Truyền thông Trung Quốc xuất hiện lời kêu gọi nước này cần gia tăng tên lửa đầu đạn hạt nhân được phóng từ tàu ngầm làm nền tảng răn đe chiến lược trước áp lực quân sự ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ trên biển Đông.
Tên lửa của Trung Quốc trong lễ diễu binh kỷ niệm 70 năm Quốc khánh Trung Quốc ở quảng trường Thiên An Môn hôm 1/10/2019 - AFP
Thông điệp được đưa ra từ Tổng biên tập Hoàn cầu Thời báo hôm 27/5, ông Hồ Tích Tiến nói : "Tôi muốn nhắc lại rằng chúng ta có rất nhiều nhiệm vụ cấp bách, nhưng trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất là tăng nhanh số lượng đầu đạn hạt nhân được đưa vào sử dụng, và tên lửa chiến lược DF- 41 có khả năng tấn công tầm xa trong kho vũ khí của Trung Quốc. Đây là nền tảng của khả năng răn đe chiến lược của Trung Quốc đối với Mỹ".
Người đứng đầu tờ báo của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc nhận định : "Trong kịch bản đó, một số lượng lớn tên lửa đạn đạo Dongfeng-41, JL-2 và JL-3 sẽ tạo thành trụ cột cho ý chí chiến lược của chúng ta. Số lượng đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc phải đạt đến mức khiến giới tinh hoa Mỹ rùng mình nếu họ có ý định tham gia vào một cuộc đối đầu quân sự với Trung Quốc".
Hưởng ứng theo lời kêu gọi, tờ báo hiếu chiến này đăng ý kiến của chuyên gia quân sự Trung Quốc Song Zhongping cho hay, "việc tăng cường khả năng răn đe hạt nhân chiến lược trên biển cũng là một hướng quan trọng cho sự phát triển trong tương lai của Trung Quốc, vì những vũ khí này có khả năng tàng hình và tấn công hạt nhân thứ cấp tốt hơn".
Cũng theo nguồn tin trên, Trung Quốc vừa đưa ba tàu chiến vào hoạt động tại một cảng hải quân ở tỉnh Hải Nam, trong đó Changzheng 18 có khả năng là tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo chiến lược chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Trước đó, hôm 19/5, báo Al Jazeera đưa tin, Trung Quốc đang xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân bí mật trên đảo Changbiao, dự kiến bắt đầu hoạt động lần lượt vào năm 2023 và 2026. Nguồn tin nói rằng, hai lò lò phản ứng hạt nhân này hoạt động theo chu trình nhiên liệu khép kín, sản xuất plutonium.
Plutonium có thể được sử dụng để sản xuất rất nhiều đầu đạn hạt nhân và sản xuất chúng rất nhanh.
Trung Quốc đã ngừng báo cáo về chương trình plutonium dân sự của mình cho Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế kể từ năm 2017. Bắc Kinh cũng từ chối đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân.
Những lời kêu gọi gia tăng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc dường như được thúc đẩy bởi sự xuất hiện của đề xuất ngân sách quốc phòng của tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden vào hôm thứ sáu, ngày 28/5. Trong đó, Nhà Trắng công bố sẽ cấp khoảng một tỷ đô la cho phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos để hoạt động nghiên cứu plutonium cho nỗ lực sản xuất 30 lõi bom hạt nhân vào năm 2026.
Giới chuyên gia nhận định, đây là một tín hiệu rõ ràng của Tổng thống Biden lặp lại lời kêu gọi của những người tiền nhiệm nhằm hiện đại hóa kho dự trữ hạt nhân nhằm răn đe Trung Quốc, Nga, Iran và Bắc Triều Tiên.
Theo báo cáo vào tháng 3/2021 của Trung tâm Giáo dục Chính sách Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân từ Washington, "bằng cách khai thác plutonium, uranium và tritium được làm giàu cao độ mà Trung Quốc có thể dễ dàng tiếp cận hoặc chế tạo, đến năm 2030, Bắc Kinh có thể tập hợp một cách thận trọng kho vũ khí gồm 1.270 đầu đạn (gần bằng số lượng mà Hoa Kỳ hiện đã triển khai trên các tên lửa xuyên lục địa của mình)".
Một quan chức Mỹ giấu tên nói với Reuters : "Tốc độ và cách thức mà chính phủ Trung Quốc đang hiện đại hóa kho dự trữ của mình là đáng lo ngại, gây mất ổn định và cho thấy lý do tại sao nên đưa Trung Quốc vào khuôn khổ kiểm soát vũ khí toàn cầu".
Minh Luật
Nguồn : RFA, 30/05/2021
************************
Cả vú nhưng không lấp được miệng em đâu, bà Hoa Xuân Oánh !
Đông Phương, RFA, 28/05/2021
Trung Quốc là quốc gia "yêu chuộng hòa bình" ?
Trên tài khoản Twitter ngày 25/5/2021, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh viết : "Dù có đường biên giới dài hơn, nhiều láng giềng hơn và có lịch sử phức tạp hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, song Trung Quốc đã thiết lập ranh giới với 12 trong số 14 quốc gia láng giềng trên đất liền thông qua đàm phán hòa bình… Trong hơn 70 năm kể từ khi thành lập nước, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ gây chiến hay xâm phạm một tấc đất nào của nước ngoài".
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh tại một họp báo ở Bắc Kinh hôm 21/1/2021 – Reuters
Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán
Có thực người Trung Quốc "hiền hậu" đến thế ?
Bất kỳ người Việt Nam nào cũng đều thấm nhuần lịch sử Việt Nam trước sự xâm lăng từ Trung Quốc. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết lời trong bài hát "Gia tài của mẹ" nhắc tới "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu". Giáo sư sử học Trần Văn Giàu tóm tắt lịch sử Việt Nam là "dựng nước luôn đi đôi với giữ nước", giữ nước thì chủ yếu là trước "giặc ngoại xâm phương Bắc".
Từ năm 221 trước Công nguyên, khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, đã cho người sang xâm lược Âu Lạc (Việt Nam thời bấy giờ), cho đến xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước Việt Nam, không có triều đại nào mà Trung Quốc không đưa quân sang quấy nhiễu hoặc tìm cách xâm chiếm Việt Nam.
Người Trung Quốc từ xưa đã có tư tưởng gọi là "Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán". Năm 1979, Giáo sư Trần Đình Hượu đã tóm tắt những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán bao gồm : (i) Hiếu chiến, hống hách, ảo tưởng ; (ii) Ngụy thiện ; (iii) Trọng danh hơn trọng thực.
Twitter của bà Hoa Xuân Oánh hôm 25/5/2021
Giáo sư Trần Quốc Vượng thì mượn lời Lỗ Tấn để miêu tả người Trung Quốc là : Tàn bạo như con sư tử ; ranh mãnh như một con cáo và nhút nhát như một con thỏ đế.
Có lẽ ở khu vực Đông Nam Á, ít có dân tộc nào hiểu rõ bản chất của người Trung Quốc hơn người Việt Nam. Bởi vì Việt Nam nằm sát cạnh Trung Quốc, Việt Nam cũng đã từng bị Trung Quốc đô hộ hơn một ngàn năm.
Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) trước khi mất đã có di huấn : "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc đó, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : "Một tấc đất của Tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".
Gần 100 năm qua kể từ khi thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc (1921) và hơn 70 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949), mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đến nay không hề thay đổi, đó là biến Trung Quốc trở thành cường quốc số 1 lãnh đạo thế giới. Có thể nói, cho đến nay, "Chủ nghĩa bành trước Đại Hán" không mất đi mà đặc biệt lại được khôi phục một cách mạnh mẽ dưới thời của Tập Cận Bình với cái gọi là "Giấc mộng Trung Hoa".
Tư tưởng Đại Hán của Trung Quốc thời hiện đại được thể hiện điển hình là phát biểu của ông Dương Khiết Trì trên cương vị Ngoại trưởng Trung Quốc tại Singapore năm 2010 : "Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, đó là một thực tế".
Bản đồ Biển Đông có đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc tự vẽ ra trên biển. AFP
"Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán" hiện nay thể hiện rõ nhất là dã tâm của Trung Quốc trên biển Đông. Để thoả mãn dã tâm độc chiếm biển Đông của mình, Trung Quốc đã mập mờ đưa ra các yêu sách chủ quyền phi lý. Tất cả các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc hiện gói gọn quanh đường 9 đoạn, mở rộng ra hơn 1.000 hải lý, bắt đầu từ các bờ biển của Quảng Đông và đảo Hải Nam, kéo dài tới gần Borneo, quần đảo chung của Malaysia, Indonesia và Brunei ; bao gồm gần như toàn bộ vùng biển nằm giữa Việt Nam và Philippines. Tuyên bố chủ quyền này chiếm hơn 90% diện tích biển, dù Trung Quốc (gồm cả hòn đảo Đài Loan) chỉ chiếm có hơn 20% đường bờ biển. Tất cả tuyên bố chủ quyền này dựa trên một cơ sở lịch sử về cơ bản là không tính đến sự tồn tại của các dân tộc khác, cũng như lịch sử đi lại, giao thương trên biển của họ trong vòng 2.000 năm qua, trước cả khi Trung Quốc bắt đầu đặt chân tới các vùng biển nằm ở phía Nam đất nước và xa hơn.
Có thật Trung Quốc không gây chiến ?
Bà Hoa Xuân Oánh nói rằng Trung Quốc "chưa bao giờ gây chiến hay xâm phạm một tấc đất nào của nước khác". Một là bà Hoa không biết một chút gì về lịch sử ; hai là bà nói láo.
Trong lịch sử, tâm tính của người Trung Quốc được thể hiện qua nhân vật Tào Tháo, ông ta đã có câu nói nổi tiếng "thà ta phụ người, còn hơn để người phụ ta". Thực tế từ sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, trong 3 cuộc chiến tranh biên giới dù là với đối thủ lớn như Ấn Độ năm 1962, Liên Xô 1969 hay đối với đối thủ nhỏ yếu hơn như Việt Nam năm 1979, Trung Quốc đều ra tay trước nhằm "tiên thủ hạ vi cường".
Một nhà nghiên cứu về Trung Quốc ở Hoa Kỳ là Taylor Fravel đã thống kê các hành động chiến tranh của Trung Quốc và nhận thấy từ khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tới nay, Trung Quốc đã có 23 tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia khác (1), trong đó Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự đối với 6 tranh chấp. Trong 6 tranh chấp này, Trung Quốc đã 16 lần sử dụng sức mạnh quân sự
Một trong số "nạn nhân" của Trung Quốc chính là Việt Nam. Ngày 17/2/1979, hàng trăm nghìn quân Trung Quốc đã vượt biên giới vào Việt Nam. Sau này, các học giả Trung Quốc, trong đó có PGS Hoàng Tranh biện minh lý do dẫn đến việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh biên giới trên bộ của Việt Nam là do "VN chuẩn bị tấn công chiếm quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc nên Trung Quốc phải tự vệ trước". Đây là một sự biện minh ngớ ngẩn cho một hành vi côn đồ, vi phạm luật quốc tế. Cuộc chiến này gây thiệt mạng cho 42.000 quân Trung Quốc và khoảng 50.000 quân Việt Nam. Các cuộc giao tranh tiếp tục diễn ra lẻ tẻ cho đến năm 1991, gây thiệt mạng thêm hàng nghìn người. Năm 1974, quân đội Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, giết chết 74 chiến sĩ của Việt Nam Cộng hoà. Năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm bãi đá ngầm Gạc Ma của Việt Nam ở Trường Sa, giết chết 64 chiến sĩ công binh Việt Nam. Trung Quốc tuyên bố "chủ quyền không thể chối cãi" đối với hầu hết Biển Đông. Bắc Kinh tiếp tục sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để duy trì quyền kiểm soát các đảo và bãi đá ngầm ở đó, trái với luật pháp quốc tế.
Ngoài Việt Nam, Trung Quốc cũng gây chiến với Ấn Độ : Trung Quốc củng cố quyền kiểm soát đối với Aksai Chin - phần phía Đông của khu vực Kashmir mà Ấn Độ tranh chấp cho đến ngày nay và các cuộc đụng độ biên giới bùng lên giữa hai nước vào năm ngoái.
Kết luận
Không phải ngẫu nhiên mà phong trào "bài Hoa" xuất hiện tại nhiều nước trên thế giới gần đây, đó chính là vì để thực hiện "giấc mộng Trung Hoa" chính quyền Trung Quốc đã bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Chưa kể các hoạt động kinh tế của Trung Quốc cũng mang tính cưỡng đoạt, đe doạ an ninh, môi trường và ổn định xã hội của các quốc gia có quan hệ với Trung Quốc.
Đối với biển Đông, Trung Quốc luôn đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực dưới chiêu bài "chiến thuật vùng xám" để đe doạ các nước khu vực biển Đông, nhằm dùng sức mạnh để độc chiếm vùng biển này.
Mặc dù dùng các biện pháp "ngoại giao pháo hạm" như vậy, nhưng Trung Quốc muốn dùng các nhà ngoại giao kiểu như bà Hoa Xuân Oánh để thực hiện chiêu "cả vú lấp miệng em". Thế nhưng "một hành động hơn ngàn lời nói", thế giới không lạ bản chất xảo quyệt của Trung Quốc đâu. Và dù có "cả vú" nhưng khó "lấp được miệng em" đâu, bà Hoa Xuân Oánh ạ.
Đông Phương
Nguồn : RFA, 30/05/2021
(1) M. Taylor Fravel, Power Shifps and Escalation (Explaining China’s Use of Force in Territorial Dispute), International Security, Vol. 32, No. 3 (Winter 2007/08), tr. 44 - 83
Kết quả cuộc điều tra dân số được công bố gần đây của Trung Quốc xác nhận tình trạng dư thừa nam giới ở mức đáng báo động ở quốc gia này so với tiêu chuẩn toàn cầu. Sự mất cân bằng giới tính từ khi sinh gây ra một số tác động kinh tế đáng kể – và không chỉ đối với Trung Quốc.
Vì phụ nữ nhìn chung sống lâu hơn nam giới nên dân số của hầu hết các quốc gia đều có nhiều nữ hơn nam. Ví dụ, ở Hoa Kỳ năm 2020 có 96 nam trên 100 nữ. Ngược lại, Trung Quốc có 111,3 nam trên 100 nữ, theo kết quả điều tra dân số mới nhất. Phụ nữ Trung Quốc sống lâu hơn trung bình khoảng 3 năm so với đàn ông Trung Quốc, vì vậy tình trạng "thừa nam" hoàn toàn là kết quả của tỷ lệ trẻ trai cao bất thường so với trẻ gái lúc mới sinh.
Tỷ lệ giới tính khi sinh bình thường là khoảng 106 trẻ trai trên 100 trẻ gái. Bởi vì trẻ em trai và nam thanh niên có tỷ lệ tử vong cao hơn một chút, và do người chồng có xu hướng lớn tuổi hơn vợ, nên tỷ lệ khi sinh này là cách mà tự nhiên giúp đảm bảo tỷ lệ cân bằng khoảng 1/1 vào thời điểm con người đến tuổi sinh sản.
Mặc dù tỷ lệ nam trên nữ khi sinh của Trung Quốc gần bằng tỷ lệ tự nhiên này vào những năm 1970, sự kết hợp của nhiều yếu tố đã khiến tỉ lệ nam so với nữ dần tăng theo thời gian. Các yếu tố quan trọng nhất là tâm lý "trọng nam khinh nữ" của các bậc cha mẹ, sự xuất hiện máy siêu âm và các công nghệ khác cho phép các bậc cha mẹ tương lai biết giới tính thai nhi, và việc chính phủ áp đặt chính sách kế hoạch hóa gia đình nghiêm ngặt vào năm 1980 khiến hầu hết các gia đình không thể sinh nhiều con như họ muốn.
