Vấn đề là có bao nhiêu người Việt trong gần 100 triệu người trong nước đọc và hiểu về những tư tưởng triết học chính trị này ?
Đình Chiên Đàn (huyện Phú Ninh, Quảng Nam) - nơi từng diễn ra nhiều cuộc diễn thuyết duy tân - Ảnh: H.V.M.
Biến cố 30 tháng 4 năm nay tựu chung cũng không khác nhiều so với những năm trước. Báo chí Tây phương thì có nhắc đến nhưng ngày càng ít hơn, ngoại trừ các mạng nói về lịch sử và bài học về cuộc chiến Việt Nam. Truyền thông của người Việt tị nạn cộng sản cũng như các bài trên mạng xã hội như Facebook thì phần lớn nhắc đến lễ tưởng niệm và những tang thương sau biến cố này, từ cải tạo đến vượt biên vượt biển và hải tặc. Nói chung đây là ngày đau buồn. Truyền thông trong nước, từ tiếng Việt đến tiếng Anh, vẫn một chiều như mọi năm, nói về chiến thắng, thống nhất và ông Hồ Chí Minh.
Trong những ngày xoay quanh 30 tháng 4, những nhà hoạt động trong nước không được đi lại vì có an ninh canh gác suốt thôi. Nhiều năm rồi quen, nên họ cũng không ngạc nhiên hay buồn phiền gì. Trong thời điểm mà tự do ngôn luận và tự do báo chí đã xuống đến gần mức thấp nhất, nhiều nhà hoạt động thừa hiểu rằng vào nhà tù trong lúc này cũng chẳng thay đổi được gì. Họ đành im lặng trong lúc này.
Trong dịp này cũng có một số bài viết đáng suy ngẫm. Như bài của ông Ngô Nhân Dụngphỏng đoán lịch sử 100 sau, tức năm 2075, sẽ nói gì về biến cố này. Cũng có người như ông Bùi Văn Phú nói về đề tàihòa giải. Đúng ngày 30 tháng 4, ông Nguyễn Gia Kiểng bàn vềdân chủ, đề tài gắn liền với bao năm hoạt động của ông. Như một số bài bàn về dân chủ trước đây, ông Kiểng đi tìm lời giải cho nguyên do vì sao công cuộc vận động dân chủ vẫn chưa thành. Theo ông Kiểng, đó là vì văn hóa chính trị Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề của di sản văn hóa Khổng giáo, trong đó giới nhân sĩ hàng đầu, quốc gia lẫn cộng sản, đều là những công thần phục vụ cho giới cai trị. Thay vì dùng tư duy độc lập để lên tiếng cho lẽ phải thì họ vừa hời hợt trong chính trị vừa im lặng trước những sai trái.
Về khía cạnh này, tôi đồng ý rằng giới nhân sĩ hay trí thức hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ 20, từ quốc gia đến cộng sản, đều không phải là những nhà tư tưởng chính trị. Nói chung Việt Nam, xưa và nay, thiếu hẳn các nhà triết học. Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi là những tên tuổi lớn nhưng vẫn chưa phải là triết gia. Trần Đức Thảo được xem là triết gia nổi tiếng của miền Bắc, nhưng cho dù đồng ý với sự ghi nhận này đi nữa, những giá trị ông mang lại cũng chẳng là gì ngày nay khi chính tư tưởng Mác cũng chỉ còn giá trị phê bình chủ nghĩa tư bản cực đoan. Phạm Công Thiện được xem là người viết nhiều tác phẩm mang tính triết học tại miền Nam Việt Nam, nhưng ảnh hưởng của ông cũng không nhiều và không ra khỏi biên giới Việt Nam. Nguyễn Hưng Quốc không xem Phạm Công Thiện là một nhà tư tưởng, ít nhất không phải là điểm nổi bậc nhất trong tài năng của ông.
Trong khi đó những triết gia Anh, Pháp, Đức, Mỹ, v.v… cho ra những tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc lên bao nhiêu thế hệ chính trị gia và tầng lớp trí thức và trung lưu trong lẫn ngoài đất nước của họ. Ảnh hưởng lên toàn cầu. Những triết gia thời Hy Lạp như Socrates, Plato, Aristotle cho đến thời Khai Sáng như John Locke, Jean-Jacques Rousseau, John Stuart Milton, v.v… đưa ra những triết lý về chính quyền, khế ước xã hội, công bằng, tự do, bình đẳng, kinh tế, kinh tế chính trị, hay nói chung là chủ nghĩa cấp tiến (liberalism). Những tư tưởng này đã làm khai sáng bao thế hệ kể từ thế kỷ 17 trở đi, truyền cảm hứng cho tất cả những ai muốn sống trong tự do và bình đẳng, mà chính quyền chỉ là công cụ để đại diện người dân lèo lái con thuyền quốc gia trong thời gian nhất định. Nó đưa đến sự hình thành của nhà nước cộng hòa và dân chủ đầu tiên tại Mỹ, và Pháp, và sau đó lan rộng toàn cầu.
