Trước Tết dương lịch ít hôm, báo chí Việt Nam đưa tin, con số thống kê những người dân vùng đồng bằng Cửu Long ly hương, với những tiêu đề rất bi thảm : Day dứt miền Tây của báo Đại Đoàn Kết, Hơn 1 triệu dân Đồng bằng sông Cửu Long bỏ xứ đi lập nghiệp nơi khác của báo Dân Trí ; Nỗi niềm sau chuyện 1,3 triệu người miền Tây ly hương của báo Người Đô thị ; ‘Di dân nhiều cho thấy miền Tây kém phát triển’ của VnExpress và Dân bỏ xứ đi, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ? của RFA…
Vẫn có nhiều nghi ngại của các nhà khoa học môi trường ở vùng này về dự án Cái Lớn – Cái Bé, rằng nó vừa tốn tiền, vừa có thể làm thay đổi thiên nhiên một lần nữa mà nếu sai thì rất khó sửa.
Trước đó vài tháng lại có những tin rất phấn khởi là đại dự án thủy lợi "Cái Lớn – Cái Bé" được các tỉnh hoan nghênh, thúc giục chính phủ tiến hành giai đoạn 2. Đây là một dự án rất tốn tiền, nằm trong đại quy hoạch vùng châu thổ này, dự phòng những biến chuyển bất lợi về thiên nhiên như nước biển dâng, biến đổi khí hậu,… trong tương lai.
Chuyện đồng bằng sông Cửu Long bị tụt lại đằng sau không phải là mới. Vùng đất "gạo trắng nước trong", "vựa lúa của Việt Nam" vang bóng một thời, bây giờ trở thành khu vực có đông dân nghèo, thất học. Cách đây vài chục năm đã có những phong trào thể hiện sự tàn lụi đó, phong trào thiếu nữ đi lấy chồng Đài Loan, những người phụ nữ đi làm nghề massage trên cả nước…
Người ta có thể giải thích sự lụi tàn này bằng nhiều lý do. Thứ nhất, thiên nhiên thay đổi, thay đổi từ bên ngoài, như là biến đổi khí hậu, hay người Tàu, người Lào, người Thái, cả người Việt nữa, xây đập trên thượng nguồn làm nước ngọt và phù sa không xuống được đến châu thổ.
Thứ hai là do chính mình làm hại mình. Người ta khai thác cát vô tội vạ, làm nước xoáy lở bờ, và nhất là hai đại dự án rất ngốc nghếch chống lại thiên nhiên do lãnh đạo cộng sản chủ trương trước đây : Đắp đê làm mùa lúa vụ thứ ba, và ngọt hóa bán đảo Cà Mau.
Cuối năm 2017, Đảng cộng sản ra nghị quyết số 120 về vùng đất này với tinh thần là không chống lại thiên nhiên nữa. Một số nơi phá đê cho nước ngọt tràn vào như thời xưa, các vùng nước mặn, nước lợ không bắt buộc nông dân trồng lúa…
Với nghị quyết 120, người cộng sản tỉnh ngộ sau 42 năm ra tay phá hoại thiên nhiên ở vùng đất trù phú này một cách vô ý thức và duy ý chí.
Thôi thì muộn còn hơn không, và dự án Cái Lớn - Cái Bé như nói bên trên được cho là nằm trong tinh thần của nghị quyết 120, không chống lại thiên nhiên, hơn nữa còn được cố vấn từ một dân tộc sừng sỏ trong chuyện khai thác và quản lý châu thổ, là dân Hà Lan. Dự án này được cho là "thuận thiên", chỉ điều hòa nước mặn, nước ngọt giữa khu vực dòng chính của sông Cửu Long và bờ biển phía Tây thuộc Vịnh Thái Lan.
Vẫn có nhiều nghi ngại của các nhà khoa học môi trường ở vùng này về dự án Cái Lớn – Cái Bé, rằng nó vừa tốn tiền, vừa có thể làm thay đổi thiên nhiên một lần nữa mà nếu sai thì rất khó sửa. Người ta cũng nghi ngờ về sự quản lý một số tiền quá lớn, do các bộ từ trung ương thực hiện.
Cứ giả thiết rằng dự án sẽ thành công, thì liệu các tựa đề ai oán của các bài báo tôi đề cập bên trên có biến mất không ? Tôi nghĩ là không.
Theo tôi thì bi kịch ở đây không phải là chuyện người dân rời khỏi đồng bằng sông Cửu Long, mà cho dù di dân nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc sống nghèo đói tại các khu công nghiệp dụng công ở Sài Gòn, Bình Dương, Long An. Thanh niên trai trẻ miền Tây chen chúc trong các khu nhà ọp ẹp của công nhân, với thu nhập vừa đủ trang trải bữa ăn hàng ngày và chỗ trọ, không còn đồng nào gửi về quê cho cha mẹ già, tệ hơn là cũng không giúp gì cho một thế hệ trẻ em đồng bằng sông Cửu Long, lớn lên không cha, không mẹ, không học thức.
Cứ giả định rằng đại dự án Cái Lớn – Cái Bé thành công, các dự án tiếp theo trên tinh thần nghị quyết 120 "thuận thiên" thì giá một kg gạo sắp tới đây là bao nhiêu, một ký tôm là bao nhiêu, một cần xé xoài là bao nhiêu ? …
Nông dân bỏ quê lên thành thị đâu phải là chuyện lạ, thế giới cũng đã có nhiều, từ hàng trăm năm nay, không thể cản được họ đâu. Vấn đề là họ rời bỏ quê hương rồi có làm ăn khấm khá lên hay không ?
Trả lời câu hỏi này sẽ là bức tranh lớn hơn về chính sách xã hội, tổ chức dân sự, nghiệp đoàn, trong đó những người gốc nông dân sẽ phải thay đổi cuộc sống mãi mãi khi họ không còn là nông dân nữa.
Theo tôi thì người Hà Lan, với kinh nghiệm trị thủy lừng danh của họ, sẽ giúp được người Việt trị thủy thành công vùng châu thổ Cửu Long. Vùng đồng bằng này cũng ngập nước, cũng có diện tích xấp xỉ nước Hà Lan.
Cái khác là Hà Lan không chỉ có phô mai, lúa mì, sữa… của nông dân, họ còn có cả Philips từng là nhà tiên phong trong kỹ nghệ điện tử, có cả thị trường chứng khoán đầu tiên của thế giới ở Amsterdam. Họ cũng đã từng thê thảm khi chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên khi khám phá ra khí đốt. Họ cũng bỏ xứ ra đi hàng đoàn vào thế kỷ trước, nhưng ở chốn xa, họ lập nên được New York (trước đây là New Amsterdam), làm ăn khấm khá.
Để kết luận, tôi xin kể ấn tượng của tôi về hai chuyến đi. Một lần tôi đến Volendam, một cảng cũ của người Hà Lan nằm trên biển Bắc. Volendam có nhà rất đắt tiền, với giới giàu có về hưu của cả châu Âu đến thị trấn cổ kính này dưỡng già, nuôi sống cả một ngành dịch vụ thương mại ở đây.
Lần khác tôi đến một xã ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Hậu Giang (không có tỉnh nào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà tôi chưa đến). Đất ở đây đầy chất phèn, mùa nước nổi lên người ta phải đi bằng xuồng, mà nước thì không uống được, tôm cá cũng chẳng có. Tôi nghĩ là thời binh lính của các Chúa Nguyễn vào Nam, cả một huyện Mỹ Tú chắc chỉ có vài gia đình, thì mọi chuyện ổn cả, nhưng bây giờ có cả chục ngàn người sinh sống trên vài gò đất đầy phèn ấy, thì phải bỏ đi thôi, chứ ở lại làm gì ?
Jackhammer
Nguồn : Tiếng Dân, 02/01/2021
Dân bỏ xứ đi, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?
RFA, 17/12/2020
Đồng bằng sông Cửu Long : vựa lúa của Việt Nam
Khu vực miền Tây Nam Bộ, còn được gọi tên "Đồng bằng sông Cửu Long" là vùng châu thổ trù phú được thiên nhiên ưu đãi nhất ở Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được dân gian truyền miệng rằng vùng đất Phương Nam "chim trời cá nước" là một nơi không bao giờ bị đói khát vì được bao bọc bởi những đồng lúa cò bay thẳng cánh và dòng Mekong mênh mông với 9 nhánh sông đầy ấp tôm cá quanh năm, nhiều nhất vào mùa nước tràn đồng mỗi năm.
Một người nuôi vịt chạy đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Tùng Thien
Đồng bằng sông Cửu Long được xem là vựa lúa của Việt Nam, góp phần quan trọng để trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Nơi đây còn là khu vực phát triển nông nghiệp chủ lực với nhiều mặt hàng nông sản đa dạng, không những cung cấp cho thị trường tiêu thụ nội địa mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Trong vòng 10 năm từ 2009 đến 2019, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long góp đến 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 60% lượng trái cây và xấp xỉ 18% GDP của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương ghi nhận, trong năm 2020, tỷ lệ dân số ở Đồng bằng sông Cửu Long gần 17,3 triệu người, chiếm gần 18% dân số Việt Nam. Tỷ lệ tăng dân số ở Đồng bằng sông Cửu Long trong một thập niên qua thấp nhất Việt Nam, chỉ chiếm 0,05% trong khi chỉ số già hóa dân số lại cao nhất nước đến 58,5% và tỷ suất di cư thuần cũng cao nhất nước, ở mức 39,9%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các thông số này là do "sự đi ra khỏi vùng để làm ăn sinh sống của lớp người trong độ tuổi lao động".
Chợ nổi ở Cần Thơ. Courtesy of Duy Black
1,3 triệu người di cư trong một thập niên
Một nhà báo sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu Long, hiện đang làm việc trong lĩnh vực phóng sự truyền hình, vào tối ngày 17/12 chia sẻ thêm thông tin liên quan về người miền Tây di cư, qua ghi nhận cá nhân của ông.
"Do sự đô thị hóa quá nhanh và cơ cấu kinh tế dịch chuyển từ sự yếu kém của nông nghiệp sang hướng về thương mại, dịch vụ và công nghệp cho nên lực lượng lao động trẻ đi đến các tỉnh phát triển công nghiệp mạnh, như người ta nói câu ‘Đi Bình Dương’, cho nên thanh niên ở tuổi lao động đi Bình Dương, Đồng Nai làm công nhân hết, cho nên đất đai thì do người già làm công việc đồng án nhiều, chứ không phải thanh niên trẻ. Do đó, nguồn lao động ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bị mất và nằm trong diện di cư".
Báo giới quốc nội mới đây trích lời phát biểu của Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp, ông Phạm Thiện Nghĩa, tại lễ công bố báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020, được tổ chức vào chiều ngày 14/12 ở Cần Thơ, rằng "Nói Đồng bằng sông Cửu Long là trù phú, lao động nhiều, nhưng tổng hợp lại 10 năm di cư trên 1,3 triệu người là vấn đề rất buồn. Gần 40% lao động không học tiếp phổ thông, trong xã hội hội nhập như hiện nay là điều rất đau đáu".
Nhà báo truyền hình, không muốn nêu tên, chia sẻ thêm với RFA rằng Đồng bằng sông Cửu Long tuy có rất nhiều thuận lợi về quỹ đất đai, phát triển nông nghiệp và được nhà nước đầu tư khoa học kỹ thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực lao động trẻ dồi dào ; nhưng con số người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long di cư lên đến hơn triệu người, bởi khu vực này đang đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
"10 năm trở lại đây, bất lợi thứ nhất là biến đổi khí hậu và làm cho một số tỉnh ven biển bị ngập mặn như Bết Tre, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Nước ngập mặn xâm phạm vô vườn cây ăn trái hoặc các loại thủy hải sản, làm cho bị hư, bị chết. Rất nhiều trường hợp nông dân bị lao đao do biến đổi khí hậu đó. Còn những tỉnh không bị xâm nhập mặn như Đồng Tháp, An Giang… nhưng bị xói mòn và lở đất do dòng chảy của nước bị thay đổi. Nguyên nhân thay đổi là do khai thác cát, nhất là ở khu vực đầu nguồn Campuchia bị tận thu cát quá nhiều cho nên rất nhiều hộ dân phải sống khổ sở do vấn đề dòng chảy bị thay đổi gây ra".
Vị nhà báo ẩn danh còn liệt kê tình trạng các đập thủy điện được xây dựng ở Trung Quốc và Lào, khu vực thượng nguồn sông Mekong gây ra tình trạng khô hạn và phù sa không còn. Bên cạnh đó, hệ thống đê bao ngày càng nhiều cùng với việc nông dân gia tăng năng suất cây trồng bằng phân thuốc hóa học, thải ra dòng nước gây ô nhiễm môi trường và tác động ngược lại hệ thống nước tưới tiêu, làm cho ngành sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long bị tổn thất nặng nề.
Một phụ nữ đang làm việc tại lò gạch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Duy Black
Bộ Tài nguyên-Môi trường Việt Nam, hồi năm 2016, công bố một báo cáo cho thấy các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong gây ra nguy cơ làm mất đi hoặc thậm chí tuyệt chủng tới 10% các loài cá và thu nhập người dân có thể giảm tới 50%. Việt Nam bị tổn thất hàng năm về thuỷ sản và nông nghiệp, bởi các đập thuỷ điện đó, có thể lên đến khoảng 760 triệu USD.
Bà Kim, một nông dân ở Bến Tre, vào tối hôm 17/12, lên tiếng với RFA rằng gia đình bà không thể sống được qua thu nhập từ ruộng vườn nên bà phải tìm việc làm xa xứ.
"Tôi phải lên Đồng Nai làm công nhân từ năm 2008. Mức lương lúc đó chỉ có 38 ngàn đồng/ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ. Thời gian mười mấy năm qua tôi không đủ sống, cho nên cũng khổ lắm và phải cố gắng bươn chải".
Chị Anh, một cư dân ở Đồng Tháp rời quê nhà đến làm việc ở Công ty Kinh Đô, tại khu công nghiệp Bình Dương từ năm 2001, tâm tình với RFA về cuộc sống công nhân của mình :
"Coi như gần 6 triệu đồng/tháng. Nếu tăng ca thì lãnh thêm được lên 7,8 triệu, có khi được tới 10 triệu. Làm việc 12 tiếng đồng hồ/ngày, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều".
Cuộc sống của chị Anh được cho làm tạm ổn khi chị đủ trang trải cho bản thân và gửi tiền về quê chu cấp cho bà mẹ già đơn thân, bệnh tật. Tuy nhiên, vào đầu năm 2020, chị Anh buộc phải trở về quê sinh sống, để chăm sóc cho mẹ vì bà bị xe đụng gãy chân, không đi đứng được. Dù trong dịch bệnh Covid-19, nhưng chị Anh cũng tìm được việc làm nhân viên lau dọn trong một công ty, nhờ vào sự giới thiệu của người hàng xóm.
"Hiện giờ làm mức lương 3,5 triệu/tháng. Nào là tiền điện, tiền nước, tiền ăn, tiền thuốc của má tôi. Chưa kể nhiều khi tôi bị đau ốm cho nên chi tiêu không đủ".
Ông K, giám đốc điều hành thuộc công ty tư nhân, kinh doanh các dự án bất động sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, cho RFA biết về tình hình công ăn việc làm hiện nay tại khu vực này :
"Đồng bằng sông Cửu Long vừa bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 chung với cả nước và xâm nhập mặn làm cho nông nghiệp bị tác động nghiêm trọng và Covid-19 cũng gây ra hậu quả nặng nề cho lực lượng lao động trẻ có trình độ, còn lao động phổ thông thì còn tệ hơn nhiều. 1,3 triệu người di cư chỉ là một phản ánh rất khiêm tốn".
Ông Nguyễn Phương Lam, Phó Giám đốc Phòng Thương Mại- Công Nghiệp chi nhánh Cần Thơ, vào ngày 17/12 trong trả lời báo mạng VnEXpress cho rằng việc người dân miền Tây rời đi quá nhiều trong một khoảng thời gian nhất định cho thấy đó là tình trạng bức bách và vùng đất này kém phát triển. Về lâu về dài nếu không giải quyết, xã hội sẽ bất ổn.
Đạp xe lôi là công việc lao động phổ thông phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Đặng Đại
Viễn cảnh Đồng bằng sông Cửu Long sẽ thế nào ?
Mùa hạn mặn năm 2020 tại Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là "khắc nghiệt" và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, hồi đầu tháng 8, ra quyết định chi ngân sách cho 5 tỉnh bị thiệt hại bao gồm Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Cà Mau, Kiên Giang số tiền 70 tỷ đồng/tỉnh để hỗ trợ nguồn nước sinh hoạt và đời sống người dân.
Vào đầu tháng 11 vừa qua, tại một phiên chất vấn, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng tuyên bố Chính phủ sẽ đặc biệt quan tâm và dành nguồn lực xứng đáng để đầu tư hạ tầng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như hạ tầng yếu kém do đầu tư chưa tương xứng với nhu cầu phát triển của vùng. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam còn đồng ý tăng thêm 2 tỷ USD cho quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050.
Nhà báo truyền hình ẩn danh xác nhận với RFA hiện tại chính quyền các tỉnh và thành phố ở Đồng bằng sông Cửu Long đang thực hiện và tiến hành nhiều dự án theo quy hoạch vừa được đề cập. Ông nói rằng Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai sẽ tập trung phát triển về công nghiệp, thương mại và dịch vụ du lịch. Đặc biệt, ngành nông nghiệp sẽ chuyển hướng nhắm đến nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng các thị trường xuất khẩu như Mỹ và Châu Âu.
Kiến trúc sư trẻ Duy Black, hiện sinh sống và làm việc ở Sài Gòn, nói với RFA rằng chắc chắn anh và rất nhiều người con của miền Tây Nam Bộ sẽ hồi hương nếu như vùng này được đầu tư và phát triển theo như kế hoạch đề ra :
"Tất nhiên rồi. Bất kể ai cũng muốn được ở gần quê và nếu có được cơ hội phát triển tốt thì sẽ quay trở về để phát triển sự nghiệp và ổn định cuộc sống. Nếu như nhà nước đầu tư tốt, bài bản và phát triển bền vững thì mọi người sẽ quay trở về. Nhưng mà, thật sự điều đó hơi khó tại vì theo các căn cứ của cơ sở khoa học thì khu vực miền Tây Nam Bộ đang ngày càng chết dần, chết mòn".
Truyền thông Nhà nước Việt Nam, hồi tháng 6/2019, dẫn lời của Vụ trưởng Vụ Kiểm soát An toàn Thiên tai, ông Tăng Quốc Chính cho biết trước đó vào tháng 2, Đại học Utrecht, của Hà Lan công bố một nghiên cứu về mức độ lún sụt ở Đồng bằng sông Cửu Long và đưa ra cảnh báo với mức lún sụt như hiện nay thì đến năm 2100 gần như toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.
Đài RFA mượn lời của nhà báo truyền hình ẩn danh để kết thúc bài ghi nhận này, rằng trong "bức tranh tối tranh sáng" đời sống xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long, ông rất đồng cảm với những người di cư như chị Anh và hàng chục ngàn "cô dâu" miền Tây phải ra đi tìm miếng cơm manh áo và thật thương cảm hơn về sự trở về của họ, mà trong đó có những hũ tro cốt của phận đời như nhánh lục bình trôi bập bềnh trên dòng Mekong sắp cạn.
Nguồn : RFA, 17/12/2020
*********************
Thêm 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 có lỗi : chuyện nhỏ hay nguy hại ?
RFA, 17/12/2020
Trong số 5 bộ sách giáo khoa lớp 1 theo chương trình giáo dục phổ thông mới vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo buộc phải rà soát, thì có đến 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn phát hiện có lỗi.
