Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Tư liệu

17/01/2017

TQĂN - Phần Một - Đất nước và con người - 1

Nguyễn Gia Kiểng

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Một - 1

 

Đất nước và con người

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 1

 

*******************

Sơn hà gấm vóc

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 2

 

Tôi còn nhớ một bài thơ học thuộc lòng lúc ở lớp Nhất tiểu học, không biết của tác giả nào :

     Trên dải đất chạy ven bờ biển cả

     Dưới trời Đông Nam Á rạng màu xanh

     Một giống người nhỏ bé nhưng tinh anh

     Đã xây đắp một sơn hà gấm vóc...

Trong trí óc non yếu của tôi, nước Việt Nam ta rộng rãi và phì nhiêu, người Tàu chen chúc nhau phải di dân sang nước ta lập nghiệp. Đất nước ta, theo những bài học đầu đời của tôi và được nuôi dưỡng cho đến tuổi thanh niên, đầy tài nguyên phong phú. Nước ta đầy hứa hẹn và có một tương lai vô cùng xán lạn.

Ý nghĩ đất nước ta có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú là ý nghĩ rất lan tràn. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người quả quyết như vậy. Sau 30/4/1975, trong trại cải tạo, tôi được nghe rất nhiều sĩ quan, công chức của miền Nam cũ lên án đế quốc Mỹ là đã tới Việt Nam để cướp bóc tài nguyên. Một anh cựu trung úy và tốt nghiệp văn khoa còn phát biểu rằng sở dĩ đế quốc Mỹ lập căn cứ Khe Sanh là vì ở đấy có một mỏ uranium lớn. Một công chức khác nói rằng Mỹ đến Việt Nam, hất Pháp ra là vì những giếng dầu khổng lồ của Việt Nam. Có anh còn nói các giếng dầu của Việt Nam, so với các giếng dầu ở Trung Đông như con voi so với con tem. Anh ta không giải thích tại sao Mỹ lại rút lui, bỏ rơi những giếng dầu khổng lồ đó.

Dĩ nhiên họ phát biểu vì hoàn cảnh. Họ thua trận, họ vào tù, họ phải mạt sát chế độ Việt Nam Cộng Hòa và đế quốc Mỹ để mong được khoan hồng. Nhưng những điều họ nói về tài nguyên đất nước là thành thực. Họ tin như thế. Tôi hỏi anh sĩ quan đã nói về mỏ uranium ở Khe Sanh thì anh ta không có một dữ kiện nào cụ thể cả, nhưng anh ta tin như thế và tin chắc như đinh đóng cột.

Không hiểu vì lý do nào mà hầu hết mọi người Việt Nam đều có niềm tin sai lầm rằng đất nước Việt Nam bao la, tài nguyên của Việt Nam vô tận. Cuốn Địa Lý Kinh Tế Việt Nam (Văn Trai, chủ nhiệm bộ môn Địa Lý Kinh Tế Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh, xuất bản lần thứ 4 năm 1990) khẳng định : "Các tài nguyên quặng mỏ ở nước ta có nhiều loại trữ lượng lớn, chất lượng cao, dễ khai thác, bảo đảm phát triển công nghiệp trong nước lâu dài và mạnh mẽ, đồng thời còn có thể xuất khẩu nữa". Niềm tin ở tài nguyên to lớn của đất nước rất thường gặp trong nhiều bài viết, bài nói và tác phẩm của các tác giả thuộc mọi khuynh hướng chính trị. Niềm tin này tạo ra một sự yên tâm tai hại. Hình như mọi người Việt Nam đều tin rằng đất nước mình thế nào rồi cũng sẽ phú cường, do đó mà mất đi sự lo lắng cần thiết để giữ gìn đất nước và xây dựng tương lai. Và cũng vì thế mà có tâm lý phá hoại và vô trách nhiệm.

Sự yên tâm này không những chỉ tai hại mà còn làm chết người. Đó là tâm lý ngự trị trong đầu óc những người lãnh đạo đảng cộng sản. Năm 1945 họ thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, họ đập phá tất cả các thành phố, đường bộ, đường sắt. Trong chiến tranh họ không bao giờ lưỡng lự khi phá hoại bất cứ một công trình nào. Một bài "tình ca yêu nước" của người cộng sản có hai câu :

     Em đi phá lộ Đông Dương,

     Anh về đánh bốt Mỹ Lương, Đông Hà.

(Đánh bốt có nghĩa là đánh đồn. Trẻ em thường hát sai thành đánh đốt).

Thơ mộng quá ! Còn ông Hồ Chí Minh ? Ông phát biểu quyết tâm chinh phục miền Nam như sau : "Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi". Ghê gớm không ! Sẵn sàng chấp nhận chiến tranh đến sông cạn, núi mòn, không lý gì đến sự tàn phá mà đất nước có thể phải chịu đựng. Một lần khác ông tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể gia tăng ném bom tại Bắc Việt, có thể phá hoại đường sá, hay tiêu hủy nhiều thành phố nhưng sẽ không bao giờ làm cho đảng cộng sản Việt Nam nhụt ý chí đấu tranh.

Độc giả đừng vội nghĩ rằng tôi đang chống cộng và kể tội người cộng sản. Tôi nghĩ rằng trong thâm tâm không nhiều thì ít ai cũng yêu nước, và người cộng sản cũng thế. Có lẽ sai lầm cơ bản là chúng ta không đánh giá đúng tiềm năng của đất nước và mức độ chịu đựng tối đa của nó. Chúng ta nghĩ rằng nước ta có tiềm năng vô tận và vì thế có bị đập phá cũng không sao.

Nếu ngược lại ta ý thức rằng đất nước ta nhỏ bé chật hẹp, tài nguyên của ta ít ỏi, có lẽ ta sẽ hành xử rất khác. Ta sẽ quí từng con đường nhỏ, từng cây cầu, từng dãy phố, từng căn nhà. Chúng ta sẽ tránh được những phí phạm và những cuộc chiến tranh làm chết hàng triệu người và tàn phá đất nước.

Mà sự thực ta có gì đâu ?

Mỏ quan trọng nhất trong đất liền của ta là than đá anthracite với trữ lượng 6 tỷ tấn. Sản lượng hàng năm là 8 triệu tấn, nếu khai thác tối đa có thể đạt tới 20 triệu tấn. Có nên khai thác tối đa hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng ngay cả như thế sản lượng than đá của ta cũng chỉ bằng ba phần ngàn sản lượng hàng năm của thế giới, thua xa Cao Ly (77 triệu tấn), Ba Lan (150 triệu tấn), Đức (77 triệu tấn), Anh (93 triệu tấn). Đó chỉ là để kể một vài nước có diện tích tương đương hay nhỏ hơn nước ta. Và tất cả những nước này còn nhiều tài nguyên phong phú khác mà ta không có.

Mỏ sắt của ta, được kể như một tài nguyên lớn, chỉ có trữ lượng tổng cộng 540 triệu tấn - nghĩa là rất khiêm nhường, tương đương với sáu tháng sản xuất trên thế giới -, đã thế lại phân tán ra trên 200 mỏ, cho nên không thể khai thác qui mô được.

Các mỏ khác của ta đều không đáng kể. Thí dụ như nickel, một trong những tài nguyên được coi là quan trọng của ta chỉ có một trữ lượng tổng cộng cho các mỏ là 3 triệu tấn, nhưng phần lớn lại pha lẫn trong chrome, ở Cô Định (Thanh Hóa), tương đương với một năm sản xuất của hòn đảo nhỏ xíu Nouvelle Calédonie.

Ngoài ra ta có hai mỏ khác có triển vọng khá là mỏ chrome ở Thanh Hóa (trữ lượng 21 triệu tấn) và mỏ apathite ở Lào Cai (trữ lượng công nghiệp 135 triệu tấn).

Từ vài năm gần đây, Việt Nam trông đợi rất nhiều vào dầu khí. Nhưng đây cũng chỉ có thể là một hy vọng rất khiêm nhường. Trữ lượng của ta, theo những ước đoán lạc quan, không bao nhiêu, chỉ vào khoảng 400 triệu tấn (thế giới : 400 tỷ tấn). Sản lượng dầu lửa hợp lý của ta sau này chỉ có thể đạt tới mức tối đa 15 triệu tấn mỗi năm, nghĩa là tương đương với một tuần lễ sản xuất của Mỹ, hoặc Nga, hoặc Saudi Arabia, trừ khi ta áp dụng chính sách ăn xổi ở thì, khai thác cho hết thực nhanh chóng và bất chấp tương lai. Trong trường hợp này những đầu tư thiết bị vào dầu lửa sẽ thành vô dụng sau một thời gian ngắn. Mặt khác, nhu cầu năng lượng của ta sẽ tăng lên mau chóng (ít ra ta phải hy vọng như vậy) cùng với đà phát triển, và các mỏ dầu chỉ giúp ta giảm nhẹ hóa đơn dầu nhập cảng mà thôi.

Khí đốt, hy vọng mới của Việt Nam cũng vậy, với một trữ lượng 100 tỷ mét khối (hy vọng rằng ta còn tìm được thêm), 1% của trữ lượng trong vùng và 7 phần mười ngàn (7/10.000) trữ lượng thế giới, ta cũng chỉ có thể hy vọng bớt đi phần khí đốt phải mua vào mà thôi.

Nếu cần một con số nói lên sự nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên của ta thì đó là con số 13. Hiện nay, năm 2000 chúng ta đứng hàng thứ 13 trên thế giới về dân số với 78 triệu người, nếu không kiểm soát được đà gia tăng thì đến đầu thế kỷ 21 chúng ta sẽ qua mặt Đức (80 triệu dân) để lên hàng thứ 12, nhưng ta không đứng trong số 13 nước đầu, mà cũng không đứng trong số 30 nước đầu, về một tài nguyên nào cả.

Tài nguyên đã giới hạn như thế hiện nay chúng ta lại rất nghèo, rất lạc hậu, rất thua kém. Liệu chúng ta có một tương lai nào không ? Và nếu muốn có thì phải làm thế nào ? Hãy khoan trả lời những câu hỏi đó. Nhưng ngay tại đây ta có thể nói rằng ý thức được hoàn cảnh khó khăn của mình tự nó cũng đã là một hành trang quí báu, bởi vì nó cho ta một cách ứng xử đúng đắn, nó đem lại cho ta một thái độ lo lắng và thận trọng trong việc dựng nước, nó giúp ta ý thức được sự cần thiết của cố gắng.

