Tháng 6 này đánh dấu 30 năm sự kiện Thiên An Môn, sự kiện chế độ cộng sản Trung Quốc đã dùng quân đội thảm sát hàng ngàn sinh viên biểu tình kêu gọi cải cách để bảo vệ chế độ.
Những người lính có mặt ở Thiên An Môn tháng 6/1989 không muốn nổ súng về phía những người biểu tình, họ đã bị giới lãnh đạo chóp bu Bắc Kinh đẩy vào tội ác. (Ảnh : Japantimes)
Nhiều người đấu tranh tại Việt Nam đã đặt ra câu hỏi là liệu có một cuộc thảm sát như Thiên An Môn ở Việt Nam hay không ? Chế độ cộng sản Việt Nam "có dám" hành động tương tự Trung Quốc để duy trì chế độ ? Câu hỏi này rất đáng được quan tâm. Nguy cơ này không phải là không có khi mà trong các cuộc biểu tình gần đây, dù ôn hòa và với các khẩu hiệu không hướng trực tiếp vào chế độ mà chỉ hướng vào bảo vệ môi trường, chống Formosa, chống Trung Quốc… nhưng vẫn bị chế độ đàn áp dã man. Vậy một cuộc cách mạng thay đổi chế độ, với những khẩu hiệu hướng trực tiếp vào chế độ như đòi đảng cộng sản từ bỏ quyền lực, xóa bỏ hiến pháp, đòi bầu cử tự do… thì có nhiều nguy cơ là sẽ bị đàn áp dữ dội hơn. Nhưng liệu chế độ cộng sản Việt Nam "có dám" gây ra một cuộc thảm sát như Thiên An Môn để duy trì chế độ ?
Biến cố Thiên An Môn
Một cách tóm lược, biến cố này diễn ra sau hơn một thập kỷ Trung Quốc bắt đầu quá trình mở cửa (về kinh tế nhưng vấn siết chặt về chính trị) được Đặng Tiểu Bình xúc tiến vào những năm cuối của thập niên 1970. Những bất mãn trong xã hội Trung Quốc có cơ hội được bộc phát sau những "đêm dài tăm tối" dười thời Mao Trạch Đông, cùng với đó làn sóng dân chủ thứ 3 đang trào dâng trên khắp thế giới (và sắp nhấn chìm sắc đỏ tại Đông Âu và Liên Xô), đã tiếp thêm sức mạnh cho tuổi trẻ Trung Quốc. Cái chết của nhà lãnh đạo mang hơi hướng cải cách Hồ Diệu Bang cùng chuyến thăm của Gorbachov đã là ngòi nổ đưa hàng trăm ngàn sinh viên xuống đường. Vào lúc cao điểm có tới khoảng một triệu người tại quảng trường Thiên An Môn.
Thế rồi Đặng Tiểu Bình đã quyết định loại bỏ những nhân vật ôn hòa trong Đảng cộng sản Trung Quốc và ra lệnh thiết quân luật, vào sáng ngày 4/6/1989 quân đội đã tiến vào quảng trường giải tán cuộc biểu tình và tàn sát hàng ngàn sinh viên vô tội (có thể tới hàng chục ngàn theo một số nguồn tin), nhiều người khác tham gia vào phong trào này cũng bị bắt và một số bị thủ tiêu sau đó. 30 năm sau tội ác này chế độ cộng sản tại Trung Quốc vẫn đứng vững và tội ác này bị đi vào quên lãng tại Trung Quốc bởi bộ máy kiểm duyệt khổng lồ của chế độ. Dù có góc nhìn nào về sự kiện này thì cũng phải khẳng định rằng hành động của chế độ cộng sản Trung Quốc là một tội ác đối với loài người (theo định nghĩa của luật pháp quốc tế thì việc bức hại những người vô tội vì lý do về chủng tộc, về tôn giáo, về giai cấp hay về quan điểm chính trị là một tội ác đối với loài người), không gì có thể biện minh cho tội ác này.
Quay lại với Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã từng gây ra một vụ thảm sát còn lớn hơn cả Thiên An Môn ?
Một tội ác tại Việt Nam có quy mô còn lớn hơn cả biến cố Thiên An Môn đã diễn ra trong và sau Cách Mạng Tháng Tám là việc đảng cộng sản Việt Nam đã thảm sát hàng trăm ngàn người yêu nước và vô tội trong các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, hay những trí thức có uy tín và tiếng tăm vì đã từng tham gia vào cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ cho đất nước, hay đơn giản là không ủng hộ hay bị nghi ngờ là không ủng hộ đảng cộng sản (như các lãnh đạo của Đệ Tứ cộng sản, các tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo...). Khẩu hiệu của đảng cộng sản lúc đó là "Thà mười người bị chết oan còn hơn một địch sống sót".
Phải xây dựng nên một tổ chức đối lập hùng mạnh mang trong mình tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để đẩy nhanh cuộc vận động tư tưởng.
Cũng như biến cố Thiên An Môn, những người yêu nước và vô tội này bị thảm sát chỉ vì đảng cộng sản muốn loại bỏ mọi mầm mống chống đối để độc quyền lãnh đạo đất nước. Đợt thảm sát này đã cướp đi của dân tộc những người yêu nước chân chính nhất, nó đã là nguyên nhân chính khiến đảng cộng sản có thể trụ vững tại Miền Bắc sau khi phạm phải rất nhiều tội ác đẫm máu. Nó cũng tiêu diệt mất một tầng lớp nhân sự chính trị quý giá và tiềm năng cho Miền Nam sau này, khiến Miền Nam đã chỉ có những cấp lãnh đạo thiếu cả sự chính đáng, tinh thần dân tộc lẫn tổ chức và quyết tâm - nên đã thất bại trước cộng sản. Có thể nói cuộc thảm sát này đã thay đổi hẳn hướng đi của dân tộc ta trong hơn 70 năm qua, hướng đi vào độc tài, nội chiến và tụt hậu. Với mỗi người Việt Nam thì đây là một thảm kịch có quy mô lớn hơn nhiều Thiên An Môn, tuy vậy cho tới nay nó vẫn chưa nhận được sự quan tâm như nó đáng ra phải nhận được, như sự quan tâm của dư luận Việt Nam với sự kiện Thiên An Môn là điều làm mỗi chúng ta phải suy ngẫm ?
Còn hiện nay ?
Sau hơn 70 năm sự cuồng tín đã được thay bằng sự tham lam, lòng tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin đã được thay bằng tiền và quyền, chế độ cộng sản cũng bị lệ thuộc các nước dân chủ hơn hẳn trước đây. Ngoại thương với các nước dân chủ còn lớn hơn cả GDP và vẫn đang tiếp tục tăng lên, bất cứ hành động đàn áp quy mô lớn nào như Thiên An Môn chắc chắn sẽ dẫn tới sự trừng phạt của khối dân chủ và sẽ làm sụp đổ nền kinh tế lẫn chế độ cộng sản. Tuy vậy sự tăm tối của chế độ thì vẫn còn, vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một ví dụ. Như vậy nguy cơ về một vụ đàn áp như Thiên An Môn hay như trong và sau Cách Mạng Tháng Tám đã giảm xuống nhưng không phải là không có. Cái chúng ta cần làm là phải hạn chế tối đa nguy cơ này, để tránh những đổ vỡ không đáng có cho dân tộc.
Hạn chế thế nào ? Với những gì đã xảy ra tại Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia hay Liên Xô và Đông Âu trước đây chúng ta phải kết luận rằng sự gian ác nằm trong bản chất của các chế độ cộng sản. Lênin từng định nghĩa "đạo đức là những gì có lợi cho đảng", nghĩa là nếu bắt cóc, ám sát, khủng bố những người chống đối mà có lợi cho đảng thì họ vẫn làm và thực tế là đã làm nhiều lần trước đây. Như vậy chế độ cộng sản Việt Nam vẫn sẽ đàn áp đối lập nếu như họ có thể đàn áp được.
Vậy muốn chế độ cộng sản không thể đàn áp mạnh tay với những người đối lập được thì chúng ta phải đặt chế độ cộng sản vào "thế" là dù họ có muốn đàn áp mạnh tay cũng không thể đàn áp được. Muốn đẩy được đảng cộng sản vào "thế" này thì chúng ta phải mạnh và đảng cộng sản phải yếu, phải tăng cường sức mạnh của chúng ta và phải làm suy yếu, chia rẽ chế độ cộng sản. Muốn thế chúng ta cần chuẩn bị trước một cuộc vận động tư tưởng rộng khắp trước khi thời cơ tới.
Luôn cần một cuộc vận động tư tưởng đi trước mọi cuộc cách mạng ?
Chế độ cộng sản tại Việt Nam hay Trung Quốc đều không kế thừa quyền lực và bộ máy từ thế lực nào mà đều do đấu tranh để nắm được chính quyền. Họ lên cầm quyền được là do có rất nhiều người ủng hộ, giúp đỡ họ tận tình, do tuyệt đại đa số quần chúng đã chấp nhận họ một cách thụ động (thí dụ như im lặng, nhẫn nhục, luồn lách để sống…), và do họ đã chỉ gặp phải rất ít chống đối thực sự. Muốn thay đổi chế độ cộng sản bằng một chế độ dân chủ thì phải đảo ngược quá trình này, nghĩa là phải giảm số lượng những người ủng hộ họ, làm suy yếu, chia rẽ chế độ, phải thuyết phục quần chúng tìm một giải pháp chung cho cả dân tộc thay vì luồn lách, nhẫn nhục để sống, và nhất là phải gia tăng số lượng những người chống đối thực sự, chống đối đúng phương pháp. Muốn thế thì cần có một cuộc vận động tư tưởng rộng lớn để thuyết phục quần chúng và ngay cả những người trong chế độ, và để xây dựng lực lượng đối lập.
Một cách cụ thể, cuộc vận động tư tưởng này trước hết phải thức tỉnh người dân về sự cần thiết của một giải pháp chung cho cả dân tộc chứ không thể cứ luồn lách, nhẫn nhục để sống. Phải thuyết phục người dân tin rằng mọi người đều gắn bó với nhau trong một số phận chung, và đều sẽ có một tương lai tươi sáng nếu dân chủ được thiết lập ; rằng dân chủ không mang lại hỗn loạn, chậm tiến, chia rẽ mà ngược lại ; rằng tự do và dân chủ không phải là các giá trị của riêng phương Tây mà là các giá trị phổ cấp của loài người và mỗi người đều cần có nó để có thể tự tìm cho mình một cuộc sống xứng đáng.
Cùng với các nỗ lực đó cũng phải thuyết phục những người trong chế độ, ủng hộ và giúp đỡ tận tình cho chế độ rằng không phải lo lắng khi chế độ chấm dứt mà ngược lại, danh dự, nhân phẩm và những quyền lợi hợp pháp của họ sẽ được tôn trọng. Hơn nữa phải thuyết phục những người vẫn còn đặt hi vọng cho chế độ rằng không thể cải tiến một chính quyền tham nhũng mà phải thay thế nó, cũng như không thể cải tiến một chế độ cộng sản mà phải xóa bỏ nó nếu muốn xây dựng dân chủ, phải đoạn tuyệt với chế độ. Nỗ lực này bắt buộc phải đi cùng với tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc một cách thành thực. Khi thành công nó sẽ làm giảm những người ủng hộ chế độ, làm chia rẽ, suy yếu khả năng tự vệ của chế độ.
Và quan trọng nhất là phải gia tăng những những người chống đối, phải xây dựng nên một lực lượng đối lập mạnh và gắn kết. Đây là điều quan trọng nhất vì tổ chức đối lập mạnh hay yếu sẽ quyết định cuộc vận động tư tưởng đi nhanh hay chậm. Tổ chức cũng là môi trường để hình thành nên tư tưởng chính trị. Ngoài ra nó cũng là yếu tố không có không được nếu muốn vận động quần chúng nổi dậy. Ở đây cần một vận động tư tưởng lớn để thay đổi cách suy nghĩ của những người tranh đấu - rằng đấu tranh chính trị không thể là đấu tranh cá nhân mà luôn luôn chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Cuộc vận động tư tưởng này sẽ cung cấp thêm nhân sự, làm cho các tổ chức đối lập mạnh lên.
Khi cuộc vận động tư tưởng đã hoàn tất, quần chúng đã thấy sự cần thiết của một giải pháp chung cho cả dân tộc trong một chế độ mới ; những người trong chế độ cũng thấy được mình không những không bị đe dọa mà sẽ có một tương lai tốt hơn trong chế độ mới, chế độ đã suy yếu, chia rẽ và mất khả năng tự tồn ; cũng như một lực lượng đối lập đủ mạnh để vận động quần chúng đã chín muồi này thì một cuộc cách mạng xảy ra là điều đương nhiên. Nó xảy ra như thế nào chỉ là những chi tiết (1).
Hãy thử tưởng tượng tình hình sẽ thế nào nếu một đối lập mạnh được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, trí thức và có cả những thành viên trong chính quyền, công an và cả quân đội ? Khi đó nếu tổ chức này vận động quần chúng thì các lãnh đạo đảng cộng sản sẽ thấy là tính mạng của mình cũng bị đe dọa nếu chống đối tới cùng, họ sẽ không thể làm gì khác hơn là từ bỏ quyền lực để rút lui trong an toàn như nhiều lãnh đạo cộng sản tại các nước Đông Âu trước đây, vì khi đó dù có đàn áp cũng không thể ngăn được cách mạng nữa. Hơn nữa sự cuồng tín là đặc điểm của những người có lý tưởng hay bị dồn vào chân tường, đó không phải là trường hợp của các lãnh đạo cộng sản hiện nay nếu như đối lập mang trong mình tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Tại sao chế độ cộng sản Trung Quốc vẫn trụ vững sau tội ác Thiên An Môn ?
Những phân tích trên cho phép chúng ta tìm ra nguyên nhân mà chế độ cộng sản Trung Quốc vẫn đứng vững sau khi gây ra tội ác Thiên An Môn. Những sinh viên có mặt tại quảng trường Thiên An Môn vào thời điểm đó, nghĩa là lực lượng chính, vẫn rất chia rẽ về mục tiêu, có người đòi tự do và dân chủ, có người đòi đảng cộng sản đánh giá lại di sản của Hồ Diệu Bang và tiếp tục con đường của ông, có người muốn chế độ cải tiến nhanh hơn chứ không phải lật đổ chế độ, có người ủng hộ một phe cánh trong chế độ chứ không có ý định thay đổi chế độ (2)...
Một nhân chứng hiện đang tị nạn tại Pháp nói rằng : "Sau vụ thảm sát, người ta cho đó là những sinh viên mơ đến nền dân chủ và chỉ muốn lật đổ chế độ cộng sản. Sự thật không phải như thế. Đa số sinh viên chỉ đòi những cải tổ. Chúng tôi đã tin rằng đảng, các lãnh đạo và nhà nước sớm muộn gì cũng sẽ lắng nghe chúng tôi. Chúng tôi chỉ muốn cải tổ chính trị, chứ không làm cách mạng" (3).
Điều này cho thấy cuộc vận động tư tưởng vẫn chưa hoàn tất khi mà ngay cả trong lực lượng chính vẫn chưa trả lời dứt khoát được câu hỏi nền tảng là nên thay đổi hay cải tiến chế độ ? Trong khi chế độ cộng sản chỉ có thể thay thế chứ không thể cải tiến được - điều này đã được chứng minh trên cả lý luận lẫn thực tế (4). Sự chia rẽ về mục tiêu của phong trào (nhất là giữa cải tổ chế độ và thay đổi chế độ) cũng cho thấy lực lượng lãnh đạo chưa đủ mạnh, thống nhất và gắn bó về một lý tưởng chung. Khi cuộc vận động tư tưởng chưa hoàn tất thì thất bại của tuổi trẻ Trung Quốc là điều khó tránh được. Xã hội Trung Quốc vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc cách mạng.
Tương quan lực lượng cũng xác nhận lại điều này, ngay cả với con số vào lúc đỉnh điểm là một triệu người (ở thời điểm khác có khoảng vài chục đến vài trăm ngàn người) trong một đất nước hơn một tỉ người cũng là quá ít, để dễ so sánh thì chúng ta có thể nhìn qua cuộc cách mạng Nhung tại Tiệp Khắc, lúc cao điểm có tới nửa triệu người xuống đường tại Praha trong một đất nước chỉ hơn 15 triệu người. Cùng với đó chính quyền Trung Quốc trong thập kỷ 1980 có thể xem như là một chính quyền quân chủ với ngai vàng trong tay Đặng Tiểu Bình, ông ta đã đánh bại vây cánh của Mao Trạch Đông để nắm quyền, có thể chỉ định hay cắt chức tổng bí thư của Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, tàn sát sinh viên trong biến cố Thiên An Môn mà không gặp phải một chống đối nào. Cuộc vận động tư tưởng vẫn chưa đủ mạnh để làm suy yếu, chia rẽ trong nội bộ chế độ cộng sản, văn hóa dân chủ vẫn chưa đủ lan tỏa để làm suy yếu được văn hóa quân chủ vốn đã tồn tại hàng ngàn năm tại Trung Quốc. Tình hình Trung Quốc vào lúc đó chưa chín muồi cho một cuộc cách mạng.
Và Việt Nam ?
Những phân tích về cuộc vận động tư tưởng cũng giải thích tại sao chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn chưa bị đánh bại. Rất nhiều trí thức uy tín vẫn tìm giải pháp ngay bên trong chế độ, vẫn kiến nghị, góp ý, muốn cải tiến thay vì thay đổi chế độ. Trí thức là trí tuệ của một dân tộc, nếu các trí thức vẫn loay hoay tìm giải pháp bên trong chế độ thì chỉ làm gương cho quần chúng tiếp tục luồn lách để tìm cách vươn lên trong chế độ thay vì thay đổi nó mà thôi. Người dân đã chán ghét chế độ cộng sản nhưng vẫn chưa nhìn thấy rõ được một giải đáp mới, một lực lượng mới. Cuộc vận động tư tưởng vẫn chưa hoàn tất, chưa cung cấp đủ nhân sự cho đối lập dân chủ thì không thể dẫn tới cách mạng, hành động vào lúc này chỉ dẫn tới thất bại và tổn hao lực lượng.
Ở đây cũng phải nhấn mạnh thêm rằng sở dĩ nhân sự của lực lượng đối lập dân chủ bị thiếu hụt còn do đảng cộng sản Việt Nam đã hai lần tiêu diệt hết những người yêu nước, một lần là trong và sau Cách Mạng Tháng Tám như đã nói ở trên. Một lần khác là sau ngày 30/4/1975, lần này giới tinh hoa miền Nam không bị giết như Cách Mạng Tháng Tám nhưng bị đánh gục ý chí và quyết tâm tranh đấu cho đất nước bằng những nhà tù, trại cải tạo và chính sách khủng bố miền Nam sau ngày 30/4/1975. Xét cho cùng thì sức sống của một dân tộc chủ yếu được quyết định bởi những người yêu nước và gắn bó với tương lai của đất nước, tiêu diệt họ là đánh gục cả một đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã làm điều này tới hai lần, chính lý do này mà những yêu nước và còn giữ được quyết tâm cho đất nước hiện nay chỉ là một thiểu số rất ít ỏi, chính điều này đã làm chế độ cộng sản có thể trụ vững tới ngày hôm nay.
Chúng ta không thể cho phép đảng cộng sản Việt Nam thực hiện tội ác này thêm một lần nào nữa. Những người tranh đấu cho tương lai đất nước phải thận trọng tối đa để tránh mắc nạn, để tránh trường hợp một khi cơ hội tới chúng ta lại không có đủ lực lượng để đổi dòng lịch sử, như chúng ta đã từng bỏ lỡ cơ hội với Việt Nam Cộng Hòa vì các lực lượng yêu nước đã bị giết gần hết sau Cách Mạng Tháng Tám, cũng như cơ hội 1989-1991 vì các lực lượng yêu nước đã bị đánh gục sau ngày 30/4/1975. Trong trường hợp không may mắc nạn chúng ta sẽ không cúi đầu, để khẳng định chính nghĩa như tinh thần của các anh em trong Hội Anh Em Dân Chủ.