Các bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn. Courtesy Tiền Phong
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong báo cáo về việc 4 bộ sách giáo khoa có lỗi cho biết đã tổ chức rà soát lại toàn bộ các cuốn sách giáo khoa của mình chịu trách nhiệm biên soạn, xuất bản, phát hành. Theo Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam có lỗ ở một số môn như tiếng Việt, Giáo dục thể chất, tiếng Anh... nhưng các lỗi được nhà xuất bản này cho là không lớn.
Tuy nhiên câu hỏi được nêu lên là vì sao lỗi của 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành, bị phát hiện quá muộn, trong khi học sinh đã được học nhiều tháng. Trách nhiệm về việc này thuộc về ai ?
Từ Hà Nội, thầy giáo Đỗ Việt Khoa nhận định với RFA hôm 17/12 :
"Có thể nói là một sự kỳ lạ của những người biên soạn sách giáo khoa gần đây, càng về sau này càng cởi mở cho phép nhiều bộ sách giáo khoa ra đời, khiến cho người ta cẩu thả không giám sát được hết. Cái này là trách nhiệm của những người giám sát sách giáo khoa. Thứ hai là cái tư duy của người soạn sách có vấn đề, sách lớp 1 mà toàn mấy cái chuyện ở Tây, ở đâu ở đẩu... hay chuyện ngụ ngôn quái dị đưa vào trong khi sách lớp 1 cần gần gũi, những thơ ca câu từ trong sáng đưa vào thì biến mất cả".
Thầy Khoa cho biết khi sắp học về sách mới, thì hầu như 100% giáo viên phải đi học bồi dưỡng về chương trình mới. Nhưng kỳ lạ là không ai biết sách như thế nào và không cho giáo viên thẩm định, đến khi in ra thì giáo viên mới tá hỏa sao lỗi nhiều quá, thiếu tính khoa học. Thầy nói tiếp :
"Nhưng đã muộn sao sửa, còn sửa chắp vá như Bộ Cánh Diều cũng không được, bỏ làm lại là cách tốt nhất. Cái này trách nhiệm, ý thức có vấn đề, Bộ giáo dục không kiểm soát chặt chẽ nên sẽ còn tiếp tục phát hiện lỗi. Đặc biệt từ năm học này sẽ dạy cuốn chiếu, năm nay lớp 1, năm sau sẽ lớp 2 sách mới... nhưng đáng lo là giáo viên không ai được thấy để góp ý trước khi phát hành đại trà".
Các lỗi trong 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn, được truyền thông nhà nước nêu lên như bộ 1 Kết nối tri thức với cuộc sống phải chỉnh sửa nhiều nhất với 37 trang... lỗi cụ thể ví dụ như : ngữ liệu "sách đâu ếch học bài ?" là "sách đâu em học bài ?"... Hay sách tiếng Việt 1 có lỗi khoảng 16 trang... trong đó có một trang phải điều chỉnh nội dung văn bản do ngữ liệu không đúng thực tế, v.v...
Một giáo viên tiểu học ở Sài Gòn không muốn nêu tên vì lý do an ninh, khi trao đổi với RFA hôm 17/12 cho biết, tuy không trực tiếp giảng dạy 4 bộ sách giáo khoa của nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, nhưng việc đổi sách dù có huấn luyện trước nhưng cũng gây khó khăn :
"Nội dung chương trình lớp 1 mới thì hồi hè tụi tôi cũng phải đi học rồi. Đổi qua chương trình này thì tôi thấy rất nặng, có những bài bị dồn, đâm ra học sinh nắm không vững, chắc như những năm thế hệ trước. Do đó họ cũng gặp khó khăn nhiều".
Quầy bán sách giáo khoa lớp 1. RFA Photo.
Từ trước đến nay, độc quyền phát hành sách giáo khoa là Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, nhưng với Nghị quyết 88 của Quốc hội thì năm 2020 thế độc quyền này bị chia sẻ cho Nhà xuất bản Đại học Sư phạm và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên dù có thay đổi thì vẫn có tới 24/32 sách giáo khoa mới được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố đều của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Như vậy, các trường lựa chọn sách nào thì đa số cũng thuộc của nhà xuất bản này, do đó sách có sai sót đã đến với rất nhiều lớp học trong những tháng qua.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mạc Văn Trang, từng có kinh nghiệm hơn 30 năm công tác ở Viện Khoa học Giáo dục trước khi về hưu vào năm 2002, hiện sống ở Sài Gòn, khi trả lời RFA hôm 4/11, nhận định :
"Cách làm sách ở đây có nhiều sai lầm, quan điểm chưa rõ ràng, người biên soạn chưa làm hết trách nhiệm ; không thực nghiệm ; Hội đồng (kiểm duyệt) không làm hết trách nhiệm nên mới xảy ra sai sót ; nhà xuất bản biên tập cũng không làm hết trách nhiệm nên biên tập, xuất bản rồi đến khi nhân dân kêu mới nói ‘có những sai sót không tránh khỏi, sách giáo khoa phức tạp, khó lắm’… Sai căn bản từ đầu cứ đổ loanh quanh mà không ai chịu trách nhiệm, không ai bị kỷ luật".
Đây là năm học đầu tiên được triển khai chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, bắt đầu đối với lớp 1. Sau khi khai giảng vài tuần, Bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 trong bộ sách Cánh Diều đang nhận được nhiều sự chú ý từ phía dư luận và cả Quốc hội thời gian gần đây vì nhiều sai sót, nhưng đã được chính phủ chỉ đạo chỉnh sửa.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Dũng, nhà ngôn ngữ học, giảng viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, khi trả lời RFA hôm 17/12 cho biết sách giáo khoa nếu sai sót nhỏ thì cũng là điều bình thường :
"Sai sót là chuyện của con người mà, cho nên tôi quan đến những sai sót thuộc loại lớn, hay nó để ra từ một quan điểm sai lầm hay không. Tôi không có cơ hội đọc hết 4 bộ sách, nhưng tôi có đọc cuốn trong số đó thì thật ra cũng khó lòng mà nói sai. Mỗi người nói một kiểu nhưng tính chất sai nếu có cũng không lớn lắm, như thế là bình thường. Ngày xưa tôi ở miền Nam, sách giáo khoa đôi khi chỉ có 1 tác giả biên soạn thôi, và nếu cách nhìn như ngày nay thì sai sót nhiều lắm chứ không phải không, chúng ta phải bình tĩnh mà thấy những chỗ đó. Trông mong 1 bộ sách giáo khoa tuyệt đối không sai sót thì tất nhiên là mong ước chính đáng, nhưng không phải bao giờ cũng thỏa mãn đâu".
Tuy nhiên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Dũng cho rằng chuyện đáng lưu ý hơn lỗi sai của sách giáo khoa là người dân càng ngày càng phản đối giáo dục dữ dội. Ông giải thích thêm :
"Thật ra là người ta bất bình xã hội bằng cách trút giận chỗ đó, chứ còn đất nước Việt Nam có rất nhiều chỗ tệ hại, tệ hại lắm chứ không phải chỉ thế đâu. Nhưng giáo dục ảnh hưởng đến từng gia đình một, và người ta trút cái nỗi bất bình xã hội vào giáo dục là dễ thông cảm, chứ trút giận vào chỗ khác không dễ đâu".
Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Dũng, ai ở trong nước đều biết, ngay cả nếu người dân muốn trút giận vào một ông quan có sai sót cụ thể cũng không dễ... vì sẽ có công an quân đội cần bắt ai là bắt... Cho nên người dân trút nỗi giận vô ngành giáo dục có vẻ sẽ an toàn hơn.
Nguồn : RFA, 17/12/2020
Tháng 04 và 05/2020, đồng bằng sông Cửu Long trải qua mùa hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiệt hại về mùa màng không lớn bằng đợt hạn 2016 do người dân và chính quyền địa phương đã rút được bài học và chuyển đổi một số diện tích cây trồng, theo nghị quyết số 120/NQ-CP Về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, có hiệu lực từ ngày 17/11/2017.
Người dân Vĩnh Long, Việt Nam vận chuyển gạo trên sông Mekong. Wikimedia Commons
Nghị quyết này đã giúp tháo gỡ về mặt chính sách cho Việt Nam, theo nhận định của tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, khi trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến nguồn nhân lực và sự phối hợp giữa các nước trong vùng để có thể bảo đảm tương lai bền vững cho khu vực sông Mekong.
***
RFI : Mùa hạn 2020 đã khiến ngành nông nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ngành trồng lúa, bị tác động nặng, đâu là giải pháp cho lĩnh vực này ?
Dương Văn Ni : Năm 2017, thủ tướng ra nghị quyết 120. Tôi cho là nghị quyết 120 là một trong những tháo gỡ về mặt chính sách tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này. Nghị quyết 120 đó đề cập đến mấy vấn đề cốt lõi.
Vấn đề thứ nhất đề cập là các nguồn nước, kể cả nước mặn, cũng phải xem như một dạng tài nguyên. Điểm này hoàn toàn khác với tư duy trước đó : Hễ thấy nước mặn là phải có một công trình nào đó ngăn chặn. Bây giờ công nhận nước mặn như một tài nguyên để mà khai thác nó dưới diện nào đó cho có hiệu quả về kinh tế. Tôi cho rằng sự thay đổi đó rất là căn cơ.
Nhưng điều quan trọng hơn nữa là nền nông nghiệp : Nhà nước cho phép chuyển dịch nền nông nghiệp theo hướng chiều sâu, hay là theo hướng có hiệu quả kinh tế nhất, chứ không phải là khư khư ép người dân trồng nhiều lúa để gọi là "bảo đảm an ninh lương thực". Đây là điều làm trong nhiều năm qua, chúng ta đẩy mạnh diện tích lúa ra sát bờ biển, trong khi vùng sát bờ biển vốn không thuận lợi cho trồng lúa. Bởi vì, năm nào khi dứt mưa, vùng này chắc chắn là sông rạch bị ảnh hưởng nặng, bị nhiễm mặn. Nhưng nhờ đợt hạn mặn 2015-2016 cho thấy những nỗ lực đưa nước ngọt, đưa cây lúa ra vùng duyên hải rất là bấp bênh. Những bài học đó giúp cho người dân, giúp cho chính quyền địa phương và cả cấp trung ương nhìn thấy ra được vấn đề chỗ nào rất bị tổn thương, chỗ nào không cần chăm chăm đưa cây lúa vào đó.
Tôi cho rằng 2017, Nhà nước ra được nghị quyết 120 là tháo gỡ khó khăn mang tính vĩ mô và như vậy nó giúp cho người dân có cơ hội điều chỉnh lại sản xuất của họ. Có nghĩa là nếu vùng đó thường xuyên bị mặn đe dọa và xâm nhập như vậy, tốt nhất là chúng ta nên chọn loại cây trồng, vật nuôi nào phù hợp hơn là cứ cố giữ khư khư cây lúa theo chỉ thị của Nhà nước. Đó là cái mở mang rất tốt !
RFI : Sau khi Nhà nước ban hành nghị quyết 120, nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện chuyển sang hướng canh tác nào được cho là phù hợp với điều kiện thời tiết của vùng ?
Dương Văn Ni : Nghị quyết chỉ mang tính rất tổng thể, giải quyết được vấn đề vĩ mô. Còn để đi vào thực tế, thực tiễn từng vùng, thì điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương.
Bởi một lý do là trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều cho cây lúa, và bây giờ chuyển qua cây trồng và con khác, thì thứ nhất phải cần đến hạ tầng về kỹ thuật phải tương đối đồng bộ (hệ thống tưới tiêu, hệ thống dẫn nước…). Bây giờ ví dụ muốn nuôi trồng thủy sản, thì cũng phải có cải tiến hoặc thiết kế lại, công việc này tốn rất nhiều thời gian, cũng như kinh phí.
Điểm thứ hai, quan trọng hơn, đó là hạ tầng về xã hội và kinh tế. Ví dụ, ngày xưa trồng cây lúa, thì bao nhiêu chục năm nay, người dân biết trồng như thế nào. Bây giờ chuyển sang một cây trồng khác, việc đầu tiên là người dân phải nắm được kỹ thuật để quản lý mùa vụ của cây con đó. Khi người dân đã biết những việc đó rồi thì hạ tầng, dịch vụ phục vụ liệu đã có sẵn chưa, bởi vì một thời gian dài, chúng ta chỉ phục vụ cho cây lúa, giờ chuyển sang cây con khác, người ta không chuẩn bị sẵn vật tư, phân bón hay thuốc sâu, thuốc bệnh đó.
Tiếp theo phải nói tới công lao động. Phải nói rằng hiện nay cây lúa đã được cơ giới hóa với một tỉ lệ rất lớn, từ khâu làm đất đến thu hoạch. Bây giờ chuyển qua những cây trồng khác thì cần một lượng lao động nhiều để chuẩn bị gieo sạ hay thu hoạch. Điểm quan trọng cuối cùng là không biết bán cho ai và ai ăn, nên vẫn chưa biết thị trường ở đâu.
Những điểm trên cho thấy rằng mặc dầu nghị quyết 120 đã tháo gỡ những nút thắt, nhưng để chuyện đó thành hiện thực, cụ thể ở một nơi nào đó, thì cần sự quyết tâm và sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương nơi đó.
RFI : Ngoài tình trạng thiên tai, còn phải nêu thêm vấn đề nguồn lao động do người dân, đặc biệt là thanh niên, di cư lên các thành phố lớn. Tương lai của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?
Dương Văn Ni : Nếu mà gọi là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long như thế nào, chúng ta phải chia làm mấy loại tương lai.
Thứ nhất là tương lai gần. Tôi thấy trước mắt một vấn đề rất cụ thể là diện tích bình quân trên đầu người đã quá nhỏ do mật độ dân cư của đồng bằng đã quá lớn : Trước đây chỉ có 5-6 triệu người, giờ lên tới 20 triệu. Rồi vấn đề thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, mưa bão... làm cho người dân không sống nổi trên mảnh đất của mình nữa, bởi thu nhập không đủ để trang trải nhu cầu của cuộc sống. Thành thử ra hiện nay, những người trẻ phải bỏ xứ, đi làm những nơi xa như ở trên thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sông Bé... Đây là một vấn đề rủi ro cho tương lai. Rủi ro là vì nguồn nhân lực không phải là thanh niên nữa.
Thứ hai là các đập ở phía thượng nguồn sẽ làm cho dòng nước thất thường, lúc nhiều thì nhiều qua, lúc ít thì lại không có thêm, gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ. Do đó, những thiên tai do con người đóng góp vô làm cho thêm trầm trọng, càng ngày càng nhiều trong tương lai.
Cái thứ ba, nói gì thì nói, chúng ta nhìn năng lực sản xuất của người dân đồng bằng mới là vấn đề quan trọng. Trong vòng 100 ngày thôi, ở đồng bằng này, người ta có thể sản xuất ra 7-8 triệu tấn lúa. Chưa thấy một vùng đồng bằng nào trên thế giới lại có một năng lực sản xuất, gọi là tương đối đặc biệt như vậy. Nếu sức sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long bị mai một bởi vì nguồn nhân lực trẻ không còn ở tại chỗ, rồi đất đai bị bạc mầu dần vì không còn được phù sa bồi thêm nữa, rồi nguồn nước thất thường... tất cả những yếu tố đó đe dọa đến một vấn đề rất căn cơ : Làm cho "bao tử" của nước Việt Nam bị đe dọa.
Do đó, nếu nói về sự ổn định của đồng bằng, ngoài yếu tố ổn định về môi trường, chúng ta phải coi sự ổn định năng lực sản xuất của người dân trong vùng này là điều gì đó quan trọng, từ bằng đến hơn sự phong phú của tài nguyên tự nhiên. Vì nếu tài nguyên tự nhiên có phong phú mà không có con người thì cũng không tạo được vật chất. Do đó, phải biết làm sao phải gìn giữ được năng lực sản xuất này và biết làm sao cho người dân, từng gia đình một, người ta sống nổi trên chính mảnh đất của họ, thì đến lúc đó, chúng ta mới duy trì được tính ổn định.
Thành thử ra, nói ổn định ở đây, nói về tương lai gần, tương lai xa, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta đang đối diện với một tương lai rất nhiều vấn đề bất định. Nếu chúng ta không tổ chức, gìn giữ được năng lực sản xuất của người dân trong khu vực này, thì chúng ta sẽ phải đối phó với nhiều rủi ro trong tương lai.
RFI : Nhiều nghiên cứu và diễn đàn khoa học đã cảnh báo rằng ổn định của lưu vực Mekong không được bảo đảm. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến việc các nước trong khu vực vẫn chưa tìm ra được đồng thuận cụ thể ?
Dương Văn Ni : Đây là một vấn đề rất nổi cộm trong quá khứ, đặc biệt trong thời gian gần đây, nó lại nêu ra một vấn đề mang tính toàn cầu hơn. Trước hết, chúng ta thấy đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và 2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40 quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100 triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan trọng trong mắt xích kinh tế thế giới.
Do đó, vấn đề của đồng bằng sông Cửu Long phải vượt ra khỏi lưu vực của sông Cửu Long. Và không thấy ra được chuyện này, thì mọi người chỉ lo phát triển phần của mình. Ví dụ Lào có ưu thế phát triển thủy điện. Nhưng khi phát triển thủy điện thì lại gây ra những hệ lụy ở hạ lưu gồm có Campuchia, Việt Nam... Chúng ta thấy rằng Lào chỉ có khoảng từ 6-8 triệu dân, trong khi nội đồng bằng sông Cửu Long thôi đã có 20 triệu dân và có 60-80 triệu dân sống lệ thuộc vào dòng sông này. Dịch bệnh vừa xảy ra, chúng ta thấy rõ là ngành công nghiệp, dịch vụ bị ngưng trệ, thì lượng điện đâu có cần. Có nhiều điện nhưng không có lương thực thực phẩm trong khu vực, thì phải đối diện với rủi ro rất nhiều.
Điểm thứ hai mà chúng ta thấy là vừa rồi, khi dịch bệnh xảy ra, có hàng triệu người từ các thành phố lớn, như Sài Gòn, Bình Dương, Sông Bé... quay trở về đồng bằng sông Cửu Long tránh dịch. Chúng ta đặt tình huống là nếu đồng bằng sông Cửu Long không còn sức để hấp thụ thì mấy triệu người này đi đâu. Chúng ta biết là họ sẽ tìm những chỗ nào có nước, có lương thực để đi, thì đến lúc đó, liệu biên giới giữa các quốc gia còn thực sự yên ổn không hay là nó sẽ tạo ra sự xáo trộn trong khu vực và sự xáo trộn đó luôn luôn tạo ra nguy cơ lớn nhất cho những cộng đồng nào có số lượng ít.
Chính vì vậy, những quốc gia trong lưu vực sông Mekong phải thấy rằng đây là một vấn đề lệ thuộc lẫn nhau. Thế nhưng, đây lại là một thách thức rất khó, đã bàn từ vài chục năm mà vẫn chưa tìm thấy được một tiếng nói chung. Các quốc gia vẫn thấy phần của mình là quan trọng. Nhưng tôi vẫn tin rằng những đợt xáo trộn dịch bệnh như này cũng làm cho người ta thức tỉnh và nhìn lại tất cả những vấn đề. Hy vọng là sẽ có một tiếng nói, một sự đồng thuận về chia sẻ nguồn nước hợp lý, về gìn giữ hệ sinh thái của sông Mekong, bởi vì đây là tương lai không phải của một thế hệ mà của nhiều thế hệ tiếp theo.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 08/06/2020
Bản Kiến nghị cứu Đồng bằng sông Cửu Long, với nơi gởi đích danh là Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, được công bố trên trang mạng Tiếng Dân hôm thứ Hai 1/6 vừa qua.
Người bán trái cây trên thuyền green sông Mekong ở Cần Thơ hôm 2/4/2016 Reuters
Đây là bản kiến nghị với chữ ký của nhiều nhà báo, nhân sĩ trí thức, chuyên gia trong ngoài các tổ chức xã hội dân sự, kêu gọi trách nhiệm của lãnh đạo Việt Nam trước nguy cơ cạn kiệt, suy kém tại khu vực nông nghiệp và kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ này.