Khoan nói đến triết gia, Việt Nam thiếu hẳn các nhà nghiên cứu hay giáo sư dạy triết học chính trị trong thế kỷ 20 lẫn thế kỷ 21. Đây là một lĩnh vực mà chưa có nhiều người Việt Nam đi vào, để có thể xem là những chuyên gia. Một hiện tượng lạ lùng và chưa có lời giải thích.
Điều lạ lùng nữa là, nếu có bằng tiến sĩ được xem là trí thức, thì một số trí thức Việt Nam mà tôi biết hoàn toàn không biết về khoa học chính trị, dù họ đang dạy ở một trường đại học nào đó tại Mỹ hay Úc. Tư duy của họ về chính trị vẫn chủ yếu là chính trị xôi thịt (politicking), cá lớn nút cá bé, nước mạnh lấn hiếp nước nhỏ. Họ ngạc nhiên khi nghe tôi nói là có cả một rừng chuyên ngành về chính trị học và triết học chính trị. Những người Việt cùng thế hệ tôi, chuyên môn trong nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng không có mấy người cầm lấy một cuốn sách triết học chính trị hay biết về các triết gia thời Khai Sáng. Ngay cả một số bạn đang hành nghề luật sư, nếu lúc còn trong trường học luật mà không chọn chính trị làm môn tự chọn (elective subject), thì đến giờ vẫn không biết gì về triết học chính trị, mặc dầu một số tư tưởng của các triết gia này ảnh hưởng sâu sắc lên tư duy về công lý. Chánh Thẩm phán của Tòa Tối cao Ú c Susan Keifel, chẳng hạn, có nhữngbài viết và phát biểu rất sâu sắc về nền tư pháp và công lý của Úc, và bà Keifel thường nhắc đến những tư tưởng ảnh hưởng sâu đậm lên nền công lý tại Úc và toàn cầu.
Trong khi đó, những bạn Úc của tôi đọc thật sâu và hiểu thật rộng. Với những người không chuyên về chính trị học đi nữa, những môn họ chọn thời trung học hay đại học cho ngành nhân văn hay nghệ thuật ít nhiều đều có lý thuyết và triết học. Nó cho họ kiến thức bao la về tư tưởng để làm nền tảng soi sáng con đường họ đi.
Tôi được biết có một thời phong trào tìm hiểu triết lý chính trị thời Khai Sáng đã được một số bạn trẻ Việt Nam hưởng ứng. Ho đứng ra tổ chức các buổi tham luận như vậy tại Việt Nam, và được sự bảo trợ của giáo sư Chu Hảo, chẳng hạn. Giờ này mỗi người một phương hướng, và những cánh én như thế vẫn chưa làm nên mùa xuân.
Ông Kiểng kết luận trong bài viết về 30 tháng 4 rằng câu trả lời cho câu hỏi "bao giờ Việt Nam mới có dân chủ" là "hạn kỳ dân chủ không còn xa, nhất là nếu chúng ta tích cực cổ võ cho cố gắng thay đổi văn hóa chính trị đang diễn ra".
Nghĩa là văn hóa chính trị phải có trước, rồi mới có dân chủ. Tư tưởng phải đi trước để hướng dẫn hành động. Thật vậy.
Vấn đề là có bao nhiêu người Việt trong gần 100 triệu người trong nước đọc và hiểu về những tư tưởng triết học chính trị này ? Rồi từ cấp hiểu đến cấp làm, đến xây dựng thành văn hóa, là cả một quá trình dài. Có khi vài chục năm và vài thế hệ, nếu mọi sự suông sẻ. Nhưng hiện nay tự do báo chí, ngôn luận và tư tưởng đang bị kìm kẹp thô bạo. Ngay cả khi Việt Nam có thay đổi, chắc gì sẽ xây dựng được văn hóa chính trị cấp tiến trong thời gian canh tân đất nước ?
Con đường dân chủ cho Việt Nam, theo quan sát của tôi, vì thế thật không dễ dàng hay lạc quan chút nào.
Nếu không có những khái niệm nền tảng về tự do, công bằng, bình đẳng, công lý, pháp quyền, v.v… thì làm sao có thể xây dựng tập thể, cộng đồng hay quốc gia theo viễn kiến dân chủ mà chúng ta mong muốn ?
Nhà nước cộng sản Việt Nam không hề có những khái niệm này, nên họ có xây được cái gì cho ra hồn đâu.
Cho nên bài toán của Việt Nam, theo tôi, phải tính khác. Phải tìm giải đáp khác.
Yếu tố quan trọng nhất, cái phải bắt đầu trước hết, là khát vọng hay ước mơ muốn thấy sự thay đổi từ đa số người Việt Nam. Ước mơ như thế cần được truyền cảm hứng từ một thiểu số sang thành đa số. Không có khát vọng thay đổi, mà chỉ nhìn mọi thứ bằng tiền, bằng vật chất, thì làm sao thay đổi ? Không thay đổi tư duy mình trước thì làm sao thay đổi được người chung quanh?
Bài toán Việt Nam, do đó, không còn thuần túy là chính trị. Nó là vấn đề phát triển cá nhân (personal development). Nó là vấn đề dân trí. Dân trí là thiết yếu.
Và nó an toàn. Quan trọng là an toàn.