Gần một thế kỷ qua Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định số phận của đất nước ta và đã gây ra rất nhiều mất mát và đổ vỡ cho dân tộc. Vậy từ hôm nay, thay vì đóng vai nạn nhân của lịch sử, chúng ta hãy cố gắng quyết định hướng đi của đất nước, quyết định rằng sẽ không để đảng cộng sản gây ra thêm đổ vỡ cho đất nước nữa. Chúng ta sẽ không cho đảng cộng sản có cơ hội để đàn áp mạnh tay khi vận hội của lịch sử đến, hay dù muốn đàn áp họ cũng không đàn áp được vì khi đó chúng ta đã mạnh hơn họ. Và muốn thế thì phải xây dựng nên một tổ chức đối lập hùng mạnh mang trong mình tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để đẩy nhanh cuộc vận động tư tưởng. Tinh hình có thể chuyển biến rất nhanh.
Trần Hùng
(11/06/2019)
(1) Nội dung của cuộc vận động dân chủ - facebook.com/notes/1215557535121019
(2) vi.rfi.fr/chau-a/20190606-mua-xuan-bac-kinh-1989-uoc-mo-dan-chu-tan-vo
(3) vi.rfi.fr/chau-a/20190604-cac-nha-ly-khai-trung-quoc-nhin-lai-thien-an-mon-30-nam-sau
(4) Một cuộc chuyển hóa không thể được - facebook.com/notes/658657014144410
Các anh phải hành động đi chứ ! Đây là câu nói chất vấn Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên mà tôi đã được nghe rất nhiều lần. "Hành động" ở đây được nhiều người hiểu, và coi trọng nhất là "biểu tình", là vận động quần chúng xuống đường "lật đổ chế độ". Vậy chúng ta sẽ cùng phân tích một chút về những cuộc biểu tình.
Tại sao tư tưởng phải luôn đi trước hành động ?
Năm 2010 chỉ một thanh niên bán rong tự thiêu tại Tunisia đã châm ngòi cho những cuộc biểu tình lên tới hàng triệu người lật đổ hàng loạt các chế độ độc tài lâu năm tại Trung Đông và Bắc Phi, trong khi đó tại Việt Nam, thảm họa Formosa ảnh hưởng tới cuộc sống và sức khoẻ của cả triệu đồng bào miền Trung nhưng chỉ có thể kéo được vài nghìn người xuống đường và nhanh chóng bị chế độ đàn áp sau đó. Tại sao ? Có gì khác biệt ở đây ? Tại sao có một số cuộc biểu tình chống chế độ ở một số nước có tới hàng triệu, thậm chí là hàng chục triệu người tham gia trong khi đó những cuộc biểu tình ở Việt Nam lại chỉ có vài ngàn người ? Cái gì đã đứng sau quyết định những cuộc biểu tình này, quyết định một chế độ độc tài phải chấm dứt hay được phép tồn tại tiếp ?
Chúng ta muốn hành động và kêu gọi hành động, nhưng cái gì quyết định cách chúng ta hành động ? Đó chính là cách chúng ta suy nghĩ. Với một dân tộc, những biến cố sẽ liên tục xuất hiện trong suốt dòng lịch sử, cách một dân tộc "suy nghĩ" sẽ quyết định cách mà dân tộc đó hành động, phản ứng với những biến cố đó, từ đó dẫn tới thực tại. Thực tại đó lại xuất hiện những biến cố, những vấn đề mới, và cách dân tộc đó "suy nghĩ" sẽ lại quyết định hướng đi cho dân tộc đó tiến tới tương lai. Đó là cách mà một dân tộc tiến hóa, và cũng là cách mà lịch sử hình thành, thực tại của giai đoạn trước trở thành lịch sử đối với giai đoạn sau. Cách một dân tộc "suy nghĩ" ở đây chính là văn hóa của dân tộc đó, có thể hiểu là toàn bộ những giá trị được coi là đúng và tạo ra cách suy nghĩ và hành động cho một dân tộc. Như vậy văn hóa của một dân tộc là yếu tố chính viết nên lịch sử của dân tộc đó cũng như quyết định hướng đi của dân tộc đó trong tương lai.
Cùng một sự kiện là đấu tranh giành lại chủ quyền dân tộc nhưng với văn hóa của Việt Nam đã đưa tới cách đấu tranh bằng bạo lực và một bạo quyền được thiết lập sau đó, trong khi đó ở Ấn Độ với văn hóa của họ, cách đấu tranh bất bạo động đã được lựa chọn và cho ra đời một chế độ dân chủ sau đó. Cùng một hiện trạng là sự bất mãn của người dân với người cầm quyền nhưng với văn hóa của các dân tộc Ai Cập hay Tunisia thì họ đã phản ứng bằng những cuộc biểu tình lên tới hàng triệu người rồi kết liễu các chế độ độc tài ở đây trong khi đó ở Việt Nam chỉ đưa tới phản ứng của vài ngàn người, khiến chế độ có thể tiếp tục tồn tại.
Văn hóa là yếu tố chính quyết định hướng đi của lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử chúng ta chỉ có các chế độ bạo quyền tồn tại trên nền tảng bạo lực. Cách mà dân tộc ta "suy nghĩ" vẫn chưa thay đổi bao nhiêu thì cách chúng ta hành động rồi sau đó là số phận của dân tộc ta làm sao mà thay đổi được. Thể chế chính trị cũng chỉ là một sản phẩm của văn hóa. Cùng một văn hóa thì chế độ độc tài này sụp đổ sẽ chỉ nhường chỗ cho một chế độ độc tài khác mà thôi… đây là điều đã xảy ra hàng nghìn năm tại đất nước ta. Muốn thoát ra khỏi vòng lặp đi lặp lại của các chế độ độc tài, muốn thay đổi được hướng đi của lịch sử thì phải thay đổi được văn hóa truyền thống của dân tộc.
Như vậy trong cuộc vận động dân chủ hiện nay, hành động quan trọng hơn mọi hành động, cố gắng quan trọng hơn mọi cố gắng là phải thay đổi được văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Cuộc cách mạng dân chủ mà chúng ta đang làm về bản chất là một cuộc cách mạng văn hóa.
Đến đây chúng ta đã có thể rút ra một kết luận là những hành động nóng vội, gây tiếng vang nhất thời hay sử dụng bạo lực sẽ không mang lại bất cứ sự thay đổi nào vì đó chỉ là những biến cố nhỏ và không có một tác động nào lên văn hóa. Nó chỉ là sự tiếp nối của một nền văn hóa chính trị cũ kỹ cần phải vứt bỏ, nếu muốn đất nước có một tương lai khác. Những hành động như vậy đã thất bại, sẽ thất bại và chỉ có thể thất bại mà thôi. Chúng ta phải chấm dứt những hành động này để tập trung vào những cố gắng nghiêm túc hơn.
Trước khi tìm hiểu cách để thay đổi được văn hóa truyền thống của dân tộc thì hãy cùng điểm lại những nét chính của văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn ở bài Việt Nho, ông Nguyễn Gia Kiểng đã nêu ra ba nét đậm của văn hóa Việt Nam mà tôi xin tóm tắt lại dưới đây (1). Những đặt tính văn hóa này hiện diện trong mỗi chúng ta vì chúng ta đều là người Việt Nam, chia sẻ với nhau cùng một di sản về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, nên chúng ta đều sẽ dễ dàng thấy được nó nếu trung thực tự xét chính mình.
Dân tộc ta đã "suy nghĩ" như thế nào ?
Nét chính thứ nhất của nền văn hóa Việt Nam đó là tật nguyền của nền văn minh phù sa. Đây là tật nguyền văn hóa không chỉ của riêng Việt Nam mà của mọi nền văn minh nông nghiệp hình thành bên các dòng sông lớn với lưu lượng thường xuyên thay đổi. Những dòng sông này mang lại mùa màng và lương thực tạo điều kiện cho sự hình thành của một nền văn minh, và cũng chính những dòng sông này tạo ra vấn đề lớn nhất mà các nền văn minh sơ khai này phải đối mặt : lũ lụt. Để giải quyền vấn đề này các nền văn minh phù sa đều tồn tại dựa trên các chế độ bạo quyền áp đặt những hi sinh tàn bạo lên xã hội, có khi là hi sinh một phần cộng đồng để đắp và tu sửa đê điều, chính "khế ước bạo quyền" này giúp cộng đồng có thể tiếp tục tồn tại. Cần hàng ngàn năm để đắp nên một con đê ven các dòng sông lớn cũng có nghĩa là nền chính trị bạo quyền này kéo dài cả ngàn năm, tâm lý phục tùng vô điều kiện cho bạo quyền ăn sâu bám rễ vào xã hội. Người dân đã quen với nền chính trị chuyên chính đặt trên nền tảng của bạo lực và đã chấp nhận nó như là một định mệnh.
Di sản của nền văn minh phù sa này là nền chính trị chuyên chính cùng với sự thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. Chính sự thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm làm cho những thành phần gan dạ và bản lĩnh nhất khi lật đổ một nền chế độ chuyên chính cũng chỉ để thiết lập nên một chế độ chuyên chính mới. Vòng tuần hoàn này kéo dài hàng ngàn năm và ngay cả hiện nay chúng ta cũng đang chỉ ở trong "một nhịp" của nó. Chế độ cộng sản vẫn chống đối lại mọi cải tổ trong khi sự thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm vẫn là những tâm lý ngự trị trong giới lãnh đạo lẫn xã hội Việt Nam, thậm chí là cả giới đấu tranh cho dân chủ. Như vậy nguy cơ một chế độ chuyên chính mới hình thành sau khi chế độ cộng sản sụp đổ cũng không phải là nhỏ khi mà chúng ta vẫn chưa dỡ bỏ được di sản này, dù xã hội ta đã được giải thoát khỏi những con đê chống lũ từ lâu.
Đặc tính tiếp theo của nền văn hóa Việt Nam là Khổng giáo. Khổng giáo có thể xem là một chương trình đào tạo công chức (kẻ sĩ) phục vụ cho vua chúa để cai trị quần chúng. Kẻ sĩ ở đây chỉ là một nghề (nghề làm quan), và muốn làm tốt nghề này thì phải giúp bạo quyền hành hạ dân chúng, có khi là tàn sát dân chúng nếu dân có ý định chống lại bạo quyền kể cả khi người dân có lý do chính đáng để làm vậy, và hơn thế kẻ sĩ cũng phải phục tùng bạo quyền một cách tuyệt đối, vua muốn đánh, muốn thiến, muốn giết cũng phải chấp nhận, muốn giết ba họ cũng phải cam chịu, dù đó là hôn quân cũng phải phục tùng suốt đời vì "tôi trung không thờ hai vua". Một giai cấp sẵn sàng tàn sát cả dân chúng nếu cần, sẵn sàng vứt bỏ nhân cách của mình để được làm nô lệ cho bạo quyền như vậy thì không thể nào có một trách nhiệm gì với dân chúng, với đất nước.
Giới trí thức ngày này chính là "truyền nhân" của những kẻ sĩ ngày trước, không thiếu những trí thức vẫn tự hào về tính "sĩ" của mình. Di sản nặng nề nhất của Khổng giáo chính là thái độ phục tùng bạo quyền cùng với sự vô trách nhiệm với đất nước của giới trí thức, và vì người dân lại hành động theo giới trí thức nên tâm lý này trở thành tâm lý ngự trị trong xã hội Việt Nam.
Di sản này vẫn còn rất nặng tới ngày nay, với những bất công đầy rẫy trong xã hội Việt Nam thì chắc là ai cũng thấy được vấn đề, nhất là giới trí thức. Tuy nhiên khi muốn thay đổi thì phần lớn nếu không muốn nói là tuyệt đại đa số đều lựa chọn cách phục vụ chế độ để cải tiến từ bên trong, hay là hi vọng chế độ tự thay đổi, thay vì đối đầu trực tiếp. Đương nhiên phải có một logic nào đó mà phần lớn trí thức đều đi đến lựa chọn như vậy. Họ hành động theo quán tính, theo những gì cha ông của họ - những kẻ sĩ đã từng làm. (Tôi không có ý xúc phạm họ vì chính tôi, kẻ viết bài này cũng từng suy nghĩ như vậy trước khi có đủ kiến thức để tự xét mình.) Và đương nhiên những hành động theo quán tính thường góp phần củng cố thực tại chứ không phải là thay đổi nó. Lý do thì rất đơn giản. Muốn đánh bại chế độ cộng sản thì trước tiên là phải dám chống lại, sau đó là phải học cách để chống lại nó hiệu quả nhất. Nhưng những trí thức với cái đầu đầy trí tuệ như vậy mà cũng đã cúi xuống để phục tùng bạo quyền thì chỉ làm gương cho quần chúng cúi xuống theo thôi. Làm sao mà người dân dám đứng lên chống lại khi ngay cả những trí thức có trình độ nhất cũng đã lựa chọn thái độ phục tùng ? Chưa nói tới biết cách chống lại.
Ở đây chúng ta thấy rất rõ sự khác biệt giữa kiến thức và văn hóa. Nhiều trí thức hiện nay vẫn cho rằng chưa có dân chủ là do dân trí kém. Điều này sai. Nếu xem dân trí là kiến thức thì trong thời đại này người ta có thể tìm kiếm và học hỏi bất cứ kiến thức gì trên internet, chẳng có sự khác biệt nhiều giữa trí thức và quần chúng. Cái "dân trí" đưa tới dân chủ chính là thái độ, là văn hóa, là cách ứng xử với bạo quyền, là tinh thần dám đấu tranh và là kiến thức chính trị để biết cách phải đấu tranh như thế nào cho đất nước có dân chủ. Về cái "dân trí" này thì trí thức Việt Nam có khi còn thấp hơn quần chúng. Một ví dụ là trong phong trào bỏ đảng trong thời gian gần đây, chỉ có xấp xỉ 20 người dám lấy quyết định phản kháng.
Một đặc tính khác của "hồn tính" Việt Nam là chúng ta đã phải chịu đựng ách nô lệ quá lâu. Chúng ta bị Trung Quốc đô hộ tới cả ngàn năm, và chịu ách nô lệ lâu hơn nữa về văn hóa, tâm lý, về cách tổ chức xã hội. Di sản của đặt tính này có lẽ là sự thiếu tin tưởng vào bản thân mình mà chỉ luôn cố gắng sao chép hay trông chờ kẻ khác. Giới lãnh đạo Việt Nam thì luôn cố bắt chước theo mô hình Trung Quốc, hay mô hình của Nga mà chẳng bao giờ nghĩ tới việc tự tạo ra một mô hình riêng cho mình. Trong khi đó, những người chống cộng hiện nay thì phần lớn đấu tranh với tâm lý tuyệt vọng nhiều hơn hy vọng, họ chẳng có và cũng chẳng muốn tìm cho mình một kịch bản nào mang lại thắng lợi cho dân chủ. Số khác thì chẳng làm gì ngoài việc trông chờ chế độ tự cải tiến, dù trong lịch sử thế giới chưa từng có một chế độ cộng sản nào có thể tự chuyển hóa về dân chủ. Và cũng có một lượng người rất lớn trông chờ vào việc Trump đánh cho Trung Quốc sụp đổ rồi dân chủ sẽ đến với Việt Nam, dù chẳng có cơ sở nào cho niềm tin này. Chúng ta cần vượt lên trên niềm tin mơ hồ và vô căn cứ đó, vì nếu chúng ta không có niềm tin vào chính mình thì chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả.
Một di sản khác của truyền thống nô lệ này là chúng ta rất thiếu văn hóa tổ chức, tức là văn hóa để tham gia, xây dựng và phát triển tổ chức. Vì nếu có văn hóa này, những người nô lệ có thể kết hợp lại với với nhau và bẻ gãy ách nô lệ, điều mà những kẻ thống trị không bao giờ cho phép. Hàng ngàn năm sống trong nô lệ đã khiến chúng ta mất luôn phản xạ tổ chức, thế nên kể cả khi muốn chống lại bạo quyền chúng ta cũng không thể vì không có sức mạnh của tổ chức. Khổng giáo lại làm trầm trọng hóa thêm tật nguyền này khi mà đồng hóa làm chính trị với làm quan, có nghĩa là tìm kiếm quyền lực và bổng lộc cho bản thân mình thay vì phục vụ đất nước. Với tâm lý này thì rất khó tham gia và sinh hoạt lâu dài trong các tổ chức, nhất là các tổ chức chính trị vốn là môi trường để đóng góp và hi sinh. Kết quả như chúng ta đã thấy, các tổ chức chính trị cứ thành lập rồi lại tan rã, trong khi các tổ chức đứng đắn thì rất khó mạnh lên được.
Một đặc trưng nữa của nền văn hóa Việt Nam mà tôi muốn nhấn mạnh thêm là chúng ta trải qua chiến tranh quá nhiều, hệ quả là sự hận thù và tinh thần bất dung trở thành tâm lý ngự trị trong tâm hồn dân tộc. Tinh thần bao dung chưa bao giờ là một giá trị được đề cao trong xã hội Việt Nam, mà đã bất dung, thù hận nhau thì làm gì có liên đới dân tộc, tình thần và trách nhiệm với cộng đồng, với dân tộc ? Không có liên đới thì không thể có tinh thần dân tộc, lòng yêu nước. Hiện nay thì chúng ta cũng chỉ mới bớt thù hận nhau, chứ còn lâu mới yêu mến nhau. Chúng ta chỉ dám lên án những hành động bất công, ngược đãi đồng bào của mình, nhưng vẫn có quá ít những người dám dấn thân, dám hành động để giúp đỡ đồng bào của mình.
Tinh thần bất dung cũng có thể thấy rất rõ ngay cả trong phong trào dân chủ. Chúng tôi (Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên) đã bị mạt sát không ít từ chính những người được xem là "chống cộng", dù chúng tôi chỉ nói lên một cách thành thực quan điểm của mình và lắng nghe trên tinh thần sẵn sàng xét lại các ý kiến. Còn với đảng cộng sản thì khỏi nói, trong quá khứ họ sẵn sàng bắt cóc, thủ tiêu, ám sát những người khác quan điểm. Gần đây những hình thức như đấu tố, bỏ tù, khủng bố những người đối lập vẫn diễn ra bình thường, tinh thần bất dung và óc tôn thờ bạo lực vẫn ngự trị trong đảng cộng sản. Những hành động thách thức cả dân tộc, cướp đất dân thường vẫn xảy ra thường xuyên, dù vậy vẫn có hàng ngàn, hàng vạn người khác kể cả giới trí thức vẫn cúi đầu phục vụ cho chế độ cộng sản, dường như họ chỉ xem những người dân là nạn nhân của Formosa hay những người dân bị cướp đất ở Thủ Thiêm hay Lộc Hưng là "đồng loại" chứ không phải là "đồng bào" của mình. Tinh thần bao dung và liên đới dân tộc vẫn không mạnh ngay cả trong đầu óc của tầng lớp tinh hoa nhất. Tất nhiên thì họ cũng không khác nhiều người Việt Nam khác, họ vẫn là một người Việt Nam đúng nghĩa, thừa kế các tật nguyền của văn hóa truyền thống. Di sản của lịch sử vẫn đè nặng lên tâm hồn dân tộc chúng ta.
Một hệ quả khác của cái truyền thống này là phần lớn những người đấu tranh hiện nay đấu tranh với động cơ chính là sự thù hận chế độ cộng sản có khi là cả sự thù ghét Trung Quốc nhiều hơn là vì yêu nước, yêu đồng bào mình. Tất nhiên với những động cơ như vậy họ không thể thành công được vì họ không thể là hiện thân cho tương lai của đất nước. May mắn là vậy, vì họ thành công thì đúng là thảm họa, họ sẽ chỉ kéo dài thêm cái văn hóa truyền thống bất dung và hận thù của dân tộc, những người cộng sản, phục vụ chế độ sẽ bị trả thù, dân tộc lại tiếp tục chia rẽ và thù hận nhau. Trong khi đó, với tâm lý thù hận Trung Quốc một cách mù quáng nếu nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ sẽ là thảm họa cho cộng đồng người Hoa tại Việt Nam (như những gì đang xảy ra tại Myanmar với người Rohingya), một cộng đồng đã đóng góp rất nhiều cho quá trình mở rộng lãnh thổ của đất nước, cũng như sự đóng góp nền kinh tế của quốc gia. Họ xứng đáng được tôn vinh vì những đóng góp của mình hơn là bị nghi kỵ. Một chính quyền khôn ngoan phải tìm cách để hoà giải và hòa hợp họ với dân tộc chứ không phải là thù ghét họ. Không thể đồng nhất người Hoa tại Việt Nam với chính quyền cộng sản ở Trung Quốc, tâm lý thù hận Trung Quốc một cách mù quáng như vậy cần phải bị lên án và loại bỏ.