Một số phụ huynh đã lựa chọn phương pháp phá thai chọn lọc giới tính. Chính phủ đã cố ngăn cấm hoạt động này, nhưng rất khó để ngăn chặn việc này chừng nào việc phá thai còn được sử dụng như một phương tiện tuân thủ các quy định về kế hoạch hóa gia đình. Kết quả là tỷ lệ giới tính khi sinh tăng dần lên, đạt đỉnh khoảng 121 trẻ trai trên 100 trẻ gái vào năm 2009. Theo điều tra dân số gần đây, tỷ lệ này đã giảm xuống 111,3 trẻ trai trên 100 trẻ gái – cân bằng hơn so với trước đây, nhưng vẫn cao hơn đáng kể so với khi không có phá thai lựa chọn giới tính.
Tình trạng "dư thừa" con trai của Trung Quốc dẫn đến một số lượng lớn nam giới trẻ không thể kết hôn. Nói cách khác, khoảng một phần chín nam thanh niên ở Trung Quốc không thể tìm được bạn gái hoặc cưới vợ. Vấn đề này thậm chí còn nghiêm trọng hơn ở các vùng như nông thôn An Huy và Quảng Đông, nơi cứ 6 nam thanh niên thì có đến một người gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bạn đời.
Trong một loạt bài nghiên cứu với nhiều đồng tác giả khác nhau, tôi đã ghi lại một số hậu quả kinh tế lớn và đôi khi đáng ngạc nhiên của tình trạng tỷ lệ giới tính méo mó này đối với Trung Quốc và thế giới. Trước tiên, các nam thanh niên trẻ – và đặc biệt là các bậc cha mẹ có con trai chưa lập gia đình – về cơ bản tăng tỷ lệ tiết kiệm để nâng cao khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường hẹn hò và kết hôn. Trong một bài viết năm 2011, Xiaobo Zhang và tôi nhận thấy rằng sự gia tăng chênh lệch nam-nữ trong nhóm tuổi tiền hôn nhân của Trung Quốc từ năm 1990 đến năm 2007 đã giúp lý giải cho khoảng một nửa mức tăng tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình trong thời kỳ đó.
Tỷ lệ tiết kiệm tăng tại một quốc gia có xu hướng thúc đẩy thặng dư thương mại của quốc gia đó. Vào năm 2013, Qingyuan Du và tôi đã chỉ ra rằng sự gia tăng chênh lệch nam-nữ tại Trung Quốc có thể đã góp phần vào khoảng một phần ba đến một nửa mức tăng thặng dư thương mại của nước này với các nước khác. Do đó, tình trạng mất cân bằng giới tính có thể là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ. Tuy nhiên, các trao đổi song phương hầu như ít chú ý đến nguyên nhân này.
Như tôi trình bày trong một nghiên cứu sắp xuất bản với Zhibo Tan và Xiaobo Zhang trên Journal of Development Economics (Tạp chí Kinh tế Phát triển), tỷ lệ nam-nữ không cân bằng của Trung Quốc cũng góp phần vào môi trường làm việc không an toàn, dẫn đến nhiều thương tật và tử vong có thể phòng tránh được. Tình trạng thiếu cô dâu khiến nhiều bậc cha mẹ có con trai trong độ tuổi kết hôn phải làm việc nhiều hơn và tìm kiếm những công việc được trả lương cao hơn nhưng có khả năng gây nguy hiểm trong các lĩnh vực như khai thác mỏ và xây dựng, hoặc những công việc khiến họ tiếp xúc với các vật liệu độc hại hoặc trong môi trường nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh. Vì nhiều người sẵn sàng chấp nhận những công việc như vậy hơn, người sử dụng lao động thường đầu tư ít hơn vào an toàn lao động, do đó làm tăng tỷ lệ tai nạn và tử vong liên quan đến công việc.
Chúng tôi nhận thấy rằng thương tích do tai nạn và tử vong tại nơi làm việc cao hơn đáng kể ở những khu vực có tình trạng chênh lệch giới tính nghiêm trọng hơn. Và các bậc cha mẹ có con trai trong độ tuổi kết hôn chiếm tỷ lệ cao hơn trong số các nạn nhân.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh có thể tự điều chỉnh nhưng chỉ diễn ra từ từ. Nhận thấy bố mẹ có con trai chịu gánh nặng lớn hơn về tài chính và vật chất để giúp con trai có thể cưới vợ, nhiều cặp vợ chồng trẻ có thể nhận thấy rằng sinh con gái cũng tốt như sinh con trai, hoặc thậm chí tốt hơn. Nhưng cuộc tổng điều tra dân số mới nhất cho thấy tỷ số giới tính khi sinh vẫn chưa cân bằng, có nghĩa là tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em gái vẫn còn tồn tại.
Do lo lắng về tỉ lệ tăng dân số chậm lại, Trung Quốc đã dần nới lỏng (nhưng chưa chấm dứt) chính sách kế hoạch hóa gia đình của mình. Các nhà hoạch định chính sách bây giờ nên đi xa hơn, và cung cấp các khuyến khích tài chính đáng kể cho các bậc cha mẹ sinh con gái. Một biện pháp như vậy sẽ vừa giúp giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, vừa chặn đà giảm tỷ lệ sinh nói chung.
Tỷ lệ giới tính cân bằng hơn sẽ làm giảm nhu cầu của nhiều hộ gia đình Trung Quốc trong việc hy sinh mức tiêu dùng hiện tại để tiết kiệm nhiều hơn, và thúc đẩy một môi trường làm việc an toàn hơn. Biện pháp này cũng sẽ giúp giảm căng thẳng thương mại của Trung Quốc với các nước khác.
Shang-Jin Wei
Nguyên tác : "Sex and the Chinese Economy", Project Syndicate, 18/05/2021.
Trần Hùng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 22/05/2021
Shang-Jin Wei, cựu chuyên gia kinh tế trưởng tại Ngân hàng Phát triển Châu Á, là Giáo sư Tài chính và Kinh tế tại Trường Kinh doanh Columbia và Trường Các vấn đề Công và Quốc tế của Đại học Columbia.
Nguồn : Hoangbach Channel 13/05/2021
Les Echos ngày 12/05/2021 dành trang nhất cho chủ đề "Trung Quốc đối mặt với thách thức dân số lão hóa nhanh". Với con số chính thức 1,41 tỉ dân vào cuối năm 2020, Trung Quốc vẫn là quốc gia đông dân nhất thế giới, nhưng tốc độ tăng dân ngày một giảm. Bắc Kinh đứng trước nguy cơ già đi trước khi giàu lên.
Ảnh minh họa chụp ngày 10/05/2021 tại Bắc Kinh. Dân số Trung Quốc đang bị lão hóa : sinh suất giảm trong khi số người trên 65 tuổi tăng nhanh, đến 2050 có thể chiếm đến 1/3 dân số Hoa lục. AP - Andy Wong
Thể diện đã được cứu vãn nhờ những số liệu hẳn đã được "làm đẹp". Sau nhiều tuần lễ chần chừ với nhiều đồn đãi, hôm qua rốt cuộc Bắc Kinh đã công bố kết quả điều tra dân số rất được chờ đợi, tiến hành cứ mỗi 10 năm. Cuối tháng Tư, Cơ quan Thống kê Quốc gia đã bác bỏ thông tin của tờ Financial Times, theo đó dân số của nền kinh tế thứ nhì thế giới đã sụt giảm - lần đầu tiên kể từ nạn đói khiến hàng chục triệu người chết năm 1961. Trong năm kỷ niệm Đảng cộng sản Trung Quốc 100 tuổi, loan báo về việc dân số giảm – với nhiều hậu quả kinh tế xã hội – đã gây nghi ngờ về "Giấc mộng Trung Hoa" của Tập Cận Bình.
Áp lực đang tăng lên đối với Bắc Kinh để tránh đất nước già đi trước khi trở nên giàu có. Với tỉ lệ 0,53% một năm, tỉ lệ tăng dân đang ở mức thấp nhất kể từ khi áp dụng chính sách mỗi gia đình chỉ có một con trong thập niên 70. Dù chận được Covid, số trẻ mới sinh năm ngoái chỉ còn 12 triệu, sau khi năm trước đó là 14,65 triệu – mức thấp nhất từ 1961. Ngược lại, số người lớn tuổi không ngừng tăng lên, với 264 triệu người Trung Quốc từ 60 tuổi trở lên năm 2020, chiếm 18,7% dân số (năm 2010 là 13,3%). Trong khi đó dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tiếp tục lao dốc, chỉ còn 63,3% năm 2020 (10 năm trước là trên 70%).
Các số liệu trên đây, dù một số nhà nghiên cứu cho rằng vẫn chưa đúng với thực tế, khẳng định dân số Trung Quốc đang bị lão hóa. Tháng 11 năm ngoái, một cơ quan tư vấn chính phủ ước tính dân số Trung Quốc đạt đỉnh năm 2027 (năm mà Ấn Độ sẽ chính thức trở thành nước đông dân nhất thế giới). Nhưng với số liệu vừa công bố, đỉnh này có thể đạt tới ngay trước năm 2025. Giáo sư Yi Fuxian ở trường đại học Wisconsin-Madison ước tính Trung Quốc hiện có thể đã mất đi thứ hạng đầu, với dân số chỉ còn 1,26 tỉ người, đứng sau Ấn Độ với 1,3 tỉ.
Tháng trước Cai Fang, phó chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc đã dự báo, Trung Quốc sắp sửa từ "dư thừa lao động trở nên thiếu nhân công, với nhịp độ nhanh nhất trong lịch sử".
Ngay cả Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng vừa gióng lên hồi chuông cảnh báo "Trung Quốc phải nhìn nhận tình trạng dân số đã thay đổi". Báo cáo của bốn nhà nghiên cứu thuộc ngân hàng này gây rúng động : "Trung Quốc đã trở thành một xã hội của người già trong vòng chỉ 20 năm, quá nhanh so với Pháp (140 năm), Thụy Điển (85 năm), Hoa Kỳ (72 năm)". Vấn đề là việc lão hóa diễn ra trong lúc GDP bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ mới có 10.000 đô la/tháng, còn ở các nước phát triển là trên 30.000 đô la.
Hậu quả có thể khá nặng nề đối với một Trung Quốc đã phát triển kinh tế nhờ lực lượng nhân công dồi dào. Dân số già cộng với bong bóng địa ốc có thể kéo Trung Quốc vào một "thập kỷ mất mát" như Nhật Bản, khiến lời hứa hẹn của Tập Cận Bình - biến Trung Quốc thành một nước "xã hội chủ nghĩa hiện đại" năm 2035 - có nguy cơ không thể trở thành hiện thực.
Dân số giảm còn gây hậu quả trầm trọng hơn, trong bối cảnh Bắc Kinh đang tranh giành vị trí đại cường số một thế giới của Washington : từ nay đến 2050 dân số Mỹ tiếp tục tăng. Trong khi bốn thập niên qua Trung Quốc rút ngắn khoảng cách với Hoa Kỳ nhờ lực lượng lao động rẻ và đông đảo, "giờ thì chúng ta có thể dựa vào đâu trong 30 năm tới ?" - Ngân hàng Trung ương lo lắng.
Tại sao việc kết thúc chính sách mỗi gia đình chỉ có một con lại không tạo ra bùng nổ trẻ em ở Trung Quốc, năm năm sau khi từ bỏ chính sách này, mà lại giảm đi ? Thông tín viên Le Figaro lý giải, các cặp vợ chồng trẻ lo ngại trước vô số chi phí : học hành, chữa bệnh, hoạt động ngoại khóa…chưa kể đến giá thuê nhà cao ngất ngưỡng ở các thành phố lớn.
Trước nạn lão hóa dân số, Bắc Kinh muốn kéo dài tuổi về hưu. Ý thức rằng chủ đề này sẽ gây bất mãn lớn, Đảng cộng sản Trung Quốc tỏ ra mơ hồ trong dịp trình bày kế hoạch 5 năm lần thứ 14 vào tháng Ba vừa qua. Thủ tướng Lý Khắc Cường trong bài diễn văn rất dài dòng chỉ nói thoáng qua là cần phải có chiến lược kéo dài từ từ tuổi về hưu theo luật định. Nhưng vài từ ngắn ngủi này đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trên các mạng xã hội : chủ đề được đọc trên 300 triệu lượt và có gần 60.000 lời bình.
Tuổi về hưu cho nam ở Trung Quốc hiện nay là 60, và nữ là 55, không thay đổi kể từ bốn thập niên qua. Một cư dân mạng tố cáo, "Trung Quốc muốn theo tiêu chuẩn quốc tế về tuổi hưu nhưng vẫn giữ mô hình của mình về thời gian lao động và phúc lợi xã hội". Một người trẻ khác mỉa mai trên Vi Bác : "Với 12 tiếng đồng hồ làm việc mỗi ngày, tôi chẳng còn sống nổi đến lúc về hưu". Hầu hết dân Hoa lục cho rằng với việc làm lụng vất vả bất kể giờ giấc và phúc lợi xã hội quá kém, họ có quyền nghỉ hưu lúc 60 tuổi.
Đảng cộng sản Trung Quốc có thể làm gì hơn, khi dân số lao động từ nay đến 2035 sẽ thấp hơn mức trung bình của thế giới ? Theo các nhà kinh tế của ANZ, số lượng người trên 65 tuổi đang gia tăng nhanh chóng : từ 7% dân số năm 2000 nay đã chiếm 13,5%, và đến giữa thế kỷ này có thể lên đến 1/3 dân số Trung Quốc ! Một quả bom nổ chậm !
Tại Trung Đông, xung đột Israel-Palestine tái diễn là chủ đề được tất cả các báo quan tâm. Le Mondechạy tựa "Leo thang đẫm máu từ Jerusalem đến Gaza". Sáng thứ Hai, phe Hamas đã bắn 200 quả đạn rốc-kết, trên 90% được hệ thống Vòm Sắt của Israel chặn lại. Israel trả đũa bằng việc không kích vào 130 mục tiêu quân sự, làm 22 người chết ở dải Gaza.
Khi nhắm vào Jerusalem lần đầu tiên kể từ 2014, Hamas đứng trước nguy cơ lớn, nhưng theo Le Monde, phe này còn có gì để mất ? Việc chủ tịch Abbas hoãn lại vô thời hạn các cuộc bầu cử dự kiến tổ chức lần đầu tiên từ 15 năm qua tại Palestine là một đòn nặng cho chiến lược "bình thường hóa" của phong trào Hồi giáo vũ trang.
Với việc tham gia tranh cử, Hamas muốn trút bỏ gánh nặng quản lý 2 triệu dân ở dải Gaza đang bị Israel phong tỏa, đồng thời trở thành đối tác không thể thiếu của các nước trong ban lãnh đạo Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Giờ đây hy vọng đã tắt, chỉ còn lại giải pháp bạo lực.
Cuộc khủng hoảng còn do khoảng trống quyền lực ở Israel. Sau bốn cuộc bầu cử trong vòng hai năm, không lập được chính phủ liên minh, thủ tướng Benyamin Netanyahou đang cô độc, nhiều bộ chưa có bộ trưởng, công việc đình đốn. Về phía Palestine cũng đang bế tắc. Ở Washington, chính quyền Biden ít muốn dính líu, Liên Hiệp Châu Âu và Pháp cũng không hơn.