Lời tòa soạn : Cần đánh tan một ngộ nhận là phải nâng cao dân trí trước rồi mới dân chủ hóa đất nước sau. Quan niệm này không những không đúng mà còn làm cho phong trào dân chủ Việt Nam không thể lớn mạnh. Đã hơn 100 năm ngày cụ Phan Châu Trinh đưa ra câu nói "Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh" mà dân trí Việt Nam vẫn còn thấp, tại sao ?
Thông Luận đăng lại bài viết cũ của Giang Hoàng về chủ đề này.
Việt Hoàng
Dân trí là ý thức chính trị của người dân, ý thức về vai trò vị thế của họ trong mối tương quan với chính quyền, ý thức về quyền căn bản của con người, khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán…
Có nhiều lý do phong trào dân chủ Việt Nam chưa lớn mạnh như đáng lẽ nó phải có. Một trong những lý do có vẻ thuyết phục được nhiều người là do dân trí của ta chưa cao. Liệu đây có phải là lý do thực sự không, hay chỉ là lý cớ để biện minh cho một thực tế khác ?
Trước khi bàn về vấn đề này, chúng ta hãy phân tích một chút về dân trí của người dân Việt Nam hiện nay, để xem lý do được đưa ra ở trên có phải là một khái quát đúng đắn, hay chỉ là một nhận định được đưa ra từ sự bất lực của những người đang ước vọng cho một Việt Nam dân chủ. Điều này rất quan trọng, vì dân trí vừa là lý do làm chùn bước những người có ý định dấn thân, vừa là lý do để cho rằng chúng ta chưa thể áp dụng các quyền tự do dân chủ vào thực tế Việt Nam.
Nếu hiểu dân trí là một xã hội mà, đa số người dân tốt nghiệp trung học, nhiều người có bằng cấp về một chuyên môn nào đó thì ta có thể nói, dân trí của ta tương đối cao.
Nếu hiểu dân trí là một xã hội mà đa số người dân có thể đọc, nghe và hiểu một cách tương đối những thông tin, thông điệp của hệ thống truyền thông đại chúng thì có thể nói, dân trí của ta ở mức trung bình (nhiều nước khá phát triển nhưng do sự phức tạp về sắc tộc, ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa nên tỉ lệ mù chữ cao hơn ta nhiều).
Còn nếu hiểu dân trí là ý thức chính trị của người dân, ý thức về vai trò vị thế của họ trong mối tương quan với chính quyền, ý thức về quyền căn bản của con người, khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán… thì phải thừa nhận một thực tế đáng buồn, dân trí của ta rất thấp.
Phan Châu Trinh, nhà cách mạng nổi tiếng với câu "Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh".
Tôi đã nói chuyện với nhiều người có trình độ học vấn đại học và nhận thấy tuyệt đại đa số không phân biệt được tổ quốc và chính quyền. Đối với những người này, khi ai đó lên tiếng phê phán những sai trái của chính quyền là đồng nghĩa với việc chống lại tổ quốc ! (có lẽ, với họ, Cao Bá Quát là tên phản quốc vì ông dám nổi loạn chống chính quyền nhà Nguyễn – chính quyền mà ông từng phục vụ !).
Và, tôi cho rằng phải đánh giá sự cao thấp của dân trí qua tiêu chí thứ ba này, nghĩa là tiêu chí nhận thức chính trị, hay ít nhất phải coi đây là tiêu chí quan trọng nhất. Những người tốt nghiệp bác sĩ ở Việt Nam và Hàn Quốc sẽ có trình độ chuyên môn tương đương, nhưng ý thức chính trị thì đẳng cấp rất khác nhau giữa các bác sĩ Hàn – Việt. Điều này tạo ra sự khác biệt lớn mà ta có thể đánh giá trình độ dân trí của hai cộng đồng này.
Nhưng liệu có phải vì dân trí của ta thấp, mà ta chưa nên dấn thân cho dân chủ, hay chưa thể bắt đầu xây dựng được dân chủ, mà phải chờ đợi hiểu biết chính trị của người dân tăng lên một mức nào đó, rồi mới có thể nói tới dân chủ ? Điều này sai. Bởi vì, như đã nói ở trên, dân trí là ý thức chính trị, tư duy độc lập, tư duy phê phán…của người dân trước các vấn đề chính trị, xã hội. Mà những cái này chỉ có trong môi trường giáo dục khai phóng, môi trường truyền thông tự do, đa chiều. Những yếu tố chỉ có trong chế độ dân chủ, chứ không thể có trong chế độ toàn trị, nơi mà hệ thống giáo dục, truyền thông chỉ phục vụ cho mục đích ngu dân về chính trị, nô dịch về tư tưởng.
Nói rằng : hãy khoan nghĩ tới dân chủ khi dân trí chưa cao cũng chẳng khác gì nói với một người chưa biết bơi rằng: anh/chị đừng bao giờ xuống nước cho tới lúc nào biết bơi. Vấn đề ở đây là chưa có ai tập bơi thành công trên cạn cả. Nói như vậy là nhầm lẫn giữa hậu quả và nguyên nhân. Dân chủ là điều kiện tiên quyết cho phép phổ biến và tích lũy tri thức, nghĩa là nâng cao dân trí, rồi từ đó dân chủ ngày càng được củng cố. Hai điều này có mối quan hệ biện chứng nhưng dân chủ vẫn là tiền đề khởi phát.
Hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay của chế độ cộng sản đã có những cố gắng thực sự với hy vọng có một đội ngũ cán bộ có trình độ, nhưng đó chỉ là trình độ chuyên môn hạn hẹp trong những ngành nghề nhất định. Họ, nếu thành công, cũng chỉ tạo ra những con người ngoan ngoãn chỉ biết vâng lời và phục vụ cho hệ thống kinh tế đang nuôi dưỡng bộ máy khổng lồ của chính quyền độc tài. Những người này thực ra không khác gì những con bò chỉ biết cày kéo, suốt đời bị chính quyền dắt mũi. Có lẽ, đây là lý do Aristotle từng có định nghĩa nổi tiếng : "Con người là động vật chính trị".
Nhưng tại sao, có nhiều người, trong đó có những trí thức đang có những cố gắng nhất định để dân chủ hóa Việt Nam, vẫn khăng khăng rằng : cần phải nâng cao dân trí trước khi nghĩ tới dân chủ.
Theo tôi, lý do chính là đa số những người đang được hay đang bị coi là trí thức của Việt Nam hiện nay không phải là trí thức đúng nghĩa. Họ có kiến thức, thường là kiến thức chuyên môn cao nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để trở thành trí thức.
Người trí thức trước hết phải là người can đảm. Can đảm để đảm trách vai trò lãnh đạo quần chúng, trước những thử thách cam go của đất nước, điều mà giới khoa bảng Việt Nam không có. Họ chỉ là những kẻ theo đuôi quần chúng, chờ đợi ý thức chính trị của quần chúng tăng lên theo thời gian. (Hy vọng này được củng cố và có phần đúng trong thời đại internet, khi mà chính quyền độc tài không còn kiểm soát được hoàn toàn truyền thông). Rồi nhờ một biến cố bên trong như đấu đá nội bộ ở thượng tầng, sự phẫn uất của người dân từ một sự kiện như ở Tunisia, hay một Gorbachev Việt Nam xuất hiện. Hoặc một biến cố từ bên ngoài như Trung Quốc suy sụp, Đảng cộng sản Việt Nam mất chỗ dựa rồi sụp đổ theo… và đất nước chuyển hóa về dân chủ.
Những ước định của họ nếu đúng, thì Việt Nam cũng sẽ đối mặt với khả năng nguy hiểm : rất có thể rất lâu nữa chúng ta mới có dân chủ, và khi đó mọi sự có thể rất tồi tệ, thậm chí đã quá muộn. Tại sao ư ?
Hãy nhìn vào nguồn lực quốc gia, bao nhiêu tài nguyên khoáng sản quan trọng đã bị phung phí hết, môi trường bị hủy hoại hàng ngày, văn hóa đạo đức xuống cấp không phanh, ngay cả tài nguyên quan trọng nhất là nguồn lực con người cũng đang hao mòn theo thời gian. Dân số nước ta đang già đi nhanh chóng.
Nước Nhật mấy chục năm nay đang suy thoái mạnh, mà nguyên nhân quan trọng là dân số già hóa. Nhưng Nhật chỉ đối mặt với tình trạng lão hóa dân số khi mà trình độ phát triển đã đạt mức rất cao, hệ thống an sinh xã hội đầy đủ, hoạt động kinh tế không còn dựa nhiều vào cơ bắp. Còn chúng ta sẽ phải đối mặt với lão hóa dân số ngay khi chế độ độc tài này vẫn còn tồn tại. Hậu quả là nước ta sẽ mãi mãi tụt hậu.
Và, nếu chế độ độc tài này sụp đổ như cái kịch bản mà họ tưởng tượng thì đất nước có thể rơi vào hỗn loạn trong một thời gian dài, với nguy cơ can thiệp của các thế lực bên ngoài, khi mà lực lượng dân chủ chưa sẵn sàng về mặt tổ chức để lấp vào khoảng trống chính trị mà chế độ cộng sản để lại.
Người trí thức phải là người có hiểu biết sâu sắc về chính trị, nhưng do sống trong hàng ngàn năm dưới các chế độ chuyên chế, người dân bị gạt ra ngoài đời sống chính trị, chính trị chỉ còn là trò chơi quyền lực giữa các phe nhóm trong cung đình mà chỉ một số nhỏ thành phần trí thức khoa bảng được tham gia với vai trò công cụ. Nền chính trị bóng tối này đẻ ra những quan niệm rất sai về chính trị, coi nó như là những thủ đoạn bẩn thỉu, lừa lọc cần tránh xa. Trí thức Việt Nam không mấy người chịu hiểu rằng : chính trị, theo đúng nghĩa của nó là khoa học tìm ra phương thức tổ chức xã hội tốt nhất, hòng mưu cầu hạnh phúc tối đa cho quần chúng.
