Tàu Trung Quốc vào gần bờ biển Việt Nam, cách Phan Thiết 185 km (VOA, 24/08/2019)
Tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc ngày thứ Bảy mở rộng hoạt động tới một khu vực gần bờ biển Việt Nam, theo dữ liệu theo dõi tàu biển, sau khi Mỹ và Úc bày tỏ lo ngại về các hành động của Trung Quốc trong vùng biển có tranh chấp.
Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh : China Geological Survey)
Tàu khảo sát này lần đầu tiên vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào đầu tháng trước, nơi nó bắt đầu một cuộc khảo sát địa chấn kéo dài nhiều tuần, gây ra đối đầu căng thẳng giữa các tàu quân sự và tàu hải cảnh từ Việt Nam và Trung Quốc.
Con tàu Trung Quốc tiếp tục tiến hành khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào ngày thứ Bảy và được hộ tống bởi ít nhất bốn tàu ở vị trí cách đảo Phú Quý ở đông nam Việt Nam khoảng 102 km và cách các bãi biển của thành phố Phan Thiết 185 km, Reuters đưa tin, dẫn ra dữ liệu từ Marine Traffic - một website chuyên theo dõi chuyển động của tàu biển.
Dữ liệu cho thấy nhóm tàu Trung Quốc được theo sát bởi ít nhất hai tàu hải quân Việt Nam, theo Reuters.
Hãng tin này cho biết Bộ Ngoại giao Việt Nam không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận về diễn biến này.
Trong một cuộc họp báo hôm thứ Năm về việc tàu Hải Dương Địa Chất 8 quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, người phát ngôn của bộ Lê Thị Thu Hằng gọi đó là "hành vi xâm phạm nghiêm trọng" và cho biết các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam "tiếp tục thực thi vào bảo vệ chủ quyền".
Vùng đặc quyền kinh tế của một nước thường mở rộng lên đến 200 hải lí (370 km) từ bờ biển của nước đó, theo một hiệp ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc. Nước đó có quyền chủ quyền khai thác bất kì tài nguyên thiên nhiên nào trong khu vực đó, theo thỏa thuận này.
Việt Nam và Trung Quốc nhiều năm qua đã vướng vào tranh chấp chủ quyền đối với vùng biển có tiềm năng năng lượng và là một tuyến đường vận tải nhộn nhịp ở Biển Đông.
Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền bằng một "đường chín đoạn" rộng lớn hình chữ U ở Biển Đông, chồng lên một phần lớn thềm lục địa Việt Nam nơi mà Việt Nam đã cấp phép khai thác dầu mỏ.
Hôm thứ Sáu, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Úc Scott Morrison đã bày tỏ lo ngại về các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trước đó trong tuần này, Mỹ nói họ rất lo ngại về sự can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động dầu khí tại vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, và việc điều động các tàu này là "một sự leo thang của Bắc Kinh trong những nỗ lực hăm dọa các nước có tuyên bố chủ quyền ngừng phát triển tài nguyên ở Biển Nam Trung Hoa" (tên quốc tế của Biển Đông).
Đáp lại tuyên bố của Mỹ, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói Washington đang "gieo sự chia rẽ và có động cơ mờ ám".
"Mục đích là để gây hỗn loạn cho tình hình ở Biển Đông và làm tổn hại hòa bình và ổn định khu vực. Trung Quốc kiên quyết phản đối điều này", ông Cảnh nói trong một cuộc họp báo hàng ngày hôm thứ Sáu.
Chiếc tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc hôm nay, 24/08/2019, đã mở rộng hoạt động đến một khu vực gần bờ biển Việt Nam hơn, theo các dữ liệu của trang web Marine Traffic, chuyên theo dõi sự di chuyển của các tàu.
Sơ đồ hoạt động của tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 (màu đỏ) sách nhiễu tàu Việt Nam ở bãi Tư Chính, thời gian từ 16/06-10/07/2019.AMTI(CSIS)
Theo hãng tin Reuters, các dữ liệu này cho thấy là tàu Hải Dương 8 hôm nay tiếp tục khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, với sự hộ tống của ít nhất 4 tàu và hiện đang ở một địa điểm chỉ cách đảo Phú Quý (thuộc tỉnh Bình Thuận) 102 km và chỉ cách bờ biển Phan Thiết 185 km.
Cũng theo các dữ liệu của Marine Traffic, có ít nhất 2 tàu của Việt Nam đang bám sát tàu khảo sát của Trung Quốc.
Bộ Ngoại Giao Việt Nam hiện chưa trả lời khi Reuters đề nghị cho biết phản ứng về hành động mới này của tàu Hải Dương Địa Chất 8.
Theo Công ước Liên Hiệp Quốc, vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia được tính trong phạm vi 200 hải lý (370 km) từ bờ biển của quốc gia này. Như vậy là chiếc Hải Dương Địa Chất 8 đang tiến ngày càng sâu vào trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tàu khảo sát Trung Quốc tiến gần hơn đến bờ biển Việt Nam ngay sau khi hôm qua, tại Hà Nội, hai thủ tướng Việt Nam và Úc vừa bày tỏ quan ngại về các hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông. Phát biểu với các phóng viên hôm qua tại thủ đô Việt Nam, thủ tướng Úc Scott Morrison còn kêu gọi các quốc gia Châu Á đứng dậy bảo vệ "độc lập và chủ quyền" trước những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc Biển Đông.
Trước đó, hôm thứ năm 22/08, phát ngôn bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chỉ trích các hoạt động của Trung Quốc tại các khu vực tranh chấp trên Biển Đông, xem việc Bắc Kinh đưa tàu khảo sát xâm nhập vùng biển Việt Nam là một hành động "leo thang".
Thanh Phương
Hôm 23/8, tại Hà Nội, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Úc Scott Morrison đã thảo luận về tình hình căng thẳng gia tăng trên Biển Đông, theo Reuters.
"Chúng tôi quan ngại sâu sắc về những diễn biến phức tạp gần đây trên biển Đông ; nhất trí cùng hợp tác duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh trong cuộc họp báo với người đồng cấp Úc ở Hà Nội.
Thủ tướng Úc Morrison nói rằng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế nên được duy trì trong khu vực.
"Các nguyên tắc đó là tự do hàng hải, tự do hàng không, đảm bảo các quốc gia có thể theo đuổi cơ hội phát triển hiện có trong vùng biển của họ và quản lý việc kinh doanh theo cách mà luật pháp cho phép", Thủ tướng Australia nói.
Truyền thông Việt Nam hôm 23/8 trích thông cáo của Bộ Ngoại giao nói hai thủ tướng Việt Nam và Úc bày tỏ quan ngại sâu sắc trước các diễn biến trên Biển Đông, bao gồm việc quân sự hóa và bồi đắp các cấu trúc đang tranh chấp cũng như cản trở các dự án dầu khí.
"Hai Thủ tướng cũng bày tỏ quan ngại trước các hành động cản trở các dự án dầu khí được triển khai lâu nay ở Biển Đông", tuyên bố chung viết.
Vẫn tuyên bố chung có đoạn : "Hai nước sẽ mở rộng hợp tác an ninh song phương, bao gồm trong lĩnh vực hàng hải và không gian mạng, và phối hợp chống tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm thông qua tăng cường các hoạt động hợp tác an ninh biên giới và thực thi pháp luật".
Hãng tin ABC trích lời ông Morrison nói : "Úc và Việt Nam là bạn".
Theo Reuters, đây là chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của một Thủ tướng Úc kể từ khi quan hệ hai nước được nâng lên tầm hợp tác chiến lược.
TTXVN trích lời ông Morrison trước chuyến thăm ba ngày đến Việt Nam, nói : "Việt Nam rất quan trọng đối với Australia. Chúng tôi bày tỏ sự cam kết đối với mối quan hệ quan trọng này và mong muốn phát huy hết tiềm năng của mối quan hệ này. Trọng tâm của tôi trong chuyến thăm Việt Nam lần này là tăng cường hợp tác kinh tế, an ninh và hợp tác giữa nhân dân hai nước. Australia và Việt Nam chia sẻ tầm nhìn tương tự nhau đối với khu vực và thế giới. Cả hai nước đều muốn có thương mại mở và tự do trên biển".
Trong diễn biến liên quan, hôm 22/8, Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại sâu sắc về việc Trung Quốc tiếp tục can thiệp vào những hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí lâu nay của Việt Nam trong khu vực mà Việt Nam tuyên bố là Vùng Đặc quyền Kinh tế, theo thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói tình trạng này gây ngờ vực về những cam kết của Trung Quốc, trong đó có Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách Ứng xử của các bên tại Biển Đông, và về giải pháp ôn hòa cho các tranh chấp trên biển.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu rõ việc Trung Quốc tái triển khai tàu thăm dò của chính phủ cùng với các tàu hộ tống vũ trang tới vùng biển ngoài khơi Việt Nam gần Bãi Tư Chính hôm 13/8 là một sự leo thang của Bắc Kinh trong nỗ lực uy hiếp không cho các nước cùng có tuyên bố chủ quyền phát triển các nguồn tài nguyên tại Biển Đông.
Mỹ : Trung Quốc leo thang o ép hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông (VOA, 23/08/2019)
Hoa Kỳ quan ngại sâu sắc về việc Trung Quốc tiếp tục can thiệp vào những hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí lâu nay của Việt Nam trong khu vực mà Việt Nam tuyên bố là Vùng Đặc quyền Kinh tế, theo thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22/8. Bộ nói tnh trạng này gây ngờ vực về những cam kết của Trung Quốc, trong đó có Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách Ứng xử của các bên tại Biển Đông, và về giải pháp ôn hòa cho các tranh chấp trên biển.
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Thông cáo của Bộ nêu rõ việc Trung Quốc tái triển khai tàu thăm dò của chính phủ cùng với các tàu hộ tống vũ trang tới vùng biển ngoài khơi Việt Nam gần Bãi Tư Chính hôm 13/8 là một sự leo thang của Bắc Kinh trong nỗ lực uy hiếp không cho các nước cùng có tuyên bố chủ quyền phát triển các nguồn tài nguyên tại Biển Đông.
Vẫn theo Bộ Ngoại giao Mỹ, trong những tuần gần đây, Trung Quốc thực hiện một loạt các bước hung hăng can thiệp vào hoạt động kinh tế lâu nay của các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nhằm cưỡng ép các nước này bác bỏ cộng tác với các công ty dầu khí nước ngoài mà chỉ làm việc với các công ty quốc doanh Trung Quốc mà thôi.
Trong trường hợp Bãi Tư Chính, thông cáo nhấn mạnh, Trung Quốc đang áp lực Việt Nam về sự hợp tác giữa Hà Nội với một công ty năng lượng Nga và những đối tác quốc tế khác.
Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng hành động của Trung Quốc phá hại hòa bình và an ninh khu vực, gây tổn thất kinh tế lên các quốc gia Đông Nam Á khi ngăn các nước này tiếp cận trữ lượng hydrocarbon chưa khai thác trị giá khoảng 2.500 tỉ đô la, và chứng tỏ rằng Trung Quốc bất chấp quyền của các quốc gia thực thi những hoạt động kinh tế trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của họ theo Công ước về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc đã phê chuẩn vào năm 1996.
Thông cáo nói các công ty Mỹ đứng đầu trên thế giới trong việc thăm dò và khai thác các nguồn hydrocarbon, kể cả ở ngoài khơi và tại Biển Đông. Do đó Hoa Kỳ mạnh mẽ chống lại bất cứ nỗ lực nào của Trung Quốc đe dọa hay cưỡng bách các quốc gia đối tác rút lại sự hợp tác với các công ty không phải của Trung Quốc hay quấy nhiễu những hoạt động hợp tác của họ.
Bộ Ngoại giao cho biết Hoa Kỳ cam kết đẩy mạnh an ninh năng lượng của các đối tác và đồng minh tại vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và đảm bảo việc sản xuất dầu khí cho thị trường toàn cầu không bị gián đoạn.
(Nguồn Bộ Ngoại giao Mỹ)
Cứ mỗi năm ở Biển Đông, mỗi tháng ở Hoàng Sa và mỗi ngày ở bãi Tư Chính trôi qua, cơ hội của "đảng em" Việt Nam để kiện "đảng anh" Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại càng thêm ít ỏi và khó thắng.
Một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm trên biển Đông. (Hình : Getty Images)
Mưu tính nào sau cáo buộc Việt Nam ?
Sau ba lần lên tiếp xâm phạm bãi Tư Chính vào tháng Bảy 2017, tháng Ba 2018 và tháng Bảy 2019, rõ ràng là giới chóp bu Bắc Kinh có mối lo ngại về việc chính quyền Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về "đường lưỡi bò 9 đoạn" và vụ tàu Hải Dương 8, chứ không phải như một số tờ báo của Bắc Kinh luôn cho rằng Trung Quốc không hề sợ Việt Nam hay một quốc gia nào đó kiện cáo.
Vào cuối tháng Bảy 2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam "vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi Tư Chính kể từ tháng Năm", "Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam" và "Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc".
Tuyên bố trên được đưa ra chỉ một ngày sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam là Lê Thị Thu Hằng cho biết Hà Nội đã "trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam", một cử chỉ can đảm mang tính quá hiếm muộn của giới chóp bu Việt Nam về thế buộc phải đối đầu với "thiên triều".
Cách thức tuyên bố trên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là rất tương đồng với chiến thuật lấn dần từng bước vào Biển Đông và biến các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đặc biệt là những vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn mà Việt Nam đang tự khai thác hoặc liên doanh với những đối tác nước ngoài để khai thác, thành vùng "tranh chấp chủ quyền" giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong "đường lưỡi bò 9 đoạn", tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế "thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc" vào năm 2019.
Tuyên bố về "chủ quyền bãi Tư Chính" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn cho thấy một ý định quá đáng sợ của Bắc Kinh mà khiến "đảng em" Việt Nam mất ngủ : Trung Quốc chưa hề có ý định rút tàu khỏi khu vực bãi Tư Chính.
Thậm chí Trung Quốc còn có thể điều động thêm những tàu thăm dò địa chất và kể cả điều động một giàn khoan khồng lồ như cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014, vào khu vực bãi Tư Chính để khoan dầu, như một cách ăn cướp cực kỳ trắng trợn tài sản ngay trong nhà của người khác.
Việt Nam "thế nước đang lên…"
Vào năm 2014, Hải Dương 981 đã chỉ rút khỏi Biển Đông sau hơn 2 tháng ngự trị và đã "làm tình làm tội" giới chóp bu Việt Nam chưa đánh đã sợ đến mức "đái ra quần".
Nhưng đến năm 2019, quy mô chiến dịch gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông còn được đẩy lên một mức cao hơn so với vụ giàn khoan Hải Dương 981, đồng thời với việc tung ra một số lượng lớn từ 35-80 tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự bên cạnh tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, Trung Quốc đang cấp tốc triển khai cấp tốc thiết lập một căn cứ quân sự hải quân lớn tại Campuchia, nằm sát lãnh thổ Việt Nam.
Những thông tin trên, tất nhiên không được cho biết bởi chế độ "chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động", mà từ giáo sư người Úc (Carlyle Alan Thayer) công bố trên trang Twitter của ông.
Trong khi đó, phía Việt Nam chỉ có khoảng một chục tàu. "Thế nước đang lên" của Việt Nam – như bài ca tự sướng của giới tuyên giáo đảng – so với Trung Quốc là hoàn toàn chổng ngược…
Đã có thể khớp nối thông tin về căn cứ hải quân của Trung Quốc ở Campuchia với một phát ngôn công khai gần đây của quan chức bộ trưởng quốc phòng Việt Nam là Ngô Xuân Lịch về "chủ động đánh giá đúng tình hình biên giới Tây Nam". Theo đó, giới quân sự Việt Nam đang phải cấp tốc điều quân đội và khí tài quân sự nhằm đối phó với "mặt trận thứ hai" của Trung Quốc tại vùng biên giới Campuchia-Việt Nam.