Về sự hình thành bản kiến nghị, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, ông Lê Thân, cho biết :
"Bản này được 3 vị giáo sư, 3 vị phó giáo sư, 5 vị tiến sĩ, trong này có 8 người liên quan trực tiếp với Đồng bằng sông Cửu Long. Đương nhiên có người soạn thảo rồi chuyển cho anh em đọc, góp ý, sửa chữa".
"Bản kiến nghị nêu tất cả mọi vấn đề mang tính giải pháp, tính chiến lược, những điều từ trước tới giờ không làm hoặc làm chưa tốt, thì bây giờ phải điều chỉnh lại"".
Tiếp lời ông Lê Thân, nhà báo, nhà văn Lê Phú Khải, trước đây từng có bài "Thư ngỏ gởi Bộ Chính Trị : Các vị phải có trách nhiệm cứu lấy Đồng bằng sông Cửu Long :
"Trên cơ sở đó thì anh em soạn thảo chung rồi đưa ra kiến nghị tập thể này. Kiến nghị này rất quan trọng vì Đồng bằng sông Cửu Long là nền kinh tế lớn của đất nước. Trước đây chúng ta đã dựa vào nó mà thoát được cái hiểm họa đói kém, thiếu lương thực. Trong thời kỳ bao cấp chúng ta cũng vượt qua được nhờ Đồng bằng sông Cửu Long".
Trong phần mở đầu, bản kiến nghị nhắc lại cuộc họp về phát triển kinh tế ngày 26/5, với yêu cầu của thủ tướng chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến hạ tầng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, được những người soạn thảo đánh giá là đại cuộc phát triển đất nước. Kiến nghị nhấn mạnh
"Đồng bằng sông Cửu Long là nơi chiếm 90% mức xuất khẩu gạo, vùng nuôi trồng thủy sản xuất khẩu, cây trái lớn nhất cả nước, nhưng là nơi mà cơ sở hạ tầng lại thấp nhất so với các vùng khác".
"Đời sống người dân Đồng bằng sông Cửu Long còn khó khăn muôn bề, trong lúc tình hình biến đổi khí hậu cũng như tác động của con người vào môi trường sống gây hậu quả tai hại khôn lường".
Hình chụp hôm 8/3/2016 : một gia đình bắt cá gần một con mương cạn nước ở Sóc Trăng AFP
Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải đương đầu ra sao để bảo vệ và phát triển cuộc sống của mình, là câu hỏi nêu ra kèm theo câu trả lời, rằng
"Trước tình hình bức xúc này, một số nhân sĩ, trí thức, chuyên gia nông nghiệp, thủy lợi chúng tôi cùng nhau viết bản kiến nghị này với mong muốn góp phần với Nhà nước trong việc vạch ra một chính sách chiến lược phát triển hợp lý hữu hiệu để phát huy các mặt thuận lợi có sẵn của vùng miền, đồng thời khắc phục những sai sót đã phạm phải, nhằm giúp Đồng Bằng sông Cửu Long phát triển đúng hướng, bền vững trong xu thế phát triển chung của cả nước".
Từ Paris, Pháp, giáo sư vật lý Phạm Xuân Yêm, bày tỏ :
"Thực ra tất cả đều do những vị trong nước, bác Huệ Chi, bác Chu Hảo, bác Nguyên Ngọc vân vân, bạn bè đưa kiến nghị về Đồng bằng sông Cửu Long thì tôi ủng hộ và tôi ký vào thôi"
"Là người sống xa nước, tôi cũng bức xúc, tôi nhớ như Phạm Duy nói rằng đất nước Việt Nam ngoài Bắc có sông Hồng, miền Trung có sông Hương, nhưng đặc biệt trong Nam có Đồng bằng sông Cửu Long là cái nôi của văn hóa, kinh tế và nông nghiệp rất quan trọng. Một nhà trí thức ở Mỹ là ông Ngô Thế Vinh có viết cuốn sách "Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Nổi Sóng" càng khiến tôi thêm ủng hộ việc làm của nhân sĩ trí thức trong nước hơn".
Không có tên nhưng hết lòng ủng hộ kiến nghị cứu Đồng bằng sông Cửu Long, Tiến sĩ Tô Văn Trường, chuyên gia độc lập về tài nguyên nước và môi trường :
"Đấy là bản kiến nghị từ những người có thiện chí, có tâm huyết và có nghiên cứu kỹ. Nội dung, mục đích và cách viết thể hiện quan tâm của người dân. Khi soạn thảo người ta đã căn cứ vào Nghị Định 120 của thủ tướng chính phủ năm 2017 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long. Người ta cũng căn cứ vào tất cả những văn bản khác và cập nhật hóa để có thể nói lên mối quan tâm trước tác động của thiên nhiên và của cả con người đối với Đồng bằng sông Cửu Long".
Trong nhiều năm qua, bản kiến nghị nhấn mạnh, nạn khô hạn và tình trạng nhiễm mặn khiến nguồn nước ngọt cho sinh hoạt, canh tác và sản xuất tại Đồng bằng sông Cửu Long hao hụt trầm trọng và thường xuyên hơn. Việc tăng vụ mùa giúp lượng gạo xuất khẩu nhưng nông dân nghèo vẫn hoàn nghèo.
Lại nữa, xuất khẩu gạo càng tăng, thành tích chính phủ càng lớn thì chi phí đầu tư cũng lớn theo, nạn ô nhiễm môi trường càng cao do qui mô sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật ngày càng nhiều, đe dọa rõ ràng đến môi trường sống.
Có những điểm tưởng là quốc sách nhưng thật ra là sai sót cho Đồng bằng sông Cửu Long, được coi là vựa lúa của cả nước. Ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng, cho rằng muốn cứu Đồng bằng sông Cửu Long thì phải thuận theo tự nhiên của khu vực :
"Từ trước tới giờ người ta đặt chỉ tiêu về lúa gạo là chính, có những vùng phải chạy theo sản xuất lúa nên mới đẻ ra cái gọi là lúa vụ 3. Thực chất Nhà Nước lỗ mà nhân dân cũng lỗ vì phải chạy theo lúa vụ 3"
" Bây giờ thay vì lúa vụ 3 thì chỉ cần 2 vụ thôi, 2 vụ thì Đại Học An Giang đã thống kê rồi, là nếu cứ để cho nước mùa mưa, gọi là mùa nước nổi, ngoài Bắc gọi là nước lũ đó. Nó tràn về nó đưa phù sa mới về. Cũng trong mùa nước nổi người ta có thể khai thác, thu hoạch thêm hải sản. Khi nước rút xuống rồi thì đồng ruộng coi như được làm vệ sinh, được phù sa vào, khi trồng trọt lại ít tốn thuốc bảo vệ thực vật, ít tốn phân bón và thuốc trừ sâu. Nói chung nếu thuận thiên tức là không cần 3 vụ mà chỉ 2 thôi thì thu nhập của nông dân vẫn cao hơn chứ không phải là thấp hơn"
Điểm thứ hai mà bản kiến nghị nêu ra với lãnh đạo là nếu nhìn lại thì không thể nào không hỏi vì sao một vùng đất màu mỡ, giàu tiềm năng mà vẫn là vùng trũng về kinh tế, về cơ sở hạ tầng, cả về y tế lẫn giáo dục. Người trẻ vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn phải đi xuất khẩu lao động, ở đợ hoặc lấy chồng bản xứ, cực khổ muôn bề trong hy vọng kiếm ít tiền gởi về cho cha mẹ.
Về môi trường tài nguyên thiên nhiên, biểu hiện dễ thấy nhất là sự bức tử dòng sông Mê-Kông. Nhà báo Lê Phú Khải phân tích :
"Khí hậu biến đổi, nước biển dâng lên, Trung Quốc làm nhiều đập ở thượng nguồn làm cạn kiệt dòng Cửu Long. Một số nước hạ nguồn cũng làm đập thủy điện, bản thân chúng ta cũng chặt rừng Tây Nguyên, cũng làm hại nguồn nước xuống Đồng bằng sông Cửu Long"
"Cho nên bây giờ phải có một chiến lược lâu dài, toàn diện để bảo vệ lấy Đồng bằng sông Cửu Long. Chính phủ phải giúp dân xây dựng những công trình giữ nước ngọt vào mùa mưa. Tôi lấy ví dụ như Israel, là một nước rất khô cạn, nhưng người ta giáo dục cho học sinh tiết kiệm từng giọt nước, người ta vẫn sống khỏe mà còn là nước nông nghiệp tiên tiến nữa. Vấn đề cứu Đồng bằng sông Cửu Long là cấp bách".
Việt Nam không thể di chuyển Đồng bằng sông Cửu Long xa ‘người láng giềng xấu bụng’ Trung Quốc, bản kiến nghị viết tiếp. Việt Nam cũng không thể ra lịnh cho Lào, Thái Lan, cũng không thể tự mình chống lại biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Việt Nam chỉ có thể làm cho người nông dân giàu hơn, Đồng bằng sông Cửu Long phát triển hơn bằng chính sách, biện pháp phù hợp, thuận với qui luật tự nhiên, là kế sách trong bản kiến nghị gởi chủ tịch quốc hội và thủ tướng chính phủ.
Quang cảnh công trường xây đập thuỷ điện Luang Prabang trên sông Mekong ở Lào hôm 5/2/2020 Reuters
Tâm đắc, là lời giáo sư Nguyễn Huệ Chi :
"Kiến nghị kêu gọi Nhà Nước quan tâm đúng mức hơn về Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt năm vừa rồi nó báo hiệu một tương lai không tốt đẹp, không chỉ đối với vùng phía Nam đất nước này mà cả một phần cư dân trên thế giới"
"Làm cho vùng đất này không còn sinh sống được nữa là tự mình đánh mất đi tiềm năng của đất nước. Chúng tôi đặt vấn đề rất rõ ràng trong kiến nghị vừa về mặt ý thức vừa về mặt trách nhiệm, đồng thời phải hiểu biết về mặt kỹ thuật, trình độ khoa học để giải quyết sự sống trên vùng đất này. Không giải quyết ổn đáng là mình thất bại"
Cứu Đồng bằng sông Cửu Long phải là trách nhiệm ưu tiên của chính phủ trong việc bảo tồn nét văn hóa Tây Nam Bộ, là khẳng định tiếp của học giả Nguyễn Huệ Chi :
"Mỗi vùng đất tạo nên một bản sắc riêng, gắn với văn hóa của cộng đồng cư dân sống lâu đời tại đó. Là nơi sông nước cho nên tính cách của người Việt ở đây tích tụ nét văn hóa riêng, đóng góp vào văn hóa chung của cả dân tộc".
Đó là những nét chính trong bản kiến nghị hãy cứu lấy Đồng bằng sông Cửu Long, có thể tham khảo trên trang mạng Tiếng Dân hôm 1/6.
Sẽ lôi kéo được sự chú ý hầu dẫn tới hành động từ lãnh đạo, là kỳ vọng của ông Lê Thân :
"Năm 2017 ông thủ tướng đã có Nghị Quyết 120 về Đồng bằng sông Cửu Long nhưng nó không toàn diện, không mang tầm chiến lược như kiến nghị anh em chúng tôi viết ra. Tôi nghĩ bài toán đặt ra rồi Nhà Nước không thể không giải quyết"
Đối với nhà văn, nhà báo Lê Phú Khải, kiến nghị cứu Đồng bằng sông Cửu Long có lợi cho Nhà Nước và toàn dân là vì :
"Với chế độ hiện hành đang cai trị đất nước này, vấn đề mang tính chất chính trị, mang tính chất đòi dân chủ này nọ thì nó không có mẫu số chung"
Thế nhưng nếu Đồng bằng sông Cửu Long, cái nôi kinh tế Nam Bộ, được cứu sống, được giữ gìn, ông Lê Phú Khải giải thích tiếp, nhất định sẽ tìm được mẫu số chung giữa nhà cầm quyền và người dân trong chế độ.
Thanh Trúc
Nguồn : RFA, 03/06/2020
Đồng bằng sông Cửu Long chống chọi với hạn, mặn và đập thủy điện Trung Quốc
Do dịch Covid-19, sự chú ý của công luận đối với tình trạng hạn hán và nước biển xâm lấn ở đồng bằng sông Cửu Long (Mekong) đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Theo báo mạng Le Courrier du Vietnam (14/02), vào tháng 02/2020, khoảng 79.700 hộ trong khu vực không có nước sạch sử dụng hàng ngày. Nhiều xe bồn đã được huy động chở nước cung cấp cho khoảng 40.000 hộ dân ở những khu vực xa xôi nhất thuộc các tỉnh Kiên Giang, Bến Tre, Long An, Cà Mau và Trà Vinh.
Kênh rạch nội đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long cạn trơ đáy. Ảnh : Nhật Hồ
Năm 2020, nước mặn xâm nhập không thua gì năm 2015-2016. Giai đoạn 08-13/04 là thời điểm nước biển xâm lấn đạt mức cao nhất, vẫn theo Le Courrier du Vietnam. Sau đó, tình trạng này giảm dần cho đến tháng Năm, nhưng vẫn ở mức cao. Năm 2019, hạ lưu sông Mekong từng trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng do các đập thủy điện của Trung Quốc trên thượng nguồn đã cố tình giữ nước. Hiện tượng bất thường này được công ty nghiên cứu và tư vấn Mỹ Eyes on Earth Inc , do bộ Ngoại Giao Mỹ tài trợ, công bố ngày 12/04/2020.
Để hỗ trợ người dân tám tỉnh đang chịu thiên tai, ngày 10/04, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã phê chuẩn chương trình trợ giúp 530 tỉ đồng (hơn 22,7 triệu đô la) : Năm tỉnh Bến Tre, Long An, Tiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang, mỗi tỉnh được nhận 70 tỉ đồng ; ba tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu, mỗi tỉnh được nhận 60 tỉ đồng.
Kinh phí trên được dành cho việc triển khai các giải pháp khẩn cấp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, như bơm nước ngọt, nạo kênh, xây kè giữ nước ngọt, đào ao và giếng, mở rộng mạng lưới dự trữ nước, mua trang thiết bị lọc và giữ nước, phân phối nước…
Những biện pháp trước mắt này là hữu hiệu, nhưng phải tính phương án xa hơn. Đây là nhận định với RFI Tiếng Việt của tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Đồng bằng sông Cửu Long (gọi tắt là Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, Mekong convervancy Foundation, MCF). Trách nhiệm nghiêm trọng của các đập thủy điện Trung Quốc trên thượng nguồn cũng được tiến sĩ Dương Văn Ni phân tích trong buổi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.
*****
RFI : Thưa tiến sĩ, đồng bằng sông Cửu Long đang trải qua một đợt hạn hán và nước biển xâm lấn nghiêm trọng. Xin ông cho biết nghiêm trọng đến mức nào ?
Dương Văn Ni : Theo báo cáo của các địa phương, so với năm 2015-2016, chúng ta có 10 tỉnh tuyên bố thiên tai so với 12 tỉnh của Đồng bằng sông Cửu Long. Năm nay, đến giờ phút này (tháng 04/2020), có 7 tỉnh đã công bố thiên tai. Như vậy, so về mức độ ảnh hưởng, năm nay không bị ảnh hưởng nhiều như năm 2015-2016.
Tuy nhiên, đó là vấn đề mang tính hành chánh. Còn trong thực tế, năm 2020 này, nước mặn xâm nhập không thua gì năm 2015-2016. Dù nước mặn xâm nhập nhiều, nhưng dù sao bà con ở vùng duyên hải ít bị thiệt hại hơn 2015-2016 là bởi vì vào năm 2015-2016, bà con không có tư thế chuẩn bị, bởi vì cả mấy chục năm trước đó không có xuất hiện cái mặn gay gắt như vậy, thành thử ra người ta cũng chủ quan. Thứ hai là chính sách nhà nước lúc đó vẫn giữ diện tích lúa vì sợ ảnh hưởng tới an ninh lương thực, thành thử ra không cho phép người dân chuyển đổi.
Sau 2015-2016, nhiều địa phương rút kinh nghiệm và người ta cũng chuyển đổi một số diện tích, không trồng lúa nữa. Thành thử ra năm 2020 này, mặc dầu mặn xâm nhập sâu cũng không thua gì năm 2015-2016 nhưng mức độ thiệt hại thấp hơn 2015-2016, bởi vì người dân đã được cảnh báo trước.
RFI : Đâu là những nguyên nhân giải thích hiện tượng này ?
Dương Văn Ni : Nói về mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì chắc chắn chúng ta biết rồi, bản chất của đồng bằng sông Cửu Long được hình thành trong hai môi trường nước : nguồn nước ngọt trong mùa mưa và nguồn nước mặn trong mùa khô.
Vào mùa mưa, nó hình thành được là do nguồn nước ngọt truyền tải phù sa từ phía thượng nguồn về bồi thêm cho đồng bằng. Nhưng trong mùa nắng, thì nó lại nhờ dòng nước biển xâm nhập vào và mang phù sa biển vào để bồi cho vùng duyên hải. Vậy thì tự nhiên đã như thế rồi ! Hàng năm nước biển xâm nhập vào, tùy lượng nước ngọt trên phía thượng nguồn đưa về. Năm nào nguồn nước ngọt phía thượng nguồn đưa về nhiều và kéo dài khi mùa mưa chấm dứt thì mùa khô năm đó, mặc dầu đã dứt mưa giống như những năm bình thường, nhưng mà do lượng nước ở trên còn dồi dào đổ về, thành thử nó đẩy nước mặn ra ngoài biển, năm đó cái mặn xâm nhập vào đồng bằng ít hơn.
Nói nôm na lại, ở đồng bằng sông Cửu Long, cái mặn ngọt của vùng duyên hải lệ thuộc vào mấy yếu tố. Yếu tố thứ nhất là nguồn nước mặn, dồi dào đến mức độ nào. Yếu tố thứ hai là kiểu sử dụng đất của người dân. Ví dụ người dân trên vùng thượng nguồn hoặc ở những tỉnh phía trên, họ sử dụng nước để tưới tiêu nhiều thì sẽ chặn nguồn nước ngọt lại, do đó không đủ nước ngọt về bên dưới và bên dưới bị ảnh hưởng mặn. Yếu tố thứ ba là do mưa. Có nhiều năm, vùng duyên hải của đồng bằng sông Cửu Long nhận được một lương mưa khá lớn, từ 1.800 đến 2.200 mm. Do đó, lượng mưa này đóng góp rất đáng kể cho chuyện làm bớt mặn vùng này.
Ba nguồn nước này, nguồn nước mặn, nước mặt (nước ngọt) và nước mưa cùng kiểu sử dụng đất quyết định vấn đề mặn ngọt của vùng duyên hải của đồng bằng sông Cửu Long.
Nhưng mà mấy năm gần đây, chúng ta biết là trên chuỗi sông Mekong, từ phía Trung Quốc, qua tới Lào qua tới Thái Lan, Campuchia và xuống tới Việt Nam, thì trên dòng sông này, trong tự nhiên, nó có rất nhiều vùng chống ngập, những vùng chứa nước rất nhiều vào mùa mưa. Vào mùa khô, nó phóng thích từ từ ra dòng sông và chảy xuống dưới phía đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Điển hình nhất là Biển Hồ (Tonlé Sap) bên Campuchia, mỗi năm tích trữ một lượng nước khổng lồ. Khi mùa khô, hết mưa, nó cũng phóng thích từ từ ra dòng sông và do đó cũng góp phần đẩy mạnh, làm cho cái mặn của đồng bằng sông Cửu Long giảm đi.
RFI : Những công trình đập nước, nhà máy điện trên thượng nguồn sông Mekong tác động như thế nào đến hiện tượng này ?
