Những hành tác triệt diệt của các người
Hành tác triệt diệt là bạo sách của bạo quyền độc đảng triệt hủy đi nhân tính Việt được chế tác ra từ nhân tâm Việt, nhân từ Việt, nhân tính Việt ; là tà sách của tà quyền độc đảng triệt xóa đi nhân bản Việt đã được chế tác ra từ nhân lý Việt, nhân tri Việt, nhân trí Việt ; là ma sách của ma quyền độc đảng với ma tri triệt hạ nhân phẩm Việt đã được hình thành từ nhân vị Việt, nhân đạo Việt, nhân nghĩa Việt.
Những hành tác triệt diệt của các người là phần V của Triệt luận đào sâu hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để vừa đi tìm văn minh của dân chủ, và văn hiến của nhân quyền qua các đính chế tiến bộ của nhân loại hiện này. Từ đó, trở về lại thảm họa của Việt tộc hiện nay đang bị độc đảng toàn trị giam cầm nhân kiếp của mình. Nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam độc tài nhưng bất tài, vì những lãnh đạo vô học tạo nên những chính sách vô hậu cho cả một giống nòi Việt, ngày ngày bị lao lý hóa trong công an trị, tham nhũng trị, tham tiền trị…
Thức luận : văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền
Triệt luận đào sâu hệ thức để vừa đi tìm văn minh của dân chủ, và văn hiến của nhân quyền qua các đính chế tiến bộ của nhân loại hiện này.
Định đề của hệ thức, trên đó ta nhận ra những định luận : Kiến thức có từ kinh nghiệm hoặc từ học tập, có từ ngoại cảnh hay có từ tư duy biết lý luận, có từ tập luyện tới tinh luyện, có từ môi trường tới sự xuất hiện của tha nhân… Tri thức, là sự hiểu biết từ dữ kiện tới chứng từ, từ kinh nghiệm học tập tới trải nghiệm với xã hội như khả năng biết xếp đặt theo thứ tự để tổ chức một trật tự cho kiến thức, mà từ xếp đặt tới xếp loại, tri thức còn là khả năng trật tự hóa những ưu tiên trước các thử thách của cuộc sống…
Trí thức, không phải là một giai tầng xã hội của những kẻ có bằng cấp cao, có hiểu biết rộng, mà là sung lực của tri thức biết nhận ra sự thật bằng khách quan của khoa học, thấu được nỗi khổ niềm đau của nhân sinh bằng đạo đức trọng sự thực, quý chân lý để thăng hoa lẽ phải. Ý thức, mang lực tổng hợp của kiến thức lại có lực tổng kết của tri thức, lại có sự hiện diện của đạo lý biết nhận ra hay, đẹp, tốt, lành, lại được luân lý của bổn phận và trước nhiệm giúp nhận ra lẽ phải trước khi quyết định và hành động.
Nhận thức, là quá trình đưa kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức vào quỹ đạo của đạo lý, luân lý, đạo đức để luôn có tỉnh táo mà nhận ra sự thật, luôn có sáng suốt mà nhận ra lẽ phải, tự đó có một nhân sinh quan, một thế giới quan, một vũ trụ quan biết tôn trọng sự thật và lẽ phải. Tỉnh thức, là khả năng nhận ra những sai lầm của tha nhân, mà cũng là kỹ năng nhận ra những lầm đường lạc lối của chính mình, để phải vận dụng lại kiến thức, tri thức, trí thức, để tận dụng trọn vẹn hơn ý thức, nhận thức để khỏi bị rơi vào lỗi, tội bị kết án bởi đạo lý, luật pháp đại diện cho lẽ phải và sự thật.
Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích và giải thích sự ra đời : hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) ; hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp) ; hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa). Qua điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu với các phương pháp của khoa học xã hội và nhân văn, tiểu luận này phân tích để phân định, giải thích để giải luận là tất cả các hệ trên đã, đang, sẽ bị truy, diệt, khử, trừ bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là cha sinh mẹ đẻ của : hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) ; hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).
Điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu với các phương pháp của khoa học xã hội và nhân văn, chỉ là một công đoạn của phân tích và giải thích các hiện tượng, các dữ kiện, các chứng từ… Công đoạn tiếp theo chính là mức độ của học thuật mà cũng là trình độ của hệ thức, cụ thể là vận dụng rồi tận dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để được đi sâu vào các hệ lụy mà cũng là hệ luận để nhận ra :
Lý luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu để ra đường đi nẻo về của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là cha sinh mẹ đẻ của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) ; hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).
Lập luận trên hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) ; hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp) ; hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa) để thấy lối của Việt tộc qua các phạm trù của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) trong không gian của đa nguyên có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền.
Giải luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu để nhận ra những thảm họa trên nhân kiếp của Việt tộc, tới từ bạo quyền độc đảng liên minh với tà quyền để tham quyền ; với ma quyền để lạm quyền, với quỷ quyền để lộng quyền. Đào càng sâu phân tích để được xới thật rộng giải thích : bạo quyền độc đảng sẽ thay hình đổi xác để thành cực quyền, một loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng khử trừ mọi đối trọng, đối kháng khác với nó. Bạo quyền độc đảng sẽ thay thân đổi dạng để thành cuồng quyền, loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng truy diệt mọi đối thoại, đối luận khác với nó.
Diễn luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu trong học thuật về Việt Nam hiện nay về vấn đề quyền lực thì không thể bỏ qua các chỉ báo về : tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền cực quyền, cuồng quyền. Thảm kịch trên số phận của Việt tộc sẽ là bi nạn của giống nòi Việt, của các thế hệ mai hậu khi Việt tộc đã để bị tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, cực quyền, cuồng quyền, cướp đi hệ nhân của mình, nơi mà nhân tính, nhân lý bị mất nhân tri, nhân trí, bị lạc nhân bản, nhân văn, bị xa nhân nghĩa, nhân đạo, bị xóa nhân tâm, nhân từ, tựu trung là bị tước đi nhân quyền !
Vô luận : lãnh đạo vô học, chính sách vô hậu
Phát triển tuyên truyền trị, củng cố công an trị để thực hiện sâu đậm quyết sách ngu dân trị.
Vô học-vô hậu từ vốn vô học tới tuyên truyền trị, ngu dân trị và vô học trị là một hệ thống độc đảng để toàn trị mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt từ khi nó cướp được chính quyền cho tới nay là độc quyền trong toàn trị lên xã hội, lên dân tộc mang cấu trúc của vô học-vô hậu. Tuyên truyền ngu dân bằng đổi trắng thay đen, che giấu sự thực để trưng bày ngược lại cái phản sự thật ; thi hành một chế độ công an trị mà tuyên truyền là chế độ của dân, do dân, vì dân.
Nếu nó là một hệ thống tuyên truyền trị để cai trị thì ta phải gọi nó là tuyên truyền trị. Tuyên truyền ngu dân bằng ăn không nói có, che giấu một bản chất của một chế độ độc đảng để độc quyền trong đặc quyền, đặc ân, đặc lợi của tầng lớp lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, rất thiểu số, bọn này ăn trên ngồi trốc, cỡi đầu cỡi cổ cả một dân tộc khoảng 100 triệu người, mà ngày ngày ra rả chúng là đầy tớ của nhân dân. Nếu nó là một hệ thống vận dụng ngu dân để quản trị thì ta phải gọi nó là ngu dân trị. Tuyên truyền ngu dân bằng cướp ngày là quan, để tổ chức cướp đất của dân bằng cách đưa vào hiến pháp đã bị Đảng cộng sản Việt Nam "hiếp định" bằng điều : "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý", để cướp đất của dân, biến dân lành một sớm một chiều thành dân oan. Nếu nó là một hệ thống độc đảng trong vô hiến, vô pháp, vô công với bản chất vô tri, vô thức, vô minh thì ta phải gọi nó là vô học trị.
Khi bạo quyền lãnh đạo, chia chát cùng tà quyền tham quan, cả hai có liên minh với ma quyền tham đất, vì tất cả bọn chúng đều tham tiền, thì hệ lụy của tuyên truyền không còn là chuyện ăn gian nói dối, mà là chuyện tổ chức để cướp của hại người, theo nghĩa sâu xa nhất mà thí dụ cụ thể là bứng dân lành ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để một sớm một chiều thành dân oan, phải màn trời chiếu đất, phải đầu đường xó chợ. Tuyên truyền ngu dân như quá trình độc quyền sinh sát của một độc đảng đứng và đạp trên tất cả số phận của một dân tộc, tận dụng tuyên truyền ngu dân như một quá trình giáo dục ngu dân.
Đây là quá trình độc quyền hóa từ quyền lực tới quyền lợi của một độc đảng, vừa độc tôn vừa độc trị để truy diệt từ khả năng phát triển kinh tế tới tiềm năng làm chủ tri thức nhân bản để có cuộc sống văn minh. Độc đảng này luôn tìm mọi cách hủy diệt đa nguyên của đa đảng biết tận dụng đa trí, đa tài, đa lực, đa năng, đa hiệu… Độc đảng toàn trị mang ma trận của tư lợi hóa qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của một giai tầng thống trị, chỉ là một thiểu số gần 5 triệu đảng viên là thành phần nòng cốt tự lãnh đạo tới cán bộ để bòn rút tài nguyên đất nước, tiền của đồng bào, tiền tài của một dân tộc khoảng 100 triệu dân.
Từ ý đồ độc quyền làm nên con tính độc lợi chế tác ra quá trình tư lợi, tiểu luận đề nghị giải luận quá trình này vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả tới từ một quá trình chưa bao giờ được phân giải tới nơi tới chốn, đó là quá trình vô học-vô hậu. Vốn vô học của một tập đoàn lãnh đạo từ ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930, tới ngày cướp được chính quyền 1945, qua giai đoạn 1954 sử dụng chuyên chính vô sản với bản chất của chuyên chính vô học, bất chấp thảm họa nội chiến của hàng triệu triệu sinh linh trong huynh đệ tương tàn, cho tới ngày cướp trọn được chính quyền trên cả nước 1975. Chiến thắng tới từ vốn vô học của loài cố đấm ăn xôi, thuộc loại vua thua thằng liều, được sự hỗ trợ của hai cường quốc chuyên chính vô sản là Liên Xô và Trung Quốc, có cùng bản chất chuyên chính vô học-vô hậu của loại trộm, cắp, cướp, giật bằng con tính bất nhân mạnh được yếu thua, với con toán thất đức sự thật chỉ mặt qua nòng súng, kiểu Mao Trạch Đông.
Vô học hóa cả một dân tộc dựa trên vốn vô học của lãnh đạo từ tuyên truyền ngu dân tới tới giáo dục ngu dân ; vô học hóa từ định chế làm nên luật pháp tới cơ chế trong sự vận hành của một xã hội. Nơi mà quần chúng liêm chính, dân chúng liêm khiết, nhân sĩ liêm minh hoàn toàn không có chỗ đứng ghế ngồi, nơi mà hiền tài là nguyên khí của quốc gia đã bị đào tận gốc bới tận rễ, để nhường chỗ cho hằng số vô học-vô hậu : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, hằng số này có chủ thầu là vô minh, có đầu nậu là vô tri, có đầu cơ là vô trí để truy, hủy, diệt, triệt trí tuệ. Đây chính là bi kịch của đất nước hiện nay, là thảm kịch của Việt tộc, đã và đang bị trùm phủ bởi hằng số vô học-vô hậu, từ gần một thế kỷ (1930-2020).
Phân tích rõ vai trò và chức năng của trí tuệ ; chính là hiện thân của có học-có hậu khi trí tuệ được trợ lực bởi lý trí biết giải thích để nhận ra sự thật ; vì trí tuệ được trợ duyên bởi tuệ giác biết giải luận để nhận ra lẽ phải. Câu chuyện có học-có hậu chính là con đường sống của Việt tộc, đây là chân trời của tất cả thế hệ tương lai. Câu chuyện của vô luận, đề nghị một quá trình phân giải để thấy-cho-thấu hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô học được toan tính bởi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị). Nó mang khuyết tật của vốn vô học, lấy bất nhân thất đức của ăn tươi nuốt sống mà nuốt trọn cái ăn hiền ở lành biết làm nên cái ăn ở có hậu trong giáo lý Việt.
Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô hậu đã và đang ngăn chặn con đường phát triển kinh tế vì một xã hội tiến bộ, biết thăng hoa một dân tộc trong một đời sống văn minh, đã bị hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của tập đoàn lãnh đạo độc đảng toàn trị, mà bản chất là một tập đoàn tội phạm đã bứng đi cội đạo lý Việt ăn ở có nhân mười phần không khó ; đã bị bứt đi rễ giáo lý Việt đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn. Nhập đề để nhập nội, cụ thể là nhập trí của lý trí có nhân bản, là nhập tri có nhân văn, để thấy cho thấu hằng số vô học-vô hậu mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc chỉ là một hằng số : tạm thời ! và hằng số này chấm dứt sớm hay muộn là tùy vào trí thức của Việt tộc biết hay không biết vận dụng văn minh của dân chủ, biết tận dụng đa nguyên làm nên đa trí, đa tài, đa lực, đa dũng, đa năng, đa hiệu, vì văn hiến của nhân quyền để biết tự bảo vệ nhân vị lẫn nhân phẩm của mình.
Nên câu chuyện cốt lõi vẫn là có-học-để-có-hậu, câu chuyện này hoàn toàn không hề là câu chuyện về bằng cấp, nơi mà học vị lẫn học hàm hiện nay đều bị giả hóa ở những mức độ khác nhau trong hệ thống giáo dục của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) có anh em sinh đôi với hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Hệ thống giáo dục này đã và đang bị quá trình mua bằng bán cấp, giả hóa rồi tha hóa về mọi mặt, từ giáo lý, giáo luận, giáo dục tới giáo khoa, giáo trình, giáo án. Mua bằng bán cấp trong giáo dục để mua chức bán quyền ngoài xã hội từ gốc tới ngọn, cái giả đã thay thế cái thật với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.
Nên câu chuyện gốc rễ vẫn là có-học-để-có-hậu, không hề câu chuyện về bằng cấp có thể bị giả, nơi mà học vị có thể bị gian, học hàm có thể bị dối, ngược lại có-học-để-có-hậu là câu chuyện : học thật của ăn ở có nhân mười phần không khó, học lực của đường mòn nhân nghĩa chằng mòn, học thuật của sống lâu mới biết lòng người có nhân. Nhập đề để nhập nội, với rào trước đón sau lấy chữ nhân làm gốc, rồi rào dậu tát ao lấy chữ học (học thật bằng học lực để hiểu học thuật) làm chủ lực để đối kháng, để kình chống, để phản kháng, để chống đối từ hậu quả tới hệ quả với tất cả hệ lụy tới từ vô học-vô hậu !
Như vậy, độc giả đừng đọc và đừng hiểu vô học-vô hậu là không có bằng cấp, trống học vị, rỗng học hàm ; mà vô học-vô hậu đây là : vô nhân làm nên vô tri, vô tri làm nên vô trí, vô trí làm nên vô giác, vô giác làm nên vô cảm, vô cảm làm nên vô tâm, mà tất cả có cùng cha sinh mẹ đẻ là : bất nhân thất đức. Nếu muốn tránh hiểu lầm mô thức vô học-vô hậu của tiểu luận vô luận này, thì độc giả hãy đọc bằng nhân tri của nhân trí, bằng nhân lý của nhân tính, bằng nhân bản của nhân văn, bằng nhân tâm của nhân từ, bằng nhân vị của nhân quyền, và chúng ta cùng nhau bảo vệ nhân phẩm của chính mình trước bạo quyền của ngu dân trị, tà quyền của tuyên truyền trị, ma quyền của vô học trị. Lập luận phản biện chống vô học-vô hậu có các phương pháp cụ thể để lội ngược dòng mọi ý đồ của tuyên truyền ngu dân do độc đảng toàn trị dùng tuyên huấn qua tuyên giáo, đã và đang gây ra nhiều hậu quả với bao hệ lụy trùm phủ lên nhân kiếp Việt tộc, lên số kiếp của nhiều thế hệ mai sau :
* Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan của mắt thấy tai nghe, từ thượng nguồn của các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra cho tới hiện tượng học trực diện trước các hậu quả, các hệ lụy mà Việt tộc đang phải gánh chịu hiện nay. Mà Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo tức là nó chính là chủ mưu trong quá trình vô học hóa toàn xã hội, nó cũng là đầu nậu một ý thức hệ dựa vào tuyên truyền trị, nó là đầu cơ bằng ngụy tạo qua các chính sách lấy ngu dân trị vừa làm phương tiện, vừa là cứu cánh. Hậu quả giờ đây đã rõ, từ một quê hương gấm vóc giờ đã thành một đất nước cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm từ nguồn nước tới không khí loại hàng đầu trên thế giới ; từ một dân tộc thông minh bây giờ đã thành lao nô cho các nước láng giềng, cho Tàu tặc không những cướp đất, biển, đảo, mà còn thao túng kinh tế Việt, giăng bẫy thương mại Việt và đang bóc lột nhân công Việt ngay trên đất Việt…
* Lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí, đề nghị sử dụng lý thuyết để phê bình lý thuyết, vận dụng chủ thuyết để phê bình chủ thuyết, tận dụng luận thuyết để phê bình luận thuyết, ở đây không có chỗ đứng ghế ngồi cho hệ độc (độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn, độc đảng) kiểu cả vú lấp miệng em. Không gian của lý thuyết luận này có gốc, rễ, cội, nguồn của hệ đa của đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu làm nên từ đa thức, đa tri, đa trí ; có chỗ dựa là đa nguyên. Chính đây mới là không gian của phương trình sự thật-chân lý : so ra mới biết ngắn dài. Nơi mà phản diện của hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) chính là hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) có trí lực của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), có luận lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo).
* Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức, biết phân tích để giải thích các hậu quả, hậu nạn tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu. Cấu trúc của khoa học luận này tuân thủ bốn công đoạn của khoa học xã hội thực nghiệm qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã thực địa, nơi mà dữ kiện mang theo chứng từ, chứng tích, chứng nhân để lập lại sự thật, để dựng lại chân lý : Khoa học thuật sử tính, là công đoạn một, có quá trình sử luận, nơi mà các sự cố là sự kiện mà người nghiên cứu định vị được không gian và thời gian. Nếu định vị được địa điểm và thời điểm của sử kiện thì sẽ định vị được kết quả, hậu quả, hiệu quả của sự kiện đã là sự cố hay đã là biến cố tác động lên sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội, tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu.
Có khoa học thuật bối cảnh là công đoạn hai, để phân tích thực cảnh của một xã hội nơi mà sự cố đã thành biến cố, để phân loại các hoàn cảnh, tại đây hoạt cảnh xã hội bị đóng khung bởi các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu ; từ đó phân giải toàn cảnh các chính sách của tuyên truyền trị, ngu dân trị mang thực chất vô học trị. Các chính sách tuyên truyền ngu dân của độc đảng toàn trị được "chống lưng" bởi một hệ thống công an trị, và "sân sau" của các chính sách này chính là tham nhũng trị ; được bảo kê kiểu "ô dù" giữa các bè, đám, nhóm, phái… với mưu hèn kế bẩn, mà tất cả đều bị chi phối bởi tham tiền trị.
Có khoa học so sánh, là công đoạn ba, nơi mà mọi dữ kiện trong cùng một bối cảnh, mọi chứng từ trong cùng một hoàn cảnh, mọi cá nhân trong cùng một hoạt cảnh, đều có thể so sánh được, ở cấp độ khác nhau từ địa phương tới trung ương, ở mức độ khác nhau từ quốc gia tới quốc tế, ở cường độ khác nhau từ kiến thức tới ý thức, ở trình độ khác nhau từ tri thức tới nhận thức… Cụ thể là đưa ra ánh sáng các chính sách tuyên truyền ngu dân gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, rồi vận dụng so sánh để đo đạc cường độ, mật độ, mức độ của các chính sách tuyên truyền ngu dân này, để hiểu bản chất của nó qua chính trình độ của nó.
Có khoa học tổng quan, là công đoạn bốn, với đồ hình được phân định và phân giải vừa hợp lý, vừa chỉnh lý của khoa học sử tính, khoa học bối cảnh, khoa học so sánh, để có nhận định tổng thể , từ đây hình thành sự phân loại các thành phần bằng các khuynh hướng chung, các hành vi đa số, các hành tác thiểu số, các hành động đơn lẻ của bè, đám, đảng, nhóm, phái, qua quan hệ giữa quyền lực và quyền lợi, trong không gian của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu.
Khi phân tích, phân định, phân loại, phân giải các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây ra hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, ngay trong hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) thì khoa học luận sẽ sử dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để thấy-cho-thấu từ nội dung tới nội hàm của hệ quả (kết quả, hệ quả, hậu quả) mà không quên nhân quả của câu chuyện vô học về tri thức làm ra vô hậu không tương lai. Tại đây, hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) vừa là phương pháp luận nòng cốt, vừa là khoa học cốt lõi, để xây dựng lý thuyết luận chủ đạo, từ đó cho ra đời các tri thức luận sau đây :
* Tri thức luận lịch sử, những kiến thức căn bản của thế kỷ XVIII làm nên ít nhất năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền trong đó hai định luận về công bằng và công lý là những hằng số không chỉ có phương Tây, cụ thể là Tây Âu và Bắc Mỹ được thụ hưởng mà các hằng số này đã trở thành sở hữu của nhân loại, nếu nhân loại đó muốn nhân sinh sống bằng tiến bộ, muốn nhân thế sống trong văn minh. Hậu quả của vốn vô học trong não bộ lãnh đạo đã tạo ra quá trình vô học hóa ngay trong chính sách tuyên truyền ngu dân áp đặt lên hệ thống giáo dục quốc gia từ đó tạo ra bao thế hệ học sinh và sinh viên : vô kiến thức tiến bộ, vô tri thức văn minh. Rồi sau đó các học sinh và sinh viên này khi trưởng thành không hiểu được chức năng của tri thức để có được vai trò của các công dân biết đóng góp vào tiến bộ xã hội, vào văn minh của dân tộc.
* Tri thức luận giáo dục, từ khám phá tới ứng dụng vào đời sống, vào xã hội, vào định chế và vào cơ chế, thì các tiến bộ tạo nên đời sống văn minh tới từ năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền biết bảo vệ và bảo đảm về công bằng và công lý, thì các tiến bộ và văn minh này phải được đưa vào hệ thống giáo dục. Một hệ thống giáo dục quốc gia, có giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh tuổi thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Nếu hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay tại Việt Nam không giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh mà chỉ mượn hệ thống giáo dục để áp đặt tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, thì sẽ không tránh khỏi hậu quả của vô học, sẽ không tránh được hệ quả và hệ lụy của vô hậu (vì vô tri thức nên vô tương lai).
* Tri thức luận chính sách, của một chế độ độc đảng toàn trị vận dụng tuyên truyền trị, để độc đảng được độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn mà đi ngược lại văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì tuyên truyền trị là anh em sinh đôi với ngu dân trị. Mà hậu quả ngu dân trị trước hết là tự tha hóa dân tộc của mình, kế đó là tự nô lệ hóa cho ngoại bang, và cuối cùng là tự đồng hóa từ trí thức tới giống nòi, cụ thể là trao thân gởi phận cho ngoại bang. Nghịch lý của mọi chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tới từ tập đoàn lãnh đạo chính là các tác giả của độc đảng, các tác nhân của toàn trị, thì chính các chính sách này tự vô học hóa từ não trạng tới não bộ của họ. Nhưng thảm họa thì thật lớn cho một dân tộc, cho một giống nòi, vì các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tiêu diệt các nguyên khí quốc gia, hủy triệt các hiền tài của dân tộc.
*Tri thức luận trình độ, xác chứng mọi chính sách ngu dân luôn đi ngược lại với các chính sách vì dân, cụ thể là vì khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền, công bằng, công lý là những quốc sách vì dân. Nhưng bản chất của các chính sách đều có cốt lõi của vần đề : trình độ ! Có những chế độ độc tài nhưng được điểu khiển và điều hành bởi các minh vương, minh quân, mình chủ, minh chúa ; cũng như có các chế độ lạm dụng hình thức dân chủ của tam quyền phân lập nhưng bị tham nhũng thối nát hóa ngay từ bên trong. Các loại dân chủ hình thức để mạo danh tam quyền phân lập này đã để bất tài diệt thực tài, thì tiến bộ không tới với dân tộc, mà văn minh cũng không có mặt trong xã hội.
Câu chuyện trình độ là câu chuyện cốt lõi để có nhận thức là trong toàn cầu hóa thông tin và truyền thông hiện nay thì quá trình khám phá khoa học, khai phá nhân quyền, khai thác sức mạnh của dân chủ đã là quá trình trực tuyến. Có tin tức tức khắc, có thông tin tức thì, có chứng từ, chứng tích, chứng nhân để chứng minh sự thật tức thời, đó là chân lý có mặt ngay bây giờ và ở đây. Nên tuyên truyền trị để ngu dân trị hoàn toàn bị phản tác dụng, vì sẽ bị vô hiệu hóa bởi tin tức tức khắc, thông tin tức thì, sự thật tức thời trong bối cảnh toàn cầu hóa truyền thông hiện nay. Vì vậy, tuyên truyền trị là bản lai diện mục của vô minh và vô tri ; và ngu dân trị là dị tướng làm nên dị dạng của vô giác và vô cảm ; tất cả làm nên vô tâm và vô trí của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay do Đảng cộng sản Việt Nam điều hành và điều khiển.
* Tri thức luận xã hội, kiến thức của cá nhân có từ giáo dục gia đình, rồi giáo dục học đường, và sau đó là giáo dục xã hội, nơi mà sinh hoạt xã hội được trao cho các lãnh đạo có tri thức biết thừa nhận các công ích xã hội được đặt trên tự lợi cá nhân của mình. Từ tri thức tới ý thức, các lãnh đạo sẽ lần lượt nhận ra trong các quan hệ xã hội thì an sinh xã hội quan trọng hơn tính toán ích kỷ cá nhân trong quá trình sống chung để chung sống với tập thể, với cộng đồng. Chung là chia vì chia để chung, đây là căn bản để có đời sống xã hội, tại đây ý thức đã trở thành nhận thức bằng đạo lý xã hội, lấy công bằng làm cơ sở cho tổ chức xã hội, trong đó cá nhân là công dân có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào. Chính công dân này chủ động để trở thành chủ thể biết vận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để đưa văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền song hành cùng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục… vào xã hội.
* Tri thức luận định chế, một chế độ toàn trị dựa trên độc đảng bám độc quyền để độc trị bằng độc tôn qua tuyên truyền trị song hành cùng công an trị để tạo dựng một định chế với hệ thống giáo dục của ngu dân trị, tạo ra một hệ thống xã hội thất nhân bất đức vì thất tri bất thức. Định chế này bất chấp hậu quả và hậu nạn của vô học trong tri thức, vô hậu trong nhận thức, vì ý đồ đã thành mưu toan quyết định mọi chính sách của độc đảng toàn trị là : phát triển tuyên truyền trị, củng cố công an trị để thực hiện sâu đậm quyết sách ngu dân trị. Đây là một tà lộ trong ma nghiệp (đi dễ khó về, vì dễ chết khó sống) trước nhân loại văn minh, trước nhân sinh tiến bộ của thế giới hiện nay. Chỉ vì vốn vô học của lãnh đạo chính trị vừa là gốc, rễ, cội, nguồn của tuyên truyền trị, vừa là móng, nền, tường, mái của ngu dân trị để vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Nên sinh lộ của Việt tộc là minh lộ của văn minh dân chủ, là nhân lộ của văn hiến nhân quyền, cả hai biết bảo đảm tự do, biết bảo vệ công bằng, biết bảo hành công lý. Vì đây là nhân đạo của nhân tri, nhân trí xây nên nhân bản và nhân văn để giữ nhân vị và nhân tâm mà phục vụ cho nhân phẩm.
* Tri thức luận lãnh đạo, là xới tới nơi trong phân tích để soi tới chốn trong giải thích về hệ vô thức (vô kiến thức, vô tri thức, vô trí thức, vô ý thức, vô nhận thức, vô tâm thức) có từ vốn vô học chính là điểm khởi hành của một tập đoàn lãnh đạo mang ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng phương án vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Với ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng cách ngăn chặn một hệ thống giáo dục quốc gia dựa vào khai sáng nhân tri, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Ngược lại giáo trình của trung học phổ thông này hoàn toàn không được hiện diện trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang được điều khiển và điều hành bởi ngu dân trị có dây mơ rễ má tới từ vô học trị của các lãnh tụ và các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể là lực lượng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa dân tộc, giống nòi, xã hội, đất nước vào ma lộ của vô minh, khi họ đã chặn ngay thượng nguồn mọi ánh sáng tới từ khám phá về văn hiến nhân quyền, tới từ khai phá về văn minh dân chủ.
* Tri thức luận tiến bộ, thấy để thấu vì phải thấy để tin là cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền, công bằng, công lý thực sự là những tiến bộ, không thể chối cải được, nên không thể không thừa nhận bởi mọi chính quyền, chính phủ có chính danh, vì có chính nghĩa do dân và vì dân. Mọi bạo quyền công an trị, mọi tà quyền tuyên truyền trị, mọi ma quyền ngu dân trị đều là bọn âm binh mang quỷ nghiệp trong điếm tri khi chúng đi ngược lại nhân lộ trong ánh sáng của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền. Bọn âm binh này mới chính là bọn phản động, theo đúng ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của từ phản động được định nghĩa và định luận là : những cá nhân, bè nhóm, đảng phái, tập đoàn lãnh đạo đi ngược lại văn minh dân chủ ; đi trái chiều với tiến bộ khoa học biết bảo vệ nhân sinh ; đi nghịch hướng với văn minh nhân tri biết bảo vệ nhân quyền, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại.
* Tri thức luận văn minh, khi tiến bộ song hành cùng văn minh là khi khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật tạo ra phát triển sản xuất để tạo thăng tiến kinh tế. Thì cùng lúc các tiến bộ và văn minh này đã phát huy dân chủ và nhân quyền ; những tiến bộ và văn minh cũng là những công cuộc đấu tranh để bảo vệ công bằng chống bất bình đẳng, để bảo đảm công lý chống bất công. Mà bất bình đẳng và bất công tới từ các chính quyền mà thực chất là bạo quyền sử dụng tà quyền để tham quyền ; là ma quyền vận dụng lạm quyền để lộng quyền ; là điếm quyền tận dụng cực quyền để cuồng quyền. Loại chính quyền âm binh này ngày đêm rình rập dân chúng bằng công an trị, ra rả qua nhồi sọ bằng tuyên truyền trị, rà rỉ qua tẩy não bằng ngu dân trị, luồn lách bằng vô học trị qua mua bằng bán cấp (học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả), để mua chức bán quyền (cao học gian, tiến sĩ giấy, học vị lừa, học hàm lận).
* Tri thức luận dân chủ, nơi đây tiến bộ và văn minh đã rõ nét trên nhiều lãnh vực, có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để bảo vệ hệ thống giáo dục quốc gia, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ của lý trí, có giáo khoa, giáo án dựa trên sự khai hóa của trí tuệ. Có hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm) biết bảo trị nhân vị, biết bảo đảm nhân quyền, và nhân phẩm luôn được bảo vệ bởi hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công luật). Chính dân chủ với tự do đầu phiếu trong tự do ứng cử và bầu cử là nơi mà nguyên khí của quốc gia là các hiền tài của dân tộc được nhập nội vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên để đa đảng được hiện diện từ chính quyền tới chính phủ. Chính tri thức luận dân chủ là điểm khởi hành trên nhân lộ của khai sáng văn minh dân chủ, để xóa đi tuyên truyền trị, để khử đi ngu dân trị, để tẩy đi vô học trị, mang hậu quả và hậu nạn của vô hậu, vì vô tri thức nên vắng chân trời.
* Tri thức luận nhân quyền, là công cuộc đấu tranh cho toàn bộ hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm, nhân vị, nhân đạo, nhân quyền, nhân phẩm). Tại đây, tri thức luận nhân quyền trực diện để chống lại tuyên truyền trị, mang chân dung của ngu dân trị, có chân tướng vô học trị, tới từ độc đảng trị là cha sinh mẹ đẻ của bạo quyền công an trị, được "chống lưng" bởi tà quyền tham nhũng trị, có "sân sau" của ma quyền tham tiền trị. Một bên là ánh sáng của nhân quyền biết tôn trọng dân chủ để tôn vinh công lý, để thăng hoa tự do công bằng và bác ái. Ánh sáng của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và ánh sáng của nhân quyền (dân chủ, đa nguyên, văn minh) tạo nên hùng lực khai sáng nhân tri để khai hóa nhân trí, để lột mặt nạ tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, để vạch mặt chỉ tên độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị.
Bạo quyền độc đảng hiện nay đi ngược lại mọi tiến hóa của nhân loại vì nhân quyền, đi nghịch hướng với tự do vì công bằng ; đi trái chiều với dân chủ vì văn minh và tiến bộ. Mà thảm kịch là tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị đã và đang hủy diệt hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) của Việt tộc, một dân tộc không hề thua kém các dân tộc láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đó là : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Nhưng giờ đây dưới sự lãnh đạo toàn trị trong ngu dân, độc đảng với vốn vô học đã biến thanh niên Việt thành lao nô, phụ nữ Việt thành nô tỳ trong các quốc gia láng giềng này. Hậu quả của vô học-vô hậu là : nô lệ, nô bộc, nô công, nô tỳ… Hãy tổng kết lại các liên minh trong học thuật : phương pháp luận của hiện tượng học trực quan ; lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí ; khoa học luận của hiện tượng học nhận thức. Hãy đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát : khoa học thuật sử tính, khoa học thuật bối cảnh, khoa học thuật so sánh, khoa học thuật tổng quan. Tất cả tạo ra liên kết lại các liên đới trong điều tra : tri thức luận lịch sử, tri thức luận giáo dục, tri thức luận chính sách, thức luận trình độ, tri thức luận xã hội, tri thức luận định chế, tri ri thức luận lãnh đạo, tri thức luận tiến bộ, tri thức luận văn minh, tri thức luận dân chủ, tri thức luận nhân quyền. Khi đã có tổng kết lại các liên minh trong học thuật, đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát, liên kết lại các liên đới trong điều tra, thì đây là lúc áp dụng mô thức học thuật của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông" để xới tới cội, bới tới nguồn của độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị ; để đào tới gốc, tới rễ của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị.
Các người đã
Điếm nhục hóa giáo dục
Cô giáo Trần Thị Thu Trà (giáo viên đứng lớp) dùng thước kẻ, gậy tre và điện thoại đánh một bé gái Phàn Chung Thủy (học sinh lớp 1 tại điểm lẻ của Trường tiểu học xã Phìn Ngan, Lào Cai) trọng thương phải đưa vào Bệnh viện Lào Cai cấp cứu (05/04/2016)
Bạo quyền độc đảng lãnh đạo hiện nay đã tha hóa nền giáo dục nước nhà, đã đưa phản xạ vắng nhân cách của họ : hèn với giặc, ác với dân, vào không gian giáo dục, vào môi trường học đường. Đưa không khí hèn vào các ứng xử không có đạo lý khi có một vài thầy cô không có đủ can đảm để bảo vệ sinh viên của mình đấu tranh cho lẽ phải, có lòng với dân, có tâm với đất nước. Không khí hèn lan tỏa rồi trùm phủ lên thái độ sống của vài (hoặc nhiều) thầy cô, đúng ra họ phải là trí thức có đạo lý, tức là phải thẳng đầu-ngay lưng-vững chân, ngược lại họ lại cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc đảng, trước tà quyền cấp bộ, trước ma quyền cấp trường, qua chuyện buôn bằng bán cấp trong hệ thống giáo dục.
Gian lận trong mua chức bán quyền trong cơ chế, mà trong đám chóp bu lãnh đạo đã có kẻ buôn dân bán nước cho Tàu tặc đã chiếm biển, chiếm đảo của ta ; cho Tàu họa với thực phẩm bẩn, hóa chất độc ; cho Tàu họan đã và đang hủy diệt môi trường Việt, môi sinh Việt ; cho Tàu nạn với bọn đầu cơ các công trình, đầu nậu luôn trong chuyện buôn người, tất cả chúng đang bần cùng hóa, đang bẩn thỉu hóa Việt tộc. Ý đồ của Tàu tặc-Tàu họa-Tàu họan-Tàu nạn đang diễn biến trước mặt chúng ta, với sự thông đồng của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Hãy dùng nội dung của nghĩa vụ học để chế tác ra nội công cho phân tích, làm nên nội lực cho giải thích để thẳng thắn kết luận : tất cả bọn Tàu tà với ý đồ xâm lược nước ta, thông đồng trong bóng tối với bọn độc tài trong độc quyền phản dân hại nước, tất cả chúng chỉ là : âm binh ! (tà kiếp trong âm lộ). Khi sinh viên biết xuống đường để nói lên : ý thức yêu nước, nhận thức thương nòi với sự tỉnh thức phải bảo vệ quê hương, dân tộc tới cùng ; thì đúng ra là tất cả thầy cô có nhân cách thẳng đầu-ngay lưng-vững chân phải ủng hộ sinh viên. Không có nhân cách trong giáo dục, thì đừng mong có phong cách trong giáo khoa, thì đừng mong có tư cách trong giáo án, để trao truyền kiến thức đàng hoàng và tử tế tới sinh viên, học sinh [1].
Câu chuyện hèn với giặc, ác với dân, mang không khí hèn vào giáo lý, nó cũng mang không khí ác vào quan hệ thầy cô với học trò, cái ác ngày ngày xuất hiện trong không gian giáo dục, trong môi trường học đường hiện nay của Việt Nam, khi dân tộc và đất nước bị lãnh đạo bởi cái bạo, cái tà, cái ma, cả ba cái này làm nên cái ác bằng cái bạo. Trong đó có bạo động giữa thầy cô với học trò, bạo hành giữa học trò với nhau, bạo lực lên ngôi một cách thô tục nhất ; khi mà cái ác liên minh với cái bạo, nó điếm nhục hóa cả một hệ thống giáo dục ! Với tên bộ trưởng bộ giáo dục viết-rồi-bôi chuyện "trừng phạt" sinh viên : "bán dâm quá bốn lần" ; đây là cách hành văn của bọn ngọng ngôn ngữ, điếc ái ngữ, lòa nhân tri, què trí tuệ. Chúng điếm nhục hóa cả một hệ thống giáo dục, (gian giáo trong điếm lộ !).
Các người đã
Âm binh hóa công an
Lực lượng Cảnh sát cơ động sẵn sàng đánh đập dã man những ai dám phản đối chính quyền độc đoán - Ảnh minh họa
Các công an đã hành hung dân chúng với bạo lực ở cấp thô bỉ nhất, đã nhục mạ con với ngôn từ tục tỉu nhất, với phong cách hành xử bỉ ổi nhất của họ, con hãy chọn bốn phân tích sau [2] : phân tích chiều ngang, đây là loại chỉ biết thô tục qua bạo động vì họ không được giáo dục về đạo lý, luân lý, đạo đức, vì Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo họ chỉ dạy họ bạo lý, tà lý, vô đức. Phân tích chiều cao, đây là loại chỉ biết buộc tội bằng bạo lực vì họ không được giáo dục về hệ lương (lương tâm, lương tri, lương thiện) và hệ liêm (liêm chính, liêm sỉ, liêm khiết).
Phân tích chiều sâu, đây là loại chỉ biết thóa mạ bằng vô minh, làm nên loại người vô tri, vô giác, nên rất vô cảm trước các chủ thể đại diện cho hệ lương và hệ liêm như con và các sinh viên, thanh niên, mọi thành phần xã hội trong tháng 6 năm 2016 đã đầy đủ bổn phận công dân trước họa "buôn dân bán nước" của tập đoàn tội phạm đang cai trị nước ta. Phân tích chiều rộng, qua lịch sử : con và các người đã xuống đường trong năm tháng đó là : những đứa con tin yêu của Việt tộc ! Mà trong lịch sử Việt tộc đã là một dũng tộc đánh thắng bao lần ngoại xâm phương Bắc ; là một minh tộc, biết thắng Tàu tặc trong lịch sử bằng chính sự thông minh của mình : Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung [3].
Vào giáo lý được giáo dục tôn vinh, được đạo lý và đạo đức xướng danh trong những thử thách của nhân loại, trong những thăng trầm của nhân sinh, qua hai phân tích của hai triết gia có chỗ đứng trung tâm trong tư tưởng hiện đại[4] : Levinas, ngọn núi cao của hiện tượng luận cùng lúc lại là bình nguyên mênh mông của triết đạo đức, yêu cầu trước khi ta phân tích về cách hành xử bạo ác của kẻ nắm bạo quyền để phán quyết về nhân cách và số kiếp của họ, Hãy trở lại để đào sâu ngay trong nhân tính a : chất thánh ! Nếu chất thánh có trong mỗi ông thánh, thì chất thánh này có trong mỗi chúng ta : đạo Chúa gọi nó là vị tha, đạo Phật gọi nó là từ bi, chế tác ra bao dung, rộng lượng, khoan hồng để mở đường cho tha thứ.
Derrida, chủ trì phải tháo cấu trúc tư tưởng để hiểu kiến trúc nhân tính, dặn chúng ta khi vị tha, từ bi, bao dung, rông lượng, khoan hồng để mở đường cho tha thứ, tha lỗi, tha tội. Mà nếu đúng là tha thứ thì phải tha thứ những chuyện không tha thứ được ! Mà nếu đúng là tha lỗi thì phải tha lỗi những chuyện không tha lỗi được ! Mà nếu đúng là tha tội thì phải tha tội những chuyện không tha tội được ! Còn tha thứ vì muốn được sống yên, tha lỗi vì muốn được sống lâu, tha tội vì muốn được sống riêng thì tha thứ, tha lỗi, tha tội chỉ loại này chỉ là vụ lợi bằng ích kỷ, không phải là tha thứ thật, tha lỗi thật, tha tội thật[5].
Các người đã
Hèn hạ hóa học thuật
Trí thức hiện nay phải lãnh nhận tất cả hậu quả mà nền giáo dục tuân theo giáo điều của độc đảng bằng độc tài hiện nay tại Việt Nam chỉ cho phép các người nghiên cứu là mô tả tin tức rồi kể lể dữ kiện. Đảng trị không cho phép tự chủ để phân tích, có tự tin để giải thích, có tự do để phê bình, mà chính sự khách quan phê bình là hùng lực của học thuật, hùng lực này không hề được cổ súy trong một chế độ chính trị độc tài (lại bất tài) hiện nay tại Việt Nam.
Tại các quốc gia có dân chủ, tự do, nhân quyền, nên lãnh đạo dựa vào văn hóa, nên có nghiên cứu dựa vào văn minh, nên có học thuật dựa vào văn hiến ; mà giới trí thức trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn còn tự cho phép mình khi có tác phẩm riêng thì đi tiếp bước nữa để tự xây sự nghiệp riêng, và sự nghiệp này sẽ làm nền cho tư tưởng riêng của tác giả đó, mà không bị ý thức hệ độc đoán (vì độc tôn) nào vu cáo, buộc tội, bỏ tù. Nếu không có phương trình tác giả riêng-tác phẩm riêng-sự nghiệp riêng-tư tưởng riêng thì đừng mong cầu là nền học thuật, chuyện nghiên cứu hiện nay của Việt Nam được song hành với các nền học thuật tiến bộ trong dân chủ, văn minh trong nhân quyền. Nên ở đây từ : riêng quý báu vô cùng, đó là chỉ báo khoa học cho sự nghiệp nghiên cứu, nơi mà tự do riêng của mỗi người làm nên nhân cách liêm chính của người đó trong học thuật.
Các bạn trẻ hiện nay đa số ít đọc, lạ lẫm ngay trên đường đi nẻo về của học thuật, nhưng cũng có các bạn trẻ đọc nhiều và kỹ vì họ chăm chỉ, để đi tìm hệ chuyên, lấy chuyên cần để tạo ra tinh chuyên, thực sự chuyên nghiệp để được công nhận là chuyên gia trong chuyên môn của mình. Chuyện tầm sư học đạo làm kim chỉ nam cho nhân cách cá nhân biết tôn sự trọng đạo. Nếu các bạn trẻ hiện nay, đọc nhiều để hiểu nhiều theo lời khuyên của Rousseau : "Les hommes soyez humains" (Con người ơi hãy giữ nhân tính).
Nên giới học thuật rất xa lạ với các bạn trẻ không học cũng chẳng đọc, suốt ngày tụ họp trong quán nhậu, rồi la cà qua các quán cà phê, trong khi Tàu tặc ngoại xâm đang cướp lãnh thổ và lãnh hải của Việt tộc, trong khi giặc nội xâm là tà quyền tham nhũng đang bòn rút tận xương tủy tiền của của dân tộc và tài nguyên của đất nước. Giới học thuật càng lạ lẫm hơn khi các bạn trẻ thích nhậu, thích la cà tán gẫu mang đầy ảo tưởng khi họ tán dóc với nhau là : dân tộc Việt rất thông minh, người Việt Nam rất giỏi… mà họ không thấy là chế độ độc tài nhưng bất tài từ quản lý tới quản trị nhưng luôn muốn độc trị hiện nay đang vùi tuổi trẻ xuống bùn nhơ, trai thì đi làm lao nô, gái thì đi làm tiện tỳ cho các nước làng giềng.
Các người đã :
Bất nhân hóa lý trí Việt
Hệ lý, tức là lấy lý luận để lập luận, tìm giải luận để diễn luận, qua hành trình đi tìm hệ nhân, tức là lấy nhân tính để đi tìm nhân lý qua nhân tri tạo nên nhân trí ; rồi đào nhân tâm, xới nhân từ, vung nhân nghĩa để tạo nhân bản, giữ nhân văn, và bảo vệ nhân vị, để vượt thoát các thử thách của nhân thế, để vượt thắng các thăng trầm đang đe dọa nhân sinh.
