểu, thấy để thấu những bí ẩn sâu xa nhất của con người, trong đó có chủ đề về tình yêu.
Chủ đề tình yêu được con người xem là thiêng liêng từ cảm động nhẹ tới cảm xúc mạnh khi yêu, khi được yêu, ngay cả khi đang đi tìm tình yêu. Chuyện lạ là tình yêu cũng phải được nuôi, phải được dưỡng, phải được bảo trọng như một thân thể cần khí trời để thở, cần thức ăn để nuôi thân. Nhưng thân thể thì ăn uống là phản xạ thường nhật, mà người Việt nói là "cơm bữa", còn tình yêu đòi hỏi cao, sâu, xa, rộng hơn, tình yêu bó-để-buộc hai kẻ thật sự yêu nhau phải giữ cường độ cảm động, mật độ cảm xúc làm nên trình độ của tình yêu, vì tình yêu không hề là một tình cảm bình thường. Nên tình yêu đưa đường dẫn lối cho hai kẻ thật sự yêu nhau phải sáng tạo hằng ngày bằng từ hành động tới hành tác, phải chế tác thường nhật từ ngôn ngữ tới thuật ngữ để nuôi phần tâm hồn bằng cảm động, dưỡng phần tâm linh bằng cảm xúc.
Nếu phần tâm hồn và phần tâm linh không được nuôi dưỡng rồi giáo dưỡng bằng cường độ cảm động, mật độ cảm xúc tình yêu sẽ chết dần chết mòn để tới lúc là "chết luôn" ! Để hai kẻ hết yêu nhau phải "cắn răng" mà chỉ xem nhau là "tình bạn" ; đau xót hơn là khi hết yêu nhau mà đã có hôn nhân, đã cho ra đời các thế hệ sau, lại không dám ly hôn, mà phải "ngậm hờn" mà biến tình yêu thành "tình nghĩa". Thậm tệ nhất từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp và nắm được chính quyền, thì người Việt khám phá ra thêm là khi hai kẻ thuở trước yêu nhau, thuở này hết yêu nhau, cụ thể là khi tình yêu chết, tình ái bị bứng tận gốc, tình dục bị trốc tận rễ, thì người ta "dở khóc dở cười" mà đổi tên thay họ tình yêu ra thành "tình đồng chí".
Nhưng tình yêu và "tình đồng chí" là hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau, đối nghịch nhau -hai phương trời cách biệt- chỉ vì tình yêu thiêng liêng nên khi hai kẻ yêu nhau mà không kết hai thành một được, thì tình yêu có thể dẫn tới bi kịch. Còn chuyện biến tình yêu ra thành "tình đồng chí" chỉ có thể là hài kịch, mà trong điều tra vì học thuật, khảo sát để nghiên cứu của tôi nhiều năm qua về các lãnh tụ lập ra đảng tới các lãnh đạo đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam thì đúng là bi-hài-thảm-kịch khi họ lần mò như âm binh ẩn hiện trong âm giới, khi họ lén lút đi lại trong không gian ân ái của ham muốn làm nên tình dục phải được thỏa mãn.
Cụ thể là hệ vấn đề nghiên cứu của tôi chỉ là một câu hỏi : từ các lãnh tụ lập ra đảng tới các lãnh đạo đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam : họ có biết yêu không ? Đối diện để đối thoại thì câu hỏi trực tiếp để trực luận là : các người có biết yêu không ? Đây là một câu hỏi cần được có câu trả lời chỉnh lý tới từ các lãnh tụ, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, mà câu trả lời hợp lý còn phải tới từ các chủ thể biết vận dụng tự do tri thức trong học thuật để có giải đáp toàn lý. Vì đây là câu chuyện vô cùng "trầm trọng" trong nhân kiếp của mỗi cá nhân, vì sống mà không biết yêu thì khác gì chưa sống, không sống ! Sống mà không vượt thắng tình cảm thô sơ để được hạnh ngộ với tình yêu thì đúng là bất hạnh ! Sống mà chỉ thỉ thấy tình dục phải cần đươc thỏa mãn mà không có gì cảm xúc với tình yêu mà lại muốn lãnh đạo dân tộc thì dễ thành bất nhân.
Rào trước đón sau trong học thuật bằng lý luận cũng là rào dậu tát ao trong nghiên cứu bằng chứng từ, hãy bắt đầu bằng văn tự của các lãnh tụ tới văn bản của các lãnh đạo hiện nay, thì tình yêu hoàn toàn vắng mặt, kể cả tình thương [1] cũng vắng tanh luôn, từ chính sách tới quốc sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu tình yêu vắng mặt trong các quyết sách chính trị thì đây cũng là chuyện dễ hiểu, nhưng tình yêu cũng "biền biệt miệt thiên thu", (theo mô thức của thi sĩ Tô Thùy Yên) ngay trong các hồi ký của các lãnh tụ, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngược lại, tại các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền thì các lãnh tụ lẫn lãnh đạo các đảng phái đã cầm quyền, họ viết thoải mái về tình yêu, họ kể thư thả về người yêu, họ trình bày mạch lạc về giá trị của tình yêu trong cuộc đời của họ. Nhưng tại Việt Nam thì các lãnh tụ lẫn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tuyệt đối "im hơi lặng tiếng" trước tình yêu. Một sự im lặng vừa đáng ngờ, vừa đáng lo !
Chuyện cao, sâu, xa, rộng của một chủ đề nghiên cứu làm nên chuyện hay, đẹp, tốt, lành trong không gian tri thức của khoa học xã hội và nhân văn là chuyện ẩn số này cõng ẩn số kia, chuyện hằng số kia bồng hằng số nọ. Tại sao vậy ? Chỉ vì học thuật chỉ tôn trọng sự thực, nghiên cứu chỉ tôn vinh chân lý, điều tra để khảo sát là đưa sự thật và chân lý tới để đối diện với lẽ phải, mà lẽ phải được làm nên từ rễ đạo đức của tổ tiên, gốc đạo lý của dân tộc, cội luân lý của giống nòi. Tại đây, chúng ta rất ngạc nhiên là từ lãnh tụ thuở lập đảng tới lãnh đạo thuở này khi đứng trước quần chúng thì họ vỗ ngực xưng tên là họ làm cách mạng để bảo vệ lẽ phải, để chống bất công. Nhưng trong lý lịch cá nhân thì họ là đám đàn ông đa thê, không hề tôn trọng phụ nữ, và chưa hề thực sự mong muốn nam nữ bình quyền, nữ nam bình đẳng. Chủ đề tình yêu có thông minh riêng của nó, vì nó biết vạch mặt chỉ tên đám đàn ông lãnh đạo thô tục trước tình dục, mạt vận trước tình yêu ; đây là sự thông minh biết đứng về phía phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải. Cụ thể hơn nữa sự thông minh của tình yêu biết đứng về phía nước mắt !
Chuyện đáng sợ bắt đầu bằng đảng trưởng thuở lập đảng là Hồ Chí Minh cho tới ngày qua đời thì hai chữ tình yêu hoàn toàn biệt tăm biệt tích từ văn bản tới hồi ký, nhưng nhân vật này lại tự biết viết hồi ký lấy một bút hiệu giả danh để tự ca tụng mình, chỉ mới qua tuổi năm mươi mà tự xưng là cha già của dân tộc. Lại còn tự xướng là nhận cuộc sống độc thân, không lập gia đình để hy sinh trọn vẹn cho cách mạng, cho đất nước. Nhưng sự thật là sự thật, trong cuộc sống của hắn có những bóng tối là những quan hệ tình ái hoặc tình dục rất vụng trộm với phụ nữ mà học thuật lẫn người đời không nghĩ đây là tình yêu. Vì người biết yêu là kẻ phải bảo vệ người yêu của mình để bảo trì tình yêu của mình ; còn nhân vật này thì ngược lại có quan hệ với một phụ nữ lại để người phụ nữ bị thủ tiêu, mà người Hà Nội đặt tên là án mạng bãi Dâu sông Hồng. Câu chuyện tình yêu luôn đẹp dưới ánh sáng của nhân tính trước chân trời của nhân lý, còn chuyện thủ tiêu hoặc để đàn em âm binh của mình thủ tiêu người phụ nữ đã có quan hệ tình ái với mình, thì đây là chuyện chẳng dính dáng gì với tình yêu. Mà ngược lại, đây chính là kẻ tội đồ đã giết người để xóa dấu tích, loại người này không bao giờ có chỗ đứng, ghế ngồi trong tình yêu. Vì loại người này không bao giờ hiểu để biết tình yêu là gì, sẽ không bao giờ thấy để thấu mô thức tình yêu của Thanh Tâm Tuyền : "Hãy yêu như giọt nước long lanh".
Vì người biết yêu là kẻ phải bảo vệ người yêu của mình để bảo trì tình yêu của mình ; còn nhân vật này thì ngược lại có quan hệ với một phụ nữ lại để người phụ nữ bị thủ tiêu, mà người Hà Nội đặt tên là án mạng bãi Dâu sông Hồng. Ảnh minh họa Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân
Chuyện đáng sợ của đảng trưởng thuở nào là Hồ Chí Minh lại dính chặt như sam với chuyện đáng buồn nôn của kẻ đã tự bỏ nhân vị thi sĩ của mình để chọn làm bút nô cho bạo quyền độc đảng toàn trị là Tố Hữu. Ngay trong một bài thơ tình, lúc hắn tỏ tình với một phụ nữ, thì hắn hô to hét lớn rằng : "Trái tim anh dành cho đảng phần nhiều", mà hắn biết hơn ai hết là đảng của hắn không hề có trái tim để hắn dùng trái tim của hắn mà làm kho. Bản lai diện mục của Tố Hữu đã có lý lịch vướng vào cái ác khi hảm hại các chủ thể của Nhân Văn Gia Phẩm, ở đây cái ác làm nên cái tội là sẵn sàng ngậm máu phun người của hắn. Bị kịch của đám bút nô cho đảng là chúng vắng tình yêu, trống tình thương, rỗng tình nghĩa nên chúng luôn bị các nạn nhận của chúng đi trên lưng của chúng về kiến thức, đi trên vai của chúng về tri thức, đi trên đầu của chúng về nhận thức. Cho tới ngày mạt kiếp-mãn phần bọn bút nô này chỉ là bọn chuyên nghề chém sau lưng theo mô thức của Trần Dần, mà dân gian còn gọi là bọn chó cắn trộm. Chúng không sao hiểu được nhân sinh quan của tình yêu chế tác ra vũ trụ quan nhân tính, chúng làm sao nhập nội được vào mô thức của Hoàng Cầm về tình yêu, mà Hoàng Cầm luôn là nạn nhân của sự ganh tị của Tố Hữu trước và sau oan án Nhân Văn Giai Phẩm, chỉ vì Tố Hữu không biết yêu mà Hoàng Cầm thì biết yêu :
"Có phải em đang cầm gió Bấc
Quất lên sông Đuống buốt phù sa".
Chuyện đáng sợ của đảng trưởng thuở nào với chuyện đáng buồn nôn của kẻ đã tự chọn nhục vị bút nô thế kỷ trước mang hệ lụy nhân nào quả nấy tới thế kỷ này với tư cách đáng làm ta lợm giọng của nguyên tổng bí thư Nông Đức Mạnh, mà dân gian đồn đại rồi chính hắn cũng nuôi tâm dưỡng tích là dứa con rơi của Hồ Chí Minh đảng trưởng thuở nào. Ngoài chuyện bất tài trong vô tướng mà nhân vật này phải luôn đánh bóng bằng đầu tóc cho mượt như sắp phải hầu đồng cho tới nội thất của hắn kiểu trọc phú vì trọc tri lẫn trọc thức. Ba cái trọc này đã vạch tới nơi tới chốn cái vô thẩm mỹ của chính hắn và của nhiều quan chức của Đảng cộng sản Việt Nam tới từ vô minh về mỹ quan, vô tri về mỹ cảm làm nên vô giác trước mỹ thuật, vô cảm trước mỹ học. Nên cái trưởng giả học làm sang của hắn đã vạch mặt chỉ tên hắn chính thành viên của đám là vô học nên vô hậu trước mỹ luận. Trên chủ đề tình yêu này, thì hắn có biết gì không ? Nhưng người đời biết chỉ biết hẳn qua chuyện, mã tầm mã tức là ngựa tìm ngựa, khi hắn đoạt người tình của chính con trai của hắn bằng quyền lực và tiền bạc. Loại cướp nhân tình bằng quyền lực kiểu gà què ăn quẩn cối xay và tiền bạc kiểu thừa gió bẻ măng làm sao thấy được giá trị cao cả của tình yêu đích thực bằng mô thức tình yêu biết còng tình thương của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn : "Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ".
Một đảng với đám quan chức lén lút trong tình dục, lòn lách trong đa thê, luồn rút trong đa thiếp… tôi có lần được nghe tận tai những lời thô bỉ của chúng : "làm quan thì được quyền đa thê, đa thiếp". Ảnh minh họa Nông Đức Mạnh và Đỗ Thị Huyền Tâm
Chuyện đáng sợ của đảng trưởng, chuyện đáng buồn nôn của bút nô, chuyện đáng lợm giọng của một cựu tổng bí thư, tất cả làm nên chuyện đáng rùng mình của một đảng với đám quan chức lén lút trong tình dục, lòn lách trong đa thê, luồn rút trong đa thiếp. Các hành động của đám này hoàn toàn ngược với cuộc sống, nghịch với cuộc đời của những ai biết yêu, từng yêu, đã yêu, vì đã biết dấn thân vì tình yêu, đường đường chính chính trong quan minh chính đại. Hoạn kịch làm nên bại não, họa kịch làm ra liệt não là khi đám này tụ lại với nhau như bầy sâu thì chúng lại tự vỗ ngực, mà tôi có lần được nghe tận tai những lời thô bỉ của chúng : "làm quan thì được quyền đa thê, đa thiếp". Khi nghe được loại câu chữ này, thì đúng là tôi lợm giọng, buồn nôn và nổi da gà vì thấy chúng đang tự súc vật hóa tư cách của chúng. Không có tư cách trong xã hội thì làm sao có phong cách để lãnh đạo dân tộc ? Không có tư cách lẫn phong cách thì làm sao có nhân cách để thấy-cho-thấu tình yêu ? Đám quan chức này không sao biết nhân vị vô biên của tình yêu trong mô thức của nhạc sĩ Phạm Duy : "Tình âm dương chan chứa xoay trong vòng tử sinh". Đám quan chức này không sao biết được nhân ái vô vàng của tình yêu mô thức của thi sĩ Cùng Trầm Tưởng :
"Quanh bên tôi đời êm như ấp ủ
Mật đêm thương vừa ngọt đủ tuần trăng".