Dương Văn Ni : Chúng ta có thể kết luận một cách chắc chắn mà không cần phải tranh cãi gì nữa, những đập thủy điện này tác động rất trầm trọng đến chế độ thủy văn của đồng bằng sông Cửu Long. Nói tác động trầm trọng, có nghĩa như thế nào ? Có nghĩa là có những năm bình thường, nói nôm na như người dân nói là "mưa thuận gió hòa", thì không có vấn đề gì xảy ra cả. Các đập thủy điện này ngăn nước để phát điện. Họ ngăn nhưng họ cũng phải xả nước. Vào những năm mưa thuận gió hòa, lượng nước về bình thường, nói chung không ảnh hưởng gì lớn.
Nhưng những năm thời tiết cực đoan, ví dụ hạn hán như năm nay, thì nguyên tắc của đập thủy điện là phải trữ nước, đủ nước mới phát điện được, thành thử ra, quá trình họ trữ nước, chắc chắn phía hạ du sẽ không thể nào nhận đủ nước. Nói tóm lại, những năm bị khô hạn thì những đập thủy điện này làm cho khô hạn thêm, như năm nay. Ngược lại, vào những năm mưa nhiều, khi đập thủy điện đã tích đầy, thì có ngưỡng an toàn, không thể nào tích cao hơn được nữa. Nếu tích cao hơn, trọng lượng của khối nước bên trên lớn hơn tính toán của đập, có thể làm vỡ đập và họ bắt buộc phải xả bỏ. Nói tóm lại, trong những năm mưa nhiều, trong khi phía hạ du nước đã ngập rồi, thì các đập thủy điện lại xả nước, làm ngập thêm.
Do đó, các đập thủy điện có tác động, có thể nói, đối với nước, năm nào hạn thì sẽ trầm hạn, làm cho hạn hán trầm trọng thêm. Ngược lại, năm nào lũ thì sẽ chồng thêm lũ, làm trận lũ đó lớn thêm.
RFI : Vào đầu tháng 04/2020, thủ tướng Việt Nam đã thông qua kế hoạch hỗ trợ 530 tỉ đồng cho 8 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Khoản kinh phí này có đủ giúp cải thiện tình hình, cũng như trợ giúp người nông dân trong vùng không ?
Dương Văn Ni : Với số tiền đó, nếu tính đều ra cho 8 tỉnh duyên hải của đồng bằng sông Cửu Long thì không đáng là bao nhiêu cả. Nhưng số tiền đó tập trung vào giải quyết vấn đề nước sinh hoạt, thì có ý nghĩa tương đối tốt.
Tại vì nếu nói về nước, chúng ta chia làm mấy loại nước. Nước dùng để uống, để sinh hoạt hàng ngày tắm giặt và nước dùng để sản xuất. Với số tiền đó, nếu chính quyền địa phương từng nơi tập trung vào nguồn nước để người dân ăn uống, sinh hoạt, thì tôi cho rằng số tiền đó có ý nghĩa đáng kể.
Nhưng nếu số tiền đó để tập trung giải quyết nguồn nước sản xuất, thì chẳng thấm vào đâu bởi vì sản xuất cần nhiều nước lắm.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 27/04/25020
Đồng bằng sông Cửu Long 2020 cánh đồng chết và 45 năm ảo vọng trí thức
Tưởng nhớ giáo sư Phạm Hoàng Hộ (trái) và giáo sư Nguyễn Duy Xuân (phải), hai tượng đài trí tuệ kiệt xuất, bất khuất của Miền Nam.
Lời dẫn nhập
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ "Cây Cỏ Việt Nam" mà ông gọi là "công trình của đời tôi" và vào mấy năm cuối đời, như một Di Chúc.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho :
"Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại Trại Cải tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên Biển Đông đã chết nghẹn ngào".
Thế hệ sinh sau 30/4/1975 nay cũng đã 45 tuổi rồi, cũng là 45 năm của một chính sách ngu dân lãng phí / hủy diệt nguồn chất xám, và lăng nhục cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Và nghĩ xa hơn, một Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không chết như ngày nay nếu có một nhà nước biết trân trọng sử dụng nguồn chất xám ấy, mà biểu tượng là hai trí tuệ kiệt xuất của Miền Nam như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, là hai thành viên sáng lập Viện Đại học Cần Thơ năm 1966, và sau 1975 cả hai có cùng một ý nguyện chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất. Để rồi, giáo sư Nguyễn Duy Xuân thì chết thảm sau 11 năm bị đầy đọa trong trại tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ở Miền Bắc, và giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì trải qua một chặng đường vô cùng đau khổ qua "một thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên, giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường quê hương" để rồi kết thúc là một cái chết buồn bã xa nửa vòng trái đất bên ngoài quê hương, một quê hương mà ông suốt đời gắn bó và chẳng bao giờ muốn xa rời.
Hình ảnh một giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một giáo sư Nguyễn Duy Xuân những năm sau 1975, là tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Trang sử ảm đạm ấy là một bài học đắng cay cho cả một dân tộc sẽ không thể và không bao giờ quên. Với các thế hệ trẻ sau 1975 ở khắp năm Châu, cùng với bản tiếng Việt, nay có thêm bản tiếng Anh để các bạn dễ dàng tiếp cận hơn với bài học lịch sửấy.
***
1. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bộ sách "Cây Cỏ Việt Nam"
"Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét minh họa tinh vi của hơn 10.500 chủng loại, bộ sách Họa hình Cây Cỏ Việt Nam (Illustrated Flora of Vietnam) của giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm (academic) tại Đại học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh họa. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại.
Cây Cỏ Việt Nam có thể lên tới 12.000 chủng loại. Bởi vì xứ sở này nằm sát bờ Châu Á-Thái Bình Dương nhiệt đới, đó là hành lang cho những chuyển dịch theo chu kỳ bắc-nam (periodic north-south migration) của thảm thực vật vô cùng phong phú từ phía nam Trung Hoa và phong phú hơn nữa là thảm thực vật xích đạo Mã Lai (equatorial flora of Malaysia). Trên các rặng núi vẫn còn lưu lại những chủng loại tùng bách (conifer) và thực vật có hoa (angiosperm taxa) có tầm quan trọng vô song, trong khi các vùng bình nguyên mang dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật Tân và Borneo Nam Dương. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ trợ bởi công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực vật đến nay còn tồn tại".
Peter Shaw Ashton, Giáo sư Charles Bullard
Ngành Lâm học, Đại học Harvard
Mấy dòng tiểu sử của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cùng với Lời tựa của Peter Shaw Ashton, nhà sinh học gốc Anh, Tiến sĩ Đại học Cambridge, Giáo sư Charles Bullard ngành Lâm học, Đại học Harvard nơi bìa sau của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [Quyển II, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993.
***
Tiểu sử :
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng 8 năm 1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình giáo sư Hộ sinh năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada hưởng thọ 89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai giáo sư Phạm Hoàng Hộ xác nhận là "Ba tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì lâu sau đó mới khai sinh, là năm 1931".
Văn bằng :
- 1953 : Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực vật học, Paris
- 1955 : Cao học Vạn vật học, Paris
- 1956 : Thạc sĩ (Agrégé) Vạn vật học
- 1962 : Tiến sĩ Khoa học / Vạn vật học, Paris
Chức vụ :
- 1957-1984 : Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học Sài Gòn
- 1965-1984 : giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học Sài Gòn
- 1962-1966 : Giám đốc Hải học viện Nha Trang
- 1963-1963 : Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
- 1963 : Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
- 1966-1970 : Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
- 1978-1984 : Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông Sài Gòn
- 1984-1989 : Giáo sư khảo cứu tại Viện bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris
Hội viên Khoa học :
- 1956 : Hội viên Hội Thực vật học Pháp
- 1963 : Hội viện Hội Tảo học Quốc tế (International Phycological Society)
- 1964 : Hội viên sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
- 1965 : Phó Chủ tịch Ủy ban Danh từ Việt Nam
- 1967 : Hội viên Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế (APU)
- 1969 : Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
- 1971 : Hội viên Ủy ban Thẩm định hậu quả chất da cam tại Nam Việt Nam, Viên Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa Kỳ.
- 1973 : Cố vấn môi sinh Ủy ban Sông Mekong (MRC)
Ấn phẩm :
- 1960 : Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée du Sud Vietnam), Bộ Giáo dục Việt Nam : 1 vol., 803 pp., 275 pls.
- 1964 : Sinh học Thực vật, Bộ Giáo dục Việt Nam : 1 vol., 861 pp., nhiều hình
- 1968 : Hiển hoa Bí tử, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam : 506 pp., 264 pls.
- 1969 : Rong Biển Việt Nam, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam : 558 pp., 493 figs.
- 1970 : Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam : 1.115 pp., 2.787 figs.
- 1972 : Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam : 1.139 pp., 5.272 figs.
Bộ sách Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam gồm 2 quyển, do Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa xuất bản 1970 [nguồn : Sách Xưa]
Cây Cỏ Việt Nam (An illustrated Flora of VietNam)
- 1991, Tập 1 Quyển I : Khuyết Thực Vật. Lõa Tử. Hoa-cánh-rời đến Tiliaceae
- 1992, Tập 1 Quyển II Hoa-cánh-rời từ Eleagnaceae… đến Apiaceae
- 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae, Cyperaceae, Poaceae... đến Orchidaceae
- 1991, Tập 2 Quyển I Hoa-cánh-rời từ Sterculiaceae… đến Fabaceae
- 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae, Fagaceae, Apocynaceae… đến Scrofulariaceae
- 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae, Cyperaceae, Poaceae... đến Orchidaceae
- 1998 : Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam
Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh : 860 pp.,
Mô tả 2.149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, giáo sư Phạm Hoàng Hộ tâm sự : "Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ tôi đã sống ở nơi vườn tược, ruộng đồng xanh um vùng Châu thổ sông Cửu Long, nên từ nhỏ tôi đã thích cây cỏ. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng lẫy dưới ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông Nhãn lồng phơi mình dựa bờ ruộng. Nên Thực vật học và Sinh học nhiệt đới đã hấp dẫn tôi lúc đi du học. Và lúc học ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp xúc đầu tiên một cách khoa học với cây cỏ ấy, tôi thực hiện ở Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi đã vào nhà kiếng của Viện này để tìm coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một số loài đã được vẽ từ lúc ấy ! Tôi nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong nhà kiếng ấy. Đó là những hình "xưa" nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau này khi làm luận án Cao học, cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều hình, nhất là của giống Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự khó khăn ấy về sau khi về bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy tham vọng của tôi vô cùng khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt Nam mà thôi ! Cũng đã quá sung sướng rồi.
Sau khi thi đậu Thạc sĩ (Agrégation) hạng sáu, trên 300 thí sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
[Ghi chú của người viết : cần phân biệt với bằng Thạc sĩ hiện nay ở Việt Nam tương đương với cao học (master), trong khi Thạc sĩ (Agrégé) ở Pháp là học vị về sư phạm, trải qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu sẽ trở thành giáo sư thực thụ (professeur titulaire) từ bậc trung học (lycée) tới các trường cao đẳng (enseignement supérieur) thuộc các ngành Khoa học, Y dược, Luật khoa]
Giáo sư Hộ viết tiếp : "Lúc ấy tham vọng của tôi chỉ là về dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm hiểu cây cỏ của vùng Lục tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện Nha Trang "kéo" tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm việc ở Nha Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo cứu dưới sự hướng dẫn của giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà tôi trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san Khoa học Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng như một số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng dạy Thực vật và Sinh học Thực vật (thay thế giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên môn về nấm gây bệnh cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng dạy tốt, thích nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo và sau đó cho ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây Cỏ Việt Nam.
[trích dẫn tư liệu gia đình giáo sư Phạm Hoàng Hộ : văn bằng, sự nghiệp khoa học, giáo sư thực vật học].
1959-1960, tôi (người viết bài này) mới chỉ là sinh viên lớp dự bị Y khoa PCB (Physique Chimie Biologie) tại Đại học Khoa học Sài Gòn và được học thầy Hộ mới tốt nghiệp thạc sĩ ở Pháp về, dạy môn Sinh học Thực vật. Tuy chỉ được học thầy một năm, nhưng thầy đã để lại cho đám sinh viên và riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn rất khó phai mờ. Vào trường Y khoa rồi, không còn được học thầy Hộ nhưng tôi vẫn mang lòng ngưỡng mộ và cả theo dõi những bước đi và sưu tập những bộ sách công trình nghiên cứu khoa học của thầy.
Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và hải ngoại rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây Cỏ Việt Nam của giáo sư Phạm Hoàng Hộ được lần lượt xuất bản. Theo giáo sư Thái Công Tụng, hiện định cư tại Montréal thì các sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque Jardin botanique Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn trên thế giới.
Trọn bộCây Cỏ Việt Nam gồm hai Tập, mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3.600 trang, chưa kể Phần Từ vựng tên Việt Nam và Từ vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
Riêng tôi (người viết) đã sớm có được trọn bộ 6 quyển Cây Cỏ Việt Nam xuất bản ở hải ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng, nguyên Giám đốc Trung tâm Phục hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng, anh Phạm Văn Hoàng chính là bào đệ của giáo sư Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn môi sinh Ủy ban Sông Mekong (Mekong River Committee) và khoảng năm 1974 hai giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái Công Tụng đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng bằng sông Cửu Long (The Mekong Delta, Its environment, Its Problems), do Bộ Canh Nông Việt Nam Cộng Hòa xuất bản, Sài Gòn 1974 ; khi tìm kiếm tới tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được anh giáo sư Thái Công Tụng bùi ngùi cho biết : là đã mất hết sau cơn binh lửa...
Để tìm hiểu thêm tại sao, các tác phẩm khoa học của giáo sư Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ chính thông thạo của giáo sư Hộ trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy là tiếng Pháp.
Trong lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất bản năm 1969, giáo sư Phạm Hoàng Hộ viết : "Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải học viện Nha Trang và ở Museum, và tôi có hoài bão được xuất bản trong ngoại ngữ ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra bốn phương, như lời hứa ngầm lúc trình luận án.
Song nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt Nam. Đó là để chứng minh rằng ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn tả kiến thức ở mọi trình độ. Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn hành trong một ngôn ngữ quốc tế là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến. Nhưng tôi thấy chẳng cần đến việc ấy. Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết và dùng, có giá trị hơn là được vài ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã bỏ cái tự hào sai là tranh đua cùng người ngoài để tự tạo lấy thanh danh, "làm thơm lây dân Việt". Tôi tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì một người Việt Nam hay không bằng nhiều người Việt Nam khá : cầm đuốc soi thành phố người có vẻ không thức thời trong khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật ra chỉ để che đậy sự trốn tránh trách nhiệm, sự từ bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một cách không tha thứ được.
Tạo ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một công trình rất bao la. Vì thấy nó quá to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải pháp dễ nhất : học ngay trong văn chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi dào. Cái học như vậy sẽ cho ta những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền văn minh bây giờ là văn minh của đại chúng chứ không phải của vài người được nữa. Ta đừng để cho sự phong phú của văn hóa nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách đây một thế kỷ, há đã không hoảng sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài sao ? Mà nay họ đã tự tạo được một một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến lúc gần hay hơn cả những nước ấy !
Hơn lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng bên tai :
"Nước Việt Nam ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ". Trong thế giới tương lai, sự lệ thuộc về văn hóa, nhất là về văn hóa khoa học sẽ là sự lệ thuộc chánh".
[Lời mở đầu của quyển "Rong Biển Việt Nam", Trung tâm Học liệu, Bộ, Giáo vục (Việt Nam Cộng Hòa) xuất bản, 1969].
Chặng đường đau khổ
Hình ảnh một giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau 1975, là một tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng.
Theo giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây Cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua 4 giai đoạn :
- Nghiên cứu giai đoạn một : hợp tác với giáo sư Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây Cỏ Việt Nam Việt Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1.650 loài thông thường của Miền Nam, "Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về".
- Nghiên cứu giai đoạn hai : kỳ tái bản lần hai 1970 bộ Cây Cỏ Việt Nam Việt Nam, số loài lên được 5,328 [Hình 2]. "Đó là giai đoạn mà tôi xem như vàng son của một nhà thực vật học Việt Nam chúng ta. So với bây giờ, lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều phương tiện cá nhân cũng như của non nước và nhất là được sự khuyến khích của mọi giới, bạn bè cũng như chính quyền".
- Nghiên cứu giai đoạn ba : tiếp tục công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây Cỏ Việt Nam Việt Nam 2.500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Một số hình bìa bộ sách đồ sộ Cây Cỏ Việt Nam gồm 6 Quyển, 2 Tập của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ xuất bản tại hải ngoại [nguồn : Ngô Thế Vinh]
Những năm ảo vọng
Sau biến cố 1975, giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người bạn đồng hành trí tuệ của ông là giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt mà sau này được giáo sư Hộ ghi lại là : "thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường Quê hương".
Tuy giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là Hiệu phó [phó Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng trí thức cũ như ông chủ yếu là "làm kiểng", không có vai trò tương xứng trong giáo dục. Vì không phải là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp riêng và quyết định, có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải nghiệm những ngày học chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về"Chủ nghĩa xã hội khoa học" dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ rất sớm, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo : "Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản". [Huy Đức, Bên Thắng Cuộc]
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ xu thời, mau chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn sàng cống hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong trào để mừng các ngày lễ hội 3/2 hay 19/5 như các bài báo chứng minh "ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò" hoặc là "ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo"... những công trình "giả khoa học (pseudo-science)" ấy đã mau chóng trở thành giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù cải tạo, nơi mà đám tù nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ yếu là gạo hẩm "đại mễ" của Trung Quốc cùng với bo bo và khoai mì (ngoài bắc gọi là sắn).
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ khảng khái của Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội giả dối và suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những năm "ảo vọng" và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy đã tới, năm 1984 khi được chính phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quyết định chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
- Nghiên cứu giai đoạn bốn : một giai đoạn mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là "vừa hiếm có vừa đau khổ nhất". Giáo sư Hộ viết tiếp : "Đau khổ vì rời quê hương mà không hy vọng trở lại. Đau khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn đời hy sinh cho các con. Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi khổ khôn lường, một sự nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm".
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sự khổ đau khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris, cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm.
Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia ở Paris (Muséum national d'Histoire naturelle - MNHN) thuộc hệ thống Đại học Sorbonne, bên tả ngạn Sông Seine, được thành lập từ thế kỷ XVIII, thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng : "Hiếm có một nhà Thực vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo cây cỏ ở nước nhà, lại được ở lại nghiên cứu tại Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, chứa một thảo tập phong phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu mẫu vật cây cỏ. Ít nhất cho Việt Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10 ngàn loài thu được ở nước ta. Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày nào mà khi chiều ra về, dù trời đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng khô, mà tôi không thốt ra câu "Thật là một ngày tuyệt" vì đã biết thêm cho Việt Nam ít nhất là một loài hiếm, lạ hay mới !". Trong giai đoạn chót này, ông bổ túc thêm cho bộ Cây Cỏ được trên 3.000 loài. Số loài mô tả khoảng 10.500.
Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là thành viên trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn, cũng đang làm việc tại Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, Phòng nghiên cứu về Cá (Laboratoire d'Ichthyology), giáo sư Phạm Hoàng Hộ tâm sự :
"Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của Pháp rất dồi dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm trước, các mẫu vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá... Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp !".
Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, Paris nơi giáo sư Phạm Hoàng Hộ đơn độc làm việc ròng rã suốt sáu năm để hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam. [nguồn : Internet]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự : "thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước : nô lệ của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước !".
Người "trí thức đau khổ" Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên và hoàn tất được "giấc mơ điên rồ" tưởng như không thể được ấy và trở thành cây "đại thụ" trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả thế giới.