Một dự luật về tình trạng tổng động viên cũng đang được Quốc hội Việt Nam gấp rút xem xét. Tiêu chí đầu tiên của hành động này là tình trạng chiến tranh và tình trạng nguy cấp về quốc phòng.
Hàng Không Mẫu Hạm USS Carl Vinson của Hoa Kỳ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng, hồi tháng Ba, 2018. (Hình : Getty Images)
Nhưng vẫn là thói ươn hèn mãn tính ?
Vào năm 2014, vụ giàn khoan Hải Dương 981 rốt cuộc chỉ là cú răn đe của Bắc Kinh đối với Bộ Chính Trị Việt Nam, nhằm mục đích tranh cướp các lô dầu khí ở Biển Đông.
Khi đó, Trung Quốc cũng cho nhiều tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự chạy vòng quanh giàn khoan Hải Dương 981, cùng xịt vòi rồng và đâm va ở mức độ nhẹ với tàu Việt Nam.
Khoảng hơn hai tháng sau, trong lúc giới chóp bu Việt Nam vẫn hoàn toàn bất lực về đối sách với Trung Quốc và cũng chẳng dám có hành động mạnh mẽ nào trước Trung Quốc, Bắc Kinh chợt tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương 981 về nước vì "đã hoàn thành nhiệm vụ".
Nhưng vụ bãi Tư Chính năm 2019 có vẻ không chỉ là dọa dẫm như năm 2014. Cho tới nay, tàu Hải Dương 8 và một số tàu hải cảnh của Trung Quốc vẫn "khiêu vũ" ngay trước mũi Bộ Chính Trị Việt Nam và trước một quân chủng hải quân có đến 6 tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, nhưng giờ chẳng biết bỏ đâu (có ý kiến cho rằng chắc các tàu ngầm này còn phải lo chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn).
Tình trạng vuốt mặt không thèm nể mũi trên đã kéo dài hơn một tháng, nếu không muốn nói là đã hơn hai tháng kể từ khi Trung Quốc điều tàu gây hấn tại mỏ Lan Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với Tập đoàn Dầu khí Rosneft của Nga.
Cũng cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần "hèn với giặc, ác với dân" của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn "rúc mặt" mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc. Vào lần này, kịch bản mà có lẽ được giới chóp bu Việt Nam kỳ vọng nhất là đành chấp nhận một phần hải phận cho tàu Trung Quốc khai triển và thực thi chiến thuật" vờn tàu", chờ cho đến khi "bạn vàng" phải tự động rút tàu, chủ yếu do gánh nặng chi phí.
Nhưng đó chỉ là tính toán chủ quan của những kẻ bất lực, trong khi chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút hết tàu sau 2 tháng, thậm chí sau 3 tháng ngự trị ở khu vực bãi Tư Chính.
Và thậm chí cho tới thời điểm này, Trung Quốc còn tạm thời giành được một lợi thế trên phương diện quan hệ quốc tế : Hội nghị các bộ trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám 2019 đã chỉ đề cập khá chung chung và "quan ngại" về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Trong khi đó, Hoa Kỳ, đối trọng duy nhất của Trung Quốc trên thế giới, cũng là quốc gia đầu tiên và có lẽ duy nhất lên tiếng gián tiếp ủng hộ chính quyền Việt Nam phản đối Trung Quốc can thiệp vào bãi Tư Chính, đã trở nên dè dặt hẳn về những phát ngôn và hành động tiếp theo, sau khi chứng kiến giới chóp bu Việt Nam vẫn như bị vẹo xương sống trước "người đồng chí tốt".
Chưa có gì rõ ràng về triển vọng hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Hải Quân Mỹ, đang tiến hành tuần tiễu ở Biển Đông, sẽ can thiệp trực tiếp vào vụ bãi Tư Chính.
Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao ? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để "thuyền ra biển lớn" và làm rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp ? Liệu Hải Quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn ? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc ?
Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ. Ngay cả lúc bị kẻ cướp xông vào nhà mà còn không dám kiện thì làm sao tránh khỏi thân phận Trần Ích Tắc !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 18/08/2019
Những đám mây đen tiếp tục đè nặng lên chân trời Biển Đông, do những hành động khiêu khích của Trung Quốc tại các địa điểm khai thác dầu khí. Cùng với việc đàn áp người biểu tình Hồng Kông gần đây, nhiều nhà quan sát đã phải thốt lên câu dự báo thời tiết vốn dành cho người đi biển : "Ráng đỏ vào lúc bình minh, cần cảnh giác !"
Ảnh minh họa : Một chiến đấu cơ F/A-18 chuẩn bị cất cánh từ hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan tại Biển Đông, ngày 30/09/2017. Reuters/Bobby Yip/File Photo
Tháng trước, trong hội nghị về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức, một số đại biểu đã gây chú ý khi nhấn mạnh vì sao cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ, cần phải lên tiếng về việc Trung Quốc xâm phạm khu vực khai thác dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Chuyên gia Bonnie Glaser, giám đốc chương trình China Power, tuyên bố : "Nếu không đáp trả đối với các vụ vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), thì điều này chứng tỏ Bắc Kinh có thể vi phạm luật quốc tế mà không hề bị trừng phạt".
Nhà báo độc lập James Borton trên trang Geopoliticalmonitor.com nhận định, Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS, làm ngơ trước phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye cách đây ba năm. Bắc Kinh còn xây lên các đảo nhân tạo với tốc độ điên cuồng, chưa nói đến việc quân sự hóa quần đảo Trường Sa, ngang nhiên ban hành lệnh cấm đánh cá, liên tục hủy hoại sinh thái nơi các rạn san hô. Rõ ràng có một thực tế đau lòng : hồi kết của trò chơi này là Bắc Kinh hoàn toàn kiểm soát Biển Đông.
Trên bề mặt, các nhà hoạch định chính sách Mỹ chứng kiến một trận cuồng phong địa chính trị, giống như một cơn bão tố di chuyển rất nhanh, trải dài trên khắp Biển Đông. Các biện pháp ngoại giao mềm dẻo do Việt Nam và Trung Quốc cùng thực hiện hồi đầu năm, trong đó có việc tuần duyên của đôi bên cùng tuần tra chung trên Vịnh Bắc bộ, hay hai chiến hạm của Việt Nam tham gia một cuộc biểu dương lực lượng trên biển nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập hải quân Trung Quốc, nay đã bị lu mờ trước tham vọng của Bắc Kinh và yêu sách về nguồn lợi dầu khí ở Biển Đông, đi kèm với vũ lực.
Tác giả phàn nàn, trong khi Trung Quốc tiếp tục phản đối các hoạt động hợp pháp của Hải quân Hoa Kỳ nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông, thì Nhà Trắng lại có quan điểm ôn hòa trước các hành động quấy nhiễu của Bắc Kinh.
Bất kể có bao nhiêu ngư dân Việt Nam hay Philippines đã thiệt mạng trên biển khơi, do dân quân biển Trung Quốc tấn công vào những chiếc tàu đánh cá truyền thống của họ, Washington chừng như vẫn không quan tâm, một khi không đụng đến lợi ích quốc gia của Mỹ.
Thế nên đương nhiên là dự luật trừng phạt về Biển Đông và Biển Hoa Đông do hai thượng nghị sĩ Marco Rubio (Cộng hòa) và Ben Cardin (Dân chủ) chủ trì, đã không được thông qua ở Ủy ban Đối ngoại và hiện nay vẫn còn nằm tại Thượng Viện. Dự luật lưỡng đảng này nhằm trừng phạt chế độ Bắc Kinh do những hành động phi pháp của họ, khi yêu sách chủ quyền ở vùng biển xa tắp so với đất liền của Trung Quốc.
Chắc chắn là Trung Quốc cần phải là một bên liên quan có trách nhiệm trong khu vực tranh chấp, nhưng Mỹ cũng thế. Một chiếc tàu thăm dò địa chất của Trung Quốc xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây ra cuộc đối đầu kéo dài cả tháng qua, đã rời đi vào ngày 7/8, nhưng nay lại tái xuất hiện trong vùng biển Việt Nam.
Lời đáp của Mỹ trên Biển Đông
Nhà báo James Borton đặt vấn đề, Biển Đông không phải là nhân tố trung tâm mang tính chiến lược trong tổng thể quan hệ Mỹ-Trung, mà xung đột nằm ở chỗ mất cân bằng thương mại và đánh cắp sở hữu trí tuệ. Nhưng còn liên minh quốc phòng với Philippines và việc hỗ trợ cho yêu sách chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa thì sao ?
Kori Schake, phó giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, viết trên tạp chí Foreign Affairs : "Hoa Kỳ né tránh thách thức bằng cách đặt lại vấn đề quan hệ liên minh".
Về sự kiện tại bãi Tư Chính, cho dù không đứng về phía một quốc gia ven biển nào, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn nhấn mạnh rằng : "Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào việc khai thác dầu khí trên biển đe dọa an ninh năng lượng của khu vực, làm phương hại đến thị trường năng lượng của một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở".
Việt Nam, một đối tác của Mỹ, cần nhắc nhở Washington là áp lực của Bắc Kinh đã khiến Hà Nội phải ngưng một dự án khí đốt hợp tác với công ty Repsol của Tây Ban Nha, ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hiện nay việc Trung Quốc hà hiếp Việt Nam và các nước đòi hỏi chủ quyền khác vẫn chưa thấy có dấu hiệu giảm bớt.
Khi Việt Nam đảm nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2020, có lẽ các nhà hoạch định chính sách Mỹ cần nghĩ đến việc thành lập một đội ngũ về chính sách khai thác đại dương cùng với ASEAN và Trung Quốc, để lập ra một khu vực chung (JDA) tại quần đảo Trường Sa nhằm khai thác tài nguyên.
Trong khi Hải quân Mỹ đưa chiến hạm tiếp tục các chuyến tuần tra vì tự do hàng hải (FONOP), chính quyền Trump vẫn duy trì sự trung lập trong tất cả các tranh chấp lãnh thổ. Theo tác giả bài viết, Washington cần đóng vai trò giúp ổn định Biển Đông, do Trung Quốc luôn tìm cách áp đặt độc quyền kiểm soát tại khu vực và xa hơn nữa. Một số thành viên của Ủy ban Đối ngoại nhìn nhận là nếu không hành động gì, Trung Quốc sẽ hoàn tất việc thống trị về quân sự và chính trị trong khu vực.
Ông Anders Corr, thuộc Corr Analytics tin rằng tình hình hiện nay trên Biển Đông là cơ hội tuyệt vời cho Washington để bảo vệ nguyên tắc liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế, kéo Việt Nam ra xa khỏi Trung Quốc và xích lại gần Hoa Kỳ hơn, từ chối cho Trung Quốc tiếp cận nguồn dầu khí.
Các mỏ dầu khí rất quan trọng đối với Việt Nam vì cung cấp đến 10% nhu cầu năng lượng, và Hà Nội nhận ra rằng nếu Rosneft rút lui, thì Exxon cũng có thể hành động tương tự đối với dự án Cá Voi Xanh.
Theo nhà sinh thái Garrett Hardin, khi các quốc gia khai thác nguồn lợi chung một cách thái quá khiến cung vượt cầu, làm cho một số hay tất cả những nước khác không còn có thể thụ hưởng nguồn lợi thiên nhiên này, thì đó sẽ là bi kịch. Kịch bản này có thể sắp diễn ra ở Bắc Cực, và đó là lý do vì sao Hoa Kỳ được thúc giục phê chuẩn UNCLOS càng sớm càng tốt, dù muộn còn hơn không.
Trước việc vùng Bắc Cực ngày càng được mở rộng cho phát triển kinh tế và quân sự, theo ông Joe Courtney, chủ tịch tiểu ban Hải lực và Lực lượng can thiệp trực, thuộc Ủy ban Quân vụ Hạ Viện, "Hoa Kỳ không còn nhiều thì giờ để mất, nếu muốn đề cập đến các thảo luận trong tương lai một cách danh chính ngôn thuận, trên cơ sở đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển".
Trong lúc Nhà Trắng hiện nay còn vô số vấn đề phải giải quyết, đây là cơ hội để đào sâu mối quan hệ Mỹ-Trung. Thời gian qua chính quyền Trump có những tuyên bố rất cứng rắn, nhưng hành động thì lại không tương xứng. Các chuyên gia về chính trị chỉ trích Washington, cho rằng không nên loan báo các chính sách có ảnh hưởng đến uy tín, mà lại không sẵn sàng đảm bảo.
Tác giả James Borton kết luận, động thái khởi đầu tốt nhất là Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn UNCLOS, và thông qua dự luật trừng phạt về Biển Đông.
Thụy My
Nguồn : RFI, 16/08/2019
Một bài báo trên tạp chí Forbes hôm 7/8 cho rằng Việt Nam có một chiến lược "thông minh" để ngăn Trung Quốc chiếm trọn Biển Đông, khi hợp tác với Nga khai thác dầu khí trong Biển Đông, bởi vì Nga là một cường quốc mà Bắc Kinh không thể làm phật lòng tại thời điểm này. Nhưng liệu Việt Nam có thể trông cậy vào Nga để kiềm chế tham vọng bành trướng của Trung Quốc ?
Một nhà phân tích các vấn đề Việt Nam đồng ý rằng Hà Nội đã ‘đi đúng nước cờ’ khi chọn Nga, một cường quốc ‘nặng ký hơn’ làm đối tác khai thác dầu khí trong Biển Đông, nhưng ông cảnh giác Việt Nam phải hết sức thận trọng. Một nhà quan sát khác nói nếu đụng độ quân sự diễn ra ở bãi Tư Chính hay nơi nào khác trên Biển Đông thì không có gì bảo đảm là Nga, hoặc Mỹ, sẽ can thiệp để giúp Việt Nam và như vậy sẽ làm phật lòng Trung Quốc, nếu Việt Nam không có thái độ dứt khoát.
Hoài Hương phỏng vấn Giáo sư Tạ Văn Tài từng giảng dạy ở đại học Harvard, Hoa Kỳ và Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, từng dạy học ở đại học Paris 7.
Theo bài báo trên tạp chí Forbes thì cho tới nay, Việt Nam đã tỏ ra can đảm khi cho triển khai các lực lượng của mình ra đối đầu với các tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Trước đó Hà Nội đã hối thúc để có được một thỏa thuận nhằm bất hợp hóa một số hoạt động của Trung Quốc trong Biển Đông kể cả xây đảo nhân tạo, phong tỏa sự đi lại của tàu bè các nước, triển khai vũ khí, phi đạn vv.., Việt Nam cũng vận động để đưa ra một bộ Quy tắc Ứng xử trên biển.
Hà Nội còn thách thức Trung Quốc bằng cách dò tìm dẩu khí trên Biển Đông trong khu vực gọi là "đường 9 đoạn" – dân thường gọi là đường lưỡi bò- mà Trung Quốc vẽ ra để giành chủ quyền các vùng biển có trữ lượng tài nguyên phong phú trong khu vực.
Bài báo viết rằng trong quá khứ, Việt Nam đã chọn những đối tác được cho là không mấy có trọng lượng, như Tập đoàn dầu khí quốc gia của Ấn Độ (ONGC), và tập đoàn khai thác dầu khí Repsol của Tây Ban Nha. Cả hai tập đoàn này cuối cùng đã phải bỏ dự án khai thác dầu khí liên doanh với Việt Nam vì áp lực từ Bắc Kinh.