 

********************

 

Rất đượm hương và rộn tiếng chim

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 3

 

Không biết ông Tố Hữu có phải là nhà thơ theo đúng nghĩa của một nhà thơ không. Nhưng ông có tài làm thơ, hiểu theo nghĩa những câu ngắn có vần ở cuối, và tài làm thơ đã góp phần quyết định đưa ông lên gần tới tột đỉnh của danh vọng và quyền lực. Ông biết dùng những hình ảnh rất đẹp và giản dị ngay cả khi để diễn tả những tình cảm giả tạo với những mục đích rất thực tiễn. Như khi ông dùng hình ảnh đứa bé tập nói để ca tụng Stalin, hay khi ông dùng hình ảnh một người con ân cần nắm tay cha để nịnh Hồ Chí Minh. Bài thơ "Từ ấy" của ông được người cộng sản ca tụng như một bài thơ hay. Nó bắt đầu như sau :

     Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

     Mặt trời chân lý chiếu qua tim

         Hồn tôi là một vườn xanh lá
     Rất đượm hương và rộn tiếng chim.

Qua những câu thơ này, ông Tố Hữu muốn diễn tả nỗi hân hoan của ông khi tìm ra chân lý Mác-Lênin và dấn thân tranh đấu trong Đảng Cộng Sản Việt Nam. Còn gì đẹp bằng màu xanh của lá và tiếng hót của chim ?

Ông Tố Hữu đã tranh đấu và đã thành công. Lý tưởng của ông đã đạt được. Con đường thắng lợi của đảng ông đã đi qua hàng triệu xác chết. Để đi đến kết quả nào ?

Trong mùa hè 1992, một người bạn Pháp, sau chuyến đi công tác một tháng tại Việt Nam, kể cho tôi nghe là anh ta thường thức dậy sớm vì sai biệt giờ giấc. Anh ta nói khu anh ta ở không có chợ vì nằm ngoài thành phố và buổi sáng im lặng một cách lạ thường vì hoàn toàn không có một tiếng chim.

Anh ta có nhiều chuyện quan trọng hơn để nói cho tôi nghe và tôi cũng có nhiều chuyện để hỏi anh ta ; những số liệu, những cuộc gặp gỡ, những nhân vật đã tiếp xúc, nhận định, cảm tưởng v.v... Và tôi không lưu ý tới chi tiết này.

Ít lâu sau, lại một người bạn khác, hay đi về Việt Nam, kể cho tôi nghe chuyện qua bắc Mỹ Thuận. Tôi thình lình nhớ tới những quán bán chim nướng và hỏi anh ta có ăn chim nướng ở đó không. Anh ta trả lời rằng có, nhưng đó chỉ là gà con mới nở được đem chiên thay cho chim chứ chim không còn nữa. Tôi bắt đầu lưu ý tới đàn chim Việt Nam.

Trong mùa hè 1993, nhiều anh em trong nhóm Thông Luận về thăm nhà. Tôi dặn mọi người để ý xem Việt Nam còn nhiều chim không. Họ đều thuật lại như nhau, và điều họ nói làm tôi sửng sốt : Việt Nam không còn chim ! Chỉ có một người bạn đi từ Nam ra Bắc mới thấy một con chim ở Vịnh Hạ Long, anh ta vội vã lấy máy hình ra chụp ảnh con chim ấy đem về cho tôi.

Cà Mau trước đây có một rừng cò lớn, có rất nhiều loại cò, nhiều đến nỗi có những người chuyên đi vào rừng lượm trứng cò và mỗi ngày lượm được cả rổ đem ra chợ bán. Tôi dặn một người bạn nhớ viếng khu rừng cò đó và anh ta cho tôi hay khu rừng cò chỉ còn rất ít cò, ít một cách không đáng kể.

Thế là cuộc cách mạng của ông Tố Hữu thành công và Việt Nam hết chim.

Còn màu xanh của lá ?

Những người qua lại Việt Nam đều đồng ý. Rừng bị phá hoại thẳng tay. Cho tới năm 1993, hàng ngàn công ty thi nhau đốn cây lấy gỗ xuất khẩu. Hàng trăm ngàn gia đình sống bằng nghề phá rừng lấy củi đem bán cho hàng triệu gia đình cần chất đốt. Chỉ tới giữa năm 1993, nhà nước mới ra lệnh cấm xuất cảng gỗ, và mới bắt đầu có một cố gắng rất hình thức để trồng lại rừng, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá nhanh chóng. Nhà nước cộng sản cũng không giấu giếm việc này, và nhiều báo chí đã lên tiếng báo động. Nhưng còn gì để báo động ? Những con số đã thực kinh khủng : 3/4 rừng Việt Nam đã bị phá, chỉ riêng trong 20 năm từ 1975 đến 1995, kể từ ngày đất nước thống nhất hơn một nửa diện tích rừng trên toàn quốc bị phá hủy. Mùa hè 1999, tôi lại được đọc một nguồn tin của nhà nước theo đó thì khoảng 1/3 diện tích rừng đã bị phá từ năm năm qua. Rừng Việt Nam còn lại bao nhiêu có lẽ không ai biết được một cách chính xác, nhưng tôi nghĩ sự thực có lẽ còn bi đát hơn các con số.

Báo chí thế giới đã nói tới rất nhiều, và chính quyền còn nói nhiều hơn, về những tàn phá gây ra cho rừng vì những thảm bom B52 và nhất là chất độc màu da cam của Mỹ. Điều đó đúng, và rừng cây Việt Nam đã bị thiệt hại rất nhiều. Nhưng không thấm vào đâu so với những tàn phá của 25 năm quản lý đất nước bất chấp môi sinh !

Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam vô tận, thiên nhiên Việt Nam vô tận nên cứ thẳng tay tàn phá.

Vô lý nhất là việc cho phép xuất cảng gỗ cho tới vài năm gần đây, cũng vô lý và đần độn như việc xuất khẩu kim loại phế thải trước đây với giá rẻ mạt, rồi bây giờ phải mua lại với giá đắt gấp mấy chục lần. Việt Nam chưa bao giờ dư gỗ cả. Chúng ta có gỗ để xuất khẩu chỉ vì chúng ta quá nghèo. Không cần nói tới miền Bắc và miền Trung, nơi cuộc sống nông thôn chỉ là một sự đày đọa và ở đó chẳng làm gì có chuyện sắm bàn ghế, giường gỗ, tủ gỗ. Tôi đã đi qua các tỉnh miền Tây Nam phần trù phú, ở đó hầu như tất cả các căn nhà đồng quê đều dựng lên bằng tre, và mỗi gia đình chỉ có một hai chiếc giường bằng gỗ ; bàn ghế hầu như không có. Khi mức sống đã tăng lên, và phải hy vọng là mức sống sẽ tăng lên, chúng ta sẽ phải nhập cảng một số lượng gỗ lớn.

Đất nước ta đã chật hẹp, đã không có tài nguyên thiên nhiên, còn bị phá hủy và trở thành cằn cỗi. Không còn rừng xanh và bặt tiếng chim !

Ngày xưa, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh tàn phá nước ta : "Tàn hại cả côn trùng thảo mộc" Quân Minh không phải là người Việt Nam và vì thế có thể không quí trọng thiên nhiên Việt Nam. Ngày nay chính người Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam.

Khi đất nước Việt Nam đã bị tàn phá đến nỗi không còn sinh sống được nữa thì cũng không còn gì để nói và làm nữa.

Tôi đã có dịp ghé thăm nước Tunisie. Quốc gia bé nhỏ này đang bị thiên nhiên tiêu diệt từ từ. Sa mạc ngày càng lấn lên từ miền Nam, nước Tunisie đã nhỏ lại càng nhỏ lại. Sự thiếu thốn thảo mộc đang làm thay đổi cả thời tiết. Mưa đổ ào xuống trong vòng 10 ngày mỗi năm, rồi sau đó là hạn hán. Những con sông trung bình chỉ có nước một hai ngày mỗi năm, những ngày còn lại chúng để trơ lòng sông nứt nẻ. Cả một cố gắng vĩ đại và tuyệt vọng được tung ra để trồng cây ngăn chặn sự gậm nhấm của sa mạc. Nhưng đó là một thiên tai. Ở Việt Nam tai họa do con người và do người Việt Nam. Tuy vậy Tunisie vẫn còn chim, mắt tôi đã nhìn thấy nhiều đàn chim.

Việt Nam không còn chim.

-------------------------

Chú thích cho lần tái bản (2004)

Một cách không ngờ, đoạn văn trên đây đã gây khá nhiều chú ý và bàn cãi. Một giáo sư đại học Hà Nội nhắn qua phê bình tác giả Tổ Quốc Ăn Năn là quá khích. Ông bảo đảm nhận định Việt Nam không còn chim là sai, bằng cớ là ngay tại làng ông, bên cạnh Hồ Tây, đã có một đôi chim đến làm tổ và ông đã quay phim. Nhiều người mới về thăm Việt Nam cũng thuật lại đã nhìn thấy chim, dù rất ít. Trong một bài viết gần đây về Tổ Quốc Ăn Năn, Nguyễn Vũ Bình báo tin mừng : cân bằng sinh thái đã phần nào được phục hồi, đã có những đàn chim năm, bảy con.

Bỏ qua sự kiện những nhận xét trên đây đã được một số người sử dụng để bài xích cuốn sách, tác giả phân vân giữa hai cảm nghĩ : một niềm vui và một sự lo âu. Vui vì môi trường đã khá hơn, nhưng lo âu vì ưu tư về môi trường của người Việt chúng ta còn ít quá. Chúng ta dễ tính quá. Không thể hài lòng với vài đàn chim năm, bảy con. Chúng ta cần vài trăm triệu chim trên đất nước.

Chúng ta cần chim lắm. Chim cần cho môi trường nhưng cũng cần cho con người. Tiếng chim làm cho cuộc đời vui, tâm hồn sạch ra và dịu lại. Cánh chim bay là hình ảnh thôi thúc của tự do, của sự vượt thoát. Chim khiến con người trở thành hiền hòa và cao thượng.

******************

Sơn xuyên chi cương vực ký thù

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 4

 

Nguyễn Trãi (1380-1442) mở đầu bài Bình Ngô Đại Cáo như sau :

     Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân,

     Điếu phạt vi sư mạc tiên khử bạo.