Hệ công, đấu tranh vì công bằng, để xã hội có công pháp, dân tộc có công luật, giữ vững công tâm để hiểu hệ lương, nơi mà hành động lương thiện tạo ra hành tác có lương tri, nơi đây tri thức của thiện luôn có nguồn là lương tâm, làm nên cái sạch cho nhân phẩm, làm nên cái trong cho nhân tính, sạch và trong chế tác ra cặp đôi "chung lưng đấu cật" : công cạnh lương.
Hệ tự, dụng tự do để xây tự chủ, dùng tự tin để giữ tự trọng, lấy tự quyết để gạt bạo quyền lãnh đạo buôn chức bán quyền, tà quyền tham quan buôn bằng bán cấp, ma quyền buôn thần bán thánh, chính hệ tự này sẽ cho ra đời hai đứa con sinh đôi : hệ thông, nơi mà thông minh làm nên thông thái ; và hệ sáng, nơi mà sáng kiến mở đường cho sáng tạo.
Từ khi cướp được chính quyền cho tới khi độc quyền trong độc đảng với độc đoán của loài cuồng quyền, thì Đảng cộng sản Việt Nam đã triệt lý trí việt, cụ thể là thủ tiêu hệ luận ; nơi mà độc trị sinh ra quái thai của nó là toàn trị đã giết đi hệ nhân ; nơi mà độc quyền trong lạm quyền đã giết đi hệ công ; nơi mà độc trị trong độc tôn đã giết đi hệ lương ; nơi mà độc tài trong bất tài đã giết đi hệ công, rồi tiêu diệt luôn cả hệ : tự !
Các người đã
Đồi bại hóa trí thức Việt
Trong lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam, từ ngày lập Đảng cộng sản Việt Nam, năm 1930 cho tới nay không có lần nào lãnh đạo đảng này nghe những lời khuyên nhủ của trí thức. Cụ thể là họ diệt trí thức : Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… Còn văn nghệ sĩ, thì danh sách bị họ hãm hại rồi truy diệt không kể hết đâu : Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Phùng Cung… Lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam là lịch sử diệt trí thức để dẹp tri thức !
Trong xã hội hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam không hề nghe quần chúng. Nếu Đảng cộng sản Việt Nam nghe thì họ đâu biến dân chúng, thành dân oan, dân đen ! Nếu họ chân thành nghe lời than, tiếng oán trong nhân quần thì Đảng cộng sản Việt Nam nên bỏ ngay cái thói cai trị dân bằng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham nhũng, mà tổ chức tự do đầu phiếu. Đảng cộng sản Việt Nam có thể bắt đầu bằng trưng cầu dân ý và chỉ cần hỏi một câu thôi là : "Việt tộc có đồng ý cho Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo dân tộc và đất nước không ?", hoặc "Việt tộc muốn có tự do, dân chủ, công bằng qua đa nguyên để có đa đảng, để tập hợp được đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu… không ?". Kết quả đầu phiếu trong dân chủ chân chính là hiệu quả của chân lý.
Trong sinh hoạt trí thức, các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không có lần nào họ thành tâm đối thoại với trí thức. Làm sao Đảng cộng sản Việt Nam dám đối thoại qua đối luận với trí thức, vì Đảng cộng sản Việt Nam biết rất rõ là họ không có hệ thức (lấy kiến thức để xây tri thức, trồng trí thức ; lấy ý thức để dựng nhận thức, để lãnh đạo trong tỉnh thức). Tại các quốc gia có tự do trong dân chủ, lấy nhân quyền làm nhân cách, các lãnh đạo thường xuyên gặp gỡ và đối thoại với trí thức trên truyền hình, truyền thanh, chưa kể qua các hội thảo, hội nghị, hội luận, từ quốc gia tới quốc tế, các lãnh đạo này họ không hề thiếu hệ thức, nên họ không né, không lách giới trí thức.
Thiện chí đối thoại để sự thật được công nhận như chân lý, rồi nhận chân lý để tìm ra lẽ phải cho nhân tính lẫn nhân sinh trong xã hội Việt hiện nay đang bị không những tha hóa nặng nề mà còn bị khổ sai hóa, âm binh hóa, Tàu nạn hóa… Không được quên dân oan, đang gào công lý, hét công luận, thét công luật, hiện tượng luận nhân kết để báo động cho đồng bào khi độc đảng dùng độc tài để cướp đất, phá nhà dân chúng, thì ai cũng có thể là nạn nhân. Vật đổi sao dời ! Vì nắng sớm chiều mưa bạn ạ ! Vì không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời !
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, vô sản trong vụ lợi vì họ đã có nhà, có của bên Châu Âu, có cả thẻ xanh để định cư tại Mỹ, lúc chúng cao bay xa chạy. Tà kiếp trong điếm lộ ! Nên các từ ngữ : bạo quyền sinh ra tà quyền, ma quyền sinh ra âm binh. Mà âm binh của Đảng cộng sản Việt Nam là bọn bút nô, ký nô, văn nô, bọn này chuyên nghề vu khống, vu cáo, chúng chỉ là ma xó, ma bùn, ma trơi… Một loại ký sinh trùng trong tà dạng của âm binh ! Mà người miền Bắc của bạn gọi là "chó cắn trộm" ! Và Trần Dần nạn nhân của chúng sau Nhân Văn Giai Phẩm, đặt tên cho chúng là bọn "chém sau lưng".
Các người đã
Thô tục hóa lương tâm Việt
Lương tâm dựa vào lương thiện để xây dựng lương tri biết vận dụng kiến thức để hiểu nhân loại, biết dụng tri thức để thấu nhân sinh, biết vận hành trí thức để nhập nội vào nhân thế, biết vận dụng ý thức để hướng dẫn vào nhân quần, biết mô thức hóa nhận thức để giúp nhân tình tỉnh thức ! Lao tác trong sự nghiêm túc của lý trí, sự nghiêm minh của trí tuệ, làm nên tuệ giác để phân tích khách quan các dử kiện xã hội, các diễn biến nhân văn. Một trí thức khi được đào tạo qua quá trình khoa học, chưa đủ ! Một trí thức phải có đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, làm nên luân lý có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với đất nước ; chính đạo lý và luân lý này là gốc, rễ, cội, nguồn dựng lên giáo lý để định hướng giáo khoa, giáo trình, giáo án làm nên giáo dục cho xã hội, cho quốc gia, cho dân tộc.
Trong môi trường giáo dục mang lý trí của khoa học qua những mô hình của kiến thức làm nên mô thức cho trí tuệ, thì chính phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải dẫn dắt ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp chớ không phải ngược lại. Nói gần nói xa, không qua nói thật ! để có lời thẳng thắn của tổ tiên ta : So ra mới biết ngắn dài. Vì mọi chuyện trong cuộc đời của một người trí thức đều là chuyện của mức độ làm nên trình độ của bạn, của tôi trong trí giới cũng như trong giáo giới. Trình độ can-dự-để-can-thiệp từ kiến thức tới lý trí, từ trí tuệ tới lý luận, từ đạo lý tới đạo đức. Khi nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã thực địa thì : lý thuyết luận (lấy lý thuyết mới trợ lực cho lý thuyết cũ) để hiểu thực tế của nhân sinh, với phương pháp luận (lấy phương pháp này để hỗ trợ cho phương pháp kia) để thấu thực cảnh của nhân thế, rồi dụng khoa học luận (lấy khám phá khoa học để củng cố các định đề của khoa học) để thấm vào số kiếp của nhân loại. Cả ba lãnh vực tri thức này khơi lên một cách trực tiếp hay gợi ra một cách gián tiếp : sự hình thành nhân sinh quan ta trước nỗi khổ niềm đau của nhân quần, thế giới quan trước các thăng trầm của nhân gian, vũ trụ quan của ta với muôn vật, muôn loài, trong đó môi trường có môi sinh được quyền sống, không những có động vật, thực vật, mà cả mọi sinh vật hữu hình hoặc vô hình trong cuộc sống[6].
Các người đã :
Bất công hóa công tâm Việt
Lương tri trí thức chống bất công, loại bất chính, xóa bất lương, vất bất nhân khi thấy dân oan bị phá nhà, cướp đất, đuổi ra khỏi môi trường sống của mình, của gia đình mình và của tổ tiên mình. Bị cướp nhà, cướp đất là bị vừa động đất, vừa động trời. Đây không phải là mất mát mà là mất hết, đây không phải là mất mùa mà là mất trắng !
Song hành cùng dân oan bao ngày tháng qua bằng học thuật, lấy khảo sát, nghiên cứu, điều tra, điển dã để minh chứng rồi xác chứng đây là chuyện trộm, cắp, cướp, giựt đất của dân, đây là chuyện : không thể chấp nhận được ! Đây không phải là bất công tới từ bất bình đẳng mà là cả một hệ bất : bất chính của một hiến pháp của ma thức (chớ không phải mô thức) : đất đai là sở hữu của toàn dân, do chính phủ quản lý, đảng chỉ đạo, loại câu chữ này thật bất lương, vì nó biến đất của công dân thành đất trong tay bọn bất nhân (bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, cấu kết với ma quyền tham đất vì tham tiền), để trộm, cắp, cướp, giựt có tổ chức.
Hãy xem lại các bài học căn bản của xã hội học : bất bình đẳng có mặt trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội ! Còn bọn bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất để tham tiền, tất cả chúng nằm trong hệ bất (bất chính, bất lương, bất nhân) đây lại là phạm trù của đạo đức học, phải lấy hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ra để trực diện mà trực luận với chúng.
Các người đã
Oan hóa nhân sinh Việt
Những dân oan này bị cướp mất nhà đất tại các địa phương mà không được giải quyết trong nhiều năm qua. Họ tụ tập bên ngoài Quốc Hội ngày thứ Tư, 5 tháng 6, 2019, để kêu gọi nhà nước hãy thực thi công lý với người dân.
Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) trong câu chuyện lương tri trí thức, hãy nhớ lời dặn dò của Thomas Mann, sau ngày bọn giết người Đức quốc xã sụp đổ là : khi nhìn thì phải thấy ! Nhìn mà không thấy thì khác gì mù lòa. Ông trách dân tộc Đức ông là bọn giết người Đức quốc xã không phải trên trời rơi xuống để gây ra thế chiến thứ hai (1939-1945), cùng lúc thảm sát người Do thái trong chương trình diệt chủng của chúng. Bọn này đã xuất hiện rồi thắng cử trước sự cúi đầu và nhắm mắt của dân tộc Đức, từ những năm 1930.
Nhìn mà không thấy hệ bất (bất chính, bất lương, bất nhân) thì chắc chắn là có lỗi, đừng để lỗi biến thành tội với đồng bào và tổ quốc ! Việt kiều đặt chân tới Hà Nội là thấy dân oan nằm ngồi la liệt tại cơ quan tiếp dân của Trung Ương, đường Ngô Thị Nhậm, Việt kiều đặt chân tới Sài Gòn là thấy dân oan vật vờ qua lại khu Thủ Thiêm ; vậy mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sống hằng ngày trên đất nước lại không thấy, coi dân oan như không có, vì nhìn mà không thấy. Không thấy dân oan ngoài đường giữa phố đã là chuyện lạ ! Lại không thấy dân oan đòi công lý qua mạng xã hội thì càng lạ !
Bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất lấy cái man trá để chế tác luật rừng man rợ của chúng : đất đai là sở hữu của toàn dân, do chính phủ quản lý, đảng chỉ đạo… Nên muốn hiểu về định lượng của bất công trong chế độ có lãnh đạo bất nhân tại Việt Nam hiện nay, không được quên phân tích vĩ mô ! Theo nghiên cứu hiện nay thì Việt Nam hiện nay là đất nước "phá kỷ lục về dân oan", không phải hàng trăm ngàn mà đã là hàng triệu trên ba miền của đất nước. Nếu chính quyền độc đảng hiện nay mà liêm chính thì hãy làm thống kê liêm sỉ về con số này, chính quyền chỉ cần lấy chỉ báo qua các đơn kiện, thì mọi việc sẽ rất rõ ràng. Tự do nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã… qua định lượng và định chất để biết thực chất của chuyện oan khiên này, là phạm trù của khoa học xã hội nhân văn nhưng không hề có trong một chế độ độc đảng toàn trị.
Các người đã
Bẩn thỉu hóa tuệ giác Việt
Tuệ giáccủa công bằng là dân oan họ đã thưa kiện mọi nơi, họ đã đi "cùng trời cuối đất" để "kêu oan" ; mọi cơ quan có thẩm quyền đã thông đồng với nhau là không xử lý nổi oan của họ bằng công lý, mà nhắm mắt làm ngơ để họ tiếp tục sống trong "màn trời chiếu đất", sáng chiều "đầu đường xó chợ". Họ kêu gào rồi lang thang từ hành pháp tới tư pháp, họ thét gọi các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam phải cứu họ, nhưng"tứ bề im ngặt" nên họ phải tới quốc hội rồi trần truồng và gào thét công bằng giữa phố thị. Vì tại đây thì họ tin là có thể gặp để gọi được các đại biểu do họ bầu ra để bảo vệ họ mà ! Nhưng buồn thay"nồi nào úp vung nấy", họ chỉ gặp các đại biểu mà tuyệt dại đa số là đảng viên lấy "kịch trường" Quốc hội để diễn "hài kịch" là cúi đầu-cong lưng-bấm nút, để bật đèn xanh cho các âm mưu của bạo quyền lãnh đạo ở cấp bộ chính trị. Nhưng "kịch trường" Quốc hội của các "hài kịch" lại chính là "bi kịch" của Việt tộc, trong Quốc hội có một lực lượng đại biểu "hao tiền tốn của" cho thuế dân, lại âm mưu bằng thỏa hiệp âm binh với độc đảng : xảo nghiệp trong điếm trường !
Hãy "kiểm chứng thực địa" là ra đường vào dịp Tết gần nơi bạn đang cư trú để nhìn-và-thấy có hàng trăm dân oan vẫn ra Hà Nội, dù biết các cơ quan lãnh đạo đã đóng cửa nghỉ Tết ! Dân oan nằm lăn lóc trên đường Ngô Thì Nhậm, với khí trời lạnh mùa đông miền Bắc. Tại sao vậy ? Tại vì họ không còn đất, còn nhà, họ mất hết, họ tới thủ đô để kêu oan, để đòi công lý, mà lãnh đạo chính quyền phải trả lại công lý cho họ, Đảng cộng sản Việt Nam đừng lẻo miệng là "đầy tớ của dân" nữa ! Lãnh đạo đừng lẻo lưỡi "phục vụ dân", hãy thật sự phục vụ nhân dân, bằng cách chống bất công, chống bạo quyền, hãy bảo vệ dân bằng tuệ giáccủa công bằng.
Trí tuệ của lãnh đạo bắt đầu bằng trực diện để trực quan : các cơ quan có những tòa nhà đắt tiền, rộng lớn, cũng từ tiền thuế của dân mà ra ; chính các cơ quan đó, từ địa điểm của các hội đoàn tới các địa danh của của chính quyền, thì tất cả cửa nẻo đóng im ỉm ngay cả ngày hành chính bình thường, nơi mà chung quanh dân oan đứng, ngồi, nằm la liệt, họ đang đi ăn xin công lý đấy ! Họ trực diện với một chính quyền vô phép trước công pháp đấy !
Hiện nay, dân chúng có kinh nghiệm với một chính quyền đi bắt cóc các nhà vận động dân chủ, tuyên bố xử họ công khai nhưng chặn công dân đi dự ngay trước cổng tòa, bỏ tù các nhà vận động dân chủ nhưng khi thả họ ra thì không có chứng thư giam giữ và phóng thích, cùng lúc chối leo lẻo trước quốc tế là Việt Nam : không có tù nhân lương tâm. Một chính quyền bắt cóc dân-xử đóng cửa tòa-nhốt bừa bãi-thả thô tục, đó là một chính quyền : xảo tri trong nhục lộ. Nietzsche, chỉ hai bài học : bài học thứ nhất : "Sự thật rất xấu, con người có một "nghệ thuật" gạt sự thật để sự thật đừng giết con người", cụ thể có rất nhiều người sợ sự thật, vì khi họ đi tìm sự thực, khi gặp sự thực, rồi đào sâu sự thực thì họ sẽ phải đối mặt với bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền như hoàn cảnh nước Việt hiện nay.
Bài học thứ nhì : "Nếu bạn nhìn vực thẳm quá lâu, thì chính vực thẳm sẽ vào sâu trong bạn để nhìn bạn", đây là hậu quả của câu thứ nhất, đối với những ai sống quá lâu trong vực thẳm, bị cầm tù trong vực thẳm mà không thấy vực thẳm đang vùi, đang lấp, đang chôn, trước tiên là con mắt của mình, sau đó là thể xác của chính mình. Vì, vực thẳm vừa sâu lại vừa hẹp, cái tối tăm của nó làm ta bị lòa mắt ; nên bọn âm binh sống trong vực thẳm luôn có ý đồ làm cho Việt tộc lòa mắt vì tối ; mà âm binh thì sống nhờ bóng tối nên âm binh thấy người, mà chưa chắc người thấy được âm binh !
Các người đã
Đày ải hóa thiện tính Việt
Trong một xã hội Việt Nam hiện nay với hàng trăm triệu đồng bào sống trong vô cảm vì vô giác trước nỗi khổ của dân đen, trước nỗi oán của dân oan, triệu triệu người vô cảm này, sống say trong vô minh để chết mộng trong vô tri, từ ô nhiễm môi trường tới thực phẩm bị đầu độc ; cả một dân tộc đang đánh mất định hướng lương tri, tìm tới mê tín dị đoan trong chuyện cầu vong, cầu hồn để rồi bị loạn tâm trong mê tín, mà còn gọi đó là tâm linh !
Mỗi lần có những nỗi buồn lo ập đến trong tâm hồn, mang theo bao độc chất của tà quyền đang biến thành ám chất trong cõi lương tri, với loại câu hỏi như sau, làm hỗn loạn tư duy : Tại sao Việt tộc ra nông nổi này ? Người Việt hiện nay chọn vô cảm làm phản xạ trước các nỗi khổ niềm đau với chính đồng bào mình. Tại sao Việt tộc lại đánh để mất đời sống tâm linh của nhân tâm như vậy ? rồi gọi tên mê tín, dị đoan là tâm linh, biến cõi tín ngưỡng, từ chùa chiền tới lăng miếu, thành nơi buôn thần bán thánh có vụ lợi, để phục vụ cho tư lợi. Tại sao Việt tộc lại cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trước bạo quyền độc tài, trước tà quyền tham quan, trước ma quyền buôn người bán tình ? Mà không vận dụng chiều sâu tâm linh của tổ tiên, để biến nó thành chiều cao cho chính nhân phẩm của mình ; là đứng dậy, là thẳng lưng, là ngẩng đầu, để gạt đi cái bạo, xóa đi cái tà, vất đi cái ma, để lấy lại cái người (vì cõi người).
Các người đã
Nghiện ngập hóa tinh chất Việt
Quốc hội lại bỏ phiếu (theo đa số) là chống lại chuyện soạn ra luật nghiêm túc có liêm sỉ để chặn chuyện nghiện ngập rượu bia, ma túy đang là một ung thư vĩ mô trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội ; một loại ung thư của "thói hư tật xấu" không những có lỗi mà còn có tội với dân tộc. Tại sao là tội ? Đó chính là tội đầu độc cả một dân tộc vào chuyện nghiện ngập, để truy diệt sinh khí của đồng bào, để vùi dập sinh lực của bao thế hệ thanh niên, lẽ ra phải là nguyên khí của quốc gia, đây không phải là tội thì là gì ?
Chuyện sống còn của dân oan, là chuyện thuộc về phân phẩm của Việt tộc. Camus trả lời các câu hỏi lớn của nhân sinh bằng nhân tính, các câu hỏi lớn của nhân thế bằng nhân tri, các câu hỏi lớn của nhân loại bằng nhân phẩm, qua ba luận điểm : Lòng rộng lượng chân thành nhất của chúng ta đối với tương lai là dâng hiến tất cả ngay bây giờ cho hiện tại. Nếu kẻ chủ không sống được nếu không có kẻ hầu, thì một trong hai kẻ này ai là người thực sự có tự do ?
Luận điểm thứ nhất trong tình hình của Việt tộc hiện nay là chúng ta phải đấu tranh cho công bằng, tự do, bác ái qua đường đi nẻo về của nhân quyền, dân chủ và đa nguyên. Luận điểm thứ nhì trong hiện trạng của xã hội Việt là kẻ chủ (Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng bạo quyền nhưng "hèn với giặc, ác với dân") và người tớ (dân đen bị áp chế, dân oan bị áp bức) cả hai đều không có tự do, đây là bi kịch làm nên thảm kịch của đất nước hiện nay. Luận điểm thứ ba trong thực trạng của bi nạn bộ ba (nội xâm tiếp tay cho ngoại xâm) :
Đảng cộng sản Việt Nam lấy độc đảng để độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị trong bất tài và bất trị. Tham quan của Đảng cộng sản Việt Nam lấy tham quyền để tham ô, tham nhũng, đang làm suy kiệt tới dân tộc, môi trường, đạo lý… tới cùng cực. Tàu tặc cướp đất, biển, đảo song hành cùng Tàu họa gây ô nhiễm môi trường để diệt môi sinh, song đôi với Tàu hoạn qua thực phẩm bẩn đi cùng với hóa chất độc tạo nguồn cho ung thư vĩ mô trên số phận của Việt tộc, làm nên Tàu nạn với bao công trình có quy mô từ cấp quốc gia tới cấp địa phương rơi vào tay Tàu tà.
Các người đã
Ngu dân hóa lương tri Việt
Trước thảm kịch này của đất nước, hãy tìm lại các nẻo đường của lương tri qua các trí thức của các nước được xem là có văn hóa cao, có văn minh rộng, có văn hiến đẹp, chỉ để nhìn lại cho rõ lương tri của mỗi chúng ta. Những tư tưởng gia như St Augustin, Plotin, Montaigne… hay các triết gia Kant, Pascal, Ricoeur… khi họ từ đi tìm con đường của lương tri thì họ có sẵn hai nhân lộ. Con đường thứ nhất bằng định hướng thần học, chóng chầy họ sẽ tìm tới thượng đế, đấng sinh thành của muôn loài và vạn vật ; con đường thứ hai bằng định hướng của luân lý, đi tìm nhân tính bằng nhân phẩm. Nhưng dù đi trên hai đường khác nhau, nhưng họ thường tâm sự là họ đã gặp nhau trên : cái tôi tỉnh thức để tin yêu. Chính cái tôi tỉnh thức để tin yêu này là một định luận có nhiều định đề khác nhau, và khi được hội tụ lại thì các giá trị của lương tri hiện rõ trong cấu trúc của định luận này. Cái tôi tỉnh thức có hành trình của tỉnh táo để sáng suốt của thức, lấy kiến thức để lập tri thức, có ý thức để tạo nhận thức. Đây là định nghĩa thông minh về chữ hiền, làm nên hiền triết, dựng lên minh triết lấy hiền mà xoa dịu mọi điều hung, bạo, ác, dữ đang phùng mang trợn mắt giữa nhân thế. Từ đây, cái tôi của chủ nghĩa trung tâm được nuôi nấng bởi cái ích kỷ đã được trút rũ khỏi não trạng, để trưởng thành mà nhận ra cái tôi tỉnh thức, đã tỉnh thức trước thân phận con người, trong đó cái tôi vị kỷ thuở nào có số phận thật nhỏ bé của cát bụi (theo ca từ của Trịnh Công Sơn), cát bụi những biết thức để biết : "Tôi là ai mà yêu quá đời này ?".
Montaigne, tư tưởng gia thế kỷ thứ XVI, đứa con tin yêu của thể loại tùy bút khuyên chúng ta nếu muốn đi tìm lương tri, hãy ghé qua : chủ thể trong tự do, tại đây, bạn cứ đào thật sâu tâm hồn của mình để nhận ra các giá trị của lương tri, vì con đường tự do đang sâu lắng, đang hiện diện trong mỗi chúng ta. Như vậy, muốn đi tìm lương tri thì hãy tìm ra con đường đi tới cõi đó ; muốn nhận ra các giá trị của lương tri thì phải để đầy đủ thời gian để đi tìm ra các giá trị ấy. Và, trên các nẻo đường này, ta đã có niềm tin vui sống để nuôi hy vọng sống vui, với tâm hồn rộng mở, chỉ cần thêm sự nhạy cảm với nỗi khổ niềm đau của nhân thế, với nỗi vui mang điềm phúc của nhân sinh, lấy sự cảm thông để cõng, bồng, bế, nâng cái nhạy cảm này.
Con đường đi tìm cõi lương tri có kho tàng là các giá trị của lương tâm : Hãy làm hơn cái tôi đã có bằng cách vượt cái tôi đang có ! Hãy tìm các lương tri mới, mà cũng chính là sự thông minh mới ; một cái tôi mới để biến cái tôi nhỏ bé trở thành cái tôi mênh mang. Mà Plotin đặt tên cho nó là : một tâm hồn trọn vẹn biết ở trên cao ! Nhưng không phải ở luôn trên cao, vì là tâm hồn rộng mở nên tâm hồn này lên xuống qua lại, để tiếp người, để nhận đời, để yêu cuộc sống hơn bằng cách bảo vệ lương tri việt.
Các người đã
Ghẻ lạnh hóa tin yêu Việt
Có một phương trình Tin yêu-Hướng thiện-Nhận thức-Tâm nguyện được cấu trúc gẫy gọn qua lời Kiều của sư phụ Nguyễn Du : Nhớ lời nguyện ước ba sinh/ Xa xôi ai có biết tình chăng ai ? Hãy tìm ngay trong chiều sâu lương tri mình để mời các ẩn số lương tâm sau đây lên tiếp sức : Tin yêu vừa là niềm tin vào cuộc sống, vào tình yêu, vào tình thương làm nên nỗi niềm sâu lắng, trầm kín trong nội tâm bạn, nó là người-bạn-sâu-bên-trong, nó thân thuộc trong thân quen trong tâm khảm của bạn, vì tin yêu này quá thân thương với bạn, nên bạn luôn tin vào nó. Hướng thiện được chế tác từ tin yêu làm nên quyền năng ngay trong không gian tâm linh của riêng bạn, nó yêu cầu bạn phải trả lời ba câu hỏi : Tôi là ai ? Ý nghĩa cuộc sống của tôi là gì ? Tôi muốn làm gì và có thể làm gì để đưa cuộc đời theo hướng thiện ?
Nhận thức được chế tác từ hướng thiện của tin yêu này, làm nên từ ý thức về cuộc đời của bạn, nơi mà cuộc đời là không gian và thời gian luôn bị các biến cố xé tan nát, chính những sự cố này làm nên kinh nghiệm cho tâm thức phải luôn ở dạng tỉnh thức để nắm chính lương tri của mình ngay trong hiện tại, để bạn sáng suốt mà chuẩn bị cho tương lai. Tâm nguyện ngụ ngay trong tâm thức có chiều sâu của nội tâm ở dạng thức tỉnh nhất ; sẽ tạo điều kiện để bạn khởi duyên, trợ lực bạn cho đời sống xã hội, trợ duyên bạn trong các quan hệ xã hội, trợ tâm bạn trong sinh hoạt xã hội, tha nhân và bạn sẽ gần nhau hơn trong các giá trị của tin yêu bằng tâm nguyện.
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã xây dựng một chế độ sống bằng vô cảm (Ai chết mặc ai ! Bây chết mặc bây !). Hãy trả lời với tà quyền lãnh đạo bằng một câu của Phạm Thiên Thư, mà Phạm Duy đã phổ nhạc : "Muôn loài như sương rơi. Xin làm hoa trắng đỡ…". Hãy tới cõi lương tri của trí thức bằng chính tự do, bằng chính tâm hồn trong, linh hồn sáng của bạn, hãy đi trên con đường : nhân tính làm nên nhân tình ; có nhân từ biết chở che cho nhân nghĩa. Từ đó mọi tuyên truyền ngu dân, mọi khẩu lịnh mỵ dân tự nhiên thành bọt bèo, rồi tự biến mất trong cõi sinh, cõi sống.
Sương thì yếu yểu, rơi là tan, mà hoa cũng vậy, rất mong manh, vậy mà hoa biết hứng đỡ sương, lấy chính thân mong manh của mình để hứng đỡ cái chóng chày, cái đang phôi pha giữa sự sống. Đây là một bài học quý về lương tri, nếu đang yếu lả, đang mong manh, vẫn có thể giúp, có thể cứu những ai yếu hơn mình, mong manh hơn mình. Lương tri thật cụ thể, vì nó không bỏ quên ai, dù kẻ cứu cũng đầy các khó khăn, ngập các thử thách, tràn các thăng trầm, nhưng phải giúp-cứu-nâng-đỡ kẻ yếu "trước đã", đây là chuyện mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hiểu !
Các người đã
Vô vị hóa minh triết Việt
Câu chuyện lương tri trí thức có thể ghé qua các công trình nghiên cứu của triết gia Jerphagnon khi ông nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Châu Âu để hiểu tại sao các minh sư triết học ngày càng đi sâu vào minh triết để hiểu các giá trị tâm linh. Nơi đây, minh triết là minh lộ để con người tới được các chân trời tâm linh, tại các chân trời này con người sẽ thấy các kinh nghiệm của nhân phẩm, luôn song hành cùng các trải nghiệm của nhân văn. Tại tụ điểm của lương tri này, con người sẽ nhận ra rồi nhận rõ các giá trị của cuộc sống, để hiểu tại sao lại có chuyện trễ, tại sao lại có chuyện chậm ?
Platon khi được Jerphagnon soi rọi qua cấu trúc triết học của chính Platon, luôn đi tìm để phân tích quan hệ giữa con người, linh hồn và thượng đế ; nơi mà mỗi con người sống trong cuộc đời như đi trên một con đường, và trên con đường đó con người gặp-nhận-hiểu-thấu nhân vị của linh hồn, nhân sinh qua thượng đế, mỗi lần gặp-nhận-hiểu-thấu như vậy con người luôn tự đặt cho mình câu hỏi tại sao ta gặp-nhận-hiểu-thấu trễ như vậy, chậm như vậy ?
Augustin là trường hợp mà Jerphagnon ở lại thật lâu trong nghiên cứu của mình, trước hết St Augustin có tất cả các thành công trong xã hội, bằng tinh hoa của học thuật dựa trên tinh anh có trong sự thông minh của ông ; nhưng năm 33 tuổi Augustin đã bỏ tất cả để đi tìm thượng đế, vì nếu nhận ra thượng đế thì sẽ hiểu linh hồn là gì ? Cũng với sự thông minh xuất chúng của mình, Augustin không rơi vào chuyện mê tín, dị đoan, hoang tưởng, mà ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế với tấm lòng kính cẩn tuyệt đối. Nhưng khi ta đọc kỹ tác phẩm Xưng tội (Confessions) của ông, người ta nhận ra ông mượn chuyện xưng tội là để vinh danh nhân phẩm của nhân loại. Như vậy, chuyện ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế có thể chỉ là một cái cớ chăng ? Cớ để ông biến đối thoại thành độc thoại, ông độc thoại với thượng đế để đốí thoại với đời, với người, với chính thân phận của mình.
Pascal là trường hợp mà Jerphagnon thấy được cái ý thức của con người luôn khiêm tốn để tỉnh táo, luôn khiêm cẩn để sáng suốt, để nhận ra tâm trạng trễ, tâm cảnh chậm khi con người đứng trước các chân lý của khoa học, các sự thật của nhân sinh, các lẽ phải của đạo đức. Pascal luôn tìm định nghĩa để giữ định đề, giữ định đề để không lạc đề khi phân tích và giải thích mọi giá trị, từ toán học tới triết học, từ ngôn ngữ tới nhân sinh. Và khi vào để phân tích và giải thích các giá trị tâm linh, con người sẽ có định hướng qua định nghĩa của ngữ vựng rồi từ đó mà đi tìm ngữ pháp rồi ngữ văn cho các chiều hướng của tâm linh.
Một cuộc đối thoại luôn muốn tìm con đường tâm linh để đi lên, lên cao, cao mãi để được ngang tầm với nhân vị là chuyện không hề có trong tư duy của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Như vậy sự thông minh làm nên nhân tri có thể hiểu được và thấu được sự thông minh của nhân quyền ; làm nên các giá trị của lương tri, tự chúng là những con đường cao tốc, cho phép dân tộc đi nhanh để gặp các giá trị thiêng liêng không hề có trong chính sách của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam tự trước đến nay, nên họ mới bị Việt tộc tặng cho biệt danh : "vô sản vì vô học".
Các người đã
Vô thức hóa thông minh Việt
Thấy được cái ý thức của con người luôn khiêm tốn để tỉnh táo, luôn khiêm cẩn để sáng suốt, để nhận ra tâm trạng trễ, tâm cảnh chậm khi con người đứng trước các chân lý của khoa học, các sự thật của nhân sinh, các lẽ phải của đạo đức. Tìm định nghĩa để giữ định đề, giữ định đề để không lạc đề khi phân tích và giải thích mọi giá trị, từ toán học tới triết học, từ ngôn ngữ tới nhân sinh. Và khi vào để phân tích và giải thích các giá trị tâm linh, con người sẽ có định hướng qua định nghĩa của ngữ vựng rồi từ đó mà đi tìm ngữ pháp rồi ngữ văn cho các chiều hướng của sự thông minh có mặt trong đời sống của tri thức : Loại thứ nhất là thông minh tức khắc đó là sự thông hiểu tính lập đi lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian để hiểu cách vận hành của chúng, rồi từ đó đặt cứu cánh hợp lý và phương tiện hợp thời để đạt kết quả. Loại thứ hai : thông minh xét nghiệm biết xem xét tính lập đi lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian để khảo nghiệm thực chất của các hiện tượng này. Và khi lương tri xuất hiện trước hai loại thông minh này, nó sẽ vận dụng nhân sinh quan của nhân tâm, phối hợp cùng thế giới quan của nhân từ, để chế tác ra một vũ trụ quan của nhân lý, trong đó kẻ tự cho mình là thông minh phải lấy nhân tính cao nhất của mình để cùng tha nhân bảo vệ nhân phẩm, nâng cao nhân vị cho nhân sinh.
Trên thượng nguồn của mọi chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam không có sự thông minh để quyết định và sự thông thái vì cẩn trọng khi nhận ra sự lập đi lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian, cả hai sẽ hiểu nguyên nhân của các sự kiện, cũng như quy luật của các sự cố, để tránh sai lầm trong hành động. Chính sự thông minh trợ lực cho đời sống tâm linh để tìm hiểu chiều sâu của sự kiện bằng nhân tri để cảm nhận sự cố bằng sự rung cảm của nhân tâm. Dưới hạ nguồn, sự thông minh biết nhận ra nguyên nhân của sự thất bại, còn thông thái thì tổng hợp các nguyên nhân của sự thất bại để tránh thảm bại, rồi đi tìm con đường đi khác để tới thành công, mà không kinh qua quá khích và cực đoan. Còn lương tri thì lùi ra để đứng xa trong tỉnh táo, mà phân tích thất bại, để sau đó lương tâm sẽ trở lại đứng gần, sát, cận kề sự thất bại để tìm ra sự cảm thông với kẻ thất bại. Từ đó tìm cách đưa ra một ánh sáng mới, để chỉ cách thoát nạn cho kẻ thất bại, được ra khỏi đường hầm của sự bại trận, để tìm con một con đường khác, bại ít thắng nhiều, vì mang các sắc xuất thành công rõ nét. Chuyện lương tri trí thức không dùng các con tính số học mang tính toán của toán học, mà bằng sự cảm nhận đa chiều về nhân thế, qua sự đa dạng của nhân gian.
Các người đã
Giả mạo hóa lẽ phải Việt
Trong lương tri giáo dục, khi thế hệ đi trước có trách nhiệm phải trao truyền ít nhất ba giá trị giáo dục cốt lõi cho các thế hệ đi sau là sự trao truyền sự thật của lịch sử, mà sự thật làm xuất hiện chân lý với sử liệu, sử chứng, không ai chối cãi được, song hành cùng các tang chứng, làm nên chứng tích luôn có mặt trong kỷ niệm, trong ký ức, tạo ra chất sống cho sử học. Chính sự thật làm nên chân lý giúp nhân sinh thấy ra lẽ phải. Chính lẽ phải giúp ta nhận diện ra các giá trị của đạo đức cùng lúc trên hai nhân lộ, con đường đầu tiên giúp nhân sinh nhận ra đạo lý của các chuyện hay, đẹp, tốt, lành có mặt trong nhân đạo. Con đường tiếp theo là khi có đạo lý rồi thì nhân sinh sẽ tìm ra luân lý khám phá ra bổn phận với xã hội, trách nhiệm với đồng loại. Từ đây, ranh giới giữa đạo lý và luân lý sẽ bị xóa dần đi, để tạo nên sự hòa hợp mới, làm nên các giá trị của lương tri.Hãy lập nên một phương trình mới cho nhân tâm biết bảo vệ nhân phẩm : (sự thật+chân lý = lẽ phải) + (đạo lý+luân lý = đạo đức) = các giá trị tâm linh.
Khi phương trình này hình thành thì ta được trao nhận một định nghĩa mới về : tự do, một định nghĩa đẹp vì đây là cùng có tự do với tha nhân, với đồng bào, với đồng loại, để cùng hưởng chung với mọi người, mọi loài. Ngược hẳn với loại định nghĩa thấp hèn về tự do qua cái ích kỷ chỉ cho một người, một phái, một đảng có trong não trạng của bạo quyền lãnh đạo, đã thành tà quyền hãm hại dân tộc, rồi sẽ thành ma quyền buôn dân, bán nước. Sự vận hành toàn bộ của các giá trị của lương tri đi từ cái tôi tới tha nhân, tâm linh là trao không để cùng hưởng chung, mà không hề đòi trả ân, trả oán, từ đây chúng ta có được một định nghĩa về các giá trị tâm linh, qua các chỉ báo rành mạch trong sinh hoạt xã hội, trong đời sống xã hội, trong quan hệ xã hội, vì tâm linh không thể tự định nghĩa, mà phải dựa trên sự phối hợp giữa : luân lý, đạo lý, đạo đức luôn đi đôi kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức ; và công bằng, công lý có từ công tâm, công đức luôn chung lứa với lương tâm, lương thiện, lương tri.
Có kinh nghiệm của Mục sư L. King và thiền sư Thích Nhất Hạnh ; chỉ vì tôi chỉ nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về chuyện "con người" thôi bạn ạ ! Mục sư L.King (đứa con tin yêu của lòng tin bất bạo động để chống kỳ thị) phân tích trong thời buổi hiện đại của khoa học, cái người (humain) trong cái thánh (sainneté) phải có mặt để bảo vệ các giá trị tâm linh, giúp con người luôn cẩn trọng ngay trên chính mạng sống của mình, khi ông giải thích rằng con người dùng khoa học để chế ra các hỏa tiễn được điều khiển tự động, nhưng chính con người thi đang lầm đường lạc lối trong mê lộ của sự giết chóc lẫn nhau, thì các hỏa tiễn điều khiển tự động này là sự tự sát của con người, chớ không phải là một tiến bộ văn minh gì cả !
Khi đấu tranh chống chiến tranh vì hòa bình, vì muốn bảo vệ con người và sự sống, trong lần chuẩn bị cho một cuộc biểu tình ngoài đướng phố tại Mỹ, mục sư L.King có hỏi thiền sư Thích Nhất Hạnh là nên chọn khẩu hiệu nào để làm biểu tưởng hòa bình cho cuộc xuống đường này ? Thiền sư Thích Nhất Hạnh khuyên mục sư L.King nên chọn một ca từ của Phạm Duy, nói lên ý lực của con người từ chối diệt con người : "Tôi từ chối giết người ! Vì giết hết người rồi tôi sẽ sống với ai ?", không có một chứng từ lịch sử nào để minh chứng là các lãnh tụ thủa trước và các lãnh đạo thủa này của Đảng cộng sản Việt Nam biết, nghe, đọc, hiểu, nghiệm được câu này !
Các người đã
Hình sự hóa công lý Việt
Khi tổng kết các nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về tội phạm học qua trường hợp của Việt Nam, từ khi dân tộc và đất nước này phải gánh chịu bạo quyền của Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam, từ 1930 tới nay. Dân chúng đã biết loại não trạng quyền lực-quyền lợi không sao tách được nhân sinh quan, thế giới quan của Đảng cộng sản Việt Nam để có thể khách quan hóa từ sự kiện tới sự cố, theo đúng yêu cầu của khoa học [7], cụ thể là đưa chứng từ vào dữ kiện để sự thật làm sáng lên chân lý. Sự chân thành trong mạch lạc, với chân thật của luận chứng, để chúng ta hiểu nhau hơn, trên tinh thần của học thuật là tôn trọng lẫn nhau, để sự thật được song hành cùng chân lý, sẽ giúp nhận ra lẽ phải. Quy trình sự thật-chân lý-lẽ phải được kết tụ thành một tổng thể, mà không ai có thể tách ra được, để vo tròn bóp méo, để đánh tráo, rồi bào chửa, sau đó là "chạy tội" cho tội phạm đã gây ra tội ác ; khi mà các nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của tội phạm học đã được thực hiện tới nơi tới chốn rồi thì chuyện "chạy tội" cho Đảng cộng sản Việt Nam xem như vô ích !
Dù là một chuyên ngành mới mẻ của khoa học xã hội và nhân văn, nhưng các lãnh đạo không thể tham ô, các quan chức không thể tham nhũng trên các nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của tội phạm học. Khi chuyên ngành sinh sau đẻ muộn này ra đời thì công việc thường nhật của nó là : lột trần tội ác ! lột mặt nạ tội phạm ! Nên nó không sợ bất cứ bạo quyền nào ám hại nó, không lo bất cứ tà quyền nào mua chuộc nó, không để bất cứ ma quyền nào bán đứng nó. Đảng cộng sản Việt Nam tạo ra mê thức qua tuyên truyền một chiều của một chế độ độc tài-toàn trị, biến mộng tưởng thành kiến thức chủ quan. Mà mộng tưởng là nguồn của mê thức, dắt con người vào mê lộ để bị lạc bẫy trong tà lộ, nơi mà thủ phạm và nạn nhân đã vào tử lộ, từ đó vô tình hay vô tâm : tội phạm đã gây ra tội ác, mà tội phạm học phải vạch mặt chỉ tên, vì đây là nghiệp vụ học của tội phạm học.
Quy trình sự kiện-chứng từ-xác chứng [8] làm gốc, rễ, cội, nguồn cho tội phạm học, khi sự kiện đã thành sự cố với các hậu quả hại người-giết người-chết người, nơi mà chứng tích đưa đường dẫn lối cho chứng từ, thì xác chứng của nghiên cứu sẽ định hình cho minh chứng để sự thật được đưa ra ánh sáng, để chân lý được quang minh chính đại từ tòa án của lương tâm tới tòa án của công pháp. Có ba quy trình : sự kiện-sự cố ; chứng tích-chứng từ ; xác chứng-minh chứng, vu cáo mà không có phân tích sự kiện-sự cố ; vu khống mà không có giải thích chứng tích-chứng từ ; vu họa mà không có giải luận xác chứng-minh chứng là chuyện thói quen làm nên khuyết tật, để khuyết tật làm nên khuyết não ngay trong tư duy của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là phản xạ từ bao năm, của những các quan chức của Đảng cộng sản Việt Nam : khi nạn nhân của họ phân tích sự kiện-sự cố, thì bị họ vu cáo là "các lực lượng thù địch" ; khi nạn nhân của họ giải thích chứng tích-chứng từ, thì bị họ vu khống là "phản động chống cách mạng" ; khi nạn nhân của họ giải luận qua xác chứng-minh chứng thì bị họ vu họa là "bôi nhọ lãnh đạo của Đảng". Các thói quen vu cáo, vu khống, vu họa cho người khác, cho bất cứ ai không đồng ý với Đảng cộng sản Việt Nam.
Đó là câu chuyện của tội ác trong Cải cách ruộng đất (1954-1958) : chỉ cần vài chữ tố cáo không chứng từ là tòa án nhân dân quyết tội (không có) lên đầu những ai bị vu cáo là "địa chủ" ; để ngay tức khắc sau đó là đám đông quần chúng (bị giật dây) vu khống cho các nạn nhân là "bóc lột" nông dân ; rồi dẫn tới (cũng tức khắc) chuyện tử họa của các nạn nhân này là bị bắn giết ngay tại chỗ. Tổ tiên Việt không quên nghiêm cẩn dạy con cháu : sai một ly đi một dặm. Nhưng đối với đám tuyên giáo (tà nghiệp trong xảo lộ) vu cáo mà không dám đối thoại để hiểu thế nào là sự thật ; với lũ lãnh đạo độc tài nhưng bất tài (gian kiếp trong tà lộ) vu khống mà không dám trực diện để thấu thế nào là chân lý ; với bọn bút nô, ký nô (ma nghiệp trong điếm lộ) vu họa mà không dám đối luận để thấm thế nào là lẽ phải. Đây chính là ma nghiệp của Đảng cộng sản Việt Nam.
Các người đã
Cuồng quyền hóa chính trị Việt
Sự có mặt vô cùng quý giá của dân chủ qua đa nguyên (đa tài, đa trí, làm ra đa hiệu, đa năng để đa lực) dựa trên nhân quyền (nhân tri, nhân trí trợ lực cho nhân lý, nhân tính làm nên nhân bản, nhân văn, để nhân vị có chỗ đứng, nhân đạo có đường đi mà tới gặp và nhận nhân phẩm)[9]. Vì " cá nằm trên thớt " mà cá muốn sống còn hay sống sót thì phải nhận tủi nhục mà tủi thân chịu nhục dưới một chế độ của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị) làm nên cái độc hại chống tri thức.
Khi đã chấp nhận cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước cái ác đã làm nên cái tội ; ngược lại đường đi nước bước qua các quá trình giải luận của tội phạm học là : vén cái ác để vạch cái tội. Khi mất nhân cách vì không dám phê bình qua phân tích và giải thích các tội ác của bạo quyền độc đảng, các tội phạm của tà quyền độc trị, các tội lỗi của ma quyền độc tài, thật sự là khi ta "nhắm mắt làm ngơ" thì ta đã đồng lõa, là đồng phạm với các tập đoàn tội phạm này rồi !