Nhận diện và vượt lên trên di sản của lịch sử để lại
Với bốn tầng văn hóa như vậy thì chế độ cộng sản đến với dân tộc ta chỉ là một điều hiển nhiên, phần nào chúng ta đã xứng đáng với nó. Và cũng với bốn tầng văn hóa như vậy thì có thể khẳng định lại chắc chắn một lần nữa là chúng ta sẽ không thể có một cuộc cách mạng dân chủ nếu không nhận diện được và vượt lên trên di sản của lịch sử để lại, nếu vẫn cứ hành động theo quán tính. Nó cũng giải thích tại sao những dân tộc cũng thuộc nền văn minh phù sa như Ai Cập đã đứng dậy còn chúng ta thì chưa, họ bị ảnh hướng bởi Hồi giáo - một tôn giáo có tinh thần chiến đấu chứ không phải là Khổng giáo - một nền văn hóa đào tạo ra nô lệ, nên mặc dù có tật nguyền của nền văn minh phù sa nhưng tầng lớp trí thức của họ không bị nô lệ hóa như chúng ta, kết quả là họ đã tiến về dân chủ trước chúng ta. Văn hóa cũ đã đưa tới độc tài và chậm tiến, cần một văn hóa mới để nhìn ra một hướng đi mới, đưa đất nước ra khỏi độc tài và vươn lên. Nhưng làm thế nào để thay đổi cách "suy nghĩ" của dân tộc ta, làm thế nào để có một văn hóa mới - văn hóa dân chủ ?
Trước hết hãy cùng nhìn lại bốn tầng văn hóa mà chúng ta phải chịu đựng. Tất cả đều đã xảy đến rất ngẫu nhiên. Vì lịch sử lập quốc của chúng ta hình thành cạnh con sông Hồng, nên chúng ta buộc phải chịu đựng "khế ước bạo quyền" để xã hội có thể tồn tại được. Và rồi Khổng giáo đã được hấp thụ rất tự nhiên khi nó phù hợp với cái di sản mà những con đê để lại cho chúng ta. Chúng ta cũng chịu ách đô hộ của Trung Quốc phần nhiều vì nền văn minh của họ đã đi trước chúng ta khá xa, rồi vì Khổng giáo và truyền thống bạo quyền, bạo lực đã dẫn tới việc chúng ta chịu đựng quá nhiều chiến tranh, tâm lý bất dung, thù hận ngự trị trong xã hội. Và đó chính là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa cộng sản có thể bám rễ và phát triển… Tất cả đều đã xảy đến rất ngẫu nhiên.
Chúng ta thấy gì từ sự ngẫu nhiên đó ? Đó chính là việc chúng ta không chịu đầu tư suy nghĩ về những vấn đề của đất nước, nên đã không làm chủ được cách mình suy nghĩ, mà chỉ để cho những "sự ngẫu nhiên" đó nhào nặn ra bản tính của mình. Vậy làm thế nào để có thể làm chủ được cách dân tộc ta suy nghĩ, làm chủ được văn hóa rồi làm chủ được tương lai của mình ?
Rất đơn giản, trước tiên chúng ta cần suy nghĩ về những về những vấn đề của đất nước, suy nghĩ để hành động một cách đúng đắn chứ không phải là chỉ hành động theo quán tính, theo bản năng, theo cái di sản mà lịch sử để lại. Chúng ta cần suy nghĩ một cách đúng đắn và muốn suy nghĩ một cách đúng đắn thì chúng ta cần thảo luận với nhau một cách lương thiện về mọi vấn đề của đất nước. Chúng ta cần suy nghĩ và thảo luận về hướng đi của dân tộc ta trong tương lai, làm thế nào để đánh bại chế độ cộng sản, kịch bản chiến thắng là như thế nào ? Cách thức tổ chức xã hội mới trong tương lai là gì ? Nhà nước trong tương lai sẽ như thế nào và làm những gì ? Đâu là nền tảng của xã hội dân chủ ? Những vấn đề nào đang đặt ra cho đất nước và đâu là giải đáp ? Cứu cánh của chính trị là gì ? Quốc gia là gì ?... Những câu trả lời cho những câu hỏi này, những suy nghĩ nghiêm chỉnh về đất nước, về cách tổ chức xã hội được gọi là tư tưởng chính trị.
Tư tưởng chính trị là thứ chúng ta chưa bao giờ tự tạo ra được cho mình, và thế là chúng ta đi như người mù trong quá khứ, không làm chủ được cách mình suy nghĩ và rồi bị những tư tưởng sai lầm dẫn vào thua kém và thảm kịch. Tạo ra được một hệ thống tư tưởng chính trị riêng đúng đắn cho dân tộc chính là lời giải để vượt lên trên bốn tầng văn hóa mà chúng ta nêu ra để tiến tới dân chủ, để vượt lên trên số phận mà chúng ta đã chịu đựng. Tư tưởng chính trị sẽ tác động lên cách mà dân tộc chúng ta suy nghĩ, từ đó thay đổi văn hóa, làm thay đổi cách mà dân tộc ta suy nghĩ và hành động, từ đó dẫn tới một tương lai khác. Văn hóa nô lệ và cúi đầu trước bạo quyền đương nhiên dẫn tới độc tài và tụt hậu, văn hóa tự do, phản kháng trước bất công và bạo ngược sẽ dẫn chúng ta tới dân chủ và tự do.
Như vậy trong cuộc vận động dân chủ hiện nay hành động quan trọng nhất chính là suy nghĩ và thảo luận lương thiện với nhau về mọi vấn đề của đất nước để hình thành nên một hệ thống tư tưởng chính trị mới cho đất nước, rồi mang hệ thống tư tưởng này truyền bá cho giới trí thức, người dân và xã hội, từ đó tạo một đồng thuận dân tộc mới về hướng đi mà xã hội phải tiến đến trong tương lai. Khi chúng ta đã đạt được đồng thuận này thì những cuộc biểu tình lên đến vài triệu người chỉ là hệ quả, đảng cộng sản dù muốn cũng không thể nào chặn được bánh xe của lịch sử, văn hóa đã thay đổi thì cách thức tổ chức xã hội cũng sẽ buộc phải thay đổi theo.
Tạo một đồng thuận dân tộc mới về hướng đi mà xã hội phải tiến đến trong tương lai
Hiện nay Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã xây dựng cho đất nước một hệ thống tư tưởng chính trị được trình bày trong Dự án Chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (2), chúng tôi hi vọng mọi người Việt Nam sẽ suy nghĩ và thảo luận về những ý kiến mà chúng tôi đã đề xuất trong đó. Cũng như lên tiếng phê phán để chúng tôi hoàn thiện hơn nữa hệ thống tư tưởng này, còn nếu đồng ý thì hãy giúp chúng tôi truyền bá hệ thống tư tưởng chính trị này tới nhiều người hơn nữa. Chúng tôi tin rằng có một triệu người Việt Nam đọc và hiểu dự án chính trị này cũng là đủ để chúng ta tác động lên văn hóa dân tộc, tác động lên dòng chảy của lịch sử và thay đổi vĩnh viễn số phận của dân tộc ta.
Đến đây thì chúng ta lại phải đặt ra một câu hỏi khác : Tại sao phải xây dựng ra một tổ chức chính trị mạnh ? Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên luôn cổ xuý cho đấu tranh có tổ chức và coi xây dựng tổ chức là vấn đề quan trọng nhất sau khi đã xây dựng được một hệ thống tư tưởng. Nhưng như chúng ta vừa thảo luận ở trên, chỉ cần một hệ thống tư tưởng chính trị dân chủ, cùng với một cuộc vận động tư tưởng rộng khắp là đủ để tạo ra một cuộc cách mạng dân chủ, vậy thì cần gì có tổ chức ? Có gì sai lầm ở đây ? Tại sao phải đấu tranh có tổ chức ?
Để giải đáp câu hỏi này thì chúng ta phải trả lời câu hỏi nền tảng : chúng ta muốn làm gì cho đất nước ? hay cứu cánh (đích đến) của phong trào dân chủ là gì ? Rất nhiều người sẽ cho rằng cứu cánh của phong trào dân chủ là mang lại dân chủ cho đất nước. Câu trả lời này quá thiếu sót, thậm chí là sai lầm nữa, nói chỉ nói lên sự thiếu tham vọng cho đất nước của nhiều người đấu tranh.
Theo tôi cứu cánh của phong trào dân chủ là mang lại dân chủ cho đất nước trong thời gian nhanh nhất, trong những điều kiện tốt đẹp nhất và đặt nền tảng vững chắc cho đất nước có thể vươn lên nhanh chóng và bền vững nhất. Phải nhấn mạnh từ "NHANH NHẤT", "TỐT ĐẸP NHẤT" và "VỮNG CHẮC".
Chúng ta đang làm là một cuộc cách mạng dân chủ
Nếu xem cứu cánh của phong trào dân chủ chỉ là mang lại dân chủ cho đất nước thì có thể không cần đấu tranh, vì dân chủ là xu thế của thời đại, sớm muốn đất nước cũng có dân chủ, nhưng nếu 50, 70 năm nữa đất nước mới có dân chủ thì chúng ta chẳng có gì để nói với nhau cả, khi đó đất nước đã rơi vào tình trạng tụt hậu vĩnh viễn. Vậy trước hết cứu cánh của phong trào dân chủ phải là mang lại dân chủ cho đất nước nhanh nhất. Muốn nhanh nhất thì bắt buộc phải có tổ chức, tổ chức giúp truyền bá tư tưởng chính trị một cách nhanh chóng hơn, và hơn thế một hệ thống tư tưởng chính trị cũng chỉ có thể hình thành nhanh chóng trong một tổ chức, vì trong các tổ chức các cuộc thảo luận mới có thể diễn ra có chiều sâu được.
Chúng ta chỉ có thể tạo ra các cuộc thảo luận chính trị có chiều sâu với những người có trình độ, có sự lương thiện và tôn trọng sự thật, các cuộc thảo luận công khai thường đi tới bế tắc khi mà những người không biết gì cũng nói, không có văn hoá thảo luận cũng tham gia… và cuối cùng không ai đồng ý với ai trên bất cứ một điều gì cả. Chỉ có tổ chức mới cho phép rút ngắn thời gian để hình thành một hệ thống tư tưởng chính trị và giúp truyền bá hệ thống tư tưởng đó một cách nhanh chóng nhất có thể, đến với quần chúng.
Cái chúng ta đang làm là một cuộc cách mạng dân chủ. Và một đặc tính của các cuộc cách mạng là nó rất dễ gây ra những đổ vỡ, bạo loạn, và chết chóc do những mâu thuẫn và thù hận với chính quyền cũ sẽ có cơ hội bùng phát sau khi nó sụp đổ. Vậy một mục tiêu khác của phong trào dân chủ là phải mang lại dân chủ cho đất nước trong những điều kiện tốt đẹp nhất. Muốn làm được thế thì phải kiểm soát được cuộc cách mạng. Muốn kiểm soát được cuộc cách mạng thì buộc phải có tổ chức mạnh để lãnh đạo được quần chúng, lãnh đạo cuộc cách mạng. Quần chúng khi bị kích thích đứng dậy có thể thực hiện những hành động rất liều lĩnh theo lời những người lãnh đạo, cách mạng Pháp 1789 hay cách mạng tháng Tám 1945 là những thí dụ. Chúng ta phải xây dựng một tổ chức mạnh với tinh thần bất bạo động và hòa giải dân tộc để kiểm soát và lãnh đạo cuộc cách mạng sắp tới. Phải ngăn chặn những hành vi thù hận, kích động bạo lực, phải đoạn tuyệt với di sản của lịch sử vốn chỉ toàn là chiến tranh và thù hận của chúng ta. Trong xã hội mới mà chúng ta sẽ xây dựng nên, sự bao dung và hòa giải phải là những giá trị được đặt lên cao nhất.
Ngoài ra thì tình trạng bi đát của nhiều nước sau cách mạng như tại Trung Đông và Bắc Phi cũng như tại Myanmar buộc chúng ta phải luôn ghi nhớ là cuộc cách mạng dân chủ tại Việt Nam phải đặt nền tảng vững chắc cho đất nước để có thể vươn lên nhanh chóng và bền vững nhất, điều này còn cấp thiết hơn nữa khi mà chúng ta đã quá tụt hậu, chúng ta không có thời giờ để lãng phí với những nhà lãnh đạo như Aung San Suu Kyi hay Duterte. Muốn thế thì phải chuẩn bị trước cho đất nước một dự án tương lai, về cách thức tổ chức xã hội, những hướng đi cho đất nước trong quá trình chuyển tiếp về dân chủ và trong tương lai (cái này là một phần của hệ thống tư tưởng chính trị của tổ chức) ; cùng với đó là một đội ngũ nhân sự chính trị gắn bó có đạo đức, khả năng, bản lĩnh, tầm nhìn và hơn cả là lòng yêu nước - nghĩa là đặt đất nước lên trước hết và trên hết. Chỉ có các tổ chức chính trị mới cho phép đào tạo ra một đội ngũ như vậy. Chẳng có trường đại học nào dạy các kiến thức như làm thế nào để lật đổ một chế độ độc tài hay thay thế một chính quyền tham nhũng, chỉ có các tổ chức chính trị mới có thể đi xa trong các cuộc thảo luận và cung cấp cho các thành viên những kiến thức cần thiết về những vấn đề của đất nước trong tương lai và các giải đáp.
Một dự án tương lai hoàn thiện cùng với một đội ngũ nhân sự chính trị có khả năng sẽ giúp chúng ta "đánh chặn" được những nguy cơ có thể xảy đến với đất nước trên con đường đi lên và sẽ giúp đất nước vươn lên một cách nhanh chóng. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tuý đang bùng lên khắp thế giới hiện nay, hay chủ nghĩa cộng sản trước đây, nó sẽ không có cơ hội phát triển tại đất nước ta nếu chúng ta đã tiên liệu được nó và những hậu quả mà nó mang đến cũng như việc có một đội ngũ nhân sự chính trị có khả năng để chống lại nó. Cách nhanh nhất, và ít thiệt hại nhất để sửa chữa những sai lầm như Aung San Suu Kyi là đừng để sai lầm đó xảy ra.
Xây dựng tổ chức chính trị chứ không phải tổ chức xã hội dân sự
Cũng phải nhấn mạnh thêm là tổ chức ở đây là tổ chức chính trị chứ không phải tổ chức xã hội dân sự. Các tổ chức xã hội dân sự chỉ tập trung vào một hoặc một vài vấn đề, trong khi đó một hệ thống tư tưởng chính trị là tổng hợp gần như mọi vấn đề của đất nước, nó không thể hình thành và phát triển được trong một tổ chức xã hội dân sự. Tất nhiên các tổ chức xã hội dân sự là nền tảng cho mọi xã hội văn minh và họ cũng sẽ giúp ích cho các tổ chức chính trị về nhân sự, phương tiện cũng như truyền bá tư tưởng chính trị tới quần chúng, trí thức và xã hội. Nhưng chúng ta không được nhầm lẫn vai trò, các tổ chức chính trị sẽ giữ vai trò là nhân tố chính cho cuộc cách mạng dân chủ, chúng ta cần biết điều này để tập trung vào cố gắng xây dựng tổ chức chính trị. Trước khi đấu tranh cho luật biểu tình hay luật lập hội thì chúng ta phải đấu tranh cho một nhà nước pháp trị đã, nghĩa là phải đấu tranh chính trị trước đã, vì chỉ trong một nhà nước pháp trị thì luật pháp mới có ý nghĩ, còn trong nhà nước cộng sản dù có luật biểu tình hay luật lập hội thì đó cũng chỉ là đống giấy lộn.
Sự quan trọng của một hệ thống tư tưởng chính trị cũng như một tổ chức chính trị mạnh như chúng ta vừa phân tích đưa tới ba hệ luận. Thứ nhất, cái mà phong trào dân chủ cần nhất hiện nay là phải xây dựng nên một tổ chức chính trị mạnh bằng mọi cách, như vậy những người đấu tranh cần phải tham gia hoặc lên tiếng ủng hộ các tổ chức đứng đắn và giúp đỡ các tổ chức này truyền bá tư tưởng chính trị. Với những người đấu tranh nổi tiếng ở trong nước việc tham gia vào một tổ chức chính trị có thể gặp nhiều vấn đề nhưng việc lên tiếng ủng hộ các tổ chức, giúp đỡ các tổ chức đứng đắn truyền bá tư tưởng, theo tôi không phải là vấn đề nghiêm trọng. Mang lại dân chủ cho đất nước là trách nhiệm của mọi người Việt Nam chứ không riêng gì một cá nhân, hay tổ chức nào.
Hệ luận thứ hai là các tổ chức đấu tranh bắt buộc phải có một hệ thống tư tưởng chính trị, nếu không có và cứ đấu tranh theo quán tính, theo văn hóa chính trị truyền thống chỉ là góp phần củng cố thực tại chứ không phải là làm cách mạng, cách đấu tranh theo quán tính như vậy cản trở nhiều hơn đóng góp cho tương lai của đất nước.
Một hệ luận khác là cuộc cách mạng mà chúng ta đang làm là một cuộc cách mạng về văn hóa, một cuộc đấu tranh có tầm vóc lớn hơn nhiều mọi cuộc đấu tranh khác trong lịch sử dân tộc ta - những cuộc đấu tranh chỉ thay thế ách nô lệ này bằng một ách nô lệ khác, hay một ách nô lệ ngoại xâm bằng một ác nô lệ bản xứ. Cuộc cách mạng dân chủ sắp tới sẽ đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên của tự do, chấm dứt vĩnh viễn vòng lặp lại của các chế độ nô lệ mà chúng ta đã phải chịu đựng hàng ngàn năm qua. Chính tầm vóc và sự vĩ đại của nó đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn những gì mà ông cha ta đã từng làm.
Nó đòi hỏi thời gian, sự kiên trì và sự cố gắng, cố gắng để vượt lên trên bản năng của hàng ngàn năm nô lệ - nô lệ những con đê, nô lệ Khổng giáo, và cả nô lệ Trung Quốc - để sống như những con người tự do, biết sinh hoạt có tổ chức, biết thu nhỏ cái tôi của mình để hòa mình vào tổ chức, thay sự ghen ghét và thù hận bằng sự bao dung và hòa giải, và nó cũng đòi hỏi sự dũng cảm để dám chống lại sự gian trá và bạo ngược đúng phương pháp, để đất nước này thoát khỏi số phận nhược tiểu và có một chỗ đứng xứng đáng hơn trong tương lai, để dân tộc này vĩnh viễn có tự do. Và nếu chúng ta thực sự yêu đất nước, yêu dân tộc này thì chẳng có lý do gì để lưỡng lự với chọn lựa dấn thân cả.
Trần Hùng
(11/01/2019)
(1) Việt Nho
(2) Dự án chính trị
Sự kiện 152 người Việt trốn lại Đài Loan đang làm sôi sục dư luận trong thời gian qua. "Xấu hổ", "nhục nhã", "làm nhục quốc thể"... là những từ ngữ được đưa ra nhiều nhất khi người ta bình luận về sự kiện này. Tuy vậy đây không phải là lần đầu và chắc chắn cũng chẳng phải là lần cuối người Việt trốn đi và gây ra nhiều vấn đề tại nước ngoài.
Làn sóng người Việt Nam bỏ nước ra đi một cách hợp pháp cũng là điều đã xảy ra liên tục trong hàng chục năm qua.
Tình trạng người Việt trốn ra nước ngoài một cách bất hợp pháp và gây ra những vấn đề ở quốc gia sở tại không có gì là mới. Ngay tại Đài Loan thì có tới 72% số du khách "biến mất" tại đây chính là người Việt. Tình trạng người Việt gây ra những vấn đề tại các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản hay cả các quốc gia Châu Âu cũng đã được các phương tiện truyền thông liên tục đưa tin trong những tháng, những năm qua. Chúng ta đều biết và phải hiểu rõ nguyên nhân để có một cái nhìn đúng hơn về sự kiện này, hơn là chỉ đổ lỗi cho những người dân gây ra chuyện.