     Duy ngã Đại Việt chi quốc,

     Thực vi văn hiến chi bang,

     Sơn xuyên chi cương vực ký thù,

     Bắc Nam chi phong tục diệc dị.

Trong Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim cung cấp một bản dịch mà nhiều người nói là của cụ Bùi Kỷ : "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác".

Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn bất hủ, lời lẽ hùng tráng mà ý kiến cũng rất sâu sắc. Được sáng tác vào năm 1427 khi nước ta vừa giành lại được độc lập từ tay quân Minh, Bình Ngô Đại Cáo có giá trị của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó xác nhận văn tài xuất chúng và ý thức chính trị phi thường của Nguyễn Trãi, một trong những anh hùng kiệt xuất nhất trong suốt dòng lịch sử của nước ta.

Hầu hết mọi người Việt Nam đều chỉ biết đến Bình Ngô Đại Cáo qua bản dịch của Trần Trọng Kim (hay Bùi Kỷ ?). Bản dịch đó cũng là một tuyệt tác. Tuy nhiên, phù hợp với văn phong của thời các cụ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, nó chú trọng đến lời văn và âm hưởng nhiều hơn là ý, và dịch giả đã bỏ qua một chi tiết có tầm quan trọng rất lớn trong sự tồn tại của đất nước ta mà Nguyễn Trãi có thể đã muốn nêu ra. "Sơn xuyên chi cương vực ký thù" được dịch là "Sơn hà cương vực đã chia" thay vì "núi sông bờ cõi riêng biệt" hay "lãnh thổ có núi ngăn chia". Cụm từ "sơn xuyên", có nghĩa là núi sông nhưng cũng có thể có nghĩa là cách núi. Nguyễn Trãi có thể đã muốn nhấn mạnh sự kiện Việt Nam và Trung Quốc cách nhau một dãy núi. Câu mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo có thể dịch sát nghĩa hơn như sau :

"Chính trị chủ yếu mưu tìm hòa bình, chiến tranh chỉ là để khử trừ bạo ngược. Nước Việt Nam là một nước văn hiến, lãnh thổ ta và Trung Quốc có núi ngăn chia, phong tục Bắc Nam cũng khác nhau...".

Mặc dù Nguyễn Trãi chủ ý nói thế nào đi nữa thì "vách núi" cũng vẫn là một yếu tố rất quan trọng của nước ta. Chính nhờ núi mà nước ta còn đến ngày nay. Dọc theo biên giới Trung Quốc là cả một vùng núi non dày đặc, dày gần một trăm cây số. Dọc theo biên giới Lào là dãy Trường Sơn. Hai dãy núi này kết hợp với nhau làm một tường thành kiên cố che chở và cô lập các đồng bằng miền Bắc và miền Trung nước ta. Chính nhờ núi mà Trung Quốc đã không thể thôn tính và đồng hóa nước ta, và cũng nhờ núi mà nước Lào đã không bị Việt hóa.

Trước đây khi nước ta chưa thực sự hình thành, thế lực còn đơn sơ đến độ một đạo quân nhỏ cũng đủ để chinh phục, Trung Quốc đã đặt được sự thống trị lên quận Giao Chỉ, nhưng số người Tàu đủ mạo hiểm để vượt núi qua nước ta lập nghiệp đã rất giới hạn. Vì thế mà một ngàn năm Bắc thuộc đã không thể biến Việt Nam thành một vùng hoàn toàn hội nhập vào Trung Quốc. Khi người Việt Nam trở thành đông đảo với thời gian và giềng mối xã hội trở thành gắn bó, ta đã đuổi được quan cai trị người Tàu rồi bảo vệ được nền độc lập. Từ khi giành hẳn được độc lập, năm 939, ta chỉ bị rơi vào ách Bắc thuộc hai mươi năm, từ 1407 đến 1427, trong một bối cảnh suy đồi đặc biệt. Cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi cầm đầu đã rất vẻ vang, nhưng khách quan mà nói lực lượng Trung Quốc xa hậu cứ và khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Trung Quốc đã không chứng tỏ một quyết tâm đặc biệt nào để duy trì nền thống trị.

Các đạo quân xâm lăng phải vượt qua những đường mòn chật hẹp dài cả trăm cây số nên vận tải lương thực rất khó khăn, và làm mồi ngon cho các cuộc phục kích. Muốn xâm nhập nước ta, quân Trung Quốc thường phải đi đường biển đổ bộ xuống vùng Nghệ An, rất xa địa điểm xuất phát xét theo phương tiện di chuyển ngày xưa, hay cửa Bạch Đằng, tuy gần hơn nhưng vẫn còn phải đi một chặng đường hiểm trở để tiến về Hà Nội.

Nhờ thường xuyên đánh thắng quân xâm lăng phương Bắc, chúng ta hay tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc, mà ít khi chịu khiêm tốn để nhìn nhận rằng sự tồn tại của nước ta chỉ được bảo đùảm nhờ vách núi dày đặc và hiểm trở. Nhiều nhà lý luận nặng đầu óc dân tộc đã biện bạch rằng dân ta đứng vững được nhờ có một nếp sống riêng, một nền văn hóa dân tộc cao, một tinh thần dân tộc cao và một tinh thần chiến đấu đặc biệt kiên cường.

Những yếu tố đó đều đúng nhưng chỉ đúng một phần mà thôi. Ta đã phóng đại và huênh hoang quá đáng.

Thực ra tinh thần dân tộc của ta không lấy gì làm mạnh và khả năng chiến đấu của ta tuy khá nhưng không thể nói là phi thường.

Về văn hóa, ta đã bắt chước người Tàu một cách mê mải và vô điều kiện. Nếu văn hóa của ta vẫn còn khác văn hóa Tàu thì cũng chỉ vì ta bắt chước chưa xong mà thôi. Văn hóa ta khác văn hóa Trung Hoa không phải ở chỗ ta thực sự khác mà là ở chỗ ta chưa bằng. Sự khác biệt ở trình độ nhiều hơn là ở bản chất.

Sau này khi lệ thuộc người Pháp, chúng ta cũng đã mê mải chạy theo văn hóa Pháp. Nhiều người còn muốn quên hẳn gốc gác Việt Nam.

Những người "vong bản" này không hẳn là những người "phản quốc", ngay cả "phản quốc" hiểu theo nghĩa cộng sản. Năm 1980, tôi có dịp nghe một bài nói chuyện của ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của cuộc chiến tranh cam go chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông Đồng là người đã giữ chức vụ thủ tướng lâu nhất tại Việt Nam, trong gần 40 năm. Trong các lãnh tụ cộng sản, ông là người được các đảng viên kính trọng nhất sau ông Hồ Chí Minh. Ông được coi là lãnh tụ cộng sản kỳ cựu có văn hóa cao. Điều đặc biệt là ông Phạm Văn Đồng, mặc dầu đảm nhiệm chức vụ chính trị quan trọng đã tỏ ra đặc biệt ưu tư tới tiếng Việt. Ông viết một loạt bài dưới đề tựa "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt".

Và tôi đã nghe ông Đồng nói những gì ? Bài nói chuyện của ông có ít nhất 20% là tiếng Pháp. Ông chêm tiếng Pháp bất cứ lúc nào ông có thể chêm được. Có khi ông nói cả những câu hoàn toàn bằng tiếng Pháp mà hầu hết cử tọa không hiểu. Tôi hỏi một người bạn đảng viên khá cao cấp đã nhiều lần nghe ông Đồng thuyết trình, anh ta cho hay ông Đồng lúc nào cũng nói như vậy vì "ông ấy học giỏi và quen miệng nói tiếng Pháp". Thực ra bác sĩ Đặng Văn Hồ (mà tôi gọi bằng chú do một liên hệ gia đình gián tiếp), bạn học của ông Đồng, cho tôi hay ông Đồng chưa học hết trung học bản xứ và đã từng nói với bác sĩ Đặng Văn Hồ rằng : "Mày đậu tú tài thì học tiếp, tao không có tú tài thì đi làm cách mạng". Như thế vốn liếng tiếng Pháp của ông Đồng tuy có thực nhưng không nặng đến nỗi sau hơn một nửa thế kỷ đấu tranh chống Pháp ông vẫn còn phải chêm tiếng Pháp luôn miệng như vậy. Tôi học và sử dụng tiếng Pháp nhiều hơn hẳn ông Đồng, tôi cũng sinh sống tại đất Pháp lâu năm, nhưng không có nhu cầu phải pha thêm tiếng Pháp trong khi viết và nói tới mức độ như ông Đồng. Ông Đồng chêm tiếng Pháp vì ông thích tiếng Pháp, cho rằng nói "tiếng Tây" là sang. Và ông nghĩ như vậy, bởi vì những người chung quanh ông cũng nghĩ như vậy. Người Việt Nam rất vọng ngoại về mặt văn hóa.

Đã nói tới người cộng sản thì cũng phải nói đến người quốc gia. Ông Nguyễn Văn Thiệu tuy vốn liếng tiếng Pháp chẳng hơn gì ông Đồng là mấy nhưng cũng luôn miệng nói tiếng Pháp. Trong biên lai mà ông ký cho tướng Trần Văn Đôn để nhận một triệu đồng tiền thưởng của tình báo Mỹ sau cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, ông viết "Bon pour 1.000.000 piastres". Một biên lai giữa người Việt với nhau lại viết bằng tiếng Pháp. Như thế mới sang. Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và Bộ Kinh Tế, tôi đã được đọc nhiều hồ sơ. Hồ sơ nào hầu như cũng pha tiếng Pháp, có hồ sơ hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Đó là sau khi Pháp đã ra đi gần 20 năm !

Sức chiến đấu kiên cường của ta cũng cần xét lại. Quả thật ta đã có những chiến công hiển hách, nhưng cũng có những lúc mà sức chiến đấu của ta kể như không có. Bảy người lính Pháp đã có thể vào chiếm tỉnh Ninh Bình, bắt quan quân Việt Nam quì gối hạ khí giới. Vài trăm lính Pháp đã có thể hạ được Thăng Long, đánh tan nhiều ngàn quân Việt Nam, một lần bắt sống Nguyễn Tri Phương, một lần buộc Hoàng Diệu phải tuẫn tiết.

Hồ Quí Ly chuẩn bị một đạo quân đông đảo và hùng hậu để đương đầu với quân Minh. Nhưng chỉ một đạo quân nhỏ của Trương Phụ đã đánh tan được toàn bộ quân nhà Hồ và bắt sống Hồ Quí Ly trong một thời gian chớp nhoáng.