Não bộ làm nên não trạng "làm quan thì được quyền đa thê, đa thiếp" là hoạn kịch làm nên bại não, họa kịch làm ra liệt não trong âm giới của chúng, mà cũng là thảm kịch cho Việt tộc. Chúng sẽ lây truyền bịnh khuyết não, sẽ lây lang dịch khuyết nhân tới các thế hệ trẻ mà chúng ta ngày ngày thấy nhan nhản cảnh ăn tươi nuốt sống quan hệ tình ái của nhiều người trẻ. Cả một tập thể không nhận ra giá trị thiêng liêng của tình thương, không hiểu được giá trị thiêng bẩm của tình yêu. Chính giá trị thiêng liêng của tình thương và giá trị thiêng bẩm của tình yêu có mặt để bảo vệ nhân lý vì nhân tính, nhân bản vì nhân văn, nhân đạo vì nhân vị, nơi mà nhân tự biết song hành cùng nhân ái.
Hãy trở lại hệ vấn đề nghiên cứu ban đầu chỉ qua một câu hỏi cho các lãnh tụ lập ra đảng cho tới các lãnh đạo hiện nay đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, họ có biết yêu không ? đã hình thành câu hỏi trực tiếp để trực luận là : các người có biết yêu không ? Đây là dịp học thuật hỏi thêm một câu nữa là các người có biết nội lực tri thức, sung lực ý thức và hùng lực nhận thức của tình yêu không ? Nếu không biết thì xin được giới thiệu kích thước và tầm vóc cùng bản lỉnh của tình yêu tới với các người, chỉ qua hành tác thi ca của Thanh Tâm Tuyền :
Bài ca tụng tình yêu
Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão
Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
Tìm cánh tay nước biển
Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi
Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường
Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt
Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường
Tôi chờ đợi cười lên sặc sỡ… mái ngói thành phố ruộng đồng
Bấu lấy tim tôi thành nhịp thở
Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng chảy máu tiếng kêu.
Giáo sư Phạm Biểu Tâm nói chuyện với Sinh viên Y Khoa trong một giảng đường 28 Trần Quý Cáp, Sài Gòn sau khi bị bắt trước biến cố 1963 - Ảnh Life
2. Dân trí cỏng dân sinh
Phan Chu Trinh không để lại cho chúng ta một sự nghiệp cách mạng chính trị, mà ông đã để lại cho ta một sự nghiệp lý luận chính trị mà khai trí luôn là ánh sáng để đưa đường dẫn lối cho dân tộc và giống nòi, với định đề mà ông luôn muốn trao cho chúng ta : dân trí đi trước để dẫn dân sinh. Các quốc gia láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với chúng ta đã thành công trên nhân lộ này : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, mà ta không quên Singapour. Ta cũng không được quên Trung Quốc với tầm nhìn khoa học kỹ thuật của họ trong hệ vấn đề dân trí, từ Đặng Tử Bình tới đám đàn em, đàn con hiện nay đang lãnh đạo Đảng cộng sản trung quốc, với những toan tính chính sách làm nên thành công trong tính toán không những trong khoa học kỹ thuật mà cả từ thương mại tới kinh tế, từ văn hóa tới nghệ thuật. Đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Trung Quốc có nội lực dân trí đi trên lưng, có sung lực dân tri đi trên vai, có hùng lực nhân trí đi trên đầu đám đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là sự thật của dân trí làm nên chân lý của nhân trí trong hành tác chính trị.
Khi khai dân trí là tiền đề làm nên thượng nguồn để hạ nguồn là nơi mà dân sinh tiếp nhận không những phát triển đất nước mà cả tiến bộ cho dân tộc trong đó văn minh đóng vai trò giải phóng, và một dân tộc chỉ thật sự được giải phóng nếu nhân trí kham được nhân thế, nhân tri bồng được nhân gian. Cụ thể là nếu dân trí không cỏng được dân sinh, thì mọi thuật ngữ "giải phóng", "cách mạng" đều là xảo ngữ, mở đường cho thói ăn gian bán lận, mà trong hành tác chính trị đây chỉ là trò phản dân hại nước. Câu hỏi cho mỗi người Việt sau khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền và hiện giờ đang cầm quyền đã gần một thế kỷ là : Việt tộc đã để lở bao cơ hội vận dụng dân trí để cỏng dân sinh ? Nói gần nói xa không qua nói thật là chúng ta đã bị các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam lừa bao nhiêu lần rồi với chiêu trò xảo ngữ "giải phóng", "cách mạng", để mất đi dân trí lẫn dân sinh, mất cả chì lẫn chài, mất trọn nhân trí, mất trắng nhân sinh.
Đòi hỏi đầu tiên cho phạm trù dân trí chính là kiến thức của các lãnh đạo phải minh trí trong quyết sách để minh tri trong quốc sách, tại đây minh trí là mật độ của kiến thức và minh tri là trình độ của tri thức, với bản lỉnh nhìn xa trọng rộng để thấy cho thấu sự vận hành của dân trí sẽ cỏng, bồng, bế, ắm dân sinh. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có nôi lực của minh trí là nên sung lực của minh tri, làm nên sự hiểu biết, với sự hiểu về sai một ly đi một dặm, với sự biết về người khôn chưa đắn đã đo/chưa ra tới biển đã dò nông sâu. Từ thế kỷ XX cho tới nay là thế kỷ XXI, hoạn cảnh của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra thảm cảnh của Việt tộc hiện nay, với xuất khẩu lao động để làm tôi tớ cho các quốc gia láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, với nạn cảnh trai thì lao nô trong nhục lộ, gái tì nô tỳ trong điếm lộ…
Chính phạm trù dân trí sẽ trợ duyên để trợ lực cho Việt tộc gìn giữ văn hiến của tổ tiên, văn minh của dân tộc, văn hóa của giống nòi, và đây phải là tiêu chuẩn đầu tiên để tuyển chọn ai sẽ lãnh đạo để phát triển đất nước, tạo ra tiến bộ vì dân tộc, lập ra văn minh vì giống nòi. Khi ta định vị được tính tất yếu của dân trí bằng minh tri là thượng nguồn của mọi chính sách, thì tiêu chuẩn minh tri của lãnh đạo chính trị phải nhận trọn vẹn trách nhiệm với đất nước, bổn phận trước đồng bào, sư mệnh trước giống nòi. Nhân lộ lãnh đạo này rất rõ trong chính giới có các chính khách minh tri với chính trường minh bạch, đó là phương trình : đề nghị chính sách-thảo luận quyết sách-quyết định quốc sách-vận hành quốc lực. Một phương trình có nhân trí dẫn nhân sinh, nhân tri dắt nhân thế, những kẻ nào muốn lãnh đạo chính trị mà không thấy, không thấu, không biết, không hiểu phương trình này thì đừng lãnh đạo ! mà trước hết là các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đừng lãnh đạo nữa !
Thảm cảnh của Việt tộc đang ở trên một tà lộ khi còn nằm trong tay các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đã bị lừa đảo nhiều lần, mà vẩn đi, đứng, nằm, ngồi trên tà lộ này, vì ngày ngày được ru ngũ bởi tuyên truyền trị bằng xảo ngữ "giải phóng", "cách mạng", trong tà sách của ngu dân trị. Hãy trở lại câu hỏi ban đầu là chúng ta đã bị các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam lừa bao nhiêu lần rồi với chiêu trò xảo ngữ"giải phóng", "cách mạng" ? Và hãy vận dụng chính dân trí của chúng ta để đào sâu them vào câu hỏi này là "giải phóng" rồi, "cách mạng" rồi, sao dân tộc vẩn mất nhân phẩm, vắng nhân quyền, rỗng nhân tri, trống nhân trí ? Câu trả lời là Việt tộc đã vô tình hay vô ý trao thân gởi phận cho đám lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam mà bẩn-bản-chất là sự kết tụ của vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, tới từ vô học từ tri thức tới đạo lý, đang đưa đưa dân tộc lẫn giống nòi vào con đường vô hậu !
Ai giết người nhiều nhất : Hitler, Staline hay Mao ? Ảnh minh họa khách bộ hành đi ngang qua bức tường in hình cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông tại lễ hội ‘Vui vẻ và nghệ thuật’ ở thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, ngày 13/12/2008.
3. Thất kinh vì chủ thể !
Có một chuyện trong nội não của các lãnh tụ lập ra Đảng cộng sản Việt Nam cho tới các lãnh đạo hiện nay của đảng này, làm đám người này ngày mất ăn, đêm mất ngủ, đó là không gian kiến thức làm nên thời gian tri thức của phạm trù chủ thể ! Cũng tại đây, đã có một cuộc biển lận tắm máu hằng trăm triệu người, mà thượng nguồn tới từ các đảng cộng sản được lãnh đạo bởi các tên lãnh tụ sát nhân Lenin, Staline, Mao… Đám này đã truyền dịch tâm não, truyền bịnh khuyết trí tới Đảng cộng sản Việt Nam qua ý đồ độc đạo là lấy chuyên chính độc đảng để tạo ra độc đảng toàn trị. Trên đất nước Việt từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền, thì độc đảng toàn trị cho sinh đôi đợt đầu là công an trị và tuyên truyền trị, rồi sinh đôi đợt hai là ngu dân trị và tham nhũng trị. Trong âm giới này là cả một tà giới của tham quyền để lạm quyền, lộng quyền để cực quyền, độc quyền trong cuồng quyền, tất cả từ đảng tộc tới đảng sử đều trong tình trạng mất ăn mất ngủ để rình rập rồi ám sát chủ thể, khủng bố rồi thủ tiêu chủ thể.
Nhưng chủ thể là gì ? Chủ thể rời vị thế xã hội của một cá nhân đơn lẻ là cá thể đang bị lẻ loi trong cơ chế xã hội, để nhận nhiệm vụ của một công dân vừa làm chủ nhân kiếp của mình, vừa làm chủ đất nước, chủ thể là chủ để nhận bổn phận trước dân tộc, trách nhiệm trước đất nước, sứ mệnh trước giống nòi. Chủ thể đấu tranh cho tiến bộ vì dân tộc, dấn thân cho phát triển vì đất nước, thông minh trong văn minh vì giống nòi, nên chủ thể mang nội lực của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) làm nên sung lực của dân chủ để bảo vệ nhân quyền bằng đa nguyên qua đa tài, đa trí, đa dũng, đa lực, đa năng, đa hiệu… Từ lý trí tới đạo lý, chủ thể luôn đi xa hơn cá thể, nhìn cao hơn cá nhân, trông rộng hơn công dân, nơi mà văn hóa phải văn minh để chế tác ra văn hiến, chế tác bằng sáng tạo. Chính lực sáng tạo của chủ thể đã đặt tự do, công bằng, bác ái, dân chủ, nhân quyền vào dàn phóng của cấp số nhân : có tự do rồi thì phải có tự do hơn, có công bằng rồi thì phải có công bằng hơn, có bác ái rồi thì phải có bác ái hơn, nhất là có dân chủ, nhân quyền rồi thì phải có dân chủ, nhân quyền nhiều hơn, thêm nữa, nhân lên. Đây chính là nguồn cơn mất ăn của độc đảng toàn trị, công an trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị, tham nhũng trị, cũng là nguồn cội mất ngủ của tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, cực quyền, cuồng quyền.
Câu chuyện chủ thể là nạn nhân của một cuộc biển lận tắm máu của các tên lãnh tụ sát nhân của các đảng cộng sản lấy chuyên chính độc đảng để áp đặt độc đảng toàn trị, có một thượng nguồn sâu xa khác ngay trong học thuật, ngay trong lịch sử của trí thức, trong đó triết học là một trong những nạn nhân của một cuộc biển lận tri thức. Hãy đi từ bằng cổ triết Hy Lạp Socrate, Platon, Aristote… trước công nguyên với các sư tổ để tới hiện triết với các triết sư Heiddeger, Sartre, Derrida… Họ giữ gìn và bảo vệ quỹ đạo triết học bằng ba phạm trù tri thức : sự thật, tự do, chủ thể. Họ bắt đầu bằng cuộc khởi hành đi tìm sự thật để nhận ra chân lý, chính sự thật có hùng lực giải phóng nơi mà tự do của nhân loại là cuộc đấu tranh được vạch ra để tiếp nhận vừa sự thật, vừa tự do bằng vai trò chủ đạo của chủ thể. Liên kết sự thật-tự do-chủ thể đã dọn đường cho cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), cùng lúc vạch đường cho dân chủ dùng đa nguyên để bảo vệ nhân quyền.
Marx, cha sinh mẹ đẻ ra chủ thuyết cộng sản đã bắt đầu cuộc cờ gian bạc lận khi giải thích sự thật bằng đấu tranh giai cấp, phân giải tự do bằng duy vật sử quan, để bứng đi không gian tri thức của chủ thể, rồi thay bằng một tập thể chuyên chính, với các danh hiệu chuyên chính vô sản, chuyên chính cách mạng, chuyên chính độc đảng… Và các đứa con khuyết trí của Marx là Lenin, Staline, Mao… chúng vô minh trước sự thật, vô tri trước tự do, vô giác trước chủ thể, lại tự ý thêm thắt vào chủ thuyết cộng sản các họa thuyết : bạo lực cách mạng, bạo động chuyên chính… Từ Hồ Chí Minh tới đám lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, họ vẫn tiếp tục điếm lận hóa sự thật, điếm nhục hóa tự do, để thanh trừng cho bằng được sự vận hành của không gian kiến thức làm nên thời gian tri thức của chủ thể. Chủ thể Việt bị thanh toán tận gốc trong phong trào Nhân văn, chủ thể Việt bị thanh trừng tận rễ tự Cải cách ruộng đất sau 1954 tới Trại cải tạo sau 1975, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình chủ thể Việt luôn bị tận diệt. Thanh trừng cho bằng được sự nẩy mầm, sự xuất hiện, sự pháp triển của chủ thể luôn là ưu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, ngày ngày lao lý hóa các chủ thể biến họ hành các tù nhân lương tâm là một minh chứng.
Truy cùng diệt tận hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) chính là vốn luận thức của chủ thể, bằng cách triệt cùng xóa sạch tri thức trong giới trí thức là cái nôi để giáo dục và giáo dưỡng chủ thể, bằng những tà toan quỷ toán của Đảng cộng sản Việt Nam là đốn mạt hóa hệ thống giáo dục để điếm lận hóa tri thức bằng học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả để mua chức bán quyền, mà ý đồ thâm độc là diệt chủ thể ngay trong trứng nước. Nên Đảng cộng sản Việt Nam, từ lãnh tụ sinh ra đảng tới lãnh đạo đang cầm quyền bằng bạo quyền độc đảng toàn trị, ngày ngày sống trong hoạn kịch tri thức, mượn chủ thuyết cộng sản để cờ gian bạc lận bằng quỷ quyền công an trị, và không bao giờ dám đối diện để đối luận bằng đối thoại với các chuyên gia đã và đang nghiên cứu về chủ thuyết cộng sản. Hoạn kịch tri thức của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chính là họa kịch trí thức của những lãnh đạo vô minh trong tham quyền, vô tri trong cực quyền, vô giác trong cuồng quyền, sống rồi chết với mặc cảm không bao giờ có lý trí về sự thật, trí tuệ về tự do, và tuệ giác về chủ thể.