Làn sóng người Việt Nam bỏ nước ra đi một cách hợp pháp cũng là điều đã xảy ra liên tục trong hàng chục năm qua. Theo các số liệu từ các tổ chức quốc tế (IOM, UM) thì từ năm 1990 đến năm 2015 có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy trong giai đoạn này tính trung bình mỗi năm có hơn 100.000 người Việt di cư ra nước ngoài. Và rất có thể là tình trạng này không hề suy giảm (nếu không muốn nói là trầm trọng hơn) trong 3 năm qua. Số liệu những người muốn bỏ quốc tịch Việt Nam luôn áp đảo số người muốn nhập quốc tịch Việt Nam (4.418 người xin thôi quốc tịch so với 45 người xin nhập quốc tịch trong năm 2018), và có thể là số người thôi quốc tịch còn nhiều hơn nữa nếu bộ máy hành chính của chế độ cộng sản không quá "rườm rà"... Cái gì đang xảy ra tại đất nước Việt Nam ?
Tại sao người Việt muốn ra đi ?
Với những người thu nhập thấp hay thất nghiệp, họ ra đi (hay trốn đi) vì mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn, một công việc có thu nhập cao hơn và cũng có khi chỉ là vì bị giới buôn người lừa đảo.
Những người bỏ nước ra đi không còn hy vọng hay nhìn thấy một tương lai xứng đáng nào cho mình trên đất nước này, và họ nghĩ là họ sẽ có một tương lai sáng lạn hơn ở một đất nước khác, thế là họ lấy quyết định ra đi. Một số người không có đủ điều kiện ra đi hợp pháp thì họ đi trốn, bất chấp nguy hiểm, rủi ro… đang chờ đón họ trên hành trình đó. Đây là một hành động "phạm pháp", nhưng khi có quá nhiều người phạm pháp chỉ để được làm những công việc bình thường, thậm chí nặng nhọc, nguy hiểm, mong được bóc lột... để mưu sinh tại nước ngoài thì phải hiểu là họ đã rất tuyệt vọng về tương lai của mình và của đất nước.
Với những người giàu có và có địa vị trong xã hội thì họ ra đi để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn, được đảm bảo an toàn về luật pháp, về thực phẩm, về nước uống, về môi trường, về một nền giáo dục, y tế tốt hơn và một tương lai hứa hẹn hơn cho con cái của họ, và hơn cả là để thoát khỏi một xã hội mà sự dối trá đang ngự trị. Sự ra đi của họ không phải là điều đáng trách, ai cũng có quyền tìm kiếm cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn cũng như đất nước đang cần tăng cường cộng đồng hải ngoại để kết nối với thế giới. Điều đáng buồn ở đây là phần lớn những người ra đi đều muốn tìm cho mình một tổ quốc mới và vĩnh viễn quên đi tổ quốc Việt Nam, nơi đã sinh ra họ. Cuộc di cư này được thực hiện bởi những phần tử tinh hoa nhất, làm đất nước mất đi một nguồn nhân sự, kiến thức và tài sản khổng lồ. Nó sẽ làm cho đất nước định cư trong sự thua kém trong nhiều năm nữa.
"Làm nhục quốc thể" - vì ý thức của người dân ?
Quay trở lại với sự kiện nêu ra ở trên, đánh giá về vụ việc nhiều người Việt trốn lại Đài Loan trong thời gian qua nhiều nhà báo, thậm chí có một vị đại biểu quốc hội đã gọi đây là hành động "làm nhục quốc thể", họ cho rằng những người này đã làm mất thể diện đất nước… Nhưng hãy đặt ngược lại câu hỏi này chúng ta sẽ nhìn thấy vấn đề, tại sao người dân lại phải có trách nhiệm với "thể diện" của đất nước ? Câu trả lời đương nhiên vì đó là đất nước của họ. Vậy nếu đất nước đó không phải của người dân thì người dân liệu có cần phải có trách nhiệm với đất nước ? Đó là trường hợp của chúng ta.
Đất nước này chưa bao giờ là đất nước của mọi người Việt Nam cả, trước đây nó là của một ông vua, của một dòng họ và giờ lại bị đảng cộng sản chiếm đoạt làm của riêng và không ngừng đập phá nó cũng như việc hành hạ những "người con" của nó. Và thế là những "người con" của nó lấy quyết định ra đi, kể cả phải trốn đi...
Tương tự, khi đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường do người dân vứt rác, xả thải... Gần như tất cả mọi người đều cho rằng do ý thức người dân kém, không có ý thức bảo vệ không gian sống của mình. Nhận định này thiếu chính xác và chưa đủ. Người dân chỉ vứt rác, xả thải ra ngoài chứ không vứt rác, xả thải vào nhà mình vì đó là nhà của họ, họ bôi bẩn đất nước này vì đất nước này không phải là đất nước của họ. Làm sao có thể yêu cầu người dân có trách nhiệm với cộng đồng, với đất nước khi đất nước này không phải và chưa bao giờ là của họ ?
Cũng là thế với những người bỏ nước ra đi một cách "hợp pháp" để vĩnh viễn tìm cho mình một quê hương mới. Khó mà bắt họ phải tiếp tục chịu đựng những bất công tại đất nước này khi mà đất nước không phải là của họ, nhất là khi họ đã nhìn thấy một tương lai khác cho mình và con cái của mình.
"Ra đi" ngay cả khi đang ở trên đất nước mình !
Không chỉ là di cư ra nước ngoài mà đại bộ phận người Việt Nam hiện nay đã "đi trốn" dù đang ở trên chính đất nước mình. Nhiều người miêu tả tình trạng này bằng câu nói "Cái cột đèn nếu biết đi cũng bỏ nước ra đi", có nghĩa là những người ở lại không phải không muốn đi mà là không thể đi, câu nói này có thể hơi quá nhưng cũng không phải là sai trong tình trạng hiện nay.
Người ta nhìn thấy những vấn nạn, những lời thách đố gần như hàng ngày từ giới cầm quyền, sự phẫn nộ cộng với sự bất lực kéo dài quá lâu đã biến thành sự chán nản với đất nước. Nó khiến phần lớn người Việt Nam hiện nay đã gạt bỏ đất nước ra khỏi đầu mình. Hãy đặt câu hỏi rằng còn có bao nhiêu người nghĩ đến chuyện tranh đấu cho tương lai của đất nước, dù phải trả giá, chúng ta sẽ thấy vấn đề. Tương lai của đất nước đã nằm ngoài mọi dự tính của đa số người Việt Nam. Họ đã "ra đi" dù đang ở ngay trên đất nước mình.
Sự sụp đổ của tinh thần quốc gia - Tại sao ?
Sự mong muốn được "ra đi" và tâm thế ra đi của người Việt cho thấy sự suy sụp của tinh thần quốc gia, một quốc gia ốm yếu đang tan vỡ từng ngày một. Nếu chỉ đổ lỗi cho chế độ cộng sản thì chúng ta sẽ không thể hiểu tại sao người ta lại không chống lại đảng cộng sản để tìm một tương lai mới mà tuyệt đại đa số lại "ra đi" ? Chúng ta sẽ phải làm rõ vấn đề này để tìm ra lối thoát, để vực dậy tinh thần quốc gia.
Nhưng trước hết Quốc Gia là gì ?
Phần lớn mọi người sẽ cho rằng quốc gia là một lãnh thổ của những con người chia sẻ cùng một lịch sử, một văn hóa, một chủng tộc hay một ngôn ngữ... Đúng là thế nếu chúng ta nhìn về hình ảnh của quốc gia Việt Nam trong quá khứ, nhưng hiện nay ý niệm quốc gia này đã bị vượt qua. Sự công phá của toàn cầu hóa, của văn hóa của phương Tây qua mạng xã hội, qua các phương tiện truyền thông, báo chí, qua âm nhạc, lối sống… làm cho những yếu tố như văn hóa, lịch sử, chủng tộc, ngôn ngữ, địa lý… bị tương đối hóa, không những không còn quan trọng nữa mà có khi chúng lại là vật cản cho tương lai của mình. Khi đó người Việt sẽ đặt ra câu hỏi liệu việc cùng nhau chia sẻ một quá khứ, nhất là một quá khứ bất hạnh, còn có ý nghĩa gì ? Có thể là chẳng còn có ý nghĩa gì trong thế giới ngày nay.
Ý niệm quốc gia truyền thống sụp đổ. Trong khi đó ý niệm quốc gia mới được hiểu như là một thực thể của mọi người và cũng là của mỗi người, là đồng thuận sống chung và xây dựng một tương lai chung vẫn chưa hình thành. Trong khoảng trống đó người Việt Nam bị rơi vào một cuộc khủng hoảng căn cước, người ta không biết mình là ai, có thể và phải sống như thế nào, có thể và phải làm gì ? Căn cước Việt Nam, ý thức làm người Việt Nam tan biến. Cũng trong khoảng trống đó, đảng cộng sản xuất hiện. Họ đã làm trầm trọng thêm tình trạng này khi đồng hóa quốc gia với đảng, với dối trá, với hung bạo, gian ác, và cả nhục nhã… Và thế là phần lớn người dân đã chọn "ra đi" bằng cách này hay cách khác, dù ở Việt Nam hay ở nước ngoài.
Khủng hoảng căn cước ?
Trước hết căn cước là gì ? Căn cước là toàn bộ những yếu tố định nghĩa mỗi người và cho phép mỗi người ý thức được sự tồn tại của mình. Mỗi người đều có một căn cước cá nhân và nhiều căn cước tập thể (1).
Căn cước đang nói tới ở bài viết này là căn cước tập thể những người Việt Nam : Căn cước Việt Nam. Căn cước Việt Nam sẽ quyết định cách chúng ta hành động và ứng xử với đất nước Việt Nam, với hình ảnh Việt Nam tại nước ngoài, với những người Việt Nam khác và cả với những kẻ đang đập phá đất nước Việt Nam.
Vì căn cước Việt Nam quá yếu nên đại đa số người Việt Nam đang sống tại Việt Nam đã chọn "ra đi" ngay trên đất nước mình, họ không còn quan tâm tới việc cải thiện căn cước Việt Nam của mình, cải thiện đất nước Việt Nam, và cũng vì thế họ để mặc cho những kẻ khác đập phá đất nước, đập phá căn cước Việt Nam của mình mà không chống trả. Thậm chí có khi là chính họ cũng tham gia vào việc đập phá đất nước theo cách này hay cách khác. Cũng vì căn cước Việt Nam quá yếu nên ý niệm làm người Việt Nam hay làm người một quốc gia khác bị tương đối hóa, thậm chí là người nước khác còn tốt hơn làm người Việt Nam. Có lẽ vì thế mà những người có điều kiện lấy quyết định ra đi.
Việc người ta không còn quan tâm tới hình ảnh của đất nước với những hành vi như trộm cắp, phạm pháp ở nước ngoài hay trốn lại lao động bất hợp pháp như sự kiện vừa rồi tại Đài Loan đều do căn cước Việt Nam quá thấp, thấp tới mức người ta không còn ý thức được rằng mình phải ứng xử có trách nhiệm với căn cước này nữa. Và khi người dân đã lấy quyết định từ bỏ đất nước thì mọi vấn đề ở quy mô quốc gia đều không còn có giải pháp nữa. Điều này lý giải tính trạng bế tắc của chúng ta trong mọi vấn đề quốc gia hiện nay.
Xét cho cùng thì cuộc khủng hoảng mà đất nước đang gặp phải chính là một cuộc khủng hoảng về căn cước Việt Nam, về tinh thần quốc gia. Ý niệm quốc gia cũ sụp đổ đã đưa chúng ta tới cuộc khủng hoảng này và chúng ta vẫn chưa thể thoát khỏi nó khi mà một ý niệm quốc gia mới vẫn chưa được hình thành.
Ai phải chịu trách nhiệm ?
Trước hết là Đảng cộng sản, họ là lực lượng lãnh đạo đất nước hiện nay nhưng họ đã không có đủ tầm nhìn để nhìn ra sự cần thiết của một ý niệm quốc gia mới nhằm giải quyết những vấn đề mà đất nước đang gặp phải. Không chỉ thế, họ còn chiếm đoạt đất nước làm của riêng và không ngừng đập phá đất nước từ khi cầm quyền tới nay. Chính họ đã đẩy người dân vào tình trạng "buộc phải vô trách nhiệm" với đất nước. Làm sao có thể đòi hỏi người dân có trách nhiệm với đất nước khi đó là đất nước của Đảng cộng sản, một tổ chức lưu manh và gian trá ?
Vị đại biểu quốc hội cho rằng người dân "làm nhục quốc thể" nên tự đặt lại trách nhiệm của mình, liệu ông có tư cách gì để lên án người dân khi ông, tự cho mình là đại điện cho người dân, mà lại chỉ biết cúi đầu phục vụ Đảng cộng sản, một đảng cướp nước ? Nhiều vị "đại biểu quốc hội" đã thủ sẵn cho mình một cuốn hộ chiếu nước ngoài trong túi. Đây là hành động chối bỏ căn cước của chính họ : căn cước Việt Nam. Họ còn thế thì trách người dân làm sao được ?
Một nhóm người khác cũng phải chịu trách nhiệm đó là giới trí thức Việt Nam. Trình độ và khả năng của họ hơn hẳn quần chúng, họ được học hỏi và có cơ hội để tiếp xúc với thế giới, được nhìn thấy sự ưu việt của các quốc gia văn minh nhất, tuy nhiên phần lớn lại lựa chọn thái độ phục vụ đảng cộng sản để họ kéo dài thêm thời gian tồn tại, số khác thì im lặng để được yên thân. Làm sao có thể kêu gọi người dân có tránh nhiệm với đất nước khi mà những phần tử tinh hoa nhất cũng hành động một cách vô trách nhiệm với căn cước của mình ?
Ra khỏi bế tắc - Một ý thức quốc gia mới ?
Rõ ràng là sẽ chỉ có một tương lai mới cho đất nước nếu chế độ cộng sản chấm dứt sự tồn tại của nó. Và chúng ta cũng chỉ đánh bại được chế độ cộng sản này khi cải thiện được căn cước Việt Nam, để người dân chống lại sự tồi dở thay vì bỏ nước "ra đi". Muốn thế thì trước hết cần nhìn nhận rằng căn cước Việt Nam hiện rất thấp, những người yêu nước, những người đặt đất nước lên trước hết và trên hết, không có nhiều. Chính vì thế những người này cần đấu tranh đúng phương pháp thì mới giành được thắng lợi, lực lượng đã mỏng mà phương pháp sai thì chắc chắn thất bại. Phương pháp đúng nhất ở đây là đấu tranh có tổ chức, trong lịch sử thế giới chưa từng có việc một cá nhân đánh bại được một chế độ độc tài.
Chúng tôi đã nói về phương pháp đấu tranh để đánh bại chế độ cộng sản trong rất nhiều bài viết, mọi người vẫn có thể tham khảo tại Chương 7, Dự án Chính trị Dân chủ Đa nguyên : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (2). Kinh nghiệm thành công trong việc đánh bại các chế độ độc tài cộng sản (hay không cộng sản) trên thế giới đều đã có nhiều, vấn đề chỉ là chúng ta có sẵn sàng học hỏi, có sẵn sàng dấn thân để đất nước có một tương lai khác hay không ?
Với hình ảnh của một tập hợp những người yêu nước có tầm vóc và hùng mạnh, chúng ta sẽ mang lại sức mạnh để đổi dòng lịch sử, mang lại một tương lai mới cho đất nước. Một đất nước được quản lý một cách đúng đắn, một nền kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường lành mạnh… một tương lai mới cho mọi người Việt Nam, và nhất một căn cước Việt Nam mới với một quốc gia của mọi người và cũng là của mỗi người, được hiểu như là một tình cảm, một không gian liên đới, một nguyện ước sống chung và chia sẻ một tương lai chung. Một căn cước để mọi người Việt Nam có thể tự hào thay vì xấu hổ, muốn ở lại thay vì ra đi. Một tương lai mới cho mọi người Việt Nam.
Một lời cuối, tại sao chúng ta cần ý thức được rằng nguyên nhân chính của tình trạng tan nát hiện nay của đất nước là do sự khủng hoảng căn cước ở quy mô quốc gia nhiều hơn là do đảng cộng sản gây ra ? (Chính do sự khủng hoảng căn cước Việt Nam mà đảng cộng sản, một tổ chức muốn xóa bỏ quốc gia, lại có thể giành được chính quyền và vẫn chưa bị đánh bại tới ngày hôm nay).
Cần hiểu rõ sự khủng hoảng căn cước này để chúng ta ý thức được rằng, hết chế độ cộng sản không phải là hết vấn đề. Những người tranh đấu phải chuẩn bị trước một dự án tương lai cho đất nước trong giai đoạn hậu cộng sản mới có hi vọng xây dựng được một căn cước Việt Nam mới. Cũng chính vì thế nên động cơ của phong trào dân chủ không thể chỉ là sự thù ghét đảng cộng sản mà là lòng yêu nước.
Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một đất nước mới, đánh bại chế độ cộng sản chỉ là giai đoạn đầu và không phải là công việc duy nhất. Dù chưa xong giai đoạn đầu nhưng tất cả chúng ta đều hiểu và ý thức được sự khó khăn của hiện tại lẫn cả trong tương lai, vì thế thì chúng ta càng phải hiểu là chúng ta không thể đi hết hành trình khó khăn này nếu không có đồng đội, không có tổ chức và nhất là không có một lộ trình khả thi.
Trần Hùng
(04/01/2019)
(1) thongluan2016.blogspot.com/2016/12/giai-quyet-khung-hoang-can-cuoc-e-ra.html
(2) bit.ly/KSKNTH-P7
Không phải chống Formosa, cũng không phải chỉ chống Trung Quốc mà là chống chính quyền ! Lần đầu tiên trong lịch sử hàng chục ngàn người khắp cả nước bước xuống đường hô vang những khẩu hiệu chưa từng xuất hiện trong những cuộc biểu tình trước đây như "đả đảo bọn bán nước", "đả đảo cộng sản" (đánh đổ cộng sản)... Từ Sài Gòn tới Hà Nội, từ Đà Nẵng tới Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Dương, Nghệ An, Tiền Giang… Và không chỉ tại Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu hay Bắc Mỹ… cũng có hàng ngàn kiều bào xuống đường.
Riêng tại Sài Gòn cuộc biểu tình này đã bắt đầu từ sáng sớm kéo dài cho tới đêm muộn, diễn ra tại hàng loạt các địa điểm như trước đại sứ quán Mỹ, công viên 30-4, nhà thờ Đức Bà, phố Tây Bùi Viện, phố đi bộ Nguyễn Huệ… Đây là một trong những cuộc biểu tình có quy mô lớn nhất từ trước tới nay. Một chi tiết nhỏ nhưng rất quan trọng trong cuộc biểu tình này là đã gần như không có sự xuất hiện của cờ đỏ hay cờ búa liềm. Chi tiết này cho phép chúng ta tiên liệu được nhiều điều sẽ xảy đến trong tương lai.
Khi sự chịu đựng đã vượt mọi giới hạn ?
Không chỉ xuất phát từ dự luật đặc khu hay dự luật an ninh mạng, sự bất mãn của người dân đã âm ỉ suốt nhiều năm qua, được hâm nóng bởi những thông tin tham nhũng của bộ máy công quyền, từ vụ cướp đất của hàng chục ngàn đồng bào tại Thủ Thiêm. Dự luật đặc khu - dự luật bán nước, dự luật an ninh mạng - dự luật bịt miệng người dân, chỉ là những giọt nước tràn ly cho những phẫn uất của người dân đã bị cai trị quá lâu dưới chế độ cộng sản.
Người ta phẫn nộ không chỉ vì nội dung của những dự luật này mà là vì cách hành xử của các quan chức cộng sản. Từ các nghị sỹ cho tới các bộ trưởng, từ các lãnh đạo quốc hội cho tới các lãnh đạo đảng cộng sản, họ gian trá ngay giữa nghị trường quốc hội, họ hành động những kẻ cai trị, họ gạt người dân ra ngoài lề mọi sinh hoạt của đất nước, họ muốn thông qua dự luật bán nước ngay trước mặt gần 100 triệu người Việt Nam, họ đối xử với người dân như đối xử với những kẻ nô lệ. Họ thách thức sự tự trọng và lòng yêu nước của mọi người Việt Nam, thách thức danh dự của cả dân tộc.
