Chẳng phải ngẫu nhiên mà vào thời gian này bỗng dưng rộ lên dư luận trên mạng xã hội về chiếc đồng hồ đeo tay có giá trị đến nửa tỷ đồng của nhân vật quyền lực thấp nhất trong ‘tam trụ’ Đảng cộng sản Việt Nam - Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, còn cách đây không lâu quan chức này đã bị dư luận ‘tính sổ’ có đến ít nhất 300 bộ áo dài với giá trị ít nhất 30 tỷ đồng…
Chính trường Việt Nam nóng bỏng trước ‘đại hội trung ương 11’
Quan chức nào dính ‘chưởng’ ?
Cũng không thể ngẫu nhiên khi vào thời gian này, một trong những ứng cử viên của cái ghế tổng bí thư, hoặc ghế đúp tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, là Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc bị dư luận mổ xẻ về căn bệnh ‘giả số liệu’ của ông ta - liên quan đến những thành tích tăng trưởng GDP rất ấn tượng, luôn trên 7% bất chấp nền kinh tế Việt Nam đã sa chân vào tình trạng suy thoái trong 11 năm lên tiếp kể từ năm 2008, nhưng lại chẳng trưng ra được cơ sở thuyết phục nào cho cách tính ấn tượng đó. Hầu như đồng thời nổ ra vụ cái chết của một cháu bé tại trường mẫu giáo quốc tế Gateway - nơi được cho là có cổ phần chi phối của cô con gái của Thủ tướng Phúc…
Hoặc lần đầu tiên Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng - dù không nằm trong ‘tam trụ’ nhưng về thực chất lại là nhân vật quyền lực số 2 trong đảng cầm quyền, đã công khai ra đòn "Đi cơ sở mà tổ chức đoàn xe dài dằng dặc là rất phản cảm". Cách nói vừa trống không vừa tràn ngập tính ẩn dụ này đã khiến dư luận liên tưởng ngay vụ đoàn xe sang ‘dài dằng dặc’ của tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về Hội An - một thành phố miền Trung - để ‘vinh quy bái tổ’ vào năm 2016 và đã bị mạng xã hội lấy đó làm đề tài châm biếm thượng thặng cùng chỉ trích dữ dội.
Khoảng thời gian này cũng là lần đầu tiên ứng cứ viên số một và là ‘truyền nhân’ đầu bảng của Nguyễn Phú Trọng là Trần Quốc Vượng bị đơn thư tố cáo tung lên mạng xã hội. Đơn thư này không đề cập đến hiện tượng ‘Hai Đê’ (đất và đô) của quan chức thường trực ban bí thư, mà chỉ trích ông ta có thói ‘ẩn mặt’ - điều giống hệt Nguyễn Phú Trọng.
Trong khi đó, trên mạng xã hội đã xuất hiện loạt bài viết ‘Hướng đến đại hội 13’ của tác giả ký tên Hoàng Việt, với rất nhiều chi tiết ruột rà trong nội bộ đảng lẫn nội bộ ngành công an mà khiến người đọc phải hình dung ngay tác giả là người ‘tay trong’ thì mới có được những thông tin như thế. Những bài viết này chĩa mũi dùi vào một số quan chức bộ chính trị còn muốn đi tiếp và ‘vươn lên một tầm cao mới’ như Bộ trưởng công an Tô Lâm, Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính, Bí thư Hà Nội Hoàng Trung Hải, Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình và những quan chức cấp ‘trung ủy’ như Trần Cẩm Tú - Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương, Nguyễn Hòa Bình - Chánh án Tòa án tối cao…
Tựu trung các yếu tố đấu đá trên là rất gần với không khí ‘toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng đại hội 13’.
Nhưng ngay trước mắt là một ‘đại hội’ rất quan trọng : Hội nghị trung ương 11 sẽ diễn ra vào cuối năm 2019.
Thế trận nào trước đại hội 13 ?
Nếu Hội nghị trung ương 10 vào tháng 5 năm 2019 chủ yếu ‘sắp ghế’ cho 200 ủy viên trung ương, thì Hội nghị trung ương 11 thậm chí còn có tầm đại hội đảng với nhiệm vụ chốt danh sách sơ bộ các gương mặt ủy viên bộ chính trị cho khóa 13. Nếu Hội nghị trung ương 10 chỉ là cuộc đấu giữa những ‘cá bé’, thì Hội nghị trung ương 11 mới thật sự là cuộc sát phạt của ‘cá mập’ với nhau.
Vào cuối năm 2018, Hội nghị trung ương 9 đã lấy phiếu thăm dò tín nhiệm của các ủy viên trung ương đối với Bộ Chính trị. Tuy nhiên điều lạ lùng là mặc dù mục tiêu lấy phiếu thăm dò tín nhiệm được đảng cầm quyền cho báo chí công bố từ khá sớm, nhưng sau khi hội nghị này kết thúc và mãi cho đến nay vẫn không thấy đảng công bố kết quả phiếu thăm dò tín nhiệm của từng ủy viên bộ chính trị, đặc biệt là với ‘trường hợp đặc biệt’ Nguyễn Phú Trọng. Một số đánh giá cho rằng sở dĩ kết quả phiếu thăm dò tín nhiệm không được công bố, hoặc bị giấu biến đi như thế có thể là do kết quả đó không thật thuận lợi, hoặc khá bất lợi đối với một số ủy viên bộ chính trị đầu não, nhất là ông Trọng.
Ngay từ bây giờ, bầu không khí sát phạt đã trở về thời tiền đại hội 12, vào năm 2015. Khi đó, cuộc chiến không khoan nhượng ‘Trọng - Dũng’ đã kéo theo những chiến dịch vừa PR vừa đánh đấm tưng bừng diễn ra trên một số trang mạng xã hội - nơi duy nhất được lợi dụng để tung tóe những màn thanh trừng chính trị.
Vào tháng Giêng năm 2015, một cuộc bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm dành cho Bộ Chính trị đã diễn ra tại Hội nghị trung ương 10. Nhưng cũng như Hội nghị 9 vào cuối năm 2018, kết quả thăm dò phiếu tín nhiệm tại Hội nghị 10 thời tiền đại hội 12 đã không bao giờ được công bố. Tuy nhiên theo rất nhiều thông tin công bố trên mạng xã hội mà cho tới nay vẫn không hề bị phản bác bởi các cơ quan của đảng và của chính phủ, trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bất ngờ leo lên đầu bảng tín nhiệm tại Hội nghị trung ương 10 thì tổng bí thư khi đó là Nguyễn Phú Trọng chỉ xếp thứ 8.
Kết quả ‘không không thấy’ về thăm dò tín nhiệm bộ chính trị tại Hội nghị trung ương 9 cuối năm 2018 cho thấy ngay cả Nguyễn Phú Trọng - dù khi đó đã trở thành ‘tổng tịch’ vì soán được cái ghế của kẻ chẳng may qua đời là Trần Đại Quang, cùng quyền lực đã trở nên thượng đẳng tập quyền đến mức chưa từng có, cũng không thể tự bảo đảm cho ông ta suất chủ tịch nước hoặc tổng bí thư, hoặc cả hai tại đại hội 13 do phải đối phó với quá nhiều ‘thù trong giặc ngoài’.
3 năm sau đại hội 12, một số nhóm quyền lực - lợi ích cũ đã tạm lui vào hậu trường, nhường chỗ cho những nhóm quyền lực - lợi ích mới. Cuộc sát phạt này cũng hứa hẹn kịch tính và máu lửa không kém thua trận chiến ‘hai cọp’ trước đại hội 12.
Chỉ có điều, đặc thù của thời đại mới đã được tô thắm bới tính chất đa phe phái, đa trung tâm quyền lực hơn và do đó cũng kéo theo nhiều nhóm lợi ích hơn.
Nếu cuộc chiến trước đại hội 12 chủ yếu xoay quanh trục Trọng - Dũng, thì thế trận trước đại hội 13 phong phú hơn khá nhiều : các phe phái - chủ yếu là ‘phe chính phủ’ và ‘phe đảng’ tranh giành quyền lực, còn Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một nhóm đối thủ mà có thể bao gồm phe chính phủ lẫn bên đảng muốn triệt tiêu ‘sự nghiệp cách mạng’ của ông ta.
Vượng, Phúc và còn hơn thế nữa…
Dù Trần Quốc Vượng ngày càng củng cố tư thế ứng cử viên số một thay cho Nguyễn Phú Trọng, nếu ông Trọng không còn đủ sức khỏe để ‘cống hiến lâu dài cho đất nước và nhân dân’, bản thân Vượng lại phải đối phó với những nhóm quyền lực kiêm tài phiệt hung dữ mà có thể hất đổ ông ta vào bất cứ lúc nào.
Ứng cử viên số 2 - Nguyễn Xuân Phúc - là quan chức được xem là hội tụ đầy đủ tư cách ‘mạnh vì gạo bạo vì tiền’, cho dù ông ta có vẻ không được sủng ái bởi Nguyễn Phú Trọng do cố tật nói quá nhiều, khoe khoang không kém của Phúc và lúc nào cũng kè kè các đại gia bên Phúc.
Nhưng không chỉ có thế. Sau Vượng và Phúc còn cả một lô quan chức khác như Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Minh Chính, Trương Hòa Bình, Vương Đình Huệ, Nguyễn Văn Bình, Tô Lâm, Võ Văn Thưởng, Nguyễn Thiện Nhân…, mà bất kỳ ai trong số đó cũng đều sẵn sàng và nhăm nhe trám vào vị trí của một kẻ bại trận bị văng ra từ võ đài nảy lửa.
Cái cảnh hỗn chiến nhộn nhạo như thể ‘đạp lên đầu giặc mà tiến’ ấy cứ thế diễn ra trong bối cảnh kẻ thù phương Bắc đang cho tàu quần thảo ở bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, con dân đất Việt một lần nữa rơi vào họa mất nước, còn toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam vẫn như thể kiên định… bám bờ.
Đến giờ phút này, ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Nhưng sẽ là ‘xoay trục’ ra sao và đến mức độ nào ?
‘Hải Dương 8’ là đáp án thích đáng cho phương trình ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’
Hậu quả từ mê nhảm ngủ ngày
Chiến dịch gây hấn của Trung Quốc mang tên ‘Hải Dương 8’ cùng những trò phép tiếp sau tàu này nổ ra tại Bãi Tư Chính của Việt Nam vào năm 2019 hoàn toàn xứng đáng là đáp án thích đáng cho phương trình ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ mà giới chóp bu Hà Nội vẫn mê nhảm trong cơn ngủ ngày.
Cơn ngủ ngày đó đã lê lết thảm thiết từ tháng 5 năm 2014 - khi nổ ra vụ giàn hoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam… cho tới tận giờ này.
Cái cách mà Nguyễn Phú Trọng bày tỏ ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ hệt như lối lấy lòng ‘đảng anh’ của ông ta chỉ tổ khiến Tập Cận Bình lên mặt trịch thượng và ‘mềm nắn’ hơn nữa với ‘đứa con hoang đàng’ (từ ngữ mà Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã xỉ vả các ủy viên bộ chính trị Việt Nam ngay tại Hà Nội vào năm 2014, vài tháng sau khi xảy ra biến cố Hải Dương 981).
Tính thực chứng về hậu quả đã hiện ra rất rõ : bất chấp những chuyến ‘triều kiến’ liên tục của đích thân Nguyễn Phú Trọng và và các nhân vật còn lại trong ‘tứ trụ’ vào thời Trần Đại Quang còn chưa chết và vào thời hậu Quang, bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúc cung muối mặt mời Tập Cận Bình phát biểu trong nghị trường của một quốc hội ‘nghị gật’ ở Hà Nội trong lúc công an Việt thẳng tay đánh đổ máu đồng bào mình vì dám phản đối họ Tập, cũng bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúi mình ký kết với Trung Quốc hàng chục văn kiện hợp tác và thỏa hiệp về nhiều chuyện - đặc biệt là cơ chế nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc và cho nhà thầu Trung Quốc những ưu đãi quá lớn - sau vụ Hải Dương 981…, Bắc Kinh vẫn tuần tự và lạnh lùng đánh thẳng vào yết hầu nuôi đảng của ‘đảng em’ Việt Nam là Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp - lần đầu vào tháng 7 năm 2017, lần thứ hai vào tháng 3 năm 2018 và thêm một lần nữa - nguy biến hơn hẳn - vào năm 2019.