Vậy phải giải thích thế nào những chiến công của ta ? Quan sát kỹ ta thấy người Việt Nam có tâm lý sợ và phục tùng uy quyền. Khi có những cấp chỉ huy cứng cỏi, họ chiến đấu có hiệu lực. Nhưng không nên vội đồng hóa tâm lý sợ và phục tùng cấp trên với ý chí sẵn sàng chiến đấu và chấp nhận hy sinh vì đất nước. Trong một đoạn khác tôi sẽ trở lại vấn đề này.

Tôi nói văn hóa đặc thù của ta không có bao nhiêu, tinh thần dân tộc và khả năng chiến đấu của ta chỉ giới hạn hoàn toàn không phải nhằm mục tiêu hạ nhục dân tộc ta. Để làm gì ?

Tôi chỉ muốn lưu ý rằng khả năng tự vệ của dân tộc ta thực ra chỉ vừa phải, chúng ta đã tồn tại được chủ yếu là nhờ có núi làm biên giới thiên nhiên. Ngày nay, trong thế giới hiện đại này, núi không còn là mộc che thân của ta nữa và biển lại là cửa vào xâm nhập lý tưởng ; sự xâm nhập không còn bằng quân sự mà bằng văn hóa, kinh tế, thương mại, sách báo, phim ảnh, âm nhạc, radio, tivi, internet, quần áo, và cả thực phẩm, đồ chơi. Ta phải hết sức lo lắng để giữ nước vì bài toán giữ nước đã thay đổi hoàn toàn. Chúng ta không còn trông vào núi được nữa. Muốn giữ nước từ đây ta phải có khả năng tự vệ thực sự, tinh thần dân tộc thực sự, lòng yêu nước thực sự.

Làm thế nào để có những yếu tố đó phải là ưu tư của mọi người quan tâm tới đất nước.

 

********************


Nước non nghìn dặm

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 5

 

Người Việt Nam nào hình như cũng biết câu ca dao "Nước non nghìn dặm ra điê. Cụm từ nước non nghìn dặm cũng đã là đầu đề của nhiều tác phẩm, và được dùng trong vô số bài hát, bài thơ. Nó đã làm cho nhiều người nghĩ đất nước ta rộng rãi, bao la.

Sự thực thì chúng ta rất thiếu đất. Với 78 triệu người (năm 2000) trên một diện tích 330.000 km2, nghĩa là 237 người trên một kilômét vuông, chúng ta là một trong những nước có mật độ cao nhất, gần gấp đôi Trung Quốc (120 người / km2) và xấp xỉ bằng Ấn Độ (270 người / km2), hai nước được coi là có nạn nhân mãn trầm trọng.

Nhưng không phải chỉ có thế. Tình trạng thiếu đất thật ra còn trầm trọng hơn nhiều. Nếu núi đã giúp ta giữ nước, thì núi và đồi cũng đã chiếm mất của ta ba phần tư lãnh thổ. Tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ, đồi và núi chiếm hơn 80% lãnh thổ. Tỷ lệ đất đai canh tác được của ta không tới 25%. Nếu trừ đi thành phố, nhà cửa, đường sá, sông ngòi thì diện tích còn lại để trồng lúa tối đa của ta không quá 7 triệu héc-ta.

Nói đến thiếu đất người ta nghĩ ngay đến hạn chế sinh đẻ. Chính quyền hiện nay theo đuổi một chính sách hạn chế sinh đẻ vừa rời rạc vừa hung bạo.

Trong truyện ngắn nổi tiếng "Tướng về hưu", nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện một vị tướng cộng sản về hưu đã phải bỏ ra đi tìm lại đơn vị cũ của mình để rồi thiệt mạng vì không thể chịu đựng được cảnh cô con dâu, một bác sĩ sản khoa, đem những thai nhi đã bị phá về nhà làm thức ăn nuôi chó béc-giê kỹ nghệ.

Trong cuộc Hội Luận Dân Chủ Đa Nguyên tháng 10/1990, nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp, vừa từ Việt Nam sang sau một chuyến nghiên cứu dài ba tháng về đời sống nông thôn, đã lên diễn đàn mô tả lại cảnh mà ông đã nhìn thấy, cảnh ba bốn phụ nữ bị bắt buộc phá thai trong các trạm y tế : họ nằm trần truồng bên nhau, dạng cẳng cố trục xuất thai nhi ra, sau khi đã nhận thuốc phá thai. Vì thiếu phương tiện, việc phá thai được phối hợp giữa thuốc và các biện pháp tay chân. Đinh Trọng Hiếu vừa kể vừa khóc.

Đọc báo trong nước, người ta cũng vẫn thường gặp những bài nói về các cán bộ, đảng viên bị phê bình, hay có khi bị kỷ luật vì có tới ba con.

Nhưng mặc dầu vậy, dân số nước ta vẫn tiếp tục gia tăng xấp xỉ 2%, tức khoảng một triệu rưỡi người, mỗi năm. Các biện pháp hạn chế dân số dã man đã chỉ làm xuống cấp con người chứ không ngăn chặn được nạn nhân mãn. Có lẽ vì con người trở thành rẻ rúng mà chính quyền không còn quan tâm tới sức khỏe. Sách báo không thấy đăng (hay có đăng mà tôi không đọc được ?) tỷ lệ người chết hàng năm. Tôi tìm được một cuốn sách địa lý trung học [Địa lý lớp 9 - Nguyễn Trọng Điều, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1989] hai con số : tỷ lệ người chết là 6,3 phần ngàn năm 1979 và 6,95 phần ngàn năm 1986. Như thế có nghĩa là trong vòng 7 năm tỷ lệ người chết đã tăng lên 10%. Năm 1986 là năm bắt đầu chính sách mở cửa theo qui luật kinh tế thị trường. Từ đó hệ thống y tế của nước ta bị bỏ rơi và xuống cấp không ngừng. Hiện nay, năm 2000, y tế của ta có thể nói là đã sụp đổ hoàn toàn. Theo thống kê của nhà nước, số trẻ em chết trước khi được một tuổi đã tăng 10% trong năm 1998.

Hạn chế đà gia tăng dân số chắc chắn phải là ưu tư lớn của bất cứ một chính quyền Việt Nam nào. Nhưng trước hết phải nhìn vấn đề một cách đúng đắn, phải nhận định rằng vấn đề sinh đẻ nhiều trước hết là một vấn đề văn hóa, xã hội và nhân sinh quan chứ không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, và do đó không thể giải quyết bằng những quyết định hành chánh, duy ý chí.

Chính quyền cộng sản đã có một thái độ thiếu lương thiện trên vấn đề này. Trước năm 1975, đảng cộng sản hoàn toàn không đặt ra vấn đề hạn chế sinh đẻ. Lúc đi cải tạo sau ngày 30/4/1975, tôi còn được nghe một bài học tập lên án gay gắt "ngụy quyền Sài Gòn" là đã tiếp tay cho chính sách diệt chủng bằng cách hạn chế sinh đẻ. Chỉ sau Đại hội IV, năm 1976, vấn đề mới đặt ra. Và sau đó những dụng cụ và thuốc ngừa thai mới được khuyến khích, cùng với những quyết định hành chánh rất thô bạo.

Cũng cần phải phân biệt hai vấn đề hạn chế sinh đẻ và giải quyết tình trạng dân số cao. Có lẽ tất cả vấn đề là ở chỗ đó.

Nếu chỉ hạn chế sự gia tăng dân số mà thôi thì phải nói rằng đó là một cố gắng vô ích ngay cả nếu thực hiện được. Bởi vì ngay bây giờ với 78 triệu dân, chúng ta đã tuyệt vọng rồi nếu vẫn cứ là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ đất canh tác của ta hiện nay là 10 người một héc-ta. Với tỷ lệ này thì dù có tăng năng suất tối đa và dù có luôn luôn mưa thuận gió hòa, chúng ta vẫn sẽ là một nước nghèo khổ.

Vấn đề thực sự để giải quyết nạn đất hẹp người đông là phải thay đổi chức năng của đất nước từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Trong dài hạn, nông nghiệp của Việt Nam chỉ có thể đảm bảo đời sống xứng đáng cho khoảng 10 triệu người, trong khi chúng ta sắp có 100 triệu dân. Phần còn lại phải chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Cuộc chuyển hóa này sẽ phải được coi là cố gắng vĩ đại nhất từ ngày lập quốc và sẽ chỉ có thể giải quyết bằng một cố gắng liên tục trong nhiều thập niên. Ngay từ bây giờ những người làm chính sách phải luôn luôn có trong đầu viễn ảnh này.

Cho tới nay, chính quyền cộng sản luôn luôn có một chính sách cư trú mâu thuẫn. Đại hội IV của đảng cộng sản (năm 1976) chủ trương tiến lên "sản xuất công nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa" nhưng đồng thời đảng lại thi hành chính sách đuổi dân ra khỏi thành phố, đưa dân về nông thôn hay đi các vùng kinh tế mới. Cho đến ngay bây giờ chuyển hộ khẩu về miền quê vẫn là chuyện dễ dàng, ngược lại chuyển hộ khẩu từ nông thôn ra thành phố vẫn là chuyện đội đá vá trời.

Nông thôn Việt Nam từ lâu đã dư người rồi và càng ngày càng dư người hơn nữa. Thêm người ở nông thôn chỉ có tác dụng chuyển sự nghèo khổ từ thành thị về nông thôn, cho khuất mắt các vị lãnh đạo, chứ không giải quyết được gì cả. Không những không giải quyết được gì cả mà còn làm giảm năng suất nông nghiệp. Đông người quá thì không thể cơ giới hóa và còn phải hạ thấp mức cơ giới hóa để sử dụng lao động dư thừa, mà đã không cơ giới hóa thì năng suất dĩ nhiên là thấp. Năng suất trung bình của ngành trồng lúa chỉ là 3,5 tấn hàng năm cho một héc-ta trong khi ruộng đất Việt Nam có thể đạt năng suất 6 tấn.

********************


Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình

 

Tổ Quốc Ăn Năn 6

Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ chúng ta gặp một trở ngại lớn : khí hậu. Chúng ta là một nước nhiệt đới, gần như nóng quanh năm, nhất là ở miền Nam. Sự phá hủy cây rừng từ nhiều năm nay, và vẫn chưa chấm dứt hẳn dù rừng không còn bao nhiêu, lại càng cho khí hậu thêm phần gay gắt khó chịu.