Không một người Việt Nam nào có thể chịu đựng điều đó thêm nữa. Phải chống lại nó. Phải xuống đường, phải nói với đảng cộng sản rằng ai mới là chủ nhân của đất nước này. Và hôm nay đảng cộng sản đã biết ai mới thực sự là chủ nhân của đất nước .
Một biến cố lịch sử !
Chi tiết không có sự xuất hiện của cờ đỏ hay cờ búa liềm đưa chúng ta tới một kết luận "người dân không còn tin tưởng hay hi vọng gì ở chế độ này nữa". Với những gì đã xảy ra trong thời gian qua thì họ đã đi tới kết luận chế độ này là thủ phạm cho mọi vấn đề trầm trọng của đất nước chứ không phải là giải pháp. Chính chế độ là nguyên nhân đưa tới thảm hoạ Formosa - khi họ cấp quy chế nhượng địa cho Formosa, và giờ chế độ lại muốn tiếp tục cấp quy chế nhượng địa cho hàng loạt các công ty khác trong cả 3 đặc khu. Chính chế độ là nguyên nhân đưa tới sự lệ thuộc trầm trọng như hiện nay của đất nước với Trung Quốc, và họ đang muốn tiếp tục lệ thuộc hơn nữa khi tạo ra hàng loạt lỗ hổng trong dự luật đặc khu để nhà đầu tư Trung Quốc có thể khai thác, khi họ sao chép lại y nguyên bộ luật an ninh mạng để bịt miệng người dân của Trung Quốc.
Mọi người đều thấy rõ đất nước sẽ đi vào ngõ cụt nếu chế độ này tiếp tục tồn tại. Hi vọng chỉ có thể xuất hiện ở một chế độ mới - một chế độ dân chủ và muốn thế thì phải "đánh đổ cộng sản"(đả đảo cộng sản). Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc cách mạng dân chủ.
Mở đầu cho sự sụp đổ của chế độ ?
Chế độ đã thất bại hoàn toàn trong cuộc "đụng độ" lần này. Tuyên truyền - một trong những vũ khí quan trọng nhất của chế độ đã bị đánh gục. Báo chí của chế độ hoặc là im lặng hoặc là đăng lên những bài như "người dân tụ tập đông người", "người dân bị kẻ xấu lợi dụng"... - nó chỉ phơi bày sự hèn nhát cũng như sự dối trá của báo chí nhà nước. Không ai còn tin những thông tin từ chế độ và chế độ không còn gì để nói với người dân cả. Họ chỉ còn bạo lực, nhưng càng sử dụng bạo lực thì chế độ lại càng bị quốc tế cô lập, với một nền kinh tế phụ thuộc ngoại thương như hiện nay, chế độ sẽ bị bóp đến nghẹt thở vì sử dụng bạo lực. Kết quả là chế độ ngày một yếu đi trong khi tinh thần dân tộc và phong trào dân chủ ngày một mạnh thêm, tới một thời điểm nào đó nó sẽ đủ khả năng để đánh bại chế độ cộng sản.
Và chế độ cộng sản cũng đã thấy trước được tương lai của mình, họ đã từ bỏ mọi cố gắng để tìm kiếm sự hậu thuẫn từ người dân. Trong thời đại truyền thông như hiện nay, sự thật về chế độ đã đều quá rõ ràng. Từ những người là tay sai của chế độ cho tới các đảng viên chẳng còn ai có thể tự hào vì đã xây dựng và cũng cố chế độ thối nát này. Họ cũng đang chờ đợi một cuộc cách mạng dân chủ để có thể phục hồi lại danh dự và nhân phẩm cho bản thân mình. Như thế từ quần chúng cho tới những người trong chính quyền đều đang chờ đón một sự thay đổi lớn. Vậy đâu là cầu nối để biến tương lai đang mơ ước này trở thành thực tại ?
Từ biểu tình tới cách mạng !
Khi đi cùng đoàn người biểu tình tại Sài Gòn, tôi có hỏi người dẫn đầu đoàn biểu tình rằng "chị đang đi đâu ?". Và chị ấy đã trả lời rất đơn giản "chị chỉ đi loanh quanh khu vực trung tâm thôi".
Đó có lẽ cũng là câu trả lời của phần lớn những người đi biểu tình, họ không có tổ chức và cũng không có kế hoạch, cho dù trong trường hợp số lượng đông đảo, áp đảo phía an ninh và phong toả được cả trung tâm thành phố thì những người biểu tình cũng không biết phải làm gì tiếp theo, không biết và cũng không thể làm gì để biến nó thành một cuộc cách mạng.
Muốn huy động được người biểu tình đông đảo, rồi lãnh đạo được cuộc biểu tình đó, và dùng số đông đó để gây áp lực lên chế độ cộng sản và tạo ra những thay đổi không thể đảo ngược trước khi cuộc biểu tình giải tán thì cần có một lực lượng gắn kết, một kế hoạch hoàn chỉnh nghĩa là cần một tổ chức chính trị có tầm vóc.
Đó cũng là tất cả những việc cần làm để đi từ một cuộc biểu tình tới một cuộc cách mạng. Tổ chức, tổ chức và tổ chức. Khi đã có một tổ chức chính trị hùng mạnh thì việc huy động người biểu tình, lãnh đạo cuộc biểu tình và đàm phán với chế độ cộng sản đều sẽ diễn ra dễ dàng.
Một tổ chức mạnh lãnh đạo cuộc biểu tình cũng giúp chúng ta tránh được việc cuộc biểu tình biến thành bạo động cũng như những hỗn loạn không cần thiết sau khi chế độ cộng sản kết thúc. Và để có được một tổ chức như thế thì ngay từ bây giờ những người mơ ước về một tương lai xúng đáng cho đất nước phải ý thức được rằng : đấu tranh chính trị phải là đấu tranh có tổ chức, đóng góp quan trọng nhất cho phong trào dân chủ là đóng góp để xây dựng tổ chức.
Trần Hùng
(11/06/2018)
Phần 2 - Vấn đề Formosa đâu phải chỉ có thế !
Nguyên nhân chính dẫn tới thảm họa Formosa vào năm 2016 là việc chính quyền cộng sản đã trao quy chế tự trị cho Formosa từ năm 2014. Formosa có một luật pháp riêng (về đất đai, về lao động và về thuế), có cảng biển nước sâu riêng, có nguồn năng lượng riêng và nhất là việc Formosa không bị thanh tra hay kiểm tra bởi chính quyền Hà Tĩnh hay các cơ quan ngang bộ mà chỉ liên hệ với văn phòng thủ tướng ("Có chỉ đạo của Thủ tướng thì mới tiến hành kiểm tra được").
Người dân xuống đường phản đối Formosa ngày 1/5/2016. Ảnh : AFP PHOTO / HOANG DINH NAM
Phải nhấn mạnh rằng hành vi trao quy chế tự trị một công ty nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam là một hành động bán nước. Vấn đề ở Formosa không chỉ là môi trường mà còn là cả chủ quyền quốc gia. Và vì chủ quyền quốc gia bị đem đi bán nên mới đưa tới thảm họa về môi trường.
Đã siết lại sau đó, nhưng siết ở mức độ nào ?
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng hạ gục được nhà nước của Nguyễn Tấn Dũng - người chịu trách nhiệm chính cho cái quy chế tự trị này, cùng với thảm họa Formosa vào năm 2016, chính quyền cộng sản đã bắt đầu siết lại quy chế tự trị cho Formosa. Hiện nay Bộ Tài nguyên và môi trường đã có thể thanh tra và kiểm tra Formosa và đặt Formosa vào chế độ "giám sát đặc biệt và nghiêm ngặt". Nhưng chế độ này là gì ?
Đó là việc "đưa 2 trạm kiểm định môi trường di động vào giám sát việc xử lý nước thải của Formosa Hà Tĩnh tần suất lấy mẫu nước thải tại các vị trí là 3 lần/ngày". Tuy nhiên trong các hạng mục xử lý chất thải bổ sung để đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì được Bộ Tài nguyên và môi trường thông báo như sau : "Hệ thống xử lý nước thải, khí thải đã được Formosa Hà Tĩnh lắp đặt các thiết bị quan trắc tự động liên tục 24/24, có camera theo dõi, giám sát và truyền trực tuyến số liệu về Sở Tài nguyên và môi trường Hà Tĩnh và Tổng cục Môi trường để kiểm tra, giám sát".
Như vậy các thiết bị giám sát tại các hạng mục bổ sung vẫn là do Formosa lắp đặt. Có nghĩa là những thông số môi trường này đều phải qua tay Formosa mới đến được chính quyền cộng sản và vì thế nên nó sẽ "không bao giờ vượt chuẩn". Vậy sau hai năm xảy ra thảm họa, ngoài việc một phần nước thải của Formosa được giám sát một các độc lập hơn thì phần còn lại của nước thải, tất cả khí thải đều ở trong tình trạng như trước khi thảm họa xảy ra năm 2016.
Vẫn là một khu tự trị ?
Formosa sở hữu luật đất đai riêng ? Theo thỏa ước giữa Formosa và chính quyền cộng sản thì Formosa không thể bị thu hồi đất vì mục đích cộng đồng hay phát triển kinh tế (cái này khác hoàn toàn với luật đất đai hiện hành của Việt Nam), ngoài ra Formosa được thuê đất tới 70 năm trong khi luật pháp Việt Nam chỉ cho phép thuê 50 năm. Formosa cũng có quyền thuê hoặc bán đất cho nhân viên, và thêm nữa cái giá mà Formosa phải trả để thuê 3.300 ha trong 70 năm chỉ là 4,455 triệu USD (khoảng 100 tỉ) thấp hơn rất nhiều so với mức giá thuê nếu tính theo Quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước của chính phủ Việt Nam. Như vậy chúng ta phải khẳng định rằng Formosa có một bộ luật riêng về đất đai.
Và không chỉ là về đất đai, Formosa cũng có một bộ luật riêng về thuế. Thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, thuế thuê đất và sử dụng đất, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc… đều thấp hơn rất nhiều so với các công ty bình thường tại Việt Nam. Với sự khác biệt quá lớn này thì phải nhấn mạnh rằng đây không phải là một chính sách ưu đãi về thuế mà là một bộ luật riêng về thuế dành cho Formosa.
Ngoài việc có luật pháp riêng, Formosa cũng tự cung tự cấp về mặt năng lượng. Formosa sẽ sở hữu nhà máy nhiệt điện với công suất lên tới 2.100 MW khi hoàn thiện, ngang ngửa công suất của thủy điện Hòa Bình (1920 MW) và thủy điện Sơn La (2400 MW) vốn là 2 nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam). Như vậy Formosa gần như hoàn toàn có khả năng tự chủ về mặt năng lượng.
Sở hữu một trong những cảng biển nước sâu lớn nhất Việt Nam ?
Chúng ta từng cười nhạo Sri Lanka đã tự bán mình cho Trung Quốc khi giao cảng biển chiến lược của họ cho Trung Quốc với giá 1,12 tỉ USD (cho 70% cổ phần cảng Hambantota). Thì với Formosa, họ chỉ mất chưa đầy 5 triệu USD là có đầy đủ phần đất liền, mặt nước và có luôn giấy phép xây dựng cảng Sơn Dương.
Cảng Sơn Dương do Formosa sở hữu khi hoàn thành có thể đón tàu có trọng tải lên tới 300 nghìn tấn, công suất lên tới 85 triệu tấn/năm đây có thể sẽ trở thành một trong những cảng biển nước sâu lớn nhất Việt Nam. Để dễ so sánh thì con tàu lớn nhất mà Việt Nam từng tiếp đón cũng chỉ có trọng tải 194 nghìn tấn. Công suất tối đa của cảng Hải Phòng, cảng lớn nhất miền bắc cũng chỉ là 30 triệu tấn/năm. Dùng từ "bán nước" có thể không còn phù hợp trong trường hợp này, mà phải nói rằng chính quyền cộng sản đã dâng đất nước cho Formosa.
Hành động này còn nghiêm trọng hơn nữa khi mà Vũng Áng có một vị trí chiến lược về mặt quân sự. Đối diện Vũng Áng là đảo Hải Nam, trong trường hợp chiến sự xảy ra, nếu chiếm được Vũng Áng thì Trung Quốc có thể biến Vịnh Bắc Bộ thành ao nhà và chia đôi đất nước, và với quy mô khổng lồ của cảng Sơn Dương đây có thể trở thành căn cứ mới cho họ.
Chính quyền cộng sản hiện nay vẫn luôn khẳng định rằng họ ủng hộ Chính sách Một Trung Quốc, nghĩa là họ coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, dù như vậy họ vẫn trao vẫn trao quyền xây dựng và quản lý một cảng biển nước sâu cho Formosa - một công ty Đài Loan ngay tại nơi có một vị trí chiến lược về quân sự. Nó còn đi xa hơn cả hành động bán nước.
Và đến đây chúng ta có thể khẳng định một lần nữa rằng Formosa vẫn là một khu tự trị. Nhục nhã hơn, khu tự trị này lại không phục vụ cho lợi ích của đất nước Việt Nam mà là cho Trung Quốc. Nó được mọc lên với mục đích xuất khẩu ô nhiễm của Trung Quốc sang Việt Nam. Thời đại của than và thép đã chấm dứt, không ai có thể tranh cãi về nhận định này cả, và Trung Quốc đang muốn nhảy ra khỏi thời đại này càng nhanh càng tốt. Còn các lãnh đạo Việt Nam thay vì bắt tay với phương tây để học hỏi và phát triển, để tiến xa và tiến nhanh hơn trong thời đại kinh tế tri thức thì họ lại bắt tay với Formosa để quay về cái quá khứ đen tối của Trung Quốc, để được làm bãi rác cho Trung Quốc. Một tương lai đầy tăm tối đang chờ đợi đất nước.
Nguy cơ ?
Nguy cơ trước tiên là về sức khỏe người dân. Như đã phân tích ở phần trước, sức khỏe của người dân hoàn toàn không phải là ưu tư của chế độ cộng sản, không chỉ thế họ còn cấm đoán mọi giúp đỡ cho người dân đến từ các tổ chức xã hội dân sự hay các tổ chức quốc tế. Rất có thể tình hình đã quá nghiêm trọng tới mức họ không còn giải pháp nào ngoài việc cố gắng che giấu sự thật. Formosa vẫn còn đó, nghĩa là sức khỏe của người dân sẽ tiếp tục đi xuống và hệ sinh thái đã bị hủy diệt trong thảm họa năm 2016 cũng không có cơ hội để hồi phục.
Nguyên nhân gây ra thảm họa này chính là quy chế tự trị mà chế độ cộng sản đã cấp cho Formosa. Và quy chế tự trị đó nay vẫn còn, có nghĩa là bất cứ lúc nào thảm họa này cũng có thể lặp lại. Người dân sẽ luôn sống trong tình trạng nơm nớp lo sợ là liệu mình đang ăn hải sản hay ăn chất thải của Formosa. Hành động bán nước này không chỉ tổn hại nghiêm trọng chủ quyền quốc gia mà đã đặt hàng triệu người dân luôn chờ chực một thảm họa ngay trên đầu mình.
Một nguy cơ khác là hải sản của Việt Nam sẽ bị cấm xuất khẩu vào các nước EU và thậm chí là Mỹ, Úc, Nhật Bản… nếu tình trạng ô nhiễm hiện nay vấn còn tiếp diễn. Khi đó thì ảnh hưởng không chỉ nằm lại tại bắc miền Trung mà là ngư dân cả nước sẽ phải chịu thiệt hại, những công ty chế biến hải sản cũng sẽ bị điêu đứng. Và không chỉ là ngành ngư nghiệp mà các ngành khác như du lịch, vận chuyển, khách sạn, nhà hàng… cũng đều suy giảm mạnh, và nếu Formosa vẫn hoạt động thì những ngành này có thể sụp đổ luôn trong tương lai. Ngoài ra nền công nghiệp trong nước cũng có thể bị phá sản khi các nhà máy của Formosa hoàn thiện vì không thể nào cạnh tranh nổi do Formosa có một luật thuế riêng mà không một công ty Việt Nam nào có.
Một nguy cơ nghiêm trọng không kém là vấn đề ô nhiễm không khí, như đã phân tích ở trên, chất lượng khí thải vẫn do Formosa kiểm định và cũng chỉ dựa vào những lời cam kết của Formosa để kết luận là nó an toàn ? Thảm họa vì ô nhiễm không khí không đến nhanh như thảm họa vì nước thải, cũng chính vì thế mà chất lượng không khí không phải là điều đáng quan tâm của chính quyền cộng sản. Nhưng về lâu dài đây có thể là hiểm họa nghiêm trọng nhất, cái chết sẽ đến từ từ. Trước hết là cho công nhân đang làm việc cho Formosa, sau là những người dân đang sinh sống gần khu vực Formosa.
Không chỉ thế, những gì mà chính quyền cộng sản đã làm Formosa còn tạo ra một lời mời gọi cho những công ty ô nhiễm khác trên khắp thế giới : "Hãy đến Việt Nam xả thải". Nó cũng khuyến khích các công ty làm ăn chân chính xả thải hoặc cắt giảm quy trình xử lý nước thải để tăng lợi nhuận. Và nhiều công ty sẽ phải làm vậy mới hi vọng cạnh tranh được với Formosa. Như vậy trong tương lai những nhà máy như Formosa sẽ có thể mọc lên rất nhiều tại Việt Nam và những thảm họa tầm cỡ Formosa có thể xảy ra hằng năm !
Formosa đến Việt Nam với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, và với những gì họ đã làm trong thời gian qua thì chúng ta có thể tin chắc rằng họ sẽ làm tất cả vì lợi nhuận. Từ xả thải ô nhiễm cho tới hi sinh an toàn của người lao động việt Nam để tăng lợi nhuận, thậm chí là bán hay cho thuê một phần đất, cảng cho các công ty liên quan tới chính quyền Trung Quốc có thêm nguồn thu. Chẳng có gì là không thể nếu nó vẫn hoạt động như một khu tự trị.
Ít nhất thảm họa Formosa đã là một cơ hội cho các lãnh đạo cộng sản mở mắt, cho họ có cái cớ mà rút là quy chế tự trị của Formosa, và để tống cổ nó khỏi Việt Nam. Nhưng không, Formosa đã chỉ liên tiếp mở rộng quy mô hoạt động trong thời gian sau đó, cảng Sơn Dương cũng đang dần được hoàn thiện… Nó vẫn tiếp tục xả thải, vẫn tiếp tục đầu độc dân tộc Việt Nam, vẫn là một khu tự trị, vẫn de dọa nghiêm trọng chủ quyền của đất nước. Phải lý giải thế nào về hành động bán nước này ?
Bán nước vì ngu dốt ?
Một giả thiết được đặt ra là các lãnh đạo cộng sản quá kém cỏi tới mức không ý thức được hành động của mình là bán nước. Với những vui mừng của các bộ trưởng, phó thủ tướng và thủ tướng trong cuộc họp báo vừa qua thì giả thiết này không phải là vô lý. Nhưng nếu thế thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên, họ cũng chỉ giống với những lãnh đạo cộng sản khác. Khởi đầu là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng cộng sản, người đã truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam sau khi nó đã gây ra hành loạt những thảm kịch cho người dân lẫn những đảng viên cộng sản tại những nơi nó được áp dụng. Việc ông Hồ đã truyền bá và đưa đảng cộng sản tới thắng lợi năm 1945 nói lên tất cả trình độ kiến thức cũng như tầm nhìn của vị lãnh tụ cộng sản này.
Tiếp đó là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ - họ tăm tối tới mức đưa một đất nước nghèo khổ vẫn đang thiếu đói đi đối đầu với một siêu cường số một thế giới. Rồi Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã bán cả biên giới, biển đảo chỉ để được quỳ gối trước Trung Quốc. Rồi sau nữa là Nguyễn Tấn Dũng với di sản là những Boxit, Formosa, Vinashin, Vinalines… Và hiện nay là Nguyễn Phú Trọng với những bản án tàn khốc dành cho những người đấu tranh, ông ta lú lẫn tới mức tự đốt đi "đường băng" cho chế độ có thể hạ cách an toàn.