Tạp chí Forbes dẫn một tài liệu của nhà nghiên cứu Bennett Murray đăng trên tạp chí Foreign Policy, nhận định :
"Lần này, một đối tác đáng gờm hơn đã vào cuộc : đó là tập đoàn Rosneft mà cổ đông chính là chính phủ Nga".
Giáo sư Tạ Văn Tài, từng giảng dạy tại Đại học Harvard, nói ông đồng ý với nhà nghiên cứu rằng Việt Nam nên chọn những đối tác nặng ký hơn, có khả năng bảo vệ các quyền lợi của mình.
"Tôi thấy câu nói của ông (Murray) trong tạp chí Foreign Policy là đúng bởi vì Nga là một cường quốc đang có quyền lợi tại bãi Tư Chính, thì chính phủ Nga đời nào lại rút lui ? Thế nào Nga cũng phải bảo vệ quyền lợi dầu khí của họ ở Tư Chính, thế nào cũng nói những câu có lợi cho Việt Nam. Sau khi tập đoàn Repsol của Tây Ban Nha phải rút lui vào năm 2017, 2018, tôi đã khuyên Việt Nam tại sao không giao du với những cường quốc có lực lượng hải quân bảo vệ được các giàn khoan của họ ? Tây Ban Nha làm sao bảo vệ được ? Thì phải chơi với những cường quốc ‘ngáo ộp’, tôi đã dùng chữ đó !"
Giáo sư Tạ Văn Tài nói tuy vậy Việt Nam phải cẩn thận bởi vì Nga cũng bang giao hữu nghị với Trung Quốc, và trong các điều kiện không bán được dầu sang các nước Tây Âu vì các nước này trừng phạt Nga sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraina nên phải bán dầu cho Trung Quốc, nước có nhu cần năng lượng cao.
Giáo sư Tạ Văn Tài :
"Muốn bán dầu cho Tàu cho nên Nga có thể có thái độ ôn hòa hơn tại vùng Tư Chính và ở Biển Đông. Phản đối ông Tàu đi quanh trên Biển Đông ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì Nga sẽ không nói gì mấy đâu. Gần đây Nga cũng chẳng tuyên bố gì. Chỉ khi nào Tàu bắt đầu đục, khoen một điểm nào đó trong thềm lục địa Việt Nam gần bãi Tư Chính thì Việt Nam nên phản đối quyết liệt, lúc đó Nga vì quyền lợi, mới có thể nói mạnh hơn".
Theo Giáo sư Tạ Văn Tài thì Nga có thể tuyên bố Trung Quốc có quyền qua lại trên Biển Đông, ngay cả trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bởi vì đó là quyền tự do hàng hải được công nhận cho tất cả các nước, nhưng Nga sẽ lên tiếng mạnh mẽ hơn nếu Trung Quốc bắt đầu ‘đục khoét xuống thềm lục địa Việt Nam’, nơi mà Việt Nam và Nga đang hợp tác khai thác dầu khí.
Giáo sư Tạ Văn Tài nói Việt Nam không nên bỏ qua giải pháp kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế bởi vì theo lời ông, các cường quốc sẽ không muốn xen vào chuyện của nước khác, nếu chính nước đó không lên tiếng, hoặc không có hành động nào để tự cứu lấy mình.
Ông nói : "Khi Việt Nam lên tiếng phản đối, cầu cứu các cường quốc, và nếu an ninh quốc tế bị đe dọa, thì cầu cứu Hội đồng Bảo an, thì các cường quốc mới lên tiếng mạnh mẽ được".
Tuy nhiên nếu chọn giải pháp kiện Trung Quốc, Việt Nam "phải kiện sao cho đúng cách", Giáo sư Tạ Văn Tài :
"Phải kiện dúng lúc khi họ bắt đầu ngăn cản hoạt động khai thác của liên doanh của Việt Nam với Nga tại khu Tư Chính hay là khi họ bắt đầu khoan trong thềm lục địa Việt Nam thì phải nộp đơn kiện liền. Phải chuẩn bị hồ sơ ngay bây giờ".
Bài báo trên tạp chí Forbes nói sự hiện diện của Nga tại Biển Đông có thể giúp Việt Nam xoay chuyển tình thế, dựa trên lập luận là Bắc Kinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu đối đầu với hải quân Nga, trong khi nước này sẵn sàng bảo vệ các quyền lợi của Moscow trong khu vực. Và như vậy, Trung Quốc buộc lòng phải kiềm hãm bớt các cao vọng trên Biển Đông để có thể duy trì hòa bình khu vực.
Từ Paris, Tiến sĩ Nguyễn văn Huy, từng giảng dạy tại Đại học Paris 7, nhận định về các lợi ích của Nga ở Châu Á :
"Đây là một khu vực chiến lược mà Nga không thể vắng mặt. Việt Nam chỉ là một lý cớ để sự hiện diện của Nga cụ thể hơn qua hình thức là liên doanh, giúp Việt Nam khai thác dầu hỏa ở khu vực Bãi Tư Chính hoặc quanh các lô dầu khí thuộc chủ quyền của Việt Nam".
Theo Tiến sĩ Huy thì Trung Quốc sẽ tránh, không đụng độ với Nga, nhưng ngược lại, nếu xảy ra đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc thì Nga, theo ông, sẽ chỉ đóng vai trò trung gian :
"Nếu xảy ra đụng độ quân sự thật sự thì Nga sẽ không giúp gì Việt Nam đâu. Nga chỉ khuyên can và làm sao để hai bên bớt căng thẳng. Thành ra bây giờ tranh chấp ở bãi Tư Chính chỉ là vấn đề của người Việt Nam, nếu người Việt Nam quyết tâm thì Trung Quốc sẽ dừng lại".
Giáo sư Nguyễn Văn Huy nói muốn các cường quốc can thiệp, dù là Nga hay Mỹ, Việt Nam phải có lập trường rõ ràng hơn đối với Trung Quốc.
"Nếu Việt Nam cứ đi dây, hàng hai hàng ba, thì người ta không biết thái độ của Việt Nam thế nào, nhất là Nga với Mỹ hiện nay cần Việt Nam phải có một thái độ dứt khoát. Tôi nghĩ cái thế cò cưa trong vụ tranh chấp ở bãi Tư Chính sẽ còn kéo dài. Sự can thiệp của Nga hoặc Mỹ vào Biển Đông để giúp Việt Nam chỉ là một ảo tưởng của những người ngoài đảng cộng sản mà thôi. Không một nước nào có thể giúp Việt Nam, nếu Việt Nam không có một thái độ rõ ràng".
Trung Quốc lại sẽ tập trận tại Biển Đông (RFA, 14/08/2019)
Cục Hải sự Trung Quốc vào ngày 12 tháng 8 ra thông báo việc quân đội Hoa Lục tiến hành hoạt động ‘huấn luyện quân sự’ tại khu vực phía tây bắc quần đảo Hoàng Sa. Cụ thể thời gian bắt đầu từ 0 giờ ngày 18 tháng 8 cho đến 24 giờ ngày 20 tháng 8, theo giờ Bắc Kinh.
Ảnh minh họa : Biểu tình ở Manila ngày 25/2/2016 phản đối Trung Quốc bố trí tên lửa tại đảo Phú Lâm - AFP
Cơ quan này cảnh báo tàu bè trong thời gian diễn ra huấn luyện quân sự như thế không được đi vào khu vực diễn tập.
Vừa qua, trong hai ngày 6 và 7 tháng 8, Trung Quốc cũng tiến hành hoạt động tương tự tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng, sau đó ra thông cáo với nội dung cho rằng việc Trung Quốc tiến hành các cuộc huấn luyện quân sự ở Hoàng Sa thuộc Việt Nam là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Bà Lê Thị Thu Hằng cũng cho biết vào ngày 7 tháng 8, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp và trao công hàm phản đối sự vi phạm đó của Trung Quốc.
Cũng tin liên quan, vào ngày 9 tháng 8, Cục Hải Sự Trung Quốc cũng có thông báo hoạt động ‘diễn tập bắn đạn thật’ mỗi ngày theo khung giờ nhất định từ 12 đến 14 tháng 8 tại khu vực gần bờ phía đông đảo Hải Nam.
Tin Trung Quốc tiếp tục các hoạt động quân sự tại Biển Đông được đưa ra vào khi Bắc Kinh cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 vào khu vực Bãi Tư Chính nằm trong Vùng đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa của Việt Nam.
Việt Nam lúc đầu không thông tin rõ ràng về vấn đề này, mãi nhiều tuần lễ sau Bộ Ngoại giao Việt Nam mới lên tiếng và cuối cùng phản đối đích danh Trung Quốc về sự xâm phạm này được nêu ra từ phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
******************
Tổng thống Philippines bị coi là "bán rẻ" đất nước cho Bắc Kinh (RFI, 13/08/2019)
Trả lời phỏng vấn của hãng truyền thông Mỹ Bloomberg vào hôm nay 13/08/2019, phó tổng thống Philippines cho biết rằng công dân nước bà đang lo lắng trước việc tổng thống Duterte đã "bán đổ bán tháo" đất nước cho Bắc Kinh và kêu gọi ông có lập trường mạnh mẽ hơn để bảo vệ chủ quyền của đất nước ở vùng Biển Đông.
Phó tổng thống Philippines Leni Robredo. Ảnh chụp ngày 05/12/2016.@Reuters>
Trong cuộc phỏng vấn với kênh Bloomberg TV ở Manila, phó tổng thống Leni Robredo cho rằng tổng thống Duterte đã không biết tận dụng lợi thế của một phán quyết quốc tế khẳng định các quyền kinh tế của Philippines trong vùng biển mà Trung Quốc đòi chủ quyền.
Phó tổng thống Philippines giải thích :
"Tôi hiểu vì sao chính quyền mới của chúng tôi lại thân thiện hơn với Trung Quốc, nhưng tôi cho rằng cần có một đường lối rõ ràng trong việc bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước chúng tôi… Tổng thống (Duterte) đã đưa ra rất nhiều tuyên bố khiến mọi người có cảm giác là Philippines đang chấp nhận mọi đòi hỏi của Trung Quốc".
Bà Robredo khẳng định là công luận Philippines đang lo sợ là "một ngày nào đó mở mắt thức dậy thì thấy nhiều vùng lãnh thổ của mình không còn là của mình nữa".
Luật lệ tại Philippines quy định tổng thống và phó tổng thống được bầu riêng rẽ, vì vậy, bà Robredo hiện đang ở trong một tư thế bất bình thường : là lãnh đạo đối lập, nhưng lại làm phó tổng thống. Chính vì là chính khách đối lập nên bà liên tục bị tổng thống Duterte tấn công. Từ khi lên cầm quyền vào năm 2016, ông Duterte đã tìm cách bỏ tù hoặc loại trừ những người chỉ trích ông ra khỏi guồng máy chính quyền.
Trong bối cảnh đó, Robredo cho biết bà sẵn sàng ra tranh cử tổng thống trong nhiệm kỳ tới đây, nhưng chưa quyết định xem là có nên trở thành ứng cử viên chính của đảng Tự Do đối lập hay không. Ba năm nữa cử tri Philippines sẽ bầu người kế nhiệm ông Duterte.
Bà Robredo đã đắc cử phó tổng thống nhờ một chương trình tranh cử chủ trương thúc đẩy việc chống đói nghèo, hứa hẹn sẽ giúp đỡ những người sống bên lề xã hội. Tuy nhiên, trong những cuộc thăm dò gần đây, chỉ số được lòng dân của bà dưới mức 50%, trong lúc tỷ lệ tín nhiệm của ông Duterte mới đây đã tăng cao lên trên 68%.
Mai Vân
********************
Philippines cấm tất cả những tàu thăm dò ngoại quốc vào vùng biển nước này (RFA, 13/08/2019)
Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin ban hành lệnh cấm những tàu thăm dò nước ngoài vào vùng biển Philippines.
Ảnh minh họa : Ngoại trưởng Philippines tại cuộc họp ở Manila ngày 1/3/2019 - AFP
Mạng báo Philstar loan tin ngày 13 tháng 8 dẫn ý kiến trên Twitter của ông Teodora Locsin rằng bộ trưởng ngoại giao Philippines cấm những tàu khảo sát biển, bổ sung thêm Trung Quốc vào lệnh giới hạn đối với Pháp và Nhật Bản.
Theo người đứng đầu ngành ngoại giao Philippines, thì nếu cấp ngoại lệ cho một quốc gia sẽ ngay lập tức khiến cho lệnh cấm bị bãi bỏ hoàn toàn.
Ý kiến của bộ trưởng ngoại giao Philippines được đưa ra sau khi có tin phát hiện hai tàu thăm dò của Trung Quốc hoạt động trong vùng Đặc Quyền Kinh tế của Philippines vào tuần qua. Đó là tàu thăm dò hải dương Zhanjian và Dong Fang Hong.
Mạng báo Inquirer vào ngày 13 tháng 8 cũng loan tin Phủ tổng thống Philippines ủng hộ biện pháp của Bộ Ngoại giao đưa Trung Quốc vào danh sách những quốc gia mà tàu thăm dò không được phép hoạt động tại vùng biển của Philippines.
Vụ bãi Tư Chính : Chưa kiện thì chưa tin
Phạm Phú Khải, VOA, 14/08/2019
Sự kiện Bãi Tư Chính trong những tuần qua cho thấy ba điều quan yếu.
Khoảng 10 nhà hoạt động biểu tình về vụ Bãi Tư Chính ở phía trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, 6/8/2019.
Một, Bắc Kinh mạnh mẽ chứng tỏ uy thế và toàn bộ chủ quyền của họ trên Biển Đông, bất chấp sự phản đối của Hà Nội, hay của Washington, hay ngay cả phán quyết trước đây của Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration- PCA) có lợi cho Phi Luật Tân năm 2016.
Hai, Trung Quốc chủ động dùng cơ hội này để lên án Việt Nam vi phạm chủ quyền của họ, chứ không phải họ là kẻ xâm phạm. Tức không còn là tranh chấp mà đổi sang thành bảo vệ chủ quyền. Nếu họ tiếp tục sử dụng chiêu bài này và lập đi lập lại từ ngày này qua tháng nọ thì một ngày nào đó rất có thể họ thành công mưu kế tằm ăn dâu này.
Ba, Hà Nội tuy phản ứng mạnh mẽ, có lẽ là mạnh mẽ nhất từ trước đến nay, qua phát ngôn nhân hay qua các diễn đàn quốc tế, tòa đại sứ tại Canberra hay Washington v.v… nhưng vẫn chưa đủ dứt khoát. Hà Nội vẫn chưa dám đi đến quyết định kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Thường trực, hay đi xa hơn nữa, nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ thành đồng minh chiến lược mà hiện tại chỉ dừng lại ở mức quan hệ đối tác toàn diện.
Hà Nội hiện đang đứng ở thế khó xử. Thế đu dây của họ, tuy phần nào hiệu quả từ trước đến nay, giờ đây rõ ràng cần xét lại, nhất là trong bối cảnh chính trị quyền lực leo thang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chỉ là bề mặt và chiến thuật, kiềm chế sự trổi dậy của Trung Quốc hiện nay và sắp tới để họ không trở thành bá quyền khu vực, thách thức trật tự thế giới, gây quan ngại về an ninh cho khu vực, mới là chiến lược lâu dài. Đảng Cộng hòa hay Dân chủ đều nhất quán tiến hành chiến lược hành động như thế. Hà Nội hiển nhiên thừa hiểu điều này. Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương 8 và 80 chiếc tàu khác để tiến hành các hoạt động khảo sát trong khu vực, vừa dò xét thái độ của Hà Nội, vừa tạo áp lực để Hà Nội chọn phe, thay vì tiếp tục đu dây. Washington có lẽ cũng không muốn Hà Nội tiếp tục đu dây như xưa nay nữa.