Khí hậu nóng làm cho con người uể oải, thiếu quyết tâm và mất kiên nhẫn. Các nước phát triển mạnh thường không phải là những nước nhiệt đới. Singapore là một ngoại lệ, nhưng Singapore không phải là một quốc gia theo đúng nghĩa của nó, mà là một thành phố và một hải cảng. Vả lại, đó là một đảo, được biển bao quanh và nhờ vậy gió biển cũng làm dịu bớt khí hậu, như tại Mã Lai. Có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định phát triển là đặc tính của các nước hàn đới và ôn đới. Bắc Mỹ phát triển hơn hẳn Nam Mỹ, Bắc Âu vượt hẳn Nam Âu. Các nước châu Á phát triển mạnh cũng thế : Nhật, Triều Tiên, Hương Cảng, Đài Loan và có lẽ sau này Hoa Lục, cũng đều là những nước lạnh, hoặc ít ra không nóng.

Có những nhà nghiên cứu xã hội lớn, như Max Weber và Alain Peyrefitte, không tin như vậy và giải thích bằng lý do văn hóa. Bắc Mỹ và Bắc Âu, theo họ, phát triển được nhờ tư tưởng Tin Lành phóng khoáng, trong khi Nam Mỹ và Nam Âu không phát triển vì ảnh hưởng giáo điều thủ cựu của Công Giáo. Phân tích này có phần đúng, nhưng cũng có thể giải thích rằng tại vì miền Bắc Âu lạnh, mà con người có chiều sâu, phát triển óc phê phán và sáng tạo rồi chấp nhận Tin Lành.

Dầu sao thì khí hậu nóng cũng vẫn là một trở ngại lớn.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đồng ý các vùng bờ biển phát triển mạnh hơn các vùng lục địa. Biển là kho tàng hải sản vô tận, là sự nới rộng của bờ cõi, và, quan trọng hơn hết, là khả năng giao thông vận tải quan trọng và quí giá vô cùng.

Khi vừa mới tốt nghiệp kỹ sư, tôi làm việc cho hãng Pechiney, công ty đứng hàng thứ nhì thế giới và thứ nhất tại châu Âu vào đầu thập niên 1970 về kỹ nghệ nhôm. Pechiney nhập cảng quặng nhôm từ Úc và châu Phi. Nhà máy luyện nhôm nơi tôi làm việc nằm ở trung tâm nước Pháp, cách cảng Marseille chừng 400 km. Chi phí chuyên chở bằng đường biển từ Úc tới Marseille gần 20.000 km, nhẹ hơn chi phí chuyên chở 400 km đường sắt từ Marseille đến nhà máy.

Ưu thế bờ biển - lục địa quan trọng không kém ưu thế lạnh - nóng. Người ta có thể quan sát rằng từ hai mươi năm nay tại Trung Quốc, vùng duyên hải đã phát triển vượt hẳn vùng lục địa. Ưu thế của bờ biển càng rõ nét trong trường hợp Trung Quốc nếu người ta nhớ lại rằng trong thập niên 1950 Mao Trạch Đông đã cho thi hành kế hoạch "đệ tam tuyến", chuyển hết kỹ nghệ vào lục địa để phòng ngừa một cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ. Kế hoạch này đã biến Trùng Khánh thành thành phố đông dân nhất Trung Quốc, nó đã làm phá sản các vùng bờ biển.

Biển cũng làm cho khí hậu nóng bớt đi rất nhiều sự gay gắt. Nhờ biển và gió biển, khí hậu nước ta dễ chịu hơn nhiều so với khí hậu ở cùng vĩ độ tại Lào và Thái Lan. Trừ một vài tháng đặc biệt, ở vài nơi và trong vài năm khác thường, hàn thử biểu ít vượt quá 35º C. Nhiệt độ trung bình những tháng nóng nhất của nước ta chỉ là 28 hoặc 29º C, nghĩa là một nhiệt độ tuy không thoải mái nhưng vẫn còn chịu đựng được.

Chúng ta có rất nhiều bờ biển và biển của ta rất tốt. Bờ biển của ta dài 3.200 km, còn dài hơn cả chiều dài thực sự của nước ta. Cả nước ta là một dải bờ biển, điểm sâu nhất trong đất liền tại miền Bắc là 600 km, trung bình bề dày của đất nước ta là 150 km, tại Đồng Hới (Quảng Bình) bề dày này chỉ có 50 km.

Dọc theo bờ biển, chúng ta có khả năng thiết lập vô số hải cảng tốt. Hiện nay ta mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của khả năng này với các hải cảng : Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn. Tiềm năng hải cảng hứa hẹn một tương lai xán lạn cho kỹ nghệ đóng tàu, bảo trì và sửa chữa tàu và chuyên chở hàng hải. Những ngành này cho tới nay ta hoàn toàn không khai thác. Tuy có nhiều cảng thiên nhiên nước sâu, nhưng nói chung bờ biển nước ta lại rất soải và có cát mịn, do đó chúng ta có nhiều bãi biển thiên nhiên tuyệt vời. Đó là những tiềm năng du lịch nếu được khai thác sẽ đem lại một nguồn lợi rất lớn vì bờ biển của ta giữ nhiệt độ quanh năm trên 25º C. Chúng ta là cửa mở ra Thái Bình Dương của cả bán đảo Trung-Ấn. Người ta có thể làm việc và kiếm tiền ở Thái Lan, Lào, Vân Nam, nhưng người ta bắt buộc phải nghỉ ngơi và tiêu xài tại bờ biển Việt Nam. Kỹ nghệ du lịch của nước ta, nếu được phát triển đầy đủ, trong trung hạn có khả năng thu hút vài chục triệu du khách mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người trong ngành du lịch cũng như trong các ngành liên hệ.

Vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam có khả năng cung cấp hai triệu tấn cá mỗi năm. Bờ biển dài và thuận lợi của Việt Nam cho phép đánh bắt thêm dễ dàng một trọng lượng cá tương đương trên biển cả. Ngư nghiệp và công nghiệp thực phẩm do nguồn hải sản cho phép ta nuôi sống một số người tương đương với nông nghiệp.

Bờ biển miền Nam còn cho ta một tiềm năng nuôi tôm cá rất quan trọng mà ta hiện chỉ khai thác được một phần rất nhỏ.

Ngoài ra, vùng Đồng Tháp thuộc đồng bằng Nam Bộ, với nguồn nước và nguồn cùá to lớn của sông Mê Kông, còn là một tài nguyên lớn lao nuôi cá nước ngọt mà ta hầu như chưa khai thác.

Biển là tài sản quí báu nhất của non sông hoa gấm, có khả năng cao hơn nhiều so với nông nghiệp. Nhưng không phải ta chỉ có biển tốt mà ta còn có một vị trí vô cùng thuận lợi. Chúng ta là đường ra biển của Cam-bốt, Lào, Thái Lan và miền Tây-Nam Trung Quốc, chúng ta nằm sát các trục giao thông hàng hải quan trọng và ở ngay trung tâm của một vùng phát triển mạnh.

Chức năng hiển nhiên của ta do biển đem lại là chức năng của một nước du lịch, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nguồn lợi chính mà biển đem lại là nguồn lợi của giao thương với thế giới. Nhưng muốn phát huy chức năng đó, điều bắt buộc tự nhiên là ta phải hội nhập với thế giới, có một chế độ chấp nhận được cho cả thế giới. Nghĩa là dân chủ.

********************


Nước non nghìn dặm (II)

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 7

Cái cảm giác nước non nghìn dặm là có thực, và có ba lý do khiến cho người Việt, ngay cả khi có số liệu rõ ràng trong tay, vẫn có cảm giác đất nước xa xôi, bao la.

Lý do thứ nhất là vì nước ta dài thực, dài 2.500 km từ Bắc tới Nam, chiều dài đó khiến cho các miền của đất nước khác nhau về địa hình, địa chất, về khí hậu và cả về con người. Chúng ta chỉ có một điểm giống nhau lớn và cũng là một điều may : chúng ta nói cùng một ngôn ngữ thuần nhất. Toàn bộ 85% dân số được gọi là người Kinh sử dụng tiếng Việt, và càng ngày số người của 15% còn lại thuộc các sắc tộc ít người sử dụng được tiếng Việt càng thành đa số.

Ngay từ miền Thượng Du Bắc Việt xuống đồng bằng sông Hồng kế cận nhau mà con người và cách sinh sống đã rất khác biệt rồi. Vào đến miền Trung với những cánh đồng dài, hẹp và khô cằn, khí hậu và con người lại khác, ngay cả giọng nói nhiều khi cũng khó hiểu đối với người miền Bắc hay miền Nam. Giữa miền Trung và miền Cao Nguyên Trung Phần, mà hiện nay được gọi bằng danh xưng khó hiểu là Tây Nguyên, sự khác biệt trước đây còn lớn hơn cả giữa đồng bằng sông Hồng và miền Thượng Du Bắc Việt. Vào đất miền Nam mưa nắng hai mùa, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, thì cảnh trí lại càng khác, và con người cũng khác.

Lý do thứ hai là người Việt Nam ta, do truyền thống nông nghiệp, do chiến tranh và do chính sách kiểm soát cư trú và hạn chế đi lại của chính quyền, không hay di chuyển. Đối với một người ở Thái Bình, Huế và Sài Gòn cũng xa xôi như Paris. Sự thiếu di chuyển không những làm cho nhận thức hạn hẹp và lệ thuộc vào thành kiến, mà còn tạo ra một tâm lý từ chối tìm hiểu đất nước mình. Nước non nghìn dặm cũng là nước non rất xa xôi, không liên hệ gì đến tôi ngoại trừ việc các quan chức bắt tôi phải đóng thuế và bắt con tôi đi lính !

Lý do thứ ba là sự coi thường môn địa lý của trí thức Việt Nam. Trí thức Việt Nam chủ yếu học để thi lấy bằng chứ không phải lấy kiến thức nên chỉ chú trọng học những môn cần cho thi cử. Địa lý không phải là một trong những môn đó.

Ở trung học, không có môn học nào chán bằng môn địa lý. Thầy cũng dốt, học trò cũng dốt, sách lại dở. Trong các kỳ thi, môn địa lý chỉ có một hệ số không đáng kể. Những người điều khiển đất nước, bất luận chế độ nào, và ngay cả các chuyên viên về kế hoạch cũng chỉ có một sự hiểu biết rất đại khái và mơ hồ về địa lý của đất nước.