Chính sách ‘ba không’ của chính thể độc tài ở Việt Nam đã vỡ vụn như những con tàu ngư dân Việt bị lừa bọc bằng sắt gỉ của Trung Quốc để khi tiến ra biển lớn đã vỡ tung. Nhưng với não trạng bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’ của giới cầm quyền ở Việt Nam, sự thể cay đắng nhất, cay đắng tận cùng vẫn là việc ‘đảng em’ bị chính ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ - như cách mà Hà Nội thường tụng ca Trung Quốc đến ngút ngàn mây xanh’ - ép vào tử lộ.
‘Trung Quốc dồn Việt Nam vào chân tường rồi !" - lời tán thán thốt lên bởi một viên tướng trên mâm chiếu có đến 500 tướng quân đội ở Việt Nam - hẳn đã phản ánh cái thế ‘kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’ mọp lạy bỉ bôi đến thế nào.
Nếu mất Bãi Tư Chính ?
Đã đến nước này, không phản ứng thì chỉ có chết. Chết theo đúng nghĩa bóng và cả nghĩa đen.
Bởi Bãi Tư Chính - nơi mà Trung Quốc không thèm giấu giếm ý đồ muốn nuốt trọn - là khu vực màu mỡ nhất về dầu và khí đốt, tập trung nhiều nhất các lô dầu khí là tiềm năng thiên nhiên duy nhất còn lại ở Việt Nam, sau khi ‘rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu’ đã cạn kiệt và hoang hóa sau hơn bốn chục năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ và bởi nguồn cơn ‘có cho người cộng sản cả một sa mạc thì họ vẫn phải nhập khẩu cát’.
Sự thật rành rành là nếu mất Bãi Tư Chính, hoặc nếu không mất nhưng phải cắm mặt ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ với Trung Quốc để chấp nhận chia tỷ lệ đến 60% hoặc hơn cho ‘đồng chí tốt’, trong khi Bắc Kinh chỉ đơn giản là thò tay vào túi người khác móc tiền, chính thể Việt Nam sẽ mất trắng hoặc mất phần lớn số ngoại tệ lên đến 4-5 tỷ USD mỗi năm - bằng với ngân khoản chi phí cho quốc phòng và bổng lộc hàng năm cho 500 tướng quân đội cùng nhiều ngàn đại tá của chế độ này.
Trong khi đó, tình cảnh đã trở nên bĩ cực đến khôn tả : cho dù luôn tuyên rao có chẵn một chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với nhiều quốc gia trên thế giới, đã không một bàn tay nào được chìa ra cho Việt Nam kể từ khi nổ ra vụ Hải Dương 981 và tiếp đến vụ Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019. Trong số đó, có cả hai ‘đối tác chiến lược’ có lợi ích ở Bãi Tư Chính là Tây Ban Nha - mỏ Cá Rồng Đỏ, và Nga - mỏ Lan Đỏ, đều tuyệt đối im tiếng.
Trong tận cùng nỗi ‘cô đơn chiến lược’ như thế, rốt cuộc chính thể Việt Nam phải dựa vào ai ?
Chỉ còn có Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông.
Làm sao để bỏ đá ghè chân mình ?
Mỹ cũng có lợi ích về dầu khí ở vùng biển ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi của Việt Nam : mỏ khí đốt Cá Voi Xanh có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và có thể mang lại đến 60 tỷ USD - một con số khổng lồ và cực kỳ hấp dẫn để trám bù vào ngân sách hộc rỗng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhưng Mỹ lại chưa hề là ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Thậm chí Mỹ còn bị Nguyễn Phú Trọng và những người đồng đảng của ông ta xem là ‘đối tác toàn diện loại thường’.
Bài toán đặt ra với Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’.
Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam mà đã tự lấy đá ghè chân mình.
Bởi thực chất mối quan hệ ‘đối tác chiến lược’ mà giới chóp bu Việt Nam đang muốn tìm kiếm ở người Mỹ là sẽ phải giải tỏa những nguyên tắc cản đường : không những Việt Nam và Mỹ phải tiến đến một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ theo mô hình tương trợ quốc phòng mà Mỹ đã ký và thực thi với Philippines, mà Việt Nam phải thừa hiểu là chỉ khi cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở quân cảng Cam Ranh thì tàu Mỹ và máy bay Mỹ mới có thể khống chế được các tàu và máy bay Trung Quốc từ phía Bắc lấn xuống Biển Đông.
Chứ không thể chỉ bằng cách ‘đọc vẹt’ của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam về ‘tôn trọng tự do hàng hải’ và cả ‘tự do hàng không’ là đã đủ cho mối quan hệ tương trợ quốc phòng Việt - Mỹ. Cũng không chỉ bằng cử chỉ âm thầm ‘trốn’ không chịu đi Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng.
Nếu chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2019 như một dự kiến mới nhất, đó sẽ là cuộc làm việc còn quan trọng hơn cả sĩ diện của cá nhân ông Trọng. Đó là vận mạng của các mỏ dầu khí ở Biển Đông, của ngân sách đảng, thậm chí còn là số phận của Đảng cộng sản Việt Nam và của toàn bộ lực lượng ‘còn đảng còn tiền’ và ‘còn đảng còn mình’.
Đến giờ phút này, Việt Nam ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác. Cần có một điểm gặp nhau của chính sách xoay trục của Hoa Kỳ về Châu Á - Thái Bình Dương từ năm 2013 với chủ trương xoay trục từ phương Bắc sang phương Tây của Việt Nam ngay vào lúc này, sau khi giới chóp bu Hà Nội đã bỏ lỡ không ít cơ hội để làm điều đó suốt từ năm 2014 đến tận gần đây.
Điểm gặp nhau đó sẽ thành hình vào lúc nào và như thế nào ? Mọi chuyện tùy thuộc vào cái thế bị dồn đến chân tường của Việt Nam, và phụ thuộc phần lớn vào quan điểm và ‘bản lĩnh Nguyễn Phú Trọng’ khi ông ta đàm phán ở Washington không chỉ với Donald Trump mà cần với cả Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 05/09/2019
"Gia đình tôi 4 người, hai con nhỏ đi học, lấy đâu ra 2.540 USD x 4, tức bằng số tiền hơn 238 triệu đồng/năm ?" - một tờ báo chuyên phân tích kinh tế - tài chính ở Việt Nam phóng ra câu hỏi chết người dành cho Tổng cục Thống kê.
Ông Phúc trong lần tiếp cận nổi tiếng đến ông Trump tại G20 Osaka, Nhật Bản ngày 28/6/2019. Photo : Chụp từ VTV1.
Dân Việt bỗng giàu thêm 400 USD/năm (!?)
Và có lẽ cho cả Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Tại hội nghị Cải thiện năng suất lao động diễn ra vào tháng 8 năm 2019, Tổng cục Thống kê bất ngờ công bố vừa hoàn thành cách tính GDP mới, theo cách tính này GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng đạt 3.000 USD/người/năm.
Công bố trên đã làm cho mỗi đầu dân bỗng giàu lên gần 400 USD và nền kinh tế bỗng nhiên có thêm 40 tỷ USD so với cách tính áp dụng thời gian trước đây (theo cách tính trước, nền kinh tế Việt Nam năm 2018 có quy mô khoảng 5,5 triệu tỉ đồng (hơn 240 tỉ USD), tổng GDP bình quân đầu người là 2.590 USD/người/năm).
Nhưng con số trên cũng khiến khiến nhiều chuyên gia và cả giới đại biểu quốc hội nóng mặt.
Một lần nữa, những chuyên gia phân tích độc lập - như TS Bùi Trinh - phản pháo : "tính thêm khu vực này vào GDP chỉ có lợi ích duy nhất là làm đẹp thành tích tăng trưởng nhưng lại lợi bất cập hại ở chỗ kéo tỉ lệ bội chi và nợ công nhỏ xuống", và "Nợ công và bội chi phải nhìn nhận ở con số tuyệt đối, nếu hạ "ảo" để đạt thành tích sẽ khiến các nhà làm chính sách và cả người dân quên đi thực tại".
Còn tác giả của câu hỏi "Gia đình tôi 4 người, hai con nhỏ đi học, lấy đâu ra 2.540 x 4, tức bằng số tiền hơn 238 triệu đồng/năm ?" đã làm một cuộc khảo sát nhỏ với 5 người, cùng một câu hỏi "Thu nhập bình quân đầu người Việt Nam hiện nay là bao nhiêu ?". Nhưng không một ai nhớ rõ mà phải nhờ Google.
Đáng chú ý là trong số 5 người được hỏi có 3 người là giáo viên, quân nhân, mặc dù được xếp vào hạng ổn định hơn đại đa số nhưng thu nhập chính thức cả năm không thể đạt con số 238 triệu đồng. Họ bắt đầu cãi nhau dữ dội hơn, cho dù tất cả đều biết có những người giàu và siêu giàu ở đâu đó đang "chia đều" gánh cho cả xã hội.
Vài năm nay, Việt Nam góp mặt ngày một nhiều trong danh sách tỷ phú đô la do Forbes bình chọn, khối tài sản của các đại gia được "soi" rất kỹ, thậm chí có người đã tính khối tiền như núi của doanh nhân kia nếu tiêu một tỷ đồng/ngày thì phải mất hàng trăm năm mới hết sạch !
Nghịch lý là ai cũng chỉ nhìn về hào quang đó để võ đoán tăng trưởng kinh tế, xã hội giàu lên, nhưng đằng sau đó, có hàng triệu người phá sản, hàng chục ngàn doanh nghiệp giải thể - đồng nghĩa với việc họ không còn đóng góp đáng kể gì cho GDP.
Thật sự, không mấy ai quan tâm đến khái niệm GDP và GDP/đầu người của đất nước, vì điều đó đối với hầu hết là không quan trọng bằng mâm cơm gia đình. Nhưng mặc nhiên đối với chính quyền, cơ quan hoạch định chính sách - GDP là biểu số hết sức quan trọng.
Và người ta cũng nghi ngờ là Tổng cục Thống kê, theo chỉ đạo của ‘ai đó’, đã tính cả kinh tế ngầm vào GDP để chỉ số này được tốt mã, và cái chỉ số GDP nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo như thế có lợi cho ai…
"GDP tăng trưởng có cánh"
Khác hẳn với lời ta thán về nguy cơ "nợ công nếu tính đủ thì đã vượt trần" vào cuối năm 2016 và "sụp đổ tài khóa quốc gia" vào đầu năm 2017, đến đầu năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bất thần đổi giọng khi có đến hai lần yêu cầu Tổng cục Thống kê "tính lại GDP", với lý do "Hàng vạn cái nhà lầu, hàng trăm chiếc ô tô đăng ký mỗi tháng ở Thành phố Hồ Chí Mịnh, Hà Nội mà chả tính được cái gì, bỏ rơi hết. Nếu cộng thêm được 30% nữa thì không phải 5 triệu tỉ đồng ; mẫu số lớn lên, quy mô nợ công sẽ giảm xuống, có tiền cho đầu tư phát triển", và giải thích thêm về tăng trưởng : "GDP đạt trên 5,1 triệu tỉ đồng. Con số này rất quan trọng, từ tổng GDP này làm cho nợ công thời điểm này còn 61,3% GDP, như vậy, so với đầu năm 2016 là chúng ta kịch trần 64,5-64,6% GDP".
Hai lần yêu cầu trên xảy đến tại hội nghị tổng kết của Bộ Tài chính và tại hội nghị tổng kết của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho dù bị nhiều dư luận phản ứng và nghi ngờ về "GDP tăng trưởng có cánh" tại kỳ họp quốc hội cuối năm 2017 mà ông Phúc đã phải trần tình là ông "không can thiệp vào việc tính GDP".
Ngay sau hội nghị trên, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm thông báo rằng cơ quan này "sẽ điều chỉnh quy mô GDP trên cơ sở kết quả của Tổng điều tra nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016, Tổng điều tra kinh tế năm 2017, và cơ quan thống kê sẽ trình Thủ tướng phê duyệt để thực hiện đề án thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát, nhằm thu thập đầy đủ thông tin của các hoạt động kinh tế thực tế đang diễn ra và ảnh hưởng đến quy mô nền kinh tế nhưng chưa được đo lường và tính toán đầy đủ trong GDPa".