Tóm lại, chính trị quyền lực trong vùng và thế giới bắt buộc Hà Nội phải có quyết định dứt khoát. Thời gian không đứng về phía họ.
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam biết rõ họ không thể trông đợi vào tổ chức ASEAN để lên tiếng hay bảo vệ quyền lợi và chủ quyền của mình trên Biển Đông. Về mặt pháp lý thì chỉ có quyết định của PCA mới giúp Hà Nội. Còn về mặt thực tiễn thì chỉ có Washington, và sức mạnh của người dân, mới giúp được.
Địa chính trị tại Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương không chỉ ảnh hưởng riêng đến Hà Nội, Bắc Kinh và Washington mà còn bao nhiêu quốc gia trong vùng cũng như thế giới. Úc cũng đang đứng ở thế khó xử, chẳng đặng đừng này. Trung Quốc là nước giao thương lớn nhất của Úc, chiếm gần một phần ba xuất khẩu và nhập khẩu tại đây. Nghĩa là nền kinh tế của Úc phụ thuộc rất nặng nề vào mối giao thương này. Nhưng về mặt an ninh thì Úc luôn là đồng minh của Mỹ, nhất là từ sau Thế Chiến II, đặc biệt khi Anh không còn khả năng đỡ đầu cho Úc và chính sách ngoại giao của Úc không còn phụ thuộc vào Anh nữa. Nhưng cân bằng giữa hai quan hệ này không hề dễ đối với Canberra.
Phần lớn các chiến lược gia của Úc hiểu rằng an ninh và chủ quyền quốc gia luôn là chiến lược ưu tiên, đứng trên thương mại và kinh tế. Cuộc viếng thăm của Ngoại trưởng Mike Pompeo và Bộ trưởng quốc phòng Mark Esper tại Úc vào đầu tuần này, trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông và thương chiến leo thang, đã gửi tín hiệu đến Bắc Kinh là phải cẩn thận trong hành động. Ông Esper cho biết ý định của Washington là thiết lập các hệ thống hỏa tiễn có tầm 500km đến 5.500 km trên đất liền ở khắp vùng, và thẳng thừng cảnh báo "hành vi hung hăng một cách lập đi lập lại đáng quan ngại", và "hành vi gây bất ổn định" của Bắc Kinh. Vào thứ Ba 6 tháng 8 vừa qua, Hoa Kỳ đã gửi chiến hạm USS Ronald Reagan qua vùng biển này để bảo đảm "hòa bình qua sức mạnh".
Trong bối cảnh chính trị quyền lực leo thang như thế, Hà Nội khó thể nào mà không chọn, nhất là khi Bắc Kinh đã tăng cường áp lực tại Bãi Tư Chính. Chọn Bắc Kinh thì có thể Hà Nội giữ được ghế và quyền, nhưng sẽ mất mát quyền lợi quốc gia và chưa chắc sẽ được lòng dân. Chọn Washington thì Hà Nội vẫn có thể tiếp tục giữ ghế giữ quyền, và bảo đảm quyền lợi quốc gia, bởi vì Washington sẽ không đòi hỏi cải thiện nhân quyền hay thay đổi thể chế vào lúc này, và cũng có thể được lòng dân ; nhưng nguy cơ leo thang tại Biển Đông cũng rất cao. Thật ra nguy cơ đó sẽ luôn còn đó bởi vì, như đã trình bày trên, Bắc Kinh muốn khẳng định chủ quyền gần như toàn bộ của họ tại Biển Đông qua động thái của họ tại Bãi Tư Chính và bao nhiêu đảo lớn nhỏ khác trong vùng.
Đứng trước sự kiện này, người dân Việt Nam quan tâm đến vận nước nên làm gì ?
Theo tôi, nên áp dụng tối đa các chiến thuật đấu tranh bất tuân dân sự (civil disobedience). Nghĩa là không làm bất cứ điều gì mà Đảng cộng sản Việt Nam muốn người dân làm, và làm những gì đảng không muốn người dân làm.
Chiến lược là phải đặt trách nhiệm về phía đảng, phía lãnh đạo, đặt vấn đề với mọi lời nói hay không nói, mọi hành động hay không hành động, của họ.
Nếu đã biểu tình thì tập trung vào việc kêu gọi Hà Nội phải có thái độ mạnh mẽ và dứt khoát với Bắc Kinh, tập trung khẩu hiệu kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa PCA, chẳng hạn.
Còn nếu tiếp tục làm theo những lời kêu gọi của Đảng cộng sản Việt Nam thì chẳng khác gì giúp cho họ có thêm chính nghĩa và sức mạnh.
Bất tuân dân sự đối với chế độ này là chiến lược cần thiết cho cuộc đấu tranh hiện nay.
Bắc Kinh có thể tạo áp lực tại Bãi Tư Chính, nhưng họ sẽ không xâm chiếm Việt Nam trên đất liền, ít nhất là trong một hai thập niên tới. Chủ trương của Bắc Kinh là ủng hộ và ảnh hưởng lên các chế độ mà quan điểm chính trị có lợi cho họ, phục vụ cho các mục tiêu chiến lược lâu dài để trở thành bá chủ thiên hạ trong ba thập niên tới.
Do đó người Việt quan tâm không nên để cái sợ mất nước vào tay Trung Quốc chiếm hết đầu óc của mình, mà nên tìm cách làm sao cho đại đa số người dân thấy rằng Đảng cộng sản Việt Nam không còn khả năng lãnh đạo, không còn chính nghĩa, và không còn được sự hậu thuẫn của người dân nữa. Nghĩa là họ hoàn toàn bất tài, bất đức và bất lực.
Chỉ khi nào người dân Việt Nam có tiếng nói, trí thức tinh hoa Việt Nam có chỗ đứng và có phần quyết định vào vận mệnh đất nước, và quyền lực cũng như quyền lợi thuộc về toàn dân tộc Việt Nam, thì đất nước này mới thực sự có đủ sức mạnh để chống lại nạn ngoại xâm và để xây dựng lại nền tảng căn bản của quốc gia mà từ đó vươn lên.
Những người hiểu biết không nên để Đảng cộng sản Việt Nam lợi dụng cơ hội này để tiếp tục tuyên truyền hay kích động lòng yêu nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã phản bội bao nhiêu lần những lời hứa hẹn, nào là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, công bằng, bình đẳng v.v…
Đủ rồi, đừng nên để họ lừa phỉnh nữa !
Phạm Khú Khải
Úc Châu, 08/08/2019
*******************
Tàu Hải Dương 8 và bài học từ dàn khoan HY-981
Lê Thu Hương, VNTB, 14/08/2019
Bế tắc hiện tại chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục gây áp lực và tiến trình COC không tạo ra sự khác biệt nào trong các kế hoạch làm chủ Biển Đông của Bắc Kinh cả. Đây có thể là một cuộc khủng hoảng với riêng Việt Nam, nhưng cũng có thể là cơ hội cho cộng đồng quốc tế - ngoài Mỹ ra - phản ứng thích đáng với các vi phạm UNCLOS và xâm nhập thềm lục địa của Trung Quốc.
Biểu tình chống Trung Quốc năm 2014
Thách thức
Việc Trung quốc xâm nhập vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hoàn toàn không lạ. Vụ việc nghiêm trọng nhất xảy ra gần đây vào năm 2014, khi Trung Quốc cho kéo giàn khoan dầu HY-981 vào cùng EEZ của Việt Nam và đã gây ra cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước. Tuy nhiên, việc công khai cho tàu Hải Dương 8 khảo sát khu vực đáy biển phía đông bắc của Bãi Tư Chính ngoài khơi Việt Nam lại đặt ra những thách thức nghiêm trọng hơn ở nhiều mức độ.
Thách thức pháp lý : Trung Quốc kiên trì theo đuổi việc kiểm soát hành chính trong phạm vi đường lưỡi bò dù có mâu thuẫn với luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc cho tàu khảo sát ở vùng biển này lần đầu tiên sau khi tòa Trọng tài La Haye ra phán quyết năm 2016 thể hiện sự chống đối công khai của họ đối với tính hợp pháp của chủ quyền thềm lục địa theo UNCLOS và họ đang tạo ra tranh chấp ở vùng biển trước giờ chưa bao giờ có tranh chấp.
Thách thức ngoại giao : Bắc Kinh đang thử thách không chỉ Việt Nam mà cả Mỹ và cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đang công khai xúc phạm việc theo đuổi giải quyết tranh chấp ôn hòa thông qua đàm phán theo các quy tắc ứng xử (COC) của các quốc gia ASEAN. Trung Quốc đã chứng tỏ rằng tiến trình đàm phán chỉ là dự thảo trên giấy và rằng bất kỳ COC nào cũng chẳng có mấy ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp hay hành vi của Trung Quốc.
Thách thức kinh tế : Trung Quốc liên tục tạo sức ép lên các quốc gia khác là nhằm buộc các quốc gia có tranh chấp này phải tham gia kế hoạch thăm dò tài nguyên thiên nhiên với Trung Quốc ngay cả ở những vùng không có tranh chấp.
Tại thời điểm này Hà Nội bận rộn chuẩn bị nhận chức Chủ tịch ASEAN, tham gia Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021, thêm vào đó là đại hội đảng 13 sắp tới. Và Bắc Kinh đang gây sức ép tâm lý cho Hà Nội ngay trước khi nhận chức chủ tịch ASEAN.
Bài học từ HYSY-981
Chiến thuật mà Việt Nam áp dụng vào năm 2014 để đối phó với HY-981 (Hai Yang Shi YouYou - 981) sẽ không có hiệu quả tương tự cho tình hình hiện nay khi Bắc Kinh hiện gia tăng áp lực ở Biển Đông không chỉ với Việt Nam mà cả với Malaysia và Philippines. Trung Quốc theo đuổi các hoạt động này trong khi biết rõ cái giá uy tín phải trả.
Nỗ lực ngoại giao : bất kỳ nỗ lực ngoại giao megaphone (nỗ lực ngoại giao thông qua họp báo, công hàm...) trong lần này sẽ phải được phối hợp nhiều hơn và phải có cả Hoa Kỳ khi họ tham gia ủng hộ trật tự quốc tế dựa vào luật pháp. Nhưng chỉ có ngoại giao như vậy thì không có khả năng đưa đến một giải pháp bền vững. Do đó, Việt Nam đã tránh theo đuổi các mối quan hệ quân sự chặt chẽ với các cường quốc hoặc các biện pháp pháp lý khác đối với Trung Quốc vì họ sẽ trở thành đối kháng với Bắc Kinh, nhưng đó vẫn là những sự lựa chọn nếu Hà Nội xác định họ cần bảo vệ chủ quyền của mình.
Kiểm soát tinh thần chống Trung Quốc : So với vụ dàn khoan HYSY-981, các hoạt động khảo sát và quấy rối hiện tại của Hải Dương 8 ít được truyền thông đưa tin cũng như ít cả về trao đổi ngoại giao. Nguyên do chủ yếu là Hà Nội muốn kiểm soát tinh thần chống Trung Quốc tại Việt Nam và muốn ngăn chặn khả năng nổ ra biểu tình hoặc tạo bất ổn.
Năm 2014, Việt Nam đã chứng kiến một loạt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc dữ dội dẫn tới việc dân chúng hủy hoại tài sản ở các nhà máy thuộc sở hữu các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và thậm chí của Việt Nam. Các cuộc bạo động đã gây ra thiệt hại cho uy tín môi trường đầu tư an toàn của Việt Nam. Chính phủ e ngại sẽ có điều tương tự xảy ra và họ cũng không muốn phải đối phó với xu hướng dân tộc chủ nghĩa biến thành bạo lực không thể kiểm soát được.
Sự phát triển tích cực : năm 2014, vụ HYSY-981 góp phần kích thích thêm tư duy chiến lược và các chính sách đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam, cũng như tạo nên một cuộc tranh luận hiếm hoi trong nước về việc liệu Việt Nam có thể thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc. Vẫn còn quá sớm để nói kết quả sẽ ra sao trong thời gian này, nhưng hy vọng sẽ góp phần vào sự phát triển chính sách Biển Đông và quốc phòng của Việt Nam hơn nữa một khi Sách trắng Quốc phòng sẽ được công bố gần đây.
Sự kiện tàu Hải Dương 8 có thể sẽ dẫn đến sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa Việt Nam và các đối tác trong khu vực Ấn Độ - Dương-Thái Bình Dương hoặc cũng có thể góp phần tạo nên sự thay đổi nhằm khuyến khích các quốc gia có tranh chấp ở Biển Đông trong ASEAN hợp tác với nhau nhiều hơn nữa trong vấn đề này.
Tác động rộng hơn
Không giống như năm 2014, Bắc Kinh đang đồng thời gây áp lực lên không chỉ một mà nhiều quốc gia có tranh chấp ở Đông Nam Á và đây là thử nghiệm thực sự cho sự sẵn sàng của cả ASEAN và cộng đồng quốc tế nhằm bảo vệ các quốc gia quyền chủ quyền và kinh tế theo luật pháp.
Nếu các nước trong khu vực không sẵn sàng nhìn xa hơn lợi ích quốc gia riêng và lên tiếng ủng hộ các quốc gia khác, thì việc vi phạm quy tắc hàng hải đang trở thành một điều bình thường mới và sẽ không còn tạo ra phản ứng mạnh mẽ. Tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm các quyền được UNCLOS bảo đảm, phải được tất cả các quốc gia, kể cả những quốc gia không có tranh chấp hỗ trợ và bảo vệ. Cho đến nay, chỉ có Hoa Kỳ có lập trường công khai và rõ ràng về các hoạt động của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính.
Dù các cuộc họp của Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao ASEAN diễn ra trong giai đoạn này tránh nêu đích danh các vấn đề này trong các tuyên bố chung, nhưng đã có tranh luận về vấn đề này trong các cuộc họp.
Tại Đối thoại chiến lược ba bên gần đây giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc bên lề các cuộc họp ASEAN, Ngoại trưởng Mike Pompeo và Bộ trưởng Ngoại giao Taro Kono và Marise Payne đã bày tỏ quan ngại về các báo cáo đáng tin cậy về các hoạt động gây rối liên quan đến các dự án dầu khí ở Biển Đông.
Các cuộc tham vấn Bộ trưởng Úc-Hoa Kỳ (AUSMIN) tại Sydney cuối tuần trước đã đưa ra một tuyên bố ủng hộ chính quyền của UNCLOS, hiệu lực của phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 và tầm quan trọng của tự do hàng hải. Trong khi bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với các hành động đơn phương vi phạm của bất kỳ quốc gia có tranh chấp nào cũng có thể thay đổi hiện trạng và làm gia tăng căng thẳng, một lần nữa tuyên bố chung lại cũng tránh nêu tên bất kỳ quốc gia hoặc sự cố nào là nguồn gốc gây căng thẳng.
Bế tắc hiện tại chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục gây áp lực và tiến trình COC không tạo ra sự khác biệt nào trong các kế hoạch làm chủ Biển Đông của Bắc Kinh cả. Đây có thể là một cuộc khủng hoảng với riêng Việt Nam, nhưng cũng có thể là cơ hội cho cộng đồng quốc tế - ngoài Mỹ ra - phản ứng thích đáng với các vi phạm UNCLOS và xâm nhập thềm lục địa của Trung Quốc.