Chút giai thoại văn học
Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, khi viết về bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại : "Các năm trước 1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền Nam. Cuộc chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách. Thế nhưng công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn về thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn Học Miền Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 1975, thì đã có nhiều nhà văn, [trong số đó có Nguyễn Đình Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có thể đưa vào tác phẩm". Giai thoại văn học này có lẽ, chính giáo sư Phạm Hoàng Hộ không hề biết tới.
Sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân sĩ trí thức Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác sĩ Lê Văn Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vào ngày 31/03/1966 và cũng là Đại học đầu tiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân cách, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều "chất xám" tinh hoa của Miền Nam thời bấy giờ. Chỉ riêng trong lãnh vực nông nghiệp, có thể kể tới sự hợp tác của những tên tuổi như giáo sư Tôn Thất Trình, giáo sư Thái Công Tụng, tiến sĩ Nguyễn Viết Trương, tiến sĩ Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông (HYV - High Yield Variety) vào Đồng bằng sông Cửu Long.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng khiến Đại học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có tầm cỡ, đáp ứng nhu cầu trí tuệ của của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả bước đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng thành và tốt nghiệp 4 năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê [là thầy dậy tôi môn Vật lý năm PCB], trong "think tank" của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 50 năm, trong bài diễn văn "xuất trường" của Viện Đại học Cần Thơ, đã có một tầm nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại học này đối với tương lai vùng Đồng bằng châu thổ :
"Ngày nay (19/12/1970) trong Thời đại Khoa học kỹ thuật, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng".
Giáo sư Đỗ Bá Khê cũng là người khai sinh ra hệ thống Đại học Cộng đồng tại Miền Nam trước 1975, theo mô hình Community College Concept của Mỹ, với điển hình là Đại học Cộng đồng Tiền Giang thành lập năm 1971 tại Mỹ Tho, tiếp theo là Đại học Cộng đồng Duyên hải tại Nha Trang… Nhưng rồi sau 1975, cùng chung số phận của cả một hệ thống giáo dục tốt đẹp Miền Nam bị sụp đổ, mô hình Đại học Cộng đồng cũng đã hoàn toàn bị chế độ mới làm cho biến thể, và mất hết ý nghĩa tâm nguyện ban đầu của người khai sinh sáng lập.
Tư liệu Ngô Thế Vinh : thư tay của giáo sư Đỗ Bá Khê viết từ Thành phố Concord, California ngày 29/05/2002
Những năm về sau này, cho dù đã phải sống xa quê nhà, nhưng tấm lòng giáo sư Đỗ Bá Khê vẫn cứ luôn đau đáu hướng về "tương lai Đồng bằng sông Cửu Long và vai trò của Đại học Cần Thơ trong việc bảo vệ và phát triển vùng này"
2. Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, ngọn hài đăng trí tuệ Miền Tây, người bạn đồng hành
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và giảng dạy, giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925, hơn giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực : từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn đến xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá (như hệ thống campus) cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây.
Ông là người tiên phong thực hiện giáo dục đại học theo tín chỉ (credits) thay vì chứng chỉ (certificate) như trước đây ; giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học, giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989 tới 1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos Philippines về trường giảng dạy. Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được thư của giáo sư Nguyễn Duy Xuân : "Anh Nguyễn Duy Xuân nói Đồng bằng sông Cửu Long là cái vựa của lúa gạo nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về công tác ở Đại học Cần Thơ".
Tiến sĩ Võ Tòng Xuân sau này trở thành một giáo sư Nông học danh tiếng, tên tuổi anh Võ Tòng Xuân gắn liền với sự tiếp nối phát triển cây Lúa Thần Nông "Doctor Rice",và sau đó anh là Viện trưởng Đại học An Giang là Đại học lớn thứ hai của Đồng bằng sông Cửu Long, sau Viện Đại học Cần Thơ.
Chỉ trong vòng 9 năm [1966-1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm : giáo sư Phạm Hoàng Hộ và giáo sư Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại học Cần Thơ như một Ngọn hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ ảo vọng tới thảm kịch
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30/4/1975, cũng như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam sụp đổ, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc, giam trong trại tù Hà-Nam-Ninh, hầu như không có ngày về.
Vẫn theo anh Võ Tòng Xuân, năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, anh Võ Tòng Xuân đã vô trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở Viện Đại học Cần Thơ. Gặp lại đồng nghiệp, giáo sư Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù đang trong nghịch cảnh tù đầy, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần Thơ, nơi mà ông và giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã dầy công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước như ông vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975, không biết Viện Đại học Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát triển và tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai giáo sư cùng tên Xuân sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là lần cuối cùng giáo sư Võ Tòng Xuân được gặp lại giáo sư Nguyễn Duy Xuân. Tiếp tục bị đầy ải thêm 3 năm nữa, tổng cộng 11 năm, giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ngày 10/11/1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Trại tù Ba Sao Hà-Nam-Ninh, Miền Bắc Việt Nam, nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác rất nhiều tù nhân cải tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975, thân xác giáo sư Nguyễn Duy Xuân được vùi nông trong nghĩa địa trại tù Ba Sao này.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt của giáo sư Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ, đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà-Nam-Ninh về Chùa Thiên Hưng, quận Bình Thạnh Sài Gòn để lưu giữ tại đây. Trong buổi lễ cầu siêu, ngoài các thành viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân, còn có một số cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như giáo sư Võ Tòng Xuân, tiến sĩ Nguyễn Tăng Tôn (cựu sinh viên), tiến sĩ Nguyễn Văn Mận (cựu sinh viên), kỹ sư Minh (cựu sinh viên), ông Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi lễ.
Từ trái, giáo sư Võ Tòng Xuân, bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga con gái giáo sư Nguyễn Duy Xuân, ôm bình tro cốt của cha, bạn trai Alan và một thân hữu [nguồn : Võ Tòng Xuân]
Viện Đại học Cần Thơ sau 1975
Thay thế giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn Khai, gốc Miền Nam tập kết, đảng viên cộng sản với học vị"Chuyên ngành Lịch sử Đảng". Ông Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo Đại học Cần Thơ trong suốt 13 năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền giáo dục "hồng hơn chuyên" nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng như toàn hệ thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng bách "Chủ nghĩa Mác Lê và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Một môn học mà "thầy không muốn dạy, trò không muốn học" nhưng vẫn cứ được duy trì cho đến ngày hôm nay.
Những Hiệu trưởng Viện Đại học Cần Thơ từ ngày thành lập tới nay : từ trái, 1. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, 1966-1970 ; 2. Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, 1970-1975 ; 3. Ông Phạm Sơn Khai, 1976-1989 ; 4. Giáo sư Trần Phước Đường, 1989-1997 ; 5. Tiến sĩ Trần Thượng Tuấn, 1997-2002 ; 6. Tiến sĩ Lê Quang Minh, 2002-2006 ; 7. Giáo sư Nguyễn Anh Tuấn, 2007-2012 ; 8. Tiến sĩ Hà Thanh Toàn, 2013 đến nay. [nguồn : tư liệu Lê Anh Tuấn]
Ngót nửa thế kỷ, 45 năm sau ngày thống nhất đất nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn chưa có được một nền "tự trị đại học". Quá sớm để nói tới dân chủ hóa đất nước, khi mà các Đại học như những "think tank" vẫn còn bị chi phối lãnh đạo bởi những Chi bộ Đảng cộng sản.
Giáo sư Võ Tòng Xuân mời giáo sư Phạm Hoàng Hộ tham gia chuyến khảo sát Đồng Tháp Mười của Đại học Cần Thơ, tháng 3/1981. Từ trái, Tiến sĩ Trần Thượng Tuấn, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc (bị che), Thạc sĩ Đỗ Thanh Ren, Giáo sư Võ Tòng Xuân, Giáo sư Trần Phước Đường, một cán bộ Phân viện Qui hoạch, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một cán bộ tỉnh Đồng Tháp. [nguồn : tư liệu Võ Tòng Xuân]
Qua một email, anh Võ Tòng Xuân kể lại : "Tôi nhớ mãi giáo sư Hộ trong chuyến đi đó, ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem theo đồ ăn và bình ton đựng nước uống riêng".
3. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sinh nhật 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức tượng được đem tới tặng thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh : "Bức tượng không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực Vật đáng kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước".
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ bên bức tượng bán thân do một điêu khắc gia người Canada là bác sĩ Megerditch Tarakdjian thực hiện nhân dịp sinh nhật thứ 80 do một số môn sinh tổ chức tại Montréal, Canada.
Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp sinh nhật ấy, bác sĩ Tăng Quang Kiệt đã đọc lời chúc của giáo sư Phùng Trung Ngân, định cư tại California, người sáng lập ra Bộ môn Sinh môi học (Ecology Department) cũng là Khoa trưởng Đại học Khoa Học Saigon từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi với giáo sư Phạm Hoàng Hộ :
"Anh Hộ thân mến, tôi thành thật cám ơn Anh Chị và gia đình đã cho phép tôi gởi bài phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với 80 tuổi đời, Anh đã đóng góp một công trình đồ sộ về Cây Cỏ Việt Nam đồng thời với việc hướng dẫn sinh viên yêu Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam.
Là người cộng tác gần gũi với Anh trong công tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ Việt Nam tôi đã thấy sự tận tụy với nghề nghiệp của Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh. Kết quả là công trình nghiên cứu vĩ đại về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ Việt Nam với các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện Thảo Tập ở Paris.
Trước năm 1975 Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở Lâm Đồng-Đà Lạt, cho các em leo lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao khoảng 2000m ở miền Nam, chúng ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện được. Tuy nhiên Anh đã tự mình tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn lưu trữ tại Viện thảo Tập Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây Cỏ Việt Nam cho Khoa học.
Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của Anh trong nhiều năm nên đã học được tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy trong giảng dạy và lòng say mê nghiên cứu Thiên nhiên Việt Nam".
Di chúc Giữ xanh Đất Mẹ
Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [Quyển III, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993, chỉ với hai trang Thay lời tựa, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp, cũng có thể coi như một Di chúc cho Việt Nam.
"Thực-vật-chúng Việt Nam có lẽ gồm vào 12.000 loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu, Nấm.
Đó là một trong những thực-vật-chúng phong phú nhất thế giới. Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam. Vì như tôi đã viết từ 1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa cho ta nguồn thức ăn căn bản hàng ngày ; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam, nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng Trầu, một miếng Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh Tre để cắt rún, rời nhao ? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp cho loài người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính cây cỏ giúp cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt Nam mà ở rất nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm họa biến mất, vì rừng nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị soi mòn mất ở một diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo nhạc của một bài ca, ta có thể hát :
"Thần dân nghe chăng ? Sơn hà nguy biến. Rừng dày nào còn, Xoi mòn đang tiến... Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi sông".
[Ghi chú của người viết : bài ca Hội nghị Diên Hồng, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời : Huỳnh Văn Tiễng - Mai Văn Bộ - Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất là cấp bách. Nó có thể thực hiện, vì mỗi người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Bằng những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không kém.
Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta bảo vệ Thiên nhiên của ta. Trồng cây là phận sự của chính quyền hay của các Công ty gầy rừng. Nhưng quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ, đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ có ở Việt Nam.
Dân ta yêu cây hoa-kiểng, nhưng các nhà nhàn rỗi có thể trồng cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp. Các thị xã nên có một công viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe các cây hay của vùng, không bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ ? Nhưng nó là niềm tự hào cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ nó. Cả ngàn loài cây khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi ! Các cây này có thể trồng như cây che bóng mát dựa lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng nhiều loài lý thú như vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ tài nguyên quý báu cho thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự bảo vệ ấy. Trồng các cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quến [chữ giáo sư Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa quyến rũ] du khách quan trọng : Lan Thủy tiên hường Dendrobium amabile của ta, chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc trồng được và họ tự hào đến đỗi đã ghi trong "Sách ghi quán quân thế giới 1988".
Hàng năm ta có thể tuyên dương nhà nào đã trồng cây hay, lạ. Tất nhiên là công với nước nhà mới trông không bằng những ai đã đem Rhizobium vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng được cây Dó tạo trầm, đã du nhập lúa Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người, cả triệu người đóng góp cho non nước những "nhỏ-nhen" [chữ giáo sư Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó. Tôi quý các đóng góp nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ, theo tôi không phải chỉ là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những chuyện nhỏ hàng ngày cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô danh cao quý không kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn lòng cho Tổ Quốc và không thẹn với Non Sông.
[lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Quyển III, Tập 2].
Qua "Di chúc" ấy của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, từ nay môn Sinh học Thực vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống ; Giữ Xanh Đất Mẹ phải là kim chỉ Nam cho mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học tới Đại học, cả trong công dân giáo dục, là giá trị phổ quát và xuyên suốt cho mọi thể chế chính trị và cả trên tầm vóc toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đất này (Keep this Planet Green).
Thay cho một kết từ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách "Cây Cỏ Việt Nam là công trình của đời tôi" và giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho :
"Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên Biển Đông đã chết nghẹn ngào".
Bài viết này như lời cầu nguyện gửi tới hương linh các giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Đỗ Bá Khê - những nhà khoa học với nhân cách lớn, những kẻ sĩ khí phách biểu tượng của giới trí thức Miền Nam, đã đi hết chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô cùng đen tối của đất nước. Viết trong nỗi xúc động, cùng với nén nhang tưởng nhớ, nghĩ tới câu thơ của thi hào Nguyễn Du : Thác là thể phách còn là tinh anh. Tấm gương của các thầy vẫn cứ mãi là Ngọn Hải Đăng soi sáng và dẫn đường cho Đồng bằng sông Cửu Long đang như một con tàu lạc hướng sắp đắm, sẽ vượt qua mọi sóng gió, vào được bến đỗ an toàn. Và cũng ước mong một ngày nào đó "hoa sẽ nở trên đường quê hương", và rồi ra trên một đất nước có tự do dân chủ, sẽ có một tượng đài của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trên đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000 mét ở Hoàng Liên Sơn để các thế hệ môn sinh tiếp tục được thầy Hộ hướng dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc Mơ Việt Nam của thầy.
Ngô Thế Vinh
Đồng bằng sông Cửu Long 30/4/ 2020
[Chân Dung VHNT & VH, Việt Ecology Press 2017]
Tham khảo :
1. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ & Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đối với việc hình thành và phát triển Viện Đại học Cần Thơ (1966 - 1975) ; Phạm Đức Thuận ; Tập san Xưa và Nay, số 439 tháng 11/2013 ;
2. Vị Tổng trưởng quyết không rời Quê hương, Trung Hiếu, Báo Thanh Niên 28/04/2015 ;
3. Anh chị Thủy - Thu Vân thăm thầy Phạm Hoàng Hộ ;
4. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy của tôi, Lê Học Lãnh Vân, Một Thế Giới 02/02/2017 ;
5. Đại học cộng đồng được thành lập trước 1975, Giáo sư Đỗ Bá Khê, Đặc san Tiền Giang, July 1998.
Đuôi sông Cửu Long khi đổ ra biển tạo nên một vùng đất phì nhiêu bậc nhất thế giới. Nơi đó, đất và nước hòa vào nhau tạo nên môi trường cực kỳ giàu có về dinh dưỡng, dưới sông tôm cá vẫy vùng, trên bờ hạt thóc rơi xuống là thành cây lúa trĩu bông, dọc sông ven biển rừng tràm, rừng đước mênh mông…
Cửu long giang : Nhạc : Phạm Duy - Tiếng hát : Thái Thanh…
Hàng trăm năm nay, nói tới xứ sở này người ta nói tới những cánh đồng cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi do lưu dân người Việt, người Hoa Minh Hương, người Khmer… cùng nhau mở cõi để lại sự trù phú cho cháu con… Môi trường giàu có và dễ sống đó khiến tánh tình con người rộng rãi, nghĩa khí, bao dung, độ lượng. Miền Nam tiếp xúc với phương Tây rất sớm, cho nên tầng lớp trí thức nơi này hấp thu nét đẹp của văn hóa phương Tây như tính kỷ luật xã hội, tinh thần khoa học khách quan, lòng tôn trọng con người tạo nền móng cho xã hội dân chủ thực sự…
Miền Nam ngày mới mở được chia làm sáu đơn vị hành chánh nên gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh, gồm ba tỉnh Miền Đông và ba tỉnh Miền Tây. Các tỉnh này có địa giới lớn nhiều so với tỉnh bây giờ. Bài này viết về ba tỉnh Miền Tây, theo địa giới hành chánh thời đó trải dài từ bờ Nam sông Tiền chạy xuống Cà Mau, Rạch Giá. Vùng này được tưới bằng nước của đuôi sông Cửu Long, gồm sông Tiền, sông Hậu cùng vô số các con sông nhỏ, kênh, rạch tạo mạng lưới thủy chằng chịt. Đó là chưa kể các con sông nhận nước gián tiếp hay có liên hệ chặt chẽ với hệ thống này như sông Vàm Cỏ…
1. Quá khứ trù phú
Nhắc tới miền Tây, người ta thường nghĩ tới những cánh đồng cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi…
Thế hệ ông nội tôi, sinh những năm cuối thế XIX đầu thế kỷ XX kể về những đàn sấu dưới sông quậy bùn, những con cọp mất dần nơi hoang dã thỉnh thoảng vô làng bắt chó. Làng mạc lúc đó hoang sơ, nóc gia rải rác, cả nhà xúm lại trên nhà sàn ban đêm ngó khe cửa thấy cọp ngồi trên sàn bên ngoài vách. Đất này sình lầy, cọp thúi móng, sáng ra chậm chậm chạy khỏi làng… Xin nói thêm, mùa nước nổi đất dọc sông Hậu thường bị ngập nên nhà thường là nhà sàn.
Thế hệ cha mẹ tôi, sinh những năm 1910 – 1920 kể về cảnh bến sông tấp nập, đò ngang đông đúc. Dinh ông chánh, như trụ sở ủy ban nhân dân ngày nay, sang trọng, văn minh, thầy thông thầy ký mặc đồ tây trắng… Dọc sông có một cái "xẹc", tức cercle, nghĩa là một câu lạc bộ thể thao, chiều chiều giới thượng lưu ra dạo bộ hóng gió hay chơi tơ-nít… Chính cái xã hội thượng lưu này, với tiềm lực kinh tế và tri thức của nó, là nơi theo phong trào Thanh Niên Tiền Phong rất sớm và sau này giúp nhiều vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Lục tỉnh đất đai màu mỡ, nông nghiệp phát triển giàu có. Chủ điền lớn được xếp hạng hẳn hoi. Giàu có cấp huyện một năm thu hoạch hai ba chục ngàn giạ. Cấp tỉnh khoảng ba bốn chục ngàn giạ. Còn cấp Nam Kỳ thì năm chục ngàn giạ trở lên…
Có không ít điền chủ giàu nứt đố đổ vách do chăm chỉ tiện tặn mua đất đai, lần hồi đời con tiếp nối thành điền chủ lớn. Những chủ điền này còn gần gũi với tá điền, cả về nếp sinh hoạt lẫn tình cảm. Đất Nam Kỳ, người siêng năng chí thú dễ giàu, con người thoát dần sự bó buộc trong vòng phong kiến… Chung rượu không phải phân chia giai cấp, mà kết tình anh em. Khi thất mùa đói kém, chủ điền mở kho lẫm cho bà con tứ xứ… Miền đất mới bà con dung nhau, khách thương hồ đem nghĩa khí lang bạt khắp cõi Nam Kỳ, mỏi cánh thì dừng lại tát đìa, lùa vịt, đặt lọp, ăn ong…
Tới đây thì ở lại đây,
chừng nào tốt rễ xanh cây hãy về.
Chim trời, cá nước, lúa đồng… thiếu ăn đâu mà sợ ! Cơm chiều no bụng, họ nằm võng ư ử ngâm nga nhớ ông cha thời mở cõi. Chỉ hai ba đời trước, có xa gì đâu các tiên hiền mộ dân lập ấp, khẩn hoang, cái phảng, cái leng còn dựng góc nhà sàn !