La Croix giải thích vì sao Hoa Kỳ muốn đứng ngoài. Ngược với các tổng thống tiền nhiệm, Joe Biden bước vào Nhà Trắng không với tham vọng giải quyết cuộc xung đột Israel-Palestine đã kéo dài hơn 70 năm qua. Tổng thống và ê-kíp muốn tập trung vào những mối đe dọa trực tiếp hơn đối với an ninh quốc gia Mỹ, như đối địch với Trung Quốc hay hồ sơ nguyên tử Iran. Không giống như Barack Obama hay Donald Trump, Joe Biden không bổ nhiệm đặc phái viên cho vùng Cận Đông, đại sứ tương lai tại Israel vẫn chưa được chọn ra, chính quyền mới không dự định tổ chức một hội nghị hòa bình nào.
Nhà phân tích Mairav Zonszein nhận định, có một sự đồng thuận ngầm rằng đó chỉ là nỗ lực vô ích. Cho đến nay, Biden vẫn kế tục chính sách của cựu tổng thống Donald Trump : không thay đổi quyết định công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel, đại sứ quán Mỹ vẫn đặt tại đây, tiếp tục quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Nhà nước Do Thái và các quốc gia Ả Rập. Chỉ có một thay đổi nhỏ là viện trợ kinh tế và nhân đạo trở lại cho Palestine.
Về tình hình tại chỗ, nhà chính trị học David Khalfa nhận xét trên La Croix, các bên thật ra không muốn lao vào một cuộc chiến tranh mở rộng. Cuộc xung đột mặc nhiên mang lại thế mạnh cho ông Netanyahou. Les Echos cho biết tối thứ Hai, chính giới Israel hầu như đều đứng chung một mặt trận, những bất đồng giữa những người ủng hộ và chống đối thủ tướng bỗng biến mất. Tất cả đều ủng hộ một giải pháp quân sự mạnh mẽ ở dải Gaza. Trong khi chờ đợi, 5.000 quân dự bị đã được động viên, quân đội hủy bỏ một cuộc tập trận quy mô. Vừa mới thoát khỏi đại dịch, Nhà nước Do Thái lại phải bắt đầu một cuộc chiến mới.
Tại Pháp trên lãnh vực xã hội, Libérationdành tựa chính cho "Những mạng lưới mại dâm mới" qua internet. Ngày càng có nhiều phụ nữ, đôi khi là vị thành niên được tuyển mộ trên mạng cho dịch vụ này. Các cô không phải đứng ngoài đường mà hành nghề thông qua các căn hộ thuê tạm từ Airbnb, bọn ma cô săn mồi trên Instagram hoặc Snapchat.
Tờ báo nêu trường hợp Maria, một phụ nữ từ Colombia đến vào tháng 3/2020 với hy vọng đổi đời với công việc cô giữ trẻ trong một gia đình ở Pháp. Cô được đón từ sân bay, cả vé máy bay cũng đã được người chủ trả trước. Nhưng vừa vào nhà cô đã hiểu : một căn phòng 17 mét vuông với màn che và ba chiếc giường nhỏ, bốn phụ nữ đồng hương ăn mặc khêu gợi. Maria đã rơi vào bẫy của một mạng lưới mại dâm lớn có hệ thống camera theo dõi. Tiếng không biết, nước Pháp đang bị phong tỏa, biết đi về đâu ?
Tháng Hai vừa rồi, mạng lưới này đã bị cảnh sát Pháp phá vỡ, nhờ một cô gái chạy trốn được. Cảnh sát khám xét 17 địa điểm tại Pháp và bốn nước khác, bắt được 10 tên ma cô. Đây chỉ là một phần nhỏ của mại dâm hiện đại, các phụ nữ đến từ bốn nước chính là Colombia, Nigeria, Romania và Trung Quốc. Những mẩu quảng cáo được đăng trên nhiều mạng chuyên nghiệp khác nhau có trụ sở ở nước ngoài, địa điểm thay đổi thường xuyên qua các căn hộ Airbnb, bọn ma cô nắm việc trả lời điện thoại và thu tiền, khách hàng không thiếu. Kiếm tiền quá dễ qua vài cú nhấp chuột, cũng có những thiếu nữ nhỏ tuổi chủ động nhập cuộc.
Thụy My
Có nhiều khả năng sự ngạo mạn sẽ đẩy Bắc Kinh đến chỗ điên rồ
Các tòa nhà tại Trung tâm Tài chính Lujiazui ở Thượng Hải, ngày 15/4/2021 © VCG / Getty Images
Nhiệm kỳ tổng thống của Joe Biden chỉ mới được hơn 100 ngày, nhưng tại thời điểm này, hy vọng về sự tan băng giữa Mỹ và Trung Quốc đang nhanh chóng tan biến ở Washington và Bắc Kinh.
Về bản chất, chính sách về Trung Quốc của chính quyền Biden không khác máy với chính sách của nội các tiền nhiệm. Chính quyền Biden coi Trung Quốc là đối thủ địa chính trị nguy hiểm nhất của Mỹ. Không cần phải nói, nhận thức về mối đe dọa như vậy hoàn toàn được đáp lại ở Bắc Kinh.
Rất ít nhà lãnh đạo Trung Quốc phủ nhận rằng Hoa Kỳ là mối đe dọa hiện hữu đối với Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTrung Quốc) cũng như tham vọng trở thành cường quốc toàn cầu của nước này. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để đặt giới hạn dưới cho mối quan hệ song phương ngày càng thù địch và tránh một vụ va chạm quân sự trực tiếp.
Trong cuộc đối đầu chiến lược không có hồi kết với Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn sẽ rút ra những bài học từ Chiến tranh Lạnh, cũng như những các đối tác của họ ở Washington.
Sẽ không mất nhiều thời gian để cả hai bên đạt được những đánh giá tương tự. Trung Quốc sẽ được khuyến khích – nhưng không sai – khi thấy rằng họ sở hữu một loạt các thế mạnh mà Liên Xô cũ không có. Về mặt kinh tế, hệ thống kinh tế hỗn hợp Trung Quốc hiệu quả hơn nhiều so với nền kinh tế chỉ huy của Liên Xô. Vị trí trung tâm của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu, vừa là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất vừa là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai – 2 nghìn tỷ USD vào năm 2020 – khiến Mỹ vô cùng khó khăn trong việc thực hiện ngăn chặn kinh tế toàn diện.
Xét về cán cân quyền lực tương đối, bất chấp sự yếu kém đáng kể của Trung Quốc về công nghệ trong một số lĩnh vực quan trọng, sức nặng của nước này là không thể phủ nhận. Tính theo sức mua tương đương, nền kinh tế Trung Quốc lớn hơn nền kinh tế Mỹ. Tính theo đồng đô la, kinh tế Trung Quốc hiện gần bằng 75% của Hoa Kỳ. Vào thời kỳ đỉnh cao, nền kinh tế Liên Xô chỉ bằng 50% của Hoa Kỳ.
Quan trọng hơn, vì Trung Quốc vẫn có động lực tăng trưởng mạnh hơn Mỹ, nhiều khả năng nền kinh tế của nước này sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và vượt qua Mỹ, tính theo đồng đô la trong vòng một thập niên. Nếu Liên Xô bị phá sản bởi một cuộc chạy đua vũ trang vượt quá khả năng chi trả với Hoa Kỳ, thì một chiến lược tương tự để làm khô máu Trung Quốc có thể mất nhiều thời gian hơn – nếu có hiệu quả – vì Trung Quốc có nhiều nguồn lực hơn để tiếp tục cuộc chơi.
Tàu sân bay tự đóng trong nước đầu tiên của Trung Quốc tại xưởng đóng tàu ở Đại Liên. Ảnh chụp tháng 11/2019 © Imaginechina / AP
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lẽ cảm thấy vui mừng hơn nữa bởi hoàn cảnh địa chính trị thay đổi lớn từ cuối những năm 1940 đến ngày nay. Vào cuối Thế chiến thứ hai, việc xây dựng một liên minh chống Liên Xô rộng rãi ít thách thức hơn vì Moskva đặt ra một mối đe dọa đối với sự tồn tại của các nước láng giềng và tích cực thúc đẩy chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Ngày nay, mối đe dọa do Trung Quốc gây ra còn mơ hồ.
Chắc chắn, nhiều quốc gia dân chủ lo ngại sâu sắc về sự phát triển của một quần thể độc tài, nhưng các quốc gia đang phát triển dường như cũng chào đón một đối thủ cạnh tranh với vị thế bá chủ của Hoa Kỳ. Trong khi Trung Quốc gây ra mối đe dọa an ninh ngay lập tức đối với một số nước láng giềng, đặc biệt là Nhật Bản, Ấn Độ và Đài Loan – mà Bắc Kinh coi là một phần lãnh thổ của mình – thì các quốc gia lớn khác không nhìn nhận Trung Quốc như vậy. Thật vậy, một số trong những nước này thậm chí có thể coi cuộc thập tự chinh địa chính trị mới của Washington chống lại Trung Quốc chẳng qua là một nỗ lực nhằm duy trì vị thế bá chủ của nước này, và do đó sẽ miễn cưỡng đứng về bất cứ phía nào.
Những yếu tố nghiêm trọng này sẽ gây khó khăn hơn nhiều cho Hoa Kỳ trong việc sử dụng vở kịch Chiến tranh Lạnh cũ để kiềm chế Trung Quốc. Trớ trêu thay, những hoàn cảnh thuận lợi như vậy có thể mang lại cho Bắc Kinh cảm giác cường điệu về sức mạnh, với những hậu quả tai hại có thể xảy ra. Đặc biệt, niềm tin của Bắc Kinh rằng ít quốc gia có đủ khả năng tách khỏi nền kinh tế Trung Quốc có thể khuyến khích các hành động gây hấn khiến các bên trung lập rơi vào vòng tay của Mỹ.
Ví dụ, hành động gây hấn gần đây nhất của Trung Quốc ở Biển Đông – tập trung các tàu đánh cá xung quanh một bãi đá ngầm mà Philippines tuyên bố chủ quyền – đã khiến Manila tức giận và nếu hành vi hung hăng của Trung Quốc tiếp tục, có thể sẽ tạo ra một sơ hở chiến lược cho Mỹ. Việc Hải quân Hoa Kỳ quay trở lại Vịnh Subic sẽ là một sự thay đổi lớn và là một thất bại do chính Trung Quốc gây ra.
Tương tự, quan điểm cứng rắn của Trung Quốc đối với nhân quyền đã khiến vị thế trung lập chiến lược của EU ngày càng trở nên không thể duy trì. Tháng trước, Brussels đã trừng phạt một số ít quan chức Trung Quốc vì đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Thay vì phản ứng vừa phải, Bắc Kinh áp đặt các biện pháp đáp trả khiến hiệp ước đầu tư được đánh giá cao của Trung Quốc với EU gặp nguy hiểm.
Sự tự tin thái quá thậm chí có thể hủy hoại những cải cách rất cần thiết ở đại lục. Trên giấy tờ, Bắc Kinh vừa đưa ra một kế hoạch chi tiết – kế hoạch 5 năm mới – để định hướng lại nền kinh tế và đạt được khả năng tự cung cấp công nghệ. Nhưng thành công còn lâu mới được đảm bảo.
Những cải cách mạnh mẽ, đặc biệt là những cải cách đòi hỏi giảm bớt vai trò của các doanh nghiệp nhà nước và huy động khu vực tư nhân – vốn đòi hỏi phải giảm bớt sự kiểm soát của Đảng – sẽ thách thức niềm tin cốt lõi của Chủ tịch Tập Cận Bình vào chủ nghĩa tư bản nhà nước và quyền tối cao của Đảng. Nếu Tập Cận Bình cảm thấy rằng Trung Quốc đủ mạnh để không cần tiến hành những cải cách như vậy, chúng sẽ khó xảy ra. Hậu quả là Trung Quốc có thể rơi vào tình trạng trì trệ, giống như Liên Xô bắt đầu từ giữa những năm 1970.
Khả năng sự ngạo mạn sẽ khiến Bắc Kinh phạm một loạt sai lầm chiến lược không chỉ là có thực, mà là rất cao. Môi trường ra quyết định với sự tập trung quyền lực quá mức cũng như thiếu thông tin bất đồng và trái ngược, là mảnh đất màu mỡ cho những suy nghĩ viển vông và những giả định sai lầm.
Minxin Pei
Nguyên tác : China is its own worst enemy, Nikkei Asia Review, 29/04/2021
Anh Khoa dịch
Nguồn : VNTB, 02/05/2021
Minxin Pei là giáo sư khoa chính phủ tại Claremont McKenna College và là thành viên cao cấp không thường trực tại Quỹ Marshall Đức của Hoa Kỳ.
Tự mình hại mình : Trung Quốc làm thế nào để không giành được đồng minh và ảnh hưởng địa chính trị ?
Người ta thường nói Trung Quốc đã làm chủ được nghệ thuật bang giao quốc tế dựa trên sức mạnh kinh tế (Statecraft). Các nhà quan sát thường lo lắng rằng bằng cách sử dụng sức mạnh kinh tế ngày càng tăng, quốc gia này đang cố gắng mua thiện chí và ảnh hưởng. Trong đại dịch Covid-19, Bắc Kinh đã khai thác sự thống trị trong lĩnh vực chuỗi cung ứng hàng hóa để giành được sự ủng hộ bằng cách tặng khẩu trang và bây giờ là vắc xin cho một số nước khác. Và từ lâu, họ đã sử dụng các khoản trợ cấp không công bằng của nhà nước để điều chỉnh sân chơi theo hướng có lợi cho các công ty Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng đã vũ khí hóa các mối quan hệ thương mại đang mở rộng. Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ để trở thành đối tác thương mại toàn cầu hàng đầu vào năm 2013 và hiện là nguồn nhập khẩu hàng đầu của khoảng 35 quốc gia và là điểm đến xuất khẩu hàng đầu của khoảng 25 quốc gia. Chính phủ Trung Quốc đã không ngần ngại tận dụng khả năng tiếp cận thị trường tiêu dùng của mình để gây áp lực buộc các chính phủ và công ty nước ngoài phải tuân theo mong muốn của mình.
Ví dụ, vào năm 2019, họ đã hủy bỏ chuyến thăm của một phái đoàn thương mại đến Thụy Điển sau khi một hiệp hội văn học Thụy Điển trao giải thưởng cho một người bán sách gốc Hoa bị giam giữ. Năm sau, Trung Quốc trả đũa lời kêu gọi một cuộc điều tra độc lập của Úc về nguồn gốc của đại dịch Covid-19 bằng cách áp đặt thuế quan đối với một loạt sản phẩm của nước này. Nhiều người lo sợ rằng những biện pháp như vậy chỉ là một một phần nhỏ của những gì sắp xảy ra khi Trung Quốc gia tăng sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để bắt nạt các quốc gia khác.
Phần lớn nỗi lo lắng tập trung vào Sáng kiến một Vành đai một Con đường (BRI), một tập hợp khổng lồ các dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc tài trợ, từ đường sắt đến hải cảng, được miêu tả là một nỗ lực đế quốc thời hiện đại. Nhắm vào BRI, các quan chức Hoa Kỳ đã cáo buộc Trung Quốc thực hiện các biện pháp "Ngoại giao bẫy nợ", được cho là có mục đích gây khó khăn cho các nước nhận nợ bằng các khoản vay khổng lồ và sau đó phải chịu các nhượng bộ chiến lược khi họ không có khả năng trả nợ. Nhiều quan chức trong số này lo lắng rằng cùng lúc với việc Trung Quốc đang mài giũa các công cụ kinh tế của mình, thì Hoa Kỳ lại có tốc độ tăng trưởng kém đi và quên mất cách biến sức mạnh kinh tế thành lợi ích chiến lược.