Lê Thu Hương
Nguyên tác : China's Incursion into Vietnam's EEZ and Lessons from the Past, AMTI/CSIS, 08/058/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 14/08/2019
******************
Trung Quốc sẽ quần nát bãi Tư Chính và kéo giàn khoan vào
C.Lynh, Người Việt, 13/08/2019
Sau một tuần lễ tạm rút đi, tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc Hải Dương 8 (Haiyang Dizhi 8) đã quay lại hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính.
Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc. (Hình : Cơ quan Khảo sát Địa chất Trung Quốc)
Trên trang Twitter của ông Ryan Martinson, giáo sư của trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa Kỳ, có những hình ảnh vệ tinh cho thấy vị trí tàu Hải Dương 8 đang có mặt trong vùng chủ quyền kinh tế của Việt Nam. Đi cùng tàu HD08 có ít nhất hai tàu hải cảnh hộ tống 33111 và 31302.
Hai tàu hải giám này có trang bị súng pháo 76 mm, theo tin từ ông Ryan.
Ngoài ra, cũng theo thông tin từ Twitter của ông Ryan, Trung Quốc thay thế tàu hải giám 35111 bằng tàu 45111 đến khu vực gần Lô 06.1, bể Nam Côn Sơn, phía Tây Bắc bãi Tư Chính, nơi hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 Nhật và công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của công ty Rosneft của Nga.) Rosneft vừa gia hạn hoạt động cho giàn khoan Hakuryu 5 đến hết ngày 15 tháng Chín, bất chấp yêu cầu của Bắc Kinh là phải dừng hoạt động.
Trung Quốc không từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông
Động thái mới nhất này của Trung Quốc thật ra đã được các chuyên gia nghiên cứu Biển Đông dự đoán trước. Trả lời nhật báo Người Việt hồi đầu tháng Bảy, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, chuyên gia nghiên cứu cao cấp thỉnh giảng tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, từng nói tàu Hải Dương 8 có thể sẽ rút lui, nhưng chỉ là tạm thời, vì nó cần tiếp ứng nhiên liệu, lương thực và cả nhân sự.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Trung, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) có trụ sở tại Sài Gòn, hôm 9 tháng Tám trả lời BBC Việt Ngữ với quan điểm tương đồng. Ông nói rằng nhiều khả năng Trung Quốc sẽ quay lại. Và nếu quay lại, Trung Quốc được dự đoán sẽ mang theo tàu như Hải Dương 981, nghĩa là sẽ trở lại với các giàn khoan di động. Bởi vì Trung Quốc chắc chắn sẽ không từ bỏ tham vọng độc chiếm khu vực Biển Đông.
Sáng thứ Ba, 13 tháng Tám, từ Hà Nội, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định với nhật báo Người Việt về động thái mới nhất của Trung Quốc. Ông nói : "Cái chính sách của Bắc Kinh là nó muốn khẳng định vùng đó là vùng tranh chấp, nó có quyền. Nhưng thật ra vùng đó không phải là vùng tranh chấp. Nó nằm gọn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam 200 hải lý. Vùng ở ngoài của nó cũng nằm lọt trong vùng thềm lục địa của Việt Nam tức là 350 hải lý tính từ đường cơ sở bờ biển".
Tiến sĩ Hợp khẳng định về mặt pháp lý quốc tế thì Trung Quốc không có gì ở đây cả. Nhưng Trung Quốc luôn khẳng định chủ quyền vì đã ngang nhiên vẽ ra đường lưỡi bò.
Nói về đường lưỡi bò, Tiến sĩ sử học Trần Đức Anh Sơn, người có hơn 10 năm nghiên cứu về Biển Đông, hiện sống tại Đà Nẵng, từng phân tích rất chi tiết. Ông đưa ra những dẫn chứng lịch sử trong buổi phỏng vấn với nhật báo Người Việt : "Họ dựa trên một bản đồ, được Bạch Mi Sơ là một quan chức của chính quyền của Trung Hoa Dân Quốc, lúc chưa tách khỏi Trung Hoa đại lục, lập ra. Ông này lập ra một bản đồ dựa trên bản đồ của người Anh và dịch tên gọi của các đảo trong Biển Đông chủ yếu do người phương Tây đặt tên, và chuyển các tên đó thành tiếng Trung Quốc".
"Trên bản đồ này, ông ta xác định một vùng nằm giữa Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và vạch một đường hình lưỡi bò, gồm 11 đoạn, rồi cho rằng những gì hiện diện bên trong đường 11 đoạn này là thuộc về Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó các học trò của ông này tiếp tục cũng cố bản đồ đó, trình lên chính phủ Trung Hoa Dân Quốc năm 1947", ông nói.
"Khi cuộc chiến tranh giữa Quốc Dân Đảng với phe cộng sản Trung Quốc kết thúc năm 1949, Đảng cộng sản Trung Quốc thắng lợi, nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, họ tiếp tục kế thừa những kiến thức này của Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên họ cũng không quan tâm lắm bởi vì lúc đó Trung Quốc là một nước có thủy quân rất yếu. Trong lịch sử họ đã có khoảng 400 năm từ thời cận đại đến thời hiện đại thực hiện chính sách ‘quay lưng lại với biển.’ Họ là tránh biển, chủ yếu tập trung vào lục địa", ông dẫn chứng.
Ông nhấn mạnh : "Cho đến năm 1953, thủ tướng Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến đường 11 đoạn. Có lẽ vì tình hữu nghị với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cùng hệ thống tư tưởng cộng sản nên ông ta đã bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, biến bản đồ 11 đoạn thành bản đồ 9 đoạn".
Hai tàu hải giám của Trung Quốc vẫn ở Bãi Tư Chính. (Hình : Ryan Martinson)
Yêu sách của Bắc Kinh
Như thế, việc Bắc Kinh cho tàu Hải Dương 8 quay trở lại bãi Tư Chính, bất chấp lên án của quốc tế, phản đối của Việt Nam đang nói lên điều gì ?
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp phân tích : "Hai năm nay Trung Quốc có đề nghị với ASEAN đàm phán để đưa ra Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông (COC) có tính chất ràng buộc pháp lý. COC họ đưa ra gần đây nhất gồm có ba đòi hỏi cực kỳ vô lý".
Theo ông, đòi hỏi thứ nhất là không được đưa công ước về luật biển 1962 của Liên Hiệp Quốc vào trong COC đó.
Đòi hỏi thứ hai là tất cả các nước ASEAN không được để cho một nước khác, tức là nước bên ngoài khối vào tập trận hay làm gì khác. Tất cả những việc như tập trận hay hoạt động chung về quân sự ở trong Biển Đông thì phải được sự đồng ý của tất cả các bên.
Đòi hỏi thứ ba là không có một nước nào để cho một nước ngoài khu vực đó được phép khai thác hay hoạt động khai thác trong vùng nếu không được sự cho phép của các nước còn lại.
"Ba đòi hỏi này hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế, tức là nó bất chấp tất cả những quyền của các nước ASEAN, đặc biệt là bốn nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông", ông nhấn mạnh.
Có một sự kiện cần phải nhắc lại, vào tháng Bảy vừa qua, Bắc Kinh đã yêu cầu Việt Nam phải rút giàn khoan Hakuryu 5 Nhật Bản đang thăm dò dầu khí ở gần lô 06.1, bể Nam Côn Sơn.
Tiến sĩ Hợp cho biết khi đó, Bắc Kinh đã từng đe dọa là nếu giàn khoan Hakuryu 5 không ngưng hoạt động thì "sẽ có chuyện" nhưng không nói là chuyện gì. Và lúc đó, tàu thăm dò của Trung Quốc đã vào bãi Tư Chính cùng với một nhóm tàu hải cảnh.
"Trung Quốc muốn khẳng định chủ quyền trên thực địa mà Trung Quốc sẽ không bao giờ có. thứ hai, nó vào để thăm dò sau đó nó tiến hành khai thác. Tàu này không phải chỉ ra lấy dầu đâu, mà nó thay nhân sự, bổ sung thêm máy móc, lấy lương thực, nước ngọt và quay vào. Không chắc nó ở đây lâu, sẽ có một tàu to hơn sẽ đến. Tàu đấy sẽ cùng với Hải Dương 8 quần nát khu vực Bãi Tư Chính. Và cuối cùng là nó sẽ kéo giàn khoan vào để khai thác", ông khẳng định.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết, theo dự đoán của ông, nếu tiếp tục những diễn biến này, thì phần nhiều sẽ xảy ra trận hải chiến, mà Trung Quốc sẽ là bên nổ súng trước.
Một nhận định rất ngắn gọn nhưng không kém phần sắc bén của ông Ryan Martinson khi đưa lên Twitter ngày 12 tháng Tám cho biết, gần đây có rất nhiều quan tâm đến các hoạt động khảo sát biển của Trung Quốc tại Đông Nam Á. Điều quan trọng chúng ta cần phải nhớ là tham vọng hàng hải của Bắc Kinh là "toàn cầu". Điều này đang xảy ra ngay tại Biển Đông.
C.Lynh
Nguồn : Người Việt, 13/08/2019
Ngày 7/8/2019, theo chuyên gia phân tích Devin Thorne, Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng (Center for Advanced Defense Studies C4ADS), các dữ kiện cho thấy tàu "Hải Dương Địa Chất 8" của Trung Quốc đã rời vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) nhưng hai tàu hộ tống Trung Quốc còn lảng vảng trong khu vực.
Nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh (giữa) cùng bạn bè phản đối các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, 6/8/2019.
Từ tháng 7, có tranh chấp giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc làm việc trong khu vực độc quyền kinh tế Việt Nam. Tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nỗi lên khi chuyên gia Hoa Kỳ nói nhiều tàu Trung Quốc quấy nhiễu các tàu Nga và dàn khoan Hakuryu của Nhật do hãng dầu khí Nga (Rosneft) mướn.
Theo Twitter của Ryan Martison (Đại học Quân sự Hải quân Hoa Kỳ - US Naval War College) được nhiều báo chí trích dẫn, có hai diễn biến mới khác nhau đáng chú ý liên quan đến hoạt động của các tàu Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam.
1. Từ ngày 3/7 đến 17/7/2019 tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc đi vào vùng biển gần với khu vực Bãi Tư Chính - Vũng Mây. Đi theo bảo vệ tàu này còn nhiều tàu Trung Quốc trong đó là tàu hải giám trên 10.000 tấn, số hiệu 3901, và tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu0014. Cùng lúc có nhiều tàu cảnh sát biển Việt Nam.
2. Dữ kiện thứ hai, theo Ryan Martinson, thì từ ngày 18/6 tàu cảnh sát biển Trung Quốc trang bị vũ khí hạng nặng số hiệu 35111 của Trung Quốc neo đậu cách Bãi Tư Chính 40 dặm về phía tây (hôm 12/7 tàu này di chuyển đến Bãi Chữ Thập và đã quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính). Tàu này luẩn quẩn quanh dàn khoan Hakuryu-5, ở lô 06-01 thuộc Dự án Nam Côn Sơn, liên doanh của Việt Nam với Nga.
Mãi đến ngày 19/7 thì các thông tin này mới được phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định. Như vậy, sau một thời gian, Biển Đông lại trở nên dậy sóng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các chính sách trấn an của Việt Nam đối với Trung Quốc không làm giảm tranh chấp, không làm bớt lòng tham của Trung Quốc. Vậy Việt Nam phải làm gì để giải quyết tình trạng bất ổn này ?
Các dữ kiện về tranh chấp dầu khí
Trái với vụ tàu Hải Dương 981 năm 2014, đây là một khu rõ ràng trong vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế của Việt Nam nơi có dự án liên doanh giữa Tập đoàn Rosneft của Nga với VietsovPetro của Việt Nam. Tại đây, Rosneft của Nga đã mướn một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan dầu khí ở vùng biển phía đông nam Việt Nam.
Vụ Bãi Tư Chính bùng nổ từ đầu tháng 7/2019 cho thấy một vụ khác xảy ra ngay trước đó : Từ đầu tháng 6, Trung Quốc bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga, và hành vi đó kéo dài từ đó đến nay.
Cũng nên nhớ trước đây, vào tháng 7/2017 và tháng 3/2018, các tàu Trung Quốc bao vây Bãi Tư Chính để gây sức ép buộc Repsol - công ty Tây Ban Nha liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải rút khỏi mỏ dầu khí nhưng chưa đụng chạm trực tiếp đến mỏ dầu khí của Rosneft. Việc này làm cho công ty Repsol của Tây Ba Nha phải rút lui. Sau vụ Hải Dương 981, Nga chưa liên tiếng về vụ tàu Trung Quốc xâm nhập Bãi Tư Chính.
Sự kiện thứ hai là Tàu Hải Dương 8, được hỗ trợ bởi từ vài ba chục đến mức cao điểm là 80 tàu hải cảnh và tàu dân quân biển xâm phạm vào khu vực Bãi Tư Chính - gấp nhiều lần so với tàu hải cảnh của Việt Nam trong cùng khu vực.
Chính sách Việt nam và thế giới về Biển Đông
Chính sách Hoa Kỳ :
Sau 1972, Kissinger đã cho Trung Quốc thấy các ảnh vệ tinh về việc Liên sô sẽ dùng hạt nhân vũ khí nguyên tử nếu có chiến tranh với Trung Quốc. Hoa Kỳ lôi kéo Trung Quốc về phía họ chống Nga. Hậu quả là khi có Hoàng sa, hạm đội Mỹ làm ngơ khi hải quân Trung Quốc đánh Việt NamCH.
Sau 1975, Việt Nam rêu rao "đỉnh cao trí tuệ loài người, v.v". Thủ Tướng Phạm văn Đồng đi khắp Đông Nam Á như một nước đã thắng Hoa Kỳ làm nhiều nước sợ Việt Nam và càng bị cấm vận.
Trước khi "dạy Việt Nam một bài học", Đặng Tiểu Bình đàm phán với Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và HK cũng cho Trung Quốc cũng biết là Liên Xô không động binh. Từ 1981, Việt Nam rút quân khỏi Cambodia và làm hòa với các nước láng giềng và gia nhập ASEAN. Từ 2005, Việt Nam tiến gần Hoa Kỳ và lập lại bang giao. Năm 2016, Tổng thống Obama cho phía Việt Nam thấy là họ sẽ không can thiệp lật đổ chế độ - công nhận Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong suốt thời gian 1979-1991, Việt Nam còn tiếp tục đụng độ với Trung Quốc, trong đó 1988, Trung Quốc chiếm thêm một hòn đảo tại Trường Sa (Bãi Johnson reef). Từ đó tới giờ Trung Quốc từ từ xây các đảo nhân tạo và tiếp tục ăn hiếp Việt Nam bằng cách đánh chìm các tàu đánh cá Việt Nam (mà phía Việt Nam gọi là "tàu lạ"), cấm đánh cá tại Biển Đông vv. Trong những năm đó tới nay, Trung Quốc có chính sách ‘lấy thịt đè người’, ăn hiếp láng giềng, tìm cách lấn lướt và ăn cướp quyền lợi chính đáng của các nước láng giềng. Điều này ngày càng lộ rõ.
Từ Hội nghị Thành Đô vào tháng 9/1990, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là chịu phục Trung Quốc. Việt Nam bỏ Liên Xô nghiêng hẳn về Trung Quốc. Họ quan tâm đến việc giữ chế độ - giữ quyền lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam. Hậu quả là quyền lợi của Việt Nam bị xem nhẹ.