Một tập đoàn tội phạm luôn biến quyền lực thành bạo quyền độc đảng, tà quyền độc trị, ma quyền độc tài để vơ vét qua hệ tham (tham quyền để tham ô, rồi tham nhũng, chỉ vì tham tiền) nên quyền lợi của chúng thật ra chỉ là tư lợi, vì chúng buôn thần bán thánh qua chiêu bài cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể là khi còn đi học chúng đã biết buôn bằng bán cấp để sau đó là mua chức bán quyền, chúng mang dã tâm buôn đất bán người (biến dân lành thành dân oan), nên trong bọn chúng dã có kẻ bước qua buôn dân bán nước, đối với chúng chỉ là vài bước, có khi dễ như trở bàn tay, vì những kẻ này đã chuyển qua phương Tây tiền của vơ vét được của dân tộc, chúng đã có nhà, có thẻ xanh, thẻ cư trú tại Tây Âu và Bắc Mỹ, để chớp nhoáng cao bay xa chạy, khi bọn Tàu tặc tới xâm lược đất nước của chúng ta, biến Việt tộc thành lao nô cho chúng.
Tội nghiệp thay khi thấy người tài lại để bọn độc tài nhưng bất tài "chăm lo" chuyện bảo vệ dân tộc, phát triển đất nước điều khiển, thao túng, giật dây, "xỏ tai, kéo mũi", để chung quy là ngụy biện các thảm họa trên một dân tộc mà đa số cằng ngày càng túng thiếu, mà tuyên truyền ngày ngày ra rả là "thành quả cách mạng". Rồi chung cuộc là ngụy tạo các thảm nạn trên một đất nước thành "định hướng xã hội chũ nghĩa". Mà thực tế là dân tộc Việt hiện nay cứ bỏ đất nước ra đi dù ra ngoài chỉ để làm lao nô, nô tỳ, nô bộc cho các quốc gia láng giềng vì họ đã quá nhờm tởm bạo quyền, tà quyền, ma quyền ngày ngày dẫm lên lưng, đạp trên vai, nhấn lên đầu của họ bao bất công và tội ác không sao chấp nhận được.
Đất nước Việt hiện nay cạn kiệt tài nguyên tới vì bọn mafia lãnh đạo, với bao ô nhiễm môi trường, môi sinh bị truy diệt[10]. Độc hóa từ thiên nhiên tới thực phẩm, với âm mưu của ngoại xâm Tầu tặc thông đồng với nội xâm tham nhũng mà thế giới có đầy đủ dữ kiện, trong khi dân tộc vẫn bị bộ máy tuyên truyền độc đảng bưng bít, che giấu, đây là một tội ác mà tội phạm học không thể nào bỏ qua được. Khi bọn bạo quyền độc đảng, tà quyền độc trị, ma quyền độc tài, có vài đứa khi đi chơi tại phương Tây, chúng vỗ bụng tục tỉu trước Việt Kiều, rồi cười đểu mà nói là với số tiền của dân tộc mà chúng vơ vét được, thì chúng và con cái, cháu chắt của chúng : "ăn năm đời, mười đời không hết !".Đám đầu nậu tham nhũng này chính là những tội phạm đã gây ra những tội ác, nên tội phạm học phải có mặt để tổng kết bằng vạch mặt chỉ tên (lột mũ bạo quyền, lột mặt nạ tà quyền, lột trần ma quyền) bằng các tiêu chí của : hệ liêm (liêm chính, liêm khiết, liêm sỉ) ; hệ chính (chính tri, chính kiến, chính lý) ; hệ đạo (đạo lý, đạo đức, đạo hạnh).
Đám lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề trích câu của tổ tiên Việt đã để lại cho con cháu Việt :"Sống lâu mới biết lòng người có nhân"[11] mà nhân đây là nhân tính làm nên nhân cách để được song hành cùng nhân từ, nhân nghĩa, nhân tâm, làm nên nhân vị có nhân lý, nhân bản, nhân văn, vì biết đi vào nhân đạo để tạo dựng nên nhân phẩm !
Các người đã
Thô bỉ hóa tư duy Việt
Phê bình làm nên phê phán trong quy trình đào tạo bình thường của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, ai cùng học được :
Xã hội luận phê bình (Sociocritique), định hình môi trường sống của công trình nghiên cứu trong một vũ trụ xã hội, nơi mà khảo sát, điều tra, điền dã, nghiên cứu là một quá trình phê bình xã hội, mang tính chất xã hội hóa riêng của nó và mỗi quá trình xã hội hóa luôn nằm trong một môi trường ý thức hệ nào đó (độc đảng hay đa nguyên, độc tài hay đa tài, toàn trị hay đa trị…). Bản thân người nghiên cứu và người đọc cũng không thoát khỏi môi trường ý thức này, nên công trình nghiên cứu luôn có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với môi trường xã hội và các ý thức hệ trong xã hội đó. Chính xã hội luận phê bình có cơ sở nghiên cứu khách quan đã mang lại những tiến bộ lớn trong học thuật và ngay trong các xã hội có dân chủ đa nguyên, khi chính các công trình nghiên cứu đã lột mặt nạ của mê thức giả danh kiến thức để làm chuyện "đánh lận con đen" mà định hướng dư luận. Nên các chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, như Việt Nam thường vu oan, vu cáo, vu khống, vu họa để chống phương pháp này, vì khi xã hội luận phê bình được thực hiện tơi nơi tới chốn thì bộ máy tuyên truyền sẽ bị vô hiệu hóa, và đám tuyên giáo sẽ bị lột mặt nạ !
Dân tộc luận phê bình (Ethnocritique), nơi mà dân tộc tính được đánh giá qua cá tính của dân tộc đó qua sinh hoạt văn hóa, qua quan hệ xã hội, qua đời sống tâm linh… Dân tộc luận phê bình có thể bắt đầu bằng nghiên cứu các văn bản từ lịch sử tới văn học, để đi sâu vào các điều tra thực địa, nơi mà phê bình tới từ phân tích và giải thích sẽ làm rõ sức thông minh và lực sáng tạo qua các cộng đồng quốc gia, qua các tập thể xã hội, qua các cá nhân có cá tính được định nghĩa như các chủ thể của sáng tạo.
Nói gần nói xa, không qua nói thật là dân tộc luận phê bình còn đi xa hơn thế nữa để vào sâu từng dân tộc tính qua các giai đoạn lịch sử, cụ thể là thủa xưa Việt tộc là một dũng tộc đã thắng bọn Tàu tặc khoảng 20 lần bằng chính lòng dũng cảm của ý chí bất khuất quyết tâm giữ nước ; cũng đã là một minh tộc biết thắng Tàu tặc bằng chính sự thông minh của mình : Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo bằng thủy chiến ; Nguyễn Trãi bằng sự phối hợp giữa kháng chiến, ngoại giao và tâm lý chiến ; Quang Trung bằng tri thức luận quân sự về quản lý không gian và thời gian… Vậy mà dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, thì chí khí của dũng tộc, sáng tạo của minh tộc, xem như bị tiêu tán hóa cùng trước thực chất đớn nhục của Đảng cộng sản Việt Nam là : hèn với giặc, ác với dân ! Đẩy Việt tộc từ dũng tộc, minh tộc sang "hèn tộc", "nhục tộc", đây là một tội ác ngay trên dân tộc tính, là tội đồ trước tiền đồ của tổ tiên, mà cũng là một tội ác trước các thế hệ mai hậu của Việt tộc.
Địa dư luận phê bình (Géocritique) là phương pháp phân tích đặt ưu tiên cho nghiên cứu về tính đặc thù của một không gian địa lý trong phân tích và giải thích. Địa dư luận phê bình chống lại các quy phạm sơ cứng về không gian, thí dụ cụ thể là tháng Bảy năm 2019 này bọn Tàu tặc đã vào lãnh hải của Việt Nam tại bãi Tư Chính, với thái độ xâm lược mà chính phủ độc đảng Việt Nam đã giấu nhẹm dân chúng, hơn 700 trăm tờ báo bồi bút cho Đảng cộng sản Việt Nam đã "im hơi lắng tiếng", để chính các báo đài ngoại quốc thông báo mà dân chúng biết được qua truyền thông quốc tế. Địa dư luận phê bình cho thấy rất rõ trong năm 2019 này là dân Hồng Kông, dân Đài Loan không sợ Trung Quốc, trước đó Philippines còn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về "đường lưỡi bò" của Tàu tặc trên biển Đông, tại sao chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam là sợ Trung Quốc ? Địa dư luận phê bình cho xuất hiện phương pháp giải luận chỉnh lý là Đảng cộng sản Việt Nam sống còn nhờ Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc, phương pháp này cho xuất hiện luôn phương pháp diễn luận toàn lý là lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ mật ước Thành Đô, 1991, chỉ có não trạng cứu đảng, chớ không hề đặt ưu tiên cứu nước lên hàng đầu, tại đây có những lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã mở ra con đường bán nước[12], và đã chuẩn bị não bộ để chấp nhận chuyện mất nước.
Định dạng luận (Formalisme) một phương pháp phân tích và giải thích dựa trên hình thức, mà hình thức ở đây chính là nội dung của nội dung ! Nơi mà lời nói là nhân cách (học ăn học nói, học gói học mở). Nơi mà nhân dạng làm nên nhân vị (cái tai cái tóc là vóc con người) nơi mà tầm vóc vừa là nội công, vừa là bản lĩnh của chủ thể, chính tầm vóc nói lên trình độ tri thức và mức độ tư duy của chủ thể [13]. Ba lãnh đạo cấp bộ, cấp cục, cấp ngành của bạn, mỗi người một cách, làm cả một dân tộc xấu hổ đến "độn thổ" : một tên thứ trưởng Bộ Văn hóa đương nhiệm trao bằng giáo sư cho một ca sĩ chưa bao giờ đặt chân tới đại học để làm luận án tiến sĩ nhạc học, rồi sau đó phong một chức mới "nữ hoàng tâm linh" cho một bà hát hầu đồng. Một bà giám đốc cục của Bộ Văn hóa, được quần chúng đặt tên là bà "tiến sĩ lon", vì bà ra lịnh cấm Coca Cola dùng chữ lon trong quảng cáo (mở lon Việt Nam), vì qua cảm nhận của bà "tiến sĩ lon" này, thì bà thấy "quan ngại" chữ lon trong "mộng tưởng" của bà có thể bị thêm dấu, thêm mũ để hiểu sang một chữ khác mang nghĩa của một chữ tục có thể xúc phạm tới phụ nữ…
Một bà đại biểu của hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chính Minh, lại là trưởng ban Đô thị trong hội đồng này, cũng là giám đốc ban Nhân học của đại học cũng tại thành phố này, bà được quần chúng đặt tên là bà "tiến sĩ lu", vì bà đề nghị mỗi nhà nên có một cái lu để chống lại chuyện ngập lụt trong thành phố hơn 10 triệu dân này vào các mùa mưa. Não trạng của bà "tiến sĩ lu", làm cả nước "hoảng hồn" đến "điếng hồn" về trình độ não nạn của bà. Và trong cơn vừa bực tức quần chúng, lại vừa hờn căm mạng xã hội, bà đề nghị luôn là nên dùng "luật an ninh mạng" để trừng phạt những ai "dám giễu cợt" trên đề nghị mỗi nhà một cái lu của bà. Chưa xong bà còn biến cái ngu thành cái ác khi bà đề nghị là "tống cổ" dân định cư, theo bà là trái phép ra khỏi thành phố mang tên "Bác Hồ" ! Đây là một hành vi kỳ thị rất bất chính và hoàn toàn ngược lại với nghiệp vụ học của người trí thức.
Định dạng luận cũng như xã hội luận phê bình, dân tộc luận phê bình, địa dư luận phê bình không hề lý thuyết và rất cụ thể, vì đa năng nên đa hiệu để phân tích nhân diện, nhân dạng, nhân cách của các lãnh đạo bất tài vô tướng, có quyền lực qua quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để truy diệt trí tuệ. Trong khi quần chúng giễu cợt-cười trêu : "thứ trưởng văn hóa của nữ hoàng tâm linh", "tiến sĩ lon", "tiến sĩ lu"… (gian nghiệp trong điếm lộ), Đảng cộng sản Việt Nam có các lãnh đạo, các cấp trên của bạn với não trạng lon lu gây bao não loạn rồi não nạn cho dân lành ; "chạy tội" cho bọn não sạn này không khác gì chính ta đang thanh trừng thông minh của ta, thì không khác gì chính ta đang truy diệt trí tuệ của ta !
Các người đã
Bạo quyền hóa đời sống Việt
Một chế độ độc đảng-toàn trị biết là nó không sao "bao thầu" tất cả mọi quan hệ xã hội, biết là nó không sao "cáng đáng" nổi tất cả mọi đời sống xã hội, biết là nó không sao "xiết cổ" nổi tất cả mọi sinh hoạt xã hội, nên nó phải "vơ đũa cả nắm" ! Ngạn ngữ "vơ đũa cả nắm" đã thành định nghĩa để vạch mặt chỉ tên chế độ độc đảng-toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay đang vùi dập số phận của Việt tộc xuống bùn nhơ. Để lột mặt nạ chế độ độc đảng-toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, vận dụng như các chỉ báo để nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã, và các chỉ báo này rất dễ hiểu qua bốn hệ sau : hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) ; hệ toàn (toàn trị, toàn bộ, toàn thể, toàn khối) ; hệ kiểm (kiểm duyệt, kiểm soát, kiểm tra, kiểm định) ; hệ thanh (thanh tra, thanh lọc, thanh trừng, thanh toán).
Các chỉ báo này giúp ta phân loại các thế hệ lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ra từng thành phần trong từng giai đoạn khi họ đi từ tội phạm này sang tội phạm khác, từ tội ác này sang tội ác khác, qua phương pháp phân loại hóa (catégorisation) của xã hội học[14] ; và khi tổng kết về các chế độ độc đảng-toàn trị trên thế giới, câu nói của tổ tiên ta rất đúng : cá mè một lứa ! Hãy trở lại cấu trúc của phương pháp này đã dựa trên nhiều phương pháp khác của KHXHNV, để thấy lỗi, đẻ nhận ra tội của nền giáo dục đại học hiện nay do độc đảng quản lý với thực trạng học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ; Hãy tận dụng các phương pháp cần biết khi tiếp cận với nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã thực địa[15] về các thảm họa mà Việt tộc đang nhận lảnh :
Chức năng luận (Fonctionnalisme) là phương pháp tương đối phổ thông trong KHXHNV đề nghị nghiên cứu về tổ chức qua chuyên môn của chức năng, để khảo sát các quyết định trong hành chính, từ đó tổ chức sự vận hành của cơ chế, cùng lúc nghiên cứu luôn các khủng hoảng có thể xẩy ra không những trong cơ chế mà còn lan tỏa ra xã hội. Chức năng luận chuẩn đoán những khủng hoảng qua định nghĩa để định vị chức năng, tại đây lý luận mọi tổ chức là một tập hợp của các chức năng khác nhau được xếp theo hàng dọc rồi hàng ngang, để giới hạn các tự do của cá nhân, và cá nhân chỉ được đánh giá qua chức năng. Chức năng luận chỉ thấy mỗi cá nhân là một con số, không có cá tính, chỉ có chức năng, chỉ là một phần tử trong một tập hợp chính là guồng máy, mà từ sáng kiến tới sáng tạo cá nhân không được tôn vinh, từ đó nó duy lý hóa một cách máy móc mọi quan hệ xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, mọi đời sống xã hội. Nó lý luận cạn tàu ráo máng là mọi chức năng, mọi phần tử đều có thể thay thế được, như người ta thay thế cầu chì, bóng đèn là điện cứ phát điện, nên khi áp dụng vào nhân sinh, thì nó càng ráo máng cạn tầu hơn, vì nó luôn có ý đồ vắt chanh bỏ vỏ !
Đây là cách đối nhân xử thế giữa những người cộng sản, mà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam rất nhẫn tâm trong vô cảm khi họ thành trừng nhau. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới này điều bị vướng vào tội ác này, không những thanh trừng nhau mà họ còn tàn sát dân lành, họ diệt chủng luôn chính dân tộc họ, đó là trường hợp của bọn diệt chủng Khmer đỏ. Nên khi định lượng về các cuộc thảm sát do các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới, từ khi có chế độ độc đảng-toàn trị tại Liên Xô 1917, thì con số nạn nhận đã vượt lên hơn một trăm triệu người, gấp nhiều lần tội ác của bọn Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến. Chức năng luận thật là con dao hai lưỡi, khi nó được dùng để tổ chức các nhà máy trong giai đoạn xây dựng công nghệ cơ khí và sản xuất xe hơi, thì nó làm ra bao của cải cho các nước phương Tây, nhất là Mỹ ; nhưng khi nó bị các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới vo tròn bóp méo nó, thì hậu quả của nó thật tán tận lương tâm !
Cấu trúc luận (structuralisme), tìm cách đi ngược lại với chức năng luận, nếu chức năng luận lý luận là mọi chức năng, mọi phần tử, mọi bộ phận đều có thể thay thế được, hư thì vất đi, thế bằng cái mới thì nguồn máy sẽ hoạt động trở lại ; đây là bản chất máy móc trong quan hệ giữa phần tử và tổng thể. Cấu trúc luận thì lý luận ngược lại là quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội là những tổng thể sống như cơ thể của con người, phần tử này tùy thuộc phân tử kia, bộ phận này lệ thuộc vào bộ phận kia, nên chức năng này được định nghĩa và định vị bởi chức năng kia, làm nên quan hệ sống còn của nguồn máy, của tổ chức, của cơ chế. Cụ thể là khi tim ngừng đập, thì các nội tạng khác sẽ ngừng theo, và thân thể sẽ chết, chính tính lệ thuộc lẫn nhau này làm nên quan hệ tùy thuộc nơi mà một tổ chức là tập hợp những phần tử, phần tử này sống nhờ phần tử kia.
Quan hệ sinh tử này được ứng dụng trong dân tộc học mà tên gọi hiện nay là nhân học để giải thích quan hệ huyết thống tự gia tộc tới thống tộc, theo hàng dọc tự tổ tiên tới con cái, cháu chắt, làm nên quan hệ sống còn trong trật tự gia đình. Cấu trúc luận không ngừng ở dân tộc học, xã hội học… mà còn đi sâu vào ngôn ngữ học, khi nó giải thích trong một câu luôn luôn có : chủ từ, động từ, túc từ, chỉ cần một trong ba phần tử này mất đi, thì ngôn ngữ sẽ không sử dụng được, sẽ đưa đối thoại, trao đổi, truyền thông đi vào ngõ cụt, tức là không ai hiểu ai hết ! Cấu trúc luận xếp cá nhân vào trật tự sống còn của tập thể, nên nó tổ chức luôn nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của cá nhân. Tại đây, cấu trúc luận đã bị các đảng cộng sản lạm dụng để lập ra một cơ chế xã hội toàn trị, nơi mà độc tài qua độc đảng nắm toàn bộ bộ máy tuyên truyền để đánh lận con đen về các sự thật của nhân sinh, các chân lý của nhân tính, các lẽ phải của nhân tâm, để chế tác ra các quái thai chống nhân lý và nhân tri : "dân chủ thì phải tập trung" ; "dân làm chủ nhưng đảng lãnh đạo" ; "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý và đảng chỉ đạo"[16].
Đây không phải là cấu trúc luận khoa học mà là kiến trúc luận lưu manh ! Nơi mà duy vật hiểu theo nghĩa tồi tệ nhất để trở thành tội lỗi nhất, kiến trúc lưu manh với lý luận côn đồ xuất đầu lộ diện để truy diệt duy lý theo nghĩa nhân lý nhất ; và duy tâm theo nghĩa nhân tâm nhất[17].
Văn hóa luận (culturalisme), nơi mà văn hóa là kiến thức của cộng đồng, tri thức của tập thể, tại đây văn hóa luận phân tích và giải thích văn hóa như một hệ thống trật tự để tổ chức các phong tục tập quán, thói quen… như văn hóa đã tổ chức các kinh nghiệm, các kiến thức, các vốn liếng của tổ tiên để làm nên đạo lý cho cộng đồng và ý thức cho tập thể. Văn hóa luận tôn trọng để tôn vinh truyền thống, từ thờ cúng tới lễ hội… nơi mà các giá trị văn hóa chính là các giá trị tâm linh với ý nghĩa của đạo lý, với nội dung của luân lý.
Chính văn hóa xếp đặt các hành vi của cá nhân được lập lại theo truyền thống, nó xếp đặt luôn các lề thói về cưới hỏi, kinh tế, trao đổi… Văn hóa luận còn đi xa hơn nữa khi nó tổ chức các sinh hoạt ưu tiên : ngôn ngữ trong truyền thông, tư tưởng trong xã hội, ý thức trong hành động, nên văn hóa vừa có mặt trong quản lý xã hội, vừa có mặt trong môi trường giáo dục của một cộng đồng ; của một dân tộc. Chính văn hóa làm nên cho ý thức tập thể ; văn hóa biết biến cái tối đa của kiến thức thành cái tối đa của ý thức, để tạo nên sự đồng cảm giữa các thành viên có chung một văn hóa.
Khi các đảng cộng sản muốn cướp chính quyền, để sau đó áp đặt độc đảng qua độc trị, độc tài, độc quyền, độc tôn, thì các lãnh đạo cộng sản luôn tìm cách tấn công văn hóa, truy diệt truyền thống của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của một dân tộc, giúp dân tộc đó sống có bổn phận với giống nòi, và sống có trách nhiệm với đất nước. Mao đã giật dây dân tộc của hắn để làm Cách mạng văn hóa, chính là để hủy diệt văn hóa truyền thống. Và tên tội đồ này đã thí mạng bao triệu nạn nhân trong cuộc thảm sát này, mà nó không hề là một cuộc cách mạng văn hóa, mà thực chất là hủy diệt truyền thống văn hóa. Rồi Đảng cộng sản Việt Nam nối gót theo Đảng cộng sản Trung Quốc để làm Cải cách ruộng đất, vừa để thảm sát hàng trăm ngàn sinh linh bị vu cáo rồi vu khống là các thành phần địa chủ. Đây không hề là một cải cách mà là cuộc truy cùng diệt tận quan hệ làng nước trong quan hệ láng giềng cao đẹp trong văn hóa truyền thống Việt : bán bà con xa, mua láng giềng gần.
Các người đã :
Ma quyền hóa sinh hoạt Việt
Chủ động luận (dynamisme), đề nghị nghiên cứu thật sâu vào tính đa nguyên tạo ra đa tài, đa lực, đa trí, đa hiệu, đa năng, không những làm nền cho dân chủ, mà cũng là nội lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc để hiểu tính chủ động thường trực trước mọi đổi thay xã hội, biến hóa thời cuộc, tiến bộ khoa học kỹ thuật… Chủ động luận đề nghị xem cạnh tranh trong thương mại, kinh tế là hằng số của nhân sinh, có cạnh tranh mới có tiến bộ ; cùng lúc chấp nhận tranh đua trong khoa học kỹ thuật như là một thực thể thường nhật của nhân sinh, vì có tranh đua mới có hiện đại hóa. Chủ động luận luôn đặt ra các câu hỏi để đánh giá lại các quyết đoán được rà soát lại bởi quá trình đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động.
Đây chính là sung lực của đa nguyên, làm nên quá trình đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng bằng phản biện để phản luận, làm hùng lực cho dân chủ đưa xã hội thăng tiến, đưa dân tộc thăng hoa. Chính hai quá trình này : đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động trong đa nguyên để khơi dậy đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, tạo sinh lực cho đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng, từ đó lấy cái đúng thuyết phục được cái sai, vì cái đa luôn khôn ngoan hơn cái độc, và khi dân chủ cô lập được độc tài, khi đa nguyên vô hiệu hóa được độc đảng, thì cái độc hại của độc trị sẽ không vận dụng được cái ác để gây ra tội ác. Không nên trông chờ hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) chấp nhận chia lợi, chia quyền, cụ thể là chung-chia với hệ đa (đa nguyên, đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu). Vì chung để chia, thì hệ độc sẽ mất hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân)[18] của nó !
Chỉnh lý luận (rationalisme), bắt đầu bằng đề nghị tìm hiểu để giải thích tính duy lý khi con người đặt quyền lợi của mình trên quyền lợi của người khác, cụ thể là cá nhân chỉ thấy tư lợi của mình, nếu duy lý như vậy thì tự lợi của người này có thể gây nên thiệt hại cho người kia, thfi đây chỉ là loại ích kỷ thô thiển. Nên từ đây, chỉnh lý luận phân tích các thỏa thuận giữa các duy lý khác nhau, đang xung đột nhau để tìm ra tính hợp lý được tập thể, cộng đồng, xã hội công nhận, từ đó định nghĩa lại quyền lợi của cá nhân, vẫn giữ tư lợi nhưng phải biết là tư lợi không được gây hậu quả xấu tới tha nhân. Khi có được thỏa hiệp về quyền lợi cá nhân làm nên tư lợi cho mọi cá thể, thì tính toàn lý sẽ xuất hiện để bảo đảm tự do cá nhân được có mặt và được tăng tư lợi trong cuộc sống ; mà không quên công bằng xã hội giữa các cá nhân, các tập thể, nơi mà công bằng luôn có chỗ dựa là công lý[19]. Và, chính tự do cá nhân và công bằng xã hội cho phép bác ái ra đời trong đoàn kết và tương trợ, qua các cơ chế xã hội có mặt tự do cạnh tranh, nhưng cũng có mặt các hội đoàn từ thiện, các chủ thể thiện nguyện, các tổ chức nhân đạo…
Nên phương trình tự do-công bằng-bác ái tưởng là mâu thuẫn nhau, nhưng thực sự hỗ trợ cho nhau trong quan hệ hỗ tương chung-chia để chung-sống. Khi duy lý đã được điều chế bởi quá trình chỉnh lý-hợp lý-toàn lý thì duy lý sẽ rộng mở và sẽ rời duy lợi vì tư lợi để nhập nội vào quy trình chung để chia và chia để chung với tha nhân, với đồng loại, trên nguyên tắc của cộng hòa vì công ích xã hội qua phương trình tự do-công bằng-bác ái của dân chủ. Đây là chuyện mà một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ làm được, vì tự do dẫn tới đa nguyên, công bằng dẫn tới dân chủ, và bác ái dẫn tới nhân quyền, một quá trình của nhân trí phục vụ nhân vị, nhân tri phục vụ nhân tính, nhân lý phục vụ nhân tâm. Một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ muốn có tự do-công bằng-bác ái để phải công nhận đa nguyên-dân chủ-nhân quyền. Vì vậy các chế độ độc đảng-toàn trị luôn luôn đi về hướng : bất nhân !
Cá nhân luận (individualisme), không phải là cá nhân chủ nghĩa sẽ dẫn tới ích kỷ chủ nghĩa, mà cá nhân luận đưa ra định đề là mỗi cá nhân là một đơn vị tính toán của thống kê, là đối tượng của điều tra, khảo sát, nghiên cứu về một sắc tộc trong dân tộc học, về một xã hội trong xã hội học, về một đơn vị lao động trong kinh tế học…[20] Nên cá nhân là căn bản của mọi phân tích, nguyên tắc của mọi giải thích, và Weber đã cho ra đời cá nhân phương pháp luận (individualisme méthodologique) để đi sâu vào các dữ kiện xã hội, trong đó có các nguyên tắc tổ chức của tập thể, của cộng đồng, và sâu hơn nữa là các giá trị luân lý được đại diện bởi chính các cá nhân, thay mặt cho thân tộc, thống tộc, dân tộc của mình. Cá nhân luận là nơi nhận diện các trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa cũng như trong quyết định trước khi hành động. Chính Tocqueville đã thấy được cá nhân luận là tiền đề của xã hội dân chủ, vì nó biết chống lại các thái độ độc tài, các hành vi độc đoán, các hành động độc tôn. Cách hành xử cả vú lấp miệng em không có chỗ đứng, ghế ngồi trong cá nhân luận, cho nên các chế độ độc đảng-toàn trị đứng ngồi không yên rồi mất ăn mất ngủ với cá nhân luận. Vì nó biết cổ súy tính đa nguyên của các cá nhân, vì nó biết cổ vũ tính sáng tạo qua sáng kiến trong phương pháp giải quyết của cá nhân luận để chống lại các quy luật độc trị được độc tài phổ biến qua tuyên truyền.
Cá nhân luận còn đi xa hơn khi nó phân tích quá trình thành lập các phong trào xã hội, tới từ các công đoàn tôn vinh dân chủ, các nghiệp đoàn tôn trọng nhân quyền để tạo ra các so sánh lực lượng mới, làm tiền đề cho cải cách thực sự đưa dân tộc thăng hoa. Cá nhân luận định nghĩa cá nhân không chỉ là một cá thể mà là một chủ thể có sáng kiến để có sáng tạo làm nên lực đẩy, dàn phóng cho chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng tích cực. Cá nhân luận làm ra chủ thể có ý thức, không bao giờ vô cảm trước bổn phận với dân tộc, không bao giờ vô tâm trước trách nhiệm với đất nước. Cá nhân luận xây dựng chủ thể có lương tâm với với đồng bào, sống lương thiện với xã hội, luôn giữ lương tri với tiền đồ dân tộc.
Và trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, các chủ thể chính thống lại là các tù nhân lương tâm, đang trong vòng lao lý, vì quả cảm đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ, họ đang bị hành hạ, đày đọa bởi bạo quyền. Chính các tù nhân lương tâm này đã và đang đại diện cho hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) cho Việt tộc ! Cá nhân luận là một trong những gốc, rễ, cội, nguồn để thay, để tháo, để gỡ, để xóa độc đảng-toàn trị đang sâu dân mọt nước qua hệ tham (tham quan, tham ô, tham quyền, tham quan, tham tiền), đang bòn rút của cải dân tộc, đang tiêu hủy tài nguyên đất nước.
Tri thức luận (cognitivisme), rời bỏ để dứt khoát với mọi phương pháp dựa trên siêu hình học (linh hồn, thiên đàng, địa ngục…) để lập lại quá trình xây dựng ý thức chỉ bằng kiến thức thí nghiệm được, tri thức kiểm chứng được. Tri thức luận thẳng thắn chấm dứt với mê tín, dị đoan, và đã chọn khoa học não bộ và khoa học thần kinh làm tiền đề và thượng nguồn để khám phá quá trình xây dựng tri thức của con người biết chế tác ra niềm tin dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có đạo đức của chân, hiện, mỹ, có luân lý của bổn phận và trách nhiệm của mọi cá thể muốn sống đúng và sống chung cùng một xã hội với tha nhân. Hai trường phái chính của não bộ học vừa đối lập nhau, vừa bổ sung cho nhau trong qua trình giãi thích các sinh hoạt của não bộ : trường phái duy vật mang định đề chỉ có bộ óc là nơi quyết định tất cả mọi việc ; và trường phái môi trường thì tạo định luận qua bối cảnh của môi trường xã hội sẽ tác động trực tiếp lên năng lực của não bộ, cụ thể là não bộ thay đổi và chuyển hóa theo môi trường.
Trong nghiên cứu về tâm lý học tri thức thì Jame nhận định vai trò của bộ óc là để bảo đảm thăng bằng bền vững cho cá nhân ; và Watson đã đi sâu thêm khi giải thích bộ óc mang sung lực tổ chức hóa mọi hành động của cá nhân. Trong các công trình về não bộ học thì Churchland đưa ra các phân tích về bộ óc là nơi có khả năng diễn luận kinh nghiệm của cuộc sống, từ đó biến thành ý thức để xây dựng ra các hành động cho tương lai, lý luận này được tiếp nối bởi các công trình của Edelman nhận định bộ óc như một hệ thống biết tự tổ chức, nơi mà ý thức làm tiền đề tạo dựng lên các cơ sở lý giãi để phân loại và so sánh các sự kiện.
Chính não bộ học[21] thăng tiến liên tục với những khám phá mới về các khu vực sinh hoạt của nảo đã cũng cố vai trò giải luận của tri thức luận, hiện có chỗ đứng trung tâm trong hầu hết các chuyên ngành của khoa học xã hội nhân văn. Trong tình hình của xã hội Việt Nam dưới bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền thì tri thức luận là nguồn nước ngầm sẽ trở thành sóng thần trong tương lai để giúp mọi công dân của Việt tộc thay đổi não trạng sau bao năm làm nạn nhân của bộ máy tuyên truyền ngu dân trong mê lộ của dối trá, gian manh, lừa đảo[22].
Tri thức luận đủ nội lực để xóa đi nguồn máy độc tài nhưng bất tài trong việc bảo vệ đất nước, đủ sung lực để loại bỏ bộ máy độc trị nhưng không biết quản trị để đưa dân tộc vào tiến bộ và văn minh. Tri thức luận biết phối hợp với tất cả các nghành KHXHNV để giúp dân chủ trong đa nguyên lột mặt nạ bọn tổ chức học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cùng lúc lột trần quá trình mua điểm-bán bằng trong tà lộ của mua chức chức-bán quyền, để vạch mặt chỉ tên bọn sâu dân mọt nước đang lẩn lút như âm binh trong ma lộ của buôn dân-bán nước cho Tàu tặc. Vì tri thức luận biết quản lý sự thật-chân lý-lẽ phải bằng hệ thức, nơi mà kiến thức là sung lực của tri thức, ý thức là hùng lực của nhận thức.
Các người đã
Tàu nạn hóa dân tộc Việt
Ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp là một tổng thể hoàn chính để định nghĩa một thực tế, từ đó lập nên định đề để định luận qua hệ luận : có lý luận để tìm ra đường đi nước bước, có lập luận biết xây dựng từ nền lên mái ; có giải luận để hiểu đâu là hằng số, đâu là biến số của tội ác, để thấu luôn đâu làm hàm số, đâu là ẩn số của tội phạm ; có diễn luận theo cấp bậc : đâu là lỗi, đâu là tội, bằng phương pháp luận của khoa học xã hội của thực địa (dân tộc học, sử học, nhân học…) [23] và của khoa học nhân văn của văn bản (ngôn ngữ học, triết học, văn học…), nên định nghĩa dọn đường cho định đề, chọn chỗ cho định luận :
Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển, rồi còn bắn giết, sát hại ngư dân Việt trước một Đảng cộng sản Việt Nam nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tầu tặc, từ ngày quy hàng Đảng cộng sản Trung Quốc qua mật ước Thành Đô, từ đó cho tới nay Tầu tặc đã nắm dao đằng chuôi để Đảng cộng sản Việt Nam phải đứng trước mũi dao để ngày ngày phải : hèn với giặc-ác với dân.
Tàu nạn, đang hằng ngày đe dọa Việt tộc với ô nhiễm môi trường, nơi mà môi sinh bị truy diệt bởi chính các tập đoàn mang công nghiệp bẩn của Tàu sang đất Việt, từ các nhà máy luyện thép tới các nhà máy điện than, đang tạo ra các làng ung thư. Với cả Tây nguyên bị khai thác vô tội vạ, bầy nhầy nhiễm ô. Mà ta không được quên thực phẩm bẩn với hóa chất độc tới từ Tầu tạo ra ung thư cấp quốc gia mà các cơ quan y khoa quốc tế đã xếp Việt Nam là một quốc gia đang trong vòng tử nạn của ung thư hóa, một chuyện chưa bao giờ có tại Việt Nam, và không thể tưởng tượng được trong tư duy bình thường của các công dân các quốc gia văn minh.
Tàu hoạn, không những thông đồng với bọn phản dân hại nước, mà Việt tộc gọi chúng là : nội xâm ! Cả ngoại xâm Tàu hoạn và nội xâm (tham quyền để tham tiền, tham quan để tham nhũng), đã và đang biến dân Việt thành lao nô, nô tỳ thấp kém nhất cho chúng sỉ nhục ngay trên đất Tàu, bị hành hạ như loại nô lệ giữa thế kỷ XXI này. Chưa hết, chúng còn tổ chức bắt cóc người Việt từ trẻ con tới phụ nữ để mổ mà cướp nội tạng của đồng bào ta, cái hoạn của Tầu là cái hèn của Đảng cộng sản Việt Nam làm nên cái nhục cho Việt tộc.
Tàu họa, đúng là họa : họa mất nước, họa nô lệ, họa diệt vong… tất cả từ Tầu, dưới bóng đêm của âm binh buôn dân bán nước của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền lẩn lút trong gian nghiệp của điếm lộ. Bắt đầu là Tầu trúng thầu qua tham nhũng để tham quan vơ vét trước, sau đó chính dân tộc lãnh mọi hậu nạn, với các công trình đội vốn, rồi dân Việt còng lưng để trả thuế, lẫn nợ công đã ngập đầu, ngập mặt. Một dân tộc nheo nhóc trong mê lộ, với một tập đoàn lãnh đạo mà thực chất là một tập đoàn tội phạm đã có nhà, có của, có thẻ xanh, có thẻ cư trú tại phương Tây.
Mô thức giải luận về Tàu nạn-Tàu tặc-Tàu hoạn-Tàu họa, lập ra để dẫn đến mô hình lập luận thế nào là Tàu tà nơi mà cái xấu, tồi, tục, dở của Tàu tà sẽ được thực hiện qua cái thâm, độc, ác, hiểm của Tàu tặc sẽ xóa, loại, diệt, hủy mọi đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của Việt tộc !
Các người đã
Mạt vận hóa chính sự Việt
Đây không chỉ là ngữ pháp, mà là mô thức giải luận cũng để tới được mô hình lập luận về đám bạo quyền lãnh đạo, về lũ tà quyền tham quan, về bọn ma quyền tham tiền, khi tôi lập nhân dạng qua xã hội học để nhận ra nhân diện của chúng qua tâm lý học, rồi phân tích nhân cách của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam qua chính trị học ; với các chỉ báo sau đây : họtự kiêudù họ biết họ tồi hơn thiên hạ. Họtự mãndù họ biết họ xấu hơn bá tánh. Họtự phụdù họ biết họ thấp hơn quốc tế. Họtự đạidù họ biết họ dở hơn tha nhân. Họ tự kiêu nhưng họkhông tự tin, vì họ không có nội công trong lý của trí. Họ tự mãnnhưng họ không tự chủ, vì họ không có bản lĩnh trong trí của tuệ. Họ tự phụ nhưng họ không tự trọng, vì họ không có tầm vóc trong tuệ của giác. Họ tự đại nhưng họ đầy tự ty, vì họ không có hùng lực trong đạo của lý. Họ dùng độc đảng của họ để họ ăn hiếp dân tộc họ,nhưng họ lại cúi đầu trướcbạo quyền Tàu tặc Họ dùng độc tài của họ để họ hiếp đáp dân tộc họ, nhưng họ lại cong lưng trướctà quyền Tàu hoạn. Họ dùng độc quyền của họ để họ trấn áp dân tộc họ nhưng họ lại quỳ gối trướcma quyền Tàu họa. Nên mô thức giải luận của mô hình lập luận đốn mạt nghiệp-mạt vận kiếp rất hợp với "chân dung quyền lực" của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam !
Theo chân phản xạ của bạo quyền độc trị, của phản ứng tà quyền độc tôn, theo ứng xử của ma quyền độc tài, mà trong triết học đạo đức người ta đã gọi là liên minh giữa âm binh luôn tham quyền-lạm quyền-lộng quyền cho tới chết. Đốn mạt vận tới khốn nạn kiếp là bọn bút nô, ký nô, báo nô của các người vu khống để vu cáo với ngữ pháp thô thiển cùng ngữ văn thô bỉ về các công trình nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã rất liêm chính về số phận Việt tộc đang bên bờ vực thẳm dưới chế độ độc đảng có nọc độc hại của nội xâm, đang lập lờ mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc xâm chiếm rồi xâm lược đất nước Việt.
Đảng cộng sản Việt Nam nuôi dưỡng bọn bút nô, ký nô, báo nô khi ngậm máu phun người thì chúng lại giấu tên, chúng không dám đối diện với chứng từ của khoa học vì chúng không bao giờ dám đối luận với chứng cớ để lập luận, giải luận với chứng tích để có diễn luận khách quan. Một chế độ độc đảng lấy tiền thuế của dân để nuôi bọn bút nô, ký nô, báo nô cùng một lực lượng ngàn ngàn dư luận viên lẩn lút như ma trơi, ma xó, ma bùn để làm công việc chó cắn trộm. Nạn nhân của cuộc thanh trừng chống Nhân Văn giai phẩm, Trần Dần[24] biết rất rõ bọn này, Trần Dần đặt tên cho chúng là bọn chuyên nghề : chém sau lưng ! và khi cơ chế của Đảng cộng sản Việt Nam sinh đẻ ra loài nửa dơi, nửa chuột này thì bạo quyền đã nhập nội với tà quyền thành ma quyền rồi ! Khi được thông báo về lực lượng âm binh này, thì chính các chuyên gia quốc tế tư vấn cho các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ đã thấy Việt tộc đang sa cơ vào : tà lộ của ma quyền[25].
Các người đã
Gian trá hóa niềm tin Việt
Gần mực thì đen nên gần âm binh thì bị lây ám khí, những đứa con tin yêu của học thuật, những đứa con yêu dấu của nghệ thuật thành, những người "dị ứng" với Đảng cộng sản Việt Nam, lợm giọng mỗi lần Đảng cộng sản Việt Nam lấy công an, lấy giám hiệu, lấy đảng bộ ra dọa nạt những người trí thức đang giảng dạy tại các đại học. Đảng cộng sản Việt Nam không biết đây là thất bại nhân tâm đã dắt tới thảm bại nhân đức từ khi Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt chế độ công an trị lên nhân kiếp của Việt tộc gần một thế kỷ qua. Muốn hiểu sự thất bại về nhân tâm, sự thảm bại về nhân đức, thì các người chỉ cần suy nghiệm chỉ một câu của triết gia Ricoeur : "Một chế độ tốt có cơ chế tốt làm nên đời sống tốt vì biết dựa vào quan hệ tốt". Chỉ một chữ tốt mà nó bao trùm từ sinh hoạt xã hội tới quan hệ xã hội làm nên đời sống xã hội[26].
Trong số kiếp của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ họ suy nghiệm để suy ngẫm, suy tư đàng hoàng để tư duy tử tế về chữ tốt này. Vì nếu các người có tâm nguyện đạo lý về chữ tốt này, thì các người đâu có bị nhân dân hiện nay đặt biệt hiệu là : mưu hèn kế bẩn. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không đi tìm đâu xa, cũng không cần học ngoại ngữ, các người chỉ cần lấy môt ca từ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương trong ca khúc Ly Rượu Mừng : sáng cuộc đời lành ! ra mà tâm niệm để tâm huyết, rồi biến ý nguyện sáng lành này thành ý lực sáng tốt, từ đó các người sẽ thấy nhân sinh quan của các người tốt hơn, sẽ nhận ra thế giới quan của các người lành hơn.
Ăn ở có nhân để có hậu là đạo lý cốt lõi của tổ tiên Việt, vận dụng bao đời để giáo dục rồi giáo dưỡng Việt tộc. Không bao giờ có chữ nhân trong sinh hoạt đảng, vì chữ nhân[27] này không bao giờ có trong chính sách, trong nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam, thì đừng mong nó có trong nhật thứ của Đảng cộng sản Việt Nam, vì nó hoàn toàn vắng bóng trong ngữ pháp từ khi các người lập đảng. Vì lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam được viết bởi ngữ pháp gian trá, ngữ văn gian manh, ngữ vựng gian xảo mà kẻ bị lừa chính là dân tộc Việt ! Cả một giống nòi đã là nạn nhân từ khi Đảng cộng sản Việt Nam nắm chính quyền, và gần một trăm triệu nạn nhân hiện nay vẫn phải gánh chịu, các người chính là thủ phạm đã biến nhân kiếp của Việt tộc thành nhục kiếp !
Vô trương bất tín, không thấy không tin nên thấy rồi mới tin, nơi mà kinh nghiệm và trải nghiệm chỉ là một : trả giá bằng kinh nghiệm cá nhân để nhận rõ thật hư, để hiểu rõ vàng thau. Những nạn nhân vì bị các người lừa thủa Mặt trận Việt Minh, những nạn nhân buổi giao thời 1975, khi các người tuyên truyền là du học sinh miền Nam nên về quê hương vì đã có hòa bình, thống nhất rồi nên về phục vụ, để xây dựng lại quê hương dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Những nạn nhân là du học sinh sau thế chiến thứ hai như Trần Đức Thảo, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện… đã cả tin Hồ Chí Minh, họ đã về nước theo lời gọi gian trá, lời hứa gian manh, lời nguyện gian xảo của các người. Họ trở về và họ đã thí mạng [28] !
Các người đã
Gian lận hóa nỗi niềm Việt
Thức khuya mới biết đêm dài, chữ có-nhân-để-có-hậu của tổ tiên Việt luôn đối trọng để đối kháng với cái bất nhân-nên-vô hậu có trong hành xử gian trá, hành tác gian manh, hành động gian xảo của Đảng cộng sản Việt Nam. Muốn thấu hiểu tâm địa rất độc địa của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong phản xạ truy diệt các nhân sĩ yêu nước không theo Đảng cộng sản Việt Nam, thì khẩu lệnh kiểu sát nhân của Tố Hữu có ngay : "giết, giết, giết..." rồi "nhắm thẳng đầu thù mà bắn" ... thì tâm địa sát khí dày đặc độc khí tuyên truyền sát nhân biến dã tâm thành ác luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhưng Việt tộc luôn tin vào nhân phẩm làm nên nhân vị, để nhân từ tạo nên nhân cách, con người có thể sống lành, sống tốt mà không coi ai là đối thủ của ai, không coi ai là đối phương của ai, Việt tộc không biến tha nhân thành kẻ thù, rồi thành tử thù để phải giết nhau giữa nhân sinh. Như Đảng cộng sản Việt Nam đã dựng lên kịch bản 1954-1975, với thảm cảnh huynh đệ tương tàn, với hàng triệu triệu con dân Việt, phải bôi mặt để giết nhau trong cuộc nội chiến Bắc-Nam ![29] "Tôi từ chối giết người, vì giết người rồi, tôi sống với ai ?", đó là một ca từ của của nhạc sĩ Phạm Duy, mà các người có thể ngồi thật yên, thở thật sâu với nhân vị thiền định để suy nghĩ về nhân cách đã trống nhân tâm, về nhân cách đã vắng nhân tính khi Đảng cộng sản Việt Nam chỉ biết dùng bạo lực với đồng bào của mình.