Thật thất kinh trong giờ bên huyệt đạo của đám này, vì khi còn sống, khi còn cầm quyền họ đã sát nhân, họ đã giết hại, họ đã thủ tiêu, họ đã thanh trừng không biết bao nhiêu là chủ thể, chính là những đứa con tin yêu của dân tộc vận dụng nhân trí để tiếp nhận nhân quyền. Phản chủ thể rồi diệt chủ thể, thật thất kinh cho đám lãnh đạo này, vì khi lìa đời mà đám này không sao có được nhân kiếp của chủ thể, nhân kiếp của những người làm chủ sự thật và tự do, để làm chủ tiến bộ và văn minh.
4. Sự thông minh ân cần
Nửa thế kỷ trước, khi thấy tôi thắc mắc về nội dung của sự thông minh, thân phụ tôi không giúp tôi định nghĩa sự thông minh là gì, mà chỉ nhắc nhở tôi một câu : "Muốn đi tìm nội dung rồi định nghĩa để hiểu giá trị của sự thông minh thì cứ đi tìm, có khi dành cả đời để hiểu nó cũng không bỏ công, nhưng hình như người thật sự thông minh là kẻ tạo điều kiện cho người khác thông minh bằng mình !". Nửa thế kỷ sau ngay Paris, tôi tổ chức một hội thảo quốc tế tại Thư Viện Quốc Gia, với các đồng nghiệp nhiều chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn, được trợ lực bởi các sư huynh của tôi trong các ngành đang được vinh danh như ngôn ngữ học, nhân học, xã hội học, tâm lý học… với sự trợ duyên của các sư phụ của tôi trong các ngành chủ đạo như chính trị học, sử học, triết học, văn học...
Ngày cuối là tổng kết hội thảo, lý gần tìm luận xa mà cũng là cơ duyên lành để tôi tái ngộ với câu chuyện về nội dung, định nghĩa, giá trị của sự thông minh, tôi đưa đẩy để các sư phụ cùng các sư huynh giúp tôi ra khỏi mê hồn trận về hằng số, hàm số và ẩn số của sự thông minh. Thì bạn tôi là triết gia F.Jullien, giờ đã là một ngân hà đặc sắc trên vòm trời triết học hiện đại với tri thức đặc thù của triết liên văn hóa, có phát biểu : "Sự thông minh phải được định vị và định hình bằng chính nội công và bản lĩnh trong chính hành tác hằng ngày của nó, cụ thể là nó đi thong thong, nó về ung dung, nó ngồi thoải mái, nó nằm thư thả với tất các sự thông minh đã được thừa nhận".
Đã hơn nửa thế kỷ, lời dặn dò của thân sinh, lời trần tình của một triết gia vừa là thân hữu, vừa là sư huynh đã hội tụ lại trong sự liên kết giữa cái tôi và tha nhân, mà chân trời của sự hội tụ này là : sự thông minh nếu là sự hiểu biết vừa sắc, vừa nhọn của một cá nhân, thì sẽ không có sự thông minh nếu không có tha nhân. Tha nhân vừa là mực thước, vừa là tầm vóc của sự thông minh, tha nhân mang cùng lúc hằng số, hàm số và ẩn số của sự thông minh, và chính tha nhân là đường đi nước bước để nhận diện rồi nhận dạng ra sự thông minh. Đây cũng là câu chuyện học thật qua trau dồi đèn sách, mà cũng là câu chuyện học lực của mài sắt nên kim trong cuộc đời học thuật, chính các thuật ngữ học thật-học lực-học lực giờ đã thành một phương trình cho học kiếp, để tách cái học thật ra khỏi cái học giả.
Những ai đã biến phương trình cho học kiếp là học thật-học lực-học thuật trở thành nhân sinh quan rồi thành thế giới quan cả vũ trụ quan của mình thì rất ngạc nhiên về thảm trạng của Việt tộc hiện nay với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả đã sinh đôi ra hai quái thai là học vị giả và học hàm giả để sử dụng trong chuyện mua bằng bán cấp, để tận dụng trong chuyện mua chức bán quyền. Mà hiện nạn là sự hiểu biết vừa là bàn đạp, vừa là dàn nhún cho sự thông minh đã bị thanh trừng ngay trên thượng nguồn, để cho hậu nạn là sự thông minh bị thủ tiêu, bị bóp chết ngay trong trứng nước, dưới một chế độ độc đảng toàn trị đang chủ đạo để chủ trì ngu dân trị. Độc đảng mê muội trong độc tài nhưng bất tài trong tổ chức giáo dục bằng học thật-học lực-học thuật. Độc quyền nhưng hoạn quyền trong giáo dưỡng từ trau dồi đèn sách tới mài sắt nên kim vì học luyện. Độc đảng mê chấp trong độc trị nhưng hoàn toàn nhưng không biết quản trị tính liên kết giữa giáo dục-giáo khoa-giáo trình-giáo án trong học tập. Độc đảng mê hoại trong độc tôn nhưng không biết gì về tôn ti trật tự đã có sẵn trong bể học là học tập trong khiêm tốn, có học lực trong khiêm cẩn, bằng học thuật trong khiêm luận của "Người khôn chưa đẳn đã đo/ Chưa ra tới biển đã dò nông sâu".
Chúng ta có thể khởi hành đi tìm gốc, rễ, cội, nguồn của sự thông minh trong các văn tự của cổ triết, cổ văn, cổ sử của Hy Lạp từ Socrate tới Platon và nhiều thế hệ sau nữa, họ thường xuyên gởi sự thông minh vào lòng tin của họ nơi Thượng đế. Những kẻ khiếm não cổ súy cho duy vật biện chứng hay lý luận khiếm thức là học thuật tùy thuộc vào khoa học sao lại mang niềm tin nơi Thượng đế để mê tín hóa khoa học. Khi nghiên cứu toàn bộ từ cổ triết tới hiện triết, bằng những minh sư của triết học từ Pascal tới Kant, rồi từ Levinas tới Ricoeur… thì những triết gia này chính là những đứa con tin yêu của triết học đã nối kết siêu hình học vào lập luận của triết học, rồi họ mời ta đi trên một nhân lộ thông minh, nơi mà con người không hề cúi đầu tuân lệnh một cách vô điều kiện Thượng đế hay bất cứ một đấng quyền năng nào.
Ngược lại, các minh sư triết học này đã biết đặt Thượng đế vào lộ trình của nhân tri đi tìm sự thật, mà trên lộ trình này thì Thượng đế là một giả thuyết luận tuyệt vời, một phương trình toán tuyệt năng, một luận thức triết tuyệt đối. Augustin là một trong những tư tưởng gia mà triết học đã biết dựa vào để nhận diện ra tầm vóc của Thượng đế qua giả thuyết luận tuyệt vời-một phương trình toán tuyệt năng-một luận thức triết tuyệt đối, ông chỉ khuyên nhân sinh : "Hãy cứ tiến tới trên nhân lộ của chính mình, nếu nhân lộ này làm ra nhân tri, thì nhân lộ này chỉ xuất hiện với chính những bước chân của nhân sinh". Ai tin Thượng đế hơn Augustin ? Vậy mà ông xem câu chuyện đi tìm sự thông minh chính là câu chuyện của nhân sinh trên nhân lộ của nhân tri, chớ không hề là câu chuyện phải phục tùng bằng vô minh, rồi khuất phục bằng vô tri trước Thượng đế. Nhắc tới Thượng đế thì cũng nên nhắc tới Phật học, nơi mà Phật giáo ngay thượng nguồn là một minh triết trước nỗi khổ niềm đau của nhân sinh, không hề là tôn giáo với một Thượng đế đầy quyền năng biết sáng tạo ra sự sống. Cho nên thử thách của Phật học không hề là một niềm tin vô điều kiện về đấng quyền năng sáng tạo ra con người và cuộc sống, mà là sự tỉnh thức chính là nền, móng của sự hiểu biết chính là tường, mái của sự thông minh. Một sự tỉnh thức để thấy tức khắc thực tại, để thấu tức thì phương pháp giải thích mà tiếp nhận đúng lúc từ kiến thức tới tri thức, từ ý thức tới nhận thức, đây chính là sự thử thách của mọi cá nhân để nhận diện rồi nhận dạng ra sự thông minh.
Trong cuộc đời của một thi sĩ có ảnh hưởng vừa sâu, vừa rộng trong thi ca Pháp trong thế kỷ XX, đó là thi sĩ Char nơi mà thi tính tới từ bản lai diện mục của sự tỉnh thức, không có sự thông minh nếu không có sự tỉnh thức. Giữa thế chiến thứ hai, quê hương Pháp của ông đã bị Đức quốc xã chiếm đóng, một ngày kia bọn sát nhân Đức quốc xã mang một thanh niên của kháng chiến Pháp ra hành quyết trước dân làng, lấy bạo quyền giết người vừa để hù dọa, vừa cảnh cáo dân làng. Mà bọn Đức quốc xã này không biết là chúng đang bị bao vây bởi đội kháng chiến mà Char là đội trưởng. Và tất cả đồng đội chỉ chờ Char ra lệnh là họ sẽ nổ súng để cứu nguy rồi cứu sống người thanh niên đang đứng trước mũi súng của bọn Đức quốc xã. Char rơi nước mắt mà tâm sự với các đồng đội là : "Chúng ta sẽ không nổ súng cứu bạn thanh niên kháng chiến kia, anh ấy vừa là đồng đội, vừa là văn hữu của tôi, là người tôi vô cùng thương quý, nhưng chúng ta sẽ không nổ súng để cứu bạn. Vì nếu chúng ta nổ súng để diệt bọn Đức quốc xã này thì chúng sẽ trở lại đông hơn, nhiều hơn để tàn sát cả làng này, lúc đó chúng ta không chỉ mất một sinh mạng, mà hằng trăm sinh mạng !". Trong nguy nan, sự tỉnh thức xuất hiện để đánh thức cho bằng được sự thông minh để cân, đo, đong, đếm tới nơi tới chốn các hậu quả, các hậu nạn.
Triết gia làm cầu nối giữa hiện tượng luận và triết học là Merleau-Ponti ông luôn xem để xét sự thông minh ngay trong chính quan hệ giữa nhân sinh, ngay trong chính tương quan giữa nhân gian, ngay trong chính tương tác giữa nhân thế. Ông chỉ kể một chuyện rất gọn để làm rõ phương trình quan hệ-tương quan-tương tác giữa người với người, dù là người này xa lạ với người kia, câu chuyện người cũng chính là câu chuyện đời. Ông không phải là triết gia trong tháp ngà, ngồi nhà viết sách, mà phương châm đi một ngày đàng học một sàng khôn chính là đường đi nẻo về của triết lộ mà ông hành tác cả đời, ông kể với các môn sinh : "Một ngày kia tôi lạc giữa một sa mạc mênh mông tại Phi châu, tôi tìm mãi mới ra một nơi có bóng mát để nghỉ chân và nghỉ mệt, thì có một người phụ nữ đi từ xa tới, tới gần tôi thì tôi thấy một nụ cười thân thiện nở trên khuôn mặt của người hoàn toàn xa lạ này. Nếu hai kẻ không biết nhau, nhưng nụ cười xuất hiện thì mọi sự xa lạ của hai kẻ xa lạ đã được xóa đi. Dù chưa hề quen nhau, nhưng nụ cười đã vượt lên mọi cách biệt về văn hóa, về quan hệ, làm mọi khoảng cách tự tan biến đi để sự ân cần xuất hiện". Tha nhân đã xuất hiện để tiếp rồi đón ta trong những hoạn nạn, sự thông minh ân cần là sự hiểu biết cso thể cứu được người trong hoạn nạn.
Người khôn hoặc kẻ thật sự thông minh thì phải thấy cho thấu là nụ cười đã mở đường đưa lối để ta nhận ra sự ân cần, nếu hiểu được sự ân cần thì sẽ hiểu tính đoàn kết trong nhân đạo, tính tương trợ trong nhân từ. Nhưng kẻ tự cho mình là thông minh lấy trục lợi để vụ lợi, lấy quyền lợi làm tư lợi, những kẻ đó chúng ta không biết rằng họ thật sự có thông minh hay không, nhưng chúng ta thấy họ đang làm cho chúng ta lợm giọng tới buồn nôn. Đó là đám lãnh đạo với bầy sâu của chúng chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, chúng tham quyền vì đặc quyền, chúng lạm quyền để tạo đặc lợi, chúng cuồng quyền để giữ đặc ân. Đám sâu này, chúng không biết sự ân cần với tha nhân, tính đoàn kết với đồng loại, tính tương trợ với đồng bào. Chắc chắn đây không phải là sự thông minh mà chỉ là tà tính trong tà kiếp, tổ tiên Việt đã dặn dò con cháu Việt hãy cẩn thận : khôn quá hóa dại. Đám lãnh đạo với bầy sâu của chúng chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay đã ngu dại hóa sự thông minh, khi chúng đã điếm nhục hóa giáo lý tương thân tương trợ của Việt tộc.