Nhưng quan sát kỹ sẽ thấy rằng thành tích của Trung Quốc kém ấn tượng hơn nhiều so với người ta thường nghĩ. Ví dụ, những nỗ lực ngoại giao dựa trên sức mạnh kinh tế của họ thường gây ra phản kháng. Tại nhiều quốc gia trong số hơn 60 quốc gia nhận đầu tư BRI, ngay cả ở những quốc gia mong muốn đầu tư của Trung Quốc nhất, các quan chức đã phàn nàn về chất lượng xây dựng kém, chi phí tăng cao và suy thoái môi trường. Bắc Kinh đã buộc phải ở vào thế phòng thủ, với việc Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cố gắng nhấn mạnh tầm quan trọng của các dự án "chất lượng cao" và "giá cả hợp lý". Nhiều quốc gia đã đòi làm ăn ở thị trường Trung Quốc theo hướng có đi có lại ; một số nước khác đã hoàn toàn từ bỏ các sáng kiến của Trung Quốc và đang tìm kiếm nguồn tài chính ở những nơi khác.
Trung Quốc đã cố gắng mở rộng ồ ạt sự hiện diện kinh tế ra ngoài biên giới của mình, nhưng cho đến nay, nước này vẫn chưa thể biến nó thành ảnh hưởng chiến lược lâu dài. Nền kinh tế Trung Quốc tạo ra một lực hấp dẫn mạnh mẽ, nhưng như Bắc Kinh đang phát hiện, điều đó không nhất thiết có nghĩa là các quốc gia khác đang thay đổi quỹ đạo chính trị của họ.
Trung Quốc muốn gì
Trong vài thập kỷ qua, dấu ấn kinh tế toàn cầu của Trung Quốc đã phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Năm 1995, Trung Quốc chỉ chiếm ba phần trăm thương mại toàn cầu, nhưng đến năm 2018, nhờ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn, Trung Quốc đã chiếm 12% – tỷ trọng lớn hơn so với bất kỳ quốc gia nào. Vào năm 2020, một phần do đại dịch, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của EU, thay thế Hoa Kỳ. Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc cũng đã gia tăng nhanh chóng ở các nước đang phát triển, với các công ty và ngân hàng Trung Quốc đang đổ tiền vào Đông Nam Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Bắc Kinh cũng đã đảm nhận vai trò lãnh đạo tích cực trong nền kinh tế toàn cầu, sự tự tin của nước này được nâng cao nhờ đã vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 một cách tốt đẹp. Vào năm 2014, Trung Quốc đã công bố Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á, một ngân hàng phát triển đa phương với số vốn ban đầu là 100 tỷ USD, sau đó đã phát triển với hơn 100 quốc gia. Nhiều đối tác và đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ đã tham gia bất chấp sự phản đối của Washington.
Trung Quốc muốn làm gì với tất cả sức mạnh kinh tế mới hình thành này ? Tình trạng không minh bạch của hệ thống chính trị của Trung Quốc khiến nhiều nước coi hành vi của họ là một quy trình ra quyết định theo kiểu tập trung theo đuổi một chiến lược lớn nhất quán, nhưng các chính sách của Trung Quốc trên thực tế thường là sản phẩm của sự cạnh tranh và thỏa hiệp giữa nhiều phe – chính quyền địa phương, các quan chức cấp cao, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, v.v. Hãy xem xét BRI. Những gì bắt đầu như một kế hoạch mơ hồ và ngổn ngang đã phát triển theo cách tự phát, đôi khi bị các quan chức chính phủ lợi dụng và các công ty tìm cách thu lợi riêng. Nhiều dự án được thúc đẩy ít bởi một chiến lược tổng thể hơn là bởi sở thích của một số cá nhân.
Một sai lầm khác là cho rằng hành động của Trung Quốc được thúc đẩy bởi mong muốn xuất khẩu hệ thống chính trị chuyên quyền và hệ thống kinh tế ổn định của riêng mình. Đúng là ông Tập ngày càng đàn áp ở trong nước và hung hăng ở nước ngoài, nhưng Trung Quốc vẫn bận tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ lợi ích của chính mình hơn là cố gắng làm cho các nước khác theo con đường của họ. Mặc dù Trung Quốc đang tìm cách định hình lại hệ thống quốc tế để phản ánh các ưu tiên của họ, nhưng điều đó khác xa so với việc cố gắng lật ngược hoàn toàn trật tự hiện tại.
Điều thực sự thúc đẩy chính sách kinh tế của Trung Quốc không phải là những thiết kế chiến lược vĩ đại hay những áp lực chuyên quyền mà là một cái gì đó thực tế hơn và ngắn hạn hơn : ổn định và tồn tại. Mục tiêu cơ bản của Đảng cộng sản Trung Quốc là duy trì tính hợp pháp của sự cai trị của nó. Do đó, chính sách kinh tế của Trung Quốc thường được sử dụng để dập tắt các khủng hoảng trước mắt và bảo vệ hình ảnh trong nước và quốc tế của Đảng cộng sản Trung Quốc. Trung Quốc muốn dập tắt những lời chỉ trích và khen thưởng những người ủng hộ các chính sách của mình. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ (chẳng hạn như Đài Loan, Tây Tạng, Biển Hoa Đông và Biển Hoa Nam) và quản trị trong nước (chẳng hạn như việc Trung Quốc đối xử với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương và việc xử lý đại dịch Covid-19).
Bắc Kinh tiếp cận các nỗ lực nhằm chuyển đổi sức mạnh kinh tế thành ảnh hưởng địa chính trị theo một số cách khác nhau. Trung Quốc thường tận dụng quy mô thị trường nội địa của mình để áp đặt các hạn chế thương mại đối với các quốc gia mà họ muốn trừng phạt, nhưng theo những cách có mục tiêu và mang tính biểu tượng nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nền kinh tế của chính họ.
Chính phủ Trung Quốc đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với hoạt động xuất khẩu cá hồi của Na Uy sau khi nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba được trao giải Nobel Hòa bình, và họ đã chặn xuất khẩu chuối của Philippines sau khi bùng phát căng thẳng ở Biển Đông, trong cả hai trường hợp với lý do được cho là vì an toàn thực phẩm. Trung Quốc cũng đã tận dụng quy mô của mình bằng cách khuyến khích tẩy chay - chẳng hạn như kêu gọi người tiêu dùng Trung Quốc không ủng hộ chuỗi cửa hàng bách hóa Hàn Quốc nhằm ngăn cản Seoul triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa do Mỹ dẫn đầu.
Tận dụng vị thế của Trung Quốc với tư cách là nhà đầu tư nước ngoài và nhà sản xuất công nghệ hàng đầu, chính phủ Trung Quốc và các công ty của nước này đã đóng vai trò tích cực trong các cơ quan thiết lập tiêu chuẩn quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu thiết bị của Trung Quốc, đặc biệt là các công nghệ mới nổi – một số có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, chẳng hạn như 5G và trí tuệ nhân tạo.
Nhưng có lẽ đặc điểm nổi bật nhất trong chính sách kinh tế của Trung Quốc là sử dụng các biện pháp khuyến khích tích cực. Những ưu đãi này có hai hình thức : theo đó, Bắc Kinh mua chuộc các nhà lãnh đạo chính trị thông qua các giao dịch bất chính, và theo luật, qua đó họ dùng các nhóm lợi ích nước ngoài để vận động chính phủ của họ có quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc.
Phương pháp phá hoại
Trung Quốc thường cung cấp các khuyến khích kinh tế theo những cách bất hợp pháp và không rõ ràng nhằm phá vỡ các quy trình và thể chế chính trị. Khi các công ty Trung Quốc ngày càng đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty tư nhân, đôi khi được sự chấp thuận ngầm của các quan chức Trung Quốc, đã đưa hối lộ và lại quả cho giới tinh hoa ở các nước nhận đầu tư hoặc các dự án Viện trợ để xoa dịu bộ máy hành chính. Vào những thời điểm khác, các công ty Trung Quốc đã bỏ qua quy trình đấu thầu cạnh tranh và việc phê duyệt theo quy định để giành được hợp đồng, thường là với giá được đội lên, tạo ra thêm lợi nhuận cho cả các đối tác Trung Quốc và giới tinh hoa địa phương. Tôi gọi những biện pháp này là "cà rốt phá hoại".
Theo nhiều cách, việc sử dụng chúng phản ánh nền kinh tế chính trị trong nước của Trung Quốc, nơi các doanh nghiệp phụ thuộc vào các mối quan hệ với các quan chức, tham nhũng phổ biến và ít quy định quản lý đầu tư và Viện trợ nước ngoài. Nghiên cứu của tôi cho thấy rằng phương pháp này hoạt động tốt nhất ở những quốc gia có ít trách nhiệm giải trình trước công chúng - nơi mà thông tin bị hạn chế và các nhà lãnh đạo chính trị không cần lo lắng về dư luận và pháp quyền.
Campuchia là một trường hợp điển hình. Thủ tướng lâu năm Hun Sen và gia đình ông kiểm soát quân đội, cảnh sát và phần lớn nền kinh tế. Các phương tiện truyền thông ngoan ngoãn nghe lời chính phủ, các nhà báo, nhà hoạt động, và các chính trị gia đối lập thường xuyên phải im lặng trước những lời đe dọa và bạo lực. Do đó, chi tiết về các dự án Viện trợ và đầu tư của Trung Quốc ở Campuchia không được rõ ràng, nhưng những thông tin được đưa ra cho thấy một chính phủ đã bị ảnh hưởng của Trung Quốc làm tha hóa sâu sắc.
Các dự án do Trung Quốc tài trợ có xu hướng làm giàu cho giới chóp bu trong khi xua đuổi người nghèo và làm suy thoái môi trường. Ví dụ, ở tỉnh phía tây nam Koh Kong, một tập đoàn đầu tư của Trung Quốc đang xây dựng một khu phức hợp lớn bao gồm khu nghỉ dưỡng, cảng, sân bay, nhà máy điện, khu sản xuất, đường xá và đường cao tốc - tổng cộng trị giá khoảng 3,8 tỷ USD. Trong khi giới chóp bu Campuchia sử dụng dự án để kiếm tiền riêng, thì việc xây dựng đã phá hủy các khu vực sinh thái nhạy cảm và buộc người dân phải rời khỏi nhà của họ. Bắc Kinh có thể được hưởng lợi : khu nghỉ dưỡng này có vẻ quá lớn so với số lượng du khách mà khu vực này có thể thu hút, nhưng sân bay và cảng dường như được thiết kế tốt cho quân đội Trung Quốc sử dụng.
Số tiền lớn như vậy đã cho phép Trung Quốc mua Campuchia vận động cho họ - đặc biệt, liên quan đến các yêu sách hàng hải hung hăng của họ ở Biển Đông. Tại hội nghị thượng đỉnh năm 2012 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Campuchia, khi đó giữ vị trí chủ tịch, đã ngăn chặn các cuộc thảo luận về các tranh chấp ở Biển Đông và lần đầu tiên trong lịch sử của ASEAN, tổ chức này không thể đưa ra một tuyên bố chung. Tại một thời điểm, ngoại trưởng Campuchia đã cắt lời các đại biểu cố gắng đưa ra vấn đề, và ở một thời điểm khác, ông đã giận dữ ra khỏi phòng khi họ đề xuất một tuyên bố thậm chí là nhẹ nhàng.
Các quan chức chính phủ mà tôi đã phỏng vấn trong khu vực đã mô tả hành vi của Campuchia tại hội nghị thượng đỉnh này là kết quả của một "thỏa thuận tiền tệ trực tiếp", trong đó Bắc Kinh trả tiền cho chính phủ Campuchia để đổi lấy sự hỗ trợ của họ. Trong những tháng trước cuộc họp, các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đã đến thăm Phnom Penh, cung cấp các khoản tài trợ và cho vay bổ sung cho các dự án phát triển và cơ sở hạ tầng trị giá hàng trăm triệu USD. Khoản đầu tư này đã mang lại kết quả tuyệt vời : kể từ năm 2012, ASEAN đã trở nên chia rẽ và rời rạc hơn, cho phép Bắc Kinh củng cố vị trí của mình, cả về lời lẽ lẫn quân sự, ở Biển Đông.
Một hiện tượng tương tự đang diễn ra ở Đông Âu. Các chính phủ ngày càng phi tự do của Hungary và Serbia đã vui vẻ chấp nhận các khoản tài trợ để đổi lấy việc thúc đẩy các quan điểm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ví dụ, một tuyến đường sắt tốc độ cao chạy qua hai quốc gia vẫn được giữ bí mật, kể cả khi chi phí đã tăng cao và nảy sinh nghi ngờ về tính kinh tế của nó. Một phần của dự án đang được xây dựng bởi một doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc trước đây đã bị Ngân hàng Thế giới đưa vào danh sách đen vì những bất thường, và một phần khác, bởi một đồng minh kinh doanh tham nhũng của thủ tướng Hungary.
Đổi lại, Hungary và Serbia đã cư xử ngoan ngoãn đối với Trung Quốc. Hungary đã đưa ra các tuyên bố chính thức lặp lại quan điểm của Bắc Kinh về Biển Đông, và tổng thống Serbia, ngoài việc hôn lên lá cờ Trung Quốc để tỏ lòng biết ơn vì đã nhận được nguồn cung cấp y tế sớm trong đại dịch Covid-19, đã bày tỏ sự ủng hộ đối với luật an ninh quốc gia tại Hồng Kong. Ở Châu Âu, Trung Quốc đã gặt hái được một số thành quả dễ dàng, chẳng hạn như các tuyên bố công khai và phủ quyết trong EU, và không có quốc gia nào trong khu vực thay đổi hoàn toàn định hướng chính sách đối ngoại của mình. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã cố gắng làm giảm bớt sự chỉ trích của quốc tế và gây ra sự chia rẽ đáng xấu hổ trong công chúng về các vấn đề mà các nước Châu Âu từng thống nhất.
Sự phá hoại của Trung Quốc đã không hoạt động tốt ở các quốc gia có sự minh bạch và giám sát tốt hơn. Philippines trong nhiệm kỳ tổng thống của Gloria Arroyo, người phục vụ từ năm 2001 đến 2010 – thời điểm mà đất nước này có lĩnh vực truyền thông sôi động và hệ thống chính trị cạnh tranh, bất chấp mức độ tham nhũng cao. Dưới thời Arroyo, Trung Quốc đã đồng ý tài trợ và xây dựng cơ sở hạ tầng đường sắt và viễn thông trị giá 1,6 tỷ USD.
Nhiều dự án đã được trao thông qua các hợp đồng không đấu thầu được định giá cao ngất ngưởng. Ví dụ, một tuyến đường sắt đô thị đã được lên kế hoạch có tên là Northrail, được dàn xếp và trở thành tuyến đường sắt đắt nhất thế giới (trên mỗi km). Chi phí cho một mạng băng thông rộng quốc gia, do công ty nhà nước Trung Quốc ZTE xây dựng, đã tăng vọt từ 130 triệu đô la lên 329 triệu đô la Mỹ do các khoản lại quả cho những nhân vật chính trị quan trọng, bao gồm cả chủ tịch ủy ban bầu cử Philippines và chồng của tổng thống. Như đã được khẳng định, vào năm 2005, công ty dầu khí quốc gia Philippines đã ký một thỏa thuận thăm dò tài nguyên dưới biển nhằm hợp pháp hóa các tuyên bố chủ quyền trên biển của Trung Quốc.