Nói là làm ngay. Đến đầu năm 2019, sau khi Đề án thống kê khu vực kinh tế chưa quan sát (kinh tế ngầm) được Nguyễn Xuân Phúc ký phê duyệt, Tổng cục Thống kê đã ồn ào tổ chức vài cuộc hội thảo và thông tin cho báo chí về bản nhạc ‘phải đưa kinh tế ngầm vào GDP’ và ‘Nợ công Việt Nam 61,4% GDP, so với các nước khác không là gì !’ - như một cách trả lời rất ‘cố đấm ăn xôi’ trước báo giới của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm.
Theo nội dung đề án này, 5 nhóm hoạt động khu vực kinh tế chưa quan sát, gồm : kinh tế ngầm ; kinh tế bất hợp pháp ; kinh tế phi chính thức ; kinh tế tự sản, tự tiêu của hộ gia đình và hoạt động kinh tế bị bỏ sót trong chương trình thu thập dữ liệu thống kê.
Nhưng trong xã hội Việt Nam nhung nhúc ‘tư bản đỏ’ và tràn ngập tham nhũng lẫn chạy chức chạy quyền, bản chất của bài toán ‘đưa kinh tế ngầm vào GDP’ chỉ là làm tăng giá trị mẫu số trong khi tử số không thay đổi mà sẽ khiến giá trị của phân số nhỏ đi đáng kể.
Vận mạng chính trị và đống rác lịch sử
Những năm gần đây, phía chính phủ muốn tăng vay ODA mà do đó khiến tăng nợ công nhưng bị ngưỡng nguy hiểm ‘nợ công không thể vượt quá 65% GDP’ chặn lại, cũng như bị một số đại biểu quốc hội chỉ trích. Nhưng nay chỉ bằng thủ thuật kinh tế - chính trị đơn giản ‘đưa kinh tế ngầm vào GDP’, với nền kinh tế ngầm ấy có thể chiếm ít nhất 10% hoặc thậm chí đến 30 - 40% GDP trong trường hợp Việt Nam, thì khi đó tỷ lệ nợ công/GDP sẽ giảm tương ứng và giảm mạnh, có thể chỉ còn khoảng 50% GDP, trở thành một con số còn bóng lộn hơn cả báo cáo nợ công "chỉ có 55% GDP" thời Nguyễn Tấn Dũng. Một kết quả rất hấp dẫn chỉ nhờ vào việc tính toán những con số trên giấy mà chẳng phải lao tâm khổ tứ thuyết phục quốc hội lẫn ma mị dân chúng.
Một khi kịch bản "tính lại GDP" thành công theo "yêu cầu đặc biệt" của Thủ tướng Phúc, các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước cùng Chính phủ sẽ còn ‘dư địa vay nợ’ và tha hồ vay được ít ra 15% GDP nữa, tương đương khoảng 30 tỷ USD, chẳng hạn "phục vụ dự án trọng điểm sân bay Long Thành và đường bộ cao tốc Bắc Nam". Hai dự án này lần lượt chiếm vốn đầu tư là 18 tỷ USD và hơn 10 tỷ USD, cộng lại xấp xỉ với "quota" 30 tỷ USD mà Chính phủ có thể vay trực tiếp hoặc bảo lãnh vay nếu thành công trong việc "tính lại GDP". Cơ hội để các nhóm lợi ích "ăn tàn phá hại" vốn ODA và những nguồn vốn vay khác sẽ lại mở ra không khác gì thời Nguyễn Tấn Dũng.
Một cách tương ứng, ‘đưa kinh tế ngầm vào GDP’ sẽ làm giảm tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP trong lúc số tuyệt đối về bội chi không hề giảm, đồng nghĩa với việc chính phủ và trong đó có phần tiêu xài khổng lồ của khối cơ quan đảng sẽ không còn phải nhìn trước nhìn sau với tỷ lệ bội chi ngân sách 3,6% GDP hay dưới 5% GDP nữa, mà sẽ thoải mái nâng con số tuyệt đối về bội chi.
Hẳn đó là nguồn cơn khiến Tổng cục Thống kê từng muốn đưa cả ‘trà đá, xe ôm, hàng rong’ vào kinh tế ngầm !
Và một khi kịch bản "tính lại GDP" thành công theo "yêu cầu đặc biệt" của Thủ tướng Phúc, không chỉ ông Phúc được cộng điểm thành tích cho vận mạng ‘ngồi trên triệu người’ của ông ta tại đại hội 13 của đảng cầm quyền diễn ra vào năm 2021, mà gần 100 triệu con dân Việt sẽ càng có cơ hội đội thêm gánh nặng nợ nần ngập đầu cho hiện tại và cho rất nhiều đời con cháu mai sau.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/09/2019
Khi năm 2019 đã bước sang nửa cuối, thị trường tiền tệ và ngành ‘in tiền’ Việt Nam nhận được một tin tức có vẻ đáng lo ngại : Nhà máy In tiền Quốc giatrực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lỗ đến 11,2 tỉ đồng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, còn những năm trước chỉ toàn lãi và lãi…
Từ ‘lỗ đột biến’…
Nhà máy In tiền Quốc gia có trụ sở tại quận Cầu Giấy, Hà Nội. Từ năm 2010, nhà máy này được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty TNHH một thành viên với 100% vốn điều lệ đượcNgân hàng Nhà nước nắm giữ.
Ngành nghề kinh doanh chính của Nhà máy In tiền Quốc gia là in, đúc tiền, sản xuất vàng miếng, vật phẩm, lưu niệm bằng vàng và các loại giấy tờ có giá. Số lượng, doanh thu và chi phí từ hoạt động in đúc tiền của Nhà máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền kinh tế, việc điều hành chính sách tiền tệ và theo kế hoạch do Thống đốc Ngân hàng nhà nước giao.
Số lỗ hơn 11 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2019 là đáng thất vọng đối với cơ sở độc quyền về in tiền và được xem là không bao giờ lỗ. Bởi cùng kỳ năm 2018, Nhà máy In tiền Quốc gia thu lợi nhuận sau thuế tới 60 tỷ. Còn vào năm 2017, nhà máy này đã đạt lãi ròng 44 tỷ đồng.
Nếu nhìn vào báo cáo tài chính của Nhà máy In tiền Quốc gia, có thể cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng lỗ sau 6 tháng đầu năm 2019 là do chi phí hoạt động tăng cao trong khi doanh thu từ việc sản xuất giảm sút so với những năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, doanh thu tài chính của Nhà máy In tiền Quốc gia thấp hơn cùng kỳ 7 tỷ, giảm còn 10 tỷ đồng.
Nhưng vì sao doanh thu năm 2019 của Nhà máy In tiền Quốc gia bị sụt giảm ?
Phải chăng do số lượng và doanh thu in tiền của Nhà máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền kinh tế nên doanh thu sụt giảm là do nền kinh tế ‘bội thực’ với tiền mặt ?
Giả thiết trên là hoàn toàn có cơ sở khi ‘trải nghiệm’ chiều dài dĩ vãng in tiền và in tiền bạt mạng của Nhà máy In tiền Quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và sự lãnh đạo của ít nhất hai đời thủ tướng chính phủ từ Nguyễn Tấn Dũng đến Nguyễn Xuân Phúc.
Đến ‘lãi lạm phát’
Dù đến nay chính phủ và Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyệt nhiên không chịu đả động, hoặc cố tình giấu kín động thái in tiền thông qua công cụ Nhà máy In tiền Quốc gia, nhưng bản thân những con số dư nợ cho vay trong hệ thống ngân hàng đã phản ánh cơ bản nguồn cơn "vì sao tiền đồng tràn ngập thừa mứa trong ngân hàng".
Vào năm 2008, tổng dư nợ cho vay của khối ngân hàng là 2,3 triệu tỷ đồng, nhưng đến cuối năm 2018 đã lên đến 7,6 triệu tỷ đồng, tức lượng tiền mặt hiện diện trên thị trường cho đến cuối năm 2018 đã gấp gần 3,5 lần của 10 năm trước. Hẳn nhiên và tương ứng, lượng tiền được Ngân hàng Nhà nước cho in và bổ sung vào lưu thông đã có thể vào khoảng 500.000 tỷ đồng mỗi năm, tức phần "lạm phát in tiền" đã chiếm đến 10-15% hàng năm – một tỉ lệ in tiền rất cao so với tỉ lệ in tiền bình quân của các nước phương Tây.
Cũng còn một cơ sở khác để đối chiếu : theo chính các số liệu của Ngân hàng Nhà nước, mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán hàng năm ở Việt Nam luôn tăng đến 14 - 16% mỗi năm.
(Tổng phương tiện thanh toán, còn gọi là M2, bao gồm tổng lượng tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ của dân cư, doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại).
Tính đến tháng 5/2019, số dư tổng phương tiện thanh toán đã đạt đến quy mô 9.706.888 tỷ đồng (tăng 5,37% so với cuối năm 2018). Quay ngược về tháng 12/2013, quy mô này chỉ ở mức 4.400.692 tỷ đồng. Tức sau 5 năm, số dư tổng phương tiện thanh toán đã tăng hơn 2 lần.
Đáng chú ý là tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam gần như không mấy thay đổi trong nhiều năm qua, phổ biến chỉ xoay quanh mức 11,5%. Hiện tượng này đồng nghĩa với quy mô tăng đều theo tổng phương tiện thanh toán hàng năm, tức khi tổng phương tiện thanh toán tăng thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng theo.
Cũng có nghĩa là sau 5 năm, khi số dư tổng phương tiện thanh toán đã tăng hơn 2 lần thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng gấp hơn 2 lần.
Tiền mặt trong lưu thông tăng lại dẫn đến lạm phát. Chỉ xét theo số liệu về tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn 2013 - 2018 của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ lạm phát hàng năm đã lên đến khoảng 15%. Con số này là hoàn toàn trái ngược với các báo cáo mắt nhắm mắt mở và tô hồng vô liêm sỉ của Chính phủ về số liệu lạm phát chỉ dưới 5% hoặc dưới 4% hàng năm.
Hẳn đó là nguyên do khiến trong khi Nhà máy In tiền Quốc gia đột biến lợi nhuận trong những năm trước, giới cán bộ hưu trí lại thường phản ánh nhận được lương hưu với nhiều tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng, mới cứng và chắc chắn chưa được lưu hành ngoài thị trường.
Không chỉ giới hưu trí và công chức, những người thường xuyên giao dịch tại các ngân hàng thương mại cũng rất thường chứng kiến cảnh nhiều xe chở tiền mới cứng được đưa tới các ngân hàng.
Còn tại nhiều chợ đầu mối ở Sài Gòn và Hà Nội, giá thịt thà và rau củ cứ tăng đều đặn 30-40% mỗi năm, chưa kể tăng gấp đôi vào những sự kiện tăng lương, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện hay tăng giá đô la…, tạo nên một nghịch lý rất lớn hiện hình trong nội tình ngân sách và hệ thống ngân hàng Việt Nam : tiền đồng thừa ứ và đang "kiến tạo" lạm phát dần phi mã đã góp thêm một kích thích tố đẩy lạm phát tăng vọt khiến dân tình càng thêm xác xơ.
"Tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế" ( ! ?)
Vào năm 2019, có một vụ việc mà đã suýt chút nữa khiến Việt Nam lọt vào ‘danh sách các nước thao túng tiền tệ’ của Hoa Kỳ : do nóng ruột muốn gia tăng Quỹ dự trữ ngoại hối để có ngoại tệ trả nợ nước ngoài cùng khoe khoang thành tích chính trị nhằm chạy đua đến đại hội 13, chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước ồ ạt tung tiền Việt để thu gom USD trôi nổi trên thị trường. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2019, núi tiền lên đến hơn 200 ngàn tỷ đồng được tung ra lưu thông đã thu lại khoảng 8,5 tỷ USD, tạo nên thành tích chưa từng có của Quỹ dự trữ ngoại hối là có đến hơn 65 tỷ USD. Thế nhưng số ngoại tệ 8,5 tỷ USD gom được lại vượt hơn hẳn điều kiện không được vượt quá 2% GDP (một trong 3 tiêu chí của Hoa Kỳ về thao túng tiền tệ), khiến Việt Nam tuy chưa nằm trong ‘Danh sách các nước thao túng tiền tệ’ nhưng vẫn bị Hoa Kỳ xếp vào danh sách theo dõi đặc biệt.