Nông dân Miền Tây Nam Kỳ biết dòng chảy từng sông lớn, sông nhỏ, biết từng doi đất, từng vàm, từng khúc sông, từng cồn đất mới nổi. Mùa nước nổi cồn chìm, mùa khô cồn hiện ra cỏ phất phơ xanh. Miền Tây không phân biệt đất và nước, ranh giới đất và nước thay đổi chẳng những theo con nước lớn ròng, mà còn khác nhau trong những tháng nước nổi, nước tràn bờ, nước rút… Mỗi năm một mùa nước nổi, tháng bảy nước nhảy khỏi bờ, nước tràn trề một vài tháng trên những cánh đồng bạt ngàn cùng phẩm vật vô giá của sông Cửu Long: phù sa. Phù sa trầm tích mấy chục ngàn năm tạo nên Miền Tây, mỗi năm phù sa đem tới những cánh đồng sự màu mỡ trẻ trung…
Đồng bằng sông Cửu Long, nơi đất và nước hòa nhau
Người Miền Tây như cây đước cây bần, lấy sức sống từ đất trời sông nước… để từ đó phát triển ra bốn phương trời. Con cháu họ sau này dù thành nhà trí thức, nhà công nghệ tầm vóc quốc tế như các ông Nguyễn Duy Xuân, Phạm Hoàng Hộ… vẫn giữ trong lòng màu nước đục phù sa. Đó là nguồn gốc sâu xa của bộ sách đồ sộ và nổi tiếng Cây cỏ Miền Nam của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nguồn gốc của trường Đại học Cần Thơ, và xa hơn, của những thành phố Cần Thơ, Long Xuyên, Vĩnh Long, Mỹ Tho… sung túc và yên bình phát triển trong tiếng vỗ ru của sông nước hiền hòa.
2. Hiện tại bấp bênh
Chín năm chống Pháp, Miền Tây có xáo trộn, cốt cách vẫn đầy. Hai mươi năm nội chiến từng ngày, vườn tược bỏ hoang, giao thông đứt đoạn, tình người Miền Tây vẫn đượm…
Sau những biến chuyển khiến lòng người chia lìa, anh em đẩy nhau vào trại cải tạo, ngăn sông cấm chợ, các cửa biển yên lành trước kia thành nơi dân chúng lũ lượt bỏ nước ra đi, Miền Tây lần hồi bắt đầu trở lại sung túc nhờ phẩm vật của sông nước : lúa, trái cây, tôm cá. Và một món quà đặc biệt : cá tra ! Trong hai mươi năm, ngành kinh tế cá tra lớn mau và giúp Miền Tây trù phú, năm 2019 xuất khẩu hai tỉ đô la Mỹ ! Cùng với các sản vật khác, sự giàu có của Miền Tây nói riêng, Nam Kỳ Lục Tỉnh nói chung, là sự giàu có của cả nước !
Tuy nhiên, cách đây khoảng trên chục năm bà con Miền Tây bắt đầu thấy sông nước Miền Tây đổ bệnh. Cho dù rất gần đây báo chí Việt Nam mới nói nhiều, các nhà khoa học đã gióng chuông báo động từ cuối thế kỷ trước. Với những người con Miền Tây, chỉ cần ngó màu sông sắp vào mùa nước đổ, họ biết năm nay nước đổ sớm hay trễ, phù sa ít hay nhiều. Những khuôn mặt đen sạm nắng gió vui mừng khi nước nâu đục phù sa, lo âu khi nước ít đục hơn. Mỗi năm, nước càng bớt đục, cùng lúc mặn từ cửa biển xâm nhập vào sông sâu hơn. Mấy năm lại đây, có lúc nước trong, dù chưa xanh, trong gần như sông Vàm Cỏ ! Điều này cho thấy con sông không còn màu mỡ. Và muối mặn đã vào tận Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây ! Và có những nhánh sông đã qua đời !
Người dân chất phác hiện nay của chín nhánh Cửu Long có biết đâu hai mươi lăm năm trước đó, năm 1995, Việt Nam đã từ bỏ quyền phủ quyết trong Ủy hội sông Mekong ! Đồng bằng sông Cửu Long không hưởng lợi gì hết từ các đập thủy điện cách nó hơn ngàn cây số, trái lại là nơi chịu thảm họa tàn phá lớn nhất, thậm chí đồng bằng có thể bị xóa sổ ! Nếu không giữ quyền phủ quyết, đồng bằng sông Cửu Long lấy gì để tự vệ trước những quốc gia, những thế lực vì quyền lợi của họ mà không đếm xỉa tới quyền lợi đồng bằng sông Cửu Long ?
Những người nhìn xa trông rộng đã thấy trước, từ ngày đó, nguy cơ rất lớn, lưỡi hái rất sắc, đã treo lơ lửng trên đầu người dân Lục Tỉnh ! Họ đã nhìn thấy trước những con sông Miền Tây cạn nước ! Xin các anh chị đọc những bài viết của bác sĩ nhà văn Ngô Thế Vinh, của những người cùng chí hướng bảo vệ sông Cửu Long và châu thổ của nó, để thấy rõ hơn điều này.
Những người thay mặt Việt Nam bỏ phiếu đồng ý bỏ quyền phủ quyết của Việt Nam là những ai ? Họ có hiểu biết cặn kẽ về lịch sử địa chất hình thành nên sông Cửu Long, hiểu biết cặn kẽ về mọi nguồn lực của hệ thống sông ngòi của nó, chính là ngọn nguồn mang lợi ích tràn trề cho Miền Tây ? Họ có hiểu biết về nguồn cội của cách tổ chức xã hội Miền Tây, về tâm lý học, dân tộc học Miền Tây? Họ có tấm lòng của con dân Miền Tây không?
3. Tương lai có thể thịnh vượng ?
Sông Cửu Long cạn dòng đã là một Chính đề của Miền Nam, của đất nước ! Miền Nam sẽ thịnh vượng lâu dài hay Miền Nam sẽ nghèo đói, chậm tiến triền miên trong thảm họa ?
Giòng An Giang (Tác giả : Anh Việt Thu -- Ca sĩ : Ánh Tuyết)
Do tâm lý dân tộc, nhiều người Việt cho rằng Trung Quốc là nguồn gốc của Chính đề nói trên. Thực ra thì Trung Quốc, dù là tác nhân quan trọng tàn phá lưu vực thượng nguồn, chặn lượng phù sa về hạ nguồn nhưng chưa phải là tất cả. Còn những tác nhân khác…
So sánh bản đồ vệ tinh cũng thấy trong 25 năm rừng Việt Nam, nhất là trên vùng núi Trường Sơn, bị tàn phá như thế nào. Chính Việt Nam đã đối xử như thế nào với nguồn nước của các phụ lưu xuất phát từ rặng Trường Sơn đổ vào Cửu Long ?
Đồng bằng sông Cửu Long có được đầu tư bồi đắp xứng đáng với nguồn lợi sông Cửu Long mang lại ? Có đủ để duy trì sự khai thác bền vững không ?
Việt Nam đã có chiến lược chung cho toàn Miền Nam đối phó với tai họa đã rất gần này chưa ? Đã có một qui hoạch tổng thể giúp Miền Nam ứng phó các vấn nạn và xây dựng môi trường sống vững bền cho các thế hệ sau chưa ?
Có nhiều điều thực tế trả lời câu hỏi trên, trong đó hình ảnh rõ rệt nhất là 100 km đường cao tốc ở Miền Nam so với hơn 1.000 km đường cao tốc ở Miền Bắc !
Người viết bài này tin rằng với phương tiện của khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện nay, Miền Nam có những chọn lựa chiến lược khả thi cho sự phát triển lâu dài. Giải pháp cho Chính đề không chỉ nằm trong khoa học, công nghệ, mà quan trọng hơn là nằm ở nơi cao hơn : cách tổ chức xã hội, chính trị của đất nước !
Vấn đề ở tầm vóc quốc gia, giải pháp phải ở tầm vóc quốc gia. Để có giải pháp cho Chính đề của Miền Nam, cùng lúc phải có giải pháp cho Chính đề của Việt Nam. Việt Nam cần một sự lãnh đạo chính đáng và xứng đáng với tầm vóc Việt Nam. Chính thị phải là một sự lãnh đạo quốc gia, một sự lãnh đạo mà tầm cao vượt khỏi tư duy vùng miền, tư duy phe phái. Sự lãnh đạo hướng về lợi ích toàn quốc gia, coi sự phát triển của bất kỳ vùng nào cũng là sự phát triển của quốc gia. Có phải một sự lãnh đạo như vậy chỉ có thể được chọn lựa bởi toàn dân qua một cuộc ứng bầu cử minh bạch và trung thực ?
Chọn được sự lãnh đạo đó, có Chính đề nào của quốc gia không thể giải quyết được, kể cả vấn đề cạn dòng sông Cửu Long ?
Ngày 20 tháng 3 năm 2020
Lê Học Lãnh Vân
Nguồn : Văn Việt, 24/03/2020
Lẫm lúa ở miền Tây
Trần Dzạ Dzũng, VNTB, 26/03/2020
Nước mắt nhà nông khi ruộng lúa bị khô hạn và nhiễm mặn
Lúa sau khi thu hoạch thì được phơi khô, giê sạch và bảo quản bằng nhiều vật dụng khác nhau như bồ lu, bồ nan, bùng binh, xe rương và cái lẫm hay còn gọi là lẫm lúa. Nhà nào có nhiều lúa để dự trữ thì phải dùng đến cái lẫm.
Chữ lẫm (廩) là từ Hán Việt có nghĩa là kho đụn chứa lương thực. Cái lẫm chứa lúa thường chỉ có ở những nhà địa chủ lớn, một vụ thu vô 3-4 muôn lúa (3-4 ngàn giạ) trở lên mà các vật dụng như kể trên không thể chứa hết được.
Trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) người ta phần nào hình dung được diện mạo nông thôn miệt sông nước đồng bằng ngày trước. Lúa gạo nhiều thì phải bán,người mua lúa gạo kêu là lái lúa,bạn hàng xáo. Bạn hàng xáo đi thu mua lúa từ trong đồng trong bái, chất lên ghe chở ra chành lúa.
Xuất hiện từ "chành lúa", chành là tiếng Tiều của người Hoa, vì người Tiều thâu mua lúa đầu tiên. Chành là cái kho chứa lúa của người mua lúa. Nếu của điền chủ thì kho kêu là "lẫm lúa". Khắp lục tỉnh nơi nào cũng có chành lúa.
Cái lẫm thường được thiết kế trong một ngôi nhà rộng ba gian, xây dựng ở những vùng cao không bị ngập lụt. Hai gian hai bên có diện tích rộng thiết kế thành 2 cái lẫm. Gian giữa hẹp hơn là nơi người ta chuyển lúa vào hay xuất lúa ra. Gian làm lẫm ba mặt là vách tường. Còn một mặt trong nhà hoặc đóng kín bằng ván gỗ hay tường làm bằng đất, có chừa một cái cửa bề cao lên đến cây trính, bề rộng phải lớn hơn cái thúng cái khi đưa thúng đổ lúa vào. Cửa này là nơi người ta đổ lúa vào. Có những tấm ván tấn chặn ở cửa, cao khoảng 0,5m.
Khi đổ lúa vào lẫm đầy đến 0,5m, người ta tấn tấm ván khác lên trên để tiếp tục đổ lúa vào. Rồi cứ thế mà đổ cho đến tầng 3, tầng 4… đến khi nào lẫm đầy lúa thì thôi. Nơi vách gần cửa lẫm, người ta chừa một cái ngách tra vào đó bằng một cái máng xuôi miệng, một miếng gỗ đặt nơi miệng máng.
Khi lẫm đầy lúa, cần xuất lúa từ lẫm thì rút miếng ván ở miệng máng cho lúa chảy ra, lấy đủ số thì đóng miếng ván lại. Trong nền lẫm, người ta lót gạch, cho trấu vào trên lớp gạch cao khoảng vài tấc, rồi lót những tấm bồ nan cách ly giữa trấu và lúa sẽ đổ vào sau này.
Người ta đổ lúa vào lẫm, tầng 1 dưới cùng, dùng thúng lường có 2 người khiêng. Những tầng kế trên đưa lúa vào bằng thúng cái và cao hơn nữa thì bằng thúng con cho nhẹ.
Ở những vùng thường xuyên bị lũ lụt, người ta vẫn xây nhà lẫm, nhưng trong nhà làm gác lửng có độ cao quá mức ngập lụt. Trên gác lửng đó, người ta làm khung bằng cây che kín bốn bên, đổ thóc lúa vào, hay lúa ít, họ quay bồ trên sàn gác để chứa lúa. Lên xuống lẫm này bằng cái thang gỗ…
Đó là lẫm lúa thường thấy thời trước của điền chủ, hay ở nhà ông hội đồng.
Việt Nam hiện nay thì có hẳn bộ quy chuẩn về ‘lẫm lúa’ với tên gọi trên văn bản là ‘kho chứa thóc’ – dân miền Nam gọi gọn là ‘kho lúa’. Bộ quy chuẩn này nằm ở Thông tư 12/2013/Tổng thống-BNNPTNT do Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bùi Bá Bổng ký ban hành 06-02-2013.
Khác lẫm lúa ngày xưa, ‘kho chứa thóc’ theo quy chuẩn còn buộc phải có các thiết bị như máy sấy thóc có khả năng xử lý được độ ẩm của thóc đạt yêu cầu kỹ thuật, công suất sấy đáp ứng được năng lực của kho chứa.
Các dạng máy sấy gồm : Máy sấy dạng tháp ; Hệ thống (cụm) máy sấy tầng sôi kết hợp với sấy tháp ; Máy sấy vỉ ngang ; Thiết bị vận chuyển phục vụ xuất, nhập kho ; Thiết bị xử lý những sự cố bất lợi trong quá trình bảo quản ; Thiết bị đo lường kiểm tra, giám sát các chỉ tiêu yêu cầu kỹ thuật ; Hệ thống chiếu sáng…
Bộ quy chuẩn cũng đề cập đến kho silo. Theo đó kho silo có thân kho hình trụ (hoặc hình hộp) đáy dạng hình chóp hoặc đáy phẳng với cơ cấu tháo liệu, đường kính từ 6 m đến 20 m, chiều cao từ 10 m đến 30 m, có nắp kín và các cửa thông hơi. Vật liệu làm silo là bê tông, kim loại, hoặc tôn tráng kẽm ; Số lượng silo tối thiểu là hai chiếc, đảm bảo đảo trộn nguyên liệu trong quá trình bảo quản…
Giải pháp chọn lựa phổ biến ở nước nông nghiệp là xây dựng silo. Đây là một kết cấu bằng thép hay bê tông được xây dựng để bảo quản nông sản dạng hạt rời, được trang bị hệ thống kiểm định chất lượng lúa đầu vào, thiết bị làm sạch và sấy khô. Hệ thống nộp lúa vào và tháo lúa ra bằng cơ giới, trang bị hệ thống tự động theo dõi, điều tiết nhiệt độ và làm mát trong quá trình bảo quản, nhờ vậy có thể bảo quản lúa thời gian hơn một năm phù hợp với diễn biến lúa gạo trên thị trường. Nhờ có thể xây dựng theo chiều cao, silo ít tốn kém mặt bằng, chứa được khối lượng lớn. Nhờ được bảo quản tốt nên trong quá trình xay xát hạt gạo đạt chất lượng cao và ổn định.
Ở miền Nam trước 1975, tư liệu về nông nghiệp cho biết đã có một số các cụm silo, như ở Cao Lãnh (48.000 tấn), Trà Nóc (10.000 tấn), Bình Chánh (12.000 tấn), nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên sau 1975 không được sử dụng đúng công năng, hoặc bỏ trống.
Khi có hệ thống tổng kho, nếu giá lúa thấp, nông dân không bán và mang lúa gạo đến ký gửi ở tổng kho của Nhà nước. Khi nhận được đơn xác nhận ký gửi hàng hóa từ Nhà nước, nông dân có thể đến ngân hàng vay một khoản tín dụng tương đương với giá trị lúa đã ký gửi trong tổng kho. Số tiền vay này có thể dùng trang trải trong cuộc sống hàng ngày, mua sắm vật tư chuẩn bị cho vụ mùa mới. Giá cả luôn được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu.
Khi nguồn cung giảm, giá sẽ tăng, khi đạt được mức giá mong đợi, nông dân bán lúa (gạo) ra và giải chấp vốn vay ở ngân hàng. Với mô hình này, nông dân sẽ có mức lời mong đợi, không phải bán tháo hàng hóa khi giá ở mức thấp. Hệ thống tổng kho không phải là nơi giữ hàng hóa miễn phí cho nông dân, doanh nghiệp mà đây còn là một ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận.
Ông Đoàn Đình Hoàng, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, nhận định với nguồn lực trong tay, Nhà nước có trách nhiệm đầu tư xây dựng hệ thống tổng kho, và tổ chức đấu thầu cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia khai thác.
Ví dụ một hệ thống tổng kho vùng có năng lực lưu trữ 1 triệu tấn hàng hóa sẽ được chia thành bốn hệ thống kho phụ, mỗi kho có sức chứa 250.000 tấn sẽ được chia nhỏ ra cho các đơn vị khai thác. Nhà nước cần đưa ra giá sàn với mức phí hợp lý mà nông dân và doanh nghiệp đều có khả năng ký gửi hàng hóa, và đặt ra thời hạn thu hồi vốn cho các hệ thống kho này.
Nếu có hệ thống tổng kho, người nông dân sẽ ít lệ thuộc vào thương lái hơn, hàng hóa không đi qua nhiều khâu trung gian. Ví dụ hệ thống tổng kho ở khu vực phía Nam có thể đặt ở Long An, Cần Thơ, Bạc Liêu và An Giang. Nông dân ở đây có thể đưa sản phẩm của mình đến kho gần nhất để ký gửi hàng hóa…
Những lo lắng về biến động của mùa dịch đến từ con virus corona rồi cũng sẽ đến hồi kết thúc. Mùa mưa đến, vậy là miền Tây vừa giải hạn mặn, vừa no nước để làm những vụ mùa.
Câu chuyện về một hệ thống tổng kho lúa gạo cho đồng bằng sông Cửu Long được nhiều lần xới đi xới lại ở các hội nghị, hội thảo từ thập niên 80 ở thế kỷ trước, cho tới tận hôm nay, có lẽ lại chìm vào lãng quên ; hay ít ra là cũng tiếp tục bị ‘bỏ quên’ trong năm 2021, khi đây là năm bộn bề công việc nhân sự cho nhiệm kỳ mới của đảng chính trị và của cả quốc hội và chính phủ Việt Nam.
Tuy nhiên trong góc nhìn khác, một nhà báo chuyên trách về logistics ở miền Tây Nam bộ nói rằng cần coi lại chuyện thủ tục cho vay và lãi vay ngân hàng ở nông thôn. Nông dân thường không đủ vốn liếng để làm các vụ lúa tiếp theo, nếu như vì tình thế nào đó mà họ buộc phải ‘ký gửi’ lúa vào ‘lẫm lúa’ để chờ giá. Nên nhớ ‘lẫm lúa’ là dành cho điền chủ, cho ông bà hội đồng giàu có tiền muôn, bạc vạn.
Trần Dzạ Dzũng
Nguồn : VNTB, 26/03/2020
******************
Nguy cơ sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau hạn mặn
Diễm Thi, RFA, 26/03/2020
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long năm nay ở mức độ được nói gay gắt và khốc liệt. Tình trạng thiếu nước ngọt xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống dân sinh.
Ảnh minh họa bờ sông bị sạt lở - Photo : moitruong.net
Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, do nước sông Mekong từ thượng nguồn về Đồng bằng sông Cửu Long ở mức rất thấp nên xâm nhập mặn nghiêm trọng. Dự báo đến cuối tháng 4 mới kết thúc đợt hạn hán, xâm nhập mặn năm nay.