Tuy nhiên, tất cả những điều ác ý này đã bị báo chí phanh phui, và một phản ứng dữ dội của công chúng xảy ra sau đó. Trong suốt năm 2007 và 2008, Thượng Viện Philippines đã tổ chức 13 phiên điều trần công khai, với đỉnh điểm là một báo cáo dài và gay gắt buộc các chính trị gia Philippines và các công ty Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành vi tham nhũng của họ. Các chính trị gia, nhà hoạt động và các nhóm xã hội dân sự đã tổ chức các cuộc biểu tình chống chính phủ ở Manila và các thành phố khác. Đáp lại, chính phủ đã đình chỉ và xem xét một loạt các dự án do Trung Quốc tài trợ, và một số nhân vật thuộc giới tinh hoa có liên quan đã bị buộc tội và xét xử trước tòa.
Thật khó để mô tả chiến dịch của Trung Quốc ở Philippines là một thành công. Năm 2010, Benigno Aquino III được bầu làm tổng thống với cương lĩnh chống tham nhũng và tỏ ra hoài nghi Bắc Kinh hơn người tiền nhiệm. Mặc dù tổng thống đương nhiệm, Rodrigo Duterte, tỏ ra háo hức hơn với đầu tư của Trung Quốc, nhưng ông vẫn bị hạn chế một phần bởi các nhà lập pháp đã thúc đẩy sự minh bạch hơn và các cơ quan chính phủ đã thực hiện các thủ tục xem xét nghiêm ngặt hơn. Dù gì đi nữa, chính sách của nước này về vấn đề mà Trung Quốc quan tâm nhất, Biển Đông, về cơ bản vẫn không thay đổi : Philippines vẫn kiên quyết với các yêu sách lãnh thổ của mình.
Những thất bại như vậy khá phổ biến. Tại Úc, Bắc Kinh đã sử dụng các doanh nhân Trung Quốc để đóng góp cho chiến dịch tranh cử và tài trợ cho các cơ sở giáo dục nhằm thuyết phục các chính trị gia và các tiếng nói khác ủng hộ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông và nhân quyền. Phản ứng dữ dội diễn ra nhanh chóng : vào năm 2017, một chính trị gia nổi tiếng được cho là đã nhận tiền của Trung Quốc và bị coi là đi theo đường lối của nước này đã buộc phải từ chức và năm sau, Quốc hội Australia đã thắt chặt luật về can thiệp chính trị nước ngoài. Vào năm 2015, tổng thống Sri Lanka đã bị bỏ phiếu bãi nhiệm sau khi bật đèn xanh cho các dự án cơ sở hạ tầng không bền vững và tham nhũng của Trung Quốc trị giá hàng tỷ đô la, và ba năm sau, số phận tương tự lại xảy ra với tổng thống Maldives.
Ở Malaysia cũng xảy ra tương tự vào năm 2018. Thủ tướng đương nhiệm, Najib Razak, bị sa lầy vào các vụ bê bối tham nhũng do quản lý kém quỹ đầu tư nhà nước của Malaysia, một số liên quan đến các khoản đầu tư do Trung Quốc tài trợ, trong đó chi phí hợp đồng bị tăng cao để trang trải cho các khoản nợ của quỹ này. Các cử tri đã khiến đảng của ông thất bại thê thảm trong cuộc bầu cử năm đó, buộc ông phải rời nhiệm sở và đánh dấu chiến thắng đầu tiên của phe đối lập trong 61 năm kể từ khi Malaysia trở thành một quốc gia độc lập. Người kế nhiệm ông, Mahathir Mohamad, đã nhanh chóng đình chỉ một số dự án, đàm phán lại các kế hoạch cho một tuyến đường sắt lớn và lên tiếng phản đối hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông – không giống như Najib, người đã bị kết án 12 năm tù. Hết lần này đến lần khác, chính sách phá hoại của Trung Quốc đã bị thất bại khi gặp các hệ thống chính trị có trách nhiệm giải trình.
Các biện pháp công khai
Trung Quốc đôi khi áp dụng một hình thức dụ dỗ hợp pháp hơn. Phương pháp này bắt nguồn từ một logic rộng hơn của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế : Trung Quốc tìm cách nuôi dưỡng các tác nhân nước ngoài có lợi ích trong việc duy trì các mối quan hệ ổn định giữa Trung Quốc và nước họ. Bắc Kinh thúc đẩy thương mại và đầu tư trên nhiều lĩnh vực với hy vọng rằng các nhóm hưởng lợi từ trao đổi kinh tế với Trung Quốc có thể sẽ thúc đẩy chính phủ của chính họ theo hướng hợp tác với nước này. Được thuyết phục bởi giới tinh hoa trong khu vực tư nhân về tầm quan trọng của nền kinh tế Trung Quốc, tính toán của họ là, các nhà lãnh đạo chính trị sẽ cố gắng giảm thiểu bất kỳ bất đồng nào với Bắc Kinh.
Ở những quốc gia mà giới tinh hoa phải chịu trách nhiệm trước pháp quyền và dư luận - những nơi ít phù hợp với những khuyến khích bất chính - cho đến nay cách tiếp cận này đã hiệu quả. Ví dụ, vào năm 2016, một doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc đã mua phần lớn cổ phần tại hải cảng lớn nhất của Hy Lạp, Piraeus, và tiến hành hiện đại hóa nó. Chính phủ Hy Lạp, đã rõ ràng trở nên miễn cưỡng hơn trong việc lên án Trung Quốc. Vào khoảng thời gian diễn ra vụ mua lại, Hy Lạp đã giảm nhẹ tuyên bố của EU về các hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông, và một năm sau, nước này đã chặn EU đưa ra một tuyên bố về việc Trung Quốc đàn áp những người bất đồng chính kiến.
Tại Úc, một số nhân vật đã ủng hộ việc giữ hòa khí với Bắc Kinh. Các doanh nhân nổi tiếng đã chỉ trích luật tìm cách chống lại sự can thiệp của nước ngoài và đã vận động chính phủ Úc ủng hộ BRI. Các quan chức địa phương đã ký các thỏa thuận BRI và trao hợp đồng cho gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Các trường đại học Úc - phụ thuộc vào sinh viên Trung Quốc để thu học phí - đã hủy các sự kiện có thể làm Trung Quốc tức giận, đã im lặng khi giảng viên bị sinh viên ép buộc phải xin lỗi vì đã đi chệch quan điểm của Bắc Kinh, và trong một trường hợp, đã đình chỉ một nhà hoạt động sinh viên chỉ trích Đảng cộng sản Trung Quốc.
So với những nỗ lực phá hoại của mình, những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm gây dựng sự ủng hộ của các nhóm lợi ích được ưu tiên ở nước ngoài có vẻ như là một cách tiếp cận lâu dài và mạnh mẽ hơn so với chính sách kinh tế, vì nó tạo ra một dàn đồng ca thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến lược này cũng phải đối mặt với những thách thức riêng của nó. Ví dụ, các lợi ích chính trị có tính phân tán hơn và mất nhiều thời gian để đem lại kết quả, thử thách lòng kiên nhẫn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những người luôn bận tâm đến việc ngăn cản sự chỉ trích của công chúng và những thách thức trước mắt đối với tính hợp pháp của họ, trong nước và quốc tế. Hơn nữa, việc nuôi dưỡng các nhóm này đang trở nên khó khăn hơn. Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển theo chuỗi giá trị, các công ty Trung Quốc đã trở thành những đối thủ mạnh mẽ trong các lĩnh vực công nghệ cao, giá trị gia tăng – được trợ giúp một cách không công bằng, các đối thủ cáo buộc, bằng trợ cấp của nhà nước. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là các tập đoàn nước ngoài có ít lý do hơn để thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh.
Thật vậy, tình trạng này đã diễn ra từ khá lâu ở Hoa Kỳ. Trong những năm 1990, các doanh nghiệp Hoa Kỳ, bị thu hút bởi khả năng tiếp cận thị trường Trung Quốc, đã vận động thành công Tổng thống Bill Clinton mở rộng quy chế "tối huệ quốc" của Trung Quốc. Ngược lại, ngày nay họ phàn nàn về các chính sách phân biệt đối xử, hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ, hạn chế tiếp cận thị trường ở Trung Quốc và vận động hành lang cho các biện pháp trừng phạt. Việc Trung Quốc gia tăng mô hình tư bản nhà nước của họ có thể làm suy yếu nỗ lực thu hút các nhóm lợi ích nước ngoài.
Hơn nữa, chính sách đối ngoại ngày càng hung hăng của Bắc Kinh có nguy cơ làm lu mờ sức hút tích cực của quan hệ kinh tế. Chính sách ngoại giao "Chiến binh sói", một phong cách đối ngoại hiếu chiến được đặt theo tên một cặp phim hành động yêu nước của Trung Quốc, đã làm xấu đi mối quan hệ với nhiều quốc gia. Xu hướng ngày càng gia tăng sử dụng sự ép buộc kinh tế đã làm nổi bật hơn nữa những mặt trái của sự phụ thuộc lẫn nhau. Khi Bắc Kinh, đáp lại lời kêu gọi của Australia về một cuộc điều tra nguồn gốc của đại dịch, áp đặt thuế quan và các lệnh cấm thương mại đối với than, gỗ, rượu, hải sản và các sản phẩm khác của Australia, họ đã tạo thêm sức mạnh cho những người Australia ủng hộ một chính sách hiếu chiến hơn đối với Trung Quốc. Ở Đài Loan, Bắc Kinh thậm chí còn đạt được ít thành công hơn : mặc dù họ đã cố gắng sử dụng các mối quan hệ kinh tế đang phát triển qua eo biển để làm suy yếu các phe phái ủng hộ độc lập, các doanh nhân Đài Loan đã phần lớn từ chối ủng hộ các chính sách của đại lục, bởi vì vấn đề độc lập của Đài Loan được xem là một vấn đề an ninh cực kỳ quan trọng. Ngay cả sự quyến rũ hợp pháp cũng có giới hạn của nó.
Mất bạn bè
Đối với tất cả những lời bàn tán sôi nổi về lợi ích địa chính trị từ chính sách ngoại giao dựa trên sức mạnh kinh tế, cho đến nay, Bắc Kinh hầu như chỉ có thể đạt được các mục tiêu có tính trao đổi, ngắn hạn - ví dụ, sự im lặng về hồ sơ nhân quyền của Trung Quốc từ một nhà lập pháp hoặc phủ quyết đối với một nghị quyết về Biển Đông trong một cuộc họp ASEAN. Ngoài một nhóm nhỏ các quốc gia có ít trách nhiệm giải trình công khai, ảnh hưởng chiến lược lâu dài của Trung Quốc vẫn còn hạn chế. Hầu hết các quốc gia mà Trung Quốc nhắm tới đã không tạo ra những thay đổi lớn trong liên kết địa chính trị của họ ; trong những trường hợp tốt nhất, họ đã đưa ra những cam kết mang tính biểu tượng và khoa trương.
Đây là một sự thất bại trong việc thực hiện ; Bắc Kinh thường thiếu hiểu biết tình thế tại các nước mà họ nhắm đến, khiến nước này đặc biệt dễ bị tổn thương trước những thăng trầm của chính trị dân chủ. Khi không nhận ra các chiến lược của mình có thể diễn ra như thế nào trong các bối cảnh chính trị khác nhau, Trung Quốc đã gây ra phản ứng dữ dội thay vì thu hút được sự ủng hộ. Các khoản đầu tư của Trung Quốc thường bị chính trị hóa, với các đảng đối lập chỉ trích những đảng đương nhiệm đã ký kết các thỏa thuận để theo kiểu nhượng bộ cho Bắc Kinh. Các vụ bê bối tham nhũng thường xuyên mà các khoản đầu tư như vậy gây ra đã cung cấp thêm đạn cho các nhà phê bình.
Thật vậy, Trung Quốc phải đối mặt với nền chính trị trong nước lộn xộn của các nước khác nhiều hơn mức họ có thể thích. Trong khi các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thường xem chính sách kinh tế của Trung Quốc qua lăng kính của một đại chiến lược và sự cạnh tranh giữa các siêu cường, thì đối với nhiều nhà lãnh đạo ở các nước tiếp nhận, điều đó lại thiên về sự tranh giành giữa các chính trị gia địa phương. Những nhà lãnh đạo này đã đóng những vai trò đáng kể trong việc định hình các nỗ lực của Trung Quốc. Hãy xem xét Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan, một đầu tàu của BRI.
Dự án đã gặp phải những trở ngại chính trị và kinh tế khi các chính trị gia Pakistan thúc đẩy việc mở rộng các dự án năng lượng cũng như cơ sở hạ tầng và sau đó tranh cãi về địa điểm của chúng. Ở Sri Lanka, ý tưởng và động lực cho cảng Hambantota do Trung Quốc tài trợ, thường được coi là trường hợp kinh điển của ngoại giao bẫy nợ, thực tế đến từ các chính trị gia Sri Lanka, những người đã trao hợp đồng cho một doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc sau khi bị Hoa Kỳ và Ấn Độ từ chối. Câu chuyện về Hambantota không phải là một câu chuyện về việc Trung Quốc giành được một vị trí chiến lược về địa chính trị - cảng này không khả thi về mặt kinh tế cũng như không phù hợp cho hải quân về mặt địa lý - mà là một trong những tài sản vô dụng của Sri Lanka.
Các nước tiếp nhận cũng đang ngày càng định hình tốt hơn các điều khoản giao dịch của họ với Trung Quốc. Chán ngán với những vụ bê bối liên tục, nhiều nước đã gây áp lực buộc chính phủ Trung Quốc phải quan tâm nhiều hơn đến các quy định trong nước họ. Tại Malaysia, sau khi phản đối kịch liệt về những lãng phí và gian lận trong một dự án đường sắt lớn kết nối các cảng trên bờ biển phía đông và phía tây của Malaysia, Trung Quốc đã đồng ý giảm mức giá một phần ba, từ 16 tỷ xuống 11 tỷ đô la. Và vào năm 2018, chính phủ Myanmar đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ để đàm phán lại thành công các điều khoản của một dự án xây dựng cảng do Trung Quốc tài trợ.
Bang giao dựa trên sức mạnh kinh tế không bao giờ là dễ dàng. Các biện pháp cưỡng chế như trừng phạt thường không thuyết phục được mục tiêu, bất kể chúng được Washington hay Bắc Kinh áp đặt. Mặc dù những biện pháp dụ dỗ có vẻ hứa hẹn nhiều hơn, nhưng chúng cũng đi kèm với rủi ro. Trong trường hợp của Trung Quốc, thất bại xảy ra nhiều hơn là thành công. Đó là bởi vì sự thành công của các thỏa thuận phụ thuộc rất nhiều vào chính trị ở các nước tiếp nhận. Trong Chiến tranh Lạnh, chẳng hạn, Viện trợ của Mỹ cho các nước đang phát triển tham nhũng ở Châu Phi và Châu Mỹ Latinh đã thành công trong việc chống đỡ cho các nhà độc tài, trong khi ở Châu Âu, Kế hoạch Marshall đã thành công trong việc tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở các nước dân chủ.
Nói chung, Viện trợ và đầu tư của Nhật Bản đã củng cố hình ảnh của Tokyo ở Đông Nam Á nhưng ít có ảnh hưởng chính trị ở Campuchia, nơi phương thức phá hoại của Trung Quốc đã phát triển mạnh. Bắc Kinh có thể thấy rằng phương pháp phá hoại của họ hoạt động tốt ở các quốc gia độc tài, tham nhũng, nhưng có thể sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn ở những quốc gia coi trọng trách nhiệm giải trình – nhiều quốc gia trong số này cũng quan trọng về mặt chiến lược.