(Mỹ sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia : thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP).
Rốt cuộc, giới chuyên gia thân chính phủ đã phải bao biện rằng hiện tượng Nhà máy In tiền Quốc gia sụt giảm về doanh thu là "tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế, cho thấy Ngân hàng Nhà nước vẫn đang theo chính sách hạn chế cung tiền ra thị trường".
Nhưng nhìn thẳng vào thực chất vấn đề, không hạn chế cung tiền thì sẽ khiến bóng ma lạm phát đội mồ sống dậy.
Bởi Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và đằng sau những cơ quan này là ‘đảng chỉ tay năm ngón’ không còn có thể in tiền và tung xả láng tiền ra thị trường như cái thời Nguyễn Tấn Dũng ‘tiền nhiều như nước sông Đà’, đưa nhiều quan chức cộng sản mấp mé danh sách tỷ phú đô la của Tạp chí nhà giàu Forbes. Nếu không kềm chế hoạt động in tiền thì bất cứ một trạng thái kích động lạm phát đủ nghiêm trọng nào cũng đều có thể làm rung chuyển chân đứng của chế độ cầm quyền ở Việt Nam, vốn đã rệu mục từ lâu bởi các núi nợ công quốc gia và nợ xấu ngân hàng.
Đó là nguồn cơn khiến số đơn hàng in tiền của Ngân hàng Nhà nước đã ít hẳn lại vào năm 2019 và làm cho Nhà máy In tiền Quốc gia bị sụt giảm doanh thu và phải chịu lỗ lớn mà không thể mở miệng than van.
Tình thế nhóm quan chức "ăn đất" trong vụ quy hoạch và cưỡng chế giải tỏa ở dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm đang có chiều hướng diễn biến tồi tệ hơn, song trùng với lực thúc ép liên tiếp của Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương để đạt được kết quả phải "ói ra".
Nhiều người dân mong đợi kế hoạch giải quyết Thủ Thiêm có kết quả tốt, để những gia đình bị ảnh hưởng vì có nhà đất bị thu hồi, giải tỏa sớm ổn định cuộc sống. (Hình : Thanh Niên)
Vẫn ngụy biện trên những xác người
Vào cuối tháng 6/2018, một trong những nội dung kết luận trong bản kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm của cơ quan Thanh tra chính phủ là buộc chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh phải hoàn trả ngân sách số tiền 26.300 tỷ đồng (hơn 1,1 triệu USD) sai phạm trong công tác bồi thường giải tỏa, nếu không trả được đến hạn cuối vào ngày cuối năm 2019 thì Thanh tra chính phủ sẽ chuyển vụ việc này cho Cơ quan điều tra.
Có thể xem yêu sách trên như một "tối hậu thư", bởi đó là lần đầu tiên con số khổng lồ 26.300 tỷ đồng được Thanh tra chính phủ công bố chính thức trong kết luận thanh tra và cho "PR" trên diện rộng các tờ báo nhà nước, còn trước đó tại bản kết luận kiểm tra (chứ không phải kết luận thanh tra) cũng của Thanh tra chính phủ vào tháng 9/2018, đã hoàn toàn không đề cập đến số tiền sai phạm ấy.
Nhưng Thành phố Hồ Chí Minh đào đâu ra số tiền 26.300 tỷ đồng để hoàn trả ngân sách trung ương ?
Trong bối cảnh rất có thể bị chính phủ thúc ép, vào tháng 8/2019, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã phải có văn bản trả lời vụ "26.300 tỷ đồng", do chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Nguyễn Thành Phong ký, nêu trong văn bản gửi thủ tướng. Theo đó, "Thành phố Hồ Chí Minh tạm ứng hơn 26.000 tỷ đồng để đầu tư vào Khu Đô thị mới Thủ Thiêm, tính đến ngày 30/09/2018. Số tiền này chủ yếu để chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị ảnh hưởng nên không thể thu hồi hoàn trả ngân sách như thông báo ngày 26/06/2019 của Thanh tra Chính phủ".
Thế nhưng cái cách giải thích của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh lại thật giống với việc giới quan chức nơi đây đã "ém" hàng núi hồ sơ khiếu nại tố cáo của dân oan Thủ Thiêm, đùn đẩy việc xử lý đơn thư này cho các cơ quan trung ương, cũng như hàng núi vụ việc tham nhũng từ "triều đại" chủ tịch thành phố và sau đó là Bí gthư thành ủy Lê Thanh Hải kéo dài đến dàn quan chức đương chức mà một số trong số đó được xem là "đệ ruột" của ông Lê Thanh Hải.
Rốt cuộc, không chỉ tấm bản đồ quy hoạch gốc Thủ Thiêm 1/5000 đã bị một bàn tay đen tối nào đó giấu nhẹm hoặc phi tang để mãi vẫn không được tìm ra, mà bao nhiêu hậu quả từ vụ giải tỏa lố đến 150 hécta đất ở Thủ Thiêm, với giá bồi thường rẻ mạt kèm thêm nhiều vụ "khuyến mãi" những xác dân tự treo cổ vì quá phẫn uất…, vẫn không hề được làm rõ cho đến ngày hôm nay.
Sự thật nào ?
Dù chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh nêu lý do là không thể thu lại từ các hộ dân đã nhận tiền bồi thường, nhưng sự thật là hoàn toàn trái ngược. Bởi sự thật là khi áp giá bồi thường trước đây, các quan chức Thành phố Hồ Chí Minh lúc đó đã tính "đơn giá" xây dựng cho các doanh nghiệp thấp hẳn so với giá thị trường, từ đó làm cơ sở tính giá bồi thường còn thấp và tệ hơn nhiều cho người dân bị giải tỏa.
Khi đó, đã chẳng có bất kỳ quy hoạch nào được giới quan chức "ăn đất" cho công khai trước người dân, dẫn đến mức giá bồi thường cho dân chỉ một vài triệu đồng/m2, trong khi giá thị trường vào thời điểm đó đã lên đến hàng trăm triệu đồng/m2, còn hiện thời là từ 150 – 200 triệu đồng/m2.
Do đó, bản chất vấn đề hiện thời là muốn có số tiền 26.300 tỷ để trả lại ngân sách trung ương thì phải truy ngược lại các doanh nghiệp được "thầu" Thủ Thiêm và tính lại đơn giá xây dựng tại các doanh nghiệp này, không phải theo "giá nội bộ" mà phải đúng giá thị trường. Nếu cơ chế tính lại này được vận hành rốt ráo và có hiệu quả, đảng của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ có ngay không chỉ 26.300 tỷ đồng mà các doanh nghiệp cùng giới quan chức phải "ói ra", mà có thể còn nhiều hơn nữa.
Thủ Thiêm là một khu vực được giới bất động sản Sài Gòn xem là cực kỳ đắc địa, là khu "đất vàng" chỉ cách khu trung tâm Quận Nhất có ba trăm thước bề rộng mặt sông Sài Gòn. Vào thời điểm công bố đền bù lần đầu tiên cho dân, giá đền bù chỉ từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng một thước vuông đất, trong khi giá thị trường khi đó đã lên đến vài ba chục triệu đồng một thước vuông. Với mức giá thị trường hiện thời và ứng với khoảng 150 hécta đất giải tỏa lố – mà hoàn toàn có thể xem là "giải tỏa ăn cướp", các doanh nghiệp đầu tư vào Khu Đô Thị Thủ Thiêm và giới quan chức ăn theo có thể thu lời ngay cho riêng tiền chênh lệch đất ít nhất 250.000 tỷ đồng, tương đương gần 11 tỷ USD !
Việc chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh phải trả lời sớm về vụ 26.300 tỷ đồng cho thấy Trưởng ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trung ương Nguyễn Phú Trọng không còn kiên nhẫn chờ đến hạn chót cuối năm 2019, mà đang chỉ đạo gấp rút để buộc Thành phố Hồ Chí Minh phải bồi hoàn tiền cho ngân sách, cũng là một trong những mục đích trọng tâm trong chiến dịch "đốt lò" của ông ta : thu hồi tài sản tham nhũng càng nhiều càng tốt để có tiền nuôi lực lượng "còn tiền còn đảng" và "còn đảng còn mình".
Cũng bởi thế, mối nguy hiểm đang ngày càng tiệm cận các doanh nghiệp ở Thủ Thiêm và nhóm quan chức "ăn đất" thời kỳ đó như "Hai - Hai – Ba – Sáu" ; Hai Nhựt - tức Lê Thanh Hải, Hai Quân – tức Lê Hoàng Quân, Ba Đua – tức Nguyễn Văn Đua, Sáu Cang – tức Tất Thành Cang, cùng hàng chục quan chức sở ngành liên quan.
Làm sao để được "sống ở nơi rất xa xôi ?"
"Ói ra" hay "quyết tâm thu hồi tài sản tham nhũng" đã trở thành chủ trương của đảng, khởi nguồn từ năm 2017 bởi "người đốt lò vĩ đại" Nguyễn Phú Trọng – một động thái nhái lại những gì mà ông Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn đã làm ở Trung Quốc.
Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng chỉ chưa đầy 10% trong thời gian trước đó là quá thấp và khiến ông Trọng không thể hài lòng khi, mà mục tiêu là phải bắt quan tham "ói ra" ít nhất 50% số tài sản đã "nuốt" thì mới thu hồi được một phần tiền để "hô hấp" cho đảng. Một chục ngàn tỷ đồng hoặc thậm chí nhiều gấp vài ba lần như thế mà lũ "Hai - Hai – Ba – Sáu" phải "ói lại" vào ngân sách đảng để thoát khỏi xà lim sẽ giúp đảng có đủ tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức, với 30% trong số đó bị xem là vô tích sự, trong… ba ngày.
Nhất là Lê Thanh Hải.
Đã từ lâu, ông Lê Thanh Hải không chỉ bị xem là "tội phạm" ghê gớm trong vụ "ăn đất" Thủ Thiêm mà đã đẩy hàng chục ngàn gia đình ở khu vực này vào cảnh bị cướp đất, màn trời chiếu đất và bị biến thành dân oan đất đai bất đắc dĩ, hàng chục năm trời rồng rắn kéo nhau đi khiếu nại tố cáo từ Nam chí Bắc, mà còn được một số dư luận đồn đoán là "một trong những quan chức cộng sản giàu nhất Việt Nam". Thậm chí còn có dư luận cho rằng nếu ông Nguyễn Phú Trọng làm kiên quyết vụ Thủ Thiêm và buộc ông Lê Thanh Hải phải "ói ra" thì có thể "hốt" cho ngân sách trung ương từ 3 tỷ USD đến 5 tỷ USD.
Vào tháng 8/2019, khi chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh phải muối mặt tổ chức họp báo để "nhận sai" nhiều vụ việc ở Thủ Thiêm, một chi tiết đáng chú ý là buổi họp này đã cho ra một thông tin : "Với những cán bộ cấp cao, thì phải theo thẩm quyền của trung ương. Trung ương cũng đang triển khai các công việc để đánh giá lại thực tế vai trò trách nhiệm của ai, do vậy hôm nay tôi chưa thể nói vấn đề xử lý sai phạm hay ai sai phạm".
Thông tin trên là logic với một thông tin khác nằm trong bản kết luận thanh tra của Thanh tra chính phủ về một danh sách quan chức cao cấp "ăn đất" Thủ Thiêm, không được công bố công khai trong kết luận này, đã được Thanh tra chính phủ gửi kín cho Ủy ban Kiểm tra trung ương và Thường trực Ban bí thư.
Sau "tối hậu thư" vụ 26.300 tỷ, số phận của ông Lê Thanh Hải và những đồng sự cấp dưới thời ông ta còn làm chủ tịch thành phố và bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh không còn được tính bằng quý mà là bằng tháng.