Cuộc tranh chấp Hoa Kỳ - Trung Quốc thay đổi hẳn mọi việc. Việc Ngoại trưởng Hillary Clinton viếng Hà Nội năm 2010, Việt Nam có xích gần Hoa Kỳ hơn. Việt Nam có phần "mở hơn về quan điểm", có những bước "thay đối quan trọng" trong mối quan hệ Việt-Mỹ" nhưng vẫn tiếp tục đánh đu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Việc xích lại Mỹ, Việt Nam chậm chạp và đòi hỏi thời gian vì chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam sau Thành Đô.
Từ 2010 đã có chính sách "xoay trục" của Hoa Kỳ và sự hiện diện của sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Chính sách tự do đi lại theo luật quốc tế theo luật biển UNCLOS cũng thay đổi phần nào. Đến nay Hoa Kỳ đã lên tiếng thêm là Trung Quốc không nên dùng sức mạnh "ăn hiếp các nước trong vùng".
Năm 2014, sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông, đã có những bước tiến quan trọng. Trong nhiều năm, cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ lên tiếng và Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng chống Trung Quốc.
Từ 2018 -2019 đã có sự thay đổi trong quan hệ Mỹ - Trung. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông chỉ vài ngày sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích thẳng thừng Trung Quốc "gây bất ổn" trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Chính sách Trung Quốc :
Trong một thời gian rất lâu, Trung Quốc dùng chính sách thân thiện với Hoa Kỳ để tranh thủ dùng thời gian xây các đảo nhân tạo, dùng "chính sách tầm ăn dâu" chiếm Biển Đông. Họ không khi nào gây quá khó khăn để các nước bên ngoài Biển Đông phải can thiệp.
Tập Cận Bình và các quan chức phủ nhận việc họ "có gene đế quốc" hay theo Bộ trưởng quốc phòng là chưa bao giờ Trung Quốc xâm lược một quốc gia nào từ trước tới đây. Người Việt Nam thì ai cũng hiểu Trung Quốc "nói một đằng làm một nẻo".
Hết việc cấm đánh cá tới việc xây dựng đảo nhân tạo đến việc cho dân quân dọa nạt, đánh, phá rối Philippines, hay các quốc gia ASEAN khác như Malaysia và Indonesia.
Ngoài ra họ còn dùng tiền mua nhiều quốc gia trong ASEAN (Lào, Cambodia) gây chia rẽ và khó khăn trong việc thống nhất tiếng nói của tổ chức này trong việc thương thuyết về Biển Đông. Trung Quốc bị Philippines kiện vào 2016 và Trung Quốc đã thua. Tòa trọng tài Quốc tế không cống nhận chủ quyền "theo lịch sử" và dĩ nhiên đường "lưỡi bò". Họ dùng tiền để bịt miệng Philippnes.
Chính sách "tầm ăn dâu" của Trung Quốc càng ngày càng dồn Việt Nam vào chân tường. Nói tóm, chính sách của Trung Quốc là dùng mọi thủ đoạn để chiếm tài nguyên dầu khí vùng Biển Đông từ một nơi không có tranh cãi đền chỗ tranh cãi qua mọi thủ đoạn.
Hiện nay Trung Quốc đang gặp một số khó khăn :
1. Khó khăn tại Hong Kong : Dân Hong Kong không tin vào lời hứa để cho khu này tự trị. Việc này đang gây sóng gió cho nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc ;
2. Khó khăn tại Đài Loan : Hình ảnh Hong Kong cho thấy mô hình Trung Quốc dụ Đài Loan không mấy khả thi ;
3. Khó khăn tại Tân Cương : Bị quốc tế tố là giam giữ người Ngô Duy Nhĩ trong nhà tù khổng lồ ;
4. Khó khăn tại Biển Đông về chủ quyền : Tòa trọng tài quốc tế không công nhận chủ quyền dựa trên lịch sử và hình lưỡi bò. Trung Quốc không công nhận phán quyết tòa trọng tài (vì tòa không có các thi hành án nhưng phán quyết sẽ vĩnh viễn). Trung Quốc đành dùng các tàu khảo sát để cho thấy là họ có chủ quyền trong vùng lưỡi bò (tàu khảo sát tại Philippines, tại bãi Tư chính và tại Malaysia).
5. Khó khăn với tranh chấp thương mại Mỹ-Trung mà cả thế giới chú ý. Ngoài ra Tổng thư ký Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) nêu đích danh Trung Quốc khi thăm Sydney hôm 07/08/2019. Ông Jens Stoltenberg đến Úc để họp với thủ tướng Scott Morrisson cùng hai bộ trưởng Quốc Phòng và Ngoại Giao về các vấn đề Trung Quốc, cuộc chiến ở Afghanistan, khủng bố và an ninh mạng. Theo ông Stoltenberg, khối NATO phải đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong khu vực, như Úc, New Zealand, Nhật Bản và Hàn Quốc.
6. Khó khăn với Nhật, Triều Tiên và Ấn độ.
Chính sách Việt Nam :
Từ Hội nghị Thành Đô vào tháng 9/1990, Đảng cộng sản Việt Nam chịu phục tùng Trung Quốc. Việt Nam bỏ Liên Xô nghiêng hẳn về Trung Quốc. Họ quan tâm đến việc giữ chế độ - giữ quyền lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam. Hậu quả là quyền lợi của tổ quốc bị xem nhẹ.
Trong nhiều năm, Việt Nam đã bị "4 tốt và 16 chữ vàng" ảnh hưởng. Chính sách của Việt Nam là phản ứng yếu ớt ; "giữ gìn tình hữu nghị anh em" ; đàn áp dân chúng biểu tình ; nhận viện trợ và ưu đãi từ Trung Quốc, v.v.., tìm chữ "bình an tạm thời". Với thời gian, việc mở ra phía ngoài, chính sách lấy thịt đè người của Trung Quốc đã làm một số người suy nghĩ về việc "thoát Trung".
Dần dần Việt Nam xích lại gần lập trường quốc tế, lên tiếng nhiều hơn về chủ quyền quốc gia. Giờ lãnh đạo Việt Nam mở ra ngoài và có nhiều quan hệ quốc phòng với nhiều nước. 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gặp Tổng thống Obama và nghĩ đến việc xích lại Hoa Kỳ. Hà Nội còn muốn trở thành ‘đối tác chiến lược’ với Washington.
Nay Việt Nam phản kháng về việc cấm đánh cá tại Biển Đông, không còn tàu lạ đâm hay cướp ngư dân Việt Nam, mà nói thẳng là Trung Quốc đã gây những sự kiện này.
Hôm 7/8, Việt Nam lên án Trung Quốc xâm phạm chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa sau khi Bắc Kinh thông báo tập trận bắn đạn thật ở khu vực này trong hai ngày. Báo chí Việt Nam hôm thứ Tư đưa tin tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng hoạt động này "xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam" đối với Hoàng Sa, quần đảo mà Trung Quốc đã chiếm từ Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974 và vẫn duy trì quyền kiểm soát tới nay.
Từ 2014 với vụ giàn khoan HQ 981 và nay vụ tàu Hải Dương 8, thì chính quyền vẫn không cho người dân lên tiếng, muốn "ỉm chuyện" Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam vẫn không dám tin tức cho dân chúng, sợ dân xuống đường.
Việt Nam chưa dứt khoát về việc đánh đu, vẫn còn sợ Trung Quốc.
Giải pháp cho Việt Nam - Kiện hay không kiện ?
Việt Nam không có mấy giải pháp đối với Trung Quốc. 1) Quân sự ; 2) Chính trị ; 3) Luật Pháp.
Giải pháp số 1 : Về quân sự không mấy khả thi. Hải quân Việt Nam còn thua xa hải quân Trung Quốc. Giải pháp thứ 2 có nhiều thay đổi đi từ chỗ 90% theo Trung Quốc nay may ra còn 40%. Giải pháp chính trị chưa đủ vì ASEAN bị mua chuộc và "Trung Quốc vẫn lấy thịt đè người". Nay còn giải pháp thứ 3 về luật pháp mà cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ và trên thế giới đề nghị. Với luật pháp thì mỗi nước lớn nhỏ đều có một lá phiếu ngang nhau.
Philippines đã thắng Trung Quốc vào 2016. Việt Nam đã bỏ cơ hội cùng kiện với Philippines.
Các chuyên gia quốc tế cũng như người Việt trên thế giới đã đề nghị Việt Nam kiện Trung Quốc từ lâu, trước cả Philippines. Nay các chuyên viên nghiên cứu luật Quốc tế tại Việt Nam cũng cho là đến lúc kiện Trung Quốc., mặc dù là phản ứng chậm trễ cho vụ Bãi Tư Chính.
Trả lời phỏng vấn đài VOA (Tiếng Nói Hoa Kỳ) James Kraska, Chủ tịch Trung tâm Stockton về Luật hàng hải Quốc tế thuộc Trường Hải Chiến của Mỹ, cho rằng Trung Quốc có hành động "bất hợp pháp" trên Biển Đông và vi phạm "nghiêm trọng" Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982)" mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Ông James Kraska cũng cho rằng Việt Nam "nên kiện" Trung Quốc ra tòa quốc tế, và nhận định "Việt Nam hầu như là sẽ thắng".
Ông Jonathan Odom - giáo sư luật quốc tế của Trung tâm Nghiên cứu An ninh Marshall của Mỹ thì viết trên Twitter nhận định rằng Hà Nội "có thể dùng hầu hết phần biện hộ" của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế năm 2016 là có khả năng giành chiến thắng về mặt pháp lý.
Câu hỏi chính là liệu sẽ có chiến tranh Việt-Trung nếu Việt Nam kiện Trung Quốc ? Tôi tin là căng thẳng ở Biển Đông sẽ không dẫn đến chiến tranh Việt - Trung vì Trung Quốc cũng sẽ mất nhiều hơn Việt Nam. Họ có thể làm khó như việc không cho xả nước gây hạn hán tại Đồng bằng sông Cửu Long, gây khó khăn kinh tế cho Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam sẽ còn được nhiều nước giúp, kể cả ASEAN sát Biển Đông vì các hành động của Trung Quốc ngày càng trắng trợn. Việt Nam không còn gì để mất và với việc kiện Trung Quốc, Việt Nam cho thấy quyền lợi quốc gia trên hết.
Việt Nam cần lập tức kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Việc Tòa Trọng tài PCA năm 2016 tuyên bố Philippines thắng trong vụ nước này đơn phương kiện Trung Quốc, đúng là David chống Goliath. Việc này đã tạo thuận lợi lớn cho Việt Nam để khởi kiện Trung Quốc. Nay coi bộ việc đã chín mùi và có hoàn cảnh thuận lợi.
Kết luận
Những gì đã xảy ra tại Bãi Tư Chính trên Biển Đông chỉ là chính sách của Trung Quốc từ năm 1974 hay thậm chí sớm hơn nữa. Mặc dù tàu Hải Dương đã rời vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, nhưng chúng ta có thể đoán được là con tàu có thể trở lại, không những để khảo sát mà là để khoan và khai thác dầu khí.
Vấn đề là liệu lãnh đạo có tinh thần dân tộc, tầm nhìn xa, để kiện Trung Quốc vào lúc này, và khả năng tạo ra thay đổi bước ngoặt. Liệu các lãnh đạo Việt Nam có thể vùng lên ? Vận nước đã đến hồi thoát Trung.
Việt Nam chỉ còn con đường là đưa Trung Quốc ra tòa, ngay bây giờ.
Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân
Nguồn : VOA, 10/10/2019
Vì sao chính thể Việt Nam hớn hở ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’ ?
Thường Sơn, VNTB, 11/08/2019
Chỉ ít ngày sau khi Washington điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan - tới Biển Đông vào ngày 6/8/2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã mau mắn và như thể hớn hở ra tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’.
Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan
Nguồn cơn của động thái Mỹ điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông là có thể đã có một lời cầu cứu khẩn cấp từ Bộ Chính trị Việt Nam với Washington trong bối cảnh hàng đàn tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính như chốn vô chủ quyền, trong khi toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam bất lực - tương tự việc Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch đã phải gấp rút sang Mỹ gặp Bộ trưởng quốc phòng James Mattis để cầu cứu, ngay sau vụ Trung Quốc bao vây khu vực Bãi Tư Chính vào tháng 7/2017.
Một cách ‘nhẹ nhàng’ nhất, cho dù tuyên bố rút Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính, Trung Quốc vẫn có thể cho tàu địa chất này xuất hiện trở lại vào bất kỳ lúc nào, hoặc thay thế Hải Dương 8 bằng những tàu Hải Dương khác, cho đến khi nào chán thì thôi. Trong lúc đó, các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển và tàu thương mại dân sự vẫn thả sức chơi trò ‘vờn tàu’ với phía hải quân và ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ được trang bị hàng chục ngàn lá cờ của Việt Nam, và nếu hứng thú thì tổ chức xịt vòi rồng hoặc đâm va…
Đó là một kiểu hành hạ tinh thần giới chóp bu Việt Nam, hệt như cái cách chính quyền và công an Việt Nam đã hành hạ tinh thần và thân xác nhiều người dân bất đồng chính kiến lên tiếng phản đối vô số bất công của chế độ cầm quyền và dám xuống đường chống Trung cộng.
Một khi bộ phim Bãi Tư Chính đã được Trung Quốc công diễn đến 3 lần trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019, thì chẳng có gì ngạc nhiên nếu cuốn phim này sẽ được tái diễn vào những năm sau, đều đặn mỗi năm một lần hoặc có thể đến hai lần.
Còn nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì.
Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.
Từ đầu năm 2019 đến nay, đã có ít nhất 3 lần chính thể Việt Nam mau mắn tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’ - ứng với động thái tàu hải quân Mỹ vừa đi qua khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Vào tháng 2/2019, thậm chí Việt Nam không chỉ ‘tôn trọng tự do hàng hải’ mà còn ‘tôn trọng tự do hàng không’. Đây cũng là một chỉ dấu mới và đáng được mổ xẻ và phân tích, đặc biệt liên quan đến một Biển Đông cùng hai khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang ngày càng nóng lên bởi nguy cơ xung đột quân sự Mỹ - Trung, và nếu cuộc chiến này xảy ra, dù chỉ với quy mô nhỏ và phạm vi hẹp, Việt Nam sẽ không thể ‘vô can’, thậm chí còn phải đưa đầu chịu báng trong tư thế ‘trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết’.
Cách phát ngôn ‘tôn trọng tự do hàng không’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam rất có thể đã mở đường cho máy bay chiến đấu của Mỹ hoạt động trên không phận Biển Đông như một hàm ý ‘máy bay Mỹ bay qua vô hại ở Biển Đông’, tiếp nối khẩu ngữ ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ bật ra lần đầu tiên vào đầu năm 2016.
Vào tháng 10/2018, hai máy bay B-52 của Mỹ đã áp sát các đảo đang tranh chấp ở Biển Đông.
Sau hải quân là không quân, và chỉ còn thiếu lục quân.
Lục quân và thủy quân lục chiến - đó sẽ là vấn đề Cam Ranh - một quân cảng khống chế đến 2/3 Biển Đông mà một cách tối thiểu, nó sẽ được dùng để làm căn cứ hậu cần cho một quốc gia nào đó đang giúp Việt Nam kháng Tàu. Vào lúc này, Mỹ là quốc gia duy nhất làm điều đó.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 11/08/2019
******************
Việt Nam và EU ‘tăng cường đảm bảo tự do hàng hải’
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng Việt Nam và một đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh mới đây đi tới cam kết "tăng cường tham gia bảo đảm tự do hàng hải, hàng không", trong bối cảnh căng thẳng leo thang ở Biển Đông, quanh Bãi Tư Chính, giữa tàu hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh và bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu, tại Hà Nội hôm 5/8.