Vụ Thủ Thiêm đã hàng chục năm với hơn hàng chục ngàn đồng bào, một sớm một chiều từ dân lành thành dân oan trong bi cảnh đầu đường xó chợ ; vụ vườn rau Lộc Hưng với hàng trăm gia đình trong họa cảnh màn trời chiếu đất ; cả hai vụ đều chưa dứt nước mắt thì các người mang hàng ngàn công an ngày 09 tháng giêng 2020, tới sát hại một đồng chí lão thành của các người : cụ Lê Đình Kình, một người còn nhân vị trước công lý, vì biết giữ nhân cách để đấu tranh vì công bằng. Còn các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì nhân tâm đã mất nên nhân vị chẳng còn, nhân đức vắng biệt nên nhân cách đã bỏ đi biền biệt, vĩnh viễn đi mất tăm, mất tích, khi Đảng cộng sản Việt Nam đã mổ bụng, phanh thây cụ Lê Đình Kình. Ý đồ của Đảng cộng sản Việt Nam là đe dọa dân lành đang đấu tranh đòi công bằng, gào công lý, các người tự vỗ ngực là bạo quyền sát thủ, là tà quyền sát nhân, mà không quên sử dụng ma quyền côn đồ, lưu manh, xã hội đen để ngày ngày truy hiếp dân lành, dân den, dân oan.
Khẩu phật tâm xà là dư âm của loài lòng lang dạ sói khi ông Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư chúc tết đồng bào, luân lý bị đánh tráo, đạo lý bị đánh sụp, đạo đức bị mổ bụng phanh thây, khi phải nghe ông này nói : "chưa bao giờ dân ta được như ngày hôm nay", "chưa bao giờ dân tin đảng như bây giờ"... Lạ quá, sao lại có một dân tộc tin vào những kẻ sát nhân, cướp đất giết người ?[30] Thiển nghĩ các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nên để vài phút ra mà thấy để thấu Việt tộc đang ở tâm trạng nào đây khi trao thân gởi mạng kiểu cá nằm trên thớt cho một tập đoàn tội phạm độc đảng luôn có hành tác trộm, cắp, cướp, giật của bạo quyền với lòng tham không đáy.
Suy bụng ta ra bụng người, là giáo lý Việt của tổ tiên Việt để lại cho con cháu không thể nào vận dụng vào tâm khảm làm nên tâm địa của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, vì muốn biết người biết ta, thì ngay trên thượng nguồn phải có nhân từ để bảo đảm cho nhân vị, phải có nhân bản để bảo trì cho nhân cách. Mà chữ nhân, từ nhân tâm tới nhân nghĩa đã vắng bóng hoàn toàn trong tâm trạng làm nên tâm tư của các người, thì làm sao các người có thể đoán đúng, dò trúng tâm tình của dân tộc để đưa Việt tộc vào tiến bộ của văn minh có dân chủ làm nên văn hiến cho nhân quyền.
Có một tư tưởng gia của thế kỷ XX có thể giúp các người suy nghĩ để suy luận thêm về nhân vị và nhân cách của các người, đó là Levinas, khi ông đúc kết đạo đức học bằng triết luân lý : "Nỗi lo của ta tới từ khuôn mặt của tha nhân". Nếu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thấy để thấu được nỗi-lo-lẫn-nỗi-buồn hiện nay trên các khuôn mặt của đồng bào, của Việt tộc hiện nay đang bị đày đọa trong địa ngục do chính Đảng cộng sản Việt Nam lập ra bằng bạo quyền công an trị, bằng tà quyền tham quan trị, bằng ma quyền tham tiền trị thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã đi được bước đầu tiên trên nhân lộ để tìm ra nhân vị lẫn nhân cách của các người[31].
Có thực mới vực được đạo, mà thực đối với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là thực phẩm cũng như tiền bạc phải ăn càng nhiều càng tốt, còn đối với trí thức chân chính thì thực phải là sự thực làm nên sự thật có rễ của chân lý để lẽ phải được đâm lộc kết chồi. Nhưng bi kịch của Việt tộc trong tay cuồng quyền của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã gian trá hóa sinh hoạt xã hội, đã gian manh hóa quan hệ xã hội, đã gian xảo hóa đời sống xã hội, mọi cái thực trong cái thật đã bị giả hóa. Học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để chuyện mua bằng bán cấp và chuyện mua chức bán quyền là loại ung thư đôi có trong bi hài kịch của xã hội ngày nay, có bằng cao học mà lái xe ôm, có bằng tiến sĩ mà trốn chuyên môn[32].
Các người đã
Vô cảm hóa nội tâm Việt
Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi, đó là câu chuyện ân nghĩa đồng bào đã làm nên ánh sáng để lành mạnh hóa cuộc đời, đây là một câu chuyện vừa chân thật lại vừa thông minh trong lương tri chính trị, vì nó nghịch chiều với câu chuyện của các người là : hứa cuội, hứa hão, hứa điêu, hứa ngoa, hứa láo với dân tộc bằng một ý thức hệ ngoại lai về một thiên đường cộng sản. Để khi dân tộc khám phá ra lực lượng cộng sản chỉ là một tập đoàn tội phạm của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, tất cả chỉ là một tạp-hợp âm binh luôn tránh né cái lành, vì luôn lo sợ cái sáng : ánh sáng của sự thật, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của lẽ phải.
Lột mặt nạ bọn buôn dân bán nước, là thượng nguồn của mọi hành trình trong ý thức dân tộc, mà con dân Việt hiện nay phải vận hành để trở thành chủ thể, để chủ quyết trong chủ động, để bảo vệ Việt tộc, nơi mà mọi con dân Việt đều có chung một giòng sinh mệnh với giống nòi Việt, đồng mệnh [33] trước hai họa nạn : nội xâm cuồng quyền vì dại tiền, ngoại xâm quỷ quyền vì tham đất, tham biển.
Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta, chân lý nhân sinh để nhận diện ra sự phản bội mà cũng là trí khôn Việt tộc để nhận ra sự phản trắc của một lực lượng chính trị, mượn xương máu đồng bào để cướp chính quyền rồi lộng quyền-lạm quyền-tham quyền, để bội phản chống giống nòi, để bội bạc với tổ tiên. Mỗi chọn lựa nhân vị có cái giá của nó, mỗi chọn lọc nhân cách có cái hy sinh của nó. Đúng ! chỉ có sự hy sinh biết rửa bẩn thành trong, đục ngầu thành thanh khiết, một sự hy sinh tự trong sạch hóa, vừa biết đường đi nẻo về của đạo lý Việt, vừa biết đi tới, chảy tiếp trong giòng luân lưu của lương tri Việt tộc trong suốt, vượt thắng đục nội xâm, vượt thoát bẩn ngoại xâm [34].
Và ngay trên thượng nguồn, khi nội xâm đang vơ vét tiền bạc của dân tộc, đang nạo vét tài nguyên của đất nước, thì mọi con dân Việt có lương tri phải tự biết đặt cho mình các câu hỏi sau đây : Cuộc sống hiện nay của Việt tộc mà chúng ta đang sống đây có phải là cuộc sống thật hay không ? Sự thật ở đâu khi chế độ độc đảng có độc quyền bưng bít, đánh tráo sự thật ? Chân lý ở đâu khi chế độ độc trị đang quản trị dân tộc bằng tuyên truyền mang trá ? Lẽ phải ở đâu khi cả xã hội Việt đang sống bằng sự giả dối nơi mà mọi giá trị đạo lý đều bị truy diệt ?
Khi chính chế độ độc đảng trong độc hại đang xóa, tẩy, hủy, diệt mọi khái niệm đồng bào trong đồng cam cộng khổ, trong đồng hội đồng thuyền để giờ đây mỗi con dân Việt chỉ là một cá thể ích kỷ trong đơn lẻ, không hề đồng tình, đồng tâm, đồng lực để thăng hoa cuộc sống bằng sự thật-chân lý-lẽ phải ! Đây chính là sự thảm bại lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, mà cũng là một trong những cái tội to nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhìn xa trông rộng để được làm người, tôi xin kể một câu chuyện cho các người nghe, vì tôi biết chắc chắn là các người không biết câu chuyện này, mà tôi là nhân chứng mắt thấy tai nghe. Đó là câu chuyện trong giới trí thức, trong tầng lớp học thuật của phương Tây, lấy lý luận của kiến thức để xây lập luận cho tri thức, từ đó đi tìm giải luận để hiểu sự thật, nắm bắt được diễn luận để mở đường cho lẽ phải nhập nội vào nhân sinh. Đó là thời điểm lịch sử sau 1975, khi Đảng cộng sản Việt Nam tự vỗ ngực để tự xướng tên là : "Đảng lãnh đạo mọi thắng lợi của dân tộc", "Đảng đã đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào", "Đảng đã làm nên một cuộc cách mạng thần thánh"… ; thì cùng lúc đó các tư tưởng gia, các lý thuyết gia, các chuyên gia quốc tế hầu hết đều nhận ra là chủ nghĩa cộng sản là một thảm họa không sao lường được cho nhân loại !
Nói có sách, mách có chứng theo cách phân tích của tổ tiên Việt là khi đàn anh các người đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đang tự vỗ ngực để tự xướng danh, thì các người thầy của tôi tại phương Tây đã làm trọn vẹn vai trò tri thức của họ[35]. Chính họ đã chứng minh được không những bằng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) dựa vào hệ chứng (chứng nhân, chứng tích, chứng từ, chứng thư) là duy vật biện chứng sản sinh ra duy vật sử quan là một luận thuyết thô sơ để mị dân, thô bạo để ngu dân, thô tục để ru dân, thô lậu để lừa dân.
Nên nó đã sát nhân từ khi Lenin hành tác trong chuyên chính vô sản ; từ khi Staline hành động trong thanh trừng để thanh toán hàng triệu người ; từ khi Mao đã tổ chức cuộc thảm sát bằng Cách mạng văn hóa, mà các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã lập lại bản sao qua Cải cách ruộng đất. Một thời mà thi sĩ Tô Thùy Yên đã mô hình hóa được bằng thi ca của ông : "Thịt rơi xương rụng trùng trùng. Một thời thế đổ với cùng xác thân"… Thời của hành quyết để vinh danh thảm sát, thời của máu đã mở đường cho nước mắt, thời của cái ác tự xưng tên xướng danh là cách mạng.
Tại Châu Âu ngay sau 1975, không những hai đối thủ "không đội trời chung" trong học thuật là Aron và Sartre đã lý cùng mâm, luận cùng chiếu để tìm mọi cách vớt thuyền nhân Việt Nam đang vật vờ trong đầu sóng ngọn gió, cùng lúc tính mạng của họ luôn bị đe dọa bởi bọn hải tặc biển Đông, chỉ vì các thuyền nhân Việt này chỉ muốn trốn khỏi địa ngục trần gian của các người. Mà trước đó nữa hàng chục năm trước 1975, đã còn có bà Carrère d'Encausse, thông báo rất sớm bằng những công trình nghiên cứu của bà là hệ thống cộng sản Đông Âu chắc chắn sẽ sụp đổ, vì Liên Xô chỉ là một chế độ bất nhân đang xây lâu đài trên cát, suy nghiệm đã thành sự thật với sự sụp đổ toàn diện của hệ thống cộng sản Đông Âu từ 1990.
Các người đã
Dại chợ hóa ngoại giao Việt
Khôn nhà dại chợ kiểu gà què ăn quẩn cối xay, loại chó cậy gần nhà, để khi ra gặp hợp tác quốc tế thì cúi đầu ; khi gặp chất vấn quốc tế thì khoanh tay ; khi gặp đối đáp quốc tế thì khom lưng mà niểng cho qua chuyện. Ma xó bị ngợp dưới mặt trời. Các chuyên gia quốc tế tư vấn cho các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ không lầm khi họ nhận ra nhân diện của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không có ánh sáng của nhân vị, khi nhân dạng của các lãnh đạo này không có hào quang của nhân cách. Chỉ vì các chuyên gia quốc tế này không thấy nhân tri và nhân trí trong nhân bản và nhân văn của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, họ không thấy nhân lý và nhân tính, họ không nhận ra nhân tâm và nhân từ của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Họ không thấy thông minh Việt : "Người khôn chưa đắn đã đo. Chưa ra tới biển đã dò nông sâu" trong nhân diện lẫn nhận dạng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Tàu tặc đang chiếm biển, đảo của Việt tộc ; Tàu họa đang gây nhiễm ô từ không khí bằng các nhà máy nhiệt điện than cho tới Formosa đã hủy diệt cả một vùng biển miền Trung ; Tàu nạn đang buôn người, buôn nội tạng, buôn ma túy ; Tàu hoạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc, tất cả tạo nên một chướng khí trong âm địa mà Tàu tà đang trùm phủ lên nhân kiếp Việt. Giờ thiêng của Việt tộc, ngày linh của đất nước Việt đã tới, con dân Việt phải quyết đoán trong quyết tâm, để quyết liệt bằng quyết luận là không lùi, để không bị rơi bẫy của Tàu tà.
Và trước mắt và ngay trên đất nước mình, con dân Việt phải đối diện với bạo quyền để đối trọng với tà quyền, đối luận với nội xâm để đối kháng chống ngoại xâm, như chống lại những cái bất nhân, phi nhân, xảo nhân đang có mặt ngay trong chế độ độc hại của Đảng cộng sản Việt Nam. Faucault yêu cầu mọi người phải thấy trong quyền lực chính trị không chỉ có trong cơ chế của nó, mà phải nhận ra cái lộng quyền của nó trong sinh hoạt xã hội, cái lạm quyền của nó trong quan hệ xã hội, cái tham quyền của nó trong đời sống xã hội. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có cả ba : lộng quyền, lạm quyền, tham quyền.
Khôn nhờ dại chịu lại là một bất công khác đang đổ trên đầu, trên vai, trên lưng Việt tộc, khi lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam khờ trước quốc tế nhưng ác trước quốc nội, dại với người ngoài nhưng độc với đồng bào, theo biểu tượng thấp tồi mà dân Việt đã đặt tên để gọi kiếp cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam : hèn với giặc, ác với dân ! Đây là thảm kịch đôi của Việt tộc đã bị một độc đảng cường quyền chặn dân chủ, dẹp nhân quyền, mà chính trong nội bộ của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng không bao giờ có tài, loại minh vương mà các đời Lý, Trần đã có. Không có luôn minh chủ của đời Ngô, đời Đinh ; càng không có minh quân với tầm vóc của Trần Hưng Đạo, với vai vóc của Quang Trung… Còn minh sư kiểu Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm, Ngô Thời Nhiệm[36]… đang có mặt trong giới trí thức Việt hiện nay, thì ngày ngày bị các người trù, dập, truy, diệt.
Vì trong thâm tâm của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam rất lo là nhân trí của minh sư sẽ dẹp âm tri của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ; đã mất ăn mất ngủ vì trong tâm địa của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam mang một nỗi sợ là nhân lý của minh sư sẽ xóa đi âm dạng của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi văn sĩ Malraux đóng vai minh sư đã khuyên minh quân De Gaules trước cao trào kỳ thị chống người ngoại quốc tới quá nhiều nước Pháp, chỉ bằng một câu của chân tâm mang đầy hùng lực của minh trí trước bọn đầu cơ chính trị lấy mỵ dân để nuôi kỳ thị, khi Malraux tuyên bố : "Bổn phận của nước Pháp là phải tiếp nhận và nuôi dưỡng các nhân tài của thế giới". Minh quân tỉnh táo biết chọn minh sư sáng suốt, như biết chọn lựa nhân vị lãnh đạo của mình, như biết chọn lọc nhân cách chính trị của mình ; các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có trình độ trí thức để có mức độ tri thức này không ?
Đại ngục điện tiền, với quỷ dữ giữa trần gian đang bẩn thỉu hóa trần thế để ô nhục hóa Việt tộc bằng bạo quyền công an trị, bằng tà quyền tham quan trị, bằng ma quyền tham tiền trị khi các người biến thanh niên Việt thành lao nô, các phụ nữ Việt thành nô tỳ cho các nước láng giềng trong kiếp nô lệ với điều kiện lao động bại nhân vị, thảm nhân cách ! Biến đồng bào thành lao nô để thu ngoại tệ cùng lúc để tổ chức các đường dây buôn người, bòn rút tận xương tủy tiền bạc của đồng bào là một ý đồ ma luôn song hành cùng với mưu đồ quỷ là diệt nhân tài, giết hiền tài. Tránh tri thức vì sợ bị lột mặt nạ là các người bất tài ! Tránh trí thức vì sợ bị vạch mặt chỉ tên là các người ôm độc trị nhưng không biết quản trị !
Chẳng cần cháy nhà mới lòi mặt chuột, vì Việt tộc hiểu Việt sử hơn ai hết : bọn cướp ngày là quan, tà quan trong điếm quyền, ngụp lặn trong tham quan để tham ô, đuối ngộp trong tham nhũng vì tham tiền[37]. Triết gia Deleuze tỉnh táo nên sáng suốt nhận ra : "Bọn độc tài không sợ phản luân lý, chúng chỉ sợ phong trào xã hội". Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thấy các phong trào đấu tranh cho công lý vì công bằng xã hội đang lớn mạnh ! Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thấy các phong trào phấn đấu tranh cho dân chủ vì tiến bộ nhân sinh đang lớn lên ! Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thấy các phong trào đối kháng vì văn minh nhân quyền đang lớn rộng !
Phản dân hại nước là tà lộ của tà quyền, chóng chầy sẽ sa vào ma lộ của buôn dân bán nước cho Tàu tặc. Trong lúc chờ đợi đa nguyên trong đa đảng để Việt tộc có đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu[38]… mà thăng hoa cùng nhân loại, thì chính các phong trào của xã hội dân sự sẽ tạo ra sung lực để tẩy, xóa, khử, trừ đi tà quyền đang tham quyền, ma quyền đang tham tiền. Âm binh nội xâm đã sa vào tà lộ của loài cõng rắn cắn gà nhà, nhưng thật xót xa là bọn âm binh này sẽ đẩy Việt tôc vào tử lộ ! Mà muốn làm người thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam phải tẩy, xóa, bứng, nhổ mọi tạp chất của nội xâm (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) đây là loài ký sinh trùng làm ô nhiễm nội chất, làm ô tạp nội lực, làm ô uế nội công của Việt tộc. Muốn làm người thì hãy tái tạo lại nội công cho Việt tộc mà trước mắt là dựng lên một tòa án dân tộc, đầy đủ lương tâm dày dạn trí tuệ, lấy lương tri để dẫn dắt tuệ giác biết luận-tội-án để xử tội ác.
Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo là bài học cao quý của minh sư Nguyễn Trãi, hoàn toàn vắng bóng trong các nghị quyết của các người, hoàn toàn biệt tăm trong các chính sách của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Mọi bạo quyền hung tàn đang đe dọa nhân nghĩa đồng bào, chúng sẽ bị tẩy, xóa, khử, trừ bởi nhân trí của đồng bào ; vì cường bạo, hung tàn sẽ không có chỗ đứng, ghế ngồi trong luân lý Việt tộc. Việt tộc đang chờn vờn bên bờ vực thẳm mà thủ phạm là bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, là tà quyền tham nhũng buôn dân bán nước, là ma quyền tham tiền buôn tông bán tổ. Liên minh âm binh này luồn lách trong bóng tối để vơ vét tiền bạc của đồng bào, bòn rút tài nguyên của đất nước nhưng sẵn sàng biệt tăm biệt tích khi đất nước bị Tàu tặc xâm lược, khi đồng bào phải chịu số phận bị đồng hóa của Tàu tà. Hai chữ đồng bào[39] hoàn toàn ngược chiều với đồng bạo, đồng tà, đồng ma để bị đồng bẩn, vì đồng bào đã thấy rồi bạo quyền, tà quyền, ma quyền khi thành cuồng quyền đang đồng liệt, đồng bại, đồng quỵ ngay trong nhân vị Việt của chúng !
Các người đã
Ma bùn hóa nhân cách Việt
Ăn cháo đá bát, là hình ảnh của tổ tiên Việt dặn dò con cháu Việt hãy thật trọng trước loại người vong ân bội nghĩa, đó cũng là nội dung của lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, đưa dân tộc lên tuyến đầu chết thay các người, để các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có cơ hội mà cướp chính quyền. Rồi khi các người nắm được chính quyền trong tay thì các người tha hồ quật lên và vất đi cả một hệ thống đạo lý Việt mà không hề có một tài năng gì để thay thế bằng một hệ thống đạo lý mới. Việt tộc mỗi lần mường tượng tới chân dung các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, người ta chỉ thấy toàn vô : vô gia đình, vô tổ quốc, vô thần như vô tâm linh, vô đạo giáo, vô nhân tâm.
Đây là một thất bại vô cùng lớn về nhân dạng của người cộng sản, mà nhân diện của người cộng sản trên đất Việt thì còn thảm hại hơn. Thảm hại xây bằng thảm bại, từ chính sách này qua chính sách kia, đất nước mang tiếng là hòa bình, là thống nhất mà gần nửa thế kỷ qua từ 1975 tới bây giờ, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có một công trình gì để viết vào Việt sử cận đại. Từ Cải cách ruộng đất sắt máu tới hệ thống về trại cải tạo bất nhân, từ chính sách kinh tế mới mang con bỏ chợ [40] tới tất cả các chính sách tiếp theo từ đối ngoại với Tàu tà tới quốc phòng sụp quỵ trước Tàu tặc, từ quản lý sản xuất lụi sụi tới xuất khẩu lao động hằng triệu con dân đi làm lao nô, nô tỳ cho láng giềng… Thảm bại hàng loại làm nên thảm trạng của Việt tộc hiện nay[41], mà các chuyên gia quốc tế đã phải nói lên : "Việt Nam là quốc gia không chịu phát triển", đó là họ lịch sự ; chớ trong các buổi họp giữa các chuyên gia thì sự thật vẫn là sự thật, họ thành thật phân tích để giải thích thẳng thắn là : "Việt Nam không thể phát triển, với độc đảng toàn trị trong độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị" [42].
Trông mặt bắt hình dong, nơi mà nhân diện nói lên nhân cách, nhìn mặt đoán lòng, nên mỗi lần chính trị học muốn tìm hiểu về bản chất cũng như bản lĩnh của một chính quyền, của một chính phủ thì họ sẽ dựa vào các chỉ báo trong điều tra thực địa của xã hội học chính trị. Mà chính ngay trong xã hội học chính trị từ thượng nguồn của điền dã, điều tra, khảo sát cho tới hạ nguồn của phân tích, giải thích, bình luận các kết quả của nghiên cứu thực địa, thì các chuyên gia luôn dựa vào các biệt hiệu, các biệt danh mà dân chúng "trao tặng" cho một chính quyền, cho một chính phủ[43].
Điều này, thật rõ trong thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay trước một chính quyền độc tài nhưng bất tài, trước một chính phủ độc trị nhưng không biết quản trị, mà nhân dân đã miệt thị qua các biệt hiệu, các biệt danh : "hèn với giặc, ác với dân" ; "mưu hèn kế bẩn" ; "sâu dân mọt nước" ; "phản dân hại nước" ; "buôn dân bán nước", còn nhiều biệt hiệu, biệt danh khác nữa, và trong đại dịch coronavirus tới từ đất nước của Tàu tặc, nhân dân lại trao tặng thêm cho các người một biệt dạng mới : dacosavirus, mà họ viết tắt đảng cộng sản của các người ra : dacosa và xem nó như một đại dịch còn nguy hiểm hơn coronavirus nhiều. Biệt danh của dịch phận !
Đi với ma mặc áo giấy, khi bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tài, ma quyền độc quyền làm nên tập hợp âm binh, biến dạng trong dị dạng của quỷ quyền độc tôn, nơi mà quỷ quyền vô thần vì vô luân biết tổ chức chuyện buôn thần bán thánh để trục lợi cho thật đầy túi tham. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sau khi giết bản chất thật của Phật giáo, đã thay thế vào đó một ma đạo không dính dáng gì với Phật học luôn có chỗ dựa là Phật tâm, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã ùn ùn đưa bọn công an sư quốc doanh, mà Phật tử chân chính gọi là ma tăng. Bọn ma tăng này là loại âm binh mặc áo thầy tu, nên tôi rất cẩn trọng mà không trích ngạn ngữ : "Đi với Phật mặc áo cà sa" trong tình hình hiện nay, chúng cũng là loại quỷ nhập cửa chùa với lòng tham không đáy, là phải vơ vét cho đầy túi như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, cũng là loại cào nạo cho tới cùng để bốc hốt cho tới tận.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, một luân lý cao thượng của tổ tiên Việt chỉ làm trò cười cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là câu chuyện sát nhân mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là sát thủ, vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã giết thực thể đồng bào, nơi mà mọi con dân Việt có đồng mẹ, đồng cha, đồng thai, đồng tổ, đồng tông, đồng tích… nơi mà tương thân và tương trợ chỉ là một trong đồng lòng, đồng tâm, đồng quyết, đồng hành… để giữ đất, giữ nước, giữ tiền đồ của tổ tiên, giữ tương lai cho mai hậu[44]. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tráo trá vào đó diện tà, ma tướng, quỷ dạng của các người là : đồng phạm, đồng lõa, đồng mưu, để đồng hội với các người trong đồng tội.
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam diệt nhân tài là nguyên khí của quốc gia và chỉ thâu nhận đồng phạm để đồng thuyền với các người trong hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam khử nhân tính đồng bào của bầu ơi thương lấy bí cùng và chỉ tiếp nhận đồng lõa để làm đồng bọn cùng các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ bất (bất tín, bất lương, bất nhân) mà chia chác với nhau sau khi vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam triệt nhân lý yêu nước thương nòi của Việt tộc và chỉ thâu phục bọn đồng sàn như đồng chí để đồng mưu với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bằng hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) từ phản dân hại nước tới buôn dân bán nước cho Tàu tặc. Lấy xảo diện thay nhân diện, lấy gian dạng thay nhân dạng, đã tạo nên đường đi nước bước của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong tà lộ của ma kiếp.
Các người đã
Thui chột hóa vận mệnh Việt
Ma bùn độn thổ, nếu độn thổ để trốn nhân lý, để lánh nhân tính, để lách nhân tri, thì đâu thể làm người được, như vậy đi tìm nhân vị làm gì, vì nhân cách đã mất từ khi chấp nhận kiếp sống luồn thấp hơn đất. Khi nói tới Mật nghị Thành Đô năm 1990, năm của sự phản trắc, khi các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn Tàu tặc làm cha khi chọn chúng làm hậu phương để đỡ lưng vớt kiếp cho Đảng cộng sản Việt Nam[45]. Nên chúng mới xem các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thấp hơn gót giầy của chúng, vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấp nhận thấp hơn đất rồi, từ đó chúng tự cho phép đứng trên lưng, trên vai, trên đầu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận phận làm "cúi đầu ở đợ" cho Tàu tặc. Bây giờ chuyện độn thổ đã biến các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thành ma bùn, chỉ vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không dám công khai tuyên bố nội dung của mật nghị này trước công chúng, mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã ký với chúng, một sự phản trắc tổ tiên, dân tộc tới tận gốc, rễ, cội, nguồn sâu xa nhất trong giáo lý Việt tộc. Bây giờ, năm năm, tháng tháng, ngày ngày, Việt tộc khám phá ra các người khoanh tay khi Tàu tặc chiếm đất, đảo, biển ; các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhắm mắt, cúi đầu để dẫn độ tội phạm Tàu họa giết người, buôn ma túy, buôn nội tạng… mà không dám xử chúng tới nơi tới chốn trên đất Việt khi chúng đã giết hại đồng bào mình.
Rồi tháng 2 năm 2020, bây giờ các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đang quỳ gối nên không dám đóng cửa biên giới như các quốc gia láng giềng với Tàu tặc trước đại dịch coronavirus. Dân Việt ngỡ ngàng trong chóng mặt bởi hờn căm khi biết các người đã ký bao hiệp định ma bùn của loài độn thổ để nhận giặc làm cha. Từ đây hãy gọi mọi hiệp định ma bùn của các người là : "hiếp định" như các "hiếp định dẫn độ", "hiếp định không được đơn phương đóng cửa biên giới"… Còn bao nhiêu "hiếp định" mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang giấu trong bùn, không cho Việt tộc biết ?
Vắng mợ chợ vẫn đông, Việt kiều[46] gần nửa thế kỷ nay, biết rất rõ ý đồ trong mưu thâm kế độc của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là bế môn tỏa cảng không cho hiền tài Việt kiều đóng góp để xây dựng lại đất nước, vì các người mang đầy mặc cảm của loại độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không biết quản trị, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tránh phải chạm trán với Việt kiều như lách sự thật của trí tuệ khoa học, như chui luồn trước tuệ giác của tiến bộ, với văn minh của dân chủ, với văn hiến của nhân quyền. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết là Việt kiều liêm chính thì không thể nào đồng lõa với các người trong tham ô ; các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết là Việt kiều lương thiện thì không bao giờ là đồng phạm cùng các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong tham nhũng ; các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết là Việt kiều có lương tri thì không thể nào đồng mưu với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong tham quyền cố vị.
Bế quan tỏa cảng chống Việt kiều, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã ngăn sông cấm chợ để gạt ra mọi trí thức Việt kiều yêu nước muốn văn minh dân chủ, muốn văn hiến nhân quyền phải có mặt trên đất nước Việt[47]. Chỉ mong có được một ngày trước muôn dân, trước Việt tộc, bằng trực luận qua trực tuyến để đối diện mà đối thoại với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bằng lý luận từ chứng từ, bằng lập luận từ chứng nhân, bằng giải luận từ chứng tích[48], để đồng bào trong ngoài nước biết : Ai yêu nước hơn ai ? Ai là con cháu Lạc Hồng ? Ai là bọn ma bùn buôn dân bán nước ?
Các các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vu khống rồi vu cáo những công dân yêu nước là : "Những lực lượng thù địch", tôi xin thẳng thắn đề nghị với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hãy trực luận bằng trực tuyến cấp quốc gia để xem : Ai mới chính là lực lượng thù địch phản Việt tộc ? So ra mới biết ngắn dài, nếu các người không có can đảm thực hiện cuộc trực luận này, thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chưa rời bùn nhơ để nhận nhân kiếp !
Lỡ tàu, lỡ đời, lỡ kiếp, đó là nỗi đau xót của đồng bào Việt kiều đang sống tại hải ngoại khi phải thấy một dân tộc, một văn hóa, một ngôn ngữ như Hàn quốc… nhưng Nam Hàn có mọi tiến bộ từ khoa học, kỹ thuật tới nghệ thuật, văn hóa ; có văn minh của dân chủ, rồi có văn hiến của nhân quyền, hoàn toàn ngược lại với Bắc Hàn - Bắc Hàn Triều Tiên là một quái thai từ não trạng lãnh đạo tới tâm thần tập thể cấp quốc gia, trong một chế độ độc đảng ngầm du đảng, độc trị ngậm nọc độc của đói, khổ, bịnh, tật.
Nên ngày ngày, đêm đêm xót xa cho số phận Việt tộc đã lỡ tàu, lỡ đời, lỡ kiếp do tội của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã cướp đi thông minh Việt, sáng tạo Việt mà ta biết rất rõ bằng luận chứng của khoa học xã hội và nhân văn [49] là : Việt tộc không hề thua kém về trí tuệ [50], không hề thấp tồi về lý trí, và phải được thành công trong khoa học kỹ thuật ; thành tựu trong kinh tế, thương mại ; thành đạt trong nghệ thuật, văn hóa như Nam Hàn, như Đài Loan, như Nhật Bản, như Singapour… Tội của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là tội đôi đã giết thông minh Việt [51], đã triệt sáng tạo Việt, giờ lại còn biến con dân Việt thành lao nô, nô tỳ cho Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản, Singapour…
Các người đã
Mạ lị hóa chân lý Việt
Nói gần nói xa không qua nói thật giữa người Việt với nhau là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có kiến thức lý thuyết gì về chủ nghĩa cộng sản ! Vì nếu có kiến thức thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã đối luận trong đối thoại với trí thức Nam Trung Bắc của Việt tộc để hiểu sự thật của nhân sinh tới nơi tới chốn. Chỉ cần sau 1975 là chân tướng tham quyền đã làm lộ chân dung lạm quyền của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà tham quyền cố vị đã sản sinh ra loại đảng viên tham quan để tham ô, tham nhũng vì tham tiền, còn đâu lý tưởng cộng sản tự vỗ ngực để xứng danh là cách mạng thủa nào.
Đến đầu thế kỷ XXI này, thì Việt tộc đã nhận ra chân tướng độc quyền, chân dung độc trị của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một tập đoàn tội phạm. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đặt Đảng cộng sản Việt Nam đạp lên trên hiến pháp, lên trên luật pháp, lên cả trên giáo lý Việt của một dân tộc gọi nhau là đồng bào : đồng bào thai vì đồng mẹ, đồng cha nên đồng nòi, đồng giống, đồng tông, đồng tích…
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn chịu trách nhiệm về vận mệnh của giống nòi Việt, cơ đồ của tổ tiên Việt, trước họa nội xâm tham nhũng song lứa cùng đôi với họa ngoại xâm Tàu tặc. Vì muốn làm người phải có nhân làm lõi, làm rễ, làm cội, làm gốc, làm nguồn, chỉ cần các người suy nghĩ theo mô thức gẫy gọn của tư tưởng gia Rousseau : "Con người ơi hãy giữ nhân tính !"[52]. Mà nhân tính thì ngược lại với bản năng đói ăn khát uống của những kẻ chưa trưởng thành vì chưa có nhân tính, qua giáo dục của nhân tri, qua giáo lý của nhân trí, nên chưa thể là : người.
Nhưng nghịch lý là chính chế độ độc đảng nó độc hại trong độc tài của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã cho sản sinh ra loại người giật ăn cướp uống, đó là đồng bọn mà các người gọi là đồng chí, tranh tham ô để giành tham nhũng. Ăn ở bất nhân nên sống chết vô hậu, loại này thì không sao có nhân được, nên các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không thành người theo nghĩa nhân vị biết dựa vào nhân tính, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo[53] ; các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không có nhân cách vì chúng trống nhân lý, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn.
Các người đã
Bần cùng hóa sự thật việt
Sự thật mất lòng, với tất cả các chỉ báo hiện nay từ các kết quả nghiên cứu, từ chính trị học tới sử học, từ nhân học tới xã hội học… cho phép dự đoán một điều là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tâm vì chẳng đủ tầm để làm được ba chuyện sau đây của một chính quyền có nội công, một chính đảng có bản lĩnh :
Chính thức hóa bằng chính sách quốc gia về hòa hợp hòa giải dân tộc, đưa thảm nạn của huynh đệ tương tàn trong quá khứ của cuộc nội chiến 1954-1975 về tận suối giải oan, để thực hiện cho bằng được giáo lý tổ tiên Việt : người trong một nước phải thương nhau cùng. Xóa đau thương cũ để cùng nhìn về tương lai mới bằng ngữ vựng hòa giải để hóa giải oan kiếp nội chiến, để hứa là sẽ không đưa một ý thức hệ ngoại lai nào nữa vào đất nước Việt để Việt tộc phải chịu cảnh gà nhà bôi mặt đá nhau… giết nhau.
Hợp thức hóa bằng chính sách xóa để xây ngay lại hiện tại với ngữ văn hòa hợp để cùng nhau hợp tác với một trọng tài chỉnh lý trong liêm chính là : tam quyền phân lập, có văn hóa của đa nguyên để tạo dựng văn minh của dân chủ, để dựng văn hiến của nhân quyền. Hãy nhận ra công bằng trong tiến bộ, với công lý diệt được nội xâm, có công pháp loại được ngoại xâm, bằng công tâm của con dân Việt, chớ không bằng thái độ và hành xử của một độc đảng chỉ muốn độc tài trong độc quyền, độc tôn trong độc trị.
Thích ứng hóa bằng thông minh nội bộ ngay trong Đảng cộng sản Việt Nam của các người để quản lý tương lai gần là tìm cho ra được những nhân vật gánh vác được vận nước kiểu minh quân, minh chủ, minh chúa đã có nhiều lần qua các đời Lý, Trần, Lê… bằng chính ngữ pháp lương thiện của chính quyền trong liêm chính của chính phủ, trong khi chờ đợi tương lai lớn của dân chủ, tương lai cao của đa nguyên.
Nếu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hiểu hoặc hiểu mà không muốn thực hiên, thì ngày tàn của quý vị đang tới, sẽ tới với các trận giông của xã hội dân sự nối theo là những trận bão của nhân quyền, dân chủ, đa nguyên, sẽ tạo ra những thay đổi triệt để mà trong đó các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có ghế ngồi lẫn chỗ đứng trong lòng dân tộc ! Rồi thì chỉ lo, chỉ buồn là Việt tộc lại phải nhận chịu thêm bạo lực của bạo quyền độc đảng, bạo hành của cuồng quyền công an trị, bạo động của nội chiến huynh đệ tương
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam càng tham quyền thì nhân dân càng lo, càng buồn, mà lo và buồn có lý do của nó, vì Việt tộc thấy rõ và hiểu thấu là tại các quốc gia có được văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, họ có các lãnh đạo chính trị với thông minh tỉnh táo để có sáng tạo sáng suốt. Họ luôn tìm ra được các quyết sách không có máu đổ đầu rơi, luôn giải quyết mọi việc theo chiều hướng ít đau khổ nhất cho nhân dân của họ, họ không khôn nhà dại chợ như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, ngược lại họ ngoan nhà khôn chợ.
Cụ thể là các quốc gia có được văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền có sự thông minh của tôn trọng lẫn nhau trong đối thoại nên họ mới có được đa nguyên ; họ có sự sáng tạo luôn sáng suốt trong đối luận nên họ mới có được dân chủ. Nếu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không lập được dân chủ trong đa nguyên, không trao được tự do và công bằng tới Việt tộc, thì không sao các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tặng được một giá trị nhân sinh cao quý nhất tới Việt tộc, đó là : nhân quyền ! Một nhân quyền tốt trong một nhân Việt đẹp.
Một lời-một ý-một nghĩa, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có muốn nhận ánh sáng của chân lý[54], hào quang của sự thật, mặt trời của lẽ phải ? Câu trả lời thật giản đơn khi nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan chỉ là một : muốn làm người phải có nhân !
Các người đã
Cuồng quyền hóa quan hệ Việt
Tâm trạng làm nên tâm lý của một người phải thốt lên là mình bị : mất hồn ! tức là người đó đang bị hốt hoảng tới thất thần, mất sắc, nhạt diện… ngạc nhiên tới cùng cực, sửng sốt tột độ. Chỉ không đầy nửa thế kỷ, từ sau 1975 ngày hết chiến tranh mà cũng là ngày số phận dân tộc nằm trong tay của ít nhất ba loại quyền lực bất nhân thất đức của bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị. Không mất hồn sao được khi thấy :
*Bạo quyền công an trị biến những đồng bào yêu nước, trọng dân chủ, quý nhân quyền thành những tù nhân lương tâm, với những nhà tù đầy những đứa con tin yêu của Việt tộc.
*Tà quyền tham nhũng trị liên minh với xã hội đen, tức là bọn côn đồ, du đảng, lưu manh cùng đến cưỡng chế để cướp đất của dân lành, một sớm một chiều biến họ thành dân oan.
*Ma quyền tham tiền trị của bọn sân sau, dùng ô dù của bạo quyền và tham quyền chống lưng cho chúng để trộm, cắp, cướp, giật đất đai của dân để làm giầu, vô loài với tên gọi là trọc phú, sống trong biệt thự, biệt dinh, biệt phủ, đã đẩy dân oan vào thảm cảnh màn trời chiếu đất, với thảm trạng đầu đường xó chợ.
Chưa hết, bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị sống và đối xử với nhau trong quan hệ giết người cướp của, trong phản xạ của thanh toán để thành trừng lẫn nhau, để thêm vào lý lịch âm binh của chúng hai tâm loạn sau :
*Cực quyền, một loại quyền lực của cực đoan, cực đoán làm nên độc đoán, một loại quyền lực tuyệt đối, chúng gọi nhau là đồng chí nhưng đối xử với nhau như tử thù trong không gian lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng đạo đức giả với nhau bằng khẩu Phật tâm xà khi gặp nhau, nhưng sống với nhau thâm ý không đội trời chung với nhau.
*Cuồng quyền, một loại quyền lực của các hành tác tự cuồng giận tới cuồng điên sẵn sàng giết đồng bào, đồng loại, kể cả đồng chí lương thiện của chúng như vụ hành quyết xã Đồng Tâm, thôn Hoài để hành sát cụ Lê Đình Kình là đồng chí với hơn nửa thế kỷ tuổi đảng của chúng.
Hiện trạng bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền nó đã phản lại giáo lý của tổ tiên Việt : người trong một nước phải thương nhau cùng, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, máu chảy tới đâu ruột đau tới đó, thương người như thể thương thân… để ăn ở có hậu của giáo lý đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam phản lại luôn tiến bộ của nhân sinh có văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, mà các quốc gia láng giềng : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour đã thực hiện được, mà Tây Âu và Bắc Mỹ đã được hưởng từ nhiều thế kỷ qua. Cứ liên kết hai hệ : hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) song hành cùng hệ công (công bằng, công lý, công tâm) sẽ nhận rõ chân dung diện mạo âm binh các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Các người đã :
Nô lệ hóa thanh niên Việt
Một Việt tộc mất vía sau khi bị mất hồn ; khi mất hồn thì coi như bị mất sắc, mất diện, còn mất vía là mất đi nội lực của hồn, sung lực của tâm, tức là mất đi từ nội công bên trong, tới bản lĩnh bên ngoài, khi ta phải thấy :
* Xuất khẩu lao động Việt hằng triệu qua các quốc gia láng giềng, trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ, phải vùi dập nhân phẩm của chính mình để nhận kiếp nô lệ xứ người. Lúc bị sỉ nhục, lúc bị tra tấn, lúc bị trục xuất, lúc bị cướp nội tạng, có ngày đi mà không biết ngày về lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
* Cờ gian bạc lận do chính các tướng công an tổ chức ngay trong sào huyệt của Bộ Công an, được hối lộ hàng nghìn nghìn tỷ đồng, để khi trước tòa thì khóc lóc rồi thố lộ là : đầu mình bé nhưng tham vọng (vì tiền) thì lớn. Nhân cách các tướng công an này nhỏ hơn hạt bụi đường, không đánh giặc để bảo vệ biên cương, bờ cõi của đất nước mà chỉ biết vơ vét trong lén lút qua bài bạc.
* Lãnh đạo tham nhũng là các bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông, sau khi đã nhận các chức vụ về tuyên truyền để ngu dân hóa đồng bào bằng giáo ngữ đạo đức giả của tuyên huấn. Bọn này nhận hối lộ hàng triệu mỹ kim, nhưng có đứa lại đổ lên đầu chính con gái của mình là đang giữ tiền tham ô cho mình. Tư cách bộ trưởng sao mà đốn mạt như vậy, quá thấp so với người phải ăn xin ngoài đường còn có liêm sỉ của kẻ phải đi xin, chớ không bao giờ chấp nhận kiếp ăn cắp.
Khi chúng ta đi sâu vào điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu ngay trong tâm địa của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam :
* Xuất khẩu lao động thì chúng còn vơ vét được qua các đường dây mà chính chúng tổ chức, chớ chuyện trọng hiền tài, quý nguyên khí quốc gia thì chúng rất sợ. Chỉ vì chúng mất ăn mất ngủ trước nhân tri của tuổi trẻ, trước nhân trí của sinh viên. Chúng tìm mọi cách để khử, trừ, tiêu, diệt hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhân thức, tỉnh thức) của thanh niên, của sinh viên. Vì hệ thức đã đe dọa và sẽ tẩy xóa đi hệ bất (bất tín, bất tài, bất nhân) của chúng.
* Cờ gian bạc lận thì chúng còn tiếp tục lừa đảo để vơ vét trong bất chính, chớ liêm chính để có liêm sỉ thì không hề có trong bản chất cướp ngày là quan của chúng. Hệ liêm (liêm chính, liêm khiết, liêm sỉ) không có chỗ đứng ghế ngồi trong nhân cách của chúng, trong hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của chúng.
* Lãnh đạo tham nhũng sẵn sàng biến dân lành thành dân đen rồi dân oan, chúng sống trong biệt thự, biệt dinh, biệt phủ với thẻ xanh, quốc tịch ngoại, và chúng đã giấu của cải trộm, cắp, cướp, giật được ở nước ngoài rồi, chỉ chờ khi Tàu tặc bắt đầu xâm lược để đồng hóa Việt tộc là chúng cao bay xa chạy qua phương Tây, bằng con đường tà nghiệp trong điếm lộ của chúng.
Chủ tâm với ý đồ của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền là khử, trừ, hủy, diệt :
* Cần lao Việt, đã có trong lao động biết hiệu quả của thức khuya dậy sớm, hiểu hiệu năng của một nắng hai sương, thấu được kết quả của ăn bữa sáng lo bữa tối, để nhận ra an cư lạc nghiệp trên nền của trong ấm ngoài êm.
* Thông minh Việt đã có trong bản lĩnh giữ nước Việt, có trong nội công lập quốc Việt, thắng bất cứ bạo quốc ngoại xâm nào có thâm ý chiếm đoạt đất Việt, đồng hóa Việt tộc.
* Sáng tạo Việt đã có trong thành công tại học đường, thành tài trong nghệ nghiệp, thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội khi có được điều kiện hay, đẹp, tốt, lành để thành người.
Chuyện này thấy rất rõ trong cuộc sống của Việt kiều tại phương Tây, khi có điều kiện như mọi người, thì sẽ thành danh không thua ai. Không kiêu căng tự phụ hơn người để rơi vào họa vô minh của khinh người ; cũng không mặc cảm tự ti để sa với nạn vô tri của nhục kiếp, luôn sáng suốt để bảo vệ nhân phẩm, nên phải luôn tỉnh táo để bảo vệ nhân quyền cho mình, cho đồng bào mình. Khi liên kết hai hệ : hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) song lứa cùng hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) để thay đổi nhân kiếp Việt hiện nay. Nhưng trước hết phải gạt bỏ đi môt hệ thống toàn trị độc đảng của quan giàu nước yếu, làm ra hệ lụy của nước nghèo dân khổ, để lập lại quy trình bình thường của nhân lý có nhân tri theo hướng thăng hoa của nước giàu dân mạnh.