Trong ngôn ngữ học lẫn trong phê bình văn học, người đọc còn nhớ Barthes đã chế tác ra các mỹ luận để thấy cho thấu mỹ quan, mỹ thuật, mỹ học, nơi mà sự thông minh đã biết làm rõ, làm sáng cái đẹp. Nhưng Barthes là một minh sư có những luận thuyết mà con người phải dùng sự tinh tế để nhận diện ra sự thông minh, ông dặn các môn sinh : "Cái lịch sự trong giao tế với tha nhân còn thông minh hơn cả sự thông minh !". Cái lịch sự làm nên cái lịch thiệp của người được giáo dục tử tế, được giáo dưỡng đàng hoàng, đây chính là cái lịch lãm của từ tốn trong giao tiếp, của khiêm tốn trong quan hệ. Nơi đây sự khoe khoang về cái tôi không hề có chỗ đứng, ghế ngồi khi chúng ta chào đón rồi tiếp đãi tha nhân. Cái biết nghiêng mình chào khách nó thông minh hơn nhiều lần cái tôi vỗ ngực ta đây, khi ta nghiêng mình chào tha nhân tức là ta đang gạt đi cái thông minh của riêng ta qua một bên, để sẵn sàng tiếp nhận cái thông minh của tha nhân sẽ làm giàu nhân sinh quan của ta. Khi ta hiếu khách vì trọng khách tức là ta đang phong phú hóa thế giới quan của ta. Khi ta quý khách vì nể khách tức là ta đang đa tri hóa vũ quan của ta. Vì nội lực làm nên bản lĩnh của sự thông minh luôn đa nguyên, chỉ có đa nguyên mới sinh ra được : đa tri, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu…
Triết gia đi đầu trong việc lập cầu nối giữa hiện tượng luận và triết học đạo đức là Levinas, thầy đã tạo dựng ra một hệ thống triết học mới dựa hoàn toàn vào tha nhân để nhân ra cá thể, nơi mà nhân diện và nhân dạng của tha nhân biết làm nên nhân cách của chúng ta. Nơi đây sự xuất hiện của tha nhân làm thay đổi nhân sinh quan của ta, sự hiện diện của tha nhân làm chuyển đổi thế giới quan của ta, sự biểu hiện của tha nhân làm biến đổi vũ trụ quan của ta, thầy đúc kết gọn trong một thuật ngữ : "Nỗi lo của mỗi chúng ta tới tự khuôn mặt của tha nhân". Vì tha nhân báo hiệu cho chúng ta biết giữa nhân sinh cái ác đã xuất hiện với bạo quyền. Tha nhân báo tin cho chúng ta biết giữa nhân gian thì cái gian đang hoành hành ; tha nhân báo động cho chúng ta biết giữa nhân thế thì cái tà đang điếm ngự nhân tính. Đây là thử thách về sự thông minh cho mỗi công dân Việt hiện nay trước thảm cảnh : bạo quyền công an trị đang bám, quấn, siết nhân kiếp Việt tộc ; tà quyền tham nhũng trị đang chui, luồn, lách vào hơi thở giống nòi ; ma quyền tham tiền trị đang nạo, vét, vơ tài nguyên, thiên nhiên, đất nước của tổ tiên ; quỷ quyền ngu dân trị xóa mắt, lấp tai, chặn lời đồng bào ; xảo quyền tuyên truyền trị ác giọng, độc lưỡi, điếm môi tiếng Việt ; cực quyền tội ác trị truy cho cùng, triệt cho tận nhân nghĩa Việt ; cuồng quyền thanh trừng trị thanh toán để thủ tiêu nhân đạo Việt.
Triết gia biết nghi ngờ các cấu trúc làm nên các cơ chế lúc nào cũng có sẵn, mà cũng triết gia này đã từ chối các cuộc cách mạng sắc máu để đập đổ các cơ chế đã có sẵn này, đó là Derrida. Thầy yêu cầu chúng ta hãy dành ưu tiên cho sự tỉnh táo được song hành cùng sự sáng suốt rồi đặt cả hai vào tính trỗi dậy, lực bật dậy của sự thông minh. Thầy cặn dặn các môn sinh là : "Khi một chế độ, một cơ chế đã vạch đường chỉ lối cho ta đi theo ý muốn, ý định, tức là ý đồ của nó, thì ta hãy vận dụng sự thông minh của mình để thoát ra ngoài, đi khác, đi xa, thậm chí đi lạc ngay ý đồ của nó". Đây chính hành tác ưu tiên để hiểu chủ thuyết tháo gở mọi cấu trúc có sẵn (déconstruction) của thầy, từ đây ta hãy xem để xét lại định nghĩa về sự thông minh chính là sự thông thái biết tháo gở các mắc xích đang lao lý hóa tri thức của chúng ta. Nếu cần thì ta còn phải biết chặt xiềng để hóa giải mà vất đi mọi khung khuôn đang là nhà tù vô hình của bạo quyền, tà quyền, quỷ quyền, ma quyền đã vây bủa nhân kiếp của chúng ta.
Tư tưởng gia đi lại thoải mái từ ngôn ngữ học tới văn học, từ triết học tới sử học là Steiner, với tháng rộng năm dài từ tế kỷ XX qua tới thế kỷ XXI này, thầy yêu cầu chúng ta nhận ra sự thông minh có ngay trong các hệ thống tư tưởng. Nơi mà con người khác con vật nhờ chính tư duy bằng tư tưởng, thầy còn mang chuyện này ra "cá độ" với các môn sinh về tính tương quan giữa sự thông minh và các hệ thống tư tưởng : "Nếu người ta biết là hệ thống tư tưởng này có tuổi thọ dài hơn, lâu hơn hệ thống tư tưởng kia, thì chúng ta chỉ cần nghiên cứu một chỉ báo duy nhất của học thuật là các hệ thống tư tưởng mà có tuổi thọ cao là các hệ thống tư tưởng có chỗ đứng, ghế ngồi dài lâu trong âm nhạc, trong hội họa, trong thi ca". Chính âm nhạc, hội họa, thi ca là thành lũy để bảo vệ cái đẹp để định vị mỹ quan, định hình mỹ thuật, định dạng mỹ học, đây chính là bí quyết của sự thông minh có mặt trong các hệ thống tư tưởng có tuổi thọ cao, luôn biết gần những cái hay, đẹp, tốt, lành ; cùng lúc xa lánh những cái xầu, tồi, tục, dở.
Nhà xã hội học luôn đi tìm khoa học luận của khoa học xã hội bằng sự thật của điều tra thực địa, bằng chân lý của hiện thực ngay trong điền dã là Passeron, từ năm này sang tháng nọ thầy luôn dặn các môn sinh rằng : "Sự thông minh cũng như mọi chuyện trên đời này đều có gốc, rễ, cội, nguồn nằm ngay trong ẩn số của trình độ !". Đây là câu chuyện càng học càng thấy thiếu, càng học càng thấy bể học vô biên, mà cũng là câu chuyện nồi nào úp vung nấy. Đây lại là câu chuyện về sự thật là trái đất tròn xoay quanh mặt trời, lại biết tự xoay của Gallilé. Vì đây cũng là trình độ của chân lý khoa học, mặc dù nó hoàn toàn trái ngược lại với mê thức đương thời của giáo hội thủa sinh thời của Gallilé. Thủa đó trình độ giáo hội chỉ tới mức trái đất phải phẳng, con người mới đứng được, mới đi được trên đất, nơi mà trực diện đã nhốt tù trực quan. Nói gần nói xa không qua nói thật là trình độ trái đất của Gallilé đã đi trên lưng, trên vai, trên đầu trình độ mặt đất của giáo hội. Cho nên ẩn số của trình độ giờ đã là hằng số cho mọi định nghĩa về sự thông minh, vì trong thực tế, luôn có sự thông minh này cao, sâu, xa, rộng hơn sự thông minh kia. Chỉ vì có kiến thức này cao hơn kiến thức kia, chỉ vì có tri thức này sâu hơn tri thức kia, chỉ vì có ý thức này xa hơn ý thức kia, chỉ vì có nhận thức này rộng hơn nhận thức kia. Sự thông minh cõng trình độ của kiến thức, nó bồng luôn cường độ của tri thức, nó bế luôn mật độ của trí thức. Tại đây Việt tộc phải thấy các hiểm họa để thấu các hiểm nạn ngay trên nhân kiếp của mình đã và đang nằm trọn trong tay của bạo quyền độc đảng toàn trị, độc tài trong vô minh, độc quyền trong vô tri, độc trị trong vô thức, độc tôn trong vô học.
Người làm tươi tỉnh chính trị học hiện đại bằng chủ thuyết dân chủ biết sinh ra đa nguyên để bảo vệ cho bằng được nhân quyền là Gauchet, thầy luôn dặn dò các môn sinh là : "Hành động dân chủ chính là hành tác của nhân quyền, các chế độ dân chủ không có phản xạ giết dân như các chế độ độc tài quân phiệt, hay độc đảng toàn trị, vì các chế độ dân chủ được dân bầu ra. Hãy thấy sự thông minh ngay trong cơ chế dân chủ, vì tại đây dân chủ là dân được chọn lựa, dân được đề nghị, dân được quyết định, dân được hành động như chủ thể trong không gian và thời gian của định kỳ qua bầu cử để giới hạn nhiệm kỳ của chính quyền. Chính trị học về dân chủ phải trở thành nhân học dân chủ lấy nhân tri mà phục vụ cho nhân quyền, tại đây sự thông minh đã có mặt trong nhân loại bằng nhân trí biết bảo vệ nhân vị !". Thầy dùng nhiều thời gian giáo khoa để dặn các môn sinh của thầy rằng dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chính là cuộc cách mạng chân chính nhất, vì nó tới từ sự thông minh rất trong sạch của nhân loại.
Kẻ vận dụng triết học để đi tìm bốn sự thật trong nhân sinh là Badiou đã nhận ra không phải chỉ có một sự thông minh mà ít nhất là bốn sự thông minh luôn là bạn đồng hành với bốn sự thật : sự thật trong chính trị làm nên thể chế, sự thật trong nghệ thuật biết định hình cái đẹp, sự thật trong tình yêu biết cảm nhận sự dấn thân, sự thật trong tình bạn biết chấp nhận thử thách trong thăng trầm. Có khi ông còn nói to rồi hét lớn là : "Còn một sự thật thứ năm mà con người không được quên là không phải nơi nào có áp bức là nơi đó có sự nổi dậy để đòi hỏi công bằng, gào gọi công lý ; nhưng nơi nào có sự nổi dậy để đòi hỏi công bằng, thét gọi công lý thì chắc chắn nơi đó đã có bất công". Đây chính là thử thách về nhận thức của Việt tộc, khi ta tự đặt câu hỏi Việt tộc có phải là một minh tộc hay không ? Người Việt có thật là thông minh hay không khi bạo quyền độc đảng toàn trị đang biến dân lành thành dân đen, dân hiền thành dân oan, chúng làm giàu qua chuyện phá nhà để cướp đất của dân. Chưa hết, đám lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam còn chế ra tà lộ xuất khẩu lao động, để trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ cho các nước láng giềng, để chúng vơ vét nhiều tiền của hơn. Vẫn chưa xong, chúng còn nạo vét hết tài nguyên, thiên nhiên, môi trường, cơ đồ của tổ tiên Việt đã gìn giữ cho con cháu Việt. Đây không phải là áp bức giờ đã thành áp chế hay sao ? Đây không phải là bất công giờ đã thành bất nhân hay sao ?
Triết gia của triết học đạo đức nơi mà chữ tốt sẽ đưa đường dẫn lối cho chữ thông lẫn chữ minh, đó là thầy Ricoeur, các môn sinh học được đức độ của thầy không những ngay trong nhân cách của thầy, mà còn học được đạo lý làm nên nhân lý ngay trong nhân tính có sẵn trong mỗi chúng ta. Thầy tâm sự với các môn sinh : "Các bạn nên nhớ chữ tốt không phải chỉ là một tỉnh từ suông, mà chữ tốt này là nội hàm của mọi định nghĩa về sự thông minh làm nên nội lực của hành động thông minh. Vì khi chúng ta chấp nhận sống chung với nhau trong tập thể, trong cộng đồng, trong xã hội thì chữ tốt này vừa là yêu cầu, vừa là đòi hỏi của sự thông minh có trong mỗi cá nhân. sự thông minh luôn muốn có các quan hệ tốt trong một chế độ tốt biết làm nên một xã hội tốt tới từ một hệ thống giáo dục tốt…". Đây cũng chính là đòi hỏi bức thiết về sự thông minh của Việt tộc, vì Đảng cộng sản Việt Nam đã cướp chính quyền và nắm chính quyền gần một thế kỷ qua mà dân tộc này không hề có quan hệ tốt trong một chế độ tốt biết làm nên một xã hội tốt tới từ một hệ thống giáo dục tốt !
Họa nạn của chế độ độc đảng toàn trị, cha sinh mẹ đẻ của ngu dân trị là đây, vì ngay trên thựơng nguồn từ các lãnh tụ thủa trước tới các lãnh đạo thủa này của Đảng cộng sản Việt Nam là cả một hoạn kịch của vô minh, vô tri, vô tuệ tới từ vô học, mà nhân gian chỉ mặt gọi tên là : mất dạy ! mà Việt tộc thấy rõ trong tuyên truyền trị ngày ngày nuôi dưỡng ngu dân trị, vì cả hai hành động để diệt sự hiểu biết, triệt sự thông minh của Việt tộc. Các lãnh tụ thủa trước tới các lãnh đạo thủa này của Đảng cộng sản Việt Nam luôn bóp chết sự hiểu biết trong sơ sinh để truy cùng diệt tận sự thông minh khi chưa là trứng nước. Hoạn kịch của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm nên họa kịch rồi thảm kịch của Việt tộc ngày nay là từ dân tộc tới giống nòi đang phải nhận lãnh một tà sách mất dạy hóa do Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương và chủ trì. Các lãnh tụ thủa trước tới lãnh đạo thủa này của Đảng cộng sản Việt Nam là những tội đồ của Việt tộc, mà một trong những tội sâu xa nhất chưa được khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu tới nơi tới chốn là những tội đồ này đã giết sạch, giết gọn, giết trọn sự thông minh của Việt tộc.
Lời quê chắp nhặt dông dài trong mô thức của cụ Tiên Điền Nguyễn Du buộc tôi phải đi tới định nghĩa về sự thông minh ân cần cho riêng tôi : đó là sự thông minh luôn có tha nhân đứng chỗ trung tâm trong cuộc sống của mỗi chúng ta ! Tha nhân trao cho ta từ kiến thức tới tri thức, từ ý thức tới nhận thức. Từ khi xã hội học ra đời thì chuyên ngành này đã biết khẳng định rằng một cá nhân khi sinh ra dù thông minh tới đâu khi phải sống tách biệt với tha nhân, không đồng loại, chẳng đồng bào, thì ngay như một kiến thức sơ đẳng nhất là con người phải chết, thì cá nhân này cũng không biết ! Có thấy tha nhân chết trước mắt mình đâu mà biết là cái chết là chuyện có thật.
Sự thông minh ân cần là chính sung lực mở đường cho ta tới gặp để đón tha nhân, để tiếp đồng loại. Hãy biến sơ ngộ với tha nhân thành tao ngộ qua kiến thức. Hãy biến tao ngộ với tha nhân thành tái ngộ bằng tri thức. Hãy biến tái ngộ với tha nhân luôn hạnh ngộ biết nuôi dưỡng nhận thức. Ân cần với tha nhân từ đoàn kết tới tương trợ, để thấy cho thấu nỗi khổ của đồng bào, niềm đau của đồng loại ; ngược lại những kẻ nhìn mà không thấy, thấy mà không thấu, thì những kẻ này đừng tự vỗ ngực là họ thông minh !
Cho Đồng bào tôi - Nhạc Nguyễn Đức Quang - Lời Việt Dzũng
5. Tôi muốn biết về đồng bào tôi :
Chất liệu thiêng liêng của niềm tin
Việt sử viết rõ Việt tộc vừa là một dũng tộc, kiên cường trong dũng cảm vì đã biết thắng mọi ngoại xâm, lại vừa là một minh tộc biết thắng mọi cường quốc xâm lược, vì biết lấy ít đánh nhiều, biết lấy nằm gai nếm mật trong trường kỳ để thắng mọi bọn xâm lược muốn ăn tươi nuốt sống trong chớp mắt đất nướcViệt. Sử liệu đã làm nên sử tính của Việt tộc như một hằng sử, đây là một dân tộc biết bảo vệ cơ đồ của tổ tiên, đạo lý của dân tộc, luân lý của giống nòi.