Điều này không có nghĩa là những nỗ lực của Bắc Kinh đối với ngoại giao kinh tế sẽ bị hủy bỏ. Với BRI, Trung Quốc đang học hỏi từ những bước đi sai lầm của mình. Họ đã thông báo rằng sẽ hạn chế các khoản đầu tư BRI "không hợp lý", trấn áp các hoạt động bất hợp pháp của các nhà đầu tư Trung Quốc ở nước ngoài và thành lập một cơ quan mới để điều phối Viện trợ nước ngoài. Tại một diễn đàn quốc tế của BRI vào năm 2019, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã vượt ra khỏi lối hùng biện "đôi bên cùng có lợi" nhạt nhẽo và lần đầu tiên nhấn mạnh chất lượng cơ sở hạ tầng, không tham nhũng và minh bạch. Cũng tại hội nghị thượng đỉnh này, ngân hàng trung ương và bộ tài chính Trung Quốc cũng đã công bố các tiêu chí tài chính mới có tính đến lượng nợ hiện tại của các nước nhận Viện trợ hay đầu tư.
Mặt khác, sự gia tăng chủ nghĩa phi tự do trên toàn cầu có thể mang lại cho Trung Quốc nhiều cơ hội hơn để giành ảnh hưởng theo những cách phá hoại. Đặc biệt ở các quốc gia có nguy cơ rơi vào tình trạng độc tài), việc mua chuộc giới tinh hoa tham nhũng không những có thể giúp họ duy trì quyền lực mà còn gây thiệt hại lâu dài cho các thể chế chính trị. Do đó, Trung Quốc có thể gia tăng sức mạnh của chủ nghĩa chuyên chế – ngay cả khi nước này không chủ động xuất khẩu chế độ chuyên quyền. Như một biện pháp phòng ngừa, Hoa Kỳ và các đối tác có thể tăng cường các thể chế trách nhiệm giải trình ở các nước tiếp nhận và cung cấp chuyên môn kỹ thuật để giúp họ đàm phán với Trung Quốc. Nhưng việc đóng khung vấn đề như một câu lạc bộ các nền dân chủ do Hoa Kỳ lãnh đạo cạnh tranh chống lại phe độc tài của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ khiến nhiều nước trong số đó xa lánh, vốn muốn tránh lựa chọn giữa hai cường quốc đối địch.
Cuối cùng, sự hiện diện kinh tế ở nước ngoài của Trung Quốc đang mở rộng nhanh chóng, đặc biệt là khi đi kèm với sự phá hoại và ép buộc, có thể làm trầm trọng thêm nỗi lo sợ chiến lược trên toàn cầu. Các quan chức Trung Quốc có thể vẫn nghĩ rằng phát triển kinh tế tự nhiên thúc đẩy thiện chí và lòng biết ơn của những người nhận, nhưng có lý do chính đáng để tin rằng họ đã sai. Hóa ra, Trung Quốc không thể trông chờ vào việc tự động chuyển đổi ảnh hưởng kinh tế ngày càng tăng của mình thành một thế lực địa chính trị mới.
Nguyên tác : How Not to Win Allies and Influence Geopolitics, Foreign Afairs ? May-June 2021
Anh Khoa dịch
Nguồn : VNTB, 26/04/2021
---------------------
Audrye Wong là Nghiên cứu sinh sau Tiến sĩ về Chiến lược, An ninh và Bang giao quốc tế tại Trường Harvard Kennedy và Chương trình Nghiên cứu An ninh của Viện Công nghệ Massachusetts.
Từ năm 2018, Bắc Kinh âm thầm lập kế hoạch để làm "tan biến" sắc tộc người Duy Ngô Nhĩ. Cùng lúc này, Tập Cận Bình giương bàn tay thép, mở chiến dịch thanh trừng trong các lực lượng an ninh quốc gia nhằm củng cố quyền lực. Những chủ đề này được L’Obs và The Economist lần lượt phản ảnh qua các bài viết "Người Duy Ngô Nhĩ : Một tấn bi kịch" và "Thanh trừng trong ngành an ninh Trung Quốc có ý nghĩa gì".
Trang bìa tuần báo L’Obs chạy tít lớn : "Duy Ngô Nhĩ : Một cuộc diệt chủng bị che giấu". Tờ báo cho rằng dù có che giấu kỹ đến mấy, nhưng cùng với năm tháng, những hành động tàn nhẫn của Bắc Kinh đối với người Duy Ngô Nhĩ cũng bị phơi bày.
Các nhân chứng, những tài liệu rò rỉ cho thấy chế độ cộng sản Trung Quốc của ông Tập Cận Bình đã có hẳn một kế hoạch để nô lệ hóa một cách có hệ thống 12 triệu người Duy Ngô Nhĩ, sắc tộc thiểu số nói tiếng Thổ, theo đạo Hồi, chiếm đa số ở Tân Cương.
Bài xã luận đề tựa "Duy Ngô Nhĩ : Nỗi thống khổ của một dân tộc" của L’Obs lên án Bắc Kinh không từ bỏ một thủ đoạn "dã man" nào để "tận diệt hoàn toàn hay một phần sắc tộc người Duy Ngô Nhĩ". Từ việc cưỡng bức lao động, giam giữ tùy tiện hơn một triệu người trong các trại tập trung, hãm hiếp có hệ thống, cưỡng bức triệt sản, cho đến tăng cường chính sách Hán hóa bằng cách phá hủy các dấu tích văn hóa, ép buộc các gia đình Duy Ngô Nhĩ phải chứa những "anh em người Hán" ngay trong nhà…
Đối với L’Obs, đây là "Một tấn bi kịch cho người Duy Ngô Nhĩ". Lời thuật của Gulbahar Haitiwaji, 54 tuổi, "Người trở về từ trại lao cải", may mắn thoát được cảnh địa ngục trần gian sau khi được chính phủ Pháp can thiệp, về một câu chuyện do một người bạn tù lén lút kể lại, như là một lời chứng bi ai :
"Một ngày nọ tôi thấy một quản giáo người Duy Ngô Nhĩ. Anh thanh niên này đối mặt với một ông già mà họ vừa dẫn vào trại. Đó là cha của anh. Người thanh niên đứng sững sờ. Người Trung Quốc ra lệnh : ʺĐánh hắn điʺ. Anh ta giơ cao chiếc gậy dùi cui và hạ giọng nói : ʺCha tha lỗi cho conʺ. Người cha trả lời : ʺNày con, hãy làm công việc của con đi".
Nam Khai : Kế hoạch làm "tan biến" sắc tộc Duy Ngô Nhĩ
Nhà nghiên cứu người Đức Adrian Zenz, thuộc The Jamestown Foundation, cảnh báo sẽ là sai lầm khi cho rằng tất cả những biện pháp trên đã làm cho Bắc Kinh hài lòng và cảm thấy yên tâm. Làm "tan biến" sắc tộc Duy Ngô Nhĩ mới là bước đi quan trọng kế tiếp.
Chiến thuật dài hạn này được ba học giả Trung Quốc trường đại học Thiên Tân vạch ra trong một báo cáo mật năm 2018, mang tên là "Nam Khai" (Nankai), mà L’Obs cùng với các đồng nghiệp phương Tây khác như BBC (Anh), Suddeutsche Zeitung (Đức) và The Globe and Mail (Canada) đã may mắn tham khảo được.
Theo bản báo cáo, những biện pháp đang áp dụng là cần thiết nhưng chỉ có hiệu quả trong ngắn hạn. Các tác giả đánh giá rằng người Duy Ngô Nhĩ là "cổ hủ, ít học, tư tưởng hẹp hòi, tôn sùng tôn giáo thái quá, thậm chí là quá bám chặt vào những giá trị tâm linh, ít quan tâm đến các giá trị vật chất, không tích cực lao vào những công việc nặng nhọc, hay không hăng hái kiếm tiền…".
Sự "thiếu năng động này" đã ngăn cản họ tiếp cận với xã hội hiện đại, khuyến khích "niềm tin sai lệch cho rằng nhóm sắc tộc nào thì sở hữu vùng lãnh thổ đó". Với ba vị chuyên gia này, hệ quả của "việc thiếu đồng nhất hóa với Quốc gia - Giống nòi Trung Hoa" là một "mối đe dọa nghiêm trọng cho sự bình ổn của đất nước".
Thế nên, lấy danh nghĩa "giảm tình trạng nghèo khổ", ba học giả Trung Quốc khuyến nghị cần phải cải huấn họ bằng cách chuyển dịch nguồn nhân công, cưỡng ép đưa từng nhóm hàng chục ngàn thanh niên Duy Ngô Nhĩ bằng tầu lửa, đến lao động tại những khu công nghiệp cho các hãng lớn của Trung Quốc.
Kế hoạch làm "tan biến" nhóm sắc tộc thiểu số được cho là "cứng đầu" này đã được tiến hành ngay từ năm 2018. Song song đó, chính quyền trung ương đưa hàng trăm ngàn người Hán đến làm việc tại những khu công nghiệp mới được thành lập ở Tân Cương.
Ba vị chuyên gia Trung Quốc còn đưa ra kết luận rằng những công nhân được đào tạo theo phong cách "quân sự" cho thấy cực kỳ có kỷ luật, biết vâng lời, sẵn sàng làm thêm giờ không đòi hỏi lương. Và họ có thể làm việc với một mức lương rẻ hơn so với nhân công người Hoa, điều có thể hấp dẫn các chủ nhà xưởng Trung Quốc.
"Cải huấn", "văn minh hóa" trá hình ? Một chính sách nô lệ hóa một dân tộc của mình ngay trong lòng đất nước ? Sử gia James Millward, chuyên nghiên cứu về Tân Cương, trả lời L’Obs nhắc lại triều đại Mãn Thanh thế kỷ XVIII, khi đến chinh phục Tân Cương, đã để cho thành phần ưu tú địa phương tự quản lãnh thổ. Trên bình diện toàn quốc, triều đình Mãn Thanh bảo vệ chiếc nôi Duy Ngô Nhĩ, nam Tân Cương chống lại dòng di dân người Hán nhằm tránh xung đột, trái ngược hẳn với những gì chế độ cộng sản đang làm.
James Millward cảnh báo, khi chọn giải pháp mạnh, không bao dung với đa dạng văn hóa, và nhất là khi tin rằng cách "nhồi sọ" có thể làm thay đổi suy nghĩ người dân, Tập Cận Bình có nguy cơ phải đối mặt với những cáo buộc "diệt chủng", hay chí ít cũng là "tội ác chống nhân loại" từ thế giới.
Tàn nhẫn với người Duy Ngô Nhĩ, nhưng Tập Cận Bình cũng không nương tay với hàng ngũ của mình. Mượn cớ chống tham nhũng, lãnh đạo Trung Quốc thẳng tay thanh trừng những ai không trung thành với đảng và với ông. The Economist cho biết "Các cơ quan an ninh Trung Quốc đang hứng chịu một đợt thanh trừng ồ ạt".
Ngày 27/02/2021, Đảng cộng sản Trung Quốc tuyên bố khởi động chiến dịch thanh trừng được báo trước từ lâu nhắm vào hàng ngũ các lực lượng an ninh nội địa như cảnh sát, mật vụ, hệ thống tư pháp và nhà tù - một lực lượng đông đến gần 3 triệu nhân viên công lực. Chiến dịch này được truyền thông trong nước mô tả là lớn nhất từ cuối những năm 1990. Mục tiêu là nhằm bảo đảm rằng các cơ quan an ninh "tuyệt đối trung thành, tuyệt đối trong sạch và tuyệt đối đáng tin cậy".
Với nhiều quan chức Trung Quốc, chiến dịch này sẽ giống như đợt "vận động chỉnh phong Diên An" đầu những năm 1940. Vào thời điểm đó, nhằm củng cố quyền lực, Mao Trạch Đông đã cho tiến hành thanh lọc triệt để và bạo lực trong hàng ngũ phe nổi dậy theo chủ nghĩa cộng sản.
Nếu như một trong những mục tiêu chính của chiến dịch này là nhằm tiêu diệt "tầm ảnh hưởng nguy hại" của Chu Vĩnh Khang, cựu lãnh đạo an ninh nội địa, hiện đang thọ án tù chung thân từ năm 2015 với các tội danh tham nhũng, phát tán bí mật quốc gia, thì theo The Economist, cuộc thanh trừng mới này còn hàm chứa nhiều thông điệp rõ ràng.
Thứ nhất là ông Tập ham muốn quyền lực. Chiến dịch này sẽ kết thúc đúng trước kỳ đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc 5 năm một lần. Gần như chắc chắn là ông Tập Cận Bình sẽ nhân sự kiện chính trị lớn này để kéo dài thời gian cầm quyền thêm 5 năm nữa, bất chấp quy ước theo đó các tổng bí thư không nắm quyền quá 2 nhiệm kỳ 5 năm. Việc siết chặt kiểm soát các lực lượng an ninh nội địa sẽ giúp ông đè bẹp mọi sự phản đối sự thay đổi đó.
Tiếp đến, sự kiện làm nổi rõ một lý do khác, quan trọng hơn và đáng được chú ý. Đành rằng Trung Quốc, dưới một nền chuyên chế mỗi ngày một cứng rắn, trỗi dậy mạnh mẽ không ngừng, nhưng vòng xoáy chính trị luôn ẩn chứa nhiều yếu tố bất định, có thể làm thay đổi quỹ đạo của đất nước.
Người ta còn nhớ vụ bắt giữ bà Giang Thanh, vợ góa của Mao Trạch Đông, cùng bè lũ "bốn tên" năm 1976 ; cuộc đấu tranh đưa Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền hai năm sau đó ; những chia rẽ trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc làm trỗi dậy các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 và cuộc đổ máu chính trị nhằm gạt trừ mọi đối thủ của Tập Cận Bình trước khi đăng quang. Ngần ấy cú sốc gây nhiễu loạn đất nước, thiết nghĩ không thể bỏ qua.
Trong bối cảnh chuẩn bị cho đại hội năm tới, những mảng tối dày đặc của nền chính trị Trung Quốc đáng được soi xét kỹ. Một phần chỉ vì ông Tập Cận Bình thách thức các quy định. Bởi vì khi bác bỏ nguyên tắc hiện đại, theo đó lãnh đạo Trung Quốc chỉ nắm vị trí cao nhất không quá 2 nhiệm kỳ, ông Tập đã thâu tóm nhiều đòn bẩy quyền lực hơn bất kỳ ai kể từ thời Mao Trạch Đông.
Đó cũng bởi vì, dưới thời Tập Cận Bình, chế độ này còn trở nên mù mờ hơn bao giờ hết. Chỉ có điều, một sự bí mật như thế còn làm cho một chính phủ ít có trách nhiệm với công dân của mình và ngày càng trở nên khó lường hơn cho thế giới.
Cũng trong khu vực Đông Bắc Á, L’Express có bài viết nhận định "Bắc Triều Tiên, một bài toán hạt nhân hóc búa khác cho Joe Biden". Sau thất bại của chiến lược "mặc cả" của Donald Trump - phi hạt nhân hóa để đổi lấy dỡ bỏ cấm vận - tân chính quyền Washington giờ lúng túng tìm một hướng đi.
Sau thượng đỉnh Trump - Kim tại Hà Nội hồi tháng 2/2019, mọi cuộc đàm phán đều rơi vào bế tắc. Giữa Washington và Bình Nhưỡng hiện nay là một sự nghi kỵ tuyệt đối. Làm thế nào để đưa Bắc Triều Tiên ngồi vào bàn đàm phán ?