Các người đã
Vô nhân hóa nhân vị Việt
Tại sao mình phải làm thợ, làm công cho các quốc gia láng giềng, mà chính mình biết là họ không hơn mình về : thể lực trong lao động giỏi, trí lực trong học tập tốt, tâm lực trong sáng tạo hay. Không mất thần sao được khi đọc bằng tiếng Việt các bảng hiệu tại các nơi buôn bán là tại các quốc gia láng giềng : cấm trộm ; từ bao giờ người Việt bị các nước láng giềng xem là kẻ cắp ? Trong ánh nhìn của công dân các nước láng giềng thì phụ nữ Việt bị xem thường vì bị nghi ngờ là gái điếm ; từ bao giờ phụ nữ Việt trong các quốc gia này lại bị khinh rẻ như vậy ? Khi chúng ta biết rành rõ là phụ nữ Việt không thua kém từ tài tới đức bất cứ phụ nữ nào trong thế giới này.
Khi các nhân công Việt sinh sống và lao động tại các nước láng giềng, thì công dân các nước láng giềng thì họ nhìn như các loại người làm chui sống lậu ; từ bao giờ người Việt bị các nước láng giềng xem là kẻ buôn gian sống lậu ? Chỉ vì mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình không còn là đất sống ! Hiện nay, con dân Việt phải đánh đổi cả mạng sống của mình, để mất mạng trong thùng xe đông lạnh, với danh hiệu "thùng nhân" ! Vậy mà, con dân Việt vẫn ngày ngày tiếp tục trốn chạy bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền bằng cách thu thân dồn kiếp trong các hành lý du lịch : nhân kiếp Việt là đây sao ?
Mọi công dân Việt trong nước hiện nay đang sống dưới một chế độ toàn trị độc đảng mà Đảng cộng sản Việt Nam đang ngồi xổm lên Hiến pháp, với một tổng bí thư đảng biết chiếm luôn chức chủ tịch nước để tuyên bố một điều vi hiến nhất là điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam cao hơn Hiến pháp ; đó là hình ảnh của Mã Giám Sinh đểu cáng trong thô lậu : "Ghế trên ngồi tót sổ sàng". Đảng cộng sản Việt Nam ngồi trên đầu Tư pháp, từ tòa án tới thẩm phán, chỉ là công cụ một cách thô thiển chỉ để phục vụ tư lợi của Đảng cộng sản Việt Nam, làm công cụ ở vị thế thấp hèn buộc cáo trạng hàng chục năm lao lý với các công dân yêu nước đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền.
Cùng lúc thì xử nhẹ, xử giảm, xử tha cho các đồng chí của họ là những tội phạm đã làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, chính là tiền thuế của dân, với những luận điệu lập lờ đánh lận con đen phản công lý, của loại Sở Khanh, tà ngôn trong gian ngữ : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Đảng cộng sản Việt Nam ngồi trên lưng Lập pháp, ngay tại Quốc hội với đại đa số đại biểu là đảng viên có mặt để nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối, bỏ phiếu để biển lận thay cho Đảng cộng sản Việt Nam, với thói âm binh của mua chức bán quyền.
Dùng tiền để mua ghế đại biểu, cùng lúc đã có quốc tịch ngoại, không ngần ngại khi làm sân sau, khi làm ô dù, khi chống lưng cho bạo quyền công an trị lập luật an ninh mạng, khi thì phục vụ tà quyền lập ra luật đặc khu để bán nước. Đây là hành tác của tú bà : "Đưa người cửa trước, đón người cửa sau".
Việt tộc phải giữ cho bằng được hai hệ : hệ liêm (liêm chính, liêm khiết, liêm sỉ) sánh đôi cùng hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) để xây dựng lại con người Việt bằng đạo đức Việt an cư lạc nghiệp bằng giáo lý ăn hiền ở lành. Đừng trông chờ vào các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không biết ăn ở có hậu cho mai hậu thì làm sao các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết ăn hiền ở lành.
Các người đã
Tham nhũng hóa sinh hoạt Việt
Sự hiểu biết về dân tộc, về xã hội, về đất nước đang bị ngự trị bởi vô tri đã làm nên hậu nạn là vô minh, vắng tri nên lãng trí là điều sẽ đến, mà rỗng trí thì trống tâm. Hãy hình tượng hóa biểu hiện của mất tri, tức là bụi đời ngay trong tri lực, nên sẽ trở thành oan hồn ngay trong tư duy của mình. Mất tri vì một chế độ toàn trị nhưng vô tri, độc tài trong bất nhân thất đức đã cướp đi mọi sự hiểu biết của mình, mà quá trình mất tri hiển hiện hằng ngày trước mắt ta :
* Buôn bằng bán cấp, với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cả một hệ thống lãnh đạo bằng giả từ thứ trưởng tới bộ trưởng, mua học vị, để buôn học hàm nhưng không hề có học lực. Tráo trở nhận bằng cấp của học thuật nhưng chưa bao giờ học thật, luồn lách trong học đường bằng chui rúc trong học gian, nhận bằng cao học nhưng không biết giáo khoa, giáo trình, giáo án chuyên ngành cao học của mình là gì ? Nhận bằng tiến sĩ nhưng không biết chuyên môn của mình có nền tảng trên chuyên khoa gì, nên luôn tránh hội thảo, lách hội luận, chuồn hội nghị, không hề trực diện với sách đèn, mà chỉ biết chui nhủi bằng mua gian bán lận.
* Buôn chức bán quyền, bằng liên minh âm binh của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ luôn tìm mọi cách để truy, hủy, diệt, khử trí tuệ. Luôn có phản ứng luật rừng trước lý trí của khoa học, luôn có phản xạ lách luật trước đạo lý của công bằng, lấy bôi trơn thay cho đối nhân đàng hoàng, lấy lót tay thay cho xử thế tử tế. Trơ trẽn nên trâng tráo, tà quyền trong lơ láo để gian tráo trong quan hệ giữa người với người, chưa hề học tôn sư trọng đạo để được học làm người, nên dễ dàng tráo trở trong lừa thầy phản bạn.
* Buôn thần bán thánh, với sư công an, sư quốc doanh, sư đảng viên, không có Phật học làm nên Phật lực, nên trọn kiếp chỉ là ma tăng, mượn cửa chùa để làm điều phạm pháp. Quỷ dữ vờn chánh điện, để vơ vét bằng mê tín dị đoan, nhởn nhơ trong tà đạo để múa may trong oan gia trái chủ ; không xứng đáng làm phật tử, mà giả hiệu hòa thượng, giả danh đại đức. Không dám đối thoại với kẻ chân tu về Phật đức, không dám đối luận với cư sĩ về Phật luận, giả xuất gia để hiện hình là mục súc trong quỷ giới. Khi bị hỏi về tu tâm, tu đức hay tu tuệ thì bọn ma tăng trả lời là tu tham, tu sân, tu si…
Ba loại âm binh này đã lập nên liên minh tà trị của chúng để củng cố và duy trì : hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) ; hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; hệ bất (bất tín, bất trung, bất tài, bất lương, bất nhân). Từ buôn bằng bán cấp tới buôn chức bán quyền chỉ một bước, nên từ buôn thần bán thánh tới buôn dân bán nước cũng chỉ một bước, tất cả bọn này là cá mè một lứa, vì chúng có cùng một bản chất là phản dân hại nước, có cùng một nội chất của sâu dân mọt nước.
Việt tộc phải liên kết hai hệ : hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhân thức, tỉnh thức) song đôi cùng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận, trao luận) để nhận rõ chân ma diện tà rồi vạch mặt chỉ tên giống vô loài mạt vận này để đưa chúng ra khỏi nhân sinh Việt.
Các người đã :
Thất đức hóa nhân lý Việt
Khi tổ chức xã hội theo kiểu độc đảng toàn trị bị thất đức ngay trong đạo đức làm người ngay trong quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội và đời sống xã hội, thì nhân lý và nhân tính sẽ bị đe dọa. Đạo đức này không trên trời rơi xuống, không tự dưới đất trồi lên, nó xuất hiện với văn minh của dân chủ, với văn hiến của nhân quyền, đó là quyền được chọn lựa đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cùng lúc nhận ra luân lý sống có bổn phận với đồng bào, với đồng loại, có trách nhiệm với đất nước, với quê hương. Nên đạo đức tới từ một sự chọn lựa ngay thượng nguồn, chọn lựa để có quyết định chế tác ra thỏa ước của mỗi người đồng ý sống chung, lao động chung để có tương lai chung. Chính thỏa ước này giờ đã thành công ước xã hội (Rousseau) đã cho xuất hiện nhận định về nhân quyền là quyền tự do công nhận (Montesquieu) rồi ký nhận quyền làm người (Voltaire) ngay trong quan hệ xã hội.
Nhưng hiện nay trong xã hội Việt thì ngược lại, dân tộc bị cai trị bởi một chế độ toàn trị độc đảng áp đặt độc quyền trị qua đàn áp của công an trị, Đảng cộng sản Việt Nam không được dân tộc bầu ra. Độc đảng này không đủ liêm chính để có liêm sỉ mà tổ chức tự do đầu phiếu trên nguyên tác đa nguyên của dân chủ. Mà thảm trạng hiện nay là cả một dân tộc phải sống chung để nhận chịu một số phận không do mình chọn lựa, không do mình quyết định ; mà do kẻ mạnh, kẻ chủ, kẻ ác quyết định thay mình thì đây là chuyện bất nhân thất đức mà thầy tạm gọi là mất đức. Hệ lụy mất đức xảy ra hằng ngày trước mắt chúng ta :
* Quan chức đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam biển thủ hàng nghìn tỷ thì chỉ tù vài năm, còn kẻ đói ăn cắp một con chó trong làng thì bị dân làng đánh đập dã man tới chết, đây có phải là chuyện mất đức không ?
(Mèo tha miếng mỡ xôn xao
Hổ tha con lợn bảo nào thấy chi).
* Quan chức đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam biển lận hàng nghìn tỷ thì chỉ bị kỷ luật đảng, mà pháp luật không được ngó ngàng tới, trong khi một hai thanh niên vì đói phải trộm thức ăn ngoài chợ, thì tòa án xử nhiều năm tù, đây có phải là chuyện mất đức không ?
(Mèo tha miếng mỡ thì la
Cọp tha con lợn cả nhà im hơi).
* Quan chức đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam biển lận hàng nghìn tỷ thì chỉ dời vị tráo nhiệm, đổi từ chỗ này qua chỗ khác, còn một thầy giáo dạy cho học sinh một bài hát yêu nước, thương nòi thì bị tòa án nhận lệnh của lãnh đạo mà xử hơn mười năm tù, đây có phải là chuyện mất đức không ?
(Hùm tha con lợn không sao
Mèo tha miếng thịt, rễu vào rễu ra).
Một chế độ đẩy xã hội bị rơi vào nhân biệt : sự phân biệt giữa người với người, giữa đồng bào với nhau, vì lãnh đạo của chế độ độc đảng đã đi trên tà lộ chống nhân quyền ! Vì nhân quyền luôn là nền để tạo nên sự công bằng giữa các cá nhân. Công bằng này không chấp nhận sự khác biệt để làm ra sự tách biệt, để dân tộc phải gánh chịu : sự phân biệt, kẻ giàu ở trên người nghèo ở dưới ; sự phân loại, kẻ gian giàu bóc lột người lành nghèo ; sự phân hóa, kẻ gian mạnh tha hóa người nghèo yếu ; sự phân cực, kẻ gian mạnh đàn áp người nghèo yếu.
Khi chính trị học, xã hội học và triết học cùng nhau phân tích về bất công tạo ra bất bình đẳng, thì luật học đã có mặt cùng công pháp quốc tế được Liên Hiệp Quốc bảo trợ nơi đây nhân quyền là : quyền được làm người mà không là nạn nhân, cũng không là thủ phạm của bất cứ bất công nào, của bất cứ bất nhân thất đức nào. Quyền được làm người với nội chất của nhân phẩm, khi công lý biết giới hạn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu, vì giá trị của nhân quyền là vô giá, nó cao, sâu, xa, rộng hơn phạm trù bình thường -nếu không nói là tầm thường- của ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… Quyền được làm người chính là sức mạnh của hoài bão vì nhân lý, nhân tri, nhân trí, của hoài vọng vì nhân bản, nhân văn, nhân vị, tạo ra được tính thuyết phục làm nên sự đồng cảm, đồng lòng để cùng nhau bảo vệ giá trị của nhân phẩm.
Trước bất công hiện nay trong xã hội Việt, dưới bạo quyền công an trị, dưới tà quyền tham nhũng trị, dưới ma quyền tham tiền trị, thì Việt tộc phải bảo vệ hai hành tác đạo đức : Hành tác có ! Của hội nhập bằng trí thức để có một lý tưởng chung là bảo vệ nhân phẩm, đây là câu chuyện rất rõ nét trong triết học khai sáng của Monstesquieu, Rousseau, Voltaire… Quyền được làm người được thực hiện trong đòi hỏi công bằng, trong đấu tranh vì tự do, một nhân quyền có chân trời của công lý, khi con người biết trả lời là : có mặt vì có công lý ! Cùng lúc với Hành tác không ! Là quyền được làm người khi nhân sinh đứng trước bất công, thì con người biết trả lời ngược lại là : không ! Vì bất công không chấp nhận được ! Vì nó bất nhân thất đức ! Nên sẽ bất tuân trước bạo quyền, cụ thể là sẽ bất chấp mọi tà quyền để mạnh mẽ trả lời : Không ! Không chấp nhận bất công !
Các người đã
Vô giác hóa nhân quyền Việt
Lý trí tỉnh táo làm nên trí tuệ sáng suốt, cả hai hợp lực để làm nên tuệ giác, sự giác ngộ của nhân tri, có cảnh giác của nhân trí về quyền làm người trong tự do, công bằng, bác ái. Liên minh của lý trí-trí tuệ-tuệ giác, không hề mơ hồ cũng không hề trừu tượng, cả hai có sức mạnh giúp ta nhận ra hai chuyện ngay trong đời sống. Hiểu được thì giải thích được, giải thích được thì xem như đã hiểu rồi, nơi mà hiểu biết và giải thích không phải là hai hành tác khác nhau, mà chỉ là một, một không gian và không có biên giới nên không cần trung gian để nối nhịp cầu giữa hiểu biết và giải thích. Hiểu được ngay thì giải thích được ngay, ngay trong quyền làm người của mình, tức là quyền được sống yên mà không là nạn nhân hay thủ phạm phản nhân quyền. Chính quyền làm người này đưa chúng ta tới quyền mưu cầu hạnh phúc, mà không một bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền nào được quyền tước đoạt.
Quyền được làm người song lứa với luật bảo vệ người chính là chủ lực của tuệ giác. Khi nhận ra được hai mệnh đề trong cùng một mệnh đề chung tên là nhân quyền. Thì nhân quyền vừa là cơ hội đối thoại giữa các dân tộc khác nhau, giữa các văn hóa và văn minh khác nhau có thể đối luận được với nhau qua quyền được làm người, luật bảo vệ người. Vừa là cơ hội tiến bộ của mọi dân tộc khác nhau, của mọi văn hóa và văn minh dù khác nhau, nhưng biết lấy nhân vị, nhân bản, nhân văn làm nội lực cho nhân quyền. Đây là hình ảnh của con người đi về phía cao của ánh sáng ; đủ sức bước tới, bước lên, có tay trái cầm đèn soi đường, có tay phải cầm cán cân của công lý.
Câu chuyện nhân quyền là tự truyện về mức độ làm nên trình độ, khi ta có bác ái với lòng trắc ẩn chia ngọt sẻ bùi với tha nhân, chia sẻ niềm đau nỗi khổ với đồng bào, với đồng loại thì chữ nhân của nhân loại sẽ có được tầm vóc cao, kích thước rộng, nội công mạnh, bản lĩnh lớn hơn hẳn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… Vì kẻ chỉ biết ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu thì có thể làm người nhưng chưa chắc đã được thành nhân. Vì nhân đây có gốc rễ, cội, nguồn của nhân tâm, nhân từ, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản làm nên sung lực trong lý luận rồi hùng lực ngay trong đấu vì nhân quyền. Tại đây, nhân quyết là không gian tri thức trong đó có chủ quyết để chủ động đấu tranh vì công bằng mà chống bất công, nên nhân quyền vừa là hành động của hiện tại, vừa là hoài bão của tương lai, vừa là quy trình đấu tranh hằng ngày, vừa là chân trời trước mắt.
Nếu ngoài đường trên phố, con người Việt đã bị tha hóa bởi bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền vô luân làm nên con người Việt vô cảm vì vô minh của ai chết mặc ai, vô giác vì vô tri của bây chết mặc bây, tức là đã bị mất tuệ. Thì cũng chính xã hội Việt ngày nay, vẫn còn không nhiều ngoài đường trên phố, nhưng không ít qua các cá nhân thiện nguyện của thương người như thể thương thân, hội đoàn nhân đạo của máu chảy tới đâu ruột đau tới đó.
Hãy đặt nhân phẩm của các bạn vào ngã tư của tu duy, và vận dụng hai quyền lực làm nên nội chất của nhân quyền : hoài bão đi tìm công bằng để lập nên công lý, song hành cùng sự chối từ bất công, để gạt bỏ đi hệ vô (vô cảm, vô tri, vô minh, vô giác) chỉ vì hệ này rất vô luân vì bất nhân ? Hãy đi xa hơn nữa để nhận ra chân dung diện mạo của nhân quyền có trong năng lượng đôi làm nên năng lực đôi : biết trả lời có mặt vì công lý, vì đã biết trả lời không trước bất công trong nhân kiếp. Hãy sẵn sàng trả lời có ! Để đấu tranh vì công lý, và luôn sẵn sàng trả lời không ! Để tranh đấu chống bất công.
Các người đã
Tàn tệ hóa đất nước Việt
Sau khi có kiến thức, tri thức, ý thức và nhận thức, thì phải tỉnh thức trước họa Tàu tà, trong đó có sự vận hành của quỷ dữ liên kết với âm binh qua Tàu tặc đã chiếm biển, đảo của Việt tộc. Với Tàu họa của nhiễm ô từ bốc xít Tây Nguyên tới Formosa đã diệt ngư trường của miền Trung mà không quên các nhà máy nhiệt điện than đang thiêu diệt ngay trong buồng phổi, ngay trong nội tạng của mỗi người Việt. Cùng Tàu nạn của thực phẩm bẩn với hóa chất độc, song hành cùng Tàu hoạn với buôn người cùng buôn ma túy, giết người trên đất Việt rồi bắt người Việt để cướp nội tạng... Đây là ngoại xâm hiện nay đang trước mặt, trước mắt các bạn, đã và đang được nội xâm mở cửa để có mặt trên mọi vùng miền của đất nước, trong hang cùng ngõ hẻm của mọi thành phố Việt.
Hãy nhận ra chân dung ngoại xâm của Tàu tà (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu nạn, Tàu hoạn) nếu các bạn không nhận ra hình tướng của nội xâm của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc làm bạn vàng, đang cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu tà với hội nghị Thành Đô, với hàng loạt ký kết giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Tàu tà mà cho đến nay không được công bố, vẫn bị giấu kín. Dân Việt chỉ biết qua luật dẫn độ là phải đưa trả lại Tàu tà chớ không được xử các tội phạm Tàu gian bằng luật pháp Việt ; rồi tới cơn đại dịch Vũ Hán đầu năm 2020 này là không được đóng cửa khẩu biên giới nếu Tàu tà không cho phép…
Hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) sẽ tiếp tục vơ vét tiền thuế của đồng bào, nạo vét tài nguyên thiên nhiên của đất nước, với hành tác cướp ngày là quan cùng thâm trạng lòng tham không đáy của chúng. Chính chúng sẽ bòn rút tới cạn kiệt mọi sinh lực của đồng bào, mọi nguyên khí của quốc gia, để khi đất nước lâm nguy, đồng bào lâm nạn là chúng cao bay xa chạy qua phương Tây, với quốc tịch ngoại, thẻ xanh cùng vàng bạc trộm, cắp, cướp, giật được của dân lành, dân đen, dân oan.
Đừng sai định đề về ngoại xâm để đừng sai lẫn định luận về nội xâm, để không bị sai định nghĩa : Việt tộc là sắc tộc như thế nào ? Thưa các bạn, Việt sử thì rất rõ ràng và rành mạch : Việt tộc là một dũng tộc biết thắng mọi ngoại xâm bằng sự dũng cảm của chính mình, Việt tộc là một minh tộc biết thắng mọi nội xâm bằng sự thông minh của chính mình !
Tâm tưởng của Việt tộc có một ca từ của nhạc sĩ Phạm Duy : "Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi" để mọi con dân Việt được sống cùng một giòng sinh mệnh với tổ tiên của mình, với giống nòi của mình.
***
Kết :
Việt tộc tang thương ?
Việt tộc tang thương, khi quê hương gấm vóc của tổ tiên Việt bị nhiễm ô, khi môi trường bị hủy, môi sinh bị diệt, khi con dân Việt phải lưu vong hóa để nhận kiếp nô bọc, nô tỳ cho các quốc gia láng giềng. Việt tộc tang thương, khi dân lành một sớm một chiều đã thành dân oan, trong hoạn nạn màn trời chiếu đất, nạn nhân của liên minh giữa bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị. Việt tộc tang thương, khi dân nghèo thành dân đen trắng tay trong đầu tắt mặt tối, ngày ngày lao lực trong một nắng hai sương mà không đủ sống, giờ giờ dãi nắng dầm mưa mà vẫn không sao thoát khỏi cùng quẩn. Việt tộc tang thương, với bao đồng bào vô gia cư, trong hoạn cảnh đầu đường xó chợ, với nhục cảnh trẻ bụi đời trên đường phố, sống nay chết mai, bị độc đảng bỏ rơi, bị toàn trị xua đuổi, bị cực quyền hất hủi, bị cường quyền trừ khử… tang thương nhân phẩm… tan tóc nhân tâm…
Triệt luận trở lại các tổng kết nghiên cứu thực địa về thảm họa môi trường hiện nay tại Việt Nam, được phân tích qua các tri thức của môi sinh học hiện đại. Mà không quên thảm trạng nhân sinh hiện nay với hoạn cảnh của dân oan bị phá nhà, cướp đất một minh chứng của hiện tượng luận về một độc đảng cầm quyền hành tắc như một đảng cướp, trộm, cắp, giựt đất đai, tài sản của nhân dân.
Thảm họa màn trời chiếu đất của các đồng bào vô gia cư là khảo sát tiếp theo về thảm nạn của xã hội Việt hiện nay nơi mà con dân Việt mang nhân sinh bất bình đẳng vào thẳng nhân kiếp của các nạn nhân của một chế độ độc đảng toàn trị được xây dựng trên bạo quyền của bất công. Thảm kịch một xã hội bị tha hóa từ nhân cách tới nhân phẩm qua điều tra và khảo sát về các trẻ em bụi đời, sống còn vất va vất vưởng nơi đầu đường xó chợ trong một chế độ mà chỉ có bọn ký sinh trùng quay quất, lẩn quẩn chung quanh các đặc quyền, đặc lợi của Đảng cộng sản Việt Nam để nhận bổng lộc mà vinh thân phì gia.
Thảm họa này chồng chất lên thảm họa kia, công trình nghiên cứu về các tù nhân lương tâm của Việt Nam hiện nay. Từ phân tích bối cảnh xã hội dân sự tới giải thích những chặn đường đấu tranh vì công bằng và bác ái luôn dẫn tới sự dấn thân vì văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền. Các tù nhân lương tâm chính là những đứa con tin yêu của Việt tộc, đang bị lao lý hóa bởi bạo quyền công an trị, tà quyền bất tài trị, ma quyền tham nhũng trị. Tội phạm học là chuyên ngành sinh sau đẻ muộn của khoa học xã hội và nhân văn, nhưng lại là một chuyên ngành sắc nhọn để nghiên cứu tới nơi tới chốn tội ác của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi nó cướp được chính quyền rồi độc quyền trong quá trình tha hóa Việt tộc.
Sinh luận : môi trường bị đốn, nhân đạo bị chặt
Nhân học hiện đại đã cởi bỏ được sự phân biệt thủa nào : con người có văn hóa (culture),ngược lại với thiên nhiên (nature) không văn hóa, vì nhân học ngày nay đã ý thức được bằng kiến thức là không có môi trường thiên nhiên nuôi nấng con người thì làm gì có văn hóa. Với nhận thức được bằng tri thức là không có môi sinh thiên nhiên nuôi dưỡng con người thì không có một văn hóa nào có thể tồn tại được. Cặp đối nghịch thủa nào văn hóa-thiên nhiên, nơi mà văn hóa có lãnh thổ riêng, thiên nhiên có lãnh thổ riêng, hai lãnh thổ với biên giới rành mạch, giờ đã thành cặp đôi song hành, đồng hội đồng thuyền : văn hóa bảo vệ thiên nhiên, để thiên nhiên tiếp tục nuôi con người có văn hóa ! Mọi định nghĩa về văn hóa mà môi trường bị xóa, môi sinh bị khử, đều là những định nghĩa mang những khuyết điểm về kiến thức, tạo ra khuyết tật về tri thức.
Nhân học còn phải đi xa thêm nhiều bước nữa với trường hợp của Việt Nam hiện nay, nơi mà nhân đạo cần có môi trường và nhân phẩm cần có môi sinh. Khi ta đứng trước và thấy các cánh rừng từ Sa Pa tới Nha Trang bị đốn, bị nạo, thì ta thấy bị tổn thương từ nhân lý tới nhân tính, vì không có nhân lý nào sinh tồn với con người mà không có môi trường, vì không có nhân tính nào tồn tại với con người không có môi sinh. Tàn phá rừng để mưa kéo bùn về vùi lấp con người, nhà cửa, sông ngòi… Chính nhân lý với nhân tính tạo được nhân từ đối với thiên nhiên, như là sự thông minh biết bảo vệ môi trường như bảo vệ sự sống của chính mình.
Khi ta đứng trong hay đứng cạnh các vùng có khai thác quặng mỏ trên Tây Nguyên, như các hàng loạt các quả bom hóa chất trộn với bùn ô nhiễm sẵn sàng lăn xuống các bình nguyên bên dưới, thì ta thấy bị tổn thương từ nhân tri tới nhân trí, tại sao bạo quyền lãnh đạo vô tri đã để Tàu họa tàn phá môi trường tới mức tàn mạt hóa chính nhân cách của họ, tại sao tà quyền tham nhũng lại để Tàu hoạn tàn phá môi sinh tới độ đốn mạt hóa chính nhân diện của chúng. Khi ta đứng trên nhìn xuống khu khai thác thép của Formosa, một vùng biệt cấm Việt tộc lai vãng ngay trên đất Việt, đã một sớm một chiều giết gọn, hủy sạch môi sinh của một không gian rộng của Biển Việt tại miền Trung, thì ta thấy bị tổn thương từ nhân bản tới nhân vị của cả một dân tộc, với độc đảng toàn trị đã mở cửa cho công nghiệp độc vào xóa trắng sức sống của môi sinh, nơi có hằng triệu đồng bào đang sinh sống nhờ môi trường biển.
Nhân học hiện đại đã từ bỏ được sự phân biệt thủa nào : con người có văn hóa (culture) có toàn quyền canh tác, khái thác, tiêu xài thiên nhiên (nature) vô tri, vô giác, vô minh... Nhân học hiện đại không còn xem thiên nhiên đứng ngoài và đứng sẵn để con người sử dụng, vận dụng, tận dụng như phương tiện, như công cụ, nhất là như tài nguyên, cần lại xài và nếu cần là diệt. Một nhân học thông minh về môi trường là một nhân học có phương pháp luận biết ngăn chặn lại lối nghĩ, cách làm bất nhân là : tất cả sinh vật trong thiên nhiên làm nên môi sinh của môi trường đều được quy ra thành hàng hóa rồi thành tiền bạc để quyền lực biến thành quyền lợi rồi tự lợi mà tha hồ vơ vét. Một nhân học thông thái về môi sinh phải nhận diện được chính hệ độc nơi mà độc đảng sinh ra độc quyền, tạo nên độc tài, chế tác ra độc trị, để dựng lên độc tôn đã dung dưỡng rồi giáo dưỡng hệ tham nơi mà tham quan sinh ra tham quyền, tạo nên tham ô, chế tác ra tham nhũng, để tham tiền qua tham đất, tham rừng, tham biển… Chính hệ độc đã "béo bổ hóa" hệ tham bằng độc đoán của độc đảng tạo ra các hậu quả độc hại cho môi trường, các hề lụy độc hiểm cho môi sinh.
Một nhân học thông thạo về môi trường và môi sinh phải phân tích được, phải giải thích được thảm trạng đã trở thành thảm họa cho Việt tộc. Các thành phố bị ngập lụt sau mỗi trận mưa tới từ các quy hoạch vô tri, vô minh, vô giác, hoàn toàn vắng bóng kiến thức làm nên tri thức, ý thức dựng nên nhận thức là : không được hủy sông ngòi, không được diệt các dòng chảy, và khi nước không thoát được thì nước sẽ hại, sẽ giết người. Các nhà máy thủy điện sau các trận xả lũ, đã giết dân và súc vật, thì chúng để lại trong thiên nhiên, trong đồng ruộng, trong canh tác một bãi tha ma của ô nhiễm, với các tổn hại đi cùng với các tổn phí khi con người muốn để tái tạo lại môi trường ban đầu.
Các nhà máy nhiệt điện ngày ngày khói và tro bay trong không khí để tồn đọng lại trong buồng phổi, trong nội tạng của con dân Việt, với sự xuất hiện của các làng ung thư, song hành cùng các thống kê kinh hoàng hằng năm về số người bị ung thư tại Việt Nam, mà nguyên nhân chính là biến thiên nhiên thành tro, biến môi trường thành khói, để rồi tất cả thành chất độc, làm ra chất chết hủy diệt hằng ngày Việt tộc. Nhân cách con người khai thác thiên nhiên chính là cách sống và chết con người trên trái đất này : có hậu hay không có hậu ! Mà có hậu thì sống mà không có hậu thì phải là chết ! Và chết trong đớn hèn và tủi nhục, vì đã sống không xứng đáng với chính môi trường đã nuôi nấng mình.
Môi trường học không những đề nghị nghiên cứu các sinh hoạt, quan hệ, đời sống của con người trên môi trường thiên nhiên, mà môi trường học còn phải đi sâu và đi xa để phân tích các chính sách về môi trường, các quyết sách về môi sinh, các quốc sách về thiên nhiên của một quốc gia. Vì các quyết định của chính quyền và các hành động của chính phủ tác động trực tiếp và dài lâu trên môi trường, môi sinh ; và chính môi trường và môi sinh là một trong những nền tảng của an sinh xã hội hiện tại, mà cùng là một trong những bảo hiểm cho các thế hệ tương lai. Môi trường học còn đưa ra các chỉ báo về không gian xanh trong đô thị, về môi trường xanh của một quốc gia, mà một chính quyền sáng suốt trong quyết định, một chính phủ thông minh trong hành động, biết nhìn xa trông rộng để bảo vệ môi trường, cụ thể là biết vận dụng tiến bộ khoa học, phát triển kinh tế mà trực tiếp phục vụ cho môi trường. Trong các quốc gia quý nhân quyền, trọng dân chủ, thì môi trường là chỉ báo nhân lý để đánh giá một dân tộc có thật sự là một dân tộc văn minh hay không ?
Qua khảo sát, điều tra cách đối xử của dân tộc đó, nhất là chính quyền của dân tộc đó đối với môi trường và môi sinh của họ ; cụ thể là không có một dân tộc nào thật sự văn minh, không có một chính quyền nào thật sự thông minh khi họ đối xử tàn tệ với môi trường. Môi trường học dựa vào nghiên cứu, điều tra, khảo xác, điền dả để tìm tới các phân tích và giải thích về hiện trạng của một môi trường. Chưa đủ ! Môi trường học vận dụng các kết quả nghiên cứu để đi tới kết luận với dữ kiện chính xác, chứng từ khách quan về các hậu quả trên môi trường do con người sinh sống trên môi trường đó.
Chưa xong ! Môi trường học còn phải tìm tới các các hậu quả trên môi trường sẽ gây ra các hệ lụy nào trên con người trong hiện tại, trên các thế hệ mai hậu. Chưa hết ! Môi trường học phải đi cao hơn về tính liên kết giữa con người và thiên nhiên bằng lý luận của nhân sinh, nhân thế, nhân gian ; bằng lập luận của nhân lý, nhân tính, nhân bản ; bằng giải luận của nhân tri, nhân văn, nhân trí để có các diễn luận về nhân đạo, nhân nghĩa, nhân phẩm làm nên nhân vị của con người được định vị rõ ràng trong không gian của môi trường là nơi nhân dân và nhân loại đang sinh sống.
Môi trường học khẳng định minh bạch là không thể có nhân sinh, nhân thế, nhân gian lơ lửng sống không môi trường ; là không thể có nhân lý, nhân tính, nhân bản lững lờ trên không trung mà không dựa vào môi sinh ; là không thể có nhân tri, nhân văn, nhân trí bay bổng rồi vật vờ qua lại mà không dựa vào thiên nhiên nơi mình sinh ra và lớn lên, cho nên không thể có nhân đạo, nhân nghĩa, nhân phẩm làm nên nhân vị mà không được định vị qua không gian và thời gian rỏ ràng trên một môi trường, qua hiện hữu trên một môi sinh. Môi trường học không hề rời chính trị, không hề xa chính sách, không hề quên chính giới, chính khách, không hề tách khỏi chính quyền và chính phủ trực tiếp quyết định lên số phận của môi trường, số kiếp của môi sinh.
Thảm trạng môi trường hiện nay của Việt Nam là chính quyền độc đảng không hề có một quốc sách sáng suốt nào về môi trường, chính phủ độc tài nhưng bất tài được Đảng cộng sản Việt Nam dựng nên cũng không không hề có một chính sách thông minh nào để cứu rỗi toàn cảnh bi đát trong bi nạn về môi trường Việt hiện nay. Nhiều chuyên gia quốc gia và quốc tế đã không ngần ngại đưa ra hình ảnh quê hương gấm vóc thủa nào, giờ chỉ là một bãi rác khổng lồ, lẫn lộn với hóa chất độc, ngày đêm gây ô nhiễm trên mức độ của quốc gia, tạo ung thư trên mật độ của dân tộc.
Môi trường học rọi sâu vào các hậu quả, soi rộng vào các hệ lụy qua nghiên cứu, điều tra, khảo xác, điền dã để nhận ra Đảng cộng sản Việt Nam với chính quyền độc trị nhưng không biết quản trị hệ môi trường, chính phủ độc tài nhưng bất tài trước thảm họa của ô nhiễm. Ngược lại và thậm tệ hơn, chính quyền và chính phủ của Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng bạo quyền lãnh đạo để chung chia qua những nhóm lợi ích mà thực chất là các tập đoàn tội phạm sâu dân mọt nước biết buôn rừng bán biển. Trong bọn này còn có kẻ phản dân hại nước vì đã có ý đồ buôn dân bán nước, giết môi trường và diệt môi sinh có trong phản xạ bất nhân của chúng. Chúng dùng tà quyền tham quan để chung lưng đấu cật với ma quyền tham tiền, sẵn sàng tiêu diệt môi trường, truy giết môi sinh qua các quy hoạch đô thị, nông thôn, chúng cũng không tha thiên nhiên trên các vùng sâu, vùng xa với độc lý của tham-đất-vì-tham-tiền
Môi trường học nhân kết chính là môi trường học lột trắng nhân cách không kiến thức, vắng tri thức, trống ý thức, biệt nhận thức của một chính quyền độc trị độc đoán trong phản quản trị hệ môi trường, chính phủ độc tài nên độc hại trong quá trình phát họa ô nhiễm trùm lên đất nước, phủ lên số phận của cả một dân tộc. Môi trường học biết lột trần nhân dạng các hậu quả của vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm của một chính quyền độc trị nhưng không biết quản trị hệ môi trường, chính phủ độc tài nhưng bất tài trước thảm họa của ô nhiễm. Môi trường học biết lột mặt nạ nhân diện của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan ma quyền tham tiền, qua lòng tham không đáy của hệ tham : tham quyền để tham quan, tham ô để tham nhũng, tham đất vì tham tiền, sẵn sàng diệt môi trường, giết môi sinh vì tham, vì tiền.
Oan luận : nước mắt dân oan
Hiện tượng học về dân oan trong tiểu luận hiện tượng học nhân kết này. Chọn trực diện để tạo trực ảnh. Các bạn đã dùng mạng xã hội để gởi tới đồng bào những hình ảnh liêm chính nhất về bi nạn dân oan, mà cũng là thảm kịch hiện nay của Việt tộc. Hiện tượng học lấy cuộc sống để chế tác ra chất sống, trong chất sống có mắt thấy tai nghe, vì vô trương bất tín (không thấy không tin), chính hiện tượng làm nên kiến thức trực quan của con người. Hiện tượng học có chỗ dựa là hiện tượng luận, nơi mà : trực quan thấu trực cảnh, thực tế kể thực trạng, tầm nhìn sự thật nâng tầm vóc chân lý.
Từ đây, lấy chất sống của cuộc sống để tìm tới sự thật, để tạo ra tri thức, dụng tri thức để dựng lên ý thức, trong đó đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành được hình thành để luân lý nói rõ về trách nhiệm và bổn phận của mỗi người, để sống có đạo đức, có nền là nhân phẩm đã biết nhận thức về mọi điều kiện làm người, và muốn làm người với nền của nhân lý, với vóc của nhân tri, với tầm của nhân trí. Nhân kết vừa là tổng kết, vừa là hùng lực của nhân vị tin vào nhân lý, biết dựa vào nhân tri, được nâng cao bởi nhân trí. Nhân bản có nền là nhân văn, có gốc là nhân phẩm, mang rễ của nhân từ. Nhân nghĩa biết trợ lực cho nhân thế, biết trợ duyên cho nhân tình, để nhân loại biết "ăn ở có hậu" ở mãi với nhân duyên.
Nhân kết Việt là thuật ngữ tới từ ít nhất là ba lập luận của Việt tộc : giống nòi Việt, gọi nhau là đồng bào vì cùng bào thai, vì cùng huyết thống. Dân tộc Việt, vì vậy có cùng một giòng sinh mệnh, sinh tử có nhau. Quê hương Việt, là mái nhà Việt để bảo vệ mọi công dân Việt. Nhân kết Việt, được tạo dựng qua ít nhất là ba lý luận của Việt tộc : Kết thân, vì có cùng một giòng máu, "máu chảy ruột mềm" ; kết gia, vì cùng là đồng bào, "anh em một nhà" ; kết kiếp, vì là thân phận Việt biết "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ". Dân oan là con dân Việt, là đồng bào Việt, là dân tộc Việt, là giống nòi Việt, chia sẻ với chúng ta cùng một nhân kiếp Việt : chúng ta không thể bỏ rơi dân oan !
Hãy đứng về phía nước mắt của dân oan mất nhà, mất đất. Hãy đứng về phía tiếng gào của dân oan đòi công lý. Hãy đứng về phía tiếng hét của dân oan đánh thức công luận. Hãy đứng về phía tiếng thét của dân oan dựng dậy công luật. Hãy đứng về phía tiếng khóc của dân oan đang cầu cứu dân tộc ! Hãy đứng cùng xã hội học để phân tích bất công. Hãy đứng cùng triết học để vạch mặt bọn bất nhân. Hãy đứng cùng luật học để lột mặt nạ đám tham nhũng. Hãy đứng cùng nhân học để trực diện chống tà quyền. Hãy đứng cùng sử học để ghi nhận tội ác của độc đảng-độc tài ! Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, tác giả là bọn tham quan tạo ra tham ô, vì tham tiền, nên hiện tượng luận nhân vị phải có lý luận để lột mặt nạ chúng, với hình ảnh như dữ kiện, như chứng từ ; từ đó phân tích và giải thích để lý luận về bản chất bất nhân của hệ tham (tham nhũng, tham quan, tham ô, tham tiền). Một hiện tượng luận nhân vị chỉnh lý phải lý luận rành mạch về nội chất và nội dung của hệ tham này.
Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, nó là con đẻ của độc đảng lấy độc tài để xây dựng độc quyền, lấy độc trị để độc tôn, qua thủ thuật của bạo quyền, qua ma thuật của tà quyền, lấy âm binh công an trị để khổ sai hóa xã hội, lấy tuyên truyền một chiều để ngu dân hóa quần chúng, để rồi tha hóa mọi giá trị đạo đức của tổ tiên. Một hiện tượng luận nhân vị toàn lý phải thấy-để-thấu cái độc hại của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị , độc tôn) này. Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng, biến quyền lực thành quyền lợi, rồi biến quyền lợi thành tư lợi, nên chúng chính là tà quyền, là âm binh đang biến chất nhân phẩm Việt, bản sắc Việt, lương tâm Việt. Chúng là bọn cướp công ích của dân tộc, cướp công tài của đất nước, cướp công bằng xã hội, và chúng nhẫn tâm cướp luôn công lý của dân oan, vì chúng bất nhân, thất đức ; nên một hiện tượng luận nhân vị phải có minh lý để thông suốt nhân vị của dân oan là một thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý).
Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng trong tư lợi của tà quyền ; dân oan đấu tranh đòi lại đất của họ, để đòi lại hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý), bằng thái độ liêm chính, bằng hành động liêm sỉ, họ liêm khiết tự lời nói tới quyết tâm. Một hiện tượng luận nhân vị phải có trực lý để diễn luận rõ ràng dân oan đại diện cho hệ liêm ( liêm chính , liêm sỉ , liêm khiết) , họ chính là đại biểu cho sự thật xã hội, chân lý quần chúng, lẽ phải dân tộc. Dân oan là thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý) , cảcho hệ liêm ( liêm chính , liêm sỉ , liêm khiết) , dân oan không thể bị bỏ rơi, dân oan không thể đơn độc trong cuộc đấu tranh vì nhân phẩm Việt, được xây dựng trên nhân vị của nhân bản, nhân văn bằng nhân nghĩa, nhân từ của Việt tộc. Chúng ta chung lưng đấu cật, song hành và gắn bó với tiếng gào, tiếng hét, tiếng thét của dân oan, họ là đồng bào của chúng ta, họ đang lâm cảnh màn trời chiếu đất , họ chính là nhân nghĩa Việt phải có trong mỗi công dân
Khổ luận : đầu đường xó chợ… sống nay chết mai
Nếu một dân tộc 100 triệu dân, mà có hằng triệu người vô gia cư, thì dân tộc đó đã phải nhận một phần lớn số phận màn trời chiếu đất. Nếu một giống nòi có 100 triệu con dân, mà có hằng triệu người vô gia cư, thì giống nòi đó đã phải nhận một phần lớn nhân kiếp đầu đường xó chợ. Nếu ra đường, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình không có mái ấm che thân, khi công dân này sẽ nhận ra nhân phẩm của các đồng bào vô gia cư đã mất rồi ! Thì chính lúc đó công dân đang có mái ấm che thân phải nhận ra luôn là chính nhân phẩm của mình đang bị xúc phạm.
Nếu ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình mất đất mất nhà, công dân này sẽ nhận ra nhân vị của các đồng bào vô gia cư không còn nữa ! Thì chính lúc đó công dân này đang có đất có nhà cũng phải nhận ra luôn là chính nhân vị của mình cũng đang bị mất, và sẽ bị mất bất cứ lúc nào bởi bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Nếu trên đường ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình đang bụi thân trong bùn kiếp, mà trước đó họ là dân lành, dân đen đã bị bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền biến thành dân oan, dân bụi ; họ đã bị cướp nhân quyền rồi ! Thì chính công dân đó phải nhận ra là chính nhân quyền của mình cũng sẽ bị cướp. Vì khi một dân tộc để bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền chỉ biết trộm, cắp, cướp, giật, rồi quyết định nhân kiếp của mình thì dân tộc đó phải nhận kiếp nạn nhân : không nhân phẩm, không nhân vị, không nhân quyền…
Bụi luận : bụi đời… bụi kiếp… oan hồn…
Bụi đời (bụi giữa đời, bụi trong đời, bụi ngoài đời…) chỉ những ai vô gia đình, không nhà, không nơi sống cố định, không nơi ở yên ổn, sống như bụi trôi dạt, lất phất giữa đời. Sống trên đường phố, đi lại qua các phố phường, rồi bị xếp loại một cách vô phúc nhất bởi những kẻ có gia đình, có nhà, có nơi nương tựa là loại đầu đường xó chợ ; đây là loại bất công mà khoa học xã hội và nhân văn chưa đặt tên. Luận về hiện tượng xã hội bụi đời này, thì tên gọi rất khác nhau, qua từng quốc gia, qua từng xã hội ; nên có những quốc gia văn minh, có những xã hội có nhân văn, tên gọi những ai tứ cố vô thân một cách êm đềm hơn. Thí dụ như người Pháp gọi họ là : kẻ không nơi cư trú cố định (sans domicile fixe). Êm tên để nhẹ kiếp ! Vì họ còn là người, họ chỉ không có nhà để ở, không còn gia định để nương, họ không hề là : bụi ! Ngữ pháp bụi luận làm tựa cho tiểu luận này, đi từng giai đoạn, từ điều tra qua điền dã, từ nghiên cứu qua khảo sát, từ phân tích qua giải thích, để xây dựng nên một quy trình cho luận về hiện trạng đau thương này của Việt tộc.