Nhưng trong Việt sử này, đã có lúc bị thô bỉ hóa bởi tà sử của những cá nhân lãnh đạo, có vài bận trong hằng sử bất khuất của tổ tiên Việt trong cộng đồng ông cha ta, có những đám lãnh đạo lại "để bị mất nước như chơi" ! Đây là loại hàm số (rất ngầm), xưa thì có Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, thời đại của Đảng cộng sản Việt Nam từ cận sử tới hiện sử có Hoàng Văn Hoan… Hiện nay lại là bọn Hán gian mang tâm địa thần phục Tàu tặc có mặt ngay trong đám lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng sẵn sàng buôn dân bán nước, nghe tướng Trương Giang Long nói rằng chúng nhiều lắm : "trăm này sinh ra trăm kia"…
Khi tự đặt câu hỏi : tôi muốn biết về đồng bào tôi, thì đây không hề là một câu hỏi mộng tưởng trong mông lung, mà là một câu hỏi của sử luận có trong thực sử, ngược và nghịch với giả sử. Chính sử luận sẽ là phương pháp luận của khoa học sử để đưa ra ánh sáng sử tính của một dân tộc, đưa ra ánh sáng để làm chi vậy ? Để từ đó vận dụng khoa học luận của sử học mà nhận diện ra hiện sử của Việt tộc, tức là thấy-cho-thấu nhân diện, nhân dạng, nhân cách của Việt tộc đang đi, đứng, nằm, ngồi dưới một bạo quyền độc đảng toàn trị là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng này đã và đang áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc một loạn sử ; và nếu loạn sử này đưa dân tộc tới diệt vong, thì nó chính họa sử. Câu chuyện về bản lai diện mục của Việt tộc là đây !
Nên khoa học luận của sử học không ngừng ở sử liệu, mà phải vận dụng sử luận để chế tác ra phương pháp luận mà cân, đo, đang, đếm sử tính của một dân tộc, từ cổ sử tới cận sử để nhận ra khai sinh cùng lý lịch của hiện sử. Và câu hỏi : tôi muốn biết về đồng bào tôi chính là một câu hỏi về hiện sử, mà muốn có câu trả lời thì phải phân tích tới nơi để giải thích tới chốn ngay trong hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) thường nhật của chính dân tộc này, tức là bây giờ và ở đây trên đất nước Việt hiện nay để nhận ra :
Bạo quyền công an trị đã và đang bám, quấn, siết nhân kiếp Việt tộc.
Tà quyền tham nhũng trị đã và đang chui, luồn, lách vào hơi thở giống nòi.
Ma quyền tham tiền trị đã và đang nạo, vét, vơ đất nước của tổ tiên.
Quỷ quyền ngu dân trị đã và đang xóa mắt, lấp tai, chặn lời đồng bào.
Xảo quyền tuyên truyền trị đã và đang ác giọng, độc lưỡi, điếm môi tiếng Việt.
Cực quyền tội ác trị đã và đang truy cho cùng, triệt cho tận nhân nghĩa Việt.
Cuồng quyền thanh trừng trị đã và đang thanh toán để thủ tiêu nhân đạo Việt.
Aristote có lẽ là người đầu tiên trong cổ triết Hy Lạp từ ngàn xưa đã nhận ra các hiểm nạn luôn rình rập các niềm tin về dân chủ, vì chỉ có các thể chế thật sự dân chủ mới do dân và vì dân ; và triết gia này đã nhận ra nội dung liêm chính của dân chủ, đó chính là ánh sáng của chân lý ! Một chế độ thực sự do dân và vì dân thì phải sử dụng, vận dụng và tận dụng dân chủ để đưa mọi sự thật ra ánh sáng, cụ thể là nói công khai trước công chúng mọi công lý. Phương trình công khai-công chúng-công lý chính là nhân lộ của nhân tri đã biết đường đi nẻo về của nhân đạo, tại đây đạo đức học sẽ đưa đường dẫn lối cho chính trị học. Phương trình công khai-công chúng-công lý xuất hiện trước ánh sáng để bảo vệ phương trình thứ hai : sự thật-chân lý-lẽ phải, từ đó trợ duyên để trợ lực cho phương trình thứ ba : đạo đức-đạo lý-đạo hạnh. Và cả ba phương trình này làm nên tổng lực vì giá trị của dân chủ, từ nhân sinh tới nhân tri, từ nhân vị tới nhân trí, từ nhân quyền tới nhân phẩm...
Nhưng giá trị là gì ? Giá trị bắt đầu từ cảm xúc của lương tâm để đi tới cảm động của lương tri đã đưa đường dẫn lối chúng ta bằng niềm tin luôn tới từ sự lương thiện, nên niềm tin thì do chính con người sáng tạo ra, chế tác ra, chớ không có thánh thần, tôn giáo hoặc một đấng quyền năng nào tạo ra cả ! Chúng ta tin bằng hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) nên chúng ta đã chọn lựa niềm tin rồi đặt niềm tin vào hệ thống giá trị làm nên hệ đạo (đạo đức, đạo lý, đạo hạnh) của chính chúng ta. Chúng ta tin nên chúng ta đã dấn thân như dấn thân vì một đạo đức, chúng ta tin nên chúng ta sẵn sàng hy sinh như hy sinh vì một đạo lý, và chúng ta hành tác trong quan hệ xã hội với đồng bào, đồng loại bằng chính đạo hạnh của chúng ta.
Hệ thống giá trị của niềm tin vừa là nền, vừa là chất liệu thiêng liêng của con người vì con người, của đồng bào vì đồng loại, của chủ thể vì tha nhân. Nơi đây nhân sinh quan về giá trị của niềm tin và thế giới quan về giá trị của niềm tin chỉ là một, một không gian, một lãnh thổ, không hề có biên giới tách biệt. Khi chúng ta xem-để-xét cả ba phương trình : thứ nhất công khai-công chúng-công lý ; thứ nhì sự thật-chân lý-lẽ phải ; thứ ba đạo đức-đạo lý-đạo hạnh, thì chúng ta sẽ thấy để thấu là ba phương trình sẽ làm nên hùng lực cho giá trị của niềm tin. Từ đây thì Việt tộc biết là mình phải gì, nếu không làm gì cả, thì sẽ chúng ta sa vào hoạn lộ rồi họa lộ, vì đã trao thân gởi phận cho :
Khi tự đặt câu hỏi : Tôi muốn biết về đồng bào tôi, thì đây cũng là câu hỏi về ba phương trình : thứ nhất công khai- công chúng-công lý ; thứ nhì sự thật-chân lý-lẽ phải ; thứ ba đạo đức-đạo lý-đạo hạnh đang ở đâu trong đời sống thường nhật của đồng bào tôi ? Cụ thể là nhân sinh quan và thế giới quan về giá trị của niềm tin đang ở đâu trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào tôi ? Nói gần nói xa không qua nói thật là : đồng bào tôi có còn giữ được chất liệu thiêng liêng của niềm tin đã có trong Việt sử, đã xác chứng rằng : Việt tộc vừa là một dũng tộc, vừa là một minh tộc ?
Sự man trá đôi ngầm : cướp quyền để lạm quyền, lạm quyền để cực quyền, cực quyền để cuồng quyền, và cuồng quyền chỉ vì tham quyền.
6. Sự man trá đôi :
Cướp quyền để điếm vốn
Sự man trá tới từ ý định giả dối với tha nhân rồi trở thành ý đồ lừa đảo đồng loại, mà động lực là mưu đồ biến quyền lợi thành tư lợi, vụ lợi trong tính toán để trục lợi bằng toan tính. Sự man trá đôi là tà lộ của hành tác đôi : tác giả của sự giả dối cũng là thủ phạm của sự lừa đảo, và tác giả-thủ phạm có mặt trong quỷ lộ của tội ác chỉ vì đặc quyền, đặc lợi, đặc ân chỉ cho riêng nó. Nên nó sẵn sàng gây tội ác, tội thì nặng hơn lỗi, nó luôn mang tội ác đôi, nó vừa là tội phạm trước đạo lý, vừa là tội phạm trước luật pháp. Đây chính là tội lỗi từ lãnh tụ lập ra đảng cho tới các lãnh đạo đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, từ khi họ cướp được chính quyền. Sẽ không thể phân tích để giải thích sự man trá đôi, nếu không thấy các sự man trá đôi ngầm : cướp quyền để lạm quyền, lạm quyền để cực quyền, cực quyền để cuồng quyền, và cuồng quyền chỉ vì tham quyền. Trong tà giới này thì dân chủ không có chỗ đứng, và nhân quyền không có ghế ngồi. Đừng mong các đầu đảng, đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu của Đảng cộng sản Việt Nam ngày đêm sống và chết vì mê mệt bởi độc quyền, thì mong chúng chia quyền bằng tam quyền phân lập !
Sự man trá đôi không những xuất hiện từ miệng lưỡi của từ lãnh tụ lập ra đảng cho tới các lãnh đạo đang cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, mà nó còn hiển nhiên "ghế trên ngồi tót sổ sàng" kiểu Mã Giám Sinh ngay trong Hiến pháp : Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo dân tộc, đất nước. Từ đây, sự man trá đôi ngầm đã trở thành sự man trá đôi công khai trước công chúng và công luận. Nơi mà độc đảng để độc quyền, độc quyền để độc trị, độc trị để độc tôn, từ ngôn ngữ học tri thức tới xã hội học nhận thức, chúng ta phải nhận diện độc không phải chỉ là một từ mà là một hệ (đó là một hệ dây chuyền của cơ chế tạo ra một mạng lưới của chế độ), mà thí dụ hiển nhiên là hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc quyền, độc trị, độc trị, độc tôn). Chính hệ độc này đã cho sinh đôi ra hệ mang trá đôi con là hệ quyền (cướp quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền, tham quyền) là anh em sinh đôi với hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
Nên ý đảng chính là ý đồ tuyệt đối của mọi man trá đôi, nơi mà lòng dân chỉ có để các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trục lợi để vụ lợi, moi lợi để hốt lời, nạo lợi để vét lời. Mà thí dụ trắng trợn ngày ngày diễn ra trước xã hội là sự man trá đôi có trong hành tác đôi là vơ vét tiền bạc của đồng bào cùng lúc nạo vét tài nguyên của đất nước : điếm vốn để điếm lợi ! Dân tộc đã nhận ra sự man trá đôi vô cùng bẩn thỉu của đám đang cầm quyền bằng chính tục ngữ hiện đại, vạch mặt chỉ tên để nhận diện tư cách của bọn tội đồ của sự man trá đôi : mưu hèn kế bẩn. Chúng không có tư cách thì làm sao chúng có phong cách để lãnh đạo, nên tục ngữ hiện đại đã lột trần được bản lai diện mục của chúng là : hèn với giặc, ác với dân, một nhận định rất chính xác đối với bọn cướp quyền của dân tộc để điếm vốn với ngoại bang !
Sự man trá đôi có thượng nguồn của nó từ khi người cha đẻ sinh ra chủ thuyết cộng sản đã giải thích lịch sử con người là lịch sử của đấu tranh giai cấp, nơi mà giai cấp bị trị là giai cấp bị bóc lột bởi giai cấp thống trị vừa nắm thượng tầng kiến trúc để tổ chức xã hội, vừa kềm hạ tầng kiến trúc đã duy trì quan hệ xã hội bất công tới từ cơ chế người bóc lột người, và giai cấp bị bóc bột phải đứng lên để làm cách mạng để lật độ giai cấp thống trị bằng chuyên chính vô sản. Tại đây, sự man trá đôi xuất hiện tức khắc với các lãnh tụ của các đảng cộng sản vào đầu thế kỷ XX, từ Lenin tới Staline, từ Mao tới Hồ Chí Minh, nơi mà chuyên chính vô sản dù các lãnh tụ tới lãnh đạo đều biết đây chính là chuyên chính vô sản. Cướp chính quyền bằng bạo lực như cướp một vốn làm chủ từ thượng tầng tới hạ tầng để sau đó là điếm hóa quyền lực bằng công an trị, thanh trừng trị, tham ô trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị… Khi liên minh học thuật giữa chính trị học tri thức, xã hội học quyền lực cùng sử học cơ chế đươc hình thành, thì tất cả lý lịch từ lãnh tụ tới lãnh đạo đều có các hằng số của sự man trá đôi, mà hằng số này ngày càng lộ, ngày càng rõ trong bản lai diện mục của các lãnh đạo, các quan chức hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam.
Hãy bắt đầu bằng sự man trá đôi giả vờ lấy lú lẫn để đánh lận con đen trước quần chúng của Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước bằng tuyên bố đôi kiểu cờ gian bạc lận trước những người liêm chính : "chưa bao giờ đất nước được như ngày hôm nay" cùng lúc "không biết tới cuối thế kỷ này đất nước có tới được xã hội chủ nghĩa không ?". Theo triết học phân tích khi song hành với phân tâm học ngôn ngữ, thì mọi sự man trá đôi điều có mâu thuẫn nội tại của nó. Tổ tiên Việt không lầm khi lột mặt nạ bọn này là : "khôn quá hóa dại", nên chúng không biết là trong man ngôn trá ngữ của chúng, thì chính chúng là nạn nhân của hài kịch : "câu trước đá câu sau". Mà thảm cảnh là con dân Việt hiện nay phải làm lao nô cho các chính sách đôi của Đảng cộng sản Việt Nam là xuất khẩu lao động để vơ hốt ngoại tệ, cùng lúc chủ mưu trong tà lộ buôn người ; trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng mà trong lịch sử về tri thức thì những dân tộc của các quốc gia không hề hơn người Việt.
Sự man trá đôi cũng là phản xạ của một tên thủ tướng mang tiếng là đại diện cho hành pháp, nhưng luôn có phản xạ đi ăn xin xứ cờ hoa từ viện trợ tới xuất khẩu, vậy mà trong đại dịch năm 2020 này lại xảo ngôn là "Nếu cột đèn tại Mỹ mà biết đi, thì chúng cũng đi tìm Việt Nam mà tới", một điếm ngữ trong bi cảnh hiện nay của gần một trăm triệu đồng bào đang phải sống trước sự đe dọa của đại dịch đang trùm phủ lên toàn đất nước, cùng lúc không thấy chính phủ của tên xảo ngôn này có chính sách mua thuốc chủng ngừa cho dân chúng chưa ? Trong khi đó từ Hoa Kỳ tới Âu châu đã bắt đầu chích ngừa từ nhiều tuần nay.