Không nói gì xa xôi, ngay tại Sài Gòn cũng rất ít người biết rằng vào mùa thu cả một miền Đồng Tháp biến thành một biển nước ngọt mênh mang, sâu tới sáu mét, tàu biển cỡ trung bình chạy dễ dàng. Cũng rất ít người Sài Gòn biết rằng nông thôn miền Tây Nam Phần có một quan hệ nam nữ tự do vào bậc nhất thế giới. Ở đây rất ít đàn ông nào chỉ có một vợ - con số trung bình là ba - và cũng khó kiếm ra một người đàn bà nào chỉ có một đời chồng. Người ta hỏi nhau một cách tự nhiên : "Xin lỗi thím Tư, thím Tư là vợ cưới hay vợ dắt". Cưới hay dắt không quan trọng lắm. Con trai tới tuổi thanh niên gặp bạn gái vừa ý có thể dắt về nhà ở chung với cha mẹ. Sau một thời gian, nếu không hạp, bà mẹ chồng có thể dắt cô con dâu về trả lại cho cha mẹ. Trai gái làm quen nhau dễ dàng, luyến ái dễ dàng và chia tay nhau cũng rất dễ dàng.

Trong khi ở mọi nước phát triển môn địa lý được coi là tối quan trọng thì tại Việt Nam nó lại bị coi thường quá đáng. Sự thiếu hiểu biết về địa lý đất nước cũng là một trở ngại lớn cho những nhận thức. Chính vì không hiểu địa lý nước ta mà cho tới nay nhiều người vẫn tự hào rằng ta đã giữ được nước vì ta oai hùng chứ không phải vì nhờ lãnh thổ có núi ngăn chia. Chính vì thiếu kiến thức địa lý mà cho tới nay, trong những đề nghị về phát triển kinh tế, người ta chỉ thấy những chính sách chung cho cả một nước, như thể là tỉnh Hòa Bình có thể phát triển theo cùng một mô thức với Minh Hải. Tôi còn được đọc một đề nghị phát triển cho cả nước và cho suốt thế kỷ 21 !

Có thể kiến thức địa lý có trong đầu óc những người làm kế hoạch và những chuyên viên nhưng nó chưa hiện diện đủ mạnh để ảnh hưởng đến cách suy nghĩ.

Xin nêu hai thí dụ.

Nếu có phản xạ của nhà địa lý thì không thể có một đồng thuận kỳ quặc là cả nhà cầm quyền lẫn các chuyên gia mỗi khi có dịp đều bày tỏ quan điểm lo âu về một hiểm họa "rời bỏ nông thôn" [exode rural] của dân chúng. Thế rồi các chuyên gia lên tiếng báo động, và nhà cầm quyền khuyến khích hay bắt buộc dân chúng di dân về miền quê. Đó là vì chúng ta nhắc lại những gì đã được các chuyên gia viết ra cho các nước châu Mỹ La Tinh hay Pháp và một số nước tương tự, nơi mà nhiều khu đất mầu mỡ phì nhiêu bị nông dân rời bỏ. Không làm gì có một mối nguy như thế tại nước ta. Trái lại chúng ta cần một exode rural. Hiện nay hơn sáu mươi triệu người Việt Nam sống nhờ nông nghiệp trong khi ruộng đất của chúng ta chỉ đủ cho từ năm tới mười triệu người. Ta cũng không còn rừng để phá. Rừng của ta đã bị phá quá nhiều rồi, và vong hồn rừng đang báo oán chúng ta : lũ lụt đã trở thành thông lệ hàng năm tại miền Trung, kế tiếp là hạn hán vì không còn rừng để giữ nước nữa. Nông thôn của ta quá dư người, mà đông người quá thì không thể dùng những phương pháp canh tác hiện đại được và năng suất sẽ thấp mãi mãi. Chức năng của chúng ta là chức năng của một nước ngư nghiệp, hàng hải, công nghiệp và dịch vụ. Cần tổ chức cho nông dân rời nông thôn. Đi đâu và làm gì là một vấn đề khác sẽ được bàn tới trong một phần sau. Nhưng ngay từ bây giờ không nên ngăn cản người dân rời nông thôn. Trong giả thuyết xấu nhất ta cũng có thể nói như thế này : hiện nay với sáu mươi triệu người ở nông thôn chúng ta không đủ gạo ăn (ta có xuất cảng gạo nhưng bù lại một tỷ lệ quan trọng dân chúng lại thiếu đói), nếu chỉ có năm triệu người tại nông thôn thôi ta sẽ có năng suất cao, sản xuất dư gạo cho một trăm triệu người và còn có thể dư thừa để xuất khẩu.

Một thí dụ thứ hai về sự thiếu ý thức địa lý có thể tìm thấy trong nhĩều dự đoán dài hạn. Mọi người hình như đều lo âu về sự nghèo khó tại miền Trung. Đó là một lo âu chính đáng, nhưng là một vấn đề tương đối ngắn hạn. Trong cuộc chuyển hóa bắt buộc từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ, với hai ngành phụ là nông nghiệp và ngư nghiệp, bản đồ kinh tế của ta sẽ dần dần thay đổi, và trong vài thập niên nữa sẽ thay đổi hẳn (với điều kiện là nước ta vẫn còn tồn tại, một điều không hoàn toàn chắc chắn, trái với sự yên tâm chắc nịch của đại đa số người Việt !). Các tỉnh miền Trung nhờ bờ biển sẽ là những vùng phát triển mạnh nhất, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng và miền Tây Nam Phần, nghĩa là những vùng nông nghiệp còn lại, sẽ tụt hậu vì giới hạn tự nhiên của nghề nông và vì tình trạng đất hẹp người đông.

********************


Mưu sự tại nhân...

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 8

Độc giả đọc tới đây có thể rút ra một kết luận tương đối bi quan. Chúng ta đất hẹp, người đông, thiên nhiên bị tàn phá, lại đang rất nghèo nàn lạc hậu. Lợi thế của chúng ta là biển và vị trí thì lại hầu như hoàn toàn chưa được khai thác và dân ta còn phải học hỏi nhiều mới có thể sử dụng được. Như thế có lẽ tương lai của ta mờ mịt lắm. Tôi xin cảnh giác trước độc giả về hai điều mâu thuẫn với nhau. Điều thứ nhất là độc giả sẽ còn phải chờ đợi ở những phần sau nhiều yếu tố tiêu cực hơn nữa, việc kiểm kê những điểm yếu của nước ta mới chỉ bắt đầu mà thôi. Điều thứ hai là, ngược lại, tất cả những nhược điểm vừa kể về địa lý thiên nhiên thực ra không quan trọng lắm và không đáng khiến ta phải quá bi quan, nhất là địa lý của chúng ta cũng không đến nỗi quá bất lợi.

Xin dẫn chứng một câu chuyện có thực mà tôi đã sống.

Trại học tập cải tạo của chúng tôi ngoài các sĩ quan công chức của chế độ cũ ra còn có cả một số thường phạm. Điều đó chứng tỏ là chúng tôi là tù chứ chẳng phải là "cải tạo viên" gì cả. Số tù thường phạm gồm đủ loại : móc túi, đánh bài, buôn lậu, ăn trộm, ăn cướp và một số cán bộ cộng sản bị phạt tù vì những lý do ngoài chính trị, thí dụ như một anh dược sĩ bán thuốc nhà nước cho chợ trời, một anh đại đội trưởng bắn chết người.

Trong số những thường phạm có Nguyễn Văn Khánh, một thành phần bất hảo rất nguy hiểm bị giam chung với tôi. Khánh là cháu ngoại Sáu Cường, võ sĩ khét tiếng miền Nam hồi thập niên 1930 đã từng thi đấu nhiều lần và chưa hề thua ai bao giờ. Mẹ Khánh cũng là một cao thủ võ lâm với cuộc sống rất phóng đãng. Khánh nói với tôi : "Ông thầy biết không, mẹ tôi đã qua tất cả mọi binh chủng". Ý Khánh muốn nói mẹ nó đã chung chạ với rất nhiều người, trong đó có những quân nhân thuộc mọi binh chủng của quân đội miền Nam. Khánh cũng như các anh em của nó đều mang họ mẹ vì không biết cha là ai. Khánh vạm vỡ, khỏe mạnh và lúc nào cũng sẵn sàng ẩu đả, lại sẵn có máu con nhà võ nên chẳng sợ ai cả. Lúc đó Khánh mới 20 tuổi mà thành tích đã ghê gớm, không biết bao nhiêu lần vào tù ra khám dưới chế độ cũ, và chỉ sáu tháng dưới chế độ cộng sản Khánh đã là bộ mặt rất quen thuộc đối với công an tỉnh Cà Mau. Tất cả là những tội trạng giống nhau : trộm cướp, đánh lộn, đưa dẫn và làm tiền gái bán dâm. Khánh không biết đọc, không biết viết, không biết gì cả, lại rất lười biếng và chỉ có một trí thông minh dưới mức trung bình. Khánh bị bắt trong một đợt càn quét tệ đoan xã hội và bị đưa đi cải tạo vô hạn định. Vì là thành phần bất hảo gan lì, Khánh bị quyện cả hai chân. Lúc vào tù, Khánh chỉ có một bộ quần áo, và dĩ nhiên không có người thăm nuôi. Mẹ Khánh không biết đã lưu lạc nơi nào, các anh em Khánh hoặc đang sống lang thang vô gia cư, hoặc cũng đang ở tù với một tội trạng tương tự như Khánh. Nói chung, Khánh đang ở trong một hiện tại bi đát, không có một tương lai nào và cũng không có ai ưa Khánh để có thể dìu dắt, giúp đỡ. Trong một đêm giao thừa Khánh nói với tôi : "Cuộc đời tôi tàn rồi !".

Đêm hôm đó, từ chiếc radio của người công an gác đêm vọng ra lời chúc Tết của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Cả nước biết ông Tôn Đức Thắng đã xấp xỉ chín mươi tuổi và đã yếu lắm. Tôi hỏi Khánh :

- Mày nói đời mày tàn rồi, thế nếu đổi cuộc đời mày lấy cuộc đời của chủ tịch Tôn Đức Thắng mày có chịu không ?