Bản chất của chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa khủng bố, ngoài kỹ thuật tuyên truyền dối trá và sử dụng bạo lực để giành và giữ quyền lực ra thì nó không chứa đựng bất cứ kiến thức gì để có thể quản trị tốt một đất nước. Thế nên nó cho phép những con người vô học vẫn có thể trở thành lãnh đạo chính trị, nắm quyền cai trị đất nước trong hàng thập kỷ và chỉ để lại những thảm kịch nơi nó được áp dụng.
Nhưng sẽ ra sao nếu họ ý thức được hành động bán nước của mình nhưng vẫn làm ?
Một giả thiết khác là các lãnh đạo đã biết đây là hành động bán nước nhưng vẫn làm, họ có cả đội ngũ cố vấn hùng hậu để có thể biết mình đang làm gì ? Nếu thế thì còn nghiêm trọng hơn. Họ biết hành động của mình tại Formosa là bán nước những vẫn làm nghĩa là họ đã xem hành động bán nước là bình thường, lợi ích của đất nước không chiếm một ưu tư nào trong hành động của họ. Quyền lợi và quyền lực là tất cả ! Nếu đúng như thế thật thì họ chính là những người cộng sản chân chính !
Chủ nghĩa cộng sản coi đất nước là một sản phẩm của giai cấp tư bản cần phải xóa bỏ. Cứu cách của các đảng cộng sản là phá hủy các đất nước để xây dựng thế giới đại đồng cộng sản. Họ chỉ làm đúng với triết lý cộng sản, làm như một người cộng sản chân chính mà thôi.
Như vậy hành vi bán nước này dù ý thức được hay không đều chính là hệ quả tất yếu của chế độ cộng sản. Còn người nào có thể tự hào khi là đảng viên cộng sản ? Còn ai có thể tự hào làm tay sai cho chế độ cộng sản sau hành vi bán nước ô nhục này ?
Không dừng lại ở Formosa, đảng cộng sản sẽ tiếp tục bán nước để mua thời gian tồn tại cho chế độ ?
Đất nước chúng ta nằm ở vị trí chiến lược trong một vùng phát triển mạnh, với một bờ biển dài, nhiều bãi biển đẹp và nhiều cảng nước sâu hướng ra vùng biển nơi có tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới chạy qua. Không chỉ thế, chúng ta nằm giữa Nam Á và Đông Á - đều là hai vùng đang bị khủng hoảng trầm trọng về nạn nhân mãn. Thế nên vùng đất bờ biển của chúng ta có giá trị rất lớn về kinh tế, thương mại, du lịch và cả quân sự… Nó là vùng đất thèm muốn không chỉ của các công ty đa quốc gia, của giới tài phiệt, đầu cơ trên khắp thế giới mà còn cả các thế lực ngoại bang, các tổ chức tội phạm, rửa tiền (Việt Nam là thiên đường cho những tổ chức này).
Sẽ thế nào nếu chế độ cộng sản sẽ tiếp tục bán đất, bán nước cho các tổ chức nước ngoài tại những nơi có vị trí chiến lược về quân sự cũng như kinh tế để có tiền duy trì chế độ, đàn áp người dân ? Sẽ luôn có người mua những gì mà họ có thể bán.
Với những gì mà họ đã làm ở Formosa thì gần như chắc chắn chế độ cộng sản sẽ tiếp tục bán nước. Và không chỉ Formosa, nhiều vùng đất biên giới, hải cảng đã lọt vào tay nước ngoài… Chế độ đang dần tiến tới phá sản về ngân sách vì cách quản trị đất nước kém cỏi của mình. Sự sụp đổ là không thể tránh khỏi nếu tình trạng này tiếp tục. Muốn tồn tại thì chỉ còn một cách là đem từng phần của đất nước đi bán.
Trong lịch sử cầm quyền của mình, đảng cộng sản đã làm tất cả để áp đặt ách cai trị lên dân tộc dù có phải hủy diệt đất nước, giết hại đồng bào hay làm tay sai cho ngoại bang. Không có lý do gì để đảng cộng sản hiện nay không tiếp tục truyền thống này. Và trong tương lai sẽ có không chỉ một khu tự trị hay một thảm họa Formosa. Người dân Việt Nam đã mất nhà ngay trên chính mảnh đất của mình và rồi sẽ mất nước khi đang ở ngay trên chính quê hương của mình ? Ai chấp nhận cho tương lai này ?
Còn chấp nhận để đảng cộng sản bán nước tới bao giờ ?
Tháng tư vừa rồi Hội Anh Em Dân Chủ - những người đấu tranh bênh vực những nạn nhân của thảm họa Formosa - đã bị xét xử và kết án với những bản án rất nặng. Qua đó đảng cộng sản lại khẳng định một lần nữa : chống lại Formosa là chống đảng, bảo vệ khu tự trị Formosa là đúng đắn, bán nước là cần thiết.
Một câu hỏi cũng cần được đặt ra là tại sao hành động nghiệm trọng như vậy lại ít được nói tới trong bốn năm qua ? Tại sao chỉ có vài ba công trình nghiên cứu về thảm họa Formosa trong hai năm qua ? Phải giải thích thế nào về thái độ của giới trí thức Việt Nam ?
"Trong trường hợp có bất công mà bạn không chọn phe nào thì thực chất bạn đã chọn đứng về phe kẻ áp bức" (Desmond Tutu).
Người dân Việt Nam và nhất là giới trí thức chỉ có hai lựa chọn hoặc là chống lại chế độ này, nghĩa là chống lại hành động bán nước của đảng cộng sản, hoặc là đồng lõa với đảng cộng sản. Các lãnh đạo cộng sản còn có thể biện hộ cho hành động bán nước của mình là vì ngu dốt, lú lẫn… Còn giới trí thức, những người có kiến thức và hiểu biết, đại diện cho trí tuệ của một dân tộc thì phải giải thích như thế nào với thế hệ mai sau về sự im lặng của mình ? Chẳng có ai vô can cả !
Nếu chờ tới lúc chế độ này chấm dứt vì hết tiền thì ngày đó phần lớn đất nước đã bị đem đi bán rồi - Không ai mong chờ ngày đó tới cả. Thấy rõ hành động bán nước này nhưng vẫn ngồi im chờ cho chế độ sụp đổ cũng là tội lớn đối với dân tộc. Thái độ chính trị kiểu nhân sĩ của nhiều trí thức hiện nay với tinh thần "ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời" cần phải bị lên án không chỉ vì sự vô trách nhiệm đối với đất nước mà còn vì sự đồng lõa với đảng cộng sản.
Đâu là giải pháp ?
Đọc đến đây thì các độc giả có thể đang rất bi quan về tương lai của đất nước, nếu thế thật thì các bạn đã lầm. Hầu như tất cả mọi vấn đề, kể cả những vấn đề nghiêm trọng nhất mà đất nước gặp phải, đều là những vấn đề đáng lẽ không có. Chúng đều do chế độ cộng sản mà có và vì thế cũng sẽ có giải pháp nhanh chóng một khi chế độ cộng sản đã chấm dứt.
Trong một đất nước dân chủ, những Formosa, Bô-xít Tây Nguyên không bao giờ được phép tồn tại chứ chưa nói tới việc vẫn được phép tồn tại và hoạt động sau khi đã gây ra những thảm họa kinh khủng như vậy. Trong một đất nước dân chủ, một tổ chức như đảng cộng sản không có hi vọng cầm quyền chứ chưa nói tới việc vẫn tiếp tục được cầm quyền khi mà đã làm cho đất nước tan nát và tụt hậu như ngày hôm nay. Trong một đất nước dân chủ, những lãnh đạo chính trị đã ký quyết định cho Formosa hoạt động và cấp quy chế tự trị cho Formosa dù là bộ trưởng, thủ tướng hay tổng thống không chỉ bị phế truất mà còn phải ngồi tù "mọt gông" rồi. Giải pháp cho mọi vấn đề hiện nay là phải đánh bại đảng cộng sản và dân chủ hóa đất nước.
Đất nước này là ngôi nhà của chúng ta, những nạn nhân của Formosa là đồng bào là những người anh em của chúng ta. Đảng cộng sản đang đem đi bán ngôi nhà mà tổ tiên ta đã để lại cho chúng ta, họ đang đẩy cuộc sống của hàng triệu người anh em của chúng ta vào cảnh điêu tàn chỉ để duy trì ách thống trị lên cả gia đình ta. Chống lại một tổ chức như vậy là nghĩa vụ của lương tâm, là điều không cần phải bàn cãi.
Câu hỏi được đặt ra cho tất cả chúng ta và nhất là giới trí thức là có còn coi đất nước này là ngôi nhà chung của mình ? Có coi những nạn nhân Formosa là những người anh em của mình ?
Nếu là CÓ thì phải chống lại đảng cộng sản. Và muốn chống lại được đảng cộng sản thì phải liên kết lại và đứng cùng nhau trong một tổ chức. Chỉ có thế thì chúng ta mới có thể đánh bại đảng cộng sản và mở ra một tương lai mới cho đất nước ta, rồi sau đó chúng ta sẽ làm cho ngôi nhà của mình sạch đẹp và vững chắc hơn, chúng ta sẽ thăng tiến cuộc sống cho những người anh em của mình. Hãy tìm đến với nhau !
Trần Hùng
(25/05/2018)
Phần 1 - Nhận diện một hành động bán nước !
Đã hai năm trôi qua kể từ ngày xảy ra thảm hoạ Formosa hủy diệt toàn bộ vùng biển Bắc miền Trung và làm điêu đứng cuộc sống của hàng triệu người dân sống dựa vào biển ở khu vực này. Nhưng sau thảm hoạ, Formosa không chỉ không bị ngừng hoạt động mà còn liên tục mở rộng quy mô trong thời gian qua. 17/5 vừa rồi trong cuộc họp báo của chính phủ, các lãnh đạo cộng sản đã rất hân hoan khi tuyên bố biển đã sạch trở lại và thủy hải sản đã an toàn, với họ thế là đủ để vui mừng.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị hội trường vỗ tay về thông tin Bộ Y tế công bố - Ảnh : QUỐC NAM
Họ không ý thức được rằng có một vấn đề còn nghiêm trọng không kém gì vấn đề môi trường, đó chính là việc họ đã cấp quy chế tự trị cho Formosa - một công ty nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam, đây là một hành động bán nước, và chính hành động bán nước này là nguyên nhân dẫn tới thảm hoạ. Nhưng trước khi phân tích hành động bán nước này, chúng ta hãy cùng nhìn lại báo cáo về chất lượng môi trường và thủy hải sản của chính quyền cộng sản.
Biển đã sạch ?
Theo những báo cáo từ chính quyền thì môi trường biển đã được khôi phục, đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các hoạt động kinh tế liên quan tới vùng biển bắc miền Trung đã hoạt động lại bình thường và người dân đã yên tâm tiêu thụ các sản phẩm thủy hải sản. Vấn đề trước tiên cần được đặt ra từ báo cáo này là tại sao tới bây giờ mới có kết luận rằng biển an toàn mà trước đó chính quyền đã không có bất cứ hành động nào để ngăn chặn hoặc cấm người dân tiêu thụ các sản phẩm từ thủy hải sản biển ? Thậm chí các quan chức cộng sản còn hân hoan trước thông tin "người tiêu dùng đã yên tâm tiêu thụ các sản phẩm hải sản". Phải lý giải thế nào về thái độ vô trách nhiệm này ?
Nhưng liệu biển đã sạch ? Không có bất cứ bằng chứng gì chứng minh những số liệu mà chính quyền cộng sản công bố là thật cả. Không có một ủy ban độc lập nào có thể kiểm chứng các số liệu đó cả. Các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà hoạt động môi trường hay các chuyên gia đều bị ngăn cấm khi thực hiện các nghiên cứu liên quan tới vùng biển - nơi xả thải của Formosa. Nếu các số liệu công bố là sự thật thì có lý do gì để thực hiện hành động cấm cản này ? Và thêm một câu hỏi cũng cần được đặt ra là cái Quy Chuẩn Kỹ Thuật Quốc Gia mà chính quyền lấy ra để đánh giá chất lượng nước biển là cái gì ?
Quy Chuẩn Kỹ Thuật Quốc Gia ?
Vào tháng 11 năm ngoái dư luận đã phẫn nộ khi biết Bộ Tài nguyên và môi trường sửa đổi quy chuẩn quốc gia để hợp pháp hóa việc xả thải vượt chuẩn của Formosa. Cũng phải nói thêm là việc xả thải vượt chuẩn của Formosa đã bắt đầu từ năm 2014 nhưng không phải là bất hợp pháp mà là được Bộ Tài nguyên và Môi trường cho phép. Như vậy thì phải đặt ra câu hỏi khác là cái Quy Chuẩn Kỹ Thuật Quốc Gia sinh ra để làm gì và có giá trị gì không ?
Vấn đề Formosa có xả thải đúng chuẩn Việt Nam hay không không còn được đặt ra vì chính quyền cộng sản đã thiết kế cái quy chuẩn này để phù hợp với yêu cầu của Formosa chứ không phải là các tiêu chuẩn môi trường, và nếu Formosa có công khai xả thải vượt qua cái quy chuẩn này thì cũng được sự cho phép từ chính quyền. Như thế kết luận về việc nước biển đảm bảo đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia không có bất cứ giá trị gì.
Cá không chết không có nghĩa là cá sạch ?
Trong năm 2017, số lô hàng thủy sản Việt Nam bị Cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo, phát hiện chất ô nhiễm (kim loại nặng như thủy ngân, cadmium) vượt mức giới hạn tối đa cho phép đã gia tăng đột biến, đặc biệt là EU tăng gấp 2 lần so với năm 2016, tăng gấp 6 lần so với năm 2015. Thậm chí Tổng vụ Sức khỏe và an toàn thực phẩm DG-MARE (Liên minh châu Âu EU) rút thẻ vàng đối với hải sản Việt Nam (vào tháng 10/2017), nếu bị lên thẻ đỏ thì hải sản Việt Nam sẽ bị cấm xuất khẩu vào EU. Đây là nguồn tin do Ông Ngô Hồng Phong - Phó Cục trưởng cục Quản lý chất lượng Nông lâm - Thủy sản công bố vào ngày 5/4/2018.
Vậy là tình trạng ô nhiễm đang ngày càng trầm trọng hơn chứ không có dấu hiệu giảm xuống. Đến đây thì chúng ta có thể kết luận rằng các báo cáo về chất lượng nước biển của Bộ Nông nghiệp và chất lượng thủy hải sản của Bộ Y tế hoàn toàn là dối trá.
Tình trạng cá chết tại vùng biển gần nhà máy Formosa xảy ra vào tháng 4/2018, một lần nữa xác nhận báo cáo của các bộ nông nghiệp và y tế là dối trá.
Cuộc sống của người dân đã trở lại bình thường ?
Cũng tại buổi họp báo theo báo cáo của Bộ Tài chính thì phần lớn việc bồi thường cho các nạn nhân của thảm hoạ Formosa đã hoàn thành. Nhưng việc bồi thường đã được tiến hành như thế nào ? Những ai nhận được bồi thường ? Formosa có thực sự đã trả 500 triệu USD tiền bồi thường cho chính phủ Việt Nam ? Không ai biết !
Và thực tế là chưa ai nhận được bồi thường cả ! Muốn bồi thường trước hết phải có một điều tra toàn diện về số người bị thiệt hại, rồi những thiệt hại về tài sản cũng như công việc của các nạn nhân. Và việc đàm phán bồi thường cũng phải do chính những người bị thiệt hại hoặc các hội đoàn độc lập nhận ủy quyền của người bị hại đi đàm phán hoặc khởi kiện Formosa. Chính quyền cộng sản chưa thực hiện một điều tra toàn diện nào về số người bị thiệt hại, và những thiệt hại của người dân, họ cũng không nhận được sự ủy quyền của người dân đi đàm phán với Formosa. Việc chính quyền lén lút làm gì đó với Formosa rồi phát cho một số người một khoản tiền không thể gọi là bồi thường được. Đó là chưa kể tới việc các khoản tiền mà chính quyền pháp cho người dân cũng bị ăn chặn bởi các quan chức tham nhũng.
Không chỉ chưa người dân nào được bồi thường thỏa đáng bởi Formosa mà chính quyền cộng sản còn ngăn chặn người dân khởi kiện và đòi Formosa bồi thường thỏa đáng. Hàng loạt các cuộc biểu tình đòi công lý đều bị chính quyền đàn áp dã man, những người đấu tranh đòi quyền lợi cho người dân như các anh em trong Hội Anh Em Dân Chủ đều đang ngồi trong tù. Chính quyền cộng sản đã đẩy người dân vào cảnh khốn cùng.
Sức khỏe của người dân không được nhắc tới ?
Cái quan trọng hơn rất nhiều vấn đề kinh tế chính là sức khỏe của người dân. Nhưng trong báo cáo vừa rồi của bộ y tế chỉ nhắc tới sức khỏe của "tôm cá" chứ sức khỏe của người dân hoàn toàn không được nhắc tới. Thảm họa Formosa cách đây 2 năm đã đầu độc toàn bộ hải sản tại vùng biển bắc miền trung, chắc chắn đã phải có rất nhiều người dân ăn phải hải sản nhiễm độc. Và hậu quả có thể rất nghiêm trọng trong tương lai, có thể là dị tật bẩm sinh của những đứa trẻ được sinh ra, là những làng ung thư mọc lên sau một thời gian dài… một thảm hoạ tiềm tàng có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Đáng ra trong tình trạng đó thì vấn đề sức khỏe của người dân phải là ưu tiên cao nhất, phải có những hành động khẩn cấp để cung cấp những dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí, phải cho phép các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức quốc tế hoạt động, cứu trợ người dân. Nhưng ngược lại, chính quyền cộng sản không chỉ ngăn chặn, đàn áp các tổ chức xã hội dân sự, cấm cản các tổ chức quốc tế mà còn "cố tình" quên luôn vấn đề sức khỏe của người dân. Mức độ vô trách nhiệm của chế độ cộng sản không thua kém gì hành động xả thải của Formosa - thật kinh khủng.
Hệ sinh thái đã được khôi phục ?
Cũng giống như vấn đề sức khỏe của người dân, tình trạng của hệ sinh thái tại vùng biển nơi xảy ra thảm họa cũng hoàn toàn không được nhắc tới. Nó không nằm trong tư duy của các lãnh đạo cộng sản và mọi chế độ cộng sản. Thậm chí tại buổi họp, ông Phúc và các lãnh đạo cộng sản còn vỗ tay để ăn mừng việc sản lượng khai thác hải sản tăng mạnh trong năm 2017. Dù đây chỉ là một số liệu không được kiểm chứng do Bộ Nông Nghiệp cung cấp thì hành động ăn mừng của các lãnh đạo cộng sản cũng nói lên sự dốt nát không thể tưởng tượng nổi trong vấn đề môi sinh cũng như tư duy phát triển kinh tế.
Hệ sinh thái cũng như nguồn hải sản đã bị hủy diệt trong thảm hoạ Formosa, nếu muốn tiếp tục khai thác hải sản trong dài hạn và đảm bảo sức khỏe cho người dân thì phải cấm hoặc hạn chế đánh bắt để các nguồn lợi hải sản và hệ sinh thái có thời gian để hồi phục. Đằng này lại khuyến khích tăng cường đánh bắt. Đây là hành vi tận diệt nguồi lợi hải sản và hủy diệt môi sinh. Nó sẽ để lại hậu quả rất nghiêm trọng trong tương lai. Nếu số liệu này là thật thì với hành động đánh bắt tận diệt này, trong tương lai rất gần thôi có thể cả vùng biển bắc miền Trung không còn gì để đánh bắt.
Trần Hùng
(25/5/2018)
Lại thêm một phiên tòa bất hợp pháp và một bản án vô lý đối với một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ. Ngày 12 tháng 4 vừa rồi, chị Trần Thị Xuân đã bị kết án 9 năm tù giam và 5 năm quản chế với cáo buộc hoạt động nhằm "lật đổ chính quyền nhân dân". Bất hợp pháp vì cách mà phiên tòa đã diễn ra và vô lý vì nó kết án một người hoàn toàn vô tội.
Chị Trần Thị Xuân đã bị kết án 9 năm tù giam và 5 năm quản chế với cáo buộc hoạt động nhằm "lật đổ chính quyền nhân dân".
Một phiên tòa dấm dúi ?