Hành pháp thì xảo ngôn điếm ngữ, còn lập pháp thì không phải là lập quyền mà là tật quyền với tuyên bố man trá đôi của bà chủ tịch Quốc hội với điêu lời điếm lưỡi là : "Về chuyện đặc khu, thì Bộ Chính trị đã quyết định rồi, Quốc hội chỉ cần bỏ phiếu để ra luật thôi". Sự man trá đôi luôn gây ra cái lợm giọng ngay trong trí lực của người nghe, gây ra chuyện buồn nôn ngay trong tâm lực của người phải "chịu trận" sự man trá đôi. Mà kẻ phát ngôn chính là tác giả của sự man trá đôi, nghịch đời là chúng không biết là từ dân tộc trong nước tới thiên hạ ngoài nước đang lợm giọng, đang buồn nôn vì lời lẽ của chúng, đây chính là hậu quả đôi của người liêm chính trước kẻ bất chính có chủ mưu gian trá đôi.
Lợm giọng và buồn nôn vẫn chưa đủ, chuyện làm cho cả nước "rởn da gà" là cái mất dạy đôi của tên Bộ trưởng Bộ Giáo dục hiện nay, kẻ đã buôn bằng bán cấp để mua chức bán quyền khi hắn đã mất dạy ngay trong việc đạo văn để tổ chức gian lận đôi, cả học vị lẫn học hàm. Và chính hắn đã có mất dạy đôi ngay trong nhân cách của hắn khi phát biểu trong hội nghị, trước quần chúng với một cánh tay chỉ trỏ thô lậu, và một cánh tay đút chui trong quần một cách thô tục. Cái mất dạy đôi của hắn đã là phản ứng phủi lỗi để trở thành phản xạ che tội cho đồng bọn, khi hắn ăn nói nước đôi : "Tự điển còn phải đính chính nói chi tới sách giáo khoa" để lấp liếm tội lỗi của đám soạn sách giáo khoa, cũng mất dạy đôi như hắn bất tài nhưng lại muốn đi dạy thiên hạ. Hiện nạn làm nên hậu nạn của Việt tộc là để bọn vô loài vì vô học đang vô hậu hóa cả một giống nòi !
Sự man trá đôi sinh đôi ra âm binh đôi từ đục nước béo cò trong tham ô tới bọn thừa gió bẻ măng trong tham nhũng ; với đám tham quan cha ăn trên ngồi trốc cho tới bọn tham quan con gà què ăn quẩn cối xay, đã sinh ra loại họa ngôn hoạn ngữ của một bà quan chức của thành Hồ là : "Con quan mà làm quan là hồng phúc cho dân tộc", nơi mà tâm lý học giáo dục khi liên kết với tâm thần học trí lực để nhận ra tâm bịnh của loại người này là khuyết não lý trí đã tạo ra khuyết tật ngay trong trí tuệ, nên Việt tộc đừng mong là loại lãnh đạo này có tuệ giác tối thiểu để cưu man giống nòi.
Sự man trá đôi đi từ trên xuống dưới, từ lãnh tụ tới lãnh đạo, từ bộ trưởng tới tướng lĩnh của một cơ chế luôn sinh ra loại âm binh đôi vong ân bội nghĩa, loại này chỉ biết vơ vét tiền bạc của đồng bào và nạo vét tài nguyên của đất nước, cho tới khi vào tù rồi ra tòa thì chúng không hề biết lời xin tha thứ đôi là : xin lỗi đồng bào và xin lỗi xã hội. Mà chúng chỉ biết xảo ngôn điếm ngữ chỉ xin tha tội trước đảng trưởng của chúng, cùng với các lời tự thú đôi vừa tồi, vừa hèn là : chúng vừa bất tài, lại vừa đang lâm trọng bịnh. Đây là hành vi tự điếm nhục đôi : tự thô bỉ nhân cách của chúng để tự chôn sống nhân vị của chúng.
Sự mang trá đôi là bản chất làm nên bản sắc của các lãnh đạo, các quan chức của Đảng cộng sản Việt Nam, phải là một đề tài học thuật sâu, nghiên cứu rộng của khoa học xã hội và nhân văn, với khảo sát song hành cùng điều tra từ cơ chế tới thể chế, nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam đang áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc một hậu nạn đôi : dân tộc đã bị man trá hóa, giống nòi đang bị điếm nhục hóa.
Tri thức nhân quyền chính là hùng lực để thay đời đổi kiếp cả giòng sinh mệnh của nhân loại theo hướng thăng hoa trong những năm tháng tới.
7. Dân-Chủ-Nhân-Quyền
Tri thức dân chủ không chỉ được sử dụng để xây dựng chế độ dân chủ, mà tri thức này chính là tổng luận tri thức tới từ các kiến thức của nhân sinh mà khoa học xã hội nhân văn tổng kết được. Tri thức nhân quyền không chỉ được vận dụng để bảo vệ nhân quyền cho những cộng đồng, những tập thể, những cá nhân trước các bạo quyền độc tài hay độc đảng, như thảm họa nhân quyền của Việt Nam hiện nay dưới bạo quyền của Đảng cộng sản Việt Nam. Mà tri thức nhân quyền chính là hùng lực để thay đời đổi kiếp cả giòng sinh mệnh của nhân loại theo hướng thăng hoa trong những năm tháng tới. Đây chính là thượng nguồn của sự khai sinh ra không gian tri thức dân-chủ-nhân-quyền.
Con đường dấn thân vì dân chủ và con đường đấu tranh vì nhân quyền không hề phẳng lặng mà đầy chông gai, hai con đường này tưởng là song hành nhưng thực ra chỉ là một, đó là xa lộ cao tốc của dân-làm-chủ để chống lại tà hệ của một thiểu số mang ý đồ tư lợi hóa quyền lực, để biến công ích thành tư lợi. Mà thiểu số này khi cướp được chính quyền thì sẽ biến tư lợi thành đặc lợi, đặc quyền thành đặc ân. Nên con đường dấn thân vì dân chủ và con đường đấu tranh vì nhân quyền không hề là con đường đi bộ đầy hoa, hay con đường thủy biển êm sóng lặng.
Trong lịch sử của nhân loại, thì những người liêm chính muốn đi trên con đường dân-chủ-nhân-quyền luôn bị trù dập, tù đày, hãm hại, khủng bố, ám sát, thủ tiêu bởi đám âm binh không nhân tính, trống nhân lý, rỗng nhân đạo. Chúng là ma xó của đặc quyền, ma trơi của đặc lợi, ma bùn của đặc ân, nên mỗi lần ánh sáng của dân-chủ-nhân-quyền đại diện cho lẽ phải xuất hiện là chúng chui, luồn, rút, trốn vào bóng tối âm giới của chúng, để rình rập với phản ứng mà dân gian gọi là chó cắn trộm, với phản xạ của quỷ tà mà các nạn nhận trong nhóm Nhân văn giai phẩm gợi là bọn chém sau lưng người lương thiện có lương tâm dân chủ, có lương tri nhân quyền.
Dù con đường dân-chủ-nhân-quyền này còn nhiều chông gai, còn lắm thử thách, lại dư thừa thăng trầm, nhưng tình hình mới của thế kỷ XXI này ngày càng sáng sủa hơn với toàn cầu hóa thông tin tức khắc qua truyền thông tức thì. So với thế kỷ XX qua, thì hiện nay chúng ta không bị đe dọa bởi các cuộc thế chiến như hai cuộc thế chiến của thế kỷ qua, và chính các liên hiệp châu lục và liên minh liên châu lục là thực lực để ngăn chặn chiến tranh, đây chính là rào chặn thế chiến, mà Liên hiệp Âu châu là một thí dụ sinh động.
Còn đám âm binh quá kích lạm dụng đạo giáo, mà Hồi giáo đang là nạn nhân của chúng, để chúng cực đoan trong khủng bố, thì đám này lại đồng hội đồng thuyền với đám độc tài quân phiệt, cả hai đám này cũng là đám ngồi cùng chiếu ăn cùng mâm với đám độc đảng toàn trị kiểu Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên. Cả ba đám cá mè một lứa này chỉ là bọn thổ phỉ bằng quyền lực, ngày đêm rình rập để ăn tươi nuốt sống mọi sự phát triển dân-chủ-nhân-quyền ; nên tà kiếp của chúng chỉ là loại ăn nhờ ở đậu trong nhân gian. Nếu lấy một loạt chỉ báo của hệ nhân (nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân bản, nhân văn, nhân tri, nhân trí…) thì tuổi thọ của chúng rất thấp, chính chúng cũng biết là chúng có ngày phải chết yểu trước hệ nhân này, và mọi tà kiếp đều sẽ chết bất đắc kỳ tử.
Thuần lý về học thuật, thì phải xem nay để xét xưa, thấy hiện tại để thấu quá khứ, mà hiểu cho ra lý, ra lẽ, mà cụ thể là các học thuyết tới triết học sử (lấy triết học để suy diễn lịch sử) không những đều sai lầm nặng nề, mà còn gây ra các thảm họa cho nhân loại. Trong đó có triết học sử của Marx giải thích lịch sử nhân loại bằng quá trình đấu tranh giai cấp, rồi đưa tà dẫn quỷ qua con đường suy diễn là vật chất quyết định trí tuệ, nơi mà dân chủ không hề có chỗ đứng, nơi mà nhân quyền không hề có ghế ngồi. Nên từ đây, giới học thuật của khoa học xã hội và nhân văn khi đi vào nghiên cứu để điều tra, đi vào khảo sát để điền dã, thì nên gạt ra loại triết học sử này, mà ngược lại phải xem để xét sử học triết (dựa vào sử học để diễn luận triết).
Từ đây học thuật sẽ dựa vào sự thật của quá khứ để tìm ra chân lý của tương lai, cụ thể nương vào lịch sử để xây dựng triết học, với lý trí bình tĩnh là có lý thuyết sai phải bị xóa bỏ đi bởi các lý thuyết đúng. Với sự cẩn trọng của trí tuệ sáng suốt là các lý thuyết sai có thể được tận dụng để cướp của giết người như thảm họa độc đảng toàn trị kiểu Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hiện nay. Một lý trí bình tĩnh song hành để chung lưng đấu cật cùng một trí tuệ sáng suốt sẽ xây dựng được một tuệ giác thông thái ngay trong giới học thuật, từ nghiên cứu tới điều tra, từ khảo sát tới điền dã. Một công hai việc, cùng lúc học giới sẽ đưa nền học thuật của Việt Nam ra khỏi hệ nạn (tai nạn, hiểm nạn, họa nạn, hoạn nạn) của tà giới hiện nay là học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.
Tri thức dân chủ không chỉ được sử dụng để xây dựng chế độ dân chủ, tri thức nhân quyền không chỉ được vận dụng để bảo vệ nhân quyền trong nhân sinh, mà cả hai là nội lực của sự thông minh biết đường đi nẻo về của một nhân sinh quan vì nhân phẩm. Cả hai là còn là sung lực của sự thông thạo biết đi tới nơi về tới chốn của một thế giới quan vì nhân bản. Cả hai sẽ là hùng lực của sự thông thái biết trời cao đất rộng của một vũ trụ quan, nơi mà nhân loại biết tự bảo vệ mình, cùng lúc biết bảo quản thiên nhiên, môi trường, chung sống thái hòa với mọi sinh linh trên quả địa cầu này.
8. Nhân sinh tự chủ
Khi con người trong thế một cổ ba tròng : tôn giáo toàn quyền, quân chủ độc quyền, tham quan lộng quyền thuở xa xưa, thì nhân loại tưởng chừng như lịch sử không có lối ra, vậy mà nhân sinh có nhân trí vẫn có lối ra bằng cách mạng công nghệ, kinh tế thị trường, tự do thương mại... Vậy mà với thế kỷ XX, từ chế độ cộng sản kiểu Liên sô tới chế độ Đức quốc xã, lịch sử lại rơi vào ngõ cụt, lần nầy cũng vậy tưởng chừng như không có lối thoát, vậy mà nhân loại vẫn thông minh vẫn chọn văn minh dân chủ, từ Tây Âu tới Bắc Mỹ để vượt thắng mọi bạo quyền này. Đây là câu chuyện của một nhân sinh biết sử dụng công bằng, biết vận dụng công lý, biết tận dụng công luận, để vượt thoát rồi vượt thắng các bạo quyền chống dân chủ, phản nhân quyền.
Khi nhìn lại thế kỷ ánh sáng XVIII, chỉ vài tư tưởng gia : Diderot, Montesquieu, Rousseau, Voltaire… với lý luận vì dân chủ để lập luận vì nhân quyền, đưa nhân loại qua một quỷ đạo hoàn toàn mới với giải luận về tam quyền phân lập. Những ai không thấy để thấu từ nội công tới bản lĩnh của tam quyền phân lập thì thường nghĩ rằng cơ chế tam quyền này hình như bị ngưng động lại ngay trong định chế dân chủ, bất di bất dịch, từ Tây Âu tới Bắc Mỹ, dường như chẳng có gì thay đổi từ hơn hai thế kỷ nay. Hãy xem tới nơi để xét tới chốn là có rất nhiều thay đổi theo hướng thăng hoa, nơi mà dân chủ là văn minh vì nhân sinh, và nhân quyền là văn hiến vì nhân loại. Đây là một bước tiến vạn dặm ngay trong não trạng của nhân sinh, từ một cổ ba tròng (tôn giáo toàn quyền, quân chủ độc quyền, tham quan lộng quyền) thuở nào, giờ đây nhân sinh đã biết tự giải thoát bằng :
- Sử tính, hiểu lịch sử để làm khá hơn lịch sử, thấu cái xưa để làm tốt cái nay, rồi làm đẹp cái mai, làm lành cái hậu, đây chính là định nghĩa về sự thông thái của nhân sinh. Con người ra khỏi bóng tối của bất công thì phải nhìn về phía có ánh sáng của công lý biết làm nên công bằng để nhận ra vừa sự thực của nhân vị, vừa chân lý của nhân bản, vừa lẽ phải của nhân lý.
- Chính tri, biết làm nên chính trị, nơi mà định chế dựa vào tự do, nơi mà cơ chế nương vào công bằng, nơi mà chế độ tin vào bác ái, được kiểm nghiệm qua đầu phiếu, ứng cử và tranh cử như một sân chơi trong sạch, dựa vào luật chơi trong sáng : định kỳ của chính quyền chỉ là nhiệm kỳ của chính phủ.
- Luật pháp, nơi mà tư pháp giữ khoảng cách liêm chính với lập pháp, nghiêm minh với hành pháp, không ai đứng ngoài luật, và công luật đại diện cho công lý để xét rồi xử một cách liêm khiết mọi vị phạm luật pháp của bạo quyền, của tà quyền, của ma quyền, bất chấp lý lịch và quyền lực của nó.