Khánh giẫy nẩy lên :

- Đâu được ! Ông nói giỡn sao, ông ấy sắp chết đến nơi rồi.

Cả hai chúng tôi đều phá ra cười.

Thì ra, cũng như hầu hết mọi người, Khánh quá chú tâm đến những thành công và danh vọng để quên rằng thực ra điều quí giá nhất trong một đời người là sức khỏe và tuổi trẻ. Còn sức khỏe và còn trẻ là còn hy vọng. Đối với một đất nước, điều quan trọng nhất là con người, còn con người là còn tất cả dù tình trạng hiện tại ra sao. Bởi vì con người có thể làm ra tất cả.

Nước Pháp không xa Hòa Lan. Tôi có nhiều người bạn ở đó, và có cả một nghĩa tử. Năm nào tôi cũng qua Hòa Lan nhiều lần. Đường đi lại dễ dàng, chỉ cần vài giờ lái xe. Từ cửa nhà tôi tới cửa nhà Đặng Minh Kỷ, phối trí viên của nhóm Thông Luận Hòa Lan, chỉ có 500 cây số.

Nước Hòa Lan chỉ rộng bằng một phần mười diện tích của Việt Nam, với một dân số 15 triệu. Hòa Lan có mật độ dân số cao vào bậc nhất thế giới, gần gấp hai lần Việt Nam, gấp bốn lần nước Pháp. Ngoài một mỏ khí đốt ở miền Bắc, tại Groningen, Hòa Lan không có một tài nguyên nào đáng kể cả. Đất của Hòa Lan thấp hơn mức nước biển nên ngập lụt là một đe dọa thường trực. Tên của nước Hòa Lan là Nederland, có nghĩa là "đất thấp". Đất hẹp và bất lợi, người đông, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, nhưng Hòa Lan là một thiên đàng hạ giới, do chính con người tạo ra. Người Hòa Lan thường tự hào : "Thượng Đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này". Hoàn toàn đúng.

Dù nhỏ bé về cả đất đai lẫn dân số, nhưng Hòa Lan là một cường quốc kinh tế. Vào lúc tôi viết những dòng này, tổng sản lượng quốc gia của Hòa Lan trên 300 tỷ USD, gần 15 lần tổng sản lượng của Việt Nam với 78 triệu dân, gấp rưỡi tổng sản lượng gộp lại của tất cả lục địa châu Phi với trên 600 triệu dân.

Hòa Lan có mặt một cách tích cực trên mọi thị trường thế giới. Trên thềm thế kỷ 21, ngoại thương của Hòa Lan cao hơn hẳn ngoại thương của Trung Quốc ngay cả sau hơn hai thập niên theo đuổi chủ trương "giàu có là vinh quang", gấp năm lần ngoại thương của Ấn Độ và lúc nào cũng xuất siêu. Các công ty lớn của Hòa Lan như Philips, Royal Dutch, Unilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển. Nông phẩm của Hòa Lan, nhất là sữa và thịt, tràn ngập các thị trường châu Âu.

Đất nước Hòa Lan đẹp đẽ với những xa lộ tuyệt vời chạy qua những cánh đồng xanh tốt, với những đàn bò béo mập và những cây xanh rất thẩm mỹ. Hòa Lan chưa phải trải qua một cuộc cách mạng nào, nhưng Hòa Lan là một nước dân chủ và tự do nhất thế giới. Không ở đâu con người được quí trọng như ở Hòa Lan và có lẽ cũng không ở đâu cái thú làm dân lại có thể lớn hơn ở Hòa Lan.

Tôi ưa sang Hòa Lan vì những người bạn quí ở đó, nhưng cũng vì tôi ngưỡng mộ vô cùng đất nước và con người Hòa Lan. Người Hòa Lan đã làm cho tôi hiểu một cách âm thầm và chắc chắn rằng mưu sự tại nhân mà thành sự cũng tại nhân. Tôi cám ơn sâu xa và thành thực Hòa Lan đã cho tôi hy vọng và niềm tin, nhờ đó mặc dầu những khó khăn và trở ngại ngày hôm nay tôi không bao giờ mất niềm tin rằng vẫn còn có thể có một nước Việt Nam tương lai xứng đáng để những người Việt hôm nay đầu tư cố gắng và để cho các thế hệ ngày mai có thể yêu mến và tự hào.

********************

 

Một dân tộc tinh anh ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 9

Trong cuốn sách "Việt Nam Sử Lược" quen thuộc với mọi người, Trần Trọng Kim viết về người Việt Nam như sau :

"Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức : lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn".

Trần Trọng Kim, xuất thân là một giáo viên, được gởi đi học và tốt nghiệp Trường Thuộc Địa [Ecole Coloniale] tại Pháp. Trường Thuộc Địa Pháp vào đầu thế kỷ này là một trường có trình độ trung học, có mục đích khai mở nền văn minh Pháp nói riêng và phương Tây nói chung cho những trí thức Việt Nam đầu tiên để họ về nước phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Năm 1911, ông Hồ Chí Minh, lúc đó làm bồi tàu và mới tới Pháp, cũng có làm đơn với lời lẽ thống thiết viện cớ có cha đậu tiến sĩ Hán học để xin vào trường này, nhưng bị từ chối.

Tuy vốn liếng khoa bảng không có bao nhiêu (nhưng vào thời đó trình độ của Trường Thuộc Địa cũng đã là cao lắm rồi), nhưng ông Trần Trọng Kim đã dày công học hỏi và nhờ trí tuệ xuất sắc ông trở thành một học giả lớn. Ngoài kiến thức uyên bác, Trần Trọng Kim còn là một người liêm khiết, lương thiện. Ông có uy tín rất lớn trong thời đại của ông. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, trả độc lập trên nguyên tắc cho Việt Nam, ông Trần Trọng Kim, lúc đó đã về hưu, được vua Bảo Đại mời ra làm thủ tướng theo ý của người Nhật. Sự kiện ông được chỉ định làm thủ tướng là một ngạc nhiên cho rất nhiều người. Phần đông giới theo dõi thời cuộc lúc đó chờ đợi ông Ngô Đình Diệm, một cựu thượng thư, có uy tín, có tham vọng chính trị và nhất là đã giao dịch với Nhật từ lâu. Ông Diệm đã tham gia từ 1941 tổ chức Việt Nam Phục Quốc Hội của hoàng thân Cường Để do Nhật đỡ đầu. Người ngạc nhiên nhất chính là ông Ngô Đình Diệm. Thực ra ngay từ khi đổ bộ vào Việt Nam, Nhật cũng đã có ý định dùng Trần Trọng Kim như một lá bài thay thế cho Ngô Đình Diệm, có lẽ vì họ nghĩ Ngô Đình Diệm là một chính khách sắc bén hơn và có thể đòi hỏi họ nhiều hơn là Trần Trọng Kim. Tuy vậy ông Trần Trọng Kim cũng đã dần dần đòi hỏi được nơi người Nhật tất cả những nhượng bộ cần thiết. Nếu người Nhật coi Trần Trọng Kim là người không đáng lo ngại thì người Pháp sau này lại lo ngại Trần Trọng Kim và làm áp lực để Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng năm 1948 thay vì Trần Trọng Kim. Sau đó Trần Trọng Kim qua Phnom Penh sống với người con gái, ông mất vài năm sau đó, khi vừa trở về Việt Nam.

Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đời chính trị của ông trong thiên hồi ký ngắn "Một cơn gió bụi". Có lẽ những ai có ý định viết hồi ký đều nên đọc cuốn sách nhỏ này trước đã. Đó thực sự là một cuốn hồi ký. Nó được viết một cách thực thà, lương thiện, rành mạch, điều ít thấy trong các cuốn hồi ký khác. Hồi ký là một loại sách đặc biệt. Nó có tác dụng chính, và có thể nói là duy nhất, là ghi chép các sự kiện để làm chứng cho một giai đoạn. Đòi hỏi duy nhất của nó là phải trung thực, phải có giá trị của một tài liệu. Người Việt Nam, nhất là các tướng tá quân đội miền Nam cũ, hay dùng hồi ký để bóp méo sự thật, tán dương hay chạy tội cho mình, bôi nhọ người khác. Những hồi ký như vậy không thể dùng làm tài liệu.

Trần Trọng Kim được mọi người kính trọng, người ta kính trọng kiến thức của ông và người ta còn kính trọng hơn nơi ông nhân cách của một trí thức chân chính. Nếu không phải Trần Trọng Kim mà một người khác viết ra những dòng trên, thì chắc chắn sẽ bị cả một loạt bài đả kích và mạt sát thậm tệ vì đã dám coi thường người Việt. Nhưng vì là do Trần Trọng Kim viết ra nên không ai cãi lại, và hầu hết nhìn nhận là đúng. Tôi cũng có đọc trong nhiều cuốn sách cũ của các học giả Pháp một nhận định tương tự như vậy về người Việt, không biết có một sự tham khảo nào không. Điều chắc chắn là Trần Trọng Kim chỉ viết những điều ông tin là đúng.

Nói chung, Trần Trọng Kim nhận định người Việt Nam có cấu tạo cơ thể tốt, có trí óc tương đối tốt, siêng năng, hiếu học, biết trọng đạo đức, nhưng tâm lý thì rất dở. Ông không nói người Việt Nam nói chung có yêu nước hay không, đó cũng là một điều lạ trong cuốn sách sử.

Tôi đã đề cập phần trước tới nước Hòa Lan như là một kỳ quan của thế giới. Quan sát kỹ người Hòa Lan, thành thực tôi không thấy họ thông minh hơn người Việt, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Họ cũng không chăm chỉ hơn người Việt Nam, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Vậy mà họ đã tạo nên được quốc gia đáng phục nhất thế giới. Tôi làm việc với người Pháp và cũng đi tới một nhận định tương tự. Riêng người Anh thì phải nói tuy họ có nét độc đáo riêng, nhưng trí tuệ của họ cũng chỉ xấp xỉ như người Hòa Lan và người Pháp, ngoài ra họ lười biếng hơn hẳn người Việt Nam.

Vậy mà tại sao các quốc gia đó giàu mạnh đến thế, trong khi nước ta nghèo nàn lạc hậu và tang tóc đến thế ?