Năm 1993, trong một cuộc phỏng vấn, khi trả lời câu hỏi của nhà báo người Đan Mạch về vai trò của trí thức đối với quá trình dân chủ hóa Việt Nam, nhà toán học Phan Đình Diệu đã trả lời đại ý như sau : hiện nay, chúng tôi có nhiều nhà toán học, nhiều nhà vật lý, nhiều nhà văn, v.v. và sắp tới, sẽ có thêm nhiều nhà kinh tế học. Nhưng trí thức, hiểu theo nghĩa những người có hiểu biết về chính trị xã hội, có tư duy độc lập, dám đưa ra phản biện chính sách của chính quyền để hướng dẫn dư luận thì chúng tôi chưa có tầng lớp này.
Thomas Friedman - tác giả cuốn "Thế giới phẳng" - nói rằng : "năng lực tạo ra ý định". Tôi nghĩ, ông có lý. Không có năng lực chính trị thì không có gì ngạc nhiên khi trí thức Việt Nam không dám dấn thân chính trị, không tin vào chiến thắng chính trị khi đối diện với chế độ độc tài.
Đối với họ, đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức mạnh, quá mạnh. Với họ, sức mạnh của đảng cộng sản Việt Nam là những giá trị biểu kiến như, số đảng viên đông đảo, lực lượng quân đội, công an hùng hậu, hay ngân sách quốc gia mà đảng tùy ý sử dụng…
Họ không hiểu một chính đảng mạnh là một chính đảng có lý tưởng mà các đảng viên của nó tin tưởng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ những gì xác tín. Đảng cộng sản Việt Nam từng là là một chính đảng mạnh vì nó có lý tưởng cộng sản. Chính chủ nghĩa Mác - Lenin là tín điều tạo ra một đội ngũ cuồng tín, gắn bó làm nên sức mạnh của nó. Bởi vậy, dù chỉ với một đội ngũ nhỏ, họ đã giành được chính quyền, vượt qua nhiều cam go rồi đi đến toàn thắng trước các đối thủ có phương tiện dồi dào hơn hẳn.
Còn hiện nay - khi lý tưởng cộng sản đã lố bịch - trong hàng triệu đảng viên của đảng, có đảng viên nào dám hy sinh một ngón tay cho đảng ? Đảng cộng sản hiện nay chỉ là một tập đoàn mà người ta vẫn gọi là một đảng vì khối đảng viên vẫn ràng buộc nhau bởi quyền lực và quyền lợi. Nhưng quyền lực và quyền lợi không bao giờ tạo ra sự gắn kết thực sự, nó chỉ tạo ra chia rẽ, tranh đoạt. Những đấu đá, mạt sát nhau thậm tệ của đám chóp bu được phơi bày trên internet là minh chứng rõ ràng.
Nếu hiểu như vậy thì trí thức Việt nam sẽ thấy, đảng cộng sản hiện nay không những không mạnh mà thực ra: nó không còn gì. Họ sẽ biết mình phải làm gì để đưa đất nước ra khỏi bế tắc, thay vì chỉ biết biện luận loanh quanh, mỗi trí thức sẽ hiểu phải chọn cho mình một tổ chức để tham gia hoặc ủng hộ một cách công khai và mạnh mẽ.
Kể từ ngày lập quốc, đặc biệt trong khoảng hai trăm năm trở lại đây, đất nước chúng ta đã có những thay đổi khốc liệt. Nhưng thứ ít thay đổi nhất có lẽ là tâm lý của thành phần mà ngày trước gọi là kẻ sĩ, nay được gọi là trí thức. Họ vẫn là những kẻ vong thân vị kỷ, vẫn tuyên bố một cách không xấu hổ :
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Tội gì mà thức một mình ta
Hay như Tú Xương ngày trước :
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông…
Hoặc biết giới cầm quyền cho ăn bánh vẽ cũng giả vờ nhai như Chế Lan Viên :
Tôi vô thần nên tôi chẳng tin
Nhưng bảo khấn thì tôi khấn…
Nguyễn Duy cũng từng nói một cách mỉa mai về niềm tin đối với chủ nghĩa Mác – Lênin rằng, khi không được làm công cụ của giai cấp thống trị, thì cũng chỉ là kẻ cam chịu sự vô lý của bạo quyền, hoặc tự tách mình ra ngoài lề mọi biến chuyển của đất nước… Quả là sự phá sản của trí tuệ và phẩm giá.
Suy cho cùng, những lý lẽ cho rằng chưa thể thực hiện dân chủ vì dân trí chưa cao, vì điều kiện văn hóa, kinh tế…chưa cho phép chỉ là những biện luận lúng túng của một chế độ độc tài đã mạt vận – không còn dám bác bỏ dân chủ - nó chỉ là thể hiện sự bất lực của trí tuệ. Người trí thức cần phải có thái độ độc lập vì đó là thuộc tính của trí thức. Ông tổ của chủ nghĩa cộng sản từng phán rằng : "Những tư tưởng thống trị thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị". Trí thức Việt Nam cần dõng dạc bác bỏ nó và mạnh mẽ tuyên bố : những tư tưởng của thời đại phải là tư tưởng của trí thức.