Trong đó, lý luận về một cá nhân bụi đời, không nên quy chụp vào số phận hay phần kiếp của cá nhân đó ; mà đây là một hiện trạng xã hội, nơi mà nhân học nhận thức phải song hành cùng xã hội học giáo dục để nhân diện được trách nhiệm của toàn bộ xã hội đối với với tất cả cá nhân này, nhất là chính quyền quản lý xã hội đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bi nạn bụi đời. Tại đây, lập luận về thực thể bụi đời, không những nói lên hậu quả gia đình tạo ra hậu nạn xã hội bụi đời, mà nhân học nhận thức phải song hành cùng xã hội học tri thức để nhận ra những bất bình đẳng luôn song đôi với bất công trong một xã hội, từ đó cướp đi tất cả điều kiện sống bình thường cùng cơ may được sống yên, được sống lành trong một mái ấm. Vì có mái ấm thì sẽ không có bụi đời ! Từ đây, giải luận về bi nạn bụi đời, phải tìm từ gốc tới ngọn, tại sao là dân chúng mà một sớm một chiều lại trở thành dân oan, từ những người có mái ấm dung thân, giờ lại lâm vào cảnh tứ cố vô thân, rồi màn trời chiếu đất, rồi đầu đường xó chợ. Vậy nên nhân học nhận thức phải sẽ chung đôi cùng xã hội học chính trị để nhận ra đường đi nước bước của bạo quyền lãnh đạo độc tài, có chung chia với tà quyền tham quan sống nhờ tham nhũng từ trung ương tới địa phương, rồi chia chác với đám ma quyền tham tiền qua buôn đất, không những biến dân chúng thành dân oan, mà còn biến họ thành tro bụi ngay trong cuộc sống, xô đẩy họ vào kiếp bụi đời !
Sau đó, diễn luận từ lỗi cơ chế tới tội lãnh đạo nơi mà những kẻ bụi đời không còn là những cá nhân riêng rẽ, mà là một thành phần xã hội ngày càng đông, sống trong nheo nhóc của cùng cực đói nghèo, mất trắng an sinh xã hội, mất trọn nhân quyền, quyền được sống bình thường của những công dân trong một xã hội pháp quyền. Kết cục là đẩy ra, vất ra, quăng ra đường phố, chợ búa, những đứa trẻ không nhà, những thiếu nhi mất nhà, xa cha mẹ, nên nhân học nhận thức phải sánh đôi cùng tội phạm học phân tích để kết luận trong tỉnh táo và sáng suốt là biến trẻ thơ, biến thiếu nhi thành bụi đời là một tội ác !
Thân phận không phải là số phận, thân phận mang không gian của hiện tại, số phận phải đèo số kiếp dài theo thời gian ; nhưng thân phận hiện tại nói lên số phận tương lai ; vì thân phận là chỉ báo (vì là điềm báo) cho số phận, vì cả hai vừa là nhân và vừa là quả, gắn liền với nhau trong nhân kiếp. Thân phận bụi đời không nhất thiết là thân phận mồ côi, vì có kẻ có cha mẹ có nhà nhưng thành bụi đời, có người mồ côi nhưng suốt kiếp không thành bụi đời ; nhưng mồ côi cha lẫn mẹ, rồi không người bao bọc, chở che, và hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa rất dễ rơi vào bi nạn bụi đời.
Thân phận bụi đời làm nên số phận bụi đời, không phải là một đường thẳng từ đầu tới cuối kiếp người, mà thân phận bụi đời là những đoạn đường rất khác nhau, tùy cá nhân, tùy hoàn cảnh, nhất là tùy thuộc vào các chính sách an sinh xã hội, trong đó chính quyền phải chịu trách nhiệm, chính phủ phải nhận trọng trách trước thực trạng xã hội này. Thân phận bụi đời có thể bắt đầu rất sớm từ lúc còn là thiếu nhi, đây là trung tâm nghiên cứu và ngã tư khảo sát của tiểu luận này, có khi kéo dài cả đời, rồi để lại rơi vào chuyện tái sản xuất hiện trạng thân bụi, mà xã hội học gia đình và giáo dục gọi tên là : tái sản xuất xuyên thế hệ.
Thân phận bụi đời cũng có thể là những đoạn đường của một cá nhân, một gia đình, phải chịu nhiều lần thảm cảnh thân bụi ; đã thoát ra được họa cảnh bụi đời, nhưng họ luôn là con mồi trước mọi áp bức, bất công, bạo lực… đẩy đưa họ lại con đường cũ : bụi đời. Đây là hệ lụy của các nạn nhân ngắn cổ bé họng, trong một hệ thống hàng dọc của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất vì tham tiền, biến dân lành thành dân oan, rồi thành dân bụi, mà không có một cơ chế công lý nào bảo vệ các nạn nhân này.
Thân phận bụi đời nói lên thảm kịch của bất công trong xã hội, tại đây các nạn nhân bụi đời bị xem như sống ngoài lề của đời sống xã hội hiện tại, bị loại ra khỏi trong sinh hoạt xã hội hằng ngày, bị bứng gốc khỏi quan hệ xã hội bình thường. Họ vô hình trong cách tính của chính quyền, họ vô dạng trong thống kê của chính phủ. Nhưng họ là kết quả tất yếu làm ra hậu quả tức thời tới từ bạo quyền lãnh đạo vô luân, tà quyền tham quan vô cảm, ma quyền tham tiền vô giác. Chính ba cấu trúc : đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội là nội công của xã hội học nạn nhân hóa, làm nên nội lực cho nhân học nhận thức về các nạn nhân trong một xã hội, trong một dân tộc, trong một đất nước.
Họa nghiệp bụi đời có thể chỉ là một thời gian ngắn, có khi lại là cả kiếp người, nơi mà xã hội học góc độ (sociologie des trajectoires) đề nghị xét nghiệm một đời người như một hành khách đi những chặng đường của cuộc sống, qua hình tượng của phương tiện lưu thông công cộng : có trạm, có đi, có ngừng, có đổi, có tới... Trong đó có đoạn đường (trajet), nhiều người lên cùng một chuyến xe cùng khởi hành một trạm xe, nhưng họ xuống các trạm khác nhau, và có khi tới trạm cuối thì không còn ai. Một ngày kia, xã hội Việt không còn trẻ em Việt bụi đời, ngày ấy là ngày xã hội Việt thật sự bước vào đoạn đường văn minh.
Trong đó có những đoạn đường di chuyển chấp nối (correspondance) nhau, qua các thời điểm khác nhau, qua các không gian không giống nhau. Khi còn là thiếu nhi thì đã là bụi đời tại Hà Nội, miền Bắc ; khi thiếu niên thì cũng là bụi đời nhưng tại Huế, miền Trung ; khi thanh niên thì vẫn là bụi đời nhưng sinh tồn tại thành Hồ, miền Nam. Tổng thể của mọi sự chấp nối là hình ảnh trung thực của hoạn trạng bụi đời. Trong đó có dừng chân (pause), giữa những đoạn đường khác nơi, khác vùng, và một cá nhân có thể sống liên tục kiếp bụi đời (ngựa quen đường cũ) ; mà cũng có các cá nhân khác tạm thời tìm ra việc làm, có thể nhất thời có hội ngộ với một quý nhân, có hạnh ngộ với một ân nhân, và được chăm sóc được sống vài tháng, vài năm… có nơi nương thân ổn định, với một gia đình trong một mái ấm, dù là tạm bợ (nhờ duyên ta biết quê người nơi đây).
Và có trạm cuối (terminus) của một cá nhân, một gia đình, sống mà không có lối ra về kinh tế, không có lối thoát về nghề nghiệp, không còn con đường sống bình yên trong một cuộc sống bình thường, vì bị mất tất cả vốn xã hội. Mà xã hội học về vốn xã hội (sociologie des capitaux) khi phối hợp với nhân học chính trị (anthropologie politique) đề nghị nghiên cứu các nạn nhân bụi đời bị lâm vào môi trường nghiện ngập và tội phạm, vì cuộc sống hàng ngày đã đưa đẩy họ vào đường cùng, mà chính họ cũng là các con mồi, là các nạn nhân bị giật dây vào các hành động phạm pháp.
Có khi là trạm thoát, nơi đây là trạm đến (arrrivée) mang nhân tố tích cực, khi một cá nhân bụi đời, hoặc một tập thể bụi đời được hỗ trợ từ học hành tới huấn nghiệp, từ kinh tế tới xã hội, từ giáo dục tới văn hóa… để thoát kiếp bụi đời. Tại đây, khoa học giáo dục và xã hội học chính trị lập được một liên minh trong phân tích để nhận ra các thành công của các chương trình cứu trẻ bụi đời ; trong đó có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chính quyền và các hội đoàn từ thiện, giữa chính phủ và các chủ thể thiện nguyện ; nơi mà ý nguyện của hội lành, người tốt, cùng đồng tâm, đồng cảm, đồng giao với ý lực của chính quyền, chính phủ, tất cả cùng nhau tâm nguyện phải cứu cho bằng được các trẻ bụi đời !
Lọan kiếp là không có được nghĩ ngơi trong bình thường của trong ấm ngoài êm, trong thực cảnh không nơi nương náu. Nhưng nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã… về trẻ mồ côi của Việt Nam có không gian đặc thù của nó, có thời gian đặc biệt của nó, có thời điểm mang đặc tính của nó. Nó không giống như tác phẩm văn chương hiện thực Những kẻ khốn cùng (Les Misérables) của V.Hugo, thực trạng của các trẻ bụi đời Việt hiện nay mang cường độ và mức độ bạo động tới từ bạo quyền của một chế độ công an trị. Bạo lực lãnh đạo sinh ra bạo động trong một xã hội Việt đã mất phương hướng về giáo dục và đạo đức, với một chính quyền độc đảng chọn độc tài nhưng bất tài trong quản lý, chọn độc trị nhưng lại không biết quản trị, chọn độc tôn nhưng không tôn vinh được một đạo lý nào cho dân tộc, một luân lý nào cho đồng bào.
Lọan kiếp là không có mái ấm gia đình, mất đi mọi quy luật từ cha mẹ sinh thành tới tổ ấm có gia phong, trong đời sống bình thường có gia giáo : con cái ở đâu, ông bà ở đó. Tại Châu Âu, có sắc dân Tzigan (Gitan), là cộng đồng du mục nơi mà tập thể chọn : ăn xin, ăn mày… để sinh nhai hằng ngày, để sinh sống hằng năm, trong một thời gian dài qua nhiều thế hệ, nhưng họ không tự nhận là bụi đời. Hiện trạng trẻ bụi đời tại Việt Nam có dây dưa rễ má của một đất nước bị loạn tâm bởi chiến tranh trong thế kỷ qua, bị loạn thần qua nghèo đói, lại vô phúc song hành cùng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, với túi tham không đáy, tạo ra vô cảm "ai chết mặc ai", làm ra vô nhân "bây chết mặc bây".
Loạn kiếp có ngay trong văn hóa thân tộc, nơi mà thống tộc trong quy luật "cùng máu mủ", khinh kẻ ngoại nhà, ngoại họ : "người dưng nước lã", rồi đặt tên ác để vinh danh bạo quy luật khép kín này : khác máu tanh lòng. Chính vòng kín này đã loại đi các cơ may, các cơ duyên để kẻ lạ được chấp nhận vào nhà, vào xóm, vào làng… Tại Việt Nam, hiện nay có các nhà, các xóm, có khi có cả làng chọn : ăn xin, ăn mày… như một nghề, dính tới một nghiệp, đã có từ bao đời. Nhưng chính các kẻ cùng nhà, cùng xóm, cùng làng này làm nghề này, họ không hề tự xem họ là : bụi đời ; vì họ có nhà, có họ, có thân tộc… và họ vẫn hãnh diện về họ hàng của họ : chim có tổ, người có tông, nhưng họ không hề có tình tương trợ, cụ thể là nơi nương tựa của những nạn nhân bụi đời mà không có quan hệ thân tộc với họ.
Lương luận : tuệ giác tù nhân lương tâm Việt tộc
Tù nhân lương tâm mang hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) đi tù, vào tù vì lương tâm của mình, như vậy bạo quyền của độc đảng toàn trị, tà quyền của cơ chế độc trị, ma quyền của công an trị như đang bỏ tù cả dân tộc, cả đồng bào khi chúng đẩy các tù nhân lương tâm vào vòng lao lý. Tù nhân lương tâm là tuyến đầu trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vì nhân phẩm. Tù nhân lương tâm là những đứa con tin yêu của Việt tộc bằng lương tri của mình : "Sống lâu mới biết lòng người có nhân !".
Tù nhân lương tâm nhắc cho dân tộc, cho đồng bào là nhân quyền luôn có chỗ dựa trên hệ nhân nơi mà nhân phẩm là gốc của nhân tâm, nhân từ, có rễ là nhân bản, nhân văn, có cội là nhân tính, nhân lý, làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, tất cả cùng bồi đắp cho nhân vị. Tù nhân lương tâm chấp nhận : tù đày, tra tấn, nhục hình, truy sát… để đưa cả hệ nhân này vào nhân đạo, để đi trọn con đường từ nhân ái tới tận nhân nghĩa, tù nhân lương tâm là những đứa con kiên cường của Việt tộc bằng quyết tâm của mình : "Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn !".
Tù nhân lương tâm mở cửa cho dân tộc thấy chân trời của nhân quyền, đẩy cửa cho đồng bào thấy rạng đông của dân chủ, bằng chọn lựa của hệ đa : nhận đa đảng để đón đa tài, quý đa trí để dâng đa năng, trọng đa dũng để tạo đa hiệu. Tù nhân lương tâm xuất hiện rồi dùng nhân tính để xóa não bộ của bạo quyền độc đảng toàn trị, dùng nhân lý để tẩy não trạng của tà quyền cơ chế độc trị, dùng nhân bản để gỡ não hoạn của ma quyền công an trị. Tù nhân lương tâm đầy chính nghĩa là những đứa con ngoan dũng của Việt tộc : "Sống có nhân mười phần không khó".
Tù nhân lương tâm bồng, ẳm, bế, cõng hệ đạo trong chính nhân kiếp của mình, để làm sáng lên đạo lý : Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ của tổ tiên, để làm rõ ra đạo đức của Việt tộc : Bầu ơi thương lấy bí cùng. Chính đạo lý khi song hành cùng đạo đức làm nên luân lý qua bổn phận và trách nhiệm của Việt tộc khi gọi nhau là đồng bào, cùng tổ tiên, cùng huyết thống. Trên thượng nguồn lập quốc con dân Việt đã sinh ra cùng một bào thai thủa nào của cha Lạc Long Quân, của mẹ Âu Cơ, luôn thấy để thấu : "Máu chảy ruột mềm". Tù nhân lương tâm là những đứa con đoan chính của Việt tộc qua dấn thân : "Máu chảy tới đâu ruột đau tới đó".
Tội luận : khoa học luận của tội phạm học
Khoa học luận dùng khám phá khoa học để phê bình và xem xét lại các định đề cố hữu của khoa học, như vậy khoa học luận dụng diễn luận khoa học để giải luận khoa học, dùng lý luận khoa học mới để khám nghiệm lại các lập luận cũ. Nên, định hướng khoa học luận phải dựa trên phương trình luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận) để lập nên các chỉ báo, từ đó nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã về sự thật để nhận ra chân lý. Chính sự thật và chân lý sẽ mở ra một chân trời cho tội phạm học có đầy đủ nhận thức về lẽ phải : Cái ác được nhận ra bằng quá trình của ý thức, vì ý thức trước đó biết là có cái tốt hoàn toàn ngược lại với cái ác, và cái tốt có mặt trong cuộc sống để bảo vệ cuộc sống.
Cái độc là nền của động cơ hành động cho ra cái ác, chính sự hiện diện của lý trí báo thức cho ý thức biết là cái lành có trong cái nhân, để duy trì cuộc sống trong xây dựng, chống lại sự tàn phá của cái độc.Cái thâm là con tính của cái độc, để biến cái ác thành cái thực trong cuộc sống. Nưng chính tại đây, ý thức hợp lực với lý trí để chế tác ra niềm tin bảo vệ cho bằng được cuộc sống bằng cái hay mang tầm vóc của cái tốt, mang bản lĩnh của cái lành để tiếp tục bảo hành cuộc sống. Cái hiểm, là thủ đoạn của cái thâm, là gốc rễ của cái độc, là cội nguồn của thâm. Nó luồn lách qua tà quyền, nó chui rúc để bám bạo quyền, nó thích bóng tối hơn ánh sáng, vì nó sợ sự thật, nó sợ bị lột mặt nạ, nên bóng tối là nơi ẩn nấp của cái hiểm để nó thực hiện tội ác của nó.
Tội ác, không những mượn bóng tối để ẩn nấp, mà còn để che giấu tội trạng, để khỏa lấp tội phạm, dấu diếm tội nhân, mà còn để lẩn trốn ánh sáng của sự thật, chính sự thật sẽ đưa tội phạm ra trước ánh sáng : công lý ! Tội trạng, sẽ được xử bằng công lý, có cái lý của công bằng, có cái luận của công luật, cái cái quyết của công pháp, nơi đây pháp luật thực thi cái luật trên nền của công tâm.
Tội phạm, khi bị lên cán cân, một bên là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) và một bên là luật pháp (công bằng, công lý, công pháp, công tâm), thì nguyên nhân, động cơ, hành động, hậu quả của tội ác, tội trạng, tội phạm sẽ vạch mặt, chỉ tên tội nhân. Tội nhân, bị vạch trần lý lịch qua bằng chứng của tội ác, qua tang chứng của tội trạng, qua minh chứng của tội phạm, nên luật pháp có đầy đủ luận chứng để luận tội và kết tội thủ phạm của tội ác ; dù đó là một đảng, một chính quyền, một chính phủ, một bọn tham quan, một tập đoàn tội phạm, một nhóm sát nhân… dù chúng có sự hỗ trợ của một cường đảng như Tàu tặc, Tàu phỉ hiện nay.
Phương pháp luận dụng phương pháp để bổ sung phương pháp, dùng phương pháp để củng cố phương pháp, sử dụng phương pháp để kết nối nghiên cứu với điều tra, khai thác phương pháp để kết hợp khảo sát với điền dã, lý luận trên phương pháp để lập luận cùng phân tích, diễn luận qua phương pháp để giải luận song hành cùng giải thích. Định vị phương pháp luận của tội phạm học dựa vào nội lực đã có trong các chuyên nghành khoa học xã hội và nhân văn, nhưng tội phạm học mang tính đặc thù nghiên cứu về sự thật luôn bị giấu diếm, mang tính đặc điểm điều tra về chân lý luôn bị phủ lập, mang đặc tính khảo sát về lẽ phải luôn bị ám sát cùng nạn nhân ngay trong tội ác.
Khoa học nhân văn, từ văn học tới triết học, cho tới ngôn ngữ học có cơ sở là văn bản từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, văn bản làm nền cho diễn luận và giải luận. Nhưng tội phạm học phải đi xa hơn nữa trong cách thuyết phục dữ kiện để tạo tiền đề cho tang chứng, chứng từ là thượng nguồn để nhận ra tang vật, từ đó thấy rõ tội ác để nhận diện tội nhân.
Khoa học xã hội, từ xã hội học tới dân tộc học mà tên gọi mới là nhân học cho tới sử học, có nền cũng là văn bản, nhưng định vị qua điều tra thực địa, qua nghiên cứu thực tiễn, qua điển dã thực nghiệm tại chỗ, nơi mà "mắt thấy tai nghe" ngay "tại chỗ, tại nơi", "bây giờ và ở đây" làm rễ cho thực tế, làm gốc cho sự thực. Nhưng tội phạm học phải đi sâu hơn nữa trong cách diễn đạt các tội ác không nằm trên mặt nổi của xã hội, mà trong các mạch ngầm, bóng khuất, xó gian, luồn bẩn… luôn được giấu kín và được bảo kê bởi tà quyền.
Sử học, ghi nhận sự kiện, mô tả dữ kiện, giải bày sự cố, rồi xếp vào một trật tự của không gian, một thứ tự của thời gian, trong đó các diễn biến được phân tích và giải thích bằng chứng từ, làm nên luận cứ cho sử học. Nhưng tội phạm học phải đi rộng hơn nữa trong cách phân giải các sử kiện có liên quan tới quá trình thâm, độc, ác, hiểm của tội nhân luôn ép nghẹn, các tội trạng luôn phủ lấp cho tội phạm để thủ tiêu các tội ác của nó.
Văn học, biết ghi nhận sự kiện để sáng tác ra hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết, biết mô tả dữ kiện để sáng tạo ra các cá thể với hành vi đặc thù để phong phú hóa các diễn biến. Đồng thời, biết giải bày sự cố qua không gian và thời gian được tổ chức vừa theo thực trạng, vừa theo sức tưởng tượng của tác giả, qua văn xuôi hoặc qua thi ca. Nhưng tội phạm học phải khách quan bằng sự chính xác của tang chứng, qua minh chứng của tang vật. Tại đây tội ác gây ra có tác động dây chuyền không những trên nạn nhân của nó, mà còn lan tỏa ra xã hội, thấm nhập vào giáo dục, làm hư úng đạo lý cộng đồng, luân lý tập thể, đạo đức tổ tiên.
Triết học, dựng tư tưởng để lý luận trên các khái niệm, xây dựng ra kiến thức lý thuyết để lập luận các vấn đề của nhân sinh bằng diễn luận các quá trình tri thức của nhân trí để tìm tới sự thật. Nhưng tội phạm học phải tỉnh táo để cặn kẽ, tự đó tập hợp đầy đủ tang chứng, tang vật, qua biến cố mà hậu quả được thấy-biết-hiểu không những trong môi trường của nạn nhân qua hành động của tội nhân, mà ngay trên môi sinh của một dân tộc, của một quốc gia, từ đó xét nghiệm các hậu quả này trên toàn nhân loại.
Xã hội học, nghiên cứu về đời sống xã hội, điều tra về sinh hoạt xã hội, xét nghiệm các quan hệ xã hội, để tìm hiểu các mâu thuẫn, các xung đột, qua phân loại và phân tầng trong xã hội. Xã hội học cùng lúc thấu hiểu hợp tác giữa các cộng đồng qua tính đoàn kết hay qua quá trình bị tha hóa ; các sáng kiến của tập thể tự đòi hỏi tới đấu tranh ; các sáng tạo của cá nhân luôn củng cố quyền lợi xã hội của mình qua các công trình có lợi ích an sinh xã hội.
Nhưng tội phạm học phải đào sâu hơn nữa quá trình liên đới giữa quyền lực-quyền lợi-tư lợi để nhận diện được cái ác có mặt không những qua quá trình bóc lột đồng loại để trục lợi, mà nó còn dựa dẫm lên bạo quyền để trộm, cắp, cướp, giật ; Nó còn biết đeo bám vào tà quyền để giết, loại, hủy, bỏ các cái hay, đẹp, tốt, lành của đạo đức xã hội, bằng tội ác để vơ vét, để đục khoét, để bỏ đầy túi tham tư lợi của nó.
Nhân học, nghiên cứu toàn bộ nhân sinh, khảo sát toàn diện nhân tình, điều tra toàn cõi nhân thế, nhận diện nhân loại bằng chiều sâu để hiểu chiều cao, thấu đáo chiều rộng để biết chiều dài của nhân vị. Nhưng tội phạm học phải mang tính chính xác của phương pháp để có tính chuẩn xác trong phân tích và giải thích các bóng tối của nhân sinh nơi mà tội ác đang ẩn náu. Các góc khuất của nhân thế nơi mà tội phạm đang luồn lách, các mạch ngầm của nhân tình nơi mà tội trạng không được phơi bày, nơi có các luồng vừa bẩn, vừa độc của tà quyền đang bao che cho tội nhân. Chúng đang giết, loại, thiêu, hủy đồng loại, đang bất chấp nhân tính được định vị qua không những qua nhân bản và nhân văn, mà còn qua nhân nghĩa và nhân từ.
Luật học, lấy công bằng để bảo vệ nhân sinh, dùng công luật để duy trì nhân thế, dụng công pháp để bảo trì nhân tính, đại diện cho công tâm để xử lý các vấn đề của nhân tình, phán quyết bằng hệ công (công bằng, công luật, công pháp, công tâm để lập nên công pháp) làm nên công luận để tuyên án tội phạm. Nhưng tội phạm học phải chuẩn bị sắc sảo nhất ngay trên thượng nguồn để giúp luật học, luật pháp tra, quyết, xét, xử tội ác với sự tỉnh táo của khách quan, với sự sáng suốt của liêm minh, nơi mà sự liêm chính của chứng từ được vạch ra bởi sự liêm khiết của mọi công dân trong một dân tộc có văn hiến, trong một quốc gia có văn minh đang là nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của tội ác, mà luật phải luận tội tới nơi, tới chốn, một cách nghiêm minh nhất.
Định chất lý thuyết luận của tội phạm học, nơi mà nội chất của lý thuyết là biến đúc kết kiến thức thành mô hình qua công thức, khi kiến thức trở thành mô thức thì tri thức thành hình qua lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận của lý thuyết. Lý thuyết luận dụng lý thuyết mới để xét nghiệm lại lý thuyết cũ, tập hợp lý thuyết cũ và mới để lý thuyết luận có thể sử dụng lý thuyết để củng cố lý thuyết ; từ đó lý thuyết luận tận dụng lý thuyết để bổ sung cho lý thuyết. Tại đây, định chất lý thuyết luận của tội phạm học mang nội hàm của các thành quả đã đạt được trong tất cả các ngành khoa học xã hội nhân văn, và từ các thành quả này tội phạm học phải đủ lực, đủ tầm, đủ vóc, đủ dạng để có các sung lực cần thiết của mình qua các quá trình xây dựng lý thuyết, vừa có cơ sở, vừa có tiềm năng :
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái thiện, vì nó diệt không những nhân phẩm có trong nhân tính, nhân bản có trong nhân tri, nhân nghĩa, nhân từ có trong nhân văn và nhân vị ; mà nó còn giết, diệt, hủy, thiêu các điều kiện làm người bình thường nhất đã có trong nhân loại, nhân tình, nhân thế, nhân sinh. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái lành, vì chính cái lành làm nền cho hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), có trong quan hệ giữa người, tạo nên sự sống chung trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội. Chính từ cái lành này, mọi người có cùng một quá trình tư duy tự làm người biết sống chung qua sự tôn trọng lẫn nhau để tiến tới chuyện làm người biết làm việc chung, biết chia sẻ với nhau trong điều kiện làm người vì cái lành.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái tốt, vì chính cái tốt chế tác ra hệ công (công ích, công lợi, công pháp, công luật để bảo vệ công bằng), trực diện để đối kháng lại với cái ác. Và, chính cái tốt nói rõ bổn phận với cộng động, trách nhiệm với tập thể của mỗi công dân, từ đó biến đoàn kết thành tương thân, tương trợ làm nền cho bản chất của cái tốt : bác ái ! Từ định chất này, cái tốt làm được bác ái, vì nó mang nội hàm của vị tha, khoan dung, rộng lượng để tới thẳng từ bi, mà nhân từ là kết quả tích cực của cái tốt biết làm nên nhân phẩm.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái hay, không hề là chuyện của bẩm sinh, mà là chuyện của giáo dục. Nó không trên trời rơi xuống mà là chuyện rèn luyện qua phẩm chất của giáo khoa, làm nên giá trị nhân tính qua giáo trình, chế tác ra chất lượng của nhân bản qua giáo án. Vì cái hay mang cái thiện, cái lành, cái tốt vào cuộc sống xã hội, qua đường đi nẻo về của nhân sinh quan hay của mỗi cá nhân, qua thế giới quan hay của một dân tộc, qua vũ trụ quan hay của một chính quyền. Và, nếu chính quyền này chỉ là bạo quyền, hoặc tà quyền thì không thể cấy, cày, tưới, tẩm được cái hay để chống lại cái ác.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái đẹp, tới từ ý muốn của nhân phẩm, ý định của nhân ái, ý lực của nhân lý.Nơi mà con người biết đứng dậy và đi tới để đi xa hơn trách nhiệm cá nhân và bổn phận công dân, để tới phương án mà cũng là phương trình của cái đẹp : tự do luôn song hành cùng nhân phẩm, cả hai không để cái ác lộng hành, rồi biến tự do lẫn nhân phẩm là nạn nhân của nó. Đứng dậy, đi tới để lấy, cầm, giữ, nắm hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), để bảo vệ tự do lẫn nhân phẩm, phải được xem như ngang hàng, lắm lúc còn cao hơn cả hạnh phúc của một cá thể, cao hơn cả sự bình yên của một tập thể. Cái đẹp vì nó đẹp ở trên cao (cao hơn cả trời), ngay trong tư duy của con người tự do biết yêu người, của con người tự trọng biết yêu cuộc sống.
Cái ác gây ra tội ác, luôn chống lại với chủ thể chính là cá thể có cá tính luôn biết đòi hỏi công bằng qua công lý, luôn thấu hiểu tự do để có tự chủ. Chủ thể tôn trọng bổn phận và trách nhiệm, nhưng chủ thể muốn làm công dân trong ý nghĩa toàn vẹn nhất, với giá trị phổ quát nhất : chủ thể của tự do hành động vì công lý. Cá tính của chủ thể trong sáng tạo biết song hành, biết chung lưng đấu cật với cái lành, cái tốt, cái hay, cái đẹp để sáng tạo của chủ thể phải là tác phẩm của cái thiện, hoàn toàn mâu thuẫn với cái ác.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái nhân, vì trong cái nhân có sự thương yêu biết hiến dâng lòng bác ái, có thiện chí biết hiến tặng thiện tâm ; trong khi đó cái ác không những gây nên nỗi khổ, niềm đau cho nạn nhân của nó, mà còn truy, hủy, giết, diệt nhân phẩm của nạn nhân này. Cái ác không phải chỉ là lỗi, mà chính là tội : tội ác đã giết thân xác, diệt cuộc sống, hủy nhân cách của nạn nhân, bằng bạo lực của bạo quyền, bằng bạo hành của tà quyền, nó mang bản chất của bạo động, hoàn toàn ngược lại với phẩm chất bất bạo động của hệ nhân (nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn).
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái sinh, chính là sự sống đang bị cái ác gây thương tích, tạo thương tật, gây ra thương xót trong xã hội, quần chúng. Chính cái ác báo hiệu cái chết đang tới, nó báo động cái sinh trong sự sống đang bị đe dọa bởi bạo lực, được bảo kê bởi bạo quyền, được hà hơi tiếp sức bởi tà quyền, bất chấp công tâm và công lý. Muốn chống lại cái ác, thì sự hiểu biết về công bằng và công lý không đủ, sự thấu đáo về tự do, tự chủ không đủ, mà phải vận động tư duy qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên hệ nhân (nhân phẩm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn). Cả hai hệ (luận và nhân) này, phải đủ hùng lực để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) biết bảo vệ cái nhân.
Triệt nhưng không diệt được : Chủ thể Việt tộc
Khi bạo quyền công an trị của các người đàn áp, bắt bớ các nhà hoạt động vì yêu dân chủ, quý nhân quyền, các người đã tạo ra một lực lượng tinh khôi cho Việt tộc, đó là các tù nhân lương tâm. Vô tình các người đã biến các đứa con tin yêu này thành các minh sư cho tương lai đa nguyên trong dân chủ, đa tài vì nhân quyền cho Việt tộc.
Khi tà quyền tham nhũng trị của các người đã cướp đất, phá nhà của dân lành rồi biến họ thành dân oan, thì vô tình các người đã biến các nan nhân này thành những chủ thể để đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ đại diện cho công bằng Việt không lùi trước bất cứ bất công nào của các người.
Khi ma quyền tham tiền trị của các người đã bần cùng hóa bao thế hệ Việt để họ bị lâm cảnh nô lệ hóa trong chính sách xuất khẩu lao động của các người, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các nước láng giềng. Vô tình các người đã đặt họ vào thế phải tự giải phóng nhân kiếp để có nhân vị tốt lành hơn, bằng những tri thức mà họ học được ở các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền.
Khi cực quyền độc đảng trị của các người đã tự tạo ra các đặc ân, đặc sủng, đặc lợi cho hệ thống độc đảng toàn trị, thì vô tình các người đã tập hợp tất cả những nạn nhân (của hệ thống độc tài nhưng bất tài của các người) vào một mặt trận. Trong mặt trận này có liên minh của hùng lực của dân oan, dân đen, dân lành, của tri lực của trí thức, của tâm lực của cả một xã hội dân sự yêu công bằng, chuộng công lý, tất cả đang chuẩn bị lật đổ các người.
Khi cuồng quyền ngu dân trị của các người đã sử dụng bạo động công an, vận dụng bạo hành của xã hội đen, tận dụng bạo lực của những thành phần bất hảo nhất của xã hội vô tri trong vô minh, vô cảm vì vô giác để trấn áp để đàn áp các con dân Việt, thì vô tình các người đã dựng lên những phong trào xã hội vì nhân phẩm Việt, với những sinh hoạt xã hội tự bảo vệ nhân bản Việt, với những sinh hoạt xã hội tự đấu tranh vì nhân văn Việt, với những quan hệ xã hội tự duy trì nhân vị Việt, đây chính là lương tâm Việt mà mê quyền vô học trị của các người không thấy, chưa thấy, và khi thấy được thì đó là ngày tàn của các người.
Chưa hết, có một chủ thể Việt tộc mà các người không sao diệt được, đó là luồng sóng ngầm của nhân tâm Việt, các người muốn triệt nhưng các người sẽ không diệt được, chỉ vì các người không đủ tâm để đủ tầm hiểu được luồng người Việt này. Luồng người Việt này có mặt trong những nơi có hiện cảnh lá lành đùm lá rách, ở những hoạn cảnh bầu ơi thương lấy bì cùng, ở những bi cảnh một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ, ở những nhân cảnh thương người như thể thương thân…
Đó là những chủ thể thiện nguyện trong hành tác từ thiện giờ giờ, ngày ngày có mặt tại các trung tâm của nỗi khổ niềm đau của Việt tộc hiện nay. Họ đứng cùng dân oan, dân đen, dân lành… Họ luôn đứng về phía nước mắt của các nạn nhân trong chế độ độc đảng toàn trị, độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị. Mê chấp trong cực quyền, mê muội trong cuồng quyền, các người cho sinh ra toàn những quái thai. Các người là cha sinh mẹ đẻ của bạo quyền tham đất, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, với công an làm côn đồ và côn đồ làm thay công an. Các người đã vùi dập nhân phẩm Việt nhưng hậu quả bất nhân thất đức của các người sẽ mạt kiếp hóa rồi vô hậu hóa các người !
Khi các chủ thể thiện nguyện trong hành tác từ thiện cùng dân oan, dân đen, dân lành một ngày kia đứng cùng chiến tuyến với xã hội dân sự biết yêu văn minh dân chủ, biết quý văn hiến nhân quyền thì ngày đó các người sẽ không còn tiếp tục triệt nhân lý Việt, hủy nhân tri Việt, giết nhân tâm Việt… Và ngày đó chính là ngày tàn của chế độ độc đảng toàn trị đã bất nhân thất đức với Việt tộc từ khi các người cướp được chính quyền… Có những luồng sóng ngầm của luồng người đại diện cho nhân tâm Việt ăn hiền ở lành, vì thấy-và-thấu đạo lý của tổ tiên Việt : ăn ở có hậu, luồng sinh mệnh của Việt tộc này sẽ đứng lên và dẹp bỏ bạo quyền của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong chớp mắt !
Lê Hữu Khóa
(13/08/2020)
-------------
Chú thích :
[1] Nhân luận và nhân Việt, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[2] Tri Luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[3] Tâm luận tìm sử luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[4] Chính Luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[5] Dân luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[6] Lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[7] Lê Hữu Khóa, KHOA HỌC LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[8] Lê Hữu Khóa, CHÍNH LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[9] Lê Hữu Khóa, NHÂN LUẬN-NHÂN VIỆT, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[10] Lê Hữu Khóa, XÃ LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[11] Lê Hữu Khóa, TÂM LUẬN TÌM SỬ LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[12]Lê Hữu Khóa, KIẾP LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[14] Lê Hữu Khóa, TRI LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa
[15] Lê Hữu Khóa, PHƯƠNG PHAP LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa
[16] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 4, Editions les Indes Savantes. Paris.
[17] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 5, Editions les Indes Savantes. Paris.
[18] Lê Hữu Khóa, OAN LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
Lê Hữu Khóa, BỤI LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[19] Lê Hữu Khóa, DÂN LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[20] Lê Hữu Khóa, LÝ THUYẾT LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[21] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 3, Editions Les Indes-Savantes. Paris.
[22] Lê Hữu Khóa, TRỰC LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[23] Lê Hữu Khóa, CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CĂN BẢN CỦA KHXHNV, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[24] CHỦ LUẬN (l’argumentation créative du sujet). Anthropol-Asie. Paris
[25] XÃ LUẬN (l’argumentation sociétale). Anthropol-Asie. Paris
[26] CHÍNH LUẬN (l’argumentation politique). Anthropol-Asie. Paris
[27] LINH LUẬN (l’argumentation spirituelle). Anthropol-Asie. Paris
[28] KIẾP LUẬN (l’argumentation karmique). Anthropol-Asie. Paris.
[29] ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM. Tome 3. Les Indes savantes. Paris.
[30] TỘI LUẬN (l’argumentation contre le crime d’Etat). Anthropol-Asie. Paris
[31] ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM. Tome 3. Les Indes savantes. Paris.
[32] GIÁO LUẬN (l’argumentation éducative). Anthropol-Asie. Paris
[33] VIỆT LUẬN (l’argumentation vietnamienne). Anthropol-Asie. Paris
[34] HỌA LUẬN (l’argumentation contre le drame humain). Anthropol-Asie. Paris
[35] TRI LUẬN (l’argumentation cognitive). Anthropol-Asie. Paris
[36] SỬ LUẬN (l’argumentation hítorique). Anthropol-Asie. Paris
[37] OAN LUẬN (l’argumentation contre l’injustice). Anthropol-Asie. Paris
[38] TỰ LUẬN (l’argumentation libérée pour la liberté). Anthropol-Asie. Paris
[39] ĐỒNG LUẬN (l’argumentation fondatrice de la nation). Anthropol-Asie. Paris
[40] BỤI LUẬN (l’argumentation à propos de la «poussière de la vie »). Anthropol-Asie. Paris
[41] KHỔ LUẬN (l’argumentation contre la souffrance). Anthropol-Asie. Paris
[42] SINH LUẬN (l’argumentation anthropologique de l’écologie). Anthropol-Asie. Paris
[43] TUỆLUẬN (l’argumentation de l’esprit). Anthropol-Asie. Paris
[44] THƯ LUẬN (l’argumentation des correspondances). Anthropol-Asie. Paris
[45] LƯƠNG LUẬN (l’argumentation consciencieuse). Anthropol-Asie. Paris
[46] VIETNAMIENS EN FRANCE, L’harmattan.
[47] VIETNAMIENS DE LA DEUXIEME GENERATION, l’Harmattan.
[48] PRISON, CORPS, EXIL, ANIMALITE. L’harmattan.
[49] THỨC LUẬN (l’argumentation de l’éveil). Anthropol-Asie. Paris
[50] THUẬT LUẬN (l’argumentation réceptacle de l’art). Anthropol-Asie. Paris
[51] NGHỆ LUẬN (l’argumentation artistique). Anthropol-Asie. Paris
[52] TỔNG LUẬN. I (l’argumentation synthétique. 1). Anthropol-Asie. Paris
[53] TỔNG LUẬN. II (l’argumentation synthétique. 2). Anthropol-Asie. Paris
[54] TỔNG LUẬN. IV (l’argumentation synthétique. 4). Anthropol-Asie. Paris
-------------
Ghi chú thêm :
Các bản thảo được nhà xuất bản Anthropol-Asie ấn hành có thể tham khảo tại Facebook Vùng khả luận (trang thầy Khóa).
NHÂN LUẬN (l’argumentation humaine de l’homme)
CHÍNH LUẬN (l’argumentation politique de l’action)
DUYÊN LUẬN (l’argumentation relationnelle de la rencontre)
KIẾP LUẬN (l’argumentation karmique de la vie)
MỸ LUẬN (l’argumentation esthétique de l’art)
NGHỆ LUẬN (l’argumentation artistique de la création)
TÂM LUẬN (l’argumentation affective du sentiment)
THI LUẬN(l’argumentation poétique de l’inventivité)
TÌNH LUẬN (l’argumentation sentimentale de l’amour)
TỰ LUẬN (l’argumentation libérée du sujet)
TRỰC LUẬN (l’argumentation directe du dialogue)
XÃ LUẬN (l’argumentation sociétale de la conscience)
OAN LUẬN (l’argumentation sociologique contre l’injustice)
BỤI LUẬN(l’argumentation à propos de la "poussière de la vie")
VIỆT LUẬN (L’argumentation vietnamienne de l’intégrité)
LINH LUẬN (L’argumentation spirituelle de l’existence)
GIÁO LUẬN (l’argumentation éducative de l’enseignement)
THƯ LUẬN (l’argumentation politique de la gouvernance)
TUỆ LUẬN (l’argumentation transmissive de l’éducation)
TỘI LUẬN (l’argumentation morale contre le crime d’Etat)
SINH LUẬN (l’argumentation anthropologique de l’écologie)
LƯƠNG LUẬN (l’argumentation légale contre le crime d’Etat)
CHỦ LUẬN (l’argumentation créative du sujet)
KHỔ LUẬN (l’argumentation éthique face à la souffrance)
HỌA LUẬN (l’argumentation sociétale face au malheur)
THUẬT LUẬN (l’argumentation esthétique face à l’œuvre d’art)
ĐỒNG LUẬN (l’argumentation fondatrice de la nation)
NGỮ LUẬN (l’argumentation cognitive de la langue)
KÝ LUẬN (l’argumentation narrative contre l’injustice)
VÔ LUẬN (l’argumentation éducative contre l’obscurantisme)
ĐẠO LUẬN (l’argumentation asymétrique de la voie)
THƯƠNG LUẬN (l’argumentation éthique de la compassion)
NGHĨA LUẬN (l’argumentation durable du sentiment)
YÊU LUẬN (l’argumentation intime de l’amour)…
-------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Chôn tâm hồn Việt…
Chôn tâm hồn Việt là bạo sách của bạo quyền độc đảng bằng thâm ý tẩy xóa đi tâm linh Việt biết tạo ra văn minh Việt đã có trong nhân văn của dân tộc Việt ; là tà sách của tà quyền độc đảng bằng tà tri bứng nhổ đi linh hồn Việt đã có trong nhân vị của giống nòi Việt ; là ma sách của ma quyền độc đảng với ma trận chôn sống tâm linh Việt đã có trong nhân phẩm của văn hiến Việt biết ăn hiền ở lành, biết ăn ở có hậu.
Chôn tâm hồn Việt là phần IV của Triệt luận dựa trên sự khai phá về ba không gian kiến thức đã làm nên tiến trình của tri thức và trí thức, để xây dựng ý thức. Giúp mỗi cá nhận mỗi cộng đồng, mỗi tập thể, mỗi dân tộc có nhận thức về nguồn sống của dân tộc của mình, về giòng sinh mệnh của giống nòi của mình. Từ đó có tỉnh thức mà hình thành chủ thể thấy sự thật, thấu chân lý, hiểu lẽ phải, có sáng kiến trong hành vi, có sáng tạo trong hành động, chấp nhận vai trò công dân đấu tranh vì tự do, có chức năng nhân quyền mà đấu tranh vì công bằng.
Việt luận : sự thật Việt !
Khi triết học hình thành trên quê hương Hy Lạp của nó, thì nó đã có truyền thống được đặt tên là vương niệm của sự thật, khẳng định sự thật là nhiệm vụ tiên quyết và vĩnh viễn của triết học, và sự thật cao hơn cả, cao hơn vua, cao hơn mọi cơ chế, mọi quyền lực, mọi chính quyền. Chính sự thật sẽ làm nền cho sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hãm hại, bị ám sát, bị tử hình… Nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn, cụ thể nếu con người sống thật bằng sự thật thì phải biết chấp nhận cái chết cũng vì sự thật, như vậy sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật.
Sống chết với sự thật, nhưng cũng phải biết khiêm tốn trước sự thật ! Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !". Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức". Môn sinh của Socrate lại là sư tổ của triết học,
Platon mang tới cho chúng ta một định nghĩa : sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như môt giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Platon đưa ra hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời được sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; và sự thật đã hiện hữu với bằng logos : sự thông đạt của lý.
Khi nghiên cứu sự quan hệ giữa sự thật và lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật, triết gia này đề nghị các nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật (mỗi định đề của tác giả này sẽ được minh chứng qua thí dụ về hiện tượng chùa Ba Vàng đang làm náo động du luận hiện nay). Sự thật xuất hiện như sự vén màn mà bóng tối không còn giúp gì được cho sự giả dối đang che lấp sự thật. Thí dụ rõ nhất hiện nay mà dân chúng thấy được là trong bóng tối của chùa Ba Vàng, Uông Bí, Quảng Ninh, mượn bề ngoài của Phật giáo để dựng nên một hệ thống tà đạo, do các chủ trì là những ma tăng, trong đó sự giả dối của "thỉnh oan gia tái chủ" lập nên mê lộ "rước vong", chỉ để lừa người mà làm tiền. Tại đây có hai xảo thuật nhập làm một, mà tổ tiên Việt đã dặn con cháu nên cẩn trọng với bọn âm binh vì chúng vừa "treo đầu dê, bán thịt chó", lại vừa "mượn đầu heo nấu cháo".
Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các đồng từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật. Và khi dân chúng hiểu chùa Ba Vàng là loại chùa giả vì nó có lãnh đạo là sư giả, không biết là Phật giáo phải dựa vào Phật học, trong đó kiến thức về kinh Phật, cũng như sự thực hành Phật pháp làm nên vũ trụ tri thức của đạo Phật, không hề có chuyện "thỉnh oan gia tái chủ" qua mê tín "rước vong".
Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, đưa con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Và trên thí dụ về chùa Ba Vàng, thì đúng là ổ buôn gian bán lận để đào tiền những ai đã là nạn nhân của mê tín qua chuyện "thỉnh oan gia tái chủ" rồi "rước vong" để trị bịnh. Vì là bọn buôn thần bán thánh không biết gì về y khoa, nên nguyên nhân do chúng mạo danh không đi cùng với hiệu quả của y khoa, những ai dùng mê tín để trị bịnh, thì không thể thế y khoa được, vì sẽ không có hiệu quả trị liệu của y khoa.
Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm ta, để giúp ta khám phá ra sự thật này. Các ma tăng lãnh đạo của chùa Ba Vàng không dám trả lời các thách thức của các Phật tử chân chính là từ các kinh của Phật tới các sinh hoạt Phật pháp hằng ngày trong lịch sử của Phật giáo không hề có kinh nghiệm "thỉnh oan gia tái chủ", "rước vong" ; thì bọn ma tăng này chỉ là âm binh, mà chúng không hề là Phật tử.
Sự thật xuất hiện để tách lòng tin có cơ sở ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta nếu thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Khi kiểm chứng là "thỉnh oan gia tái chủ", "rước vong" không làm cho hết bịnh, lại có hậu quả ngược lại là tiền mất tật mang, thì ta phải thấy để tin là bọn ma tăng lãnh đạo chùa Ba Vàng chỉ là bọn đánh lận con đen, bằng đánh tráo khái niệm như đánh tráo sự thực, với ý đồ trục lợi chỉ vì tư lợi ham tiền của chúng.
Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Và, lòng tham này tới từ một bọn bất lương, không lương thiện vì không có lương tri, mà lương tri chính là tri giác của lương tâm. Khi ta đặt câu hỏi : lấy tiền ở đâu ra để xây lên cơ ngơi của chùa Ba Vàng trên một khu đất rộng, với kiến trúc hoành tráng, với nội thất xa hoa ? Thì câu trả lời là có một bọn âm binh làm "sân sau" cho bọn ma tăng, để đầu tư vào chùa Ba Vàng, vừa để rửa tiền, vừa để làm tiền qua chuyện buôn thần bán thánh. Mượn chuyện xây chùa để kinh doanh bất chính qua mê tín thì không hề dính dáng gì đến hệ luận của Phật học : lấy lý luận của tri thức về nguồn cội khổ để lập luận về gốc rễ của khổ đau trong nhân thế, mà giải luận để vượt thoát đau khổ bằng đạo pháp, nên Phật học hoàn toàn ngược lại với mê tín, đi trên mê lộ, sống trong mê cung, vùng vẫy trong mê loạn.
Sư thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Chùa Ba Vàng không nằm ngoài quy luật này của sự thật : nếu có "sân sau" bỏ tiền ra rồi giao cho bọn ma tăng buôn thần bán thánh, thì ai là đám "chống lưng" cho bọn "sân sau" này, cùng lúc làm "ô dù" cho bọn ma tăng kia ? Câu trả lời có trong đám lãnh đạo cao nhất từ các thành viên của Bộ Chính trị tới các nhân vật trong chính phủ hiện nay, hiện nay các giả thuyết cần được minh chứng trong những ngày tới là Phạm Minh Chính trong Bộ Chính trị đóng phần đầu tư và bao che, còn Nguyễn Xuân Phúc tham gia vào việc ủng hộ để tham dự vào việc chia chát.
Nếu là giả thuyết có cơ sở nơi mà dữ kiện phải được trở thành chứng từ, mà còn là lý luận của chứng từ được trở thành giải luận về nguyên nhân. Nên sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu về hệ thống truyền thông quốc nội do Đảng cộng sản Việt Nam điều khiển : tại sao tự nhiên lại ào ra để nhảy vào các chuyện ma tăng dùng ma đạo để làm tiền, thì đây lại có giả thuyết khác là một cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các lãnh đạo chóp bu đang thanh toán nội bộ để giành chức qua giành quyền trong đại hội sắp tới của Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn chớ không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.
Sự thật đến như một sự kiện nhưng tự nó sẽ thành sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật, chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : thứ nhất là kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) ; thứ hai là luôn đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện, như một sự thật tật nguyền.
Trong bóng tối của chùa Ba Vàng, Uông Bí, Quảng Ninh, mượn bề ngoài của Phật giáo để dựng nên một hệ thống tà đạo, do các chủ trì là những ma tăng, trong đó sự giả dối của "thỉnh oan gia tái chủ" lập nên mê lộ "rước vong", chỉ để lừa người mà làm tiền.
Câu chuyện của chùa Ba Vàng vẫn không dứt nếu ta không hiểu chuyện buôn thần bán thánh qua Phật giáo của bọn ma tăng hiện nay chính là câu chuyện rửa tiền bất chính qua chuyện xây chùa, để rồi được vơ vét nhiều hơn qua chuyện buôn chùa bán Phật của ba lực lượng đang liên kết để sống nhờ liên minh của chúng : bạo quyền lãnh đạo sống nhờ độc quyền qua độc đảng dụng độc tài để độc trị ; tà quyền tham quan sống nhờ tham ô qua con đường tham nhũng ; ma quyền buôn đất lậu đạo của bọn tư bản đỏ sống nhờ quan hệ-tiền tệ với bọn lãnh đạo.
Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Chính vô thức khi song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì sự thật có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức.
Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức, vô thức và mê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức. Câu chuyện của chùa Ba Vàng đã và đang là sự dính líu qua biển lận của ít nhất ba lực lượng : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền sống bất lương và làm giàu bất chính qua quá trình buôn bán bất nhân. Những bọn này sống như ký sinh trùng ăn trên rồi ăn sâu vào sinh lực của người lương thiện qua sự buôn bán giả dối của chúng. Cụ thể là khi đi học thì chúng buôn bằng bán cấp, khi ra đời thì chúng buôn chức bán quyền, khi cần tiền thì chúng buôn thần bán thánh ; và chúng sẽ buôn dân bán nước và khi đất nước bị sa bẫy vào quy trình của họa xâm lược của Tàu tặc thì chúng sẽ cao bay xa chạy như để tiếp tục lẩn trốn sự thật mà thôi.
Sự thật chỉ được biết qua kiến thức đã đưa nó ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu giếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền ; và chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, vì chúng chỉ biết sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng.
Chủ luận : chân lý của chủ thể
Sự thật là chân trời của chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dả qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nới mà mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có cái giá của nó, và sự thật chỉnh chu trong chân lý : "có thực mới vực được đạo", không phải là thực phẩm, mà là sự thực (sự thật) của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức). Chính sự thực là gốc, rễ, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thực là nền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.
Sự thật vô điều kiện trước ánh sáng của chân lý, sự thật với sự thành thật học để hiểu, khi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật. Cụ thể là ta phải biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, thì từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật, và sự thật sẽ luôn được mở ra cho ta nhận ra sự thật, và sự thật trao tặng cuộc sống sức mạnh của nó qua sự xuất hiện hiển nhiên của sự thật.
Nhưng sự thật của con người là biết vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình, nên sự thật trong xã hội xuất hiện với sự xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng của nó, cùng lúc muốn lớn ra và đe dọa các tư lợi khác. Chính sự xuất hiện của sự thật sẽ nói rõ sự xung đột đã có và sẽ tiếp diễn ngay trong sinh hoạt xã hội, nó đe dọa và nó thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết để cùng nhau liên minh chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác.
Sự thật có hành trình ngay trên lộ trình chân lý, chúng ta phải biết là lẽ phải không nằm trong ý thức hệ luôn lấy ý đồ để vo tròn bóp méo sự thật. Con người còn phải có đầy đủ ý thức để biết là lẽ phải tới cùng với chân lý qua sự thật của sự kiện, khi sự kiện đã trở thành sự cố với tất cả tin tức, dữ kiện, chứng từ để từ đó dựng lên chân lý. Chính sự cố làm lộ ra sự thật và không hề tùy thuộc vào nhận xét chủ quan là chuyện này không thể có, chuyện kia không khả thi, chuyện nọ mang tính không thực tế, để làm thay đổi tình hình ; tất cả đều là một loại ngụy biện trá hình trước sự bất lực.
Trong khoa học cũng như trong chính trị, trong xã hội cũng như trong kinh tế… sự cố mang đến sự thật không kinh qua chuyện không thể có, không đi ngang qua chuyện không khả thi, không quá bộ qua chuyện không thực tế. Tính ngụy biện tạo ra tính bao biện để kẻ có ý đồ tồi muốn chặn phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, thì luôn luôn sử dụng gian lý để ngoa luận : không thể có vì không khả thi và không thực tế. Lịch sử con người thì dạy cho chúng ta rất rõ là : sự cố xuất hiện để nói rõ là sự thật là sự có ; và biến cố hiện lên để nói lớn là chân lý rất khả thi, và biến động sẽ tới để nói mạnh lên lẽ phải rất thực tế !
Sự thật mở cửa mời lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự do để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !
Sự thật biết đứng về phía nước mắt ! Sự thật trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức, các truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống, vì sự thật ngược lại với bưng bích, với tuyên truyền, với tráo luận, với giả dối. Trên mạng xã hội qua internet, lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, mà nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn nó, cấm đoán nó, truy hãm internet vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đúng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : sự thật biết đứng về phía nước mắt !
Sự thật xuất hiện ngay trong hiện tượng, nơi mà cái thật được nhận ra qua trực quan, chính trực quan khi tổ chức lại lý trí, đã bắt đầu trao truyền cho ta một trí tuệ mới để ta tiếp cận ngày càng sát với sự thật. Sự thật là sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết. Khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng. Sự thật mang bản thể có trong cái thật, và cái thật không ở trong cái giới thiệu, cái tuyên truyền, nơi mà sự thật của bản thể chính là sự vận hành mà ta thấy-nhận-hiểu qua hiện tượng.
Sự thật có trong lý luận khách quan qua tổng hợp các chứng từ để xây dựng lên tri thức khách quan để đặt sự thật vào kiến thức khách quan để chân lý được khai sáng. Trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… kiến thức khách quan không như trong khoa học chính xác (toán), không như trong khoa học thực nghiệm (lý, hóa, sinh). Vì kiến thức khách quan trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… được giải thích qua ngôn ngữ bình thường hàng ngày, mà không qua công thức toán, không qua thí nghiệm làm nên kinh nghiệm cho kiến thức ; mà sự thật trong đời sống con người chỉ được giải thích bằng ngôn ngữ chính xác nhất : nói thật để nói đúng. Khi ta đi tìm sự thật thì đừng quên tính hỗ tương, như là lực bổ sung của hai loại người có hai vị trí rất khác nhau, đối diện nhau để bổ túc cho nhau trên lộ trình nhận ra sự thật.
Sự thật xuất hiện trong sự ngẫu nhiên, nhưng khi sự thật ra đời thì chính sự thật sẽ loại đi sự ngẫu nhiên, để trở thành sự thật của phổ quát, của vĩnh hằng, được chấp nhận mọi nơi, mọi hướng. Sự thật thường tới sau một sự cố, chính sự cố làm sự thật xuất hiện. Sự thật cần kiến thức khách quan để xây dựng lại quá trình làm nó xuất hiện. Sự thật hiện hình như sự tái tạo lại cái thật để chúng ta kiểm chứng được tính trung thực của nó. Sự thật khi thì cần các kiến thức qua thực nghiệm của khoa học, có khi thì nó cần đạo diễn, cần kịch bản để tổ chức lớp lang thứ tự các dữ kiện, các chứng từ làm nên nó, để xã hội, để truyền thông, để tòa án, để pháp luận kiểm tra mọi phần tử, mọi chi tiết đã làm nên sự thật.
Sự thật thường xuất hiện như là một sự cố ngoại lệ đã trở thành phổ quát qua quá trình sau đây mà con người sống lần lượt qua bốn kinh nghiệm ngay trong tư duy của con người. Sự thật tới từ sự ngẫu nhiên nhưng là sự có thể, nó đang xẩy ra, nó tới để xóa đi sự chủ quan tạm thời của con người, nó xuất hiện dẹp hẳn sự chủ quan để dựng lên sự khách quan. Sự thật mang thực chất đặc thù, ngược với thói quen, trái với phản xạ. Sự thật khi được công nhận sẽ trở thành phổ biến với kết quả tất nhiên của nó.
Sự thật của sự vận hành vừa ngầm vừa nhanh, nửa hữu hình nửa vô dạng của thân phận Việt hiện nay. Với Tàu tặc đã chiếm đất, đảo, biển của ta ; với Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, đang hủy diệt môi sinh của ta ; với Tàu hoạn đang ngày ngày đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm bẩn, hóa chất độc, kể cả đang tổ chức dày đặc trên quê hương ta một mạng lưới buôn ma túy để truy diệt các thế hệ trẻ của Việt tộc ; với Tàu nạn đang toàn bộ tự giật dây chính trị qua lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng qua kinh tế, biển lận qua thương mại, tha hóa qua giáo dục… Tất cả song hành cùng với các làn sóng di dân Tàu ào ạt vào đất Việt để định cư lâu dài, trong quỷ thuật trai Tàu lấy vợ Việt, sinh con lai Tàu theo cha, tạo ra một lực lượng lai đang lan tỏa sâu rộng ngay trong giống nòi Việt. Sự thật này đã cho ta nhìn thấy là số phận Việt đã là đang lâm vào tử lộ của diệt vong !
Sự thật khi nhận diện được thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẽ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là rễ của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !
Chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích
Sự thật lột mặt nạ sự xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàn, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó. Sự thật có mặt trong phân tích, trong giải thích, trong chứng minh là độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, tức là còn độc trị thì không sao diệt được tham nhũng.
Tuệ luận : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy
Thầy-trò, là ngữ pháp mà tôi chọn để hiểu hai "ẩn số nhân kiếp" trong quan hệ giáo dục của một "phương trình nhân nghĩa" đầy nhân tri, vì dày nhân trí, mà giờ đây đã vượt lên hơn quan hệ bình thường của hai cá thể riêng biệt thầy và trò, của hai người đại diện cho hai thế hệ và hai vị thế khác nhau trong xã hội. Trong thầy nên hiểu là có cô, trong trò nên hiểu là có học sinh, nhất là sinh viên đi một đoạn đường dài trong đại học, trong trường đời khi nhận ra : gặp được một người thầy là gặp được một cơ duyên. Mà trò đã nhận thức đây chính là : cơ may, mà chỉ cần trò hiểu được cường độ và trình độ của một lần sơ ngộ này, để biến nó thành tương ngộ, nơi mà trò ý thức được giá trị thiêng liêng của hàm số hạnh ngộ, biết vận dụng sự thông minh của chính mình để biến tao ngộ phải là tái ngộ !
Ta cần thầy như cần một giá trị thiêng liêng, nhưng rất hữu hình, thầy có mặt khi ta cần thầy, thầy cùng ta song hành qua các gian nguy của nhân thế, qua các hiểm nạn nhân sinh, các thất bại lẫn thành công giữa nhân quần. Bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Ảnh K.T
Câu chuyện cơ duyên bắt đầu nơi mà câu ca dao : "Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây", được trò sung sướng đổi lại là "nhờ trường mình biết quê thầy là đây" ; vì cơ may có trong "một ngày nên nghĩa, một chữ nên thầy", được trò vui sướng đổi lại là : "một ngày nên trí, một chữ nên tri". Đây là cơ hội để trò hiểu ra phương trình thành người : thành công học đường-thành tài nghề nghiệp-thành đạt kinh tế-thành tựu xã hội. Chính là sự thăng hoa cho nhân kiếp, từ đó thấu chiều cao của giáo lý : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Mà công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy nếu ngẫm cho kỹ có thể viết là : công cha-nghĩa mẹ-ơn thầy, như sự liên kết làm nên liên minh đẹp nhất của một đời người, đã đưa đứa nhỏ từ mẫu giáo qua mọi chặn đường của học tập, giờ đã thành người, tức là thành nhân trong giáo lý hay, đẹp, tốt, lành của nhân phẩm !
Vì biết ơn cõng ân để ân bồng bế, chăm sóc, nâng niu ơn, vì nếu thấy được là thầy đã thực sự thay thế cha mẹ, đã lấy chính tâm huyết của thầy để lập nên công trình cho trò, giờ đây đã là công ơn. Thầy biết làm một số chuyện mà cha mẹ không làm được, là khi trò rời giáo dục gia đình để tiếp nhận giáo dục học đường qua thầy cô ; vì thầy song hành cùng trò tận dụng giáo dục học đường để tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất cho trò thành công trong giáo dục xã hội. Vì giáo dục nhân tính cần cả ba : giáo dục gia đình, giáo dục học đường, giáo dục xã hội ; và tính liên tục làm nên tình liên kết của ba giai đoạn giáo dục, đó là nền của giáo dục nhân tính, mà kết quả cuối một đời người là trò đã nhận ra đây chính là giáo dục nhân phẩm. Trong quá trình của ba giai đoạn giáo dục thì thầy luôn vừa là cầu nối, lại vừa là chỗ dựa từ nhân tri tới nhân trí, từ nhân lý tới nhân vị, đây là tâm giao của mọi tâm giao ! Vì đây là thâm giao của mọi thâm giao !
Chữ ơn thầy có nội lực, có sung lực, có hùng lực cõng, bồng, bế, nâng cả chữ công cha, lẫn nghĩa mẹ, vì "không thầy đố mày làm nên". Và giáo lý "không thầy đố mày làm nên" vẫn là giáo lý một chiều, vì còn có một chiều khác là "không thầy (thì) học bạn", nhưng học bạn và học thầy rất khác nhau, khác nhau từ cách tiếp nhận kiến thức tới cách xếp đặt tri thức, trong đó sự trải nghiệm của thầy bằng nhận thức qua kinh nghiệm của tri thức đã được cấu trúc hóa như kinh nghiệm trí thức, mà bạn bè khó trao cho nhau được, vì thầy đã trao cho trò một loại kinh nghiệm của ý thức của kẻ đi trước đã thành người.
Trong thói quen của ngôn ngữ Việt, ta có thể gọi tất cả các giáo viên, giảng viên, giáo sư là thầy, nhưng đúng nghĩa của kẻ được làm thầy là một chuyện vô cùng lạ của môi trường học đường, của không gian giáo dục, vì học đường có nhiều mức độ làm nên trình độ trao truyền từ người giảng dạy tới kẻ học tập. Một người giảng cho học trò các kỹ thuật sử dụng máy vi tính, có thể chỉ là một kỹ thuật viên. Một người giảng cho học trò các phương cách cộng, trừ, nhân, chia, có thể chỉ là một giáo viên. Một người giảng cho sinh viên các phương pháp phân tích và giải thích một sự kiện hay một sự cố, có thể chỉ là một giảng viên. Thậm chí một người giảng cho học trò không những phân tích và giải thích một sự kiện hay một sự cố, lại còn đi sâu vào đạo lý hay, đẹp, tốt, lành để trò hiểu thấu luân lý có trong bổn phận, có trong trách nhiệm của kẻ đi học, sau này sẽ thành công dân, người giảng dạy có thể chỉ là một giáo sư.
Tất cả các người giảng như kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư cũng có thể không được gọi để được xem là : thầy, vì đúng nghĩa kẻ làm thầy là : thầy biết biến trò trở thành thầy như thầy ! Câu chuyện thầy biết biến trò trở thành thầy như thầy ! Theo nghĩa là thầy giúp cho trò thành công, thầy còn giúp trò thăng hoa thật cao trên thành công đó, trong nhiều lĩnh vực chớ không phải chỉ thu gọn lại trong lĩnh vực giáo dục. Vì khi rời mái trường rồi vẫn có thể gặp lại thầy, vẫn có thể hỏi ý kiến của thầy khi trò gặp khó khăn, rơi vào ngõ cụt, thậm chí sau nhiều năm đã rời trường, với tuổi đời đã lớn, nhưng vẫn xin gặp thầy để được tham vấn, để có lối ra trước bao thử thách, trước các thăng trầm của đời người.
Có khi thầy kề cận trò cả đời của thầy, dù tuổi đời của thầy ngày càng cao, mà tuổi cao là tuổi trọng đối với người mà ta đã gọi là : thầy ! Ta cần thầy như cần một giá trị thiêng liêng, nhưng rất hữu hình, thầy có mặt khi ta cần thầy, thầy cùng ta song hành qua các gian nguy của nhân thế, qua các hiểm nạn nhân sinh, các thất bại lẫn thành công giữa nhân quần. Thầy đã mở đường, nên thầy sẽ tiếp tục che chở… Nên câu chuyện của các người giảng như kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư, có thể bắt đầu bằng hình tượng của trò là kẻ đang đứng nhìn về phía chân trời như đang đứng trước mặt chính tương lai của mình, nhưng muốn tới chân trời kia thì phải vượt biển, tức là vượt đại dương qua bao sóng gió, giông bão.
Khi trò lấy có nghề, biết nghệ để lập nghiệp ngay trong thăng trầm của kiếp người, thì các kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư thường không có mặt, đây không phải lỗi của họ, vì họ làm việc theo hợp đồng, công việc của họ được đo bằng lương bổng. Còn thầy thì khác, thầy sẽ có mặt trong khó khăn của ta, giúp ta không những vượt thoát các thử thách, mà còn vượt thắng các thăng trầm, vì thầy vừa là chiều cao, vừa là chiều sâu của "sống lâu mới biết lòng người có nhân". Thật đậm phúc khi ta có được một người thầy song hành cùng ta, thật nhạt phúc khi ta đi ngang cuộc đời này mà không gặp một người thầy nào cả !
Các người đã triệt
Chiều cao tâm linh Việt tộc của mô thức Trần Thái Tông
Đền Trần tại huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.
Từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, không có một tư liệu nào chứng minh được là các người đã học được và đã hiểu được chiều cao tâm linh của Trần Thái Tông. Vị vua đầu tiên này của nhà Trần, có lẽ là vị vua có cuộc sống tinh thần đau khổ nhất, vì là nạn nhân của cuộc "ép duyên" trong chủ đích của Thái sư Trần Thủ Độ để bảo vệ chuyện nối dòng cho nhà Trần, nên vua mang trong lòng hai nỗi đau quá lớn : phải rời bỏ hoàng hậu, vợ chính thức của mình, để nhận chị dâu làm vợ, khi người chị này đã mang thai.
Nhưng Trần Thái Tông cũng là một vị vua sáng suốt hàng đầu trong lịch sử của Việt tộc, một minh vương đã lèo lái dân tộc vượt mọi hiểm nạn của xâm lăng, trị vì ngôi vua với phong cách của minh sư có đầy đủ mọi giá trị tâm linh, nhờ tinh chuyên tu tập hằng ngày, không xuất gia nhưng đạo hạnh của ngài đã làm nên cõi tâm linh cao, sâu, xa, rộng cho Việt tộc, một cõi có một không hai không những trong Việt sử, mà cả cho sử nhân loại. Ngài có đời sống tâm linh thật cao, theo một kỷ luật đạo đức cá nhân nghiêm túc, dựa vào Phật giáo để thiền định, nhưng cùng lúc ngài biết đào sâu-khơi rộng đạo vị Phật giáo bằng chính sự tinh cần của mình, cõi tâm linh của ngài có giới luật, có thiền định, có trí tuệ, một rừng đầy hương :
"…Hương này trồng từ rừng giới luật
Tưới bằng nước thiền định
Chặt trong vườn trí tuệ
Đẽo bằng đạo giải thoát…".
Trong đau khổ, trong cuộc sống đầy thử thách, ngập thăng trầm, ngài giúp con dân Việt tộc có đời sống tâm linh vững để có tỉnh táo bền bỉ, để có sáng suốt cao rộng, không bị rơi vào bi kịch sống say chết mộng, tức là sống mà không thật sự được sống, và say rồi trong mê loạn thì cái chết tới lúc nào mà không biết. Sống say chết mộng chỉ vì không biết yêu cuộc đời nên không biết nâng niu cuộc sống, sống không đúng và không xứng đáng với các giá trị được trao tặng bởi sự sống, vì không biết cuộc đời chỉ là đoạn đời, cuộc sống qua mau với cái chết tới sớm, mà sống nay chết mai trong say loạn, trong mê mộng thì càng làm cuộc sống sớm tàn hơn.
Hình ảnh mà ngài đưa ra là hình ảnh của một ngư ông đang say sưa trong con thuyền của mình, giữa đêm trăng đẹp, trên dòng sống êm, nhưng thoáng chốc bão tố ập tới thuyền của ngư ông này đã vào cõi sóng, cõi của bão táp :
Một trận cuồng phong dậy đất bằng
Ngư ông say khướt thả thuyền ngang
Bốn phương mây kéo màu đen kịt
Một dải sông reo sóng dậy tràn
Sầm sập tóe tung mưa xối xả
Ỳ ầm chuyển động sống oan vang
Phút giây bụi cuốn chân trời tạnh
Canh vắng dòng sông bóng nguyệt tàn…
Thi từ của ngài cũng mở lối cho chúng ta ngay trong bài này : nếu chúng ta sáng suốt thì có thể vượt qua được giông tố, bão táp, vì cõi sóng sẽ qua, cõi bão sẽ tan, nếu chúng ta biết bảo vệ sự sống, gạt bỏ cái sống say chết mộng, bằng cái sống thật chết ngay. Vì sống say chết mộng biến cuộc đời thành ảo ảnh, biến cuộc sống thành ảo mộng, biến giá trị sự sống thành sương sóng ; còn sống thật chết ngay là sống ngay thật trong tỉnh táo từng phút giây, từng sát na ; và chết đúng là đón nhận cái chết với đúng thời điểm của nó. Ngài viết về cái chết trong Phổ Thuyết Sắc Thân :
"Khi xưa tóc mượt má hồng, ngày nay tro xanh xương trắng
Khi xưa lệ tới mây ảm đạm, lúc gió sầu lay nguyệt mơ màng
Canh tàn thì quỷ khóc thần sầu, năm muộn thì trâu dày ngựa đạp
Đom đóm lập lèo trong cỏ biếc, côn trùng rền rỉ ngọn dương trơ
Bia đá một nửa phủ rêu xanh, tiều mục đạp ngang thành lối tắt…".
Đừng sống trong bất tịnh, đừng quên là cuộc sống nằm trong vô thường, học hai chữ vô thường thật sâu để hiểu thật xa, để sống thật chết ngay. Trần Thái Tông ngày ngày tinh luyện để sống cuộc đời của mình bằng các giá trị tâm linh cao, ngày ngày ngài đọc kinh Sám Hối, vì ai mà chẳng có lỗi với người thân, vì ai mà không nặng lỗi với đời. Nhưng trong nghi thức sám hối mỗi sáng tinh mơ, ngài có nhân sinh quan của mình, ngài biết đưa nó tới một thế giới quan rộng lượng để được sống với vũ trụ quan bao la ; trong nghi thức buổi sáng ngài có Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, đặt tầm vóc tâm linh của mình vào vũ trụ thiên chân :
Ánh dương vừa mới hé
Mặt đất tối rạng dần
Ý xôn xao trỗi dậy
Hình tranh nhau phân vân
Đừng ôm xác chết nữa
Ngẩng đầu lên thiên chân
Siêng năng trong sáu niệm
Mới khế ngộ cơ thần.
Trong một xã hội Việt Nam hiện nay với một trăm triệu đồng bào sống trong vô cảm vì vô giác trước nỗi khổ của dân đen, dân oan, sống say trong vô minh để chết mộng trong vô tri, từ ô nhiễm môi trường tới thực phẩm bị đầu độc ; cả một dân tộc đang đánh mất định hướng tâm linh, lấy mê tín dị đoan làm loạn tâm, mà còn gọi đó là tâm linh. Riêng bạn, mỗi lần bạn bị lạc lõng giữa vô cảm, lạc loài trong vô giác, rơi sâu vào mê lộ của vô minh, chìm xuống đáy của vô tri, bạn hãy tự đánh thức mình và nhớ về một đấng minh vương-minh sư, thật sự là minh chủ tâm linh của Việt tộc là Trần Thái Tông bằng hình ảnh của một con người thật tỉnh thức : Đừng ôm xác chết nữa… để Ngẩng đầu lên thiên chân ! Cõi tâm linh của Trần Thái Tông không lý thuyết, không trừu tượng, nó mang những động thái thường nhật cụ thể, nhưng bản lĩnh tâm linh của nó thật cao, ngài có bài kệ Dâng hương :
Ngạt ngào trầm hương rừng Chính Định
Chiên Đàn vườn Tuệ đã vun trồng
Giới Đạo đẽo gọt lên hình núi
Đốt lại lò Tâm để hiến dâng.
Trong một xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang bị lạc loài trước các giá trị tâm linh, rồi lạc hướng trong văn hóa, lạc đường trong văn minh, lạc cõi trước văn minh của nhân loại trong một thế giới vì nhân quyền ; vì nhân quyền này đang bị tước đoạt bởi bạo quyền độc đảng. Bạn hãy tự tạo cho bạn một cõi tâm linh để tự bảo vệ mình. Nhưng bằng vốn liếng gì ? Bằng phương pháp nào ? Câu trả lời đã có trong phương pháp luận của Trần Thái Tông : rừng Chính Định cận kề cùng vườn Tuệ để giữ lửa cho lò Tâm đã có trong bạn.
Lò Tâm có trong mỗi chúng ta, có trong tất cả các đứa con tin yêu của Việt tộc không chấp nhận bạo quyền, tà quyền, ma quyền chỉ vì nó không có chỗ đứng ghế ngồi trong cõi tâm linh của chúng ta. Minh vương mà cũng là minh sư, có bài kệ Dâng hoa, ngày ngày làm đẹp cuộc sống của mình, làm đẹp luôn cuộc đời của chúng sinh, qua nhân dạng minh chủ tâm linh của Trần Thái Tông :
Hoa nở sáng ngời trên đất Tâm
Hoa tiên rải xuống chẳng thơm bằng
Hái dâng từng đóa lên chư Phật
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rung.
Phải sống trên đất Việt, đang phải nhận chịu bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn thần bán thánh, bạn hãy dùng Hoa nở sáng ngời trên đất Tâm để tái tạo lại nhân tâm của bạn, vì đồng bào của bạn. Bạn hãy tin là hoa tâm của bạn do Trần Thái Tông trao tặng hơn hẳn : Hoa tiên rải xuống chẳng thơm bằng, để bạn có thể không những Hái dâng từng đóa lên chư Phật mà còn kính dâng tới bao anh hùng, bao công thần lập nước và giữ nước của Việt tộc. Và bạn tự tâm nguyện ngay trên đất Tâm Việt của bạn là không bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn thần bán thánh, nào có thể buôn dân, bán nước được : nếu đời sống tâm linh của bạn đang đứng vững trên đất Tâm Việt. Qua nhân dạng minh quân-minh sư-minh chủ tâm linh của Trần Thái Tông : Việt tộc là một minh tộc !
Mà bi kịch của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là các người : không có kiến thức và tri thức để thành trí thức như Trần Thái Tông. Không có ý thức và nhận thức để có tỉnh thức như Trần Thái Tông. Không có tâm hồn yêu nước và linh hồn thương nòi để có tâm linh cao rộng như Trần Thái Tông.
Các người đã triệt
Nhân từ tính của mô thức Trần Nhân Tông
Hãy để ra vài phút trong ngày, vài giờ trong tuần, vài buổi trong tháng, để đọc, để hiểu, để thấu những gì mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã nói, đã viết, đã tâm sự tự tâm ! Ảnh minh họa Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên núi Yên Tử.
Thảm kịch của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là các người không học được, không có được bản lĩnh tỉnh táo của nhân từ đã xây dựng được khối đoàn kết cho dân tộc trước họa xâm lược của Nguyên Mông, chính nội công sáng suốt của nhân từ đã làm được kỳ công điều binh, khiển tướng của ngài trong bối cảnh chỉ mành treo chuông của Việt tộc trước bọn ngoại xâm đầy tàn bạo, nhưng vẫn thua trận vì chúng không có nhân từ.
Câu chuyện nhân từ trong cuộc đời minh quân của ngài không phải là câu chuyện lòng trắc ẩn của Mạnh Tử, cũng không phải là lòng thương hại trong các đạo giáo ; mà nó là câu chuyện lấy nhân để cứu nhân. Đây là sự thông minh ở trên cao, trùm phủ xuống mọi định nghĩa về sự thông minh, đây là trí khôn của nhân lý và lý trí của nhân tri biết tìm về nhân nghĩa mỗi lần nhân thế xa nhân đạo. Và chỉ có ngài mới có tầm vóc này để lập nên phái Trúc Lâm Yên Tử lấy Phật tại tâm để chế tác ra tâm tại thế ! Thiếu nhân từ, vắng nhân nghĩa, trống nhân bản, rỗng nhân văn vừa là hằng số cũng vừa là ẩn số của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đảng cho tới ngày hôm nay, họ đã và đang đưa Việt tộc tới cõi suy đồi từ đạo lý tới linh hồn.
Đây là thất bại lớn của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, giữa các thất bại lớn khác về kinh tế, xã hội, dân chủ, nhân quyền... vì họ thành lập đảng, xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng, bảo vệ đảng trên hành vi bạo ngược, với hành động bạo quyền, lấy bạo động để diệt nhân từ, lấy bạo hành đẩy nhân dân ngày càng xa, càng biệt nhân từ. Không có nhân từ, nên các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đâm ra nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo...
Thí dụ điển hình là lòng nhân từ, các Phật tử vào mùa phóng sinh với lòng thành từ bi, yêu muôn loài như yêu chính mình. Phóng sinh để trả lại cuộc sống cho cuộc sống, trả lại tự do cho tự do ! Vậy mà các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng xen vào để "thả chim, thả cá", họ nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo... vì là giả, dối, láo, xạo, không có lòng thành nhân từ thì phóng sinh chỉ là một màn kịch xấu, tồi, tục, dở. Muốn có lòng thành nhân từ rất dễ, các vị này hãy thả ngay !
Hãy "phóng thích" ngay ! Hãy trả tự do ngay cho các tù nhân lương tâm, đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng, tức là vì nhân từ cho toàn xã hội. Thật dễ không hề khó, nhất là đối với các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có quyền "sinh sát" với dân đen, dân oan, dân chúng... Thật quá dễ khi các vị chỉ để ra vài phút trong ngày, vài giờ trong tuần, vài buổi trong tháng, để đọc, để hiểu, để thấu những gì mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã nói, đã viết, đã tâm sự tự tâm !
Bi hài kịch của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân dân không thấy nhân từ trong lời nói của các người, dân tộc không thấy nhân tâm trong lời nói của các người, chính các người đang tự triệt các người đấy !
Các người đã triệt
Nhân cách ngàn dặm của mô thức Huyền Trân công chúa
Đền Huyền trân công chúa tại ấp Ngũ Tây, phường An Tây, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Từ lãnh tụ thủa các người thời lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các người không biết tôn vinh nhân phẩm phụ nữ Việt nên các người sẽ không dựng nên được tri thức nhân cách ngàn dặm của Huyền Trân công chúa. Sử việt rất rõ là Công chúa nhận cuộc hôn với Chế Mân để hòa bình giữa Chàm tộc và Việt tộc, biến chuyện sống chung giữa hai dân tộc thành chuyện có thực, vì vậy nhân cách của công chúa là rất đẹp, vì nghĩa vụ này rất lớn. Cả Việt tộc phải biết mà tự hào đã nhờ có cha của công chúa là Phật hoàng Trần Nhân Tông biết "nhìn xa trông rộng", mà công chúa đã cụ thể hóa được lòng hiếu hòa của Việt tộc qua chuyện "đi làm dâu xa" với nỗi niềm dường như độc nhất trong Việt sử, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã hát lên được : "Nước non ngàn dặm ra đi".
Những câu chữ dèm pha về số phận của công chúa : "Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho lũ mán, lũ mường nó leo" chỉ là loại ngữ văn kỳ thị chủng tộc, thấp vì vô minh, tồi vì vô tri, tục vì vô giác, những kẻ thích trích dẫn câu này, thường là những kẻ không có đạo lý của sứ mệnh, không có luân lý của bổn phận, không có luôn đạo đức của nghĩa vụ công dân, vì "sơn hà xã tắc". Họ càng thấp hơn khi họ nêu tấy lên chuyện tư tình của Công Chúa với công tướng Trần Khắc Chung, trên đường từ Chiêm về Việt, sau khi Chế Mân qua đời. Nhân cách cha của Công Chúa Phật hoàng Trần Nhân Tông rất cao, nhân cách của vua Chế Mân rất vững, nhân cách của Trần Khắc Chung rất rõ, vậy xin kết luận ngay nhân cách của Công Chúa phải : rất đẹp ! Nên những người đáng quý, đáng trọng này mới thương, mới yêu công chúa.
Thái Thanh hát Nước non ngàn dặm ra đi của Phạm Duy - Nguyễn Nguyễn Studio
Những kẻ nghi ngờ về nhân cách này họ rất bơ vơ, làm sao họ hiểu được "nỗi khổ, niềm đau" của công chúa, nhưng công chúa không hề bị chuyện xấu làm công chúa quỵ, gục, ngã. Công Chúa biết tìm cõi tu để trong tâm, sạch hồn trước những mất mát lớn : mất chồng, mất con, kể cả mất người yêu ; nhưng ngay trong cõi tu, Công Chúa vẫn giúp được dân lành qua bao chuyện công điền, cấy cầy... mà ngày nay dân địa phương (chung quanh ngôi chùa mà công chúa là chủ trì) vẫn khiêm cẩn thờ Công Chúa.
Soi xưa để thấy tỏ nay : bao nhiêu phụ nữ hiện nay đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng... tức là vì một Việt tộc sống có nhân cách, họ chịu cảnh ngục tù của những tù nhân lương tâm, cùng lúc bị bọn văn nô, bồi bút bôi nhọ, vu khống, chụp mũ, vấy bùn trên cái đẹp của nhân cách các phụ nữ Việt, biết nhận nghĩa-phận với Việt tộc.
Từ lãnh tụ thủa các người thời lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các người đã nuôi dưỡng bọn văn nô, bồi bút chỉ là ký sinh trùng trong dưới sự chỉ đạo của bạo quyền tuyên huấn, bạo hành công an... Chúng chỉ có thể lấy lại nhân cách của chúng khi nào chúng hiểu thế nào là đạo lý của sứ mệnh, luân lý của bổn phận, đạo đức của nghĩa vụ : "phải cứu nước, cứu dân". Nhất là loại lãnh đạo nam giới bất tài hiện nay ngày ngày hiếp đáp phụ nữ Việt, thì nên biết cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước nhân cách lịch sử của tri thức nhân cách ngàn dặm của Huyền Trân công chúa.
Các người đã triệt
Mô thức vấn nạn Việt tộc của Tô Thùy Yên
Nhà thơ Tô Thùy Yên qua bút họa của Trần Thế Vĩnh
Các lãnh tụ thủa cướp chính quyền cũng như các lãnh đạo thủa độc quyền trong độc đảng toàn trị khi sao vào được cõi tâm linh của Tô Thùy Yên, vì họ chưa hiểu họ đã tìm cách bỏ tù rồi vùi dập thi sĩ này cho tới ngày ông phải lưu vong tận Mỹ quốc. Khi ông đề nghị các giá trị tâm linh, cõi này thường khởi cùng lúc cái mâu thuẫn giữa cái tắt của hoạn nạn khi cái mất mát đang đe dọa chúng ta, và cái tia hy vọng của một bình minh lạ, của rạng đông mới, để ta cảm nhận sâu xa là ta vẫn đang sống cùng mọi sự sống chung quanh ta. Câu chuyện của Tô Thùy Yên là thân phận ròng rã bao năm trời trong vòng lao lý từ các trại học tập tới các phòng giam biệt lập ngặt nghèo nhất, những năm tháng đó cái chết cứ ngày ngày thủ thỉ với sự sống là bạo quyền độc tài sẽ thắng nhân tính, để diệt nhân phẩm. Cho nên thân phận con người ngày ngày như que diêm luôn bị các cơn gió độc của tà quyền thích thổi cho tắt ! Bảo vệ nhân tính vì nhân phẩm là câu chuyện đi tìm một bình minh lạ.
Khi Ta bằng lòng phận que diêm tắt. Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông… là kết quả của tư duy thấy rõ khi bình thường thì mạng sống con người phải được coi là vô giá, nhưng trước bọn bạo quyền bất nhân, tà quyền thất đức : sao giá của nó như diêm. Dù chấp nhận trả cái giá là mất mạng, nhưng tại sao lại phải chịu mất suông ? Chuyện mất suông là chuyện có thật khi con người phải sống chung, sống cùng với bọn âm binh của ma quyền. Nhưng bất cứ một sự ra đi nào của nhân tính (vì nhân phẩm) trước cái chết đã cận kề, thì con người nhận ra sự ra đi là để tìm một bình minh lạ, đây không phải là chuyện hoang đường mà là chuyện tìm con đường của ý thức, nó là hiện tượng luận của tri thức, nhận sự thật của cái chết trong liêm sỉ để thấy một loại bình minh lạ sẽ tới, để ra khỏi cái thấp của bạo quyền, cái tục của tà quyền, cái ma của âm binh : "...Ra đi như một bình minh lạ… Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình…".
Giá trị tâm linh trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình đã được Tô Thùy Yên tạo ra theo con đường mà đã có lần Saint John Perse nghe được nó ngay trong tiếng nói vô cùng sống động giữa người và người, đầy nhân tính, dầy nhân cách : "S’en aller ! S’en aller ! Parole de vivant" (Đi ! Cứ đi ! Cùng tiếng nói của sự sống). Tiếng nói tạo dựng được sự sống, làm sự sống chuyển động một cách sống động để tự bảo vệ : đây chính là nhiệm vụ của các giá trị tâm linh ! Biết tái tạo lại rạng đông, biết chế tác ra các bình minh lạ, đó là tiếng nói của tâm linh không sợ cái chết !
Tô Thùy Yên dặn dò là cõi tâm linh trước cõi chết :
"…Sẽ lo chẳng những cho người sống
Lo cả cho người khuất mặt kia
Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ
Chung lời thương tiếc khóc trên bia…".
Cõi tâm linh thường xuyên bị thử thách trước cõi chết, từ đó và tự nó định nghĩa được nhân phẩm sâu đậm trước các thăng trầm của nhân sinh, nơi mà nhân mạng phải đi qua những lằn ranh sinh tử. Tô Thùy Yên qua các lằn ranh sinh tử nhiều lần trong chiến tranh Bắc Nam huynh đệ tương tàn, trong những năm dài của các trại học tập, trong những ngày tháng ngục tù, nơi mà tử sinh sánh đôi song hành trên tử lộ. Tại đây, ông thấy rõ ràng tất cả các tín hiệu khi cái chết đến cận kề sự sống :
"…Côn trùng kiệt sức lìa hang ổ
Lên chết thiêu trên mặt đất hừng
Ác điểu ngày đêm gào xao xác
Cơ hồ cả thế giới lâm chung…".
Lâm chung là thời khắc mà cái chết đang tới, và sự sống phải lùi ra cho tử thần ngự trị trong ma quyền của nó. Cái chết áp đảo sự sống, như bạo lực đang thắng thế, bạo quyền đang kiêu căng, tà quyền đang ngạo mạn, để mặc cả nhân phẩm bằng nhân mạng. Lúc đó, các giá trị tâm linh sẽ xuất hiện để chỉ cho rõ cái lầm đường của bạo quyền bằng bạo động, phanh ra cái lạc lối của tà quyền đang áp đặt ngày tận thế :
"Cái chết tru rân giờ nguyệt tận…
Lăn địa cầu ra khỏi lối xưa…
Như tên phù thủy già điên loạn
Lịch sử lên cơn dữ bất thường…".
Nhưng từ đây, các giá trị tâm linh sẽ tìm mọi cái để sống sót, và sống sót để nói lên nỗi lo -lòng thao thức trong dạ đau đáu- của con người trước bạo quyền đang cướp đi sự sống ; các giá trị tâm linh sẽ tìm mọi cách để sống còn bằng nhân tâm, lẳng lặng chờ ngày tái tạo lại nhân phẩm. Nhưng cách lo toan (thao thức trong đau đáu) của nhân tâm qua các giá trị tâm linh cụ thể sẽ là gì ? Đó là tâm khoan dung làm nên trí khoan hồng, để lòng vị tha chế tác ra tâm tha thứ, từ đó sinh ly phải xuống ngôi để nhường nhân vị cho mọi hòa giải biết hóa giải mọi hận thù, để hòa hợp mà xóa đi mọi thù hằn. Nội công của các giá trị tâm linh chính là nội lực của hòa giải-hóa giải-hòa hợp !
Tô Thùy Yên vận dụng mô thức tâm linh của mình như một không gian biết tự vệ trước bạo quyền độc đảng toàn trị :
"…Ta khóc lẻ loi, cười một mình
Thu hình ẩn náu dưới tâm linh
Mắt chong kinh hãi đêm hư sử
Thân lõa lồ đau cháy khổ hình…".
Các giá trị tâm linh không phải là các lời "nói suông" để nạn nhân trong khốn khó được nghe cho "xuôi tai" mà tự an ủi trong khổ nạn ; các giá trị tâm linh là một hệ lý luận như một cầu nối, cho sự thật của dữ kiện tìm tới được chân lý của sự kiện, từ đó con người thấy ra lẽ phải của sự cố. Ngay trong các giá trị tâm linh người ta thấy rõ các sử liệu của tư liệu, sử luận của lập luận để nắm được sử học để biết đối nhân xử thế.
Biết thu hình ẩn náu dưới tâm linh để vượt hư sử (chính là ung thư của lịch sử) làm ra từ quái thai của bạo quyền, nơi mà các giá trị tâm linh phải đi trên lưng cái ác, cùng cái độc, cái thâm, cái hiểm ; phải đi trên vai cái bạo, phải đi trên đầu cái tà để vượt thắng cái diệt, cái hủy ngày ngày đe dọa sự sống. Kế đến là phải tổ chức lại cõi tâm linh, như cõi thiêng liêng nhất mà những cái xấu, tồi, tục, dở của ác, hiểm, thâm, độc không đột nhập vào được bằng những con đường tà bạo tới từ đứa ngu :
"…Ta nhặt từng trang sách rách toang
Đứa ngu đã xé vứt ra đường
Ta gom từng hạt cây luân lạc
Mong mỏi gầy lên một địa đàng…".
Trong từng trang sách không những có trí tuệ của nhân tính, mà còn chứa tuệ giác của nhân phẩm, mà tại đây hành động tâm linh là gom lại, thu lại, nhận lại để làm nên các giá trị của tâm linh, vì trong đó có giá trị của một địa đàng ! Tô Thùy Yên vận dụng mô thức tâm linh để được làm người trước bạo quyền độc đảng toàn trị : "Một thời thế ngã với từng xác thân… Làm người đã phải làm sao ?"