Cho tới khi phiên tòa này diễn ra, chị Xuân đã bị giam giữ 6 tháng và không hề được gặp người thân trong suốt thời gian đó. Việc cấm cản chị Xuân gặp người thân của mình là một hành động bất hợp pháp. Đây là một biện pháp khủng bố tinh thần của cơ quan an ninh cộng sản. Không chỉ thế, phiên tòa diễn ra vào ngày 12 tháng 4 hoàn toàn không được báo trước cho người nhà cũng như luật sư, nó đã diễn ra một cách lén lút và vụng trộm. An ninh được tung ra chốt chặn các nẻo đường để ngăn chặn người nhà của chị Xuân đến dự phiên tòa.
Chế độ cộng sản còn đẩy tới tận cùng của sự thô bỉ khi họ cho đám dư luận viên vào đóng giả làm người nhà của chị Xuân hòng che mắt dư luận quốc tế. Họ ý thức được rằng một phiên tòa không có luật sư, không có người nhà của nạn nhân là một phiên tòa xử chui, nó vi phạm nghiêm trọng luật pháp Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế. Phiên tòa được dựng lên theo ý của chế độ, không ai được thông báo về thời điểm nó diễn ra. Rồi nó đã diễn ra theo kịch bản mà chế độ muốn, và chỉ có nạn nhân và người của chế độ mới được phép chứng kiến. Nó không khác gì một vở kịch do chế độ tự lên kịch bản rồi tự diễn, tự ghi hình.
Vấn đề luật sư ?
Chế độ cộng sản đã đưa ra thông tin rằng "...tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Xuân từ chối quyền được mời luật sư, khẳng định mình đủ trình độ, năng lực hành vi để tự bào chữa cho mình". Không có bất cứ bằng chứng nào để kiểm chứng thông tin mà chế độ cộng sản đưa ra là sự thật. Việc phiên tòa đã diễn ra mà ngay cả người nhà cùng với luật sư riêng của chị Xuân cũng không hề hay biết thì chúng ta chỉ có thể đưa ra giải thiết rằng : chế độ cộng sản đang muốn che dấu sự thật về phiên tòa và mọi thông tin chế độ đưa ra đều là dối trá.
Không chỉ thế, theo luật pháp hiện hành của chính chế độ cộng sản thì phiên tòa của chị Xuân bắt buộc phải có luật sư kể cả khi chị Xuân từ chối mời luật sư đi nữa. Chế độ cộng sản đã kết án chị theo Điều 79 Bộ Luật Hình Sự có mức án tối đa là tử hình. Trong khi đó Điều 76 Chỉ định người bào chữa trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự ghi rõ :
"1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ :
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình" ;
Như vậy chế độ cộng sản đã giẫm đạp lên chính luật pháp và hiến pháp mà họ ban hành, họ cũng giẫm đạp lên mọi công ước quốc tế về quyền con người mà họ đã ký, họ thách thức nhân dân Việt Nam và cả thế giới. Phiên tòa này sẽ được lưu lại như là một vết nhơ mà nền tư pháp của chế độ cộng sản sẽ không bao giờ gội sạch.
Không ai biết được chính xác những ai đã có mặt trong phiên tòa ? Phiên tòa đã diễn ra như thế nào ? Chế độ cộng sản đã đưa ra những bằng chứng gì ? Quá trình luận tội diễn ra như thế nào ? Bản cáo trạng ra sao cũng không ai biết được ? Và nhất là không ai có thể khẳng định chính xác đây là "một phiên tòa" hay là "một trường quay phim" tuyên truyền của chế độ ?
Chị Xuân đã bị kết án vì cáo buộc hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Nhưng thế nào là chính quyền nhân dân ?
Đảng cộng sản đã cướp được chính quyền cách đây 73 năm (từ "cướp chính quyền" do chính đảng cộng sản thừa nhận) và cai trị bằng bạo lực trong vòng 73 năm qua. Chế độ cộng sản Việt Nam cũng như mọi chế độ cộng sản khác chưa từng được bầu lên bởi một cuộc bầu cử tự do nào. Nó cướp đi những quyền con người cơ bản nhất - quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tự do bầu cử và ứng cử... của người Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Không chỉ thế nó còn còn cướp trắng đất đai của hơn 90 triệu người dân, người Việt Nam tới hôm nay vẫn chỉ có thể có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu đất.
Chính xác phải gọi chính quyền hiện nay là một chính quyền cướp bóc chứ không thể nào là chính quyền nhân dân được. Chống lại một chính quyền như vậy là mệnh lệnh của lương tâm, là trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam. Như vậy thì hành động của chị Xuân và Hội Anh Em Dân Chủ không những không phạm phải bất cứ tội danh gì mà còn là một hành động cần được tôn vinh.
Trong Tuyên ngôn phổ cập về Quyền con người - một trong những văn kiện nền tảng của Liên Hiệp Quốc và đã được chính chế độ cộng sản ký thông qua khi gia nhập Liên Hiệp Quốc có nói : "...Nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức…". Luật pháp và cả nền tư pháp của chế độ cộng sản đã chà đạp lên nhân quyền. Chống lại một chế độ như vậy là hợp pháp. Chế độ cộng sản đã ký vào Tuyên Ngôn này cũng có nghĩa là họ đã tuyên vô tội cho những anh em đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền.
Video nhận tội ?
Sau khi phiên tòa này diễn ra, bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản đã đưa ra một video nhận tội của chị Xuân và coi đây như là một thắng lợi lớn về mặt tuyên truyền. Nhưng liệu video này là thật hay chỉ là một sản phẩm tự chế của bộ máy tuyền truyền ? Chúng ta có quyền đặt ra câu hỏi như vậy khi mà dối trá là bản chất của chế độ cộng sản, một chế độ luôn tự hào về những hành vi vô đạo đức của mình thì không gì là không thể xảy ra.
Không chỉ hiện nay mà sau khi cướp được chính quyền tại miền bắc, người dân đã nhận ra bộ mặt thật của chế độ, nhân dân ngày đó thường truyền tai nhau câu "nói dối như Vẹm, thủ đoạn như Vẹm" từ "Vẹm" ở đây là viết tắt của từ Việt Minh - ý nói về bản chất tráo trở và lật lọng của đảng cộng sản. Người dân miền Nam cũng truyền tai nhau câu nói "đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm". Rồi sau năm 1975 tới nay bộ máy tuyên truyền của chế độ vẫn hằng ngày tung hô những khẩu hiệu như "độc lập, tự do, hạnh phúc"... Và hiện này thì chúng ta đều biết nó là gì. Với những gì mà bộ máy tuyên truyền của chế độ này đã nói trong hơn 70 năm qua thì không có cơ sở nào để khẳng định video nhận tội này là thật cả.
Còn nếu video nhận tội này là thật thì nó nói lên điều gì ?
Nó chỉ nói lên sự man rợ và rừng rú của chế độ này. Đừng quên hàng năm có hàng trăm vụ án người dân chết trong đồn công an, và phần lớn các vụ án này đều bị chìm xuống hoặc các công an bạo hành chỉ bị xử án rất nhẹ, số lượng hàng trăm vụ là do báo chí cộng sản cung cấp, con số thực sự có thể còn lớn hơn rất nhiều. Và cũng đừng quên chế độ cộng sản là một chế độ khủng bố, lấy bạo lực làm phương tiện để nắm quyền và duy trì quyền lực của mình. Khủng bố và bạo lực nằm trong bản năng của chế độ.
Các chế độ cộng sản đều lấy cứu cánh để biện minh cho phương tiện, có nghĩa là mọi thủ đoạn khủng bố, tra tấn, bạo hành đều là cần thiết để đạt được mục đích cuối cùng là bắt chị Xuân nhận tội. Họ đã khủng bố về mặt tinh thần khi mà từ lúc bắt giam cho tới lúc xét xử chị Xuân không được gặp người thân. Khủng bố về thể xác khi bạo hành và tra tấn đều là những phương tiện hợp pháp của an ninh để ép chị Xuân nhận tội. Tới một thượng nghị sĩ hàng đầu của nước Mỹ và đã từng là ứng cử viên tổng thống như John McCain cũng phải từng ký giấy "nhận tội" trong lao tù cộng sản huốn gì là chị Xuân. An ninh cộng sản không bị ràng buộc bởi bất kỳ một giá trị đạo đức nào. Chúng ta có thể đoán được những áp lực về tinh thần và thể xác mà chị Xuân đã phải chịu đựng trong 6 tháng qua - những gì mà chị nói hoặc viết trong tình trạng bị khủng bố toàn diện như vậy không có bất cứ giá trị gì. Chúng ta phải cực lực lên án phiên tòa bất hợp pháp và bản án vô lý mà chế độ cộng sản áp đặt lên chị.
Đàn áp phong trào chống Formosa ?
Phiên tòa xử chị Xuân cùng với các anh em khác trong Hội anh em dân chủ diễn ra vào tháng 4/2018 tròn 2 năm xảy ra thảm họa Formosa, với các bản án rất nặng. Chế độ cộng sản đang muốn khủng bố tinh thần của những người tham gia vào cuộc đấu tranh dũng cảm của giáo phận Vinh, họ muốn gửi một thông điệp tới nhân dân Việt Nam "chống Formosa là chống đảng".
Một lần nữa đảng cộng sản lại chọn chỗ đứng của mình là đối nghịch với dân tộc Việt Nam. Họ chống lại cả dân tộc chỉ để bảo vệ một nhà máy ô nhiễm - nhà máy đã huỷ diệt cuộc sống và môi trường của hàng triệu đồng bào.
Liệu còn ai muốn đứng cùng hàng ngũ với chế độ này ?
Họ - Chế độ cộng sản là một lực lượng chiếm đóng và đang cai trị dân tộc Việt Nam một cách tồi dở và tàn bạo. Và rồi họ sẽ bị đánh bại như mọi lực lượng chiếm đóng khác trong lịch sự Việt Nam mà thôi. Không thể khác !
Đảng cộng sản đã huy động một lực lượng khổng lồ gồm các công tố viên, quan tòa, hàng chục dư luận viên quần chúng cùng với lực lượng an ninh có thể lên tới hàng trăm người chốt chặn ở trong cũng như ở ngoài phiên tòa… chỉ để đối đầu với một người phụ nữ yếu đuối tay không tấc sắt. Tại sao ? Tại sao họ sợ hãi tới vậy ? Đó chính là vì chị Xuân đã chiến đấu cho công lý và lẽ phải, đảng cộng sản chỉ là một lực lượng cướp bóc, nó biết thế và nó đã nghĩ rằng muốn chống lại, muốn bóp chết công lý và lẽ phải cần một lực lượng áp đảo đông và mạnh hơn hàng chục hàng trăm lần. Nhưng nó đã thất bại.
Phiên tòa này chỉ một lần nữa phơi bày bản chất của chế độ cộng sản. Không ai còn tin vào công lý trong chế độ gian trá này. Không một bạo quyền nào có thể chiến thắng được lẽ phải !
Trần Hùng
(27/04/2018)
"Tương lai của chủ nghĩa xã hội còn dài. Nó chỉ chết khi nào quả lê rụng từ cành táo" - Đây là câu nói nổi tiếng của tổng bí thư đảng cộng sản Romania Nicolae Ceausescu vào tháng 11/1989.
Ceausescu có quyền tin tưởng vào phán đoán của mình khi mà ông vừa được bầu làm tổng bí thư của đảng cộng sản Romania với số phiếu 100% và vẫn nắm trong tay một lực lượng đàn áp hùng hậu gồm công an, an ninh mật, quân đội với quyết tâm bảo vệ chế độ tới cùng kể cả phải hướng súng bắn vào những người biểu tình. Không chỉ thế, chế độ của ông vẫn gần như đứng vững khi mà cả Đông Âu đang chao đảo trước một là sóng dân chủ mới, dân chủ đã ló rạng tại Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc và nhiều quốc gia Đông Âu khác. Tưởng chừng như Romania của Ceausescu sẽ là ngoại lệ ?
Cuối cùng là quân đội đảo chính, họ không còn có lý do gì để chiến đấu cho một chính quyền chỉ biết dùng bạo lực để cai trị và đã bị toàn thể nhân dân thù ghét. Ảnh vợ chồng Ceausescu bị quân đội bắt trói sau khi bị kết án tử hình.
Nhưng không ! Một tháng sau, một mồi lủa đã thiêu rụi cả chế độ của Ceausescu. Hành động khủng bố một mục sư đã là giọt nước tràn ly cho những bất mãn của người dân Timisoara - một thành phố nhỏ tại Romania, người dân vùng lên chiếm trụ sở của đảng và kiểm soát trung tâm thành phố. Đàn áp ! Ceausescu ra lệnh cho quân đội bắn vào người biểu tình, và giành lại quyền kiểm soát tại Timisoara.
Phẫn nộ ! Hành động đàn áp này đã đẩy sự thù ghét chế độ lên tới đỉnh điểm và người dân đã bước ra khỏi sự sợ hãi. Những tiếng huýt sáo bắt đầu vang lên, tiếng Timisoara bắt đầu náo động cả thủ đô, trong một buổi mít tinh do chính đảng cộng sản tổ chức, ngay bên ngoài của trụ sở trung ương đảng, người dân gọi Ceausescu là kẻ giết người. Bạo loạn ! Rồi lại đàn áp ! Và cuối cùng là quân đội đảo chính, họ không còn có lý do gì để chiến đấu cho một chính quyền chỉ biết dùng bạo lực để cai trị và đã bị toàn thể nhân dân thù ghét. Chế độ Ceausescu sụp đổ vỏn vẹn chỉ trong 5 ngày.
Sự chính đáng và bạo lực là hai yếu tố cần thiết để duy trì quyền lực chính trị. Nhưng các chế độ cộng sản đều không có bất cứ sự chính đáng nào, muốn tồn tại thì phải tận dụng tối đa bạo lực. Càng đàn áp thì chế độ lại càng bị thù ghét, như vậy nếu muốn tiếp tục tồn tại thì chế độ phải gia tăng bộ máy đàn áp. Nhưng đây lại là điều không thể đối với các chế độ cộng sản khi nó luôn đứng trước nguy cơ sụp đổ về ngân sách bởi sự tồi dở của mình trong cách quản trị đất nước. Kết quả là quyền lực chính trị suy yếu theo thời gian… dẫn tới sự sụp đổ của chế độ. Đó là những gì đã xảy ra tại những nước cộng sản.
Một kết luận quan trọng mà chúng ta có thể rút ra được từ sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại Romania đó chính là không ai có thể chống lại dòng chảy của lịch sử cho dù có quyết tâm tới đâu đi nữa. Ceausescu đã có tất cả mà một chế độ độc tài có thể có, công an, quân đội, đặc vụ và cả bộ máy tuyên truyền hùng hậu với một quyết tâm duy trì chế độ tới cùng. Nhưng bức tường Berlin - biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ - chủ nghĩa cộng sản đã chết. Thời khắc lịch sử đã điểm - chế độ cộng sản Romania phải sụp đổ. Không thể khác !
"...Lịch sử loài người có thể được nhìn như là cuộc hành trình của con người về tự do, để tự giải phóng khỏi sự ngu dốt, bệnh tật, đói khổ, nhọc nhằn, và nhất là khỏi ách thống trị của các bạo quyền ; và vì dân chủ đã chứng tỏ là phương thức tổ chức xã hội hợp lý nhất để thực hiện tự do nên lịch sử thế giới cũng là cuộc hành trình của các dân tộc về dân chủ…" (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai) .
Đảng cộng sản Việt Nam đang chống lại cuộc hành trình của dân tộc ta về với dân chủ, chống lại khao khát của mọi người dân Việt Nam là được sống như những con người tự do chính vì thế mà đảng cộng sản sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Không thể khác !
Chống lại khao khát của mọi người dân Việt Nam là được sống như những con người tự do, đảng cộng sản sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát
Một câu hỏi cũng cần được đặt ra là liệu các lãnh đạo cộng sản hiện nay có quyết tâm bảo vệ chế độ tới cùng như những gì Ceausescu đã làm tại Romania ? Câu trả lời này đã được chính tổng bí thư của đảng cộng sản ông Nguyễn Phú Trọng trả lời, trong một phát biểu vào năm 2013 trước quốc hội, ông Trọng có nói "xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa ?". Chỉ câu nói này cũng đủ để thấy niềm tin của giới lãnh đạo đảng cộng sản vào cái lý tưởng mà họ lấy cớ để biện minh cho sự chính đáng của mình trong việc cai trị đất nước trong hơn 70 năm qua.
Chủ Nghĩa Xã Hội giờ chỉ còn là một cái xác chết, ông Trọng và mọi lãnh đạo đảng cộng sản khác đều thừa biết họ không còn bất cứ sự chính đáng nào. Ở địa vị của mình, họ cũng phải thấy được rằng các đồng chí của mình chỉ là những kẻ gián trá, xem nhau như kẻ thù trong cuộc chiến tranh giành đặc quyền đặc lợi, tham nhũng là lý tưởng và hối lộ là cách sống của các đảng viên. Họ cũng phải thấy được sự thối nát, bế tắc của hệ thống và cả vực thẳm đợi họ trước mặt, họ cũng thừa biết mình bị cả dân tộc thù ghét. Chính vì thế mà ông Trọng mới đưa ra một phát biểu tuyệt vọng như thế. Hàng ngũ lãnh đạo của đảng cộng sản không còn một quyết tâm nào.
Mồi lửa ? Trong trường hợp của đảng cộng sản Việt Nam, mồi lửa có thể xuất phát từ bất cứ đâu. Có thể là từ một thẩm phán thức tỉnh lương tâm và từ chốt tuyên án những tù nhân chính trị rồi từ đó làm chấn động cả bộ máy cầm quyền. Cũng có thể từ những bất mãn của bộ máy đàn áp khi chế độ đang phải cắt giảm chi tiêu để sống qua ngày, cũng có thể từ quân đội bởi chiến dịch "đốt lò" của ông Trọng - năm 1945 đảng cộng sản đã cướp được chính quyền bằng vài khẩu súng thì hôm nay họ cũng có thể mất chính quyền bởi vài khẩu súng.
Đảng cộng sản không còn khả năng để thay đổi tương lai của mình nhưng họ vẫn còn khả năng để chọn lựa cách đón nhận tương lai đó. Khủng bố và đàn áp mọi tiếng nói, mọi tổ chức đối lập để rồi nhận một kết cục như Ceausescu, hay hòa giải và hòa hợp dân tộc để hạ cánh an toàn trong tinh thần đồng bào anh em ? Một cuộc cách mạng như Romania là điều không ai mong muốn, kể cả những người dân chủ cũng như chính đảng cộng sản, bạo lực và tinh thần bất dung sẽ làm chính quyền mới mất rất nhiều thời gian để hòa giải và tìm kiếm một đồng thuận dân tộc mới. Không có gì ngạc nhiên khi ngày nay Romania là một trong những nước nghèo nhất tại Đông Âu. Đàn áp và khủng bố những người tranh đấu cho dân chủ chính là đang tự đốt đường lùi cho mình, một lần nữa chúng ta thấy sự ngu dốt của họ khi kết án Hội Anh Em Dân Chủ.
Và nếu ban lãnh đạo của đảng cộng sản không thấy được vấn đề, không nhìn thấy nguy cơ cho chính đảng cộng sản nếu tiếp tục đàn áp các tổ chức đối lập thì các đảng viên cần phải hành động, hãy liên kết những người có lương tri lại với nhau, rồi cùng liên kết với một tổ chức chính trị dân chủ. Sự liên kết này sẽ đảm bảo quá trình chuyên giao chế độ sẽ diễn ra trong hòa bình, nhanh chóng, trong tình anh em tìm lại, tránh được nguy cơ hỗn loạn không cần thiết.
Tương lai đang chờ đón đảng cộng sản là vực thẳm và đêm đen ! Nhưng một câu hỏi quan trọng hơn chúng ta cần đặt ra là tương lai nào đang chờ đón dân tộc Việt Nam ? Tại sao một chế độ đã tan nát, tham nhũng, mất hết quyết tâm và cũng mất hết sự chính đáng, bị toàn thể nhân dân thù ghét mà vẫn tồn tại tới này ? Trách nhiệm đâu chỉ thuộc về những người cộng sản ?