Giang Hoàng
(8/11/2016)
Quá trình công an điều tra vụ án "tham ô tài sản" đối với Trịnh Xuân Thanh và các đồng phạm trong thương vụ mua bán cổ phần bất động sản, bị can Đặng Sỹ Hùng - nguyên Trưởng phòng Kinh tế Kế hoạch Cty cổ phần Bất động sản Điện lực Dầu khí Việt Nam (PVP Land) - đã bất ngờ tử vong.
Theo tài liệu cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao đã có quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Đặng Sỹ Hùng (SN 1975).
Bị can Đặng Sỹ Hùng bất ngờ tử vong - ảnh chụp năm 2011 (Ảnh : Công an nhân dân)
Để khắc phục hậu quả của vụ án mà các đối tượng đã chiếm đoạt 49 tỉ đồng (theo cáo buộc của cơ quan điều tra), cơ quan Cảnh sát điều tra xác định, bị can Đặng Sỹ Hùng sau khi chết không có tài sản riêng. Tuy nhiên, gia đình bị can Hùng đã nộp lại cơ quan Cảnh sát điều tra số tiền hơn 13 tỉ đồng.
Trở lại với vụ án "Tham ô tài sản" xảy ra tại PVP Land và Công ty cổ phần Minh Ngân mà cơ quan Cảnh sát điều tra đã đề nghị truy tố các bị can Trịnh Xuân Thanh, Đinh Mạnh Thắng (em trai ông Đinh La Thăng) và các đồng phạm, cơ quan Cảnh sát điều tra cáo buộc trong thương vụ chuyển nhượng cổ phần tại dự án Nam Đàn Plaza với giá thấp hơn thực tế, các đối tượng chiếm đoạt số tiền 49 tỉ đồng.
Bị can Đặng Sỹ Hùng, nguyên Trưởng phòng Kinh tế Kế hoạch Công ty cổ phần Bất động sản Điện lực Dầu khí Việt Nam (PVP Land), cùng các cổ đông Cty Xuyên Thái Bình Dương ký Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng cổ phần với giá 52 triệu đồng/m2 đất, sau đó Hùng đã cùng Nguyễn Ngọc Sinh, Tổng Giám đốc PVP Land, lập Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần với giá 34 triệu đồng/m2 đất (chênh 18 triệu đồng/m2) rồi nhờ Thái Kiều Hương, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư Vietsan tác động để Trịnh Xuân Thanh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Cty PVC ; Đào Duy Phong, Chủ tịch Hội đồng quản trị PVP Land chấp thuận cho chuyển nhượng cổ phần để chiếm đoạt tiền chênh lệch giá.
Trịnh Xuân Thanh bị cáo buộc tội "tham ô tài sản" và đang bị cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về tội danh trên.
Cơ quan điều tra xác định, qua thương vụ chuyển nhượng cổ phần bất động sản này, các đối tượng đã chiếm đoạt 49 tỉ đồng. Trong đó, Hùng đã nhận 20 tỉ đồng của ông Lê Hoà Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Xây dựng và Dịch vụ 1/5, Công ty cổ phần Minh Ngân.
Trong vụ án này, cơ quan điều tra xác định Đinh Mạnh Thắng đã nhận 5 tỉ đồng ; Trịnh Xuân Thanh nhận 14 tỉ đồng.
Khi cơ quan điều tra khởi tố vụ án Lê Hòa Bình lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì ông Thắng đã trả lại cho Hương 5 tỉ đồng. Lúc này, Trịnh Xuân Thanh cũng trả lại 14 tỉ đồng để Thắng đưa cho Hương.
Theo cơ quan điều tra, việc Thanh hoàn trả 14 tỉ đồng diễn ra sau khi cơ quan điều tra khởi tố vụ án. Do tội phạm đã hoàn thành nên PVP Land vẫn bị chiếm đoạt số tiền này. Hành vi của Đinh Mạnh Thắng, Trịnh Xuân Thanh đã phạm tội "tham ô tài sản", trong đó Thắng đóng vai trò giúp sức.
Ngoài Thanh, Thắng bị khởi tố về tội "tham ô tài sản" còn có 6 đồng phạm khác gồm : Nguyễn Ngọc Sinh, nguyên Tổng giám đốc PVP Land ; Đào Duy Phong, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị PVP Land ; Lê Hòa Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty 1/5 ; Nguyễn Thị Kim Thoa, cựu kế toán trưởng công ty 1/5 ; Huỳnh Nguyễn Quốc Duy, nghề môi giới ; Thái Kiều Hương, nguyên phó tổng giám đốc công ty VietSan.
Đinh Mạnh Thắng (em trai ông Đinh La Thăng) cũng bị cáo buộc về tội tham ô tài sản với vai trò giúp sức.
Theo tài liệu cơ quan điều tra, điều bất ngờ trong bản lí lịch của Trịnh Xuân Thanh, bị can này từng có một tiền sự về tội "Vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải ; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác".
Năm 1987, Lê Hoà Bình cũng bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội phạt cảnh cáo về tội "Vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải". Bình bị bắt, tạm giam ngày 7/9/2010 đến ngày 11/11/2014. Hiện Bình đang được tại ngoại.