Trong những tháng tới, nếu nhóm "ăn đất" này không thể khắc phục được hậu quả, nghĩa là chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh không thể tìm được 26.300 tỷ đồng để hoàn trả lại ngân sách trung ương theo kết luận thanh tra của Thanh tra chính phủ đã công bố như một tối hậu thư vào tháng 6/2019, ông Lê Thanh Hải sẽ khó có cơ may thoát khỏi án tù như ông Đinh La Thăng, trừ khi ông ta tìm được kế sách để trở thành "có những đồng chí đang sống ở nơi rất xa xôi", tức đã "ra đi tìm đường cứu nước" có thể ở Mỹ, Canada hoặc những quốc gia khác – như tiết lộ không biết có ẩn ý gì của Phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Hoan tại buổi họp báo thông tin vụ Thủ Thiêm vào tháng 8/2019.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 25/08/2019
Một điều kinh ngạc trong thể chế độc tài toàn trị của các nhóm lợi ích vẫn đang biến diễn trắng trợn và dã man : trong lúc Bộ Giao thông Vận tải triển khai phi mã dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam với đa số doanh nghiệp tham gia đấu thầu là Trung Quốc mà bất chấp làn sóng sôi trào của dư luận xã hội phản đối về âm mưu ‘bán nước’ nằm gọn trong dự án ‘Một vành đai, Một con đường’ của Trung Quốc, vụ ‘sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất’ lại bị cơ quan bộ này xử lý chậm hơn rùa bò, và như thách thức cơ quan siêu bộ cấp trên của nó là Bộ Chính trị lẫn toàn thể công luận.
Diện tích sân bay Tân Sơn Nhất chỉ còn bằng 1/5 so với năm 1975
Lại ‘câm như hến’
Thảm nạn dễ thấy nhất từ hành vi cố tình rùa bò trên là cho đến nay, đường vào sân bay Tân Sơn Nhất ( Tân Sơn Nhất) vẫn còn nguyên nỗi kinh hoàng với tất cả hành khách. Rất nhiều lần tuyến chính dẫn vào sân bay là đường Trường Sơn cùng các đường nhánh bị kẹt suốt 3-4 tiếng đồng hồ, khiến nhiều hành khách phải bỏ xe hơi, ôm hành lý chạy vội vào nhà ga phi trường để khỏi lỡ chuyến bay.
Không những kẹ dưới đất, sân bay Tân Sơn Nhất còn bí lối cả yên trời. Ngày càng dày hơn tần suất máy bay phải bay lòng vòng mà chưa thể hạ cánh theo lịch bay vì có quá nhiều máy bay muốn hạ cánh cùng một lúc.
Tuy nhiên phương án giải tỏa sân golf để lấy đất mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất và mở rộng các tuyến đường bị kẹt xe vẫn không hề được nhắc tới trong hai cuộc họp gần đây nhất của chính phủ và các bộ ngành liên quan - vào tháng 8 năm 2019 - về việc đầu tư các dự án giảm tải cho Tân Sơn Nhất và thu hồi toàn bộ đất quốc phòng hoạt động sai phạm.
Chi tiết đáng chú ý là cả thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc lẫn các quan chức lãnh đạo khối đảng và khối chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đều ‘câm như hến’ mà không đả động gì đến sân golf Tân Sơn Nhất. Còn Bộ Quốc phòng thì khỏi nói : sân golf này chính là một ‘cơ sở kinh tế quốc phòng’, là một nguồn lợi cho nhiều quan chức và có thời, khi bị dư luận xã hội và cả nội bộ đảng lên án dữ dội, sân golf này còn được tôn thành ‘lá chắn phòng thủ quốc gia’.
Cho dù vào giữa năm 2018 và sau khi Thủ tướng Phúc bị phản ứng về ý đồ ‘chỉ mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất về phía Nam’ (tức về phía khu dân cư dày đặc, trong đó có cả công viên cây xanh), chính ông ta đã phải đổi giọng khi thông báo quyết định mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất cả về phía Nam và phía Bắc (phía Bắc là nơi sân golf Tân Sơn Nhất ngự trị), và còn nói thòng "cần đất ở phía nào thì lấy đất phía đó, cần đất sân golf thì lấy đất sân golf" như để xoa dịu và vuốt ve dư luận…
Sân golf Tân Sơn Nhất, nằm ở phía Bắc, từ nhiều năm nay đã chiếm dụng một diện tích 157 ha – nằm trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, chính là nguyên nhân chính khiến cho sân bay Tân Sơn Nhất rơi vào tình trạng kẹt cứng cả dưới đất lẫn trên trời.
Nhưng vì sao Thủ tướng Phúc đã ‘gật’ về lấy đất sân golf mà hai Bộ Giao thông và vận tải và Bộ Quốc phòng vẫn chây ì không chịu thực hiện các thủ tục trả đất cho sân bay Tân Sơn Nhất ? ‘Trên bảo dưới không nghe’ hay do một sự toa rập tập thể cả trên lẫn dưới ?
Hay còn bởi một nguyên do rất đặc biệt khác : chủ đầu tư sân golf Tân Sơn Nhất muốn ‘tống tiền’ chính phủ ?
‘Tống tiền’ và ‘con tin’
Vào năm 2017 và 2018 khi vấn đề giải tỏa sân golf Tân Sơn Nhất được đặt ra, giới chủ đầu tư của sân golf này và cả vài lãnh đạo của Bộ Quốc phòng đã trắng trợn ngã giá. Một chủ đầu tư của sân golf này – ông Trần Văn Tĩnh – đã nói ra con số đó và cũng toạc ra với báo chí : "sẵn sàng bàn giao sân golf Tân Sơn Nhất, nhưng phải bồi thường !" – như một cách mặc cả với ngân sách quốc gia cùng tiền đóng thuế của dân. Theo đó nếu nhà nước thu hồi sân golf Tân Sơn Nhất, số kinh phí dùng để "bồi thường giải tỏa" cho cụm sân golf – nhà hàng – khách sạn – chung cư… đã được xây dựng quy mô và còn hứa hẹn sẽ phát triển thêm là quá lớn – lên đến ít nhất 3.000 tỷ đồng.
Hiện tượng rất đồng pha và đồng điệu là quan điểm mặc cả trên rất nhất quán từ trên xuống dưới, và từ dưới lên trên trong hệ thống "nhóm lợi ích quân đội". Chỉ khoảng 3 tuần trước khi "phải bồi thường" của ông Trần Văn Tĩnh, Thứ trưởng quốc phòng Trần Đơn cũng đã "bắn ý" về "phải bồi thường" trong hội nghị quán triệt, triển khai kết luận của Thường vụ Quân ủy Trung ương về quản lý sử dụng đất quốc phòng khu vực sân bay Tân Sơn Nhất diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh vào sáng ngày 8/8/2017.
Đó là một thách thức chưa từng có trước pháp luật, bởi hợp đồng xây dựng sân golf Tân Sơn Nhất thực chất là hợp đồng vô hiệu - điều này được khẳng định do chính Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật quốc hội Nguyễn Đức Kiên. Mà hợp đồng đã vô hiệu thì chỉ có giải tỏa trắng chứ không bồi thường gì cả. Còn việc quân đội không sử dụng hết giao cho nhà đầu tư bên ngoài khai thác làm sai mục đích sử dụng đất là Bộ Quốc phòng đã vi phạm Luật Đất đai.
Nhưng rốt cuộc đã không có một chỉ đạo nào từ Thủ tướng Phúc về trách nhiệm phải chịu đối với Bộ quốc phòng và những cơ quan liên quan.
Và rốt cuộc, sân golf Tân Sơn Nhất đã bị biến thành "kẻ tống tiền", còn ngân sách quốc gia và tiền thuế của dân tạo ra ngân sách lại bị biến thành một thứ "con tin". Vẫn hầu như không có bất cứ một chuyển động đáng kể nào về ‘mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất’ cho tới nay.
Nhưng với sân bay Long Thành thì lại là một câu chuyện khác. Khác hoàn toàn.
Đó là chiến dịch "dời Tân Sơn Nhất về Long Thành" của các nhóm lợi ích. Một chiến dịch mà nếu ca khúc khải hoàn thì sẽ ‘một ăn ba’.
Một ăn ba
Hai sân bay Tân Sơn Nhất và Long Thành có một mối ‘tham duyên’ sâu kín. Không phải bỗng dưng mà từ năm 2015, các nhóm lợi ích ODA, giao thông và chính sách đã ‘hiệp đồng tác chiến’ một cách bài bản trên hai mặt trận thủ tục hành chính và truyền thông nhằm tống tiễn càng nhanh càng tốt trọng điểm sân bay từ Tân Sơn Nhất về Long Thành như mô hình ‘cặp đôi hoàn hảo’.
Trong thâm ý lẫn tham ý của các nhóm lợi ích, dự án sân bay Long Thành không chỉ nhằm "nuốt gọn" 18 tỷ USD đầu tư với phần lớn trong số đó dự kiến là vốn vay ODA, mà còn được khuếch trương tính tầm cỡ "khu vực Châu Á" của nó để giúp giới quan chức đang "kẹt hàng" có điều kiện bán đất giá cao.
Trước đây vào thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và vào lúc ODA vẫn còn được giới quan chức tham nhũng Việt xem là ‘bò sữa’ và ‘tiền từ trên trời rơi xuống’, ý đồ này đã được hoạch định theo chiêu thức vay nguồn ODA ưu đãi để xây dựng sân bay Long Thành, đồng thời "đánh lên" bất động sản quanh khu vực này để giới quan chức dễ dàng "thoát hàng". Một khi đã chuyển được ga hàng không chính về Long Thành, toàn bộ 800 ha đất vàng của sân bay Tân Sơn Nhất sẽ có thể rơi vào tay nhóm đặc quyền đặc lợi.
Dù hiện thời chính thể độc tài ở Việt Nam không còn nhận được nguồn ODA ưu đãi từ các tổ chức tín dụng lớn của quốc tế, nhưng thay vào đó đang lẩn khuất một âm mưu vay vốn ODA của Trung Quốc để làm sân bay Long Thành mà sẽ khiến nền kinh tế và cả chính trị Việt Nam lún sâu hơn vào vực thẳm phụ thuộc Bắc Kinh, cùng đẩy nhanh âm mưu ‘bán nước’.
Âm mưu "dời Tân Sơn Nhất về Long Thành" cũng bởi thế sẽ đạt được những mục tiêu ‘một ăn ba’ nếu thành công : ‘xả hàng’ đến 5.000 ha đất xung quanh sân bay Long Thành với giá trên trời, ăn đậm ODA vay từ Trung Quốc và ‘hô biến’ đất vàng sân bay Tân Sơn Nhất.
Đã có ước tính rằng 800 ha đất vàng của sân bay Tân Sơn Nhất - nếu bị ‘hô biến’ - có giá thị trường lên đến nhiều chục tỷ US, để từ đó sẽ tràn đầy cơ hội bổ sung vào danh mục của Tạp chí quốc tế Forbes những cái tên ‘tỷ phú đỏ’ mới toanh của chế độ cộng sản Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 23/09/2019
Nếu không xảy ra một thay đổi lớn về quan điểm từ ‘xử lý nội bộ’ sang ‘ăn đất ói ra’ của chính quyền trung ương, còn lâu mới có chuyện chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh - từ những quan chức lãnh đạo được xem là trung dung phe phái như Bí thư Nguyễn Thiện Nhân đến những quan chức từng chịu ảnh hưởng với các mức độ khác nhau của ‘bố già’ Lê Thanh Hải như Chủ tịch thành phố Nguyễn Thành Phong và một số cấp phó chủ tịch cùng cấp lãnh đạo sở ngành - chịu họp báo vào giữa tháng 8 năm 2019 để ‘nhận sai’ vụ khiếu tố khổng lồ ở Thủ Thiêm.
Bản đồ gốc Thủ Thiêm bị mất hay ai đó đang nắm giữ ?
Tấm bản đồ vẫn mất tích
Hai tháng sau khi Thanh tra chính phủ chính thức ban hành bản kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm, trong đó đặc biệt xác định các vụ cưỡng chế giải tỏa trước đây của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã giải tỏa lố đến 4,3 ha, và đòi chính quyền này phải hoàn trả ngân sách trung ương số tiền 26.300 tỷ đồng sai phạm trong công tác bồi thường giải tỏa, đến tháng 8 năm 2019 cả hai thế hệ chóp bu mới và cũ trong khối đảng và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã lâm vào thế tối hậu thư : đã đến lúc không còn lờ được hàng núi đơn thư khiếu nại tố cáo của hàng ngàn dân oan Thủ Thiêm, nhưng căn cứ đầu tiên để dập tắt đống lửa khiếu tố đó là tấm bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm 1/5000 thì lại vẫn kiên định… mất tích.