Theo phân tích của nhiều nhà nghiên cứu Hàn Quốc, cuộc đàm phán sắp tới giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên có lẽ sẽ rất cam go. Lãnh đạo Kim Jong-un tuy vẫn để ngỏ cánh cửa đối thoại, nhưng đưa ra các điều kiện rất ngặt nghèo, đòi phải chấm dứt mọi hoạt động quân sự giữa Mỹ và Hàn Quốc, dỡ bỏ lệnh cấm vận và ngưng chỉ trích về những vi phạm nhân quyền.
Nếu như "thỏa thuận hạt nhân Iran" trước đây từng được xem như là một hình mẫu cho hồ sơ Bắc Triều Tiên, thì nay tân chính quyền Biden dường như đang nhắm đến một cách tiếp cận từng bước và đa phương. Chủ đề này đã được ông Biden đề cập đến với các đồng minh trong khu vực. Chỉ còn lại một câu hỏi muôn thuở cần phải trả lời : Tại sao lãnh đạo Bắc Triều Tiên sẽ phải từ bỏ một kho vũ khí được xây dựng từ nhiều thập niên và thiết yếu cho sự sống còn về mặt chính trị của ông ấy ?
Một số tuần báo Pháp tiếp tục quan tâm đến cuộc khủng hoảng chính trị ở Miến Điện. The Economist lấy làm lo lắng về việc "quân đội Miến Điện đáp trả các cuộc biểu tình mỗi lúc một thô bạo". Ngày 03/03/2021 là một ngày "đen tối", vì ít nhất có 38 người thiệt mạng trong các cuộc biểu tình chống quân đội đảo chính.
Bài phân tích có tựa đề "Tại Miến Điện, đất nước đã đổi thay, nhưng quân đội thì không" trên trang mạng Asia Times Online được Courrier International trích dịch lại, đặt câu hỏi : Khi sử dụng những chiêu thức cũ để nắm lại quyền lực, liệu điều đó có đủ cho quân đội đối mặt với một xã hội đã chuyển đổi sau 10 năm dân chủ hóa ?
Bài viết dẫn phân tích của nhà nghiên cứu Htwe Htwe Thein, người Miến Điện, hiện đang giảng dạy tại đại học Curtin của Úc, cho rằng giới quân nhân "ham muốn bám víu quyền lực là chỉ để bảo vệ lợi ích kinh tế hơn là vì lòng yêu nước. Trong vòng nhiều thập kỷ, quân đội vơ vét một khối tài sản bởi vì họ kiểm soát bộ máy hành chính và đã thiết lập một vị thế gần như độc quyền trong nhiều lĩnh vực chủ chốt".
Việc đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) thắng lớn trong kỳ bầu cử tháng 11/2020, có nguy cơ thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình phi quân sự hóa bắt đầu từ năm 2015. Vẫn theo nhà nghiên cứu, dự án phi quân sự hóa xã hội Miến Điện đã vượt qua một bước mới với việc "Vụ Quản lý hành chính tổng hợp vốn dĩ thuộc quyền quản lý của Bộ Nội vụ (do quân đội kiểm soát) đã được chuyển qua khối dân sự năm 2019".
Nếu như tất cả những cuộc phản kháng trong quá khứ bị quân đội "nghiền nát" không chút thương tiếc, thì lần này, người dân Miến Điện, sau 10 năm mở cửa chính trị và xã hội, không còn sợ hãi để nói lên những gì họ nghĩ, cũng như là xuống đường bày tỏ thái độ thù nghịch với quân đội.
Bổn cũ soạn lại, quân đội Miến Điện tìm cách gieo rắc bất ổn khi thả tù nhân tội phạm, kích động hận thù tôn giáo gây rối loạn chung nhằm biện minh cho việc quân đội nắm giữ quyền lực. Tờ báo Hồng Kông dự đoán, bước kế tiếp rất có thể sẽ là đúc kết một thỏa thuận với một số nhóm sắc tộc thiểu số vũ trang như đã từng làm trong những năm 1990, để chứng tỏ rằng giới tướng lĩnh tìm cách bảo đảm "hòa bình trong nước".
Liệu rằng tướng Min Aung Hlaing và quân đội của ông có khuất phục được người biểu tình bằng sức mạnh và bạo lực hay không ? Một điều chắc chắn là chừng nào quân đội vẫn cầm quyền thì họ vẫn và sẽ bị quốc tế cô lập !
Trong lĩnh vực môi trường, Courrier International trên trang bìa đề tít lớn cảnh báo : "Mặt tối của chuyển đổi sinh thái". Tuần báo Pháp trích dịch một số bài viết từ các báo nước ngoài cho biết năng lượng tái tạo và tái chế rác thải đòi hỏi một cái giá phải trả về kinh tế và môi trường không phải là nhỏ.
Vào lúc các lãnh đạo chính phủ và nguyên thủ các nước như Anh, Pháp, Mỹ thông báo tiến hành cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, có nhiều câu hỏi đặt ra : Cuộc cách mạng xanh có thể tồn tại ? Với những điều kiện nào ?
Những câu hỏi này đáng được nêu lên khi mà để có được những chiếc cánh quạt gió nhẹ và bền cho năng lượng gió, thì có bao nhiêu cây gỗ bấc tại Ecuador bị đốn hạ vô tội vạ như phản ảnh của The Economist. Cuộc đua năng lượng tái tạo cũng gây ra vấn nạn ô nhiễm môi trường do quá trình khai thác, chiết tách các loại đất hiếm - được biết đến là có lực từ trường cao - rất cần thiết cho việc sản xuất ra các động cơ quạt gió.
The Daily Telegraph đưa ra những con số khá ấn tượng : Động cơ cho chiếc quạt gió Haliade-X, cánh quạt dài 107m, có chiều cao tổng cộng là 260 mét, và năng suất đạt được là 12MW, được triển khai ngoài khơi nước Anh hiện nay, cần đến 7 tấn nam châm thường trực. Một phần ba nguyên liệu cần thiết một thỏi nam châm cân nặng gần 650 kg cho một megawatt được tạo ra là từ nhiều loại đất hiếm.
Khía cạnh tái xử lý chất thải cũng có nhiều vấn đề cần xem xét lại. Ở mức độ nào tái chế chất thải là hữu ích, chính là câu hỏi của The Atlantic. Bởi vì, với những vật liệu không thích hợp như nhựa và các cơ sở sàng lọc, chế biến chất thải vẫn chưa đạt chuẩn, việc tái xử lý chất thải có lẽ cũng chẳng có mấy hiệu quả cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Ông Beth Porter, tác giả một tập sách về môi trường, cảnh báo việc quá chú trọng vào tái xử lý chất thải có nguy cơ đánh lạc hướng sự chú ý của chúng ta về việc phải ưu tiên cái nào nên "giảm và tái sử dụng".
Minh Anh
Cựu Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc Lâu Kế Vĩ (Ảnh : Reuters)
Theo ông Lâu Kế Vĩ, tình hình tài chính của Trung Quốc hiện nay "hết sức trầm trọng với những rủi ro và thách thức" đến từ thất bại trong chính sách kích thích mạnh mẽ của Mỹ, kinh tế toàn cầu suy thoái trong đại dịch Covid-19, sự già hóa của dân số Trung Quốc và nợ của chính quyền địa phương tăng.
Ông Lâu từng đưa ra những nhận xét nhạy cảm hồi tháng 12/2020, song đánh giá của ông chỉ được xuất bản công khai gần đây trên một tạp chí có liên hệ với Bộ Tài chính Trung Quốc, khi chỉ còn vài ngày nữa Trung Quốc sẽ bước vào sự kiện chính trị thường niên quan trọng nhất - Lưỡng hội, gồm kỳ họp của Quốc hội và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân toàn quốc (Chính hiệp toàn quốc). Giới tinh hoa của Trung Quốc sẽ tề tựu tại thủ đô Bắc Kinh để thảo luận và quyết định những kế hoạch chính sách cụ thể của đất nước.
Chính sách tài chính của Trung Quốc là tâm điểm của Lưỡng hội
Một trong những vấn đề lớn được đặt ra là liệu Trung Quốc có thu hẹp quy mô các biện pháp kích thích tài chính (được thực thi trong năm ngoái nhằm ứng phó tác động của dịch Covid-19) và chuyển sang tập trung vào kiểm soát rủi ro nợ leo thang hay không. Bắc Kinh được dự báo sẽ cắt giảm gói kích thích tài chính ngay cả khi Quốc hội Mỹ đang tiến gần đến việc phê duyệt gói cứu trợ kinh tế bổ sung 1.900 tỷ USD do Tổng thống Joe Biden đề xuất.
Ông Lâu, người giữ chức Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc giai đoạn 2013-2016, cảnh báo rằng thu nhập tài chính của đất nước dự kiến bị mắc kẹt "ở mức thấp" trong 5 năm tiếp theo, và không có dấu hiệu cho thấy chính phủ đang cắt giảm chi tiêu.
"Khó khăn tài chính không chỉ là vấn đề trước mắt hay ngắn hạn, mà sẽ còn nghiêm trọng cả trong trung hạn", tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP) trích lời ông Lâu Kế Vĩ.
Cựu Bộ trưởng cáo buộc Mỹ đang lợi dụng thâm hụt ngân sách của mình để chuyển gánh nặng về nợ cho thế giới, đặc biệt là những nước đang phát triển như Trung Quốc. Theo ông Lâu, nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách lớn và đang gia tăng, chính phủ Mỹ đã phải phát hành lượng lớn trái phiếu chính phủ, trong khi Cục dự trữ Liên bang mua vào số lượng lớn trái phiếu này nhằm bơm thanh khoản vào thị trường. Lượng tiền mặt bổ sung nhanh chóng đẩy giá cổ phiếu và các tài sản tài chính khác lên cao.
Ông Lâu trích dẫn ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cho biết tổng nợ chính phủ của các nền kinh tế tiên tiến chiếm 123.9% tổng GDP của các nước này trong năm 2020, phá vỡ mức kỷ lục được ghi nhận vào cuối Thế chiến II.
Ông cảnh báo khi dịch Covid-19 được kiểm soát và kinh tế toàn cầu bắt đầu phục hồi, "những chính sách tiền tệ và tài chính sẽ tạo ra bước ngoặt tác động đến sự ổn định tài chính toàn cầu và tăng trưởng kinh tế của nhiều nước".
"Các thị trường mới nổi đang đối mặt với cú đòn kép vào nền kinh tế lẫn tài chính của họ, với việc rủi ro kinh tế chuyển hóa thành rủi ro tài chính, làm gia tăng rủi ro về nợ".
Tại kỳ Lưỡng hội sắp tới, ban lãnh đạo Trung Quốc được cho là sẽ thông báo chỉ tiêu thấp hơn về thâm hụt ngân sách và phát hành trái phiếu đặc biệt của chính quyền địa phương trong năm nay.
Thách thức và bất ổn với nền tài chính Trung Quốc
Ông Lâu Kế Vĩ, hiện giữ chức chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Chính hiệp Trung Quốc, nói rằng đã có những nhân tố bất ổn và thách thức gia tăng từ trong nước đối với tình hình tài chính của Trung Quốc.
Trung Quốc đã thực thi chính sách mở rộng tài chính trong 11 năm liên tiếp kể từ năm 2009, hệ quả làm gia tăng thâm hụt ngân sạch và "bùng nổ" quy mô nợ của đất nước.
Chi tiêu tài chính của Trung Quốc tăng 2.8% trong năm 2020 so với năm trước đó, trong khi thu nhập giảm 3.9% - lần giảm đầu tiên kể từ năm 1976. Ông Lâu Kế Vĩ ước tính 15% chi ngân sách năm ngoái được dùng để trả lãi vay, so với mức 13% năm 2019.
Tính bền vững nợ của hầu hết các tỉnh thành Trung Quốc sẽ trở nên tồi tệ hơn trong giai đoạn 2021-2025 khi quy mô nợ địa phương tiếp tục tăng. Ông Lâu nói, "Theo tính toán sơ bộ, khoảng 1/4 số tỉnh thành sẽ dùng hơn một nửa nguồn thu tài chính của mình để trả vốn và lãi vay".
Ông cũng lập luận rằng tình trạng già hóa dân số của Trung Quốc sẽ gây ra thách thức nghiêm trọng cho tính bền vững tài khóa của quốc gia đông dân nhất thế giới trong những năm tiếp theo.
"Sự 'cập bến' của xã hội già hóa đang nhanh hơn, điều này sẽ làm thay đổi quy mô và cấu trúc chi tiêu tài chính của Trung Quốc, làm gia tăng gánh nặng tài chính về chăm sóc người cao tuổi và gây sức ép cho vấn đề tài chính của chính phủ", ông nói.
Tính đến cuối năm 2019, hơn 176 triệu người Trung Quốc ở độ tuổi 65 và cao hơn, chiếm 12,6% dân số cả nước, còn số người từ 60 tuổi trở lên là 177,6 triệu (chiếm 13,3% dân số) - theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc.
"Chúng ta đang đối mặt với những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ", ông Lâu Kế Vĩ nhấn mạnh.
"Bất kể là những thay đổi trong tình hình kinh tế xã hội trong nước hay kinh tế toàn cầu sụt giảm, nợ chính phủ leo thang và cọ xát thương mại toàn cầu đều sẽ tạo ra những bất ổn to lớn và thách thức nghiêm trọng cho sự bền vững tài chính của Trung Quốc".
Hải Võ
Nguồn : Soha, 02/03/2021
Ưu tiên trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021–25) của Đảng cộng sản Trung Quốc là tăng cường sự tự chủ của Trung Quốc trong sản xuất chip bán dẫn. Điều này là nhằm đáp trả các lệnh trừng phạt của Mỹ hạn chế cung cấp chip chứa công nghệ của Mỹ cho Trung Quốc. Chiến tranh thương mại là một lời nhắc nhở đối với giới lãnh đạo Trung Quốc rằng nước này không thể phụ thuộc vào nhập khẩu nữa mà phải phát triển công nghệ cốt lõi trong nước và theo đuổi các bước nhảy vọt về công nghệ, đặc biệt là trong các ngành thiết yếu như thiết bị bán dẫn.
Vấn đề thực sự của Trung Quốc nằm ở khả năng sản xuất chip cao cấp. Ảnh minh họa
Nhu cầu của Trung Quốc đối với các công nghệ hiện đại và mới nổi đang gia tăng. Nhập khẩu chip bán dẫn đã tăng lên hơn 300 tỷ đô la Mỹ trong năm 2019 và là mặt hàng nhập khẩu lớn nhất của nước này. Trung Quốc chỉ cung cấp 30% chip trong nước.
Sản xuất chip là một quá trình phức tạp liên quan đến các thành phần và công đoạn sản xuất khác nhau. Trung Quốc đã đạt được nhiều tiến bộ trong thiết kế chip – Huawei đã phát triển thành công chip cao cấp nội bộ, Kirin, cho thiết bị 5G và các mẫu điện thoại thông minh hàng đầu của hãng. Trên một số mặt, Kirin có khả năng cạnh tranh ngang ngửa với chip của các đối thủ thương mại của hãng như Qualcomm và Samsung.
Vấn đề thực sự của Trung Quốc nằm ở khả năng sản xuất chip cao cấp. Chế tạo chip bán dẫn đòi hỏi độ chính xác cao. Các chip mạnh nhất chứa càng nhiều bóng bán dẫn càng tốt trong các thiết kế ngày càng nhỏ và hiệu quả hơn. Huawei thiết kế được các chip cao cấp nhưng không thể tự sản xuất nội bộ. Thậm chí ngay cả nhà sản xuất chip lớn nhất Trung Quốc, Tập đoàn Quốc tế Sản xuất Chất bán dẫn (SMIC) do nhà nước hậu thuẫn cũng không có khả năng này. Chip Kirin của Huawei được sản xuất bởi Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) sử dụng công nghệ và thiết bị của Hoa Kỳ.