Khi hạn mặn đang ảnh hưởng nặng nề đến đời sống người dân cũng như hệ sinh thái nơi này thì các chuyên gia lại cảnh báo hiện tượng sạt lở trong mùa mưa sắp tới.
Theo Cục Quản lý Tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên- Môi trường, lũ lụt, xâm nhập mặn và sạt lở là những thách thức lớn mà Đồng bằng sông Cửu Long phải đối diện hàng năm. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, các trận lũ hầu hết xuất hiện vào giữa tháng 10 và chủ yếu là lũ vừa và nhỏ, số trận lũ lớn đã giảm so với trước đó. Nguyên nhân là do việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thủy điện ở thượng lưu sông Mekong đổ về vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi quy luật tự nhiên của dòng chảy.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, chuyên gia môi trường và tài nguyên, chỉ ra nguyên nhân làm cho tình trạng sạt lở hàng năm ngày càng nặng nề :
"Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng rất là nhạy cảm đối với sự thay đổi khí hậu thủy văn. Khi dòng chảy trên sông Mekong thay đổi do yếu tố như mưa hay do điều kiện đặc biệt khác thì nó ảnh hưởng đến hệ sinh thái rất là nhiều. Đậy là khu vực đồng bằng rất thấp và phẳng lại nằm cuối hạ lưu của một con sông lớn. Thêm vào đó là tác động từ con người như đập thủy điện làm cho tình trạng càng khó khăn hơn".
Mấy năm gần đây, mặc dù đang là mùa khô nhưng vẫn có hiện tượng sạt lở những căn nhà dọc bờ sông.
Hôm 18 tháng 6 năm 2019, tại diễn đàn ‘Quản lý tài nguyên nước, lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long’ do Bộ Tài nguyên Môi trường và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, một báo cáo cho thấy vùng Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 560 điểm sạt lở với tổng chiều dài hơn 800km và xâm nhập mặn hơn 90 km.
Cùng ngày, 6 căn nhà liền kề tại khu vực ven bờ sông Vàm Cỏ Tây, xã Lợi Bình Nhơn, tỉnh Long An đã bị sạt lở.
Ngày 29 tháng 7 năm 2019, năm căn nhà cặp sông Cái Sắn, ven quốc lộ 80 huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ bị sạt lở gây hư hỏng nặng nề và hai căn nhà đã bị cuốn trôi.
Tối ngày 29/8/2019, 58 m đường ven kênh Rạch Vọp, tỉnh Sóc Trăng bị sạt lở, nhấn chìm hoàn toàn chín căn nhà bán kiên cố xuống sông.
Những vụ sạt lở trên xảy ra không lâu khi mùa mưa đến. Vì thế năm nay, khi mùa khô hạn còn chưa hết, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long đã cảnh báo tình trạng sạt lở vào mùa mưa sắp tới.
Báo trong nước dẫn lời Thạc sĩ Thiện rằng, vào đầu mùa mưa tới, khi mực nước sông còn thấp nhưng bắt đầu chảy mạnh, nước lũ từ thượng nguồn Mekong đổ về làm tăng áp lực bào mòn vào chân bờ sông ở bên dưới. Dòng chảy đã khoét rỗng chân bờ sông, tạo "hàm ếch" bên dưới trong khi người sống ở trên không biết cho đến khi toàn bộ khối đất đổ ụp xuống. Vì vậy, dù đang trong tình trạng hạn mặn, chúng ta vẫn cần đề phòng chuyện này khi mùa mưa đến.
Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, cho rằng hạn mặn và sạt lở về mặt tự nhiên không liên quan đến nhau, nhưng mặt nhân tai thì có, bởi khi hạn hán thì bà con buộc phải khai thác nước ngầm. Khi khai thác như vậy làm cho nền đồng bằng bị tụt xuống khá nhanh. Điều đó làm ảnh hưởng đến chuyện sụt lở. Nhưng đó không phải là tác động trực tiếp và ngay bây giờ. Theo ông thì chuyện sạt lở là chuyện năm nào cũng có. Ông giải thích :
"Chuyện sạt lở bên bờ sông là do tốc độ dòng chảy của sông bất ổn. Có những lúc rất chậm nhưng có những lúc rất nhanh. Nguyên nhân thứ nhất là những năm lũ lớn, nước trên thượng nguồn lại đổ về do người ta xả đập nên lũ chồng lũ.
Nguyên nhân thứ hai là vùng thượng nguồn họ đắp đê bao kín để làm lúa ba vụ hoặc trồng cây ăn trái nên nước không có đường thoát trên thượng nguồn mà nó tràn xuống bên dưới với tốc độ nhanh hơn.
Nguyên nhân thứ ba là lòng sông những năm gần bị khai thác cát, sỏi rất nhiều nên lòng sông rộng và sâu tạo nên những vùng sụt lở. Ngoài ra những đập nước trên thượng nguồn nó chặn rất nhiều phù sa xuống hạ nguồn cho nên việc bồi đắp phù sa cho lòng sông bị giảm đi".
Chuyện sạt lở là chuyện xảy ra hàng năm. Đây là một thực tế mà vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã phải chịu từ nhiều năm qua. Nguyên nhân do thiên tai cũng có mà nhân tai cũng có.
Giáo sư Võ Tòng Xuân nhận định :
"Thứ nhất là người ta ăn cắp cát. Gọi là ăn cắp chứ thật ra họ câu kết với chính quyền địa phương để bơm cát. Khi họ lấy cát thì đáy sông sâu hơn nên dòng nước chảy bị xoáy. Khi nước xoáy vậy thì nó cuốn chân bờ sông khiến bờ sông sụp.
Thêm nữa là khi dòng chảy mạnh thì nó dễ làm cho bờ bị lở. mà sông Tiền, sông Hậu chịu ảnh hưởng của triều bên biển Đông nên cũng có hai con nước lớn hai con nước nhỏ. Mỗi ngày hai lần như vậy. Khi lưu lượng chảy nhanh nó sẽ cuốn bờ sông. Một phần hữa là do dân mình lấn sông cất nhà làm trầm trọng thâm khả năng bị sạt lở".
Chuyện khai thác cát mà Giáo sư Võ Tòng Xuân đề cập đã xảy ra cả chục năm nay.
Theo thống kê của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, các sở Khoa học Công nghệ, Sở tài nguyên Môi trường, Sở Xây dựng của các địa phương đã cấp phép cho các doanh nghiệp khai thác cát dọc sông Tiền và sông Hậu mỗi năm 28 triệu mét khối. Con số này chỉ tính từ năm 2010 đến năm 2013, khi viện này thực hiện đề tài khoa học công nghệ độc lập cấp Nhà nước "Nghiên cứu ảnh hưởng hoạt động khai thác cát đến thay đổi lòng dẫn sông Cửu Long (sông Tiền, sông Hậu) và đề xuất giải pháp quản lý, quy hoạch khai thác hợp lý".
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 26/03/2020
******************
Vì đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị nên… ở đâu ngồi đó !
Trân Văn, 24/03/2020
Dịch viêm phổi Vũ Hán đã chất thêm gánh nặng cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long – khu vực vốn bị xem là đang hấp hối vì hạn hán và nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu vào ruộng, vườn.
Đồng Bằng Sông Cửu Long với cảnh hạn hán khốc liệt năm 2016. [nguồn : Việt Nam Express 3/11/2016]
Hạn hán và nhiễm mặn không mới. Tình trạng này từng lặp đi, lặp lại nhiều lần. Yếu tố "mới" chỉở mức độ trầm trọng. Khi so lần sau với những lần trước, dù muốn hay không thì từ các viên chức hữu trách đến cư dân cũng phải cùng thừa nhận là… chưa từng có !
Hậu quả của hạn hán và nhiễm mặn càng ngày càng đa dạng : Khai thác nước ngầm để bù vào lượng nước ngọt cần thiết cho cả sinh hoạt lẫn trồng trọt, chăn nuôi... vốn càng ngày càng giảm khiến bề mặt Đồng bằng sông Cửu Long biến dạng.
Được sự tiếp sức của việc cho phép khai thác – tận thu cát vô tội vạ, sạt lở, sụt lún đã xảy ra khắp nơi. Giờ, "tan rã" không còn là nguy cơ. "Tan rã" đã trở thành hiện thực, đe dọa hủy diệt khu vực mà sản vật tự nhiên vốn đa dạng, phong phú nhất Việt Nam !
***
Cho dù mức độ trầm trọng của thảm trạng đang diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long có sự góp phần của những con đập ở thượng nguồn sông Mekong và thời tiết dị thường do biến đổi khí hậu nhưng xét cho đến cùng, nguyên nhân chính vẫn nằm ở tư duy quản trị và năng lực điều hành quốc gia…
Cho dù còn không ít khác biệt về biện pháp giải cứu Đồng bằng sông Cửu Long nhưng ít nhất, các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam luôn đồng thuận : Hạn hán ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không càng ngày càng đáng sợ như đã thấy nếu "đảng ta" không ra lệnh cải tạo những vùng trũng từng là nơi tích nước cho Đồng bằng sông Cửu Long (Đồng Tháp Mười...) thành ruộng lúa.
Hệ thống đê bao, những dự án kiểu như "Ngọt hóa bán đảo Cà Mau"... những nghị quyết nhằm tăng sản lượng gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long để vươn lên dẫn đầu về xuất cảng gạo, để nâng kim ngạch xuất cảng thủy sản, giúp "chỉ tiêu tăng trưởng" của năm sau cao hơn năm trước...
Tương tự, để thu hút đầu tư, vì "chỉ tiêu tăng trưởng" mà gật đầu liên tục với đủ loại dự án đầu tư, cho phép xây dựng những nhà máy mà hoạt động hủy hoại cả môi trường sống lẫn nguồn nước (bột giấy, đốt than để phát điện...) đã khiến nguồn nước của sông rạch ô nhiễm trầm trọng, phải bù đắp bằng gia tăng khai thác nước ngầm.
Hạn hán, sông rạch và ruộng vườn nhiễm mặn, sạt lở, sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long liệu có trầm trọng như đang thấy nếu không có những chủ trương, những nghị quyết như đã kể, không có việc thi nhau cho phép khai thác cát để tăng nguồn thu ? Chắc chắn là không ! Đã có ai, nơi nào nhận hoặc bị truy cứu trách nhiệm về những chủ trương, nghị quyết đó không ?
***
Trước tình trạng càng ngày càng bi đát của Đồng bằng sông Cửu Long, cuối năm 2017, chính phủ Việt Nam ban hành thêm một nghị quyết nữa để giúp Đồng bằng sông Cửu Long "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững" (Nghị quyết 120/NQ-CP).
Nghị quyết 120/NQ-CP được chính các viên chức hữu trách lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam ví von là "Nghị quyết thuận thiên" : Quản trị và điều hành hoạt động kinh tế - xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ "tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên" (1).
Cho dù cuối cùng đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta cũng thấy, ít nhất với trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long, quản trị, điều hành phải thuận… thiên nhưng trên thực tế, đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta vẫn muốn dùng nghị quyết thế… thiên !
Tuần trước, khi tham gia "Tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận 53 của Bộ Chính trị về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020", ông Nguyễn Xuân Phúc – người thường tỏ ra hết sức tâm đắc với "Nghị quyết thuận thiên" - tuyên bố : "Ta" đang đối diện với "thử thách lớn", phải "nuôi ăn 104 triệu người", do đó cần "chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm" và sẽ sớm trình Bộ Chính trị đề nghị giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo (2)…
Cách nay hơn ba thập niên, "an ninh lương thực" mở đường cho nhiều chủ trương, nghị quyết "cải tạo toàn diện" Đồng bằng sông Cửu Long, đẩy khu vực này trước thảm trạng như đang thấy. Giờ khi các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đã hiến nhiều giải pháp nhằm giúp Đồng bằng sông Cửu Long cầm cự, "an ninh lương thực" lại ngóc đầu gượng dậy.
Thiếu nước ngọt, ruộng vườn nhiễm mặn là thực tế khó lòng xoay chuyển nhưng "thuận thiên" có thể giúp cho Đồng bằng sông Cửu Long tồn tại và phát triển theo những hướng khác nhưtôm, cá... Một "nghị quyết" kiểu nhưphải giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo có thể sẽ tiếp tục sổ toẹt vai trò, tri thức của các chuyên gia.
Bây giờ là lúc để những cá nhân có thực học trong nhiều lĩnh vực (thủy lợi, nông nghiệp, thủy sản, kinh tế, thương mại...) cùng nhau thảo luận, lựa chọn những giải pháp hợp lý nhất, khả thi nhất giúp Đồng bằng sông Cửu Long có thể thật sự "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững". Nếu chưa "tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc và tự nhận các hình thức kỷ luật tương xứng" về trách nhiệm đối với hiện trạng Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị nên ngồi im.
Thực tế đã cho thấy những cá nhân thủ đắc "cao cấp lý luận chính trị" hay "xây dựng đảng" hoặc có chuyên môn sâu về những lĩnh vực tương tự không thể và không nên can dự vào việc tìm lối thoát hiểm cho Đồng bằng sông Cửu Long. Phá đến như thế mà vẫn thấy chưa đủ ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 24/03/2020
Chú thích
Dịch viêm phổi Vũ Hán đã chất thêm gánh nặng cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long – khu vực vốn bị xem là đang hấp hối vì hạn hán và nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu vào ruộng, vườn.
Đồng Bằng Sông Cửu Long với cảnh hạn hán khốc liệt năm 2016. [nguồn : Việt Nam Express 3/11/2016]
Hạn hán và nhiễm mặn không mới. Tình trạng này từng lặp đi, lặp lại nhiều lần. Yếu tố "mới" chỉ ở mức độ trầm trọng. Khi so lần sau với những lần trước, dù muốn hay không thì từ các viên chức hữu trách đến cư dân cũng phải cùng thừa nhận là… chưa từng có !
Hậu quả của hạn hán và nhiễm mặn càng ngày càng đa dạng : Khai thác nước ngầm để bù vào lượng nước ngọt cần thiết cho cả sinh hoạt lẫn trồng trọt, chăn nuôi... vốn càng ngày càng giảm khiến bề mặt Đồng bằng sông Cửu Long biến dạng.
Được sự tiếp sức của việc cho phép khai thác – tận thu cát vô tội vạ, sạt lở, sụt lún đã xảy ra khắp nơi. Giờ, "tan rã" không còn là nguy cơ. "Tan rã" đã trở thành hiện thực, đe dọa hủy diệt khu vực mà sản vật tự nhiên vốn đa dạng, phong phú nhất Việt Nam !
***
Cho dù mức độ trầm trọng của thảm trạng đang diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long có sự góp phần của những con đập ở thượng nguồn sông Mekong và thời tiết dị thường do biến đổi khí hậu nhưng xét cho đến cùng, nguyên nhân chính vẫn nằm ở tư duy quản trị và năng lực điều hành quốc gia…
Cho dù còn không ít khác biệt về biện pháp giải cứu Đồng bằng sông Cửu Long nhưng ít nhất, các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam luôn đồng thuận : Hạn hán ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không càng ngày càng đáng sợ như đã thấy nếu "đảng ta" không ra lệnh cải tạo những vùng trũng từng là nơi tích nước cho Đồng bằng sông Cửu Long (Đồng Tháp Mười...) thành ruộng lúa.
Hệ thống đê bao, những dự án kiểu như "Ngọt hóa bán đảo Cà Mau"... những nghị quyết nhằm tăng sản lượng gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long để vươn lên dẫn đầu về xuất cảng gạo, để nâng kim ngạch xuất cảng thủy sản, giúp "chỉ tiêu tăng trưởng" của năm sau cao hơn năm trước...
Tương tự, để thu hút đầu tư, vì "chỉ tiêu tăng trưởng" mà gật đầu liên tục với đủ loại dự án đầu tư, cho phép xây dựng những nhà máy mà hoạt động hủy hoại cả môi trường sống lẫn nguồn nước (bột giấy, đốt than để phát điện...) đã khiến nguồn nước của sông rạch ô nhiễm trầm trọng, phải bù đắp bằng gia tăng khai thác nước ngầm.
Hạn hán, sông rạch và ruộng vườn nhiễm mặn, sạt lở, sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long liệu có trầm trọng như đang thấy nếu không có những chủ trương, những nghị quyết như đã kể, không có việc thi nhau cho phép khai thác cát để tăng nguồn thu ? Chắc chắn là không ! Đã có ai, nơi nào nhận hoặc bị truy cứu trách nhiệm về những chủ trương, nghị quyết đó không ?
***
Trước tình trạng càng ngày càng bi đát của Đồng bằng sông Cửu Long, cuối năm 2017, chính phủ Việt Nam ban hành thêm một nghị quyết nữa để giúp Đồng bằng sông Cửu Long "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững" (Nghị quyết 120/NQ-CP).
Nghị quyết 120/NQ-CP được chính các viên chức hữu trách lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam ví von là "Nghị quyết thuận thiên" : Quản trị và điều hành hoạt động kinh tế - xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ "tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên" (1).
Cho dù cuối cùng đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta cũng thấy, ít nhất với trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long, quản trị, điều hành phải thuận… thiên nhưng trên thực tế, đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta vẫn muốn dùng nghị quyết thế… thiên !
Tuần trước, khi tham gia "Tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận 53 của Bộ Chính trị về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020", ông Nguyễn Xuân Phúc – người thường tỏ ra hết sức tâm đắc với "Nghị quyết thuận thiên" - tuyên bố : "Ta" đang đối diện với "thử thách lớn", phải "nuôi ăn 104 triệu người", do đó cần "chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm" và sẽ sớm trình Bộ Chính trị đề nghị giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo (2)…
Cách nay hơn ba thập niên, "an ninh lương thực" mở đường cho nhiều chủ trương, nghị quyết "cải tạo toàn diện" Đồng bằng sông Cửu Long, đẩy khu vực này trước thảm trạng như đang thấy. Giờ khi các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đã hiến nhiều giải pháp nhằm giúp Đồng bằng sông Cửu Long cầm cự, "an ninh lương thực" lại ngóc đầu gượng dậy.
Thiếu nước ngọt, ruộng vườn nhiễm mặn là thực tế khó lòng xoay chuyển nhưng "thuận thiên" có thể giúp cho Đồng bằng sông Cửu Long tồn tại và phát triển theo những hướng khác như tôm, cá... Một "nghị quyết" kiểu nhưphải giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo có thể sẽ tiếp tục sổ toẹt vai trò, tri thức của các chuyên gia.
Bây giờ là lúc để những cá nhân có thực học trong nhiều lĩnh vực (thủy lợi, nông nghiệp, thủy sản, kinh tế, thương mại...) cùng nhau thảo luận, lựa chọn những giải pháp hợp lý nhất, khả thi nhất giúp Đồng bằng sông Cửu Long có thể thật sự "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững". Nếu chưa "tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc và tự nhận các hình thức kỷ luật tương xứng" về trách nhiệm đối với hiện trạng Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị nên ngồi im.
Thực tế đã cho thấy những cá nhân thủ đắc "cao cấp lý luận chính trị" hay "xây dựng đảng" hoặc có chuyên môn sâu về những lĩnh vực tương tự không thể và không nên can dự vào việc tìm lối thoát hiểm cho Đồng bằng sông Cửu Long. Phá đến như thế mà vẫn thấy chưa đủ ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 24/03/2020
Chú thích
Thủy điện Lang Cang-Mekong gây khát nước và đói phù sa cho Đông bằng sông Cửu Long bằng cách nào ?