Vào tháng 5 năm 2018, trong một cuộc họp báo về vụ Thủ Thiêm, các quan chức chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chợt như bật ngửa khi nhận được câu hỏi từ một phóng viên báo nhà nước : ‘Bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm ở đâu ?’.
Tưởng như đó chỉ là một câu hỏi cắc cớ và ‘hỏi cho có’ chứ không đến mức nghiêm trọng, người phát ngôn của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh khi đó là Võ Văn Hoan (hiện đã được thăng chức lên phó chủ tịch thành phố) vội trả lời qua quýt và lấp liếm rằng bản đồ trên chỉ là ‘chưa tìm thấy’ chứ không phải không tìm thấy.
Thế nhưng câu hỏi cắc cớ của phóng viên nọ đã châm ngòi nổ khiến thùng thuốc súng Thủ Thiêm nổ tung trong suốt hơn một tuần sau đó trên phần lớn trong số hơn 800 tờ báo quốc doanh. Lần đầu tiên sau hai chục năm khiếu kiện ròng rã và không ít máu đổ lẫn xác người của Thủ Thiêm, vụ kinh thiên động địa này được xới tung ở gần như mọi khía cạnh khuất tất đen tối của nó, kể cả bắt đầu mấp mé về trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự của nhóm quan chức ‘ăn đất’ thời kỳ đó như ‘Hai - Ba - Sáu’… (Hai Nhựt - tức Lê Thanh Hải), Hai Quân - tức Lê Hoàng Quân, Ba Đua - tức Nguyễn Văn Đua, Sáu Cang - tức Tất Thành Cang…
Độ dài thời gian biến mất của bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm đã lâu đến mức khiến dư luận xã hội không thể không bật lên dấu hỏi : liệu đã có một bàn tay hay thế lực bí ẩn nào cố ý đánh cắp bản đồ gốc quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm và phi tang nó nhằm một mục đích đen tối nào đó ?
Hàng chục tỷ USD vào túi những kẻ nào ?
‘Không công bố bản đồ quy hoạch’ là một trong rất nhiều nội dung khiếu tố của nhiều hộ gia đình trong số 15.000 dân ở Thủ Thiêm. Các cấp chính quyền từ Quận 2 đến Ủy ban nhân dân thành phố Thành phố Hồ Chí Minh đã có quá nhiều dấu hiệu giấu biệt bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm trong suốt một thời gian dài và cho đến tận hôm nay.
Theo tố cáo có cơ sở rất rõ ràng của dân oan Thủ Thiêm, trong khi bản đồ người dân trưng ra thực tế diện tích đất chỉ hơn 500 ha thì bản đồ 650 ha của chính quyền tính luôn diện tích nhà đất của người dân.
Có nghĩa là diện tích ‘giải tỏa thêm’ có thể đến 150 ha và do đó đã đẩy đuổi thêm nhiều ngàn người dân Thủ Thiêm khỏi nơi ở và cũng là chỗ sinh nhai duy nhất của họ.
Thủ Thiêm là một khu vực được giới bất động sản Sài Gòn xem là cực kỳ đắc địa, là khu ‘đất vàng’ chỉ cách khu trung tâm Quận Nhất có ba trăm thước bề rộng mặt sông Sài Gòn. Vào thời điểm công bố đền bù lần đầu tiên cho dân, giá đền bù chỉ từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng một thước vuông đất, trong khi giá thị trường khi đó đã lên đến vài ba chục triệu đồng một thước vuông. Còn hiện thời, giá thị trường đã vọt đến 150 - 200 triệu đồng cho mỗi thước vuông đất ở Thủ Thiêm. Với mức giá đó và ứng với khoảng 150 ha đất giải tỏa lố - mà hoàn toàn có thể xem là ‘giải tỏa ăn cướp’, các doanh nghiệp đầu tư vào khu đô thị Thủ Thiêm và giới quan chức ăn theo có thể thu lời ngay cho riêng tiền chênh lệch đất ít nhất 250 ngàn tỷ đồng, tương đương hơn 11 tỷ USD !
Không công khai quy hoạch và bản đồ quy hoạch lại là một thứ bệnh ung thư của chế độ độc đảng và các nhóm lợi ích, khi luôn tìm cách bưng bít thông tin quy hoạch và đền bù giải tỏa để trục lợi khủng với giá bán đất ra thị trường cao gấp 10 - 20 lần, thậm chí hàng trăm lần so với mức giá đền bù cho dân.
Vậy trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự phải thuộc về cơ quan nào - Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Tài nguyên Môi trường hay Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - mà đã khiến Bản đồ gốc quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm biến mất từ nhiều năm qua ?
Vậy là đã xảy ra một vụ việc bi hài trong buổi họp báo giữa tháng 8 năm 2019 của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh : giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh là Nguyễn Thanh Nhã đã cho trình chiếu ranh giới khu 4,3 ha nằm ngoài quy hoạch, tức sở này đã ‘kiến tạo’ một tấm bản đồ hoàn toàn mới, thay cho bản đồ gốc đã biến mất.
Thế nhưng ý kiến của dân oan Thủ Thiêm ra sao ?
Những thủ đoạn bẫy dân
"Người ta chưa nói thì mình cũng biết người ta nói cái gì rồi, tự nhiên nghĩ ra một cái bản đồ nào đó rồi nói khu 4,3 ha nằm ngoài ranh quy hoạch 367, mà bản đồ 367 mất rồi thì căn cứ vào đâu để xác định 4,3 này nằm ngoài ranh, điều hết sức phi lý. Không có bản đồ không có cái gì hết thì căn cứ vào đâu mà bản đồ 367 là mấu chốt thì người ta dấu đi thì giờ căn cứ vào bản đồ nào mà toàn bản đồ họ tự vẽ ra, tự thêu dệt, tự áp đặt là điều không thể chấp nhận được". -ông Cao Thăng Ca, một người dân Thủ Thiêm có nhà đất bị cưỡng chế và phải khiếu kiện trong nhiều năm và là đại diện cho 71 hộ dân khiếu kiện vừa phẫn nộ vừa mỉa mai khi trả lời đài RFA Việt ngữ.
Ông Ca cho biết thêm là khi Chính phủ xác định khu 4,3 hecta nằm ngoài ranh quy hoạch thì theo đúng lời ông Nguyễn Thiện Nhân, bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minhcó nói rằng nếu xác định ngoài ranh thì người dân có quyền quay về làm nhà. Tuy nhiên trên thực tế thì "ngoài ranh người ta vẫn bắt buộc dân phải đi, đi chỗ khác là đi chỗ nào là chỗ người ta thu hồi một loạt quy hoạch của thủ tướng chính phủ theo quyết định 367 coi như ăn cướp rồi rồi giờ lấy đất ăn cướp được bố trí lại cho dân, sai chồng sai mà sai sau lớn hơn trước nữa".
Đây không phải là người đầu tiên và lần đầu tiên dân oan Thủ Thiêm phản ứng với Nguyễn Thiện Nhân - quan chức mà trước đó còn khiến nhiều người dân nơi đây bị ăn ‘quả lừa’ với những hứa hẹn ngon ngọt nhưng đầy bất nhất và bất xứng.
Đã có ít nhất hai hình ảnh cực kỳ tương phản của Nguyễn Thiện Nhân với ‘đồng bào Thủ Thiêm’ : nếu trong lần ‘thực địa’ vào ngày 20/6/2018, ông Nhân ‘tay bắt mặt mừng’ với dân oan và được các tờ báo nhà nước bám theo mô tả như một vị ‘cứu tinh’ đối với những người dân đã khô mòn nước mắt bồi thường và niềm tin chế độ cầm quyền, thì đến lần thứ hai đi Thủ Thiêm vào ngày 16/7/2018, quan chức bí thư thành ủy này đã được đến vài chục nhân viên công an ‘nối vòng tay lớn’ bảo vệ, và Nguyễn Thiện Nhân cứ thế dạo bước trong cái nhà tù thu nhỏ đó để né tránh làn sóng dân oan xô tới đòi hỏi ông Nhân phải cụ thể hóa những hứa hẹn của ông ta chứ không thể ‘để lâu cứt trâu hóa bùn’.
Khi đó, hứa hẹn đắt giá nhất của Nguyễn Thiện Nhân là "những hộ ngoài ranh quy hoạch sẽ không phải di dời nữa".
Nhưng chẳng bao lâu sau, người dân lại ngớ ra : làm thế nào để xác định ‘ngoài ranh quy hoạch’, trong khi cho đến lúc đó toàn bộ chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh vẫn cố tình lấp liếm vụ ‘tấm bản đồ gốc biến mất’, còn Bí thư Nhân chỉ chăm chăm ý đồ làm sao tống dân oan Thủ Thiêm vào các khu chung cư tái định cư xây theo kiểu ‘chuồng heo’ để họ không còn kéo nhau ra Hà Nội khiếu kiện nữa ?
Thông đồng âm mưu ‘hiện trường’ giả ?
Tại sao các cơ quan chức năng của Thành phố Hồ Chí Minh lại không tìm ra, hoặc cố tình không chịu tìm ra tấm bản đồ gốc quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm - đã bị một bàn tay đen đúa nào đó cho biến mất suốt nhiều năm qua - không những không tìm thấy ở Thành phố Hồ Chí Minh mà còn không hề được tìm ra ở các bộ ngành liên quan như Văn phòng chính phủ, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và đầu tư… ?
Sự thật rất hiển nhiên là trong trường hợp bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm 1/5000 biến mất hay bị phi tang, những kẻ ‘ăn đất’ trong chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh và các bộ ngành liên đới sẽ có khả năng thoát tội vì cơ quan thanh tra và điều tra không có cơ sở để đối chiếu và làm rõ con số 150 -160 ha đất ‘giải tỏa thêm’ so với quy hoạch cũ.
Nếu tấm bản đồ xấu số trên bị phi tang, mà khả năng này là rất gần với những dấu hiệu trong thực tế, phải chăng đã có một âm mưu thông đồng tập thể giữa nhiều quan chức ở nhiều cơ quan - từ chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đến những bộ ngành trung ương, từ nhóm quan chức cao cấp ‘ăn đất’ và có thể cả những quan chức đương nhiệm kế thừa ‘truyền thống cách mạng’ đó, ngụy tạo ‘hiện trường’ giả nhằm lừa bịp dân oan Thủ Thiêm, công luận xã hội và Bộ Chính trị đảng - một hành vi hoàn toàn xứng đáng trở thành một vụ đại án với ít nhất một tội danh ‘cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng’ ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 22/08/2019
"Việt Nam đã giao thiệp với Trung Quốc, phản đối việc Trung Quốc tái diễn vi phạm nghiêm trọng, yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển của Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán, các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng ‘giang tay dũng mãnh’ nói với phóng viên các tờ báo trong và ngoài nước trong một cuộc họp báo vào trung tuần tháng 8/2019.
Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba đến chào xã giao Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung ngày 16/11/2018 - Ảnh minh họa
Cử chỉ trên hiện ra ngay vào lúc tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, sau 5 ngày tiếp liệu ở đảo Đá Chữ Thập, ung dung quay lại khu vực Bãi Tư Chính và giống như một cái tát vào mặt những kẻ ‘tự sướng’ cho rằng nhờ "công tác đấu tranh quốc tế đầy khôn khéo và sáng tạo của đảng và nhà nước ta nên đã đẩy đuổi được tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khỏi Bãi Tư Chính".
Còn lối nói chữ ‘giao thiệp’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam thực chất là gì ?
Đại sứ Trung Quốc không thèm đến ?
Hiểu một cách đơn giản, ‘giao thiệp’ là việc tiếp xúc, có quan hệ xã hội với người nào đó, thường là trong công việc làm ăn.
Nhưng tại sao phải ‘giao thiệp’ và tại sao phải mượn một từ Hán để mô tả động tác tiếp xúc thuần Việt, trong khi ứng với quy ước về ngoại giao, chính quyền nước này khi phản đối nước khác sẽ triệu đại sứ của nước đó đến để trao công hàm phản đối ? Vì sao Bộ Ngoại giao Việt Nam lại không dám dùng cụm từ ‘triệu đại sứ Trung Quốc’ đến trụ sở bộ này để trao công hàm phản đối vụ Hải Dương 8 tái xuất, mà phải che mặt ấp úng từ ‘giao thiệp’ ?