Liên minh sử tính-chính tri-luật pháp chính là sự trưởng thành của tam quyền phân lập, sự trưởng thành tới với ba nội công mới của dân chủ, như ba bản lĩnh mới của nhân quyền :
- Nhân sinh tự chủ tới từ kinh tế tự lập, trong các châu lục có văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền thì tự lập về kinh tế đã tạo ra tự do về thương mại, làm nên sức bật, tạo ra dàn nhún để phát triển kinh tế mà kết quả tích cực được thấy rõ trong tiến bộ của nhân sinh ngày càng tự chủ tự sản xuất tới tiêu thụ. Tự chủ để tự lập để nhận ra là nhân loại được đứng độc lập trước ba hoạn lực (tôn giáo toàn quyền, quân chủ độc quyền, tham quan lộng quyền) thuở nọ.
- Nhân sinh tự chủ tới từ khoa học kỹ thuật tự tiến, biết tạo năng suất trong công nghệ, tạo hiệu quả trong công nghiệp, và trong các châu lục có văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền thì tự tiến bằng khoa học kỹ thuật luôn. Đây vừa là một hằng số của phát tri- ển kinh tế lẫn tiến bộ xã hội, lại vừa là thành quả không những tích cực mà làm còn đưa nhân loại theo hướng thăng hoa. Để nhân sinh thấy cho thấu sự liên kết của phát triển-tiến bộ-văn minh chỉ là một không gian, một lãnh thổ, không hề có biên giới tách biệt.
- Nhân sinh tự chủ tới xã hôi dân sự tự sinh, đây là bước đi thật xa về dân chủ, thật cao về nhân quyền, thật rộng về nhân tri, thật sâu về nhân phẩm, nơi mà các giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) chính là hành tác thường nhật của xã hội dân sự. Nơi đây, công dân không chỉ đi bầu rồi trao thân gởi phận cho một chính quyền được định kỳ, mà công dân còn biết tự thành lập các hội đoàn, các tập thể, các cộng đồng qua các tổ chức xã hội, sinh hoạt xã hội qua quan hệ xã hội. Từ đó, ngày ngày, tuần tuần, tháng tháng xem để xét, cụ thể là cân, đo, đóng, đếm từ hành vi tới hành động của lập pháp, từ chính sách tới quốc sách của hành pháp, từ liêm minh tới nghiêm minh của tư pháp.
- Nhân sinh tự chủ đã gạt đi rồi tôn giáo toàn quyền, quân chủ độc quyền, tham quan lộng quyền thuở xa xưa, bóng tối lịch sử này xem như đã dứt kiếp trước nhân loại biết bảo vệ nhân sinh bằng dân chủ và nhân quyền. Phạm trù nhân sinh tự chủ từ chính tri tới luật pháp, từ kinh tế tới thương mại, từ kỹ thuật tới công nghiệp, từ khoa học tới xã hội…
Chính là con đường đi lên, đi cao, đi rộng, đi xa của nhân sinh qua phương trình tự lập-tự tiến-tự sinh của nhân sinh tự chủ một chân lý làm ngời sáng dân chủ, làm rực sáng nhân quyền. Nhưng đây lại là ác mộng của bạo quyền độc đảng toàn trị, tà quyền tham nhũng trị, quỷ quyền công an trị, mà Việt tộc đang là nạn nhân. Vì chúng luôn tìm mọi cách ngăn, chặn, truy, diệt nhân sinh tự chủ, vì chúng biết hơn ai hết nhân sinh tự chủ sẽ trực tiếp xóa, gạt, vứt, chôn đi các đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của chúng do chúng tạo ra cho chính chúng !
Lê Hữu Khóa
(18/01/2021)
[1] Xem bài : KHÔNG CÓ CHỮ THƯƠNG, trong ĐỐI LUẬN, nxb ANTHROPOL-ASIE, 2021. Paris.
-------------------
Lê Hữu Khóa là Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học Châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới
Từng có ý kiến cho rằng, một chế độ độc tài nhưng sáng suốt thì vẫn có thể phát triển đất nước. Họ lấy ví dụ Trung Quốc. Những người hời hợt chỉ có thể đồng ý vì 40 năm qua Trung Quốc đã lột xác hoàn toàn dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Trung Quốc đã trở nên giàu có bằng cách nào thì chúng tôi đã giải thích nhiều lần. Với nguồn tài nguyên khổng lồ 1,4 tỉ dân và một nền kinh tế hoang dại, phát triển bất chấp môi trường và nhân quyền… Trung Quốc đã được chọn làm đại công xưởng cho thế giới.
Chủ nghĩa thực tiễn của Mỹ từ thời Bill Clinton cộng với chủ nghĩa tân phóng khoáng của các nước dân chủ, đề cao tự do và lợi nhuận đã ra sức lợi dụng và khai thác thị trường Trung Quốc suốt thời gian qua. Trung Quốc đã phá hủy môi trường và tận dụng tối đa sức người để sản xuất ra các loại hàng hóa và bán chúng ra khắp thế giới với giá rẻ mạt. Người dân Trung Quốc chỉ được hưởng một phần nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế "thần kỳ" đó.
Chính quyền Trung Quốc khá tinh khôn trong làm kinh tế. Ban đầu họ gồng mình chịu thiệt để được các nước tư bản "bóc lột", số tiền thu về nhanh chóng đổ vào xây cất và mở mang các thành phố đồng thời Trung Quốc bỏ ra một số tiền khá lớn, khoảng 3.000 tỉ USD để mua trái phiếu Mỹ và Châu Âu nhằm đánh bóng uy tín. Lợi nhuận và hình ảnh long lanh của Trung Quốc khiến các quĩ đầu tư khắp thế giới đổ tiền vào Trung Quốc. Số nợ của Trung Quốc hiện nay vào khoảng 40.000 tỉ USD trong đó có lẽ là một nửa hoặc 2/3 là tiền của các quĩ đầu tư quốc tế chủ yếu là Mỹ.
Có một câu nói rất hay rằng, nếu bạn nợ ngân hàng vài chục nghìn đô la thì đó là vấn đề của bạn nhưng khi bạn nợ ngân hàng vài chục triệu đô la thì đó là vấn đề của ngân hàng. Trung Quốc đang trong hoàn cảnh thứ hai. Khi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói về sự phá sản của Trung Quốc thì không ít người phản đối vì cho rằng sẽ không có chuyện đó. Trung Quốc bây giờ khác Liên Xô ngày trước, điều này đúng. Khi Liên Xô sụp đổ thì cả thế giới bình yên nhưng cái giá mà thế giới, chủ yếu là Mỹ và các nước phương Tây sẽ phải trả cho sự phá sản của Trung Quốc là rất lớn. Thậm chí là cả thế giới sẽ rơi vào khủng hoảng (1).
Thâm Quyến, một trung tâm kinh tế của Trung Quốc
Kịch bản mà ông Nguyễn Gia Kiểng hình dung về cách đối phó của Đảng cộng sản Trung Quốc trong nạn dịch Covid-19 là "chạy nợ" bằng cách cho phép các công ty mẹ chuyển hết tài sản cho các công ty con rồi tuyên bố phá sản. Với qui mô về dân số, diện tích và kỹ thuật đã tích lũy được thì Trung Quốc có thể rút lui và co cụm lại rồi tự phát triển một mình. Dịch Covid-19 là một cơ hội để Trung Quốc thú nhận sự phá sản của mình và cũng nhân cơ hội này để xóa nợ và co cụm lại.
Còn Việt Nam thì sao ?
Với không ít người Việt Nam thiếu kiến thức và hời hợt về chính trị thì cho rằng dù gì Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã làm cho kinh tế Việt Nam khá hơn trong thời gian qua. Cuộc sống tốt hơn, nhà cửa, đường sá được xây dựng nhiều hơn... Những người có tiền đều thấy thoải mái và tiện nghi miễn là đừng đụng chạm đến chính trị.
Đúng là có chuyện như thế nhưng Đảng cộng sản Việt Nam không phải làm gì cả. Họ làm kinh tế bằng cách cóp nhặt mô hình Trung Quốc nhưng với qui mô nhỏ và kém xa so với Trung Quốc. Việt Nam cũng mở các khu công nghiệp với mọi sự dễ dãi để mời mọc các công ty đa quốc gia vào "bóc lột" sức lao động người dân. Việt Nam chào mời các công ty đa quốc gia đầu tư với những quảng cáo như "Việt Nam là đất nước ổn định chính trị, nguồn nhân công lao động rẻ và dồi dào…". Khi nguồn nhân công rẻ mạt và ngoan ngoãn ngày càng giảm sút thì Đảng cộng sản hoảng hốt, cả bí thư Nguyễn Thiện Nhân và Vương Đình Huệ đều công khai bày tỏ sự lo lắng khi người dân Việt Nam ngày càng "đẻ ít đi".
Đã từ lâu Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên khuyến cáo là Việt Nam cần giảm phụ thuộc vào xuất khẩu mà nên chú trọng vào thị trường trong nước với gần 100 triệu dân. Theo các chuyên gia thì khi kim ngạch xuất nhập khẩu (ngoại thương) vượt mức 50% GDP là nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng rơi vào tình trạng nguy hiểm. Khi đó sự ổn định của nền kinh tế quốc gia sẽ phụ thuộc vào nước ngoài, tức là mình phải chịu những tai nạn do người khác gây ra. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam năm 2019 vượt ngưỡng 500 tỉ USD trong khi GDP của Việt Nam chỉ hơn 200 tỉ USD, như vậy là ngoại thương Việt Nam lớn gấp 5 lần ngưỡng cho phép. Kinh tế Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài.
Dịch cúm Covid-19 một lần nữa phơi bày sự thiển cận của Đảng cộng sản Việt Nam khi họ chần chừ và không dứt khoát "thoát Trung". Dù ông Nguyễn Phú Trọng và ban lãnh đạo tối cao đã lấy quyết định chuyển trục sang các nước dân chủ nhưng họ không đủ can đảm và bản lĩnh để công khai việc đó với 4 triệu đảng viên và 96 triệu người dân Việt Nam. Bản chất của các chế độ độc tài hoàn toàn trái ngược với dân chủ nên cho dù là một quyết định "sáng suốt" duy nhất từ ngày thành lập đảng đến nay họ vẫn không thể nào lấy quyết định dứt khoát.
Sự chuyển trục đã bắt đầu từ chuyến thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 7/2015, tuy nhiên sự xoay trục đã quá chậm chạp vì nhiều lý do. Lý do lớn nhất và quan trọng nhất là sự thiển cận và ngoan cố của Đảng cộng sản Việt Nam. Họ vẫn cố gắng để duy trì chế độ toàn trị bất chấp thiệt hại cho đất nước. Xin nhắc lại rằng Đảng cộng sản Việt Nam không hề muốn xoay trục sang Mỹ vì họ hiểu điều đó đồng nghĩa với sự cáo chung của đảng. Họ hy vọng là thời gian đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ còn kéo dài và trong thời gian đó họ có thể dân chủ hóa một mình hoặc thay tên đổi họ để trở thành một chính đảng văn minh và tiến bộ. Mọi toan tính của họ đã bị dịch cúm Covid-19 đảo lộn tất cả. Trung Quốc sẽ nhanh chóng rút lui và co cụm lại sau khi dịch cúm kết thúc. Các nước dân chủ, nhất là Mỹ có thể rơi vào khủng hoảng khi các quĩ đầu tư tài chính bị vỡ nợ vì cho Trung Quốc vay. Khi đó họ không thể nào giúp đỡ cho Việt Nam và nếu khủng hoảng kinh tế xảy ra với Việt Nam thì Đảng cộng sản sẽ phải trả giá đắt.
Cũng cần nói rõ một điều rằng bản thân Đảng cộng sản Việt Nam không hề muốn chuyển trục, họ chỉ làm điều đó khi không còn bất cứ sự lựa chọn này khác. Họ không hề có công lao gì trong việc này cả. Nếu bán được nước để duy trì chế độ thì họ cũng sẵn sàng. Vấn đề là Trung Quốc đã rút lui và co cụm lại nên không cần đến Việt Nam nữa. Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vào quĩ đạo Trung Quốc để rồi chịu lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Những khốn khó mà người dân Việt Nam đang phải hứng chịu trong dịch Covid-19 đến từ sự thiển cận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam đang rất khốn đốn vì Đại hội 13 đang đến gần. Báo cáo chính trị của đảng về hướng đi cho 5 năm tới sẽ viết những gì ? Sẽ can đảm công khai việc chuyển trục sang Mỹ và các nước dân chủ hay vẫn "lưỡi gỗ" kiên định con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội và trung thành với tư tưởng Mác-Lênin ? Nếu công khai chuyện xoay trục thì nội bộ sẽ rối loạn nhưng giấu giếm thì càng đổ vỡ lớn vì không ai còn tin vào những lời nói dối.
Sự chống đối sẽ rất gay gắt ngay trong nội bộ nếu Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói dối. Khi thuyền trưởng đổi hướng mà không thông báo cho thủy thủ đoàn biết thì sẽ xảy ra cảnh "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Các đảng viên sẽ không biết đường nào mà lần. Họ không biết phải bày tỏ thái độ thân Trung hay thân Mỹ và rồi có thể họ sẽ trở thành nạn nhân vì chính sự nhiệt thành của họ. Lịch sử đã xảy ra như vậy khi Đảng cộng sản Việt Nam xoay trục lần thứ nhất vào thập niên 60 "bỏ Liên Xô theo Trung Quốc" với hậu quả là hàng hoạt tướng tá và quan chức cao cấp bị trừng phạt mà không hiểu vì sao (2).
Không có một chế độ độc tài nào là sáng suốt vì họ tự quyết định mọi chuyện theo cách nghĩ của họ, vì quyền lợi của họ chứ không vì quyền lợi của dân tộc. Đảng cộng sản Trung Quốc có thể giỏi trong làm kinh tế nhưng họ lại sai lầm khi muốn làm bá chủ thế giới. Mô hình độc tài của họ làm cho cả thế giới lo sợ và vì thế Trung Quốc không thể có bạn. Trong dịch Covid-19 Trung Quốc chỉ còn mỗi người bạn là Hun Sen (Campuchia).
Không ai có thể đoán được Đảng cộng sản Việt Nam sẽ ra sao sau dịch cúm Covid-19 và cũng không ai biết được nội bộ Đảng cộng sản sẽ ra sao trong Đại hội 13 nhưng có một điều mà mọi người cần biết đó là Đảng cộng sản Việt Nam không có bất cứ giải pháp nào cho đất nước. Giải pháp cho đất nước chỉ có thể đến từ các tổ chức chính trị khác. Đã đến lúc người Việt Nam cần tìm hiểu về những giải pháp khác đó.
Việt Hoàng
(8/3/2020)
Gần đây xảy ra sự kiện, ngày 28 tháng 9 tại Liên Hiệp quốc, Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu 15 phút. Ông Minh nói chung chung về thành tích của Việt Nam, về căng thẳng ở Biển Đông, kêu gọi đa phương hóa quan hệ, không dám đụng đến tên Trung Quốc.