Ngoài cam kết trên, tuyên bố chung giữa ông Ngô Xuân Lịch và bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu, còn nói rằng hai bên cũng sẽ tăng cường "đối phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền, tội phạm có tổ chức và buôn lậu, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)".
Tin cho hay, trong cuộc gặp tại Hà Nội hôm 5/8, quan chức chủ nhà và bà Mogherini đã "trao đổi về việc phát triển quan hệ đối tác, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng an ninh dựa trên luật pháp quốc tế và cam kết chung".
"Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cũng nhằm tăng cường nhận thức và hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN dẫn dắt và các hình thức hợp tác an ninh đa phương khác tại Châu Á, và hỗ trợ xây dựng năng lực, các chương trình đào tạo và hợp tác về quản lý khủng hoảng hiện nay trong khu vực", tuyên bố chung đăng trên trang web của Phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam có đoạn.
Bộ Quốc phòng Việt Nam được cho là "ủng hộ mong muốn của Liên minh Châu Âu về việc tham gia vào các cấu trúc quốc phòng an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương", trong khi "Liên minh Châu Âu mong đợi Việt Nam tiếp tục có những đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực khi đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN năm 2020".
Trang Facebook của chính phủ Việt Nam hôm 5/8 dẫn lời Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, nói tại cuộc họp báo sau khi đôi bên thảo luận rằng Hà Nội "hoan nghênh lập trường của EU, ủng hộ tự do, an ninh, an toàn hàng hải tại Biển Đông".
Ông Minh được dẫn lời nói tiếp rằng "việc quân sự hóa và các hoạt động đơn phương đã và đang gia tăng căng thẳng, làm xói mòn lòng tin và làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định khu vực".
Quan chức ngoại giao hàng đầu của Việt Nam không trực tiếp nhắc tới Trung Quốc, nhưng lâu nay, chính quyền quốc gia đông dân nhất thế giới đã bị phương Tây chỉ trích "vì quân sự hóa Biển Đông".
Cuộc họp giữa quan chức EU và Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục "đối đầu" ở Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tin cho hay, ông Minh đã "đề nghị phía EU tiếp tục tham gia đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, thượng tôn pháp luật và tôn trọng UNCLOS, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các nước ở Biển Đông".
Trong cuộc họp báo chung với ông Minh, bà Mogherini được cho là đã "trấn an" nhà ngoại giao hàng đầu Việt Nam rằng "Liên Hiệp Châu Âu hoàn toàn chia sẻ quan điểm và quan ngại của ngài về tình hình gia tăng căng thẳng trên Biển Đông".
"Chúng tôi tin rằng sự căng thẳng cũng như quân sự hóa này hoàn toàn không có lợi cho môi trường hòa bình. Liên Hiệp Châu Âu luôn ủng hộ quyền tự do hàng hải và bay ngang, vốn là mối quan tâm của mọi quốc gia. Chúng tôi ủng hộ sự minh bạch cũng như sự hoàn tất mau chóng của các cuộc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử ràng buộc về mặt pháp lý giữa Trung Quốc và ASEAN", Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu nói.
"Ngài có thể tin vào việc EU sẽ luôn bảo vệ không những sự cần thiết phải giảm căng thẳng mà còn trên hết là sự cần thiết phải tôn trọng hoàn toàn luật lệ quốc tế, trong đó có UNCLOS".
Theo chính phủ Việt Nam, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam, đứng thứ 5 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, đồng thời là đối tác cung cấp viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho VN với 400 triệu euro giai đoạn 2014 - 2020.
Viễn Đông
Nguồn : VOA, 11/08/2019
*****************
"Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng quốc tế, trừ Hoa Kỳ"
Thường Sơn, VNTB, 10/08/2019
"Tôi nghĩ rằng Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng quốc tế trừ Hoa Kỳ", trả lời đài VOA, Giáo sư Carl Thayer của Học Viện Quốc phòng Úc nhận định và cho biết rằng đại sứ Việt Nam tại Úc đã bày tỏ lo ngại về việc báo chí ở Úc không đăng tải thông tin về sự việc và không có bình luận gì từ phía chính phủ Úc…
Giáo sư Carl Thayer
Úc lại là một đồng minh quân sự của Mỹ trong ‘bộ tứ’ ở vòng cung Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Mỹ - Nhật - Ấn - Úc).
Nhưng vì sao Úc - cũng được giới chóp bu Việt Nam xem là ‘đối tác quan trọng’ - lại quá thờ ơ với vụ tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính, nguồn lợi và danh thể của ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’ ?
Không thể cho rằng nước Úc bàng quan vụ Bãi Tư Chính vì không ‘dính’ gì Biển Đông. Bởi cũng như Nhật bản, Úc có một phần quyền lợi trong giao thương qua Biển Đông, với khoảng 50% lượng giao thương thông qua vùng biển này. Nếu Trung Quốc khống chế được khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và hơn thế nữa là ‘nuốt’ hẳn Bãi Tư Chính, Úc đương nhiên sẽ bị khó khăn và thách thức lớn trong giao thương do các tàu Trung Quốc ‘làm luật’.
Trong những năm gần đây, thỉnh thoảng tàu chiến Trung Quốc lại khiêu khích tàu Úc.
Tuy thế, sách lược của ‘bộ tứ’ dường như chẳng có gì phải vội vã với Việt Nam - quốc gia vẫn còn nằm nguyên trạng trong ‘chủ nghĩa xã hội anh em’ với Trung Quốc và luôn bị ‘đảng anh’ hiếp đáp. Khả năng Úc điều tàu chiến đến Biển Đông để hỗ trợ hải quân Việt Nam là gần như không có.
Còn Hoa Kỳ - đồng minh của Úc - thì sao ?
Tháng 7 năm 2019, Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính, dù quốc gia này vẫn chưa phải là ‘đối tác chiến lược’ trong bộ sưu tầm chẵn một tá đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam, trong đó nổi bật là ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ Trung Quốc - như lối ngợi ca rất thiếu máu não của giới chóp bu Việt Nam.
Nhưng từ đó đến nay, người Mỹ vẫn không có động thái quân sự thực chất nào để ‘dằn mặt’ Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính. Hành động mới nhất của Washington là điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới Biển Đông vào ngày 6/8/2019.
Tuy nhiên chưa có gì chắc chắn là hàng không mẫu hạm này sẽ trực tiếp can thiệp hay có một tác động nào đó tới Bãi Tư Chính nếu đối chiếu với yêu cầu can thiệp sâu hơn nhiều của chế độ bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Vì sao vào lần này Mỹ có vẻ thay đổi thái độ mà không hoặc chưa có những hành động cụ thể hỗ trợ Việt Nam ?
Chung quy cũng tại thói du dây trả treo của Hà Nội.
Vào năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Hà Nội, hầu hết các "đối tác chiến lược" của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Khi đó, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho "đối tác chiến lược toàn diện" giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách "đu dây" nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn "bốn tốt – mười sáu chữ vàng".
Đã 5 năm trời qua kể từ vụ Hải Dương 981 năm 2014, nhưng sự thể tồi tệ là não trạng ngả ngớn đu lắc và õng ẹo đu dây chính trị vẫn bị nén chặt trong những cái đầu bí bách và bế tắc của giới chóp bu Việt Nam.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 10/08/2019
********************
EU nên mở rộng hoạt động hàng hải vì Trung Quốc đang đe dọa Đông Nam Á
Richard Heydariann, VNTB, 10/08/2018
Hiệp ước quốc phòng của EU với Việt Nam đóng vai trò lớn hơn trong an ninh toàn cầu
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đón chào người đứng đầu chính sách đối ngoại của EU, bà Federica Mogherini, tại Hà Nội vào ngày 8/8/2019. (Ảnh từ thông cáo báo chí của chính phủ Việt Nam)
Vào ngày 5 tháng 8 có một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ quốc tế đang nở rộ ngay cả khi sự thù địch toàn cầu về thương mại, tiền tệ và ngoại giao gia tăng : EU và Việt Nam đã ký một thỏa thuận quốc phòng lịch sử đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thỏa thuận mở đường cho sự tham gia của Việt Nam vào các nhiệm vụ quân sự Châu Âu, hoạt động gìn giữ hòa bình và hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn, và khi Châu Âu mở rộng tham vọng chiến lược sang Đông Á, ngay khi Trung Quốc đang thách thức trật tự hiện có.
Mặc dù các cường quốc Châu Âu rất muốn duy trì mối quan hệ mạnh mẽ và hiệu quả với Bắc Kinh, nhưng họ đã thể hiện một cách đúng đắn khi sẵn sàng duy trì trật tự trong khu vực dựa trên luật lệ. Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và Pháp đã tăng cường sự hiện diện hải quân ở vùng biển lân cận Trung Quốc, trong khi EU và các thành viên chủ chốt đã củng cố quan hệ kinh tế và chiến lược với các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn.
Có nhiều lý do để Châu Âu tham gia vào Đông Á.
Đầu tiên, điều này phù hợp với các nguyên tắc và học thuyết chiến lược của EU. Mặc dù vẫn trung lập về các vấn đề lãnh thổ và hàng hải ở Biển Đông, Chiến lược toàn cầu năm 2016 của EU kêu gọi các quốc gia thành viên "giữ vững tự do hàng hải", tôn trọng Luật Biển và "khuyến khích giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển".
Hơn nữa, Chiến lược an ninh hàng hải năm 2014 của EU hy vọng các lực lượng vũ trang của các thành viên EU sẽ "đóng vai trò chiến lược trên biển và từ ngoài biển", đảm nhận "toàn bộ trách nhiệm hàng hải". Điều này chủ yếu bao gồm hỗ trợ tự do hàng hải trong vùng biển quốc tế và ngăn chặn "các hoạt động bất hợp pháp".
Với cam kết bổ sung để duy trì an ninh hàng hải ở Biển Đông, dường như việc quân sự hóa không ngừng của Trung Quốc đối với các tranh chấp này là mối đe dọa trực tiếp đối với các giá trị cơ bản này.
Do đó, thỏa thuận quốc phòng của EU với Việt Nam nhấn mạnh cam kết hỗ trợ các quốc gia nhỏ hơn bảo vệ quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như "bảo vệ trật tự đa phương dựa trên luật lệ", như một quan chức EU nói.
Thời điểm ký kết vô cùng quan trọng. Trong tháng qua, Việt Nam và Trung Quốc đã đối đầu ở Bãi Tư Chính, một khu vực giàu năng lượng đang có tranh chấp ở Biển Đông và thuộc thềm lục địa của Hà Nội.
Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã củng cố các nỗ lực ngoại giao và quân sự của mình để ngăn chặn Trung Quốc xâm nhập của vào vùng biển và quấy rối các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông.
EU đã ký các thỏa thuận quốc phòng tương tự với các đồng minh chủ chốt của Hoa Kỳ như Úc, hiện cũng đang lo ngại về "sự hung hăng" của Trung Quốc trong khu vực của họ.
Thỏa thuận quốc phòng sẽ là khởi đầu cho hoạt động mở rộng của EU ở Đông Nam Á. Trong khi Hoa Kỳ và Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng Cảnh sát biển mạnh mẽ giữa các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn trong một thập kỷ nay, EU nên đi theo hướng tương tự.
Cùng với Vương quốc Anh, Pháp và Đức, EU nên tiếp tục nâng cấp quan hệ chiến lược với các nước láng giềng đang bị Trung Quốc làm xáo trộn như Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore. Điều đó có nghĩa là nhiều thỏa thuận quốc phòng nên được đưa ra.
Châu Âu có thể và nên cung cấp hỗ trợ, dù thông qua các khoản tài trợ quốc phòng, tập trận và huấn luyện quân sự chung hoặc chuyển giao công nghệ, để cải thiện năng lực giám sát và an ninh hàng hải giữa các quốc gia này.
Các quốc gia Châu Âu cá nhân đã đang đối đầu với chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Vẫn sở hữu các lãnh thổ hậu thuộc địa trên khắp Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, cả Anh và Pháp đã thường xuyên triển khai lực lượng hải quân đến vùng biển gần Trung Quốc.
Bắc Kinh đã phản đối kịch liệt những hoạt động này, thậm chí là còn không cho Pháp tham gia một cuộc tập trận hải quân quốc tế trong năm nay, đồng thời đe dọa những tác động tiêu cực đối với các cuộc đàm phán thương mại thời hậu Brexit với U.K.
Vương quốc Anh tuyên bố ý định triển khai tàu sân bay Queen Elizabeth tới Biển Đông. © Hình ảnh của Getty
Tuy nhiên, cả hai cường quốc đã báo hiệu cam kết sâu sắc trong việc duy trì tự do hàng hải và hàng không ở sân sau của Trung Quốc. Trên thực tế, Anh đã tuyên bố ý định điều hàng không mẫu hạm Queen Elizabeth tới Biển Đông, đồng thời hợp tác với Pháp trong các cuộc tập trận hàng hải chung và tăng cường khả năng phối hợp trong các tình huống quân sự với Nhật Bản, Ấn Độ và Úc trên khắp Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Thông qua việc triển khai hải quân tới các vùng biển tranh chấp và thỏa thuận quốc phòng với các nước Châu Á nhỏ hơn, Châu Âu thừa nhận tính hợp pháp đối với các hoạt động tự do hàng hải của Washington. Trên thực tế, Châu Âu và Hoa Kỳ, cùng với các cường quốc hải quân Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, hiện đang cùng nhau bảo vệ quyền tự do hàng hải.
EU cũng nhận ra rằng quốc phòng và thương mại có thể song hành với nhau như là một phần của lợi ích chiến lược lớn hơn. Thỏa thuận quốc phòng với Việt Nam diễn ra sau khi ký kết Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam hồi tháng 6, mà Brussels đã mô tả là "thỏa thuận thương mại tự do tham vọng nhất giữa EU và một nền kinh tế mới nổi trội cho đến nay".
Vào tháng 10 năm 2018, EU đã ký một thoả thuận thương mại khác với Singapore, thể hiện sự phát triển của mối quan hệ chiến lược giữa EU và các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. EU đang xem xét các thoả thuận thương mại với các nước ASEAN lớn khác là Philippines và Thái Lan, mặc dù cả hai nước này đều bị đình trệ vì bất ổn chính trị.
Sự đóng góp nhiều hơn cho hòa bình và ổn định trong khu vực của Châu Âu cho thấy rõ rằng căng thẳng gia tăng ở Đông Á sẽ không chỉ còn là giữa đối thủ Trung-Mỹ nữa.
Thay vào đó, chúng ta đang chứng kiến những nỗ lực đa phương giữa các cường quốc cùng chí hướng để bảo vệ công cộng quốc tế và kìm hãm tham vọng hàng hải của Trung Quốc. Châu Âu nên tham gia nhiều hơn xu hướng này để duy trì trật tự dựa trên luật lệ ở Châu Á.
Richard Heydarian
Nguồn : EU should expand maritime activity in Southeast Asia as China looms, Nikkei Asian Review, 09/08/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 10/08/2019
Richard Heydarian là một học giả, chuyên mục và tác giả của "Sự trỗi dậy của Duterte : Một cuộc nổi dậy dân túy chống lại nền dân chủ ưu tú" và sắp tới là "Ấn Độ-Thái Bình Dương : Trump, Trung Quốc và cuộc đấu tranh mới để làm chủ toàn cầu".