Phải chăng, và giả thiết này là rất gần với sự thật trong quan hệ của một Việt Nam nhược tiểu với kẻ đại hán Bắc Kinh : Bộ Ngoại giao Việt Nam đã muốn triệu đại sứ Trung Quốc đến làm việc, nhưng viên đại sứ của nước lớn không thèm đến, thậm chí còn không thèm trả lời, vì thế Việt Nam đành đơn phương phản đối mà chẳng thể gửi tận tay phía Trung Quốc văn bản nào ?
Từ ‘giao thiệp’ còn khiến lộ ra một sự thật khác : trong hai lần gần đây khi Việt Nam ‘trao công hàm phản đối Trung Quốc’ về vụ Hải Dương 8 (khi tàu này lần đầu tiên xuất hiện ở Bãi Tư Chính) và phản đối vụ tập trận của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng rất có thể đã chẳng có đại sứ Trung Quốc nào xuất hiện để nhận công hàm, mà tất cả chỉ được Bộ Ngoại giao Việt Nam nói miệng và phản đối đơn phương, phản đối trong phòng lạnh. Như một kẻ bất lực.
‘Bốn không’ chứ không phải ‘ba không’ !
Đã một tháng rưỡi trôi qua kể từ lúc Trung Quốc cho tàu Hải Dương 8 và các tàu hải cảnh xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn không có chủ quyền, nhưng toàn thể Bộ Chính trị Việt Nam vẫn lúng túng như gà mắc tóc. Ngoài hành động đưa tàu ra Bãi Tư Chính để ‘vờn tàu’ với tàu Trung Quốc, mà thực chất là cách đối phó rất bị động theo chiến thuật chủ động của Bắc Kinh, hoặc phát khoảng một chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để khiến dấy lên câu vè "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" lan tỏa khắp biển khơi, phía Việt Nam đã chẳng có thêm được động tác phản ứng nào cho ra hồn, kể cả cái việc không cần phải đánh nhau mà chỉ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế - được hứa hẹn đầu môi mép lưỡi suốt từ năm 2011 đến nay nhưng vẫn chẳng làm được tích sự gì.
Chỉ tính từ năm 2011 khi nổ ra vụ tàu Bình Minh 2 của Việt Nam bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp - một cách côn đồ và mặt lạnh không kém cái cách cả hai chính quyền độc đảng độc trị này luôn thẳng tay đàn áp dân chúng và những tiếng nói phản đối, cho tới nay Hà Nội đã bỏ qua rất nhiều cơ hội để có thể kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế về các vụ xâm nhập ‘vùng biển chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’.
Không chỉ kiên định nguyên tắc ‘ba không’, chính thể Việt Nam còn tự đắp dầy lên mặt thêm một ‘không’ nữa : Không kiện Trung Quốc !
Suốt từ đầu tháng 6/2018 là thời điểm mà Trung Quốc bắt đầu chiến dịch ‘tống tiền’ Việt Nam ở mỏ Lan Đỏ và sau đó lan sang Bãi Tư Chính, giới chóp bu Hà Nội đã thể hiện tinh thần nhược tiểu một cách tuyệt vời, như thể không phải đi bằng chính đôi chân của mình. Bất chấp rất nhiều kêu gọi của người dân và các tổ chức xã hội dân sự rằng đã quá muộn nhưng vẫn còn hơn không nếu kiện Trung Quốc, và có nhiều cơ sở pháp lý để vụ kiện này sẽ chắc thắng nếu diễn ra, vẫn chẳng sủi một chút tăm hơi khí tiết trên gương mặt của gần một ngàn tướng lĩnh cả quân đội lẫn công an.
Vẫn chẳng có bất kỳ dấu hiệu đáng được tin cậy nào cho thấy ‘đảng em’ Việt Nam dám lôi bộ hồ sơ từ ngăn kéo đầy bụi để đệ trình ra tòa án quốc tế để kiện ‘đảng anh’ Trung Quốc.
Còn nhân vật đã được một số ‘bút nô’ ca tụng là ‘minh quân’ và ‘bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’, đang được tôn vinh vào hàng ‘lãnh tụ’ - ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng - thì sao ?
Tự đánh mất chính nghĩa và chính danh
Cho dù đã hầu như phục hồi sau cơn bạo bệnh ở Kiên Giang, ông ta vẫn tuyệt đối nín lặng. Thậm chí cho đến giờ bộ máy tuyên giáo và báo đảng của Trọng vẫn giấu biến trước người dân về những tin tức sôi sục ở Bãi Tư Chính.
Thói ươn hèn cố hữu chưa đánh đã sợ và thậm chí còn không dám há miệng đã dẫn đến hậu quả đánh mất lợi thế của nguyên đơn của Việt Nam ngay từ lúc phiên tòa quốc tế còn chưa có cơ hội thụ lý vụ kiện bị đơn Trung Quốc.
Thậm chí tới thời điểm này, Trung Quốc còn tạm thời giành được một lợi thế trên phương diện quan hệ quốc tế : Hội nghị các bộ trưởng ngoại giao ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng 8/2019 đã chỉ đề cập khá chung chung và "quan ngại" về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Không những thế, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã chơi một đòn vượt mặt ‘đảng em’ Việt Nam khi tố ngược Việt Nam mới chính là kẻ xâm phạm vào chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tính chính nghĩa và chính danh của những kẻ chưa bao giờ dám hé răng đòi quần đảo Hoàng Sa và đảo Gạc Ma cũng bởi thế đang mau chóng biến thành tro bụi.
Bằng chứng rõ rệt nhất về thái độ e ngại trước Trung Quốc là hàng chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ của Việt Nam, kể cả nước ‘đồng chí’ Cộng hòa liên bang Nga, đã thản nhiên quay lưng với Hà Nội trong suốt 5 năm qua - từ vụ Hải Dương 981 đến vụ Bãi Tư Chính lần này.
Chiến thuật của con sói
Trong khi đó, cùng với sự xuất hiện trở lại của Hải Dương 8, đã có những tin tức không chính thức nhưng có vẻ đáng tin cậy về việc tàu này đã dùng mạn sườn của nó để đâm va với tàu hải cảnh của Việt Nam. Đồng thời, có tin chính thức về việc tàu Trung Quốc đẩy đuổi tàu cá của ngư dân Việt ra khỏi vùng biển ‘thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam".
Tình hình trên cho thấy phía Trung Quốc còn lâu mới muốn rút Hải Dương 8 và các tàu hải cảnh bảo vệ cho nó khỏi Bãi Tư Chính.
Ngay cả động thái Việt Nam điều hai tàu hải quân hiện đại mang tên Quang Trung và Trường Sa ra ‘vờn tàu’ với các tàu Trung Quốc cũng chỉ nên được xem là một hành động ‘giao thiệp’ theo cái cách mà giới tướng lĩnh và công an Việt Nam vẫn hỉ hả giao lưu với các tướng đối phương, chứ chẳng thể hy vọng tàu chiến Việt sẽ được lệnh của Bộ Chính trị cho nổ súng, dù chỉ là bắn chỉ thiên cảnh cáo tàu giặc.
Để sau khi Việt Nam đã điều động toàn bộ những gì tinh túy nhất trong lực lượng hải quân ra phô diễn ở Bãi Tư Chính và Trung Quốc cũng làm y hệt như thế với quân lực gấp ít nhất vài ba lần Việt Nam, tình hình sẽ ngày càng nhàm chán và không còn thu hút được sự chú ý lẫn phản ứng từ cộng đồng quốc tế đối với Trung Quốc. Khi đó chính là lúc con sói không còn nhe nanh dọa nạt mà sẽ bắt đầu từng cú lao chớp nhoáng vào đối phương, cắn mạnh vào yết hầu nạn nhân cho đến khi ‘đảng em’ không còn chịu đựng thêm được nữa mà phải nhả các lô dầu khí màu mỡ đang khai thác - theo cách nhẹ nhàng thì ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Trung Quốc’ từ ‘gợi ý’ của Ngoại trưởng Vương Nghị, hoặc trầm trọng thì mất trắng nguồn tài nguyên thiên nhiên duy nhất còn lại để nuôi lực lượng ‘còn đảng còn tiền’ và ‘còn đảng còn mình’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 20/08/2019
Trong cơ cấu thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2019 của chính thể độc tài ở Việt Nam, có một tiểu phần đáng chú ý : thu từ dầu thô đạt đến 68% dự toán cả năm.
Cảnh sát biển Việt Nam chuẩn bị lên đường tuần tra. Ảnh minh họa
Vì sao thu ngân sách dầu thô tăng đột biến ?
Tỷ lệ trên là khá bất thường so với mức thu ngân sách từ dầu thô vào khoảng 50% hoặc nhỉnh hơn đôi chút trong nửa đầu những năm gần đây, cho thấy vào năm 2019 Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) - doanh nghiệp độc quyền khai thác dầu khí nằm dưới ‘sự lãnh đạo toàn diện của đảng’ - đã được chỉ đạo để tìm cách đẩy nhanh, đẩy gấp tiến độ khai thác dầu và khí, trong bối cảnh ‘tình hình Biển Đông vẫn rất phức tạp’ - nói theo lối mào đầu ấp úng của giới tuyên giáo.
Cơ chế đẩy nhanh tốc độ khai thác dầu khí của PVN cũng cho thấy trước đó đảng cầm quyền và Bộ Quốc phòng Việt Nam có thể đã nắm được một số tin tức xác thực mà từ đó có thể dự báo là phía Trung Quốc sẽ ‘mần’ tiếp vụ Bãi Tư Chính vào năm 2019, do đó nếu PVN cứ nhẩn nha khai thác dầu như những năm không xảy ra gấu ó giữa ‘đảng anh’ và ‘đảng em’ thì nhiều khả năng sẽ không kịp hoàn thành kế hoạch khai thác dầu thô trong nửa cuối năm 2019 và ngân sách chính phủ sẽ bị hụt thu nghiêm trọng.
Còn nếu các lô dầu khí của PVN ở đông nam Việt Nam bị tàu Trung Quốc quần thảo trong suốt nửa cuối năm 2019 thì coi ngân sách Đảng cộng sản Việt Nam mất ăn.
Chẳng có gì khó khăn để đưa ra dự báo mất ăn trên, bởi liên tiếp trong hai năm trước - 2017 và 2018, Trung Quốc đã tổ chức hai chiến dịch ‘tống tiền’ người đồng chí tốt của mình ở khu vực Bãi Tư Chính - nơi không có mặt tập đoàn dầu khí nào của Hoa Kỳ mà chỉ có chủ yếu Tập đoàn dầu khí Repsol của Tây Ban Nha liên doanh với PVN để khoan thăm dò và khai thác mỏ dầu Cá Rồng Đỏ.
Kết quả của hai chiến dịch trên của ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất Trung Quốc’ - theo cách ca tụng rất thiếu máu não của giới quan chức Việt - là khá mỹ mãn : rốt cuộc, Repsol không chịu nổi sức ép và đã phải bỏ của chạy lấy người - nhưng theo yêu cầu của phía Việt Nam, còn PVN của Việt Nam thì không những bị đình trệ kế hoạch khai thác mỏ Cá Rồng Đỏ mà còn đang chịu nguy cơ phải bồi thường cho Repsol đến khoảng 300 triệu USD chi phí mà Repsol đã ứng ra cho hoạt động nghiên cứu thăm dò dầu ban đầu.
Không những thế, Trung Quốc còn chớm đạt được mục tiêu ban đầu, nằm trong cả một chiến lược dài hạn, là dần biến ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ tại Bãi Tư Chính thành ‘khu vực tranh chấp pháp lý’, làm nền tảng cho khả năng Bắc Kinh sẽ đưa hẳn những giàn khoan lớn vào khu vực này để cướp dầu của ‘đảng em’.
PVN từng kêu cứu ra sao ?