Vùng hạ lưu sông Mekong khát nước và đói phù sa - Ảnh minh họa
1. Các phụ lưu theo quá trình lịch sử đóng góp lượng nước vào Mekong như thế nào ?
Theo Báo cáo Thủy văn của Mekong River Commission, trung bình mỗi năm các lưu vực góp phần vào dòng chảy theo bảng tỉ lệ sau, Trung Quốc 16%, Lào 35%, Thái Lan và Cam Bốt đều 18%, Việt Nam 11% và Miến 2%. Do đó, Việt Nam không phải vô can vì cũng xây nhiều thủy điện trên phụ lưu tại Việt Nam, nhưng đứng thứ năm/sáu trong sáu/bẩy nước, không có nhiều nước để cất giữ gây ra đại hạn như hiện nay.
Lượng nước đóng góp vào Mekong theo Wikipedia
Vào mùa khô Lang Cang nhờ có tuyết tan từ Hy Mã Lạp Sơn nên lưu lượng từ Vân Nam góp vào lên gần đến 80% vào dòng chảy tại Vientiane và 40% vào dòng chảy tại Kratie, tỉ lệ này là báo cáo của Mekong River Commission.
Vào những năm ít mưa nặng hạn, tỉ lệ nước từ Vân Nam có thể còn cao hơn nhiều, với 40 tỉ mét khối thể tích các hồ chứa Vân Nam, Trung Quốc có trong tay quyền lực quyết đoánkiểm soát gần 100% lưu lượng Mekong những mùa có hạn hán. Những quan sát viên chỉ dựa vào 16% trung bình năm để coi nhẹ tác hại chuỗi dập thủy điện Vân Nam khác gì biện bạch cho Trung Quốc.
Thật vậy, xem xét tác động sinh thái cần nghiên cứu toàn diên. Theo giới chuyên gia môi trường, tác động các hồ chứa thủy điện hay chuyển nước của thủy nông phải được khảo sát cả hai mùa, theo ba hoạt cảnh, năm mưa bình thường, năm mưa nhiều và năm khô hạn. Khi đó sẽ thấy viêc vận hành thủy điện có thể gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ cho hạ du. Sự việc đáng tiếc này đã xảy ra ở Việt Nam.
Tương tự thế, không thể kết luận là Trung Quốc không lấy nước của Mekong với lý luận đơn giản là họ chỉ tạm giữ ở các hồ chứa và xả ra sau. Muốn biết rõ, phải làm phân tích cân bằng khối lượng (mass balance) từ những số liệu nước ra và vào, cùng với thể tích, mực nước của tất cả các hồ chứa, và lượng nước chuyển đi ra khỏi lưu vực sử dụng từng giờ qua nhiều năm. Nhưng những thông số này rõ ràng Trung Quốc cố tình không không tiện công bố ra, khiến sự ngờ vực càng tăng khi hạn hán kéo dài. Dân cư Đồng bằng sông Cửu Long thì nhìn sự kiện hạn lụt sụt lở với nước mắt.
2. Các con đập cắt giảm phù sa Mekong như thế nào ?
Trung bình Mekong tải ra biển 150 Mt phù sa, theo báo cáo về sự cắt giảm trọng tải phù sa của các con đập trên Lang Cang-Mekong của Mekong River Commission đến năm 2020 Mekong chỉ còn 50% phù sa và năm 2040 Mekong sẽ không còn mang phù sa ra biển.
Những quan sát viên quan sát viên chỉ xét lưu lượng, không tính phù sa vốn nguồn dinh dưỡng cho đất và bồi lấp cho duyên hải là góp công tránh né trách nhiệm cho Trung Quốc.
3. Các hồ thủy điện trữ bao nhiêu nước ?
Theo số liệu từ Wikipedia người viết kết toán lại, tất cả các hồ chứa hiện nay trên Lang Cang-Mekong có tổng số thể tích vận hành (active storage) là 73 tỉ mét khối hay 15% lưu lượng trung bình năm. Trung Quốc chiếm phần lớn khoảng 40 tỉ (55%), sau là Lào khoảng 30 tỉ (41%) và Việt Nam chỉ có 1,6 tỉ mét khối (2%).
Theo thảo luận của người viết với cố Kỹ sư thủy điện Nguyễn Hữu Chung, chuyên gia chạy mô hình của Quebec Hydro, tác động môi sinh của thủy điện nhiều hay ít phải đánh giá theo độ điều tiết (regulation). Các đập Vân Nam điều tiết 56% và Lào 20% lưu lượng sông. Theo đánh giá của Tiến sĩ Yadu Pokhrel, Đại học Michigan, qủy trình lụt tại hạ vực Mekong xáo trộn vì thủy điện điều tiết dòng chảy thượng lưu ; chu trình chảy ngược trên sông Tonle Sap sẽ chấm dứt khi nhịp lũ của Biển Hồ bị điều tiết 50% và trì hoãn lại một tháng ; theo nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Juaguo Qi đồng viện, diện tích Biển Hồ đã bị thu hẹp dần dần suốt 15 năm theo các công trình thủy điện.
Theo số liệu Mekong River Commission nhịp lũ dâng tại Biển Hồ năm 2019 chỉ bắt đầu vào tháng 8, đã đến trễ 3 tháng và đạt thể tích cực đại 30 tỉ mét khối, 30 tỉ mét khối ít hơn so với thể tích trung bình (long term average) khiến thu hoạch ngư sản Biển Hồ không còn.
Trách nhiệm chia sẻ nước từ hồ thủy điện cho hạ du vào những năm có hạn phải dựa theo các số liệu và tỉ lệ thể tích và điều tiết. Quan điểm cho là người Việt vốn là nạn nhân của thủy điện lại phải tự trách mình và bác bỏ trách nhiệm tác nhân lớn nhất Trung Quốc, Lào (và chính phủ Việt Nam) là một phát biểu ngược ngạo bất công cho người Việt.
4. Nước về Đồng bằng sông Cửu Long từ nguồn nào trong mùa khô ?
Vào mùa khô, Đồng bằng sông Cửu Long nhận nước từ một ngã tư sông gần Phom Penh, ở đó bốn nhánh sông họp lại, sông Tonle Sap từ Biển Hồ và Mekong từ Lào chảy vào và từ đó tách ra thành sông Bassac và Mekong cùng chảy xuống Đồng bằng sông Cửu Long ra biển.
Lưu vực hạ Mekong có ba hồ chứa thiên nhiên là Biển Hồ, Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, ngoài ra là hàng trăm các hồ thủy điện nhân tạo ở thượng nguồn của chúng. Việc xây đê bao canh tác lúa vụ ba ở Đồng bằng sông Cửu Long đã làm mất nhiều khả năng trữ nước của Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười đúng như Tiến sĩ Dương Văn Ni, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện khuyến cáo, Tiến sĩ Koos Neefjes và Tiến sĩ Lê Anh Tuấn đã khảo sát và công bố báo cáo khoa học . Đồng bằng sông Cửu Long vì thế rất cần nước từ Biển Hồ chảy về, nhưng chỉ khi Biển Hồ còn lũ Đồng bằng sông Cửu Long mới có nước. Khi Biển Hồ không còn nhịp lũ như năm 2016 hay 2019, Việt Nam sẽ lâm ngủy dưới đại hạn như năm 2017 và 2020 hiện nay.
Người viết cho rằng phải vận động giúp Cam Bốt tranh đấu giới hạn lượng nước tích ở các hồ thủy điện, để nhịp lũ sinh thái Biển Hồ tồn tại thì Đồng bằng sông Cửu Long sẽ được bảo vệ theo. Biển Hồ từ năm 1997 đến 2005 có thể tích trung bình 50 tỉ đến 80 tỉ, trung bình 60 tỉ mét khối. Đồng bằng sông Cửu Long Theo PGiáo sư Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Đồng bằng sông Cửu Long cần lưu lượng khoảng 2000 mét khối/giây khoảng 10 tỉ mét khối trong mùa khô để đuổi mặn, ém phèn và có nước ngọt sinh hoạt canh tác. Việc này hoàn toàn khả thi và có cơ sở pháp lý theo Hiệp Định Mekong 1995, các thành viên đã ký kết bảo vệ nhịp lũ của Biển Hồ.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Mattis Kummu, tỉ lệ nước từ Biển Hồ góp cho Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, trong 5 tháng mùa khô họ cho từ 20% đện 50% nước về Đồng bằng sông Cửu Long, số còn lại là từ Mekong. Như thế số nước mất lớn nhất cho Đồng bằng sông Cửu Long vào mùa khô chính là số nước Biển Hồ đã mất vào mùa mưa trước đó. Những nhà quan sát chỉ tung ra lưu lượng xả ra và mực nước ở các đập Trung Quốc và Lào vào mùa hạn, không kể đến dòng nước yếu đi từ Biển Hồ, cho là bình thường để chống chế cho các chủ đập là sai sót rất lớn. Tại sao ?
Khi khí hậu có ít mưa, các hồ chứa thượng nguồn nhờ có các cổng chắn họ chủ động chặn dòng chảy, gom trữ nước trước vì nước là nhiên liệu và lợi tức của họ, nên hồ thiên nhiên Biển Hồ nằm phía dưới hoàn toàn bất lực bị tước đoạt mất nhịp lũ. Đồng bằng sông Cửu Long mất mùa nước nổi, sang mùa khô Bác sĩ Ngô Thế Vinh kết luận Đồng bằng sông Cửu Long như bệnh nhân của ông "phải gánh chịu từng cơn khát thắt ngực" dưới chân thủy điện.
5. Con đường giải thoát cho lưu vực ?
Hiện giờ đồng bào Đồng bằng sông Cửu Long đang thiếu hụt phải mua nước ngọt với giá 200.000 đến 250.000 VNĐ/mét khối. Tiến sĩ Hủy Nguyễn đã trình bày trên Facebook những biện pháp xây hồ chứa ít tốn kém và công trình nước ngọt khả thi để đối phó với hạn mặn cho Đồng bằng sông Cửu Long hy vọng được lãnh đạo đem vào qủy hoạch. Tủy có phản hồi quan ngại những hồ nước này sẽ bị lún, Kỹ sư Ngô Minh Triết không xem đó là mối ngủy mà vạch ra hệ quả sau đó là thể tích hồ chứa sẽ tăng lên.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long còn có khả năng tái phục hồi các vùng chứa nước Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười bằng cách loại bỏ dần các đê bao triệt để cho lúa 3 vụ. Tiến sĩ Dương Văn Ni cho rằng có thể bỏ vụ ba cách hai năm một lần.
Bác sĩ Ngô Thế Vinh đã giới thiệu kỹ thuật xử lý và lọc sạch nước thải theo dự án Ground Water Recharge của Orange County để bù nước ngọt và chống sụt lún và xâm mặn ; và nhà máy khử mặn nước biển thành nước ngọt của thành phố Carlsbad, với giá bán 30.000 VNĐ/mét khối. Và thế giới đã sử dụng phương pháp khử và trữ nước vào tầng nước ngầm để sử dụng (ASR Aquifer Storage and Resuse) với chi phí 7.000 VNĐ/mét khối. Các biện pháp công trình có thể thu dụng bức xạ mặt trời và gió tại Đồng bằng sông Cửu Long để hoạt động, Việt Nam có thể tự túc, bảo đảm an ninh nước ngọt và sạch khi bị đe dọa.
Mặt khác, tác hại tuyệt chủng di ngư, ngăn chặn phù sa, và gây xáo trộn chế độ thủy văn của các hồ thủy điện không có thiết kế và kỹ thuật nào loại trừ hay giảm thiểu được ; các quốc gia Lang Cang-Mekong không nên xây thêm một con đập Mekong mới nào nữa trên phụ lưu hay trên dòng chính. Dòng chảy sinh thái của dòng sông sẽ mất, thiệt hại không thể đền bù, trong khi thủy điện không còn là nguồn năng lượng tốt hay rẻ nhất.
Đã có không ít chuyên gia và tổ chức quốc tế như Natural Heritage Institute, Stimson Center, OXFAM, ADB khuyến cáo lãnh đạo các nước Mekong từ bỏ thủy điện, điện than và chuyển hướng sang năng lượng tái tạo phi thủy điện như gió và mặt trời.
Dự án hồ Nam Ngum
Người viết đã đề bạt hai dự án năng lượng mặt trời nổi với bình trữ điện 11400 MW-8,8 Tỉ USD trên hồ Nam Ngum cho Lào và 28400 MW-41 tỉ USD Biển Hồ cho Cam Bốt, để thay thế cho 9 con đập đang trù tính trên dòng chính Mekong. Tủy đó là những đề án với qủy mô phá kỷ lục thế giới rất nhiều lần nên khả năng được tiếp nhận và tài trợ rất mong manh ; tủy nhiên đã có những dấu hiệu chuyển hướng tích cực : Lào đã ký kết hợp đồng tiền thiết kế dự án mặt trời nổi 1200 MW trê hồ Nam Ngum và Cam Bốt đã tuyên bố không xây thủy điện trong 10 năm tới.
Dự án Biển Hồ
Trước tiến bộ công nghệ năng lượng tái tạo và sức ép của giá thành thấp dưới thủy điện, lãnh đạo các nước Mekong đang đứng trước cơ hội thật tốt để từ bỏ thủy điện, chọn chiến lược năng lượng hiện đại hơn, tránh cho nhau những xung khắc quyền lợi vì thủy điện nổ ra lớn hơn trước biến đổi khí hậu, đến mức không thể chấp nhận và không thể giải quyết.
Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa và ao cá của dân tộc đã lâm ngủy nay trở thành vùng đất đói phù sa thừa phèn, thiếu nước sạch, thừa nước bẩn, thiếu nược ngọt thừ nước mặn, sụt lún dần dần. Nhân dịp chính phủ Cam Bốt đã thận trọng không xây thủy điện trên Mekong trong 10 năm, chính phủ Việt Nam cần hành động liên minh với Cam Bốt cứu lấy Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long trước họa sinh tử này. Việt Nam phải thông báo cho Chính phủ Lào là theo Hiệp định Mekong 1995, Việt Nam nhìn nhận Việt Nam không có quyền phủ quyết những dự án thủy điện của Lào nhưng Lào cũng không có quyền đơn phương xây đập khi chưa có thỏa thuận của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nên rút vốn đẫu tư vào xây đập Luang Prabang mặt khác nên đầu tư vào các dự án năng lượng mặt trời của Lào và Campuchia, sẽ giúp họ phát triển kinh tế bền vững và không còn xung khắc hay bất công giữa các dân tộc.
Phạm Phan Long
(Kỹ sư, P.E., Viet Ecology Foundation)
Nguồn : VNTB, 21/03/2020
Chú thích :
[1] http://www.mrcmekong.org/mekong-basin/hydrology/
[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Mekong
[5]https://en.wikipedia.org/wiki/Hydropower_in_the_Mekong_River_Basin
[6]https://www.nature.com/articles/s41598-018/35823-4
[7]https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0013935117308939# !
[8]http://ffw.mrcmekong.org/weekly_report/2020/2020/03/16%20Weekly%20Dry%20Season%20Situation.pdf
[11] https://tuoitre.Việt Nam/mekong-kho-mong-nuoc-tu-trung-quoc-20200221221215482.htm
[13] https://www.facebook.com/huy.nguyen.5439087
[14] http://vietecology.org/Article/Article/2362
[15] http://vietecology.org/Article/Article/21
[16] https://waterinthewest.stanford.edu/groundwater/recharge/
[17] http://vietecology.org/Article/Article/1343
[18] http://vietecology.org/Article/Article/1351
File PDF :
Tác-động-thủy-điên-Mekong-2020-FINAL-Release-mới.pdf
*******************
Một đồng bằng sông đang chết khát
Diễm My, VNTB, 22/03/2020
Nằm ở cuối lưu vực sông Mê Kông, đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam hiện đang bị hạn hán và nhiễm mặn nghiêm trọng nhất trong hơn 100 năm qua.
Trên cánh đồng "bão hạn mặn" tấn công, bà Nguyễn Thị Kim Trang (48 tuổi) gom những gốc lúa, cỏ dại nhiễm mặn cho bò ăn. "Năm nay người dân ở đây chết đói, làm lúa thì lúa nhiễm mặn chết hết, muốn đi làm công nhân trên thành phố cũng không ai dám đi vì sợ dịch bệnh. Để có tiền sinh hoạt hàng ngày, chồng tôi đi phụ hồ, còn tôi ở nhà lo cơm nước và nuôi hai con bò", bà cho biết.
Cho đến nay, sau nhiều tháng vật lộn trong đợt hạn hán kỷ lục, hàng triệu nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã phải chịu cảnh kiệt sức, do thiệt hại đáng kể về mùa màng, hoa quả và nuôi trồng thủy sản.
Lúa chết khô
Vào lúc 4 giờ chiều, mặt trời mùa hè thiêu đốt ánh nắng còn sót lại. Cánh đồng lúa ở thị trấn Long Phú (Long Phú, Sóc Trăng) chỉ còn là những mảnh đất cằn cỗi. Đây là minh họa rõ ràng nhất từ tác động của đợt hạn hán tồi tệ nhất trong hơn 100 năm qua. Xâm nhập mặn, thiếu nước nghiêm trọng, nhiều diện tích bị thiệt hại khiến nông dân mất trắng.
Ông H, một lão nông ở ở khu vực Long Phú đành phải chịu mất trắng số lúa của mình, trên cánh đồng ráo hạn.
Trồng lúa lâu năm, nhưng chưa bao giờ ông lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn như thế này. Năm ngoái, gia đình ông trúng được lúa vụ ba, nhưng trong vụ mùa này, ông hoàn toàn không thu hoạch được gì, do hạn hán và xâm nhập mặn.
Điều khiến cho những người nông dân miền Đồng bằng sông Cửu Long canh cánh nỗi lo là tiền chi cho phân bón, cày thuê,… vẫn treo lơ lửng trên đầu.
Theo thống kê của ngành nông nghiệp Sóc Trăng, do hạn mặn kéo dài, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 1.000 ha lúa ảnh hưởng trực tiếp bởi hạn hán và xâm nhập mặn, nếu kéo dài thì 400 ha lúa, 4.000 ha cây ăn trái và 1.000 ha trồng rau sẽ chịu ảnh hưởng theo. Trong khi đó Cà Mau đã có hơn 18.000 ha lúa bị thiệt hại vì hạn hán, gần 16.000 ha lúa trên đất nuôi tôm, còn lại trà lúa vụ đông xuân, mức độ thiệt hại từ 30 đến hơn 70%.
Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam chiếm 12% tổng diện tích đất, gần 1/5 dân số và được coi là vựa lúa của Việt Nam, đóng góp 56% sản lượng lương thực và 90% xuất khẩu gạo. Nhưng bây giờ, ngôi nhà của gần 20 triệu người, đang bị xâm nhập mặn ở đất nông nghiệp.
Các nhà khoa học cho biết, sự xâm nhập mặn tại khu vực này có thể lên tới 4/1.000, đủ để giết chết tất cả các loại thực vật. Còn theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, thì với kịch bản nước biển dâng 50cm vào năm 2050, ngập nước làm thiệt hại 193,000 ha và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 294,000 ha lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Nước mặn từ lâu đã xâm chiếm đồng bằng, nhưng do hạn hán, không có đủ nước ngọt trong sông đã làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn.
Theo thông tin từ Viện khoa học thủy lợi miền Nam, dung tích Biển Hồ ngày Campuchia 12/3 chỉ còn 1,84 tỷ m3, nên lượng điều tiết từ lưu vực Biển Hồ xuống hạ lưu hiện không đáng kể. Nguồn nước mùa khô năm 2019 – 2020 về vùng Đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn nhiều so với trung bình 10 năm gần đây.
Thiệt hại kinh tế đáng kể
Báo cáo về tình hình xuất khẩu lúa gạo trong năm 2019 của Bộ Công thương, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 6,259 triệu tấn, thu về 2,758 tỷ USD.
Do ảnh hưởng của hạn hán và nhiễm mặn của nước trong năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ giảm đáng kể. Nguồn cung gạo cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu sẽ giảm do những thách thức lớn đối với Đồng bằng sông Cửu Long.
Diễm My
Nguồn : VNTB, 22/03/2020