Khoảng cách công nghệ giữa các xưởng sản xuất thiết bị bán dẫn của Trung Quốc và Đài Loan là rất lớn. TSMC sản xuất được chip bán dẫn cao cấp 5 nanomet, trong khi SMIC chỉ mới mua được công nghệ chế tạo loại 14 nanomet cần thiết để sản xuất hàng loạt. Năng lực sản xuất chip của Trung Quốc kém những công ty đầu ngành ít nhất hai thế hệ (7–10 năm).
Trong những năm qua, sự hỗ trợ của chính phủ đã giúp các nhà sản xuất Trung Quốc phát triển một số năng lực sản xuất chip. Theo Hiệp hội Công nghiệp Chất bán dẫn, các nhà sản xuất chip Trung Quốc đã nhận được các khoản trợ cấp của chính phủ lên tới 50 tỷ USD trong 20 năm qua – gấp 100 lần số tiền mà các công ty ở Đài Loan nhận được. Các công ty trong nước cũng được hưởng lợi từ việc miễn thuế, đất đai miễn phí, các khoản vay ưu đãi và ưu tiên mua sắm. Các công ty Trung Quốc đã tạo ra khối lượng chip ngày càng tăng và xuất khẩu thiết bị bán dẫn của Trung Quốc đạt 101 tỷ USD vào năm 2019, tăng 20% so với năm trước. Nhưng đây chủ yếu là các chip tầm thấp hoặc tầm trung.
Địa chính trị đóng một vai trò trong việc giải thích tại sao sản xuất chip của Trung Quốc lại kém Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ba nền kinh tế này được hưởng lợi từ sự chuyển giao vốn và công nghệ của Mỹ do là đồng minh của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Chính phủ Đài Loan đã cử một nhóm kỹ sư đầu tiên của mình đến Hoa Kỳ để đào tạo trong những năm 1970, những người sau đó đã quay về để giúp xây dựng xưởng đúc bán dẫn của Đài Loan. Thành công của TMSC cũng nhờ rất nhiều vào người sáng lập, Morris Chang, một kỹ sư gốc Hoa với 25 năm kinh nghiệm trong một công ty bán dẫn hàng đầu của Mỹ trước khi được chính phủ Đài Loan tuyển dụng để thành lập TMSC vào năm 1987.
Những tiến bộ trong sản xuất thiết bị bán dẫn đòi hỏi kỹ năng và chuyên môn không thể phát triển trong một sớm một chiều. Khi Samsung và TMSC bắt đầu đầu tư vào nghiên cứu phát triển và nuôi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực sản xuất thiết bị bán dẫn vào cuối những năm 1970, Trung Quốc vừa mới thoát khỏi cuộc Cách mạng Văn hóa kéo dài hơn chục năm vốn đã chà đạp các nỗ lực khoa học. Di sản này có nghĩa là ngay cả sau khi cải cách và mở cửa bắt đầu vào năm 1978, trong suốt những năm 1980 và 1990, Trung Quốc vẫn thiếu các kỹ sư lành nghề để phát triển sự đổi mới trong ngành.
Mô hình nhà nước đầu tư ồ ạt để hỗ trợ các ngành chiến lược của Trung Quốc cũng không đạt hiệu quả cao. Ở Trung Quốc, đầu tư của nhà nước thường dẫn đến khối lượng sản xuất lớn nhưng chất lượng thấp, giống như trong ngành thép. Có những dấu hiệu cho thấy cuộc Đại Nhảy Vọt Chất bán dẫn (Great Semiconductor Leap Forward) do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo gần đây đã thúc đẩy sự gia tăng số lượng đăng ký thành lập các công ty liên quan đến thiết bị bán dẫn trong nước, trung bình 200 công ty mỗi ngày. Một số trong số này được thành lập chủ yếu để lợi dụng các ưu đãi của chính phủ.
Nhân tài rất quan trọng trong ngành bán dẫn. Nền giáo dục của Trung Quốc cần nuôi dưỡng tài năng và sự đổi mới trong khoa học cơ bản để lấp đầy khoảng trống công nghệ trong ngành chế tạo thiết bị bán dẫn. Hiện tại, ngành công nghiệp này của Trung Quốc đang thiếu hụt khoảng 200.000 nhân lực. Hiện Trung Quốc thiếu các nhà nghiên cứu lành nghề chuyên về phát triển các loại chip tiên tiến và các nhà quản lý có kinh nghiệm. Những năm gần đây, Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực tuyển dụng các kỹ sư nước ngoài và giám đốc điều hành cấp cao từ các công ty bán dẫn hàng đầu. Nhưng rất nhiều đợt tuyển dụng này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
Trung Quốc nên suy nghĩ lại về chiến lược nội địa hóa ngành bán dẫn của mình. Việc nội địa hóa chuỗi cung ứng có thể làm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào công nghệ nước ngoài, nhưng sẽ tốn kém và không khả thi về mặt thương mại. Đài Loan dẫn đầu ngành bán dẫn là nhờ khả năng tập trung vào một phân khúc thay vì toàn bộ chuỗi cung ứng. Về công nghệ chế tạo chip cao cấp, các nhà sản xuất chip Trung Quốc sẽ phải mất 7–10 năm nữa mới có thể bắt kịp các đối thủ. Và thậm chí ngay cả khi đó, họ cũng đang đuổi theo một mục tiêu di động. TSMC hiện đang tiến tới phát triển quy trình sản xuất chip 3 nanomet.
Trung Quốc có thể tận dụng sự thay đổi công nghệ và tìm kiếm cơ hội bắt kịp đối thủ ở những lĩnh vực khác. Để leo lên cao hơn trên chuỗi giá trị toàn cầu, Trung Quốc nên tập trung vào các lĩnh vực khác như chip trí tuệ nhân tạo – một lĩnh vực công nghệ mới với ít công ty hàng đầu hơn. Các công ty công nghệ Trung Quốc như Alibaba và Huawei đã bắt đầu đi đầu trong việc sản xuất những con chip này để sử dụng trong mạng 5G.
Yvette To
Nguyên tác : "China chases semiconductor self-sufficiency", East Asia, 22/02/2021
Phan Nguyên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 24/02/2021
Yvette To là Nghiên cứu sinh sau Tiến sĩ tại Khoa Nghiên cứu Châu Á và Quốc tế tại Đại học Thành phố Hồng Kông (CityU).
Đôi khi những chiến thắng dễ dàng lại nói lên nhiều điều nhất. Rất nhiều chính phủ sẵn sàng ra tay tàn nhẫn khi đối mặt với khủng bố hoặc các mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia. Tuy nhiên, khi một chế độ sử dụng toàn bộ sức mạnh của mình để áp đặt ý chí lên một nhóm không có khả năng phản kháng, thì đó là thời điểm làm lộ rõ nhiều điều. Một cuộc đối đầu không cân sức như vậy hiện đang diễn ra trên những khu đồi núi của Châu tự trị Diên Biên (Yanbian) của dân tộc Triều Tiên, nằm gần biên giới giữa Trung Quốc với Triều Tiên.
Diên Biên là nơi sinh sống của gần một triệu thành viên của nhóm dân tộc thiểu số Triều Tiên được chính thức công nhận, hầu hết trong số họ là hậu duệ của những người di cư chạy trốn khỏi các cuộc chiến tranh và nạn đói trên bán đảo Triều Tiên vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Các học giả Trung Quốc nghiên cứu khu vực này như một mô hình người thiểu số cùng tồn tại với đa số người Hán ở Trung Quốc. Giáo dục là một phần của câu chuyện đó. Các trường dân tộc Triều Tiên ở Diên Biên đã cung cấp chương trình giáo dục song ngữ trong hơn 60 năm. Cho đến gần đây, các lớp học về toán, khoa học và ngoại ngữ được cung cấp bằng tiếng Quan Thoại, trong khi tiếng Triều Tiên được sử dụng để dạy các khái niệm khó nắm bắt trong các môn học như lịch sử, chính trị và khoa học xã hội khác.
Theo truyền thống, người Triều Tiên rất hiếu học. Một học giả cho biết : "Các bậc cha mẹ sẽ bán gia súc để con đi học. Trong hai thập niên qua, Diên Biên đã đi tiên phong trong giảng dạy ba thứ tiếng, thông qua luật giáo dục địa phương vào năm 2004 trong đó ưu tiên tiếng Triều Tiên nhưng đặt trọng tâm mới vào việc dạy học sinh một ngôn ngữ thứ ba (đôi khi là tiếng Nhật, nhưng chủ yếu là tiếng Anh). Trong thời đại toàn cầu hóa, các bậc cha mẹ hiểu rằng ngôn ngữ không chỉ là truyền thống : chúng còn là cầu nối với các nền văn hóa khác, vị học giả nói. Các sinh viên tốt nghiệp ở Diên Biên biết nói nhiều ngôn ngữ được các nhà tuyển dụng săn đón ở các thành phố bùng nổ phía nam như Thâm Quyến và Quảng Châu.
Các trường dân tộc Triều Tiên của Diên Biên trong một thời gian dài đã tránh được chiến dịch thay thế các ngôn ngữ dân tộc thiểu số bằng tiếng phổ thông, được triển khai cách đây một thập niên ở những nơi bất ổn như Tân Cương và Tây Tạng và từ đó lan rộng ra toàn quốc. Tháng 11 năm ngoái, một thành viên hàng đầu của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Nhân đại) đã gọi việc quảng bá tiếng Quan Thoại là một chính sách quan trọng để "quản lý các vấn đề dân tộc, tăng cường đoàn kết và bảo vệ an ninh quốc gia".
Nhưng bây giờ Diên Biên nhận thấy luật giáo dục của mình cũng đang bị tấn công trực tiếp. Vào ngày 20 tháng 1, một cơ quan quyền lực là Ủy ban Lập pháp của Ủy ban Thường vụ Nhân đại, đã thông báo rằng luật giáo dục ở hai nơi không được nêu tên đã vi phạm một điều trong hiến pháp Trung Quốc, theo đó quy định nhà nước khuyến khích việc sử dụng tiếng Quan thoại trên toàn quốc. Theo báo cáo đầu tiên của NPC Observer, một blog hữu ích do Changhao Wei tại Trường Luật Đại học Yale quản lý, các luật giáo dục duy nhất liên quan đến thông báo trên là ở Nội Mông và Diên Biên.
Tuyên bố trên gây sốc theo nhiều cách. Trước tiên, việc tuyên bố một đạo luật vi hiến là điều rất nghiêm trọng về mặt pháp lý. Thứ hai, tuyên bố của Nhân đại không đề cập đến một điều khác trong hiến pháp trong đó quy định việc bảo vệ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Trên thực tế, những biện pháp bảo vệ đó bắt nguồn từ các chính sách có từ thời thành lập nhà nước Trung Quốc Cộng sản vào năm 1949. Ngày nay, làn sóng chính trị lại thuộc về các học giả và quan chức nổi tiếng vốn kêu gọi "chính sách dân tộc thế hệ thứ hai", được xây dựng quanh việc đồng hóa các dân tộc thiểu số vào một nền văn minh Trung Quốc duy nhất. Những người theo chủ nghĩa dân tộc như vậy biện minh cho việc đồng hóa bằng cách tuyên bố rằng Trung Quốc có nguy cơ gặp phải bất ổn sắc tộc và sự tan rã kiểu Liên Xô nếu đặc quyền của các dân tộc thiểu số không bị chấm dứt.
Tại Tân Cương, các chính sách giáo dục gắn liền với một làn sóng đàn áp lớn hơn, được áp đặt dưới danh nghĩa chống khủng bố và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Hầu hết sự chú ý của nước ngoài đều đổ dồn vào các trại cải tạo chính trị ở Tân Cương, nơi có lẽ một triệu người Hồi giáo từ sắc tộc thiểu số Duy Ngô Nhĩ đã trải qua sau khi bị dán nhãn là những kẻ cực đoan tiềm tàng vì những hành vi như cầu nguyện quá thường xuyên hoặc gọi điện thoại cho người thân ở nước ngoài. Nhưng ở các trường dân tộc thiểu số ở Tân Cương, cuộc sống cũng đã bị thay đổi. Trước đây, nhiều môn học được dạy bằng tiếng Uyghur và tiếng Kazakh. Giờ đây, những thứ tiếng đó đã bị hạ cấp từ ngôn ngữ dùng cho giảng dạy thành các môn học bình thường, chỉ được học vài giờ mỗi tuần. Tại Tây Tạng và các khu vực của người Tây Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, một tỉnh lân cận, những thay đổi tương tự đối với chính sách giáo dục đã dẫn đến các cuộc biểu tình trên đường phố vào năm 2010. Vào cuối mùa hè năm 2020, hàng nghìn phụ huynh ở Nội Mông đã tẩy chay trường học sau khi có thông báo rằng các môn học nhạy cảm như văn học, chính trị và lịch sử phải được dạy bằng tiếng Quan thoại vào năm 2022. Trên khắp Nội Mông, cảnh sát chống bạo động đã đập tan các cuộc biểu tình và các bậc cha mẹ được lệnh cho con đi học nếu không sẽ bị tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn nhận trợ cấp của chính phủ hoặc các khoản vay ngân hàng.
Chưa có cuộc bạo động nào diễn ra để phản đối sự thay đổi tương tự đối với các quy định về ngôn ngữ ở Diên Biên, được áp dụng khi năm học mới bắt đầu vào tháng 9 năm ngoái. Hiện giới học giả kêu gọi kiên nhẫn, khuyến khích các gia đình chờ xem chính phủ sẽ cân bằng thế nào giữa nhu cầu tăng cường giáo dục nói chung với nhiệm vụ bảo tồn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.
Những người dân địa phương mà chúng tôi gặp ở Yanji, thủ phủ của khu vực, vào một ngày trong tuần gần đây, bao gồm cả các bậc cha mẹ đưa trẻ em đi trượt băng hoặc đi xe trượt tuyết trên sông Buerhatong đang đóng băng, đưa ra nhiều ý kiến trái chiều về sự thay đổi này. Một người đàn ông Trung Quốc gốc Triều Tiên có con trai học mẫu giáo ủng hộ việc sử dụng tiếng Quan Thoại nhiều hơn trong trường học. Anh từng phải vật lộn ở trường đại học và phải học tiếng Trung Quốc khi có thời gian rỗi. Anh cáo buộc một số nhóm, chẳng hạn như người Tây Tạng, có tham vọng ly khai. "Người Triều Tiên chúng tôi không cảm thấy như vậy, chúng tôi ủng hộ chính phủ nhiều hơn".
Những người khác lại phân vân. Một bà mẹ hai con lo lắng rằng văn hóa Triều Tiên có thể bị suy yếu do các quy định mới. Nhưng nhà nước chắc phải có lý do cho các hành động của mình, cô nói thêm. Người mẹ cho rằng chính phủ sẽ nhìn thấy một bức tranh lớn hơn so với những công dân đơn lẻ. Sự ủng hộ chính quyền như vậy không được đáp lại bởi một mức độ tin tưởng cao hơn. Cảnh sát mặc thường phục đã đi theo chúng tôi quanh khu vực Yanji và cố gắng nghe trộm các cuộc phỏng vấn.
Số phận của Diên Biên – một khu vực bị cáo buộc có các hành vi vi hiến – chỉ ra một thực tế ảm đạm cho các dân tộc thiểu số. Lòng trung thành là không đủ. Nhiệm vụ của họ là phải trở nên Hán hóa nhiều hơn.
The Economist
Nguyên tác :"Assimilation of Chinese minorities is not just a Uyghur thing", The Economist, 30/01/2020.
Phan Nguyên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 04/02/2021