Sau khi bị tàu Trung Quốc gây sức ép hai lần vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018 tại Bãi Tư Chính, đến tháng 4 năm 2018 PVN buộc phải kêu cứu : "Tập đoàn Dầu khí Việt Nam bước vào thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2018 với những dự báo đầy khó khăn, thách thức đối với hoạt động dầu khí". Ngoài nguyên nhân do giá dầu thô tiếp tục diễn biến khó lường, "tình hình biển Đông dự báo tiếp tục có những diễn biến phức tạp sẽ ảnh hưởng đến hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí cũng như ảnh hưởng đến việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư tìm kiếm thăm dò dầu khí ở các lô còn mở của Tập đoàn".
Hiện tượng PVN đăng tải nhận định về "tình hình biển Đông dự báo tiếp tục có những diễn biến phức tạp" là bất bình thường, bởi từ trước tới nay theo thông lệ trong hệ thống chính trị một đảng ở Việt Nam, việc phát hành công khai những quan điểm và dự báo chính trị là thẩm quyền mang tính độc quyền của các cơ quan đảng và nhà nước chứ không phải của doanh nghiệp.
Vào thời điểm kêu cứu trên, PVN có hai dự án lớn về dầu khí – liên doanh với một công ty Tây Ban Nha là Repsol khai thác mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ ở lô 136/03 thuộc Bãi Tư Chính, và liên doanh với hãng dầu khí khổng lồ của Mỹ là ExxonMobil để khai thác mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đây là vài tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt. Nếu Repsol và ExxonMobil khai thác thành công thì ngân sách cùng chế độ Việt Nam sẽ được chia phần không ít.
Sau khi đã gây sức ép tại mỏ Cá Rồng Đỏ vào tháng Ba năm 2018, đến cuối tháng đó Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đến Hà Nội với tối hậu thư "cùng hợp tác khai thác dầu khí".
Kịch bản thất bại đến mất ngủ ở Bãi Tư Chính đã xảy ra, khiến giới chóp bu Việt Nam phải chịu nguy cơ mất ăn dầu khí ngay trên vùng lãnh hải của mình và càng bế tắc trong cơn ác mộng những khoản nợ nước ngoài đang ập đến như sóng thần Biển Đông.
Nếu chấp nhận "hợp tác cùng khai thác dầu khí" với Trung Quốc theo lối nói không thèm úp mở của Vương Nghị, thậm chí có thông tin ngoài lề cho biết Bắc Kinh đòi chia phần đến 60% số dầu thô khai thác thuần túy là tài sản của Việt Nam, Hà Nội sẽ đồng thời phải thừa nhận một tiền lệ chưa từng có về việc phải cho kẻ cướp chung sống trong nhà mình và PVN dĩ nhiên phải chia sẻ một phần, nếu không nói là một phần lớn, lợi nhuận cho tên kẻ cướp đó.
Nhưng nguy cơ không chỉ có thế…
2025 hết sạch dầu !
Khi mùa xuân ủ rũ của năm 2019 sắp nhoài đến, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã phải lần đầu tiên thừa nhận một sự thật mà bấy lâu nay tập đoàn này và đảng chỉ muốn che giấu càng nhiều càng tốt : sản lượng dầu tại rất nhiều giếng đang suy giảm tự nhiên do khai thác đã quá lâu. Cộng vào đó là trữ lượng gia tăng quá thấp khiến đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% - tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Ngay cả mỏ Bạch Hổ - cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay - đã vào giai đoạn suy kiệt.
Còn nếu tốc độ khai thác dầu thô gấp gáp hơn nữa để tăng số thu cho ngân sách đảng, "deadline" thực sự cho trữ lượng dầu khai thác ở Việt Nam chỉ còn khoảng 3 năm tính từ năm 2018, tức đến năm 2021 - trùng với kỳ đại hội đảng lần thứ 13, nếu còn có đại hội này.
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là đến năm 2021 nền ngân sách hộc rỗng của chế độ sẽ mất hẳn số thu 70.000 - 80.000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến tạo’ một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Cùng với ba tử huyệt nợ công quốc gia, nợ xấu ngân hàng và thâm thủng ngân sách đang lộ ra ngày càng rõ, triển vọng trữ lượng dầu khí cạn kiệt chỉ trong ít năm nữa cộng với cú ‘tống tiền’ của ‘đồng chí tốt’ Bắc Kinh tại Bãi Tư Chính đã bồi thêm một điểm chết nữa mà có thể rút ngắn đáng kể tuổi thọ của chế độ cầm quyền tại Việt Nam trước thời điểm năm 2025.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 19/08/2019
Cứ mỗi năm ở Biển Đông, mỗi tháng ở Hoàng Sa và mỗi ngày ở bãi Tư Chính trôi qua, cơ hội của "đảng em" Việt Nam để kiện "đảng anh" Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại càng thêm ít ỏi và khó thắng.
Một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm trên biển Đông. (Hình : Getty Images)
Mưu tính nào sau cáo buộc Việt Nam ?
Sau ba lần lên tiếp xâm phạm bãi Tư Chính vào tháng Bảy 2017, tháng Ba 2018 và tháng Bảy 2019, rõ ràng là giới chóp bu Bắc Kinh có mối lo ngại về việc chính quyền Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về "đường lưỡi bò 9 đoạn" và vụ tàu Hải Dương 8, chứ không phải như một số tờ báo của Bắc Kinh luôn cho rằng Trung Quốc không hề sợ Việt Nam hay một quốc gia nào đó kiện cáo.
Vào cuối tháng Bảy 2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam "vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi Tư Chính kể từ tháng Năm", "Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam" và "Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc".
Tuyên bố trên được đưa ra chỉ một ngày sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam là Lê Thị Thu Hằng cho biết Hà Nội đã "trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam", một cử chỉ can đảm mang tính quá hiếm muộn của giới chóp bu Việt Nam về thế buộc phải đối đầu với "thiên triều".
Cách thức tuyên bố trên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là rất tương đồng với chiến thuật lấn dần từng bước vào Biển Đông và biến các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đặc biệt là những vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn mà Việt Nam đang tự khai thác hoặc liên doanh với những đối tác nước ngoài để khai thác, thành vùng "tranh chấp chủ quyền" giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong "đường lưỡi bò 9 đoạn", tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế "thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc" vào năm 2019.
Tuyên bố về "chủ quyền bãi Tư Chính" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn cho thấy một ý định quá đáng sợ của Bắc Kinh mà khiến "đảng em" Việt Nam mất ngủ : Trung Quốc chưa hề có ý định rút tàu khỏi khu vực bãi Tư Chính.
Thậm chí Trung Quốc còn có thể điều động thêm những tàu thăm dò địa chất và kể cả điều động một giàn khoan khồng lồ như cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014, vào khu vực bãi Tư Chính để khoan dầu, như một cách ăn cướp cực kỳ trắng trợn tài sản ngay trong nhà của người khác.
Việt Nam "thế nước đang lên…"
Vào năm 2014, Hải Dương 981 đã chỉ rút khỏi Biển Đông sau hơn 2 tháng ngự trị và đã "làm tình làm tội" giới chóp bu Việt Nam chưa đánh đã sợ đến mức "đái ra quần".
Nhưng đến năm 2019, quy mô chiến dịch gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông còn được đẩy lên một mức cao hơn so với vụ giàn khoan Hải Dương 981, đồng thời với việc tung ra một số lượng lớn từ 35-80 tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự bên cạnh tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, Trung Quốc đang cấp tốc triển khai cấp tốc thiết lập một căn cứ quân sự hải quân lớn tại Campuchia, nằm sát lãnh thổ Việt Nam.
Những thông tin trên, tất nhiên không được cho biết bởi chế độ "chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động", mà từ giáo sư người Úc (Carlyle Alan Thayer) công bố trên trang Twitter của ông.
Trong khi đó, phía Việt Nam chỉ có khoảng một chục tàu. "Thế nước đang lên" của Việt Nam – như bài ca tự sướng của giới tuyên giáo đảng – so với Trung Quốc là hoàn toàn chổng ngược…
Đã có thể khớp nối thông tin về căn cứ hải quân của Trung Quốc ở Campuchia với một phát ngôn công khai gần đây của quan chức bộ trưởng quốc phòng Việt Nam là Ngô Xuân Lịch về "chủ động đánh giá đúng tình hình biên giới Tây Nam". Theo đó, giới quân sự Việt Nam đang phải cấp tốc điều quân đội và khí tài quân sự nhằm đối phó với "mặt trận thứ hai" của Trung Quốc tại vùng biên giới Campuchia-Việt Nam.
Một dự luật về tình trạng tổng động viên cũng đang được Quốc hội Việt Nam gấp rút xem xét. Tiêu chí đầu tiên của hành động này là tình trạng chiến tranh và tình trạng nguy cấp về quốc phòng.
Hàng Không Mẫu Hạm USS Carl Vinson của Hoa Kỳ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng, hồi tháng Ba, 2018. (Hình : Getty Images)
Nhưng vẫn là thói ươn hèn mãn tính ?
Vào năm 2014, vụ giàn khoan Hải Dương 981 rốt cuộc chỉ là cú răn đe của Bắc Kinh đối với Bộ Chính Trị Việt Nam, nhằm mục đích tranh cướp các lô dầu khí ở Biển Đông.
Khi đó, Trung Quốc cũng cho nhiều tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự chạy vòng quanh giàn khoan Hải Dương 981, cùng xịt vòi rồng và đâm va ở mức độ nhẹ với tàu Việt Nam.
Khoảng hơn hai tháng sau, trong lúc giới chóp bu Việt Nam vẫn hoàn toàn bất lực về đối sách với Trung Quốc và cũng chẳng dám có hành động mạnh mẽ nào trước Trung Quốc, Bắc Kinh chợt tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương 981 về nước vì "đã hoàn thành nhiệm vụ".
Nhưng vụ bãi Tư Chính năm 2019 có vẻ không chỉ là dọa dẫm như năm 2014. Cho tới nay, tàu Hải Dương 8 và một số tàu hải cảnh của Trung Quốc vẫn "khiêu vũ" ngay trước mũi Bộ Chính Trị Việt Nam và trước một quân chủng hải quân có đến 6 tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, nhưng giờ chẳng biết bỏ đâu (có ý kiến cho rằng chắc các tàu ngầm này còn phải lo chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn).
Tình trạng vuốt mặt không thèm nể mũi trên đã kéo dài hơn một tháng, nếu không muốn nói là đã hơn hai tháng kể từ khi Trung Quốc điều tàu gây hấn tại mỏ Lan Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với Tập đoàn Dầu khí Rosneft của Nga.
Cũng cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần "hèn với giặc, ác với dân" của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn "rúc mặt" mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc. Vào lần này, kịch bản mà có lẽ được giới chóp bu Việt Nam kỳ vọng nhất là đành chấp nhận một phần hải phận cho tàu Trung Quốc khai triển và thực thi chiến thuật" vờn tàu", chờ cho đến khi "bạn vàng" phải tự động rút tàu, chủ yếu do gánh nặng chi phí.
Nhưng đó chỉ là tính toán chủ quan của những kẻ bất lực, trong khi chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút hết tàu sau 2 tháng, thậm chí sau 3 tháng ngự trị ở khu vực bãi Tư Chính.
Và thậm chí cho tới thời điểm này, Trung Quốc còn tạm thời giành được một lợi thế trên phương diện quan hệ quốc tế : Hội nghị các bộ trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám 2019 đã chỉ đề cập khá chung chung và "quan ngại" về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Trong khi đó, Hoa Kỳ, đối trọng duy nhất của Trung Quốc trên thế giới, cũng là quốc gia đầu tiên và có lẽ duy nhất lên tiếng gián tiếp ủng hộ chính quyền Việt Nam phản đối Trung Quốc can thiệp vào bãi Tư Chính, đã trở nên dè dặt hẳn về những phát ngôn và hành động tiếp theo, sau khi chứng kiến giới chóp bu Việt Nam vẫn như bị vẹo xương sống trước "người đồng chí tốt".
Chưa có gì rõ ràng về triển vọng hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Hải Quân Mỹ, đang tiến hành tuần tiễu ở Biển Đông, sẽ can thiệp trực tiếp vào vụ bãi Tư Chính.
Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao ? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để "thuyền ra biển lớn" và làm rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp ? Liệu Hải Quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn ? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc ?
Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ. Ngay cả lúc bị kẻ cướp xông vào nhà mà còn không dám kiện thì làm sao tránh khỏi thân phận Trần Ích Tắc !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 18/08/2019