Khi một máy vi tính hoạt động dở thì chỉ có hai giải thích : một là cái hardware [phần vật liệu hay phần cứng] của nó dở, hai là cái software [phần trí liệu hay phần mềm] của nó dở. Chất liệu, nghĩa là cấu tạo cơ thể và trí óc, của người Việt Nam tốt. Vậy thì phải chăng cái software, nghĩa là cái văn hóa và tâm lý, của người Việt Nam tồi dở ? Tôi tin như thế. Một người bạn tôi sau hơn một thập niên làm cố vấn cho các chính phủ châu Phi đã chỉ rút ra được một kết luận rõ nét : các nước đó không vươn lên được vì trở ngại văn hóa và tâm lý.

Đọc những bài đóng góp gần đây của các tác giả Việt Nam về vấn đề phát triển đất nước, phần đông có giá trị, nhiều bài rất xuất sắc, tôi ít thấy đề cập đến yếu tố tâm lý (hay văn hóa cũng thế vì tâm lý và văn hóa rất gần nhau), trong khi đó tất cả các nhà bác học có thẩm quyền ở tầm vóc thế giới về vấn đề phát triển đều coi yếu tố tâm lý là yếu tố cốt lõi. Nhiều tác giả còn gọi phát triển là một cấu trúc tâm lý [structure mentale].

Tâm lý của một dân tộc, nhiều người thích dùng cụm từ hồn tính dân tộc, một phần do điều kiện thiên nhiên tạo thành, nhưng một phần lớn là do các giá trị đã được nhìn nhận từ lâu đời và đã tạo ra một nếp sống. Các giá trị ấy hình thành có khi do sự khám phá trong cuộc sống của dân tộc, có khi được du nhập và hấp thụ, được kiểm chứng và xét lại theo kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử vì thế đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tâm lý dân tộc. Lịch sử là trí nhớ tập thể của dân tộc, một nguồn tài liệu và gợi ý. Lịch sử cũng là tấm gương để một dân tộc nhận diện được mình, hiểu mình, biết mình nên làm gì và có thể làm gì. Muốn như thế, lịch sử phải chính xác và cũng phải được phân tích và khai thác một cách sáng suốt và khách quan.

Nhưng một mặt lịch sử của ta không chính xác, và, mặt khác, chúng ta rút ra từ lịch sử những kết luận và những bài học sai lầm.

******************

 

Một dân tộc hiếu học ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 10

Người Việt Nam rất hiếu học. Tính hiếu học của người Việt là có thực. Điều này mọi người đều đồng ý và chính tôi cũng có thể kiểm chứng trong những môi trường mà tôi đã sống và những người mà tôi đã biết, ngay cả trong gia đình tôi.

Tại trung học Trần Lục, nơi tôi theo học từ đệ thất (lớp 6 bây giờ) tới đệ Tứ (lớp 9), các học sinh phần lớn là di cư từ ngoài Bắc vào, chính trường Trần Lục cũng là một trường di chuyển từ Phát Diệm vào. Trường do các linh mục Phát Diệm thành lập và mang tên linh mục Trần Lục, còn gọi là cha Sáu, một tu sĩ có đức hạnh và rất tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông Trần Lục có làm một tập thơ, mà tôi không nhớ tên, giáo huấn về đạo đức. Ông cũng xây dựng một nhà thờ lớn theo kiến trúc cổ truyền Việt Nam được coi là rất thành công về nghệ thuật. Nhìn trên ảnh, nhà thờ này giống như một ngôi chùa. Tôi vào học trường Trần Lục vì một lý do tình cờ. Anh em tôi sau tiểu học định thi vào trường Chu Văn An, trường mà mẹ tôi vẫn ca tụng là hay và mơ ước chúng tôi sẽ học tại đấy. Nhưng năm đó, bà có ý định mua một căn nhà trong một ngõ hẻm gần Tân Định nên chúng tôi thi vào Trần Lục để đi học cho gần. Về sau tuy việc mua nhà này không thành chúng tôi vẫn tiếp tục học ở đó.

Lúc đó là những năm 1955-1956, các học sinh trừ một hai ngoại lệ, đều rất nghèo, gia đình họ vốn đã không giàu có lại mất hết của cải trong đợt di cư nên càng nghèo. Đã thế, trường Trần Lục lại là một thứ trường tầm gửi, một thứ trường không có trường, phải học nhờ trường tiểu học Đồ Chiểu. Giải pháp tìm ra là học buổi trưa. Trường tiểu học Đồ Chiểu học sớm đi một chút buổi sáng và trễ một chút buổi chiều. Trường Đồ Chiểu tan học buổi sáng, vào lúc 10g30, trường Trần Lục học từ 10g30 đến 14g30, rồi trường Đồ Chiểu lấy lại trường sau đó. Học buổi trưa là cả một cực hình dưới trời nóng gay gắt. Cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi, học sinh phần lớn đều không có tiền mua sách, có khi còn thiếu cả tiền mua vở và bút. Một cây bút chì, một quyển vở đều quí báu cả. Hầu hết các gia đình chúng tôi đều ở trong những căn nhà lụp xụp, nhiều nhà không có điện, tối phải thắp sáng bằng đèn dầu, vừa học vừa đập muỗi. Những buổi tập thể dục mặc quần xà lỏn để lộ đùi ra thì thấy đứa nào cũng đầy dấu muỗi chích. Vậy mà cả trường đều học hành chăm chỉ và đều giỏi cả.

Trong khu tôi ở cũng có nhiều học sinh, họ không sáng dạ lắm nhưng học chăm chỉ một cách kỳ lạ, họ học tới khuya, nhiều người uống thuốc Maxiton cho đỡ buồn ngủ. Tờ mờ sáng họ đã thức dậy, học to tiếng để chống buồn ngủ, tiếng họ học đánh thức anh em tôi dậy. Có những anh đã bắt đầu luyện thi tú tài khi tôi mới lên trung học, đến khi tôi đậu xong tú tài họ vẫn rớt dài dài, nhưng vẫn tiếp tục học. Có chí thì nên, khi tôi ở Pháp về, sau 12 năm vắng mặt, phần lớn đều đã tốt nghiệp đại học làm giáo sư, luật sư, dược sĩ. Điều không may cho họ là trong thời gian 12 năm ấy xã hội miền Nam đã đổi mới, những nghề trí óc không còn vinh hiển nữa và họ không sung túc bao nhiêu sau những cố gắng thật phi thường. Người khá nhất trong bọn họ là một anh thi mãi không đậu tú tài đi làm bánh mì, sau trở thành chủ. Những lần đi ăn nhậu với nhau anh ta đều trả tiền.

Tôi học xong đệ tứ thì bỏ trường Trần Lục đi làm ban ngày, buổi tối theo học lớp Khuyến Học Bổ Túc của Hội Bình Dân Giáo Dục và lại gặp một loại người khác. Họ là công chức, quân nhân, muốn lấy thêm một mảnh bằng để thăng tiến, là những người đã đi làm, và phần lớn đã có gia đình, muốn có thêm học vấn, hay những học sinh nghèo ban ngày phải đi làm kiếm tiền. Ở hàng đầu là các cô phần lớn đã đi làm, có người đã có chồng con. Trong một lớp bên cạnh có ông Cao Văn Viên, sau này là đại tướng tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ học say mê, miệt mài mặc dầu học rất khó khăn.

Lớp học của tôi sau này có nhiều người khá thành công. Trương Văn Vân sau học khoa học rồi tình nguyện đi sĩ quan Đà Lạt, làm tiểu đoàn phó binh chủng Dù, vợ Vân là Thúy, do tôi giới thiệu, làm dược sư, con một thương gia giàu có, học trò cũ của tôi lúc tôi đi dạy kèm để kiếm tiền. Vân đi học tập cải tạo 12 năm sau ngày 30/4/1975. Vân và Thúy hiện định cư ở Seattle, Hoa Kỳ. Nguyễn Thiện Tường sau làm luật sư. Tường thi rớt tú tài 1, tôi phải dành cả mùa hè năm đó để kèm Tường. Chúng tôi hẹn nhau ở mái hiên sau của Thư Viện Quốc Gia, bên cạnh trường Petrus Ký và Chu Văn An, nơi có một số bàn ghế vứt bỏ. Tôi đem theo tiểu thuyết để đọc, Tường ngồi học bên cạnh, có gì bí thì hỏi tôi. Anh của Tường là Nguyễn Thiệu Hùng cũng là một gương hiếu học. Anh đậu tú tài trước chúng tôi và đi dạy trung học vừa học văn khoa. Không những thế, anh còn làm thơ và làm thơ hay. Tập thơ "Bốn Mươi Bài Thơ" của Hùng (bút hiệu Mai Trung Tĩnh) làm chung với Lê Đức Vượng (bút hiệu Vương Đức Lệ) được giải nhất Thơ Văn Toàn Quốc năm 1960. Nguyễn Thiệu Hùng và Lê Đức Vượng gần đây tham gia nhóm Diễn Đàn Tự Do với Đoàn Viết Hoạt và bị bắt. Tháng 7-1993, Hùng bị kết án bốn năm tù, Vượng bị năm năm. Ra trước tòa, Vượng chỉ xin chính quyền trả lại cho anh tập thơ hai mươi ngàn bài mà anh đã sáng tác trong gần hai mươi năm qua, nhưng chính quyền trả lời là tập thơ đã thất lạc.

Trịnh Văn Thi sau này tốt nghiệp cử nhân luật, làm thiếu tá cảnh sát, không biết bây giờ ở đâu. Đinh Văn Hoạt cũng tốt nghiệp cử nhân khoa học, vừa làm giáo sư vừa dạy võ Việt Nam.

Một hôm đi ăn tiệm ở Paris, ông chủ nhận ra tôi, rồi tự giới thiệu là Nguyễn Văn Ngọ, học lớp bên cạnh, cùng với ông Cao Văn Viên. Ông ta sau này cũng đậu cử nhân luật, làm tham vụ ngoại giao và ở nước ngoài nên thoát nạn ngày 30/4/1975. Chính ông Viên, sau khi đậu tú tài và làm tướng vẫn tiếp tục học và đậu cử nhân văn chương.

Mỗi lần hồi tưởng lại thời gian ấy, tôi vẫn cảm thấy một sự cảm phục xâu xa và một niềm hãnh diện vô cùng về tính hiếu học của người Việt. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt quầng thâm của chị bạn ngồi bàn trên tôi. Có lẽ chị đã thức đêm nhiều lắm để học.

Tôi vẫn tin tính hiếu học là hy vọng lớn nhất của dân tộc ta để vươn lên.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Nguyễn Gia Kiểng
Read 1901 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)