Hiện vụ án "Tham ô tài sản" xảy ra tại PVP Land và Công ty cổ phần Minh Ngân đã được cơ quan Cảnh sát điều tra hoàn tất và chuyển đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tiến hành các bước tố tụng tiếp theo.
Tuấn Hợp
Một nhận xét khá phổ biến của nhiều người về tiến trình dân chủ của Việt Nam như sau : "Dân trí Việt Nam còn thấp, do đó, dân chủ không thích hợp với Việt Nam". Để phân tích sự đúng, sai của nhận định này, trước hết cần hiểu thế nào là "dân trí" ?
Dân chủ mang lại niềm tin, sức sống và mở ra một chân trời mới
"Trí" chỉ khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy đoán... thuộc trí tuệ gắn liền với mỗi người. Dân trí là khái niệm chỉ về trình độ nhận thức, mặt bằng văn hóa chung của cộng đồng, hoặc là trình độ học vấn trung bình của người dân. Hiểu một cách rộng hơn, dân trí cũng là sự hiểu biết và ý thức về quyền và trách nhiệm của người dân.
Vậy dân trí của Việt Nam cao hay thấp ? Hãy cùng xét qua vài chỉ tiêu quan trọng sau đây :
- Tính đến năm 2016, Việt Nam có 412 trường Đại học và Cao đẳng ; nghĩa là bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường Đại học và Cao đẳng (1).
- Số giảng viên đại học là gần 92.000 người, trong đó có 4.155 giáo sư và phó giáo sư. Mỗi năm, có hơn 400.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số 95 triệu dân, cao hơn cả các quốc gia phát triển (1).
- Chỉ số phát triển con người(Human Development Index - HDI) của Liên Hợp Quốc vào năm 2016, Việt Nam thuộc nhóm "Medium Human Development" (Phát triển trung bình), xếp hạng 115/188, cao hơn cả Ấn Độ, Myanmar và Phillipines (2).
Chỉ số phát triển con người(HDI) được đánh giá qua 3 tiêu chí :
1. Sức khỏe : đo bằng tuổi thọ trung bình ;
2. Tri thức : đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học ở các cấp giáo dục.
Chỉ số tri thức (giáo dục), được biểu hiện qua 2 chỉ số chi tiết : tổng số năm đi học được kỳ vọng và tổng số năm đi học trung bình của mỗi người dân. Cả 2 chỉ số này của Việt Nam đã tăng một cách đáng kể so với nhiều nước trên thế giới.
3. Mức thu nhập : đo bằng GDP bình quân đầu người.
Rõ ràng, nếu đánh giá dân trí của Việt Nam dựa trên trình độ học vấn, giáo dục và chỉ số phát triển con người (Human Development Index), thì dân trí của Việt Nam ở trên mức trung bình. Do đó, nhận định "dân trí Việt Nam còn thấp nên chế độ độc tài toàn trị là thích hợp" là một ngụy biện và nhận định sai lầm.
Cũng có ý kiến cho rằng Việt Nam cần một nhà độc tài kiểu Park Chung-hee hay Lý Quang Diệu, bởi nhờ sự độc tài của họ mà Hàn Quốc và Singapore đã có thịnh vượn. Trong thực tế, "không thể có những chế độ độc tài sáng suốt bởi vì nền tảng của mọi chế độ độc tài là sự kiêu căng bệnh hoạn của một người hay một nhóm người tự nghĩ rằng họ đủ thông minh để suy nghĩ thay cho cả một dân tộc". Vì thế, một lần nữa phải khẳng định rằng, nhận định này là một ngụy biện, hoặc ít nhất cũng là sự ngộ nhận do thiếu hiểu biết.
Trong suốt hơn 5000 năm tồn tại, loài người đã sống và trải nghiệm mặt tốt và xấu của ít nhất 5 thể chế chính trị, hàng chục triệu người đã phải đổ máu… để có kết luận rằng dân chủ không phải là một thể chế chính trị tuyệt hảo, nhưng là một giải pháp chính trị ít tệ hại nhất. Dân chủ không phải là một phép màu kì diệu mang đến sự giàu có ngay lập tức, nhưng "dân chủ là một phong cách sinh hoạt cho phép đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa những người có trách nhiệm" (3).
"In a democracy, there will be more complaints but less crisis, in a dictatorship more silence but much more suffering".
"Ở một chế độ dân chủ, sẽ có nhiều than phiền, chỉ trích, nhưng ít khủng hoảng ; Ở một chế độ độc tài, sẽ có nhiều sự thinh lặng, nhưng lại rất nhiều đau khổ".
Chính vì thế, cho rằng "dân chủ không thích hợp với Việt Nam vì dân trí thấp" là một sự ngụy biện và nhận định sai lầm, bởi dân chủ không phải là một hệ quả của sự vận động xã hội mà dân chủ là một quyền cơ bản nhất của con người. Một nền dân chủ thực sự sẽ là nền tảng vững chắc mang đến cho người dân những giá trị cơ bản : công lý, tự do và nhân quyền. Nếu nói rằng một đất nước phải có dân trí cao thì dân chủ mới hình thành và phát triển được, như vậy phải giải thích như thế nào khi đế quốc La Mã có một nền dân chủ hơn hẳn Ai Cập, là nước đã phát triển trước họ cả ngàn năm ? Vì thế, không nên ngụy biện hay viện cớ ý thức dân chủ của người Việt Nam còn kém, lòng người còn chia rẻ… để cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với Việt Nam.
"Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn. Chúng ta cần chứng minh rằng dân chủ là điều kiện căn bản để bảo đảm không có hỗn loạn, là phương thức sinh hoạt cho phép xã hội tiến hóa và đổi mới không ngừng trong trật tự".
"Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng xã hội phương Đông khác với xã hội phương Tây, và do đó không thể chấp nhận những giá trị của phương Tây như tự do cá nhân, dân chủ và nhân quyền. Tự do, dân chủ và nhân quyền là những giá trị phổ cập của cả loài người, không riêng gì của phương Tây. Các giá trị đó có mặt trong mọi nền văn minh, kể cả tại Việt Nam" (3).
Đất nước và dân tộc Việt Nam đang bị đặt dưới ách cai trị độc tài toàn trị của chế độ cộng sản. Để duy trì ách độc tài, đảng cộng sản đã tận dụng chính sách ngu dân, mị dân trong khi nhân dân mới chính là sức mạnh và tiềm năng của một quốc gia. Do đó, sự lụn bại ở mọi góc cạnh của đất nước từ văn hóa, giáo dục, xã hội, môi trường đến dân trí, tình cảm, đạo đức… đều là hệ quả của chế độ độc tài toàn trị.
"Ách độc tài toàn trị và bị từ chối những quyền con người cơ bản, như quyền tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử, kể cả quyền sở hữu đất. Hàng triệu dân oan bị cướp đoạt đất sống lây lất trong uất hận. Đồng thời tài nguyên quý nhất của quốc gia là con người cũng bị xuống cấp một cách thê thảm. Sức khỏe của nhân dân suy nhược vì thiếu dinh dưỡng, thuốc men và chăm sóc. Các chứng bệnh truyền nhiễm nguy hiểm lan tràn một cách báo động mà không có biện pháp ngăn chặn. Thanh thiếu niên bỏ học hàng loạt. Trí tuệ dân tộc suy giảm nặng với sự xuống cấp bi đát của hệ thống giáo dục. Tệ nghiện hút, mại dâm, trộm cướp ngày càng gia tăng. Cuộc sống khó khan trong một xã hội băng hoại làm con người càng ngày càng rời xa các giá trị căn bản phải có của mọi quốc gia : đạo đức, lương thiện, thật thà, cần cù, kỷ luật, v.v. Dối trá, lừa đảo, thô lỗ trở thành thông thường trong quan hệ xã hội" (3).
Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai - Chương 1 : Nhiệm Vụ Lịch Sử
Chế độ độc tài toàn trị đã khiến cho đất Mẹ Việt Nam ngày càng hoang tàn, đổ nát, và phần lớn con dân phải sống trong cơ cực. Bản chất của người Việt vốn cần cù, dễ tiếp thu, và chịu khó. Sự thành công của nhiều người Việt hải ngoại là một minh chứng về khả năng thích nghi và thông minh vốn có của người Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đau buồn là, trong khi 3/4 dân tộc trên thế giới đã có dân chủ, thì chúng ta vẫn phải cam go yêu sách đòi dân chủ. Chính vì thế, ngụy biện đầy bịp bợm rằng "dân trí còn thấp nên dân chủ không thích hợp ở Việt Nam" cần phải bị lên án và loại bỏ.
Dân chủ không phải là một "chiếc đũa thần kì" có thể ngay lập tức biến một nước nghèo khổ thành phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, dân Chủ và cụ thể là dân chủ đa nguyên, là một phương thức tổ chức xã hội hiệu quả nhất. Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia cường thịnh và tôn trọng nhân quyền nếu lấy dân chủ đa nguyên làm nền tảng, để rồi tổng động viên mọi trái tim, mọi khối óc và mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, sung túc và thanh bình.
Có thể nói, mức độ dân chủ quyết định sự cường thịnh của một quốc gia. Dân chủ càng cao, người dân càng có nhiều cơ hội sống trong công bằng, bao dung, tự do và nhân quyền, đặc biệt là quyền phát huy ý kiến và sáng kiến.
"Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố : một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai" (3).
Sẽ không có một giải pháp nào tốt đẹp hơn cho dân tộc Việt Nam nếu chế độ độc tài cộng sản còn tồn tại. Chỉ có loại bỏ chế độ độc tài cộng sản bất nhân và hung bạo để chào đón dân chủ đa nguyên, dân tộc Việt Nam mới có cơ hội tiếp cận thật sự với tự do, công bằng và nhân quyền.
"Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng" (3).
Mai V. Pham
Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
(30/06/2017)
Nguồn :
(2) http://hdr.undp.org/en/composite/HDI
(3) https://www.thongluan-rdp.org/thdcdn/item/602-khai-sang-k-nguyen-th-hai