Không biết Bộ Chính trị của Đảng đã bàn bạc và chỉ thị như thế nào, có những mưu lược cao cường gì trong chuyện này, nhưng việc ông Minh không dám nói đến Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc đã làm cho phần đông dân Việt Nam thất vọng.
Không những dân Việt mà chắc rằng Chính phủ nhiều nước cũng thất vọng. Họ chờ đợi sự lên án Trung Quốc một cách mạnh mẽ của Việt Nam để tỏ rõ sự ủng hộ, để thể hiện sự đoàn kết chống bọn bành trướng. Nhưng họ đã không được nghe sau thời gian dài chờ đợi.
Nhiều người bỏ phòng họp khi Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu
Bên cạnh những bài phê phán sự hèn nhát của Phạm Bình Minh, có vài ý kiến khuyên rằng, nên thông cảm cho ông ta, vì ông ta không được tự do ăn nói, mà phải chịu sự chỉ đạo của cấp trên.
Tôi không tán thành với sự thông cảm đó. Trước hết, phải biết ý kiến cá nhân của ông. Với tư cách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Minh có thấy cần phải nêu tên Trung Quốc ra không. Nhiều người cho rằng, không nêu ra thì toàn thế giới cũng đã biết rõ. Vâng, người ta biết rõ, nhưng việc nêu hay không nêu tên Trung Quốc có tác dụng khác nhau rất lớn.
Khi ông Minh cho rằng không cần nêu, thế thì ông đồng lõa với cấp trên, không thể nói là ông bị người ta ép buộc. Khi ông thấy cần phải nêu, phải chỉ thẳng vào mặt Trung Quốc, vậy ông có đề xuất và trao đổi với cấp trên không, có dám thuyết phục để họ chấp nhận ý kiến của ông không, hay ông chỉ ngoan ngoãn một lòng nghe theo họ, chỉ biết vâng dạ ?
Cha của ông Minh là Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) một Bộ trưởng Ngoại giao khá cứng rắn với Trung Quốc, vì thế đã bị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười loại bỏ. Không biết ông Minh có nghĩ tới cha hay không, có nghĩ rằng gặp trường hợp này Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch sẽ hành động như thế nào, giữ nguyên ý kiến để thể hiện, để bảo vệ tinh thần dân tộc và đồng thời giữ khí tiết, hay là chịu rụt cổ cúi đầu, bên ngoài nói là để giữ đoàn kết, thống nhất tư tưởng mà thực ra là che giấu sự tham quyền cố vị, không dám dũng cảm bảo vệ chính nghĩa.
Nếu quả thật ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị là không dám chỉ rõ tên Trung Quốc, thì tất cả họ đã nấp sau bức màn đen và đẩy một mình Phạm Bình Minh ra trước công luận để hứng chịu búa rìu của dư luận.
Theo lời khuyên "nên thông cảm với Phạm Bình Minh", tôi tạm đặt vào vị trí của ông và thấy rùng mình. Theo trên thì tạm giữ được địa vị và giàu sang, nhưng… Quyết vạch rõ bộ mặt xâm lược của Trung Quốc thì…Đúng là tiến lên vướng núi, trở lại gặp sông. Nếu là tôi, tôi sẽ noi theo gương cha, thà bị mất chức tước, mất quyền lợi vật chất, thậm chí bị khai trừ khỏi Đảng như Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Trần Xuân Bách v.v… còn hơn ra giữa Liên Hiệp Quốc phơi bày sự hèn kém của cá nhân và của Nhà nước.
Phải chăng Phạm Bình Minh đã vì quá sợ cấp trên, hay vì ý thức hệ cộng sản mà phản lại cha ông ? Liệu những người có lương tri có thể thông cảm ? Nếu Phạm Bình Minh bị ép quá mức, tại sao không dám tuyên bố từ chức để chống lại ?
Khi Bộ trưởng Ngoại giao tuyên bố từ chức để phản đối việc không dám đụng đến Trung Quốc xâm lược thì đó là một quả bom nổ giữa trời quang. Việt Nam đang rất cần những quả bom như thế để thức tỉnh. Xem trong các quan chức cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam chưa thấy ai có được dũng cảm để làm việc như vậy.
Nguyễn Đình Cống
(30/09/2019)
Đảng Cộng sản Việt Nam không thể tự chuyển hóa
Cái đảng cộng sản chắc phải "đốn" lắm rồi. Hết hội nghị này tới hội nghị khác hô hào chỉnh đốn Đảng, rồi lại hô to hơn, phải tăng cường chỉnh đốn Đảng. Ông Nguyễn Phú Trọng lại mới họp một hội nghị cán bộ toàn quốc dạy dỗ cán bộ về tăng cường chỉnh đốn Đảng !
Đốn là đứa nào mà phải chỉnh đi chỉnh lại hoài như vậy ? Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, giải thích chữ Chỉnh đốn 整頓 : "sự gì, cái gì đã tán loạn lâu rồi mà lại sửa sang lại cho được như cũ gọi là chỉnh đốn". Nguyễn Phú Trọng đang lo chỉnh đốn Đảng bởi vì cái đảng của ông ta "đã tán loạn lâu rồi !". Và ông muốn sửa sang nó "cho được như cũ".
Cảnh toán loạn trong đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra từ mấy chục năm nay rồi nhưng đến đời Nguyễn Phú Trọng đã bùng nổ mạnh. Nguyễn An Dân đã mô tả cảnh tán loạn qua mấy chữ : Đảng bắn nhau ; Đảng bắn Dân ; Dân bắn lại Đảng !
Một vụ Dân bắn lại Đảng xẩy ra năm 2013, một "dân oan" là Đặng Ngọc Viết mặc quần áo nghiêm chỉnh, tay sách chiếc cặp đen thong dong vào trụ sở hành chánh thị xã Thái Bình bắn chết bốn cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất Thành phố : Vũ Ngọc Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm ; và Bùi Đức Xuân, Vũ Công Cương và Nguyễn Thanh Dương. Giết người xong Đặng Ngọc Viết ra về, đến chiều tới cổng chùa Dục Dương bên cạnh nhà tự sát. Các nạn nhân là những người đang thi hành "dự án mở đường" qua khu vực đất nhà anh Viết, và gia đình anh không được bồi thường xứng đáng.
Vụ Đảng bắn nhau diễn ra tại Yên Bái năm nay. Đỗ Cường Minh, trưởng Chi cục Kiểm lâm Yên Bái, vào trụ sở thành phố bắn chết hai quan đầu tỉnh, bí thư Tỉnh ủy Phạm Duy Cường và Chủ tịch tỉnh kiêm Trưởng ban Tổ chức Ngô Ngọc Tuấn. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bay lên ngay coi xác rồi hứa điều tra. Phó thủ tướng Trương Hòa Bình gửi công văn chỉ đạo cơ quan công an khởi tố, điều tra, xác định nguyên nhân vụ. Bốn tháng hơn rồi, không còn nghe nói gì nữa.
Cảnh toán loạn gần đây nhất là vào tháng Chín, 2016 với những cuộc tháo chạy của những Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng, tất cả đều liên can tới các công ty dầu khí, những cái ổ chứa đầy tiền ; Thanh còn từng giữ chức phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Cả ba người này đều đang bị nghi ngờ tham nhũng, bị điều tra hoặc bị truy tố, nhưng đều bình yên cao chạy xa bay ! Tán loạn bên trong và bên ngoài đảng ! Nguyễn Phú Trọng đang cầm đầu đảng, mà đảng thì được hiến pháp xác định toàn quyền "lãnh đạo nhà nước và xã hội" không làm được gì cả, chỉ còn sử dụng món "võ mồm !".
Nguyễn Phú Trọng đến nói chuyện với các cử tri của mình tại Đông Anh, Hà Nội, quê hương của cả ông Trọng và Trịnh Xuân Thanh. Ông dõng dạc tuyên bố : "Đã ra lệnh truy nã quốc tế với Trịnh Xuân Thanh và đang phối hợp với các nước bắt bằng được". Nhà báo tự do Người Buôn Gió kể chuyện trên rồi nhận xét : "Trọng bày tỏ sự cay cú, hằn học với Trịnh Xuân Thanh một cách trẻ con". Trong lúc đó Trịnh Xuân Thanh vẫn liên lạc với bạn ở Việt Nam, còn kể chuyện mình đang ở nước Đức như thế nào để đưa lên mạng, chẳng thấy lệnh truy nã quốc tế nào hết ! Người Buôn Gió kết luận rằng Trọng chỉ "phát biểu mị dân cho mình đỡ nhục vì không làm gì được Trịnh Xuân Thanh cả !".
Nhà báo Huy Đức cho rằng bản danh sách những người trong ngành Dầu Khí "có khả năng chạy trốn lên tới 192 nhân vật !" Quả thật là tán loạn ! Trọng "loay hoay với những kẻ đã cao chạy xa bay" không bắt được, bèn quay ra ra lệnh cách chức mấy quan chức đã nghỉ hưu rồi, không còn chức nào để cách nữa !
Một đảng viên là Giáo sư Trần Đình Sử, được tiếng là thận trọng, cũng phải buông lời phê phán : "chế độ ta đạt đến sự thối nát nhất trong các chế độ đã có và hiện có… Thật khủng khiếp !".
Bất lực trước những cảnh tán loạn đó, Nguyễn Phú Trọng quay ra "Chỉnh đốn Đảng !". Trọng đã từng hô hào chống tham nhũng để chỉnh đốn đảng. Ông Nguyễn Đăng Quang, cựu Đại tá Công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội nhận xét : "lãnh đạo Đảng càng hô hào chống tham nhũng, càng ra nhiều nghị quyết, chỉ thị chống tham nhũng, thì tham nhũng này lại càng khỏe ra càng mạnh lên !". Và ông kết luận : "đánh tham nhũng chống tham nhũng chẳng qua chỉ là đánh trận giả, bắn chỉ thiên là chính thôi !". Cần giải thích cho các bạn trẻ hiểu nghĩa, bắn chỉ thiên tức là đưa nòng súng ngược lên trời, đạn bắn bay lên trời chứ không trúng ai cả !
Chỉ có thể chống tham nhũng bằng cách bắn chỉ thiên bởi vì chính các quan cộng sản cũng công nhận rằng "đánh tham nhũng tức là ta lại đánh ta !" Hình ảnh bắn chỉ thiên giải thích được tại sao những người bị nghi tham nhũng như quý ông Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng đều thoải mái biến đi không để lại dấu vết !
Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn được đàn em tôn xưng là giáo sư. Sau khi bắn chỉ thiên chống tham nhũng, giáo sư Trọng đã quay ra bắn tiếp vào "Tình trạng suy thoái" của đảng, nhắm thẳng vào hai mục tiêu : "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa". Ông cảnh báo các cán bộ, đảng viên rằng những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi". Đáng lo hơn là chúng "còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường". Việc chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là một "cuộc chiến đầy cam go", nhưng, ông nói, "không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ".
Điều ông Trọng nhấn mạnh là hai hiện tượng "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" nguy hiểm cho "vận mệnh của Đảng và chế độ" chứ ông không nói gì tới vận mệnh nước Việt Nam cả. Vận mệnh nước Việt Nam hiện nay là cá chết, biển chết, dân đói, trẻ em thất học, quân giặc xâm lăng đã chiếm biển, chiếm đảo, xây phi trường và căn cứ quân sự đe dọa hai ngàn cây số bờ biển. Nhưng tất cả những tai họa đó không đáng lo bằng sự kiện các đảng viên "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" ; cho nên ông Nguyễn Phú Trọng chẳng cần quan tâm !
Ông Trọng không quan tâm là phải, bởi vì chính những người đảng viên cộng sản tỉnh ngộ khi nhìn ra những sai lầm hại dân hại nước, chính họ đã tự chuyển hóa để đòi thay đổi. Những người đang "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" bây giờ chỉ noi theo các đàn anh đi trước, từ Hoàng Minh Chính, Trần Độ tới Tống Văn Công, đặt vận mệnh dân tộc lên trên vận mệnh Đảng và chế độ ! Họ không chấp nhận tiếp tục nhắm mắt, cúi đầu theo đảng cho nên họ mới lên tiếng đòi cho người dân Việt được sống tự do dân chủ, đòi phải cứng rắn đương đầu với kẻ thù xâm lăng cướp nước.
Những người tỉnh ngộ sớm nhìn thấy tai họa của đất nước, không phải chỉ là những tai họa vật chất như đất đai, rừng, biển và tài nguyên thiên nhiên. Tai họa lớn nhất là một dân tộc sống không có phương hướng. Họ phải tự chuyển hóa để nhìn rõ vấn đề đó. Kỹ thuật truyền thông hiện đại đã giúp nhiều người trao đổi với nhau dù không gặp mặt. Các thông tin và ý kiến truyền từ người này qua người khác, tạo ra những cộng đồng chính trị ảo trong đó các công dân tự ý thức mình có quyền đòi thay đổi. Mọi người trong cộng đồng này biết rằng kỹ thuật thông tin mới sẽ khiến cho các chính quyền, ở bất cứ nước nào, khó nói dối trá, khó ăn cắp của công, và khó giết người, như những cảnh ai bị gọi tới đồn công an một, hai ngày là chết !
Bất cứ người Việt Nam, một đảng viên cộng sản tỉnh táo nào, cũng phải thấy nếu không thay đổi thì quê hương sẽ tiếp tục chìm đắm trong cảnh nghèo thua kém các nước chung quanh, và chủ quyền đất nước mất dần vào tay ngoại bang. Các đảng viên không tự chuyển hóa phải thấy chính mình đang phản bội dân tộc ! Một "chế độ thối nát nhất trong các chế độ đã có và hiện có" ở nước Việt Nam và trên mặt trái đất, nếu nó còn tiếp tục cầm quyền thì sẽ đưa đất nước về đâu ?
Nhờ phương tiện thông tin mới, những người đã mất niềm tin vào dân tộc, mất niềm tin vào khả năng xây dựng lại quê hương bây giờ đang nuôi lại niềm tin, họ sẵn sàng đứng lên tự mình làm công việc thay đổi. Niềm tin đó có thể lan truyền trong giới thanh niên, giới trí thức, kể cả các đảng viên cộng sản. Nhờ thế, chính các đảng viên cũng sẽ muốn thay đổi. Làm sao họ có thể tiếp tục cúi đầu theo giáo sư Trọng "tiến lên chủ nghĩa xã hội" trong khi chính giáo sư từng nói rằng "Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa !"
Đó là mối đe dọa trên vận mạng của đảng Cộng sản mà ông Nguyễn Phú Trọng muốn chỉnh đốn. Nhưng ông không thể nào bịt mắt, bịt tai tất cả các đảng viên để mình ông độc thoại mãi mãi.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : Người Việt, 23/12/2016