*****************
Liên Hiệp Châu Âu gia tăng hợp tác quốc phòng với Việt Nam
Anh Vũ, RFI, 09/08/2019
Giữa lúc tình hình Biển Đông đang nóng lên do những hành động gây hấn của Trung Quốc tại bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Hà Nội đón bà Federica Mogherini, phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đồng thời là đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu EU về chính sách đối ngoại-an ninh.
Bà Federica Mogherini, lãnh đạo ngành ngoại giao Liên Hiệp Châu Âu và ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh họp báo tại Hà Nội, ngày 05/08/2019. Reuters/Kham
Trong chuyến công du Hà Nội từ ngày 03 đến 05/08, bà Mogherini đã gặp gỡ và làm việc với ngoại trưởng Phạm Bình Minh rồi bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch và đặc biệt gặp thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hôm 05/08. Trước khi quan chức cao cấp Liên Hiệp Châu Âu tới Hà Nội, một số trang báo của khu vực như Asia Times đã loan tin bà Federica Mogherini sẽ ký một thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng FPA (Framework Participation Agreement), thỏa thuận an ninh đầu tiên giữa Bruxelles với một nước trong khu vực Đông Nam Á.
Hiệp định khung này vẫn chưa được được ký ngay trong chuyến công du của bà Mogherini, tuy vậy báo chí Việt Nam dẫn thông cáo chung hai bên cho biết :
"Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu hoan nghênh việc kết thúc đàm phán Hiệp định thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Namvào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (Hiệp định FPA). Hiện nay, lộ trình đã rõ ràng theo hướng hoàn thiện các thủ tục nội bộ dẫn tới việc ký kết, phê chuẩn và thực hiện đầy đủ hiệp định trên".
Vẫn theo báo chí Việt Nam, trong cuộc gặp với bà Federica Mogherini hôm 05/08, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tỏ hi vọng hai bên sẽ sớm ký Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (FPA).
Một khi được ký, Hiệp định FPA sẽ mở ra cho Việt Nam khả năng tham gia đóng góp vào các nhiệm vụ quốc phòng và an ninh của Châu Âu và mang lại lợi ích nhiều mặt hơn ở phía sau. Hiện tại trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mới chỉ có Úc , New Zealand và Hàn Quốc ký hiệp định này với EU.
Chuyến thăm và kết quả làm việc của lãnh đạo cao cấp EU tại Hà Nội vừa rồi vẫn còn giới hạn trong những tuyên bố ủng hộ lập trường lẫn nhau mang tính biểu tượng, nhưng giới quan sát chính trị trong khu vực nhận thấy rõ Liên Hiệp Châu Âu đang cố gắng xây dựng mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với khu vực và đặc biệt là với Việt Nam.
Châu Âu đang có tham vọng tăng cường hiện diện ở Đông Nam Á, với mục tiêu ngăn chặn đà bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Biển Đông. Mặc dù các nước lớn trong Liên Hiệp Châu Âu vẫn muốn duy trì mối quan hệ lâu dài và có hiệu quả với Bắc Kinh, họ không chấp nhận để Bắc Kinh kiểm soát ảnh hưởng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là độc chiếm Biển Đông, huyết mạch hàng hải thế giới.
Chuyên gia Richer Heydarian, giáo sư đại học Manila, tác giả nhiều cuốn sách về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và về chính sách bá quyền Trung Quốc, trong bài viết trên trang mạng Nikkei Asian Rewiew đăng ngày 09/08 liên quan đến chuyến đi của bà Federica Mogherini tới Hà Nội, nhận định :
"Liên Hiệp Châu Âu có nhiều lý do để cắm chân ở Đông Nam Á. Thứ nhất, điều đó phù hợp với chủ trương chiến lược của Liên Âu. Không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, EU luôn kêu gọi bảo vệ tự do hàng hải trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế và ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ. Tuy nhiên, dường như những hành động quân sự hóa, những hành vi gây hấn ngày càng hung hăng và những đòi hỏi chủ quyền ngày quá đáng của Trung Quốc trên Biển Đông đang trở thành một mối đe dọa trực tiếp đối với các giá trị căn bản mà Châu Âu bảo vệ".
Việt Nam đang phải đối mặt với đe dọa ngày càng lớn do chính sách bành trướng của nước láng giềng lớn Trung Quốc, chỉ có sự ủng hộ ngoại giao quốc tế, bên cạnh việc tăng cường khả năng quân sự, mới mong ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh và giữ được chủ quyền biển đảo không để bị mất thêm hay tránh bị quấy nhiễu hăm dọa như trường hợp ở bãi Tư Chính.
Một thỏa thuận quốc phòng với Liên Hiệp Châu Âu sẽ giúp Việt Nam thêm bạn bớt thù, vì thỏa thuận cho phép EU giúp đỡ các quốc gia nhỏ bảo vệ quyền chủ quyền và lợi ích chính đáng, cũng như "giữ gìn trật tự đa phương trên cơ sở luật pháp quốc tế" như tuyên bố của bà Federica Mogherini tại Hà Nội.
Ký được một thỏa thuận quốc phòng với EU dù thế nào vẫn là thắng lợi về mặt ngoại giao của Hà Nội, trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh trên Biển Đông như hiện nay.
Sự quan tâm của Liên Hiệp Châu Âu đến an ninh của khu vực Đông Nam Á cho thấy các cường quốc đang chia sẻ những lo ngại để bảo vệ tài sản chung của quốc tế và để ngăn chặn tham vọng bá chủ trên biển của Trung Quốc. Theo chuyên gia Heydarian, được trích dẫn ở trên, "Châu Âu sẽ phải trở thành nhân tố quan trọng hơn trong những hành động tập thể nhằm duy trì trật tự trên cơ sở luật pháp tại Châu Á".
Anh Vũ
Nguồn : RFI, 09/08/2019
Lãnh đạo ngoại giao Liên Hiệp Châu Âu cảnh báo về quân sự hóa Biển Đông (RFI, 05/08/2019)
Tai Hà Nội hôm nay, 05/08/2019, Đại diện cao cấp về ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu Federica Mogherini cảnh báo là việc Trung Quốc "quân sự hóa" Biển Đông đang đe dọa hòa bình tại vùng biển tranh chấp này. Trung Quốc đã bị tố cáo triển khai nhiều chiến hạm, đặt nhiều vũ khí trên các đảo mà họ bồi đắp, tấn công các tàu cá, đặc biệt là của Việt Nam, ở vùng Biển Đông.
Đại diện cấp cao về ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu Federica Mogherini và ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại Hà Nội, ngày 05/08/2019. Reuters/Kham
Bà Mogherini thăm theo lời mời của ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh. Phát biểu trong cuộc họp báo chung với ông Phạm Bình Minh hôm nay, bà Federica Mogherini cho biết là Liên Hiệp Châu Âu rất quan ngại trước tình hình căng thẳng tại Biển Đông, cho rằng đó không phải là những yếu tố thuận lợi cho môi trường hòa bình, ổn định tại khu vực.
Căng thẳng giữa Việt Nam với Trung Quốc đã gia tăng, sau khi Bắc Kinh vào đầu tháng 7 vừa qua đưa tàu khảo sát với nhiều tàu hộ tống vào khu vực bãi Tư Chính, gần quần đảo Trường Sa, tức là nằm trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hà Nội đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút các tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, nhưng các tàu này cho tới nay dường như vẫn còn trong khu vực bãi Tư Chính.
Theo báo chí trong nước, trong bản thông cáo chung, được công bố hôm nay, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu cho biết đã hoàn tất việc đàm phán Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của Liên Hiệp Châu Âu (Hiệp định FPA). Hai bên đang "hoàn thiện các thủ tục nội bộ dẫn tới việc ký kết, phê chuẩn và thực hiện đầy đủ Hiệp định trên".
Thanh Phương
******************
EU chỉ trích Trung Quốc tiến hành quân sự hóa Biển Đông (RFA, 05/08/2019)
Hoạt động quân sự hóa Biển Đông đang đe dọa hòa bình tại khu vực có tranh chấp giữa các bên.
Trung Quốc đưa tiêm kích Su-35 ra Biển Đông - AFP
Đây là phát biểu của Phó Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, bà Federica Mogherini, nhân chuyến thăm đến Hà Nội vào ngày 5 tháng 8. Hãng AFP loan tin cho biết bà Federica Mogherini nói rõ Liên Minh Châu Âu quan ngại về tình hình căng thẳng gia tăng tại khu vực Bỉển Đông.
Cũng theo nguyên văn lời của bà Federica Mogherini thì hoạt động quân sự hóa chắc chắn không dẫn đến một môi trường hòa bình.
Bà này nhắc lại ủng hộ của quyền tự do đi lại, tự do hàng không trên biển và ủng hộ tiến trình hoàn tất đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử tại Biển Đông (COC) và tôn trọng Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982.
Trong cùng ngày, theo truyền thông trong nước, Bà Federica Mogherini bày tỏ vui mừng lần đầu đến thăm Việt Nam tại cuộc hội đàm với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh về chính sách đối ngoại và an ninh. Tại đây, bà Federica Mogherini khẳng định EU coi Việt Nam là đối tác hàng đầu tại khu vực và EU đang triển khai nhiều chính sách và biện pháp cụ thể để phát triển sâu rộng hơn các mối quan hệ hợp tác với Việt Nam.
Theo tin từ báo Tuổi Trẻ, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đánh giá cao hỗ trợ của EU và các nước thành viên EU dành cho Việt Nam. Nhân dịp này, ông Phạm Bình Minh đề nghị phía EU tiếp tục duy trì ODA cho Việt Nam để tăng cường lực thể chế, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển bền vững.
Theo thông cáo chung do phía EU công bố trong ngày 5/8/2019, EU và Việt Nam hoan nghênh việc kết thúc đàm phán Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (Hiệp định FPA).
Nếu đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc trên biển chỉ dừng ở mức va chạm, Ba Đình có xu hướng bóp nghẹt truyền thông và ngăn chặn biểu tình vì rủi ro trên bờ khi đó sẽ lớn hơn trên biển.
Biển Đông : Phép thử ý Đảng lòng Dân
Khi đụng độ leo thang tới mức có nguy cơ xung đột vũ trang, sẽ bắt đầu xuất hiện những lời kêu gọi yêu nước, như đang râm ran hiện nay. Truyền thông bắt đầu được mở van nhỏ giọt, biểu tình được chiếu cố, miễn sao vẫn trong tầm kiểm soát về quy mô và chủ đề. Như cánh cửa mở hé, sẽ đóng sập lại ngay nếu chuyện ngoài biển không còn căng thẳng nữa.
Khi nguy cơ mất đảo hiển hiện, những lời kêu gọi sẽ bùng phát dưới giọng hiệu triệu, vực dậy cả hồn thiêng sông núi lẫn anh linh tử sĩ. Báo chí được lệnh lên bài thả ga, mọi cuộc biểu tình từ quốc doanh đến dân doanh đều được cổ vũ nhằm, như một tờ báo gần đây giật tít, ‘huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền’.
Ngày 14/07/2019, 12 tàu kiểm ngư Việt Nam đang đối đầu với 20 tàu tuần duyên Trung Quốc ngoài khơi Việt Nam - Ảnh Hà Nội News
Nhưng vì sao lại phải nhọc công hiệu triệu toàn dân ?
Toàn dân sẽ giữ được đảo nếu Trung Quốc nhất quyết đánh chiếm hay sao ?
Chiến lược chiến tranh nhân dân (toàn dân đánh giặc) từng rất hiệu quả trước đây khi chiến cuộc chủ yếu diễn ra trên đất liền, nhưng với môi trường tác chiến trên biển dựa vào hải quân và không quân, thì chiến tranh nhân dân thế nào ?
Ngư dân được phát súng và huấn luyện sơ sài (dân quân biển), nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên biển, sẽ làm được gì trước tàu chiến, máy bay và tên lửa hiện đại của Trung Quốc ?
Cũng có người cho rằng toàn dân hưởng ứng thì sẽ giúp lên tinh thần. Không sai, nhưng tinh thần lên cao liệu có bù đắp được chênh lệch về khí tài, năng lực, nhân sự đôi bên trong bối cảnh tác chiến hiện đại ?
Vậy tóm lại kêu gọi toàn dân để làm gì ?
Để chạy trách nhiệm.
Một khi có sự tham gia của toàn dân nhưng đảo vẫn bị mất thì Ba Đình có thể mạnh dạn nói rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã cố gắng hết sức nhưng mà Trung Quốc mạnh quá nên rất tiếc là đảo đã bị mất. Trách nhiệm của chung thì không ai có trách nhiệm.
Thế nhưng có vẻ người dân đang làm phá sản tính toán này của Ba Đình bằng cách tỏ ra thờ ơ với mọi lời kêu gọi có đóng dấu đỏ.
Bằng cách đó họ gửi một thông điệp không thể rõ ràng hơn : Các ông bà lâu nay đòi độc quyền yêu nước - ‘để Đảng và Nhà nước lo’, vậy nên nếu mất biển mất đảo thì các ông bà phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước quốc dân và lịch sử, chứ không có cái gọi là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân nữa. Chúng tôi để cho Đảng và Nhà nước lo hết, nhưng nếu để mất biển mất đảo, các ông bà trước thì mất hết với chúng tôi, sau thì mãi mãi ô danh với lịch sử.
Nhưng cớ sao người dân lại giữ một thái độ như vậy ?
Có ý kiến nói rằng vì lòng yêu nước của người dân đã nhiều lần bị xúc phạm : từng viết bài, xuống đường phản đối Trung Quốc nhưng nhẹ thì bị đánh đập, sách nhiễu, nặng thì bị bắt bớ, giam cầm nên giờ họ không còn tha thiết nữa.
Có thể là vậy, nhưng nếu lẽ thường thực tâm yêu nước thì đoạn đầu đài cũng chẳng ngán, huống chi chỉ là đòn roi và ngục tù.
Mấu chốt ở đây là, càng ngày người dân càng nhận rõ rằng đổ xương máu dưới lời hiệu triệu ấy để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nếu có thành công đi chăng nữa, quốc gia vẫn chỉ là tài sản riêng của một nhóm nhỏ người mà chẳng có phần nào của mình trong đó. Vậy hà cớ gì phải hao tâm tổn trí cho cái không phải của mình ? Người dân đang và sẽ quay lưng trước lời hiệu triệu của đảng không khác gì từng nhếch mép trước lời kêu gọi kháng Pháp của triều đình nhà Nguyễn vậy.
Nghĩa là, yêu nước thì vẫn yêu đó, nhưng yêu chứ đâu có ngu. Lòng yêu nước trở thành thứ quý giá mà dân nhất quyết không đưa ra dù đảng luôn miệng : ‘hãy trao cho anh’.
Thế giải pháp ở đây là gì ? Làm sao còn có thể hiệu triệu được lòng dân ?
Chỉ bằng cách thực tâm cải cách chính trị, mở rộng các quyền tự do dân chủ, khiến người dân thực sự cảm thấy đất nước này là của họ, chứ không phải là của riêng một vài cá nhân, gia đình hay bè đảng nào. Mà động thái cần thiết đầu tiên là trả tự do cho tất cả những người đang bị giam cầm chỉ vì yêu nước khác cách của đảng.
Bởi lẽ, đến cuối cùng người ta chỉ dám sống dám chết để bảo vệ những gì người ta coi và tin là của mình. Đất nước cũng vậy, chỉ khi người ta thấy mình thực sự có quyền làm chủ thì chẳng cần ai kêu gọi cũng tự nhiên dốc lòng dốc sức, đổ xương đổ máu ra bảo vệ.
Trái lại, không thể khác, là thờ ơ, cho tới khi mất cả.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 05/08/2019 (nguyenanhtuan's blog)