Câu trả lời là không ! Giả sử đảng cộng sản hiện nay biến mất (đây chỉ là một giả thiết rất khó xảy ra) thì cũng chỉ nhường chỗ cho một tình trạng vô chính phủ, cướp bóc và bạo loạn sẽ xảy ra khắp nơi vì không có một lực lượng chính chị nào đủ mạnh để lãnh đạo đất nước. Hoặc trong trường hợp đảng cộng sản muốn đàm phán để chuyển giao quyền lực và rút lui trong hòa bình thì họ cũng không tìm được một lực lượng chính trị có tầm vóc nào để đàm phán. Như vậy vấn đề hiện nay không phải là đảng cộng sản mà là một lực lượng dân tộc mới để thay thế đảng cộng sản. Nhiệm vụ của chúng ta là phải xây dựng nên một lực lượng như vậy. Muốn vậy thì những người có tinh thần dân tộc, mong muốn tìm một lối thoát cho đất nước kể cả các đảng viên cần tìm tới và gia nhập một tổ chức chính trị theo đuổi lập trường bất bạo động và hòa giải dân tộc.
Nhưng đó là tổ chức nào ? Đâu là sức mạnh thực sự của một tổ chức chính trị cần để đảm đương trọng trách lịch sử mà những người có tinh thần dân tộc nên tìm tới ?
Tiền bạc ? Chắc chắn không ! Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức giàu thứ nhì thế giới sau đảng cộng sản Trung Quốc. Nhưng nó vẫn sợ hãi tới mức mà phải bắt giam một phụ nữ có con nhỏ tới 10 năm, phải dựng nên những phiên toà gian trá để kết án các thành viên Hội anh em dân chủ dù phải hi sinh cả hiệp định thương mại tự do với Âu Châu. Hay là quân đội, công an ? Cũng không phải ! Ceausescu có cả triệu tay súng đứng sau mình nhưng rồi cũng không thể tự quyết định được số phận của mình. Liên xô có cả kho vũ khí hạt nhân những cũng không thể chống lại được dòng chảy của lịch sử.
Sức mạnh của một tổ chức chính trị nằm ở tương lai chính trị mà tổ chức đó đại diện được cụ thể hóa bằng một Dự án chính trị. Dự án chính trị của đảng cộng sản Việt Nam chính là chủ nghĩa cộng sản - một cái xác chết. Tương lai của đảng cộng sản Việt Nam không thể khác với những người anh em của mình tại Đông Âu.
Sức mạnh của một tổ chức chính trị nằm ở tương lai chính trị mà tổ chức đó đại diện. Thế nên mọi tổ chức chính trị đối lập đều phải có dự án chính trị. Không chỉ thế, dự án chính trị đó phải là hiện thân cho tương lai của đất nước. Đó là tinh thần bất bạo động để đất nước tránh gặp phải những đổ vỡ không đáng có như trường hợp của Romania, đó là dân chủ đa nguyên để có thể động viên mọi người, mọi nhà cùng góp sức giúp đất nước tiến lên trên hành trình chinh phục tương lai, đó là tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để người Việt Nam sẽ nhìn lại nhau như là anh em, là đồng bào bất chấp sự khác biện về tôn giáo, giai cấp, sắc tộc hay quan điểm chính trị, để cùng nhau xây dựng nên một căn cước dân tộc mới. Đó cũng chính là những giá trị nền tảng mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên theo đuổi trong suốt 36 năm qua được cụ thể hoá trong Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai. Chúng tôi tin tưởng vào chiến thắng của mình vì những giá trị mà chúng tôi theo đuổi chính là hiện thân cho tương lai của đất nước.
Đừng ngần ngại tìm tới chúng tôi nếu bạn muốn đồng hành cùng chúng tôi trên hành trình tìm kiếm một vị thế xứng đáng hơn cho dân tộc Việt Nam, hành trình xây dựng nên một nước Việt Nam dân chủ, đa nguyên, bao dung và tiến bộ, một đất nước Việt Nam xứng đáng để những con người hôm nay phấn đấu xây dựng và các thế hệ mai sau tiếp nối trong niềm tự hào.
Chúng ta sẽ tự hào và nói với thế hệ mai sau rằng : Chúng ta đã không khiếp nhược trốn tránh trách nhiệm vào lúc đất nước cần nhất !
Trần Hùng
(24/04/2018)
2017, một năm đầy biến động vừa trôi qua. Từ việc Trump nhận chức tổng thống Mỹ và sự thoái lui của Mỹ khỏi bàn cờ chính trị thế giới cho tới việc Catalonia đòi li khai khỏi Tây Ban Nha, Venezuela vỡ nợ hay sự sụp đổ của Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) báo hiệu một thời kỳ mới cho Trung Đông và cũng là cho cả thế giới.
Sự sụp đổ của Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) báo hiệu một thời kỳ mới cho Trung Đông và cũng là cho cả thế giới.
Thật sai lầm nếu không rút ra được bài học gì từ những sự kiện này cho tương lai của đất nước chúng ta. Tiên liệu là khả năng quan trọng nhất trong chính trị, dự đoán được những nguy cơ mà đất nước có thể gặp phải sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp để tránh được những nguy cơ đó trong tương lai.
Vậy chúng ta học được gì từ những sự kiện trong năm vừa qua ?
1. Venezuela : kinh tế sụp đổ không đưa đến dân chủ
Một ngộ nhận tai hại của rất nhiều người Việt Nam hiện tại là cho rằng khi chế độ cộng sản sụp đổ về kinh tế thì sẽ dẫn tới khủng hoảng về chính trị và rồi dân chủ tự nhiên sẽ đến. Nhận định này không chỉ sai mà còn rất tai hại vì nó làm tê liệt phong trào dân chủ, họ không làm gì ngoài việc ngồi chờ chế độ cộng sản sụp đổ về kinh tế! Những nếu chỉ ngồi chờ thì dân chủ sẽ không bao giờ tới.
Venezuela là thí dụ điển hình cho việc này, mặc dù chế độ đã vỡ nợ, người dân phải nhặt rác để ăn, những cuộc biểu tình lên tới hàng triệu người… nhưng chế độ của Maduro vẫn chưa sụp đổ, Venezuela đang dần biến thành một quốc gia vô chính phủ, tình trạng cướp bóc, giết người xảy ra khắp nơi nhưng dân chủ thì vẫn chưa thấy đâu.
Một thí dụ khác là ngay chính đất nước của chúng ta, vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ trên khắp thế giới và kinh tế Việt Nam cũng rơi vào khủng hoảng với lạm phát lên tới hơn 400%. Nhưng chế độ cộng sản vẫn đứng vững. Tại sao ?
Nguyên nhân chính là mọi cuộc cách mạng đều do được khởi xướng bởi tầng lớp trí thức trung lưu, kể cả các cuộc cách mạng cộng sản lẫn các cuộc cách mạng dân chủ. Khủng hoảng kinh tế làm gia tăng tầng lớp nghèo khổ chứ không phải trí thức trung lưu, nó tạo ra thời cơ cho một cuộc cách mạng nhưng nếu tầng lớp trí thức không chịu khởi xướng nó thì sẽ chẳng có cuộc cách mạng nào cả. Lý do này đúng với cả Venezuela lẫn Việt Nam, tầng lớp trí thức đã không đảm nhiệm chức năng và trách nhiệm của mình là hướng dẫn quần chúng dẫn tới việc không hình thành được một lực lượng dân chủ nào lớn mạnh. Khi các chế độ độc tài suy yếu mà không có một lực lượng nào có tầm vóc để thay thế nó thì tình trạng vô chính phủ đến như là một hệ quả tất yếu.
Hiện nay Venezuela đang trong một tình trạng bi đát hơn Việt Nam nhiều, nó cho phép chúng ta có thể nhìn thấy trước tương lai của chính đất nước mình nếu như chúng ta không chuẩn bị được một lực lượng dân chủ lớn mạnh. Chế độ ngày càng suy yếu, nó sẽ cắt giảm mạnh chi tiêu cho giáo dục, y tế, an sinh… tập trung mọi nguồn lực cho bộ máy an ninh và quân đội để gia tăng đàn áp. Dân tộc sẽ suy nhược toàn diện về sức khỏe thể chất lẫn tinh thần, phần lớn tài sản quốc gia sẽ bị tẩu tán, cướp bóc và buôn lậu sẽ xảy ra khắp nơi với sự tiếp tay của các quan chức địa phương, đất nước rơi vào tình trạng vô chính phủ, nguy cơ tan vỡ gần kề.
Tình trạng đất nước đang nguy ngập nhưng không phải vô vọng. Một lớp trí thức mới đang nhập cuộc, họ đang tìm đến nhau, họ đã khám phá ra rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức. Một lực lượng dân tộc mới đang hình thành và đã chuẩn bị những giải đáp cho tương lai của đất nước. Và nếu muốn đất nước tránh được tương lai đen tối như Venezuela thì ngay bây giờ mỗi người Việt Nam tranh đấu cho dân chủ hoặc là tìm đến hoặc là lên tiếng ủng hộ cho lực lượng dân tộc mới này.
2. Catalonia : hòa giải dân tộc là triết lý điều hành quốc gia
Một sự kiện khác cũng nóng bỏng trong năm vừa qua là sự việc Catalonia đòi ly khai khỏi Tây Ban Nha. Một chi tiết rất đáng được quan tâm là sự việc Catalonia đòi ly khai không phải là không thể dự đoán trước nhưng chính quyền Tây Ban Nha đã không làm gì để ngăn chặn nó. Chỉ đến khi sự việc đã quá nghiêm trọng chính quyền trung ương mới phản ứng bằng đàn áp và bằng việc phế truất chính quyền Catalonia. Tại sao ?
Nguyên nhân chính đến từ việc Tây Ban Nha có dân chủ muộn hơn các nước trong khu vực. Sau khi có dân chủ, họ dồn mọi cố gắng để phát triển kinh tế và bỏ quên những cuộc thảo luận về dân chủ và củng cố đồng thuận quốc gia. Từ đó dẫn tới hệ quả là một đất nước dân chủ nhưng các lãnh đạo vẫn mang phản xạ của chế độ độc tài. Chính quyền Tây Ban Nha đã từ chối đối thoại, họ đã không trả lời những kiến nghị của người dân và chính quyền Catalonia mặc dù những kiến nghị đó được hàng triệu người ủng hộ. Khi những nguyện vọng của mình bị khước từ hết lần này đến lần khác thì họ còn biết phản ứng gì ngoài việc đòi ly khai để gây áp lực buộc chính quyền Tân Ban Nha phải đối thoại ?
Quay lại Việt Nam, suốt hơn bốn thế kỷ trước chúng ta ngập chìm trong chiến tranh và chia rẽ, nhu cầu hòa giải và đối thoại của dân tộc ta cấp thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta phải hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam, giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số, giữa người theo Thiên Chúa giáo với người theo Phật giáo, giữa tầng lớp trẻ với các thế hệ lão thành, giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đất nước... Phải hòa giải rồi mới tiến tới hòa hợp dân tộc để cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Một đồng thuận dân tộc sẽ là sức mạnh giúp chúng ta xây dựng một Việt Nam dân chủ và đáng tự hào.
Một bài học khác mà chúng ta cũng cần lưu ý trong trường hợp của Catalonia là nếu muốn đất nước trở nên dân chủ và thịnh vượng thì cần những cấp lãnh đạo có trình độ văn hóa cao và tầm nhìn xa. Nếu các lãnh đạo Tây Ban Nha biết rằng đất nước cần hòa giải và đối thoại sau khi chế độ độc tài kết thúc thì mức độ phát triển của Tây Ban Nha đã rất khác hiện nay khi có đồng thuận dân tộc lớn. Nếu họ dự đoán được xu hướng ly khai sẽ mạnh lên thì họ đã khẳng định và đưa vào trong hiến pháp một điều luật rằng các vùng không được quyền tổ chức trung cầu dân ý liên quan đến chủ quyền và vấn đề Catalonia sẽ được giải quyết đơn giản hơn nhiều.
Với một đất nước kém phát triển như chúng ta thì trình độ của các lãnh đạo chính trị cần phải cao hơn nhiều so với Tây Ban Nha, về cả trí tuệ lẫn nhân cách. Những người tranh đấu cho dân chủ hiện nay phải đập tan một ngộ nhận rằng làm chính trị mà không cần phải học.
Chính trị là một môn học rất phức tạp, nó là tổng hòa của rất nhiều bộ môn. Sự việc nhiều người "làm chính trị" xem thường kiến thức chính trị đã dẫn tới việc đất nước chỉ có những lãnh đạo rất tồi dở trong quá khứ và đi theo những lãnh đạo kém cỏi đó là sự nghèo khổ, chiến tranh và tụt hậu. Chúng ta phải đoạn tuyệt với quá khứ đen tối đó. Làm chính trị là phải học và cái cần học đầu tiên là đấu tranh chính thị luôn luôn là đấu tranh có tổ chức chứ không phải cá nhân.
3. Trump, Mugabe : dân chủ phải nói không với chế độ tổng thống
Sự việc Donald Trump nhận chức tổng thống Mỹ vào đầu năm 2017 với khẩu hiệu "Nước Mỹ trên hết" đã tạo ra cơn địa chấn cho nền chính trị toàn cầu. Mỹ rút khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định chống biến đổi khí hậu Paris sau đó, Mỹ hòa hoãn với các chế độ độc tài tại Nga, Trung Quốc, Việt Nam… Không chỉ chối bỏ trách nhiệm của một siêu cường với nhân loại, nước Mỹ dưới thời của Trump còn từ bỏ việc chuyên chở các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền vốn là nền tảng cho xã hội Mỹ. Không chỉ thế Trump còn gây ra hỗn loạn tại Trung Đông khi công nhận Jerusalem là thủ đô nhà nước Do Thái. Vị thế của nước Mỹ đang suy yếu đi thay vì mạnh lên như những phát biểu mị dân của Trump. Một câu hỏi lớn đặt ra là tại sao một siêu cường như nước Mỹ lại có một lãnh đạo tồi dở như thế ?
Một tổng thống khác cũng để lại tiếng vang không kém trong năm qua là Robert Mugabe - cựu tổng thống của Zimbabwe. Ông đã góp phần chính trong việc đưa Zimbabwe từ một trong những nước khá giả nhất Châu Phi trở thành nước nghèo khổ nhất thế giới. Và chỉ buộc phải chuyển giao quyền lực khi đã 93 tuổi sau một cuộc đảo chính quân sự. Một chính quyền rất rất dở được thay bằng một chính quyền cũng sẽ rất dở trong cuộc đảo chính này. Nhưng tại sao chỉ một con người lại có thể phá hoại cả đất nước tới như thế ? Vấn đề nằm ở đâu ?
Hai câu hỏi nhưng có cùng một câu trả lời - vấn đề nằm ở chế độ tổng thống. Mô hình tổng thống bầu một người thay vì một chính đảng, nó đưa những nhà lãnh đạo giỏi mị dân thay vì những chính đảng với các dự án chính trị nghiêm túc lên nắm quyền. Với Obama là "Yes, we can" (Chúng ta có thể) - khẩu hiệu này không giúp gì cho những vấn đề mà nước Mỹ phải giải quyết, Mỹ triệt thoái nhanh chóng khỏi Trung Đông dẫn tới sự hình thành của đế chế Hồi giáo tự xưng (IS) và làn sóng tị nạn lớn gây ra cái chết của hàng trăm ngàn người, chính quyền Obama phải chịu trách nhiệm cho sự việc này. Với Trump là "Make America Great Again" (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại) và hệ quả là chúng ta đều đã thấy ! Nếu một chính đảng có dự án chính trị nắm quyền quân sự và ngoại giao thì nước Mỹ và cả thế giới hiện nay đều đã rất khác.
Một hạn chế khác của chế độ tổng thống là nó dành cho một người quá nhiều quyền lực trong thời gian dài, với một nước chưa có truyền thống dân chủ nó rất dễ dẫn đến độc tài, Mugabe là thí dụ điển hình. Không có gì ngạc nhiên khi mà chế độ tổng thống đã thất bại trên khắp thế giới, với nước Mỹ - phần lớn các tổng thống đã thất bại trong những lĩnh vực mà họ nắm quyền chi phối - quân sự và ngoại giao.
Cả hai hạn chế trên chúng ta đều dễ dàng khắc phục được trong chế độ đại nghị. Trong chế độ này người dân bầu ra quốc hội và các chính đảng với những dự án chính trị nghiêm túc sẽ nắm quyền ở quốc hội rồi bầu ra thủ tướng. Nó vừa tạo điều kiện cho những tổ chức với những cố gắng nghiêm túc lên nắm quyền vừa cho phép quốc hội thay thế thủ tướng một các dễ dàng hơn (so với các chế độ tổng thống) và giúp ngăn ngừa sự hình thành một chế độ độc tài mới. Mô hình này đã thành công ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, nó chính là mô hình mà chúng ta lựa chọn trong tương lai cho Việt Nam.
4. IS sụp đổ : sự tất thắng của dân chủ
Một sự kiện mang tính lịch sử cũng diễn ra trong năm qua, đó chính là sào huyệt cuối cùng của IS đã bị tiêu diệt, kể từ đây "giấc mơ" xây dựng nên một vương triều Hồi giáo chính thức chấm dứt, Hồi giáo sẽ phải tách biệt với chính trị để trở về đúng với vị thế của một tôn giáo. Sự kiện này sẽ mở đường cho các nước tại Trung Đông chuyển hóa rất nhanh về dân chủ.
Làn sóng dân chủ thứ tư gần như đã hoàn thành xong, mục tiêu đầu tiên của các phong trào dân chủ Hồi giáo là đưa Hồi giáo ra khỏi chính trị, làn sóng dân chủ này sẽ tiếp tục mạnh lên và chỉ kết thúc sau khi đã kết liễu những chế độ độc tài cuối cùng. Tại Nga, chính quyền Putin đã kiệt quệ sau cuộc phiêu lưu tại Syria và buộc phải rút quân khỏi đây, cuộc cách mạng năng lượng sạch đang dần đánh gục nền kinh tế Nga, chính quyền Putin rồi sẽ chấp nhận hoặc chuyển hóa về dân chủ hoặc sụp đổ.
Tại Trung Quốc, chính quyền Tập Cần Bình đang ngập trong núi nợ hơn 200% GDP, sự chênh lệch mức sống giữa các vùng miền, các tầng lớp người dân, sự ô nhiễm nguồn nước, không khí… đều đang ngày càng trầm trọng, Trung Quốc đang dần chín muồi cho một cuộc cách mạng... Các chế độ độc tài khác trên khắp thế giới đều đã rã rượi, cạn kiệt về cả uy tín, trí tuệ, lòng tin và ý chí, sự sụp đổ trong tương lai gần là điều khó tránh khỏi.
5. Phải hành động vì một ngày mai cho một Việt Nam dân chủ và thịnh vượng
Quay trở lại đất nước của chúng ta, chưa năm nào những bản án bất công lại được đưa ra nhiều như năm qua. Những bản án dành cho nhũng con người ưu tú nhất của dân tộc - những con người dám đấu tranh cho một Việt Nam tươi đẹp hơn, bất chấp cái giá phải trả là bị đàn áp và ngục tù. Họ là Mẹ Nấm, Nguyễn Thị Nga, Phan Kim Khánh, Nguyễn Văn Hóa, Hội Anh em dân chủ… những người bất chấp và thách thức ý muốn của đảng cộng sản muốn giam cầm cả dân tộc trong ngục tù của sợ hãi và bất lực.
Cái gì đang chờ đợi chúng ta trong năm 2018 ?
Lúc trời tối nhất cũng là lúc bình minh sắp rạng ngời. Con thú dữ sắp chết trở nên hung bạo hơn bao giờ hết. Chế độ gia tăng đàn áp vì nó đang tiến tới sự sụp đổ toàn diện, đầu tiên là ngân sách. Cắt giảm chi tiêu cho an ninh và quốc phòng đòi hỏi những bản án nặng nề hơn để đe dọa những người đấu tranh. Những người đang đấu tranh cho dân chủ không có bất cứ lý do gì để sợ chế độ này khi mà cuộc chiến đấu của chúng ta là cuộc chiến đấu tất thắng. Chúng ta không chỉ chiến đấu cho một lý tưởng quảng đại mà còn góp phần xây dựng nên một tương lai mới cho dân tộc ta.
Một làn sóng dân chủ toàn cầu mới đang trào dâng. Chúng ta không có quyền bỏ lỡ vận hội này. Hãy tìm đến với nhau. Cùng nhau chúng ta sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên của dân chủ và thịnh vượng.
Trần Hùng
(02/01/2018)