Các giá trị tâm linh luôn đi sâu vào cõi người đang vấn nạn, để đứng cạnh người gặp nạn và nâng người này dậy trong họa nạn, rồi tìm cách đưa con người này ra khỏi cõi nạn, khi con người đã thoát nạn, thì các giá trị tâm linh đã vỉnh viễn trở thành bạn đồng hành với kẻ đã thắng nạn. Và, cho tới ngày rời cõi đời này, mỗi lần gặp nạn, mỗi lần đứng trước họa nạn, con người này sẽ không còn cô đơn phải chống chỏi một thân một mình với hoạn nạn, mà đã có chiều cao tâm linh kề cận để có sáng suốt trong quyết định và các giá trị tâm linh trong hành động.
Mỗi lần cột xương sống của hình hài bị mềm ra và lệch đi, thì các giá trị tâm linh là những cây chống vô hình giúp hình hài đứng thẳng vì tư duy đã ngẩng đầu trong thử thách, tầm nhìn tâm linh đã vượt thắng các thăng trầm, và kẻ gặp nạn đã thấy lối ra bằng các chân trời của thiện, của mỹ. Tô Thùy Yên đã gặp họa nạn dưới bạo quyền độc tài, đã trải qua hoạn nạn trong tà quyền độc trị đã dựng lên nhà lao để nhốt tù các đứa con tin yêu của Việt tộc ; nên trong cõi nạn thi sĩ biết rõ bản lai diện mục của sự bất nhân, nó hoàn toàn ngược hướng trái chiều với các giá trị tâm linh :
"…Một lần núi đổ, sông dâng
Vắt cơm, hớp nước, âm phần là đây…
Thịt rơi xương rụng trùng trùng
Một thời thế ngã với từng xác thân…".
Khi ta nhớ lại để kể lại những mất mát của nhân tính, những thiệt thòi của nhân phẩm trước bạo lực trong lao lý, thì ta thấy ngày dài bất tận trước khổ hình mà bạo lực tạo ra, thấy thời gian bị lôi dài lê thê trên dốc thời gian để nhân đạo bị xói mòn. Thì đây, cũng chính là lúc khả năng tự tư duy của ta mời các giá trị tâm linh đến để chia sẻ vắt cơm, hớp nước, để nhìn tận mặt âm phần, để hiểu không gian của cõi nạn : thịt rơi xương rụng trùng trùng, để thấu giá trị của sự sống khi cõi sống bị đe dọa : một thời thế ngã với từng xác thân…
Trong cõi lao tù mà tên gọi là trại cải tạo, người tù phải tự sinh tồn bằng cách vào rừng hái rau hoang để nuôi thân, thì đó là lúc tri thức kêu gọi lịch sử trở về để nhận ra các giá trị tâm linh, sẽ an ủi người tù là cõi nạn, một cõi nạn luôn ẩn nấp trong cõi sinh :
Chiều ra đồng hái rau Hoang
Nghe sầu trong gió thổi tràn mặt ta
Ơn trời ơn nước bao la
Hái đi này những xót xa kiếp người
Cổ kim chung một mái trời
Kinh thi cũng có kiếp người hái rau.
Câu chuyện tâm linh thường có hai kịch bản, một kịch bản buồn (nghe sầu trong gió thổi tràn mặt ta) và một kịch bản ơn (ơn trời ơn nước bao la) giúp con người có can đảm để gạt ra, nhổ đi, hái đi khổ nạn (hái đi này những xót xa kiếp người), để được thấy trước toàn cảnh của nhân sinh trong cái chung (cổ kim chung một mái trời) để nhận ra nhân kiếp (Kinh thi cũng có kiếp người hái rau).
Cấu kết để luận kết các giá trị tâm linh luôn là câu chuyện làm người (làm người đã phải làm sao ?), làm sao để thấy chiều cao của nhân phẩm, chiều sâu của nhân tâm, chiều rộng của nhân từ, và chiều dài của nhân đạo, chỉ một chuyện hái rau để sống còn, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn nữa trong chiều sâu của tâm linh : thấy câu chuyện làm người để nhận ra câu chuyện tội người :
" …Hái nhanh cho kịp trời chiều
Ấy mê, ấy tỉnh, cỏ nhiều hơn rau
Làm người đã phải làm sao ?
Thêm bề rau thấp, cỏ cao, tội người…".
Câu chuyện tội người đây là tội nghiệp người, tội nghiệp kiếp làm người, càng làm người càng thấy tội người tức là càng làm người càng thấy thương người, cho nên cột xương sống tinh anh của các giá trị tâm linh là câu chuyện thương người, thương đến xót xa, thương đến bầm gan, tím mật.
Tô Thùy Yên đã thấy lịch sử ngất lã trong tay bạo quyền vô minh : "Lịch sử dường như đã ngất lã/ Sau những liên hồi vật vã điên cuồng". Chính khi con người đã rã rời vì khổ nạn trong ngục tù của bạo quyền, ý thức rời trí tuệ, nhận thức mất tuệ giác, đây câu chuyện những ngày trong lao tù của Tô Thùy Yên của thế kỷ XX vừa qua, mà cũng là chuyện hằng ngày hiện nay của hàng trăm tù nhân lương tâm đang trong vòng lao lý bất nhân của bạo quyền độc đảng ; khi mà bi quan đã tràn lan, làm não bộ con người tưởng chừng như tất cả đều sụp đổ, xưa nay đều tiêu tán.
Khi con người bị vật vã, khi nhân sinh rơi trong điên cuồng, thì sự xuất hiện của các giá trị của tâm linh đến để vực dậy chiều cao của nhân phẩm, để đánh thức chiều sâu của nhân tâm, để khơi ra chiều rộng của nhân từ, và nối theo chiều dài của nhân đạo. Câu chuyện tâm linh là một chuỗi động lực của hệ dây chuyền : vực dậy-đánh thức-khơi ra-nối theo để tái tạo cõi sống cho nhân thế :
...Ta đứng lên
Đi tới, đi lui trăm lượt nghìn lần
Như một hồn ma cổ đại
Trong hầm mộ muôn đời…
Ta đứng lên !"
không chỉ vì chuyện sống còn, không chỉ vì muốn sống sót, mà Ta đứng lên ! vì nhân phẩm, vì chuyện mất nhân phẩm là chuyện : không chấp nhận được !
Tô Thùy Yên đã thấu bao khổ nạn của Việt tộc, mà mỗi công dân Việt phải là chủ thể để xóa giải oan kiếp của mình : "Khắc khoải chim kêu ngày khổ nạn… Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải…". Khắc khoải là trạng từ mà cũng là động tự của người đã bị rơi vào cõi nạn, trong đó hoạn nạn mang mặt nạ của họa nạn xuất hiện để đe dọa sự sống, nơi mà hơi thở của kẻ rơi vào bi nạn giống như hơi thở của người lúc lâm chung, sẽ phải rời cuộc đời trước bao chuyện bất nhân thất đức của bạo quyền giờ đã thành tà quyền ngày ngày lòn lách như âm binh đe dọa nhân sinh, nên thi sĩ nghe rõ : "…Khắc khoải chim kêu ngày tận tuyệt…".
Ngày tận tuyệt có đầy đủ cảnh trí của đói, khát trong mệt lã, rã rời ; có cai tù tra tấn người tù, có bịnh tật đi cùng với các vết thương sau mỗi lần bị tra tấn ; có ý định của tự sát như để bảo vệ chính lương tâm của mình trước tên đạo diễn bạo quyền đang diễn tuồng ác nhân. Khắc khoải là trạng động từ ám ảnh người tù hằng giờ rồi kéo dài đăng đẳng cả kiếp người, khi con người sống mà không có lối ra cho nhân phẩm, mà nguyên nhân cốt lõi là bạo quyền không có nhân tâm để hiểu nhân từ, để thấu nhân đạo. Trong không gian và thời gian của khắc khoải, thi sĩ thấy chuyện bi thương của kiếp người qua một động tự thật mới : khuất giạt, một động từ mới trong tuyệt vọng : "…Khắc khoải chim kêu ngày khuất giạt…".
Khắc khoải dần dà trở thành bi trạng của một không gian có tiếng chim của miền thất vọng, tên nó là khổ nạn : "…Khắc khoải chim kêu ngày khổ nạn…". Đó cũng là lúc mà sức mạnh tâm linh đã tới để cứu kẻ trong khổ nạn, bằng một hành động qua một động từ vô cùng mới, rất mới trong hay, đẹp, tốt, lành, của nhân tri, đó là động từ xóa giải : "…Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải…". Xóa đi hận thù có trong tâm địa của bạo quyền, xóa đi lòng tham có trong nội địa của tà quyền, xóa đi cõi hận có trong cõi não của ma quyền đang lủng đoạn lương tri của cả một dân tộc.
Nhưng sức mạnh tâm linh phải tiếp tục đi xa hơn, sâu hơn, dài hơn, cao hơn nữa để giải : để giải trừ mọi tham, sân, si ; để giải tán mọi bạo quyền, tà quyền, ma quyền mà cứu nguy cho nhân tâm ; để giải oan cho bao oan khiên mà dân tộc phải hứng chịu từ bao lâu nay. Từ đó, lấy nhân từ cùng nhân đạo làm nên nhân nghĩa để giải hòa mọi xung đột trong nhân thế, mọi hiềm khích trong nhân tình, mọi họa nạn trong nhân loại, và không quên cứu rỗi luôn cả linh hồn của những tội phạm đã dùng bạo quyền, tà quyền, ma quyền để gây bao tội ác.
Xin đừng quên sức mạnh của tâm linh là thực hiện được chuyện giải oan, giúp cái oan vượt lên cái oán, để đi về hướng của nhân tâm mà làm giàu cho nhân tri, làm cao thêm nhân lý ; vì cái oan chỉ là chuyện bể dâu của nhân thế, nó không phải là dấu chàm vĩnh viễn của nhân phẩm. Câu chuyện giải oan qua sức mạnh của tâm linh đi trên lưng, trên vai, trên đầu cái oán :
"Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa, người ơi".
Kiếp nhân sinh như như hạt sương trên cỏ, nhưng có tầm vóc của một chiều cao tâm linh biết : kết tụ sầu nhân thế chuyển dời, để hiểu ra chuyện sinh, dị, diệt mà thấu được sinh trong nhân thế, nhưng dị như hoạn nạn, như bất công, như tội ác ngày ngày đe dọa nhân tính, thời cơ hội là diệt nhân phẩm để vùi nhân vị.
Kiếp người thật bé bỏng trong hoạn cảnh sinh, dị, diệt, với sự cảm nhận của tâm linh giúp nhân tâm làm được chuyện cân, đo, đong, đếm được tất cả các đọa đày mà nhân loại phải gánh chịu trên nhân lộ : tội tình chi lắm nữa, người ơi. Khi biết kêu lên, khi biết than ra, khi biết bộc lộ được câu : tội tình chi lắm nữa, người ơi, thì nhân tri đã mở cửa đón mời các giá trị tâm linh tới để xóa đi các tội tình trong kiếp người này.
Câu chuyện tâm linh là sự khởi hành đi tìm câu trả lời khi con người tự hỏi : ta là ai ? Mà sao ra nông nổi này trong hoàn cảnh của kẻ bị lâm nạn, với câu hỏi thứ hai : đây là đâu ? và mỗi lần sức mạnh tâm linh xuất hiện, nó giúp con người có được câu cả hai câu trả lời (là ai ? là đâu ?), để có đáp số trước các ẩn số của nhân thế, để thức tỉnh ngay trước mê lộ : "…Đây là đâu ? Tỉnh, tỉnh lại với đời !". Và khi con người đã mất các định hướng, trong hành trình vô định với bước vô minh :
"…Gối đầu lên một chỗ không lý
Ráp lại xương từng thỏi rã rời
Giờ này đã khuya khoắc thiên cổ
Chớp hiện mình soi dội lẻ loi…".
Sức mạnh tâm linh xuất hiện mang lại nhân tâm cho chỗ không lý ; mang lại nhân tính để giúp nhân dạng làm được chuyện ráp lại xương từng thỏi rã rời ; ngay trong thời gian của giờ này đã khuya khoắc thiên cổ ; ngay trong không gian nhỏ hẹp của chớp hiện mình soi dội lẻ loi, để tại đây nhân phẩm có đủ sức mạnh tâm linh mà soi sâu mọi chiều sâu của kiếp người :
Con chim bói cá trong tàn tối
Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ.
Tô Thùy Yên thấy để thấu xuyên suốt ba sinh :
"Trở trời ngồi lại cời than
Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh".
Cời là một động từ lạ trong Việt ngữ, cời là khơi lên, nhưng không phải là khuấy lên, nhẹ nhàng khơi dậy, chớ không phải hấp tấp quậy lên ; phải thư thái trong trầm lặng để cời, phải tỉnh tâm trong trầm tư để cời, một động tác của người thanh biết tư duy sâu đậm, chớ không phải của kẻ tục chỉ muốn tò mò để tọc mạch. Cời lên cái còn đang nhen nhúm, cời lại cái chất lửa đang bị đe dọa vùi lấp bởi cái tà ; cời để giữ lửa, giữ nhiệt, giữ chất sống, dù cuộc sống đang tàn tạ, nhưng nhất quyết không để chất sống có trong chất lửa của mỗi chúng ta bị vùi chôn bởi cái bạo trên trần thế này.
Cời than khéo léo sẽ gặp lại lửa hồng, nếu lửa hồng trở lại thì cuộc sống còn đây, và chất sống chính là lửa đã trở về làm ấm thân, ấm đời, ấm luôn cả ba sinh (quá khứ, hiện tại, vi lai), ấm cho bây giờ và ấm cho mai sau ; cời để tự sưởi thân, cời để hơ nóng không gian mà mình đang có mặt, cõi sinh mà mình đang trú, chốn đời mà mình đang sống. Các giá trị tâm linh nằm ngay trong quyền năng của nhân tính biết cời than, cời lửa trước nhân thế đang bị đe dọa bởi cái giá lạnh của vô cảm ; hãy tin là các giá trị tâm linh này có mặt ngay trong động thái qua đồng từ cời.
Như năng lực của nhân bản biết giữ lửa, cời lên và cời mãi như biết ôm ấp chất sống trước các cái bạo, cái tà làm nên cái tàn, cái tắt, đang rình rập để thổi tắt luôn một chút lửa còn trong thể lực ta, một thể lực được làm nên bởi trí lực cộng sức cùng tâm lực và khi cả ba lực này nhập một, ta tự cho phép ta gọi tên nó là : linh lực (sức mạnh của tâm linh), luôn muốn bảo vệ cái lửa như chất sống để đẩy xa cái lạnh, cái tàn của cái chết. Hãy giữ lửa, hãy cời than như cời thân, hãy cời lên bằng thể lực, trí lực và tâm lực, để có tổng lực của linh lực, để vượt thoát mọi thăng trầm nhân thế, để vượt thắng của mọi mọi ám lộ của ba sinh.
Lê Hữu Khóa
(11/08/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Vùi sáng tạo Việt
Vùi sáng tạo Việt là bạo sách của bạo quyền độc đảng với trận đồ vùi lấp đi sáng kiến Việt biết cứu nước và giữ nước đã có nhân bản của gióng nòi Việt ; là tà sách của tà quyền độc đảng với đồ hình vùi xóa đi sáng tạo Việt đã có nhân phẩm của dân tộc Việt ; là ma sách của ma quyền độc đảng với ma trận xóa tẩy đi sáng lập Việt đã có nhân tri của con người Việt biết lập quốc, vì biết yêu tổ quốc và hy sinh vì tổ quốc.
Vùi sáng tạo Việt là phần III của Triệt luận dựa trên ba chuyên ngành đã làm nên tiến trình khoa học xã hội và nhân văn biết dựa vào liên minh tinh khôi với khoa học thực nghiệm có khoa học thần kinh mệnh danh là khoa học não bộ trợ lực để ba chuyên ngành sau được thăng hoa : giáo dục học, hiện tượng học, tri thức học.
Lý luận trên tri thức để tri thức -sự hiểu biết- trở thành kiến thức...
Tri luận : tri thức dựng trí thức
Tri luận xin được hiểu là luận trên tri ; lý luận trên tri thức để tri thức -sự hiểu biết- trở thành kiến thức, được mô hình hóa, được công thức hóa qua lập luận, diễn luận và giải luận để trở thành lý thuyết luận, từ đó ta có thể dùng lý thuyết như kỹ thuật, như công cụ của trí thức để nhận diện, phân tích, giải thích, phê bình các hiện tượng của nhân sinh, nhân tình, để hiểu rõ về nhân tính, để nhận rõ nhân phẩm, để thấu rõ nhân tri trong nhân thế. Tuổi trẻ soi để có tuổi trẻ sáng, nếu biết soi để sáng, thì phải biết tự soi sáng để trưởng thành, soi sáng để có sáng suốt, có sáng suốt thì sẽ có tỉnh táo, sáng suốt và tỉnh táo luôn là bạn đồng hành với trí khôn, lực của sự thông minh.
Tuổi trẻ trước hết là một thế hệ vào tuổi trưởng thành cùng lúc phải xây dựng tương lai bằng nghề và nghệ để làm nên nghiệp của kiếp người. Tuổi trẻ là một thành phần của xã hội, nếu may mắn, sẽ được được hệ thống giáo dục gầy dựng qua học lực để nhận học hàm để có học vị trong xã hội ; qua chuyên ngành để có chuyên môn, để được công nhận là chuyên gia. Tuổi trẻ còn là một nhân tố sinh động của xã hội có hoài bão, nên có lý tưởng vì biết nhận ra các giá trị của nhân tính, nhân phẩm, nhân đạo. Tuổi trẻ chắc chắn là một sinh lực sống động của dân tộc, của đất nước, tiếp nhận những giá trị hay, đẹp, tốt, lành, của tổ tiên, trước là để bảo vệ các giá trị tâm linh của tiền nhân, sau là tìm cách làm hay hơn, đẹp hơn, tốt hơn, lành hơn những gì mà ông bà, cha mẹ đã làm được trong quá khứ, trong lịch sử.
Cuộc đời của mỗi tác nhân trước hết là thân thể của cá nhân đó, trong thân thể không chỉ có thể lực (nội lực của thể chất), mà còn có tâm lực (nội công của tâm hồn) có cảm xúc, biết cảm động, để được đồng cảm với đồng loại ; trong đó trí lực (nội chất của tri thức) biết lý luận để phân tích, biết lập luận để giải thích, biết diễn luận để phê bình, biết giải luận để nhận diện các giá trị của nhân sinh, nhân tình, nhân thế. Thể lực có thể già theo tuổi tác, nhưng tâm lực không để các chuyện xấu, tồi, tục, dở tác động vào nhân tính, nhân nghĩa, nhân từ, vì nó luôn được trí lực bảo vệ bằng nhân tri, nhân trí, nhân phẩm. Thể lực có thể bị già, nhưng tâm lực không để bị xói mòn, nhờ trí lực soi-để-sáng cả kiếp làm người, để sống sao cho đúng, tức là sống sao cho đáng sống !
Ý niệm khi rời định nghĩa để trở thành khái niệm, sẽ là gốc, rễ, cội, nguồn cho lý thuyết (mô hình tổng hợp của kiến thức tổng kết), từ đó ý niệm chuyển dần thành ý lực, đủ sức cõng, bồng, đội, gánh các hệ thống tri thức để đưa vào ý muốn, rồi tạo tiền đề cho ý định, lấy các lý hoàn chỉnh, bày các luận chỉnh chu để tạo ra ý nguyện vì biết nghĩ trúng để sống đúng, để kiếp người là cơ may, mà không là nghiệp chướng. Ý nguyện đủ bản lĩnh để tạo ra tâm nguyện làm nền, gốc, cột, trụ cho nhân sinh quan của chúng ta để ta được sống cao, sâu, xa, rộng trong kiếp người.
Ý nguyện đủ tầm cỡ để tạo ra thiện nguyện làm nên chất, thể, vai, vóc cho thế giới quan của chúng ta để ta sống với tha nhân bằng từ tâm, vị tha, bác ái. Ý nguyện đủ gân cốt để tạo ra trí nguyện dùng tri để tạo trí, dùng lý để tạo luận cho vũ quan của chúng ta, biết lấy tôn trọng chúng sinh để quý yêu muôn loài. Trong một chế độc độc đảng toàn trị, xin ra tham nhũng trị, thì sự thật không còn nguyện vẹn nữa, vì sự thật này đã bị bóp méo ngay từ đầu. Chỉ vì thực chất của chiến dịch chống tham nhũng này mang nội chất của chuyện thanh trừng nội bộ, trong chuyện thanh toán lẫn nhau giữa các lãnh đạo đang có xung đột với nhau vì tư lợi. Chính câu chuyện địa phương tưởng là cục bộ của chùa Ba Vàng hiện nay không còn là một thí dụ đơn lẻ, mà là một trường hợp trong một thực thể, một phần tử của một tổng thể nói lên sự sa đọa của chế độ hiện nay đang thật sự tha hóa Việt tộc.
Sự thật xuất hiện trong xã hội không đơn thuần như sự chứng minh một định đề toán, không thuần chất như giải nghiệm sự thật qua thí nghiệm của các ngành khoa học thực nghiệm hóa, lý, sinh… Sự thật xã hội là một mạng lưới có dây dưa rễ má trong sinh hoạt xã hội, có gốc, rễ, cội, nguồn trong đời sống xã hội, nơi mà quan hệ xã hội bị thao túng bởi những tư lợi ; người ta giấu một sự thật vì người ta có quyền lợi trong sự che giấu đó, là nền cho sự dối trá của kẻ muốn bảo vệ tư lợi của mình. Trí trong quy luật tiến hóa của nhân loại, qua đó ta biết thêm nhiều để hiểu sâu hơn hệ nội (nội chất, nội hàm, nội công) của nhân tính, cụ thể là để thấu suốt hơn số kiếp của con người, thân phận của cá nhân trong nhân thế.
Giáo luận : quá trình tha hóa giáo dục Việt
Một bạo quyền khi có chính quyền sẽ đi từ thô bạo hóa tới bạo động hóa giáo dục vừa qua tuyên truyền, vừa qua công an trị, từ kiểm soát lý lịch tới tẩy não học sinh. Một tà quyền khi nắm chính quyền sẽ đi từ gian lận hóa tới biến chất hóa giáo khoa vừa qua học vị, vừa qua học hàm, từ tráo học thức tới xóa học lực. Một ma quyền khi bám chính quyền sẽ đi từ sa đọa hóa tới vô luân hóa giáo trình vừa qua buôn bằng bán cấp, vừa qua mua chức bán quyền, từ lừa thầy phản bạn tới buôn dân bán nước. Không gian của giáo dục, nguyên tắc của giáo khoa, thời gian của giáo trình, cấu trúc của giáo án trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang hoàn toàn bị bạo quyền lãnh đạo đưa vào mê lộ ; bị tà quyền tham quan dẫn vào hoạn lộ ; bị ma quyền tham nhũng đẩy vào tử lộ.
Đề nghị nghiên cứu giáo dục học qua trường hợp của Việt Nam, với hậu quả phá sản hoàn toàn của ngành giáo dục hiện nay, qua kinh nghiệm quản lý giáo dục (nhưng phản giáo dục) của Đảng cộng sản Việt Nam, độc đảng trong độc tài nhưng bất tài về tổ chức giáo dục. Giáo dục học giao luận, tức là trao luận qua lý luận, lập luận, giải luận và diễn luận, nơi mà giáo luận có sức thuyết phục phải hợp lý trong hệ thống giáo dục, phải chỉnh lý trong tổ chức giáo dục, từ giáo khoa tới giáo trình, giáo án. Tôi đề nghị chọn ba chuyên ngành vừa có các đóng góp tích cực trong nhiều năm qua tại các quốc gia văn minh đã thành công về giáo dục, mà cũng vì ba chuyên ngành này đã rất sắc nhọn trong lý luận giáo dục. Vì không có giáo luận thì sẽ không có nền tảng cho giáo dục, không có phương pháp cho giáo khoa, không có định hướng cho giáo trình, không có mô thức cho giáo án. Nên, giáo chọn luận vì biết "chọn mặt gởi vàng" :
Khoa học giáo dục là khách quan hóa các kinh nghiệm của giáo dục để chế tác ra một hệ thống giáo dục hợp lý với hiệu quả cao từ đó quản lý quá trình trao truyền kiến thức, tri thức, trí thức… Tại đây chỗ đứng của đạo lý, đạo đức, luân lý cũng được truyền đạt như một quá trình của tri thức nơi mà chân, thiện, mỹ, được trao nhận song đôi với các kiến thức khoa học. Từ đó, cả hai song hành với nhau, không những để đào tạo chuyên môn, mà để hình thành vai trò của công dân trong một xã hội, có giáo dục sáng suốt cùng khoa học, được giáo dưỡng tỉnh táo cùng đạo lý.
Triết chính trị giáo dục, mang nội lực tổng kết của triết học vì có khả năng lý luận và lập luận trước các vấn đề cốt lõi của nhân sinh, biết sánh đôi cùng chính trị học để hiểu giáo dục phải có hệ thống hoàn chỉnh qua chính sách của chính phủ dưới vai trò chủ đạo của chính quyền. Và giáo dục học là kết quả hạ nguồn được định hướng bởi thượng nguồn của lý luận chính trị : dân tộc muốn đào tạo đạo đức gì cho các thế hệ tương lai ? Quốc gia muốn công dân có vai trò gì trong việc bảo vệ và phát triển đất nước ? Nếu không rõ ràng về lý luận, không mạch lạc về lập luận trong chính trị giáo dục thì sẽ thất bại thảm hại trong giáo dục như Việt Nam hiện nay. Biến hệ thống giáo dục là nơi mà bọn đầu nậu giáo dục đột nhập vào các tổ chức giáo dục để mua bằng bán cấp, để chúng lũng đoạn bằng tà quyền của mua chức bán quyền, và khi bọn đầu nậu đã thành bọn đầu cơ trong giáo dục thì chúng sẽ buôn dân, bán nước như trò đùa của chúng !
Xã hội học giáo dục, nghiên cứu tác động của giáo dục vào đời sống xã hội, khảo sát các kết quả của giáo dục vào sinh hoạt xã hội, điều tra về các hậu quả của giáo dục qua các quan hệ xã hội. Nơi đây, giáo dục không những đào tạo ra các công dân có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với đất nước, từ đấy công dân này không còn là một cá thể riêng biệt, mà đã trở thành chủ thể biết sống chung với cộng đồng qua hợp tác ; biết lao động chung với tập thể qua các phương án xã hội, nhất là chủ thể này có sáng kiến để có sáng tạo ra các đề nghị, các quyết định, các hành động… trợ lực cho xã hội được thăng hoa.
Linh luận : chiều sâu tâm linh Việt tộc
Nếu các giá trị tâm linh sắc về trí tuệ, nhọn về lý trí, thì các giá trị phải là kết quả của một quá trình lập luận cao về tư tưởng, sâu về triết học, tức là rộng về nhân tri, và hề không dính dáng gì tới các chuyện mê tin dị đoan mà học thuật không kiểm chứng được, kinh nghiệm không thí nghiệm trọn vẹn được. Nhưng khi nghiên cứu về các giá trị tâm linh biết củng cố nhân lý, biết phục vụ nhân trí, biết thuyết phục nhân loại tinh anh hơn, giúp nhân sinh tỉnh táo hơn, dìu nhân thế và dắt nhân tình theo các tri thức mà sự sáng suốt của nhân trí giữ vững được các giá trị của nhân đạo, các giá trị tâm linh rất khác các sự thật của khoa học, các chân lý của triết học, các lẽ phải của luân lý tuyệt đối. Các giá trị tâm linh chọn đường đi nẻo về cho riêng nó, tại đây phải hiểu cách định vị (như các chỉ báo) của các giá trị tâm linh, để lần tìm ra cách định nghĩa các các giá trị này :
Chiều sâu của các giá trị tâm linh là chiều cao của linh hồn, một chiều cao biết nâng nhân tri cụ thể là biết yêu theo chiều cao của hướng thiện những gia trị bị xem là tầm thường trong cuộc sống, tại đây minh triết cùng đạo đức biết nhập nội để chế tác ra các giá trị tâm linh ; làm được chuyện mà Platon đặt tên là sự bất tử của linh hồn. Chiều sâu của các giá trị tâm linh luôn bắt đầu bằng sự đánh giá tỉnh táo, sự phân tích sáng suốt, luôn bình tĩnh chọn con đường để thực hiện cái tốt, nó mang theo nguyện vọng làm nên ý chí biến cái tốt thành hiện thực. Socrate phân tích chiều cao của các giá trị tâm linh là ý chí muốn làm tốt cái tốt.
Chiều sâu của các giá trị tâm linh, không phải là chuyện của lý trí tuyệt đối, càng không phải là chuyện lý trí suông, nó chính là sự cẩn trọng không những là khẳng định các lý trí tốt, mà nó phải trở thành các triết lý của cuộc sống được quyền sống còn, nên nó không cực đoan quyết định, và không bao giờ quá khích trong hành động. Các giá trị tâm linh cũng không phải là chuyện khoa học chính xác, mà là chuyện triết đúng lúc, lý đúng cảnh, luận đúng thời, lấy bối cảnh để hiểu nhân sinh, lấy hoàn cảnh để tìm đáp số, lấy tâm cảnh để tư duy, nên nó tìm cách giải quyết ít nạn nhân nhất, cách trả lời ít đổ vỡ nhất, nó tìm cái hợp lý thấu tình để có lối ra, mà không ai phải là nạn nhân cho thời cuộc. Aristote gọi tên nó là thế giới của sự thông minh làm nên sự thông thái, và lắm lúc nó không lệ thuộc vào thế giới thông suốt sự thật của khoa học.
Chiều sâu của các giá trị tâm linh chỉ thật sự là giá trị khi nó là sự cẩn trọng trong sáng suốt và là khẳng định của sự can đảm, cẩn trọng ngược với liều lỉnh, can đảm trái với hèn nhát. Các giá trị không bao giờ "liều mạng" để "tử vì đạo" mà "xem rẻ mạng người", nó cũng không hề "ba phải" để "lòn lách" mà làm "nhục kiếp người", nó cẩn trọng cho nhân sinh và nó can đảm bằng chính bản thân nó, nên nó ngược lại hoàn toàn với sự "né tránh" để tồn tại, "lẩn trốn" để "thoát thân", vì nó dụng chân lý, biết dùng sự thật để tạo lối thoát cho những ai "lầm đường lạc lối" sa lầy trong "mê lộ" đang đi tới "tử lộ" mà cứ tưởng đang đi trên "sinh lộ".
Chiều cao của các giá trị tâm linh mang tính tiên tri mà nhân sinh kiểm chứng được, đó là tầm vóc của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cứu cùng lúc nhà Mạc và nhà Nguyễn ra khỏi vũng lầy của vua Lê, chúa Trịnh. Chiều cao của các giá trị tâm linh khi được chứng thực bởi sự cẩn trọng và sự can đảm, Montaigne đặt tên cho nó là sự thông minh linh động biết thích ứng trong biện chứng vì biết giữ trí và giữ tâm.
Chiều sâu của các giá trị tâm linh có trong ý nguyện muốn cái tốt có mặt trong cuộc sống để chống lại cái xấu có cha sinh mẹ đẻ là cái ác ; nhưng các giá trị tâm linh luôn mang theo sự cẩn trọng không những trong định nghĩa thế nào là tốt mà còn bắt con người phải rõ ràng từ cứu cánh tới phương tiện, luôn phải cẩn trọng hơn nữa khi chọn lựa phương tiện, khi đã có cứu cánh tốt rồi. Plotin tin rằng chiều cao của các giá trị tâm linh làm nên đạo đức của ý nguyện muốn làm tốt cuộc sống từ cứu cánh tới phương tiện, từ thượng nguồn của tư duy tới hạ nguồn của hành động.
Chiều sâu của các giá trị tâm linh khi lấy sự cẩn trọng làm giá trị cho đạo đức, thì nó trở nên sinh động khi phối hợp sự cẩn trọng luôn song hành trong các giá trị của luân lý về bổn phận và trách nhiệm. Các giá trị tâm linh luôn biết điều phối sự cẩn trọng như sức mạnh của tư duy biết cái nào là cái tốt cho mình và cho người khác, nó mang trọn vẹn một quá trình suy ngẫm, nó mang toàn bộ các kết quả tâm định và trí định để làm nên thiền định trong tỉnh táo và sáng suốt, mà St Thomas đặt tên cho nó vòng tròn khôn ngoan biết chứa cả hai, vừa cẩn trọng, vừa đạo đức.
Chiều sâu của các giá trị tâm linh biết dựa vào ý muốn đi tìm tri thức để hiểu sự vận hành của nhân tri, nó luôn song hành cùng với ý nguyện của nhân sinh muốn tồn tại bằng nhân phẩm trong nhân thế, mặc dù nhân loại đang đầy dẫy các xáo trộn, các hỗn loạn của nhân tình. Weber đề nghị muốn có các giá trị này nhân tri phải thấy sự quan hệ chặt chẽ giữa đạo lý của ý chí và đạo lý của trách nhiệm, khi cả hai có mặt để phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, thì chính cái trí của cái tri sẽ giúp cuộc sống thấy ra cái sinh của cái có, cụ thể là quyền năng của nhân trí sản sinh được các giải đáp lối thoát mới cho nhân lý, để nhân tri nhận ra lối thoát mới cho nhân thế.
Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của nội dung lý trí, mà còn là chiều sâu của tư tưởng Việt mang văn hiến riêng của Việt tộc. Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của trí tuệ, mà còn là chiều rộng của lịch sử Việt mang văn minh riêng của Việt tộc. Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của nhân phẩm Việt, mà còn là chiều dài của bản sắc Việt luôn biết mở cửa để song hành cùng văn hóa Việt. Cao, sâu, rộng, dài có độ bền của đạo lý đã được thử thách, có độ vững của đạo đức đã biết vượt qua thăng trầm ; đạo lý bền biết đi trên lưng cái cực đoan để vượt thoát cái vô minh, đạo đức vững biết đi trên vai cái quá khích để vượt thắng cái vô tri.
Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện lý thuyết, vì trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "thấy thương quá" tới tự lời nói thật bình thường của những người có lòng vị tha, muốn chia sẻ tức khắc nỗi khổ niềm đau với tha nhân. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện trừu tượng, vì trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "nghe mà thương" tới từ một câu nói ngắn gọn của những người có lòng bao dung, muốn chia sẻ tức thì sự đồng cam cộng khổ với đồng loại.
Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện viễn vông, vì trong quan hệ hằng ngày, mọi người có thể thấu được câu "càng nhìn càng thương" tới từ một phản xạ nhanh nhẹn trong sáng suốt của những người có lòng rộng lượng, muốn chia sẻ tức thời chuyện đồng hội đồng thuyền với đồng bào mình. Đạo Phật biết mang hiện thực này đến để chia sẻ với Việt tôc về vô lượng tâm qua các Tâm kinh : "nhìn đời bằng mắt thương" để làm sáng lên lòng vị tha, lòng bao dung, lòng rộng lượng của Việt tộc.
Câu chuyện tâm linh không quan hệ gì tới câu từ tâm linh bị lạm dụng trong ngôn ngữ hiện nay bị mê hoặc bởi mê tín về cõi âm nào đó mà nhiều thành phần xã hội hiện nay đang bị lôi kéo, để bọn đầu cơ mê tín trục lợi ngay trên mê lộ của họ. Tuệ giác của tâm linh kết hợp thuần thạo sự thật, chân lý, lẽ phải để tạo ra cái đẹp của đạo đức, cái hay của đạo lý, cái tốt của luân lý, từ đó tuệ giác tâm linh luôn ngược hướng, trái chiều với mê tín, vì nó mang sự tỉnh táo của lý trí, sự sáng suốt của trí tuệ, có liên minh cứng cáp là minh triết trong lý luận, có minh luận trong hành động.
Tuệ giác của tâm linh thấy đường đi nẻo về của nhân tính, nhận ra nhân vị nhờ nhân bản, hiểu rõ nhân tri nhờ nhân từ, thấu sâu nhân đạo nhờ nhân nghĩa. Mê tín bị mê hoặc trong mê lộ còn đang mò mẫm dưới chân đồi, thì tuệ giác của tâm linh đã tới đỉnh núi với nhân cách thư thả của nhân tri thư thái để nhận diện mọi chân trời mà không bị một trở lực nào vùi, lấp, che, choáng được. Đó là tuệ giác từ bi của Phật tâm đã nhập vào thơ của Phạm Thiên Thư : "Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ". Nơi đây, nội công tâm linh mang tính thiêng liêng với các giá trị đạo đức tối cao bắt con người lầm đường lạc lối phải suy nghĩ lại, phải cân, đo, đong, đếm lại từ hành vi tới hành động của mình để tìm lại con đường hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý. Nội công tâm linh không phải là chuyện thể lực thuần túy, mà là chuyện của trí lực biết bao dung, là chuyện của tâm lực biết dung thứ : phải dung kẻ dưới mới là lượng trên (Nguyễn Du).
Có tầm vóc, có nội công sẽ có bản lĩnh, nhưng các giá trị tâm linh không cần bản lĩnh của xảo thuật để thành công, cũng không cần bản lĩnh của mưu lược để thoát hiểm, nên không cần luôn bản lĩnh của mưu trí để tồn tại trong tính toán. Các giá trị tâm linh được sống ngay trong ánh sáng của chuyện con người yêu cái đẹp, thích cái hay, quý cái tốt, trọng cái lành, nó vượt lên nên vượt xa chuyện tính toán để lời lỗ, để hơn thua, để đọ tài, để thi sức. Bản lĩnh của các giá trị tâm linh tự tin nên tự tại, tự trọng nên tự do trước mọi mưu kế, mưu đồ, nó đi trên mọi cái đầu của vị kỷ, nó đi xa hơn mọi con tính ích kỷ, vì nó đại trí nên nó thoải mái trên đại lộ của mọi nhân lộ.
Trong khu vực của tam giáo đồng nguyên, khi đánh giá về các loại chiến thắng trên mọi mặt trận từ chính trị tới quân sự, từ văn hóa tới giáo dục, từ luân lý tới đạo đức… người xưa xếp loại từ thấp lên cao : thắng nhỏ là thắng mà phải dùng : lực ; cao hơn là chiến thắng khi biết dụng : trí, cao hơn nữa là dùng : đức, và cao hơn cả là thắng là nhờ : đạo ! Đây là toàn thắng. Đạo của nhân đạo tới từ chính nghĩa có lý luận làm nên chính đạo, mang giá trị của nhân đức, có nhân trí của nhân tính, có nhân lý của nhân vị, có nhân văn của nhân bản, tầm vóc của tâm linh chắc chắn là ở đỉnh cao giữa đức và đạo.
Thắng được đối phương với sự khâm phục của đối phương, với tầm vóc giúp đối phương cùng thắng với ta, từ đó đối phương không còn là đối thủ, nên không bao giờ trở thành tử thù với ta. Mà ngược lại, chính đối phương tìm tới ta, tiếp nhân sinh quan vị tha của ta, nhận thế giới quan rộng lượng, đón vũ trụ quan khoan dung của ta ; đây mới là toàn thắng qua đạo ! Thắng vinh quang, thắng bền vững vì biết "cải tử hoàn đồng" cái xấu, tồi, tục, dở giúp nó hóa thân vào cái hay, đẹp, tốt, lành. Hãy nhận ra tầm vóc của Nguyễn Trãi : lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo, để thấy tầm vóc tâm linh Việt tộc.
Khi đi từ trên xuống dưới, bắt đầu bằng đạo, đi tiếp tới đức, qua nẻo của trí, cùng lúc tránh xa lực (bạo lực), mẹo (mưu kế) vì chúng quá thấp so với các yêu cầu của các giá trị tâm linh, nhưng tác giả sẽ đi trên hai con đường luôn cần sự có mặt của tâm linh để vấn nạn các khổ đau mà Việt tộc đã cam nhận trong lịch sử cận và hiện đại của mình. Cấu trúc lý luận của tiểu luận sẽ bắt đầu bằng tâm đạo để đi tìm chiều cao các giá trị tâm linh thừa kế của tổ tiên, nhận diện được sự đặc sắc của các kinh nghiệm tâm linh của Việt tộc, nhất là qua các kinh nghiệm của Thiền tông, từ đời Trần tới cõi tâm linh mà thiền sự Thích Nhất Hạnh đã trao truyền cho thế giới.
Rồi đi tới tâm đức đã có từ lâu trong sáng tác thi ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và tiếp tục trên con đường tâm trí qua nhiều tác giả, nơi mà tâm linh chính là trí lực của nhân lý. Theo chiều sâu lịch sử của Việt tộc, tiểu luận dừng lại trước các oan khiên của đất nước, để hiểu tâm cảnh qua hoàn cảnh của chiến tranh, tâm phận qua hậu quả của nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ XX vừa qua, cuối cùng là đi sâu vào tâm nạn tới từ bạo quyền độc tài lập nên nhà tù cải tạo sau 1975, giờ đã tới tà quyền là "hèn với giặc, ác với dân" để cảm nhận bi nạn của Việt tộc. Tâm đạo, tâm đức, tâm trí trong các giá trị tâm linh là để giúp người vì quý người. Tâm cảnh, tâm phận, tâm nạn trong các giá trị tâm linh để cứu người vì thương người.
Các người đã diệt
Ngữ nghĩa linh hồn của mô thức Hàn Mạc Tử
Các giá trị tâm linh chính là các giá trị biết vượt thoát sự lẻ loi, để vượt thắng chuyện mình bị bỏ rơi ! Ảnh Hàn Mạc Tử qua nét vẽ của Trần Thế Vĩnh
Thi ca với trạng thái tâm linh theo mô thức Hàn Mạc Tử, không có chỗ đứng, ghế ngồi trong thi đàn từ khi các người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trước là cướp chính quyền sau là độc quyền trong độc tài nhưng bất tài trên mọi lĩnh vực của tâm linh. Các người không có một lãnh tụ nào bình phẩm trong đứng đắn, đàng hoàng, tử tế về phạm trù thi ca của linh hồn Việt, trong chế độ của các người không có :
"Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi".
Trong hoạn nạn, mà trường hợp của Hàn Mạc Tử là hoạn bịnh, khi con người lâm bịnh mà biết đó là trọng bịnh thì chính trong nan bịnh con người đó đã cảm nhận là mình đã gần cái chết hơn gần sự sống, vì cái hoạn giờ đã thật sự thành cái họa. Cái nan bịnh làm tăng khoảng cách giữa người bị bịnh và người không mang bịnh, nó tạo ra cái khoảng cách (thật khốn kiếp) giữa người và người, nên người ta không cách xa nhau hàng ngày, hàng dặm mà cách xa hàng thế giới. Cái thế giới không bị bịnh không nhận ra vì không hiểu được, không thấu được nỗi khổ niềm đau trong thế giới của người lâm trọng bịnh. Bi đát nhất là kẻ mang hoạn bịnh phải tự tìm cách đứng xa những ai không bị bịnh, để tránh kẻ khác phải chịu, phải nhận, phải gánh nỗi khổ niềm đau của mình. Cõi riêng tư của kẻ mang hoạn bịnh là tạo ra sự tự cô lập, rồi vô tình hay cố ý người bịnh sẽ sống trong sự cô độc, rồi nhận chịu chết dần chết mòn trong cô đơn. Bạn ơi, nên bắt đầu suy nghĩ về các giá trị tâm linh của kẻ mang hoạn bịnh trong cô lẻ.
Nhưng các giá trị tâm linh chính là các giá trị biết vượt thoát sự lẻ loi, để vượt thắng chuyện mình bị bỏ rơi ! Thoát để tự mình tạo khoảng cách với nhân sinh, rồi thắng là mình không bỏ nhân tâm, và dụng nhân tâm đó để thấy nhân tình, để tiếp tục yêu nhân thế. Đó là câu chuyện của Hàn Mạc Tử : "Lặng nhìn trong mộng miệng em cười. Em cười anh cũng cười theo nữa", các giá trị tâm linh biết lặng nhìn trong mộng để thấy được miệng em cười, mà cũng là để biết trong nan bịnh mình vẫn tỉnh táo để "mộng", vẫn sáng suốt để nhận ra nụ cười của sự sống. Để làm gì vậy ? Để nhắn hồn em đã tới nơi, để nhắn tâm hồn kẻ không bịnh, đang sống, đang đẹp với nụ cười là đã tới nơi ; mà nơi đây là nơi có tâm hồn của thi sĩ, có linh hồn của kẻ mang trọng bịnh, đang tự gầy dụng một cõi tâm linh để vượt thoát nan bịnh, để vượt thắng hoạn bịnh, để tự cứu mình : Níu hồn ai ? Vì muốn vớt ai ?...
"Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta
Ta muốn vớt ai ngoài sóng điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn da".
Câu chuyện tâm linh là trí tuệ biết tạo ra một vùng tâm cảm mới, với một tư tưởng tinh khiết mới, làm chỗ dựa cho tuệ giác sống với người và không bỏ rơi ai cả, tại đây nhân cách sống đã trao thân gởi phận cho nhân tâm sống. Trí tuệ của tâm linh là lấy nhân tâm sống để điều tiết và điều chế nhân cách sống. Trong tâm lý học ý thức, James tin là có một cái tôi hoàn toàn cá nhân (Moi personnels), giúp ta luôn ở trạng thái sáng suốt nhất của ý thức, luôn gắn bó với sự sống chung quanh, từ đó tạo dựng ra cái tôi chủ động (Moi dynamique) để giữ vững chủ thể ý thức, liên tục có mặt trong nhân tính ; và James đưa ra hình ảnh một con chim vừa biết vượt giông tố, còn biết luôn cách tránh vực sâu, lách núi nhọn. Hàn Mặc Tử sống trọn vẹn với ý thức luôn biết mở rộng vũ trụ quan của chính mình, chính nhờ vũ trụ quan này mà thi sĩ đã tin vào các giá trị tâm linh Ta muốn níu hồn ai, vì Ta muốn vớt ai. Một người mang nan bịnh như Hàn Mặc Tử đã có tầm vóc tâm linh níu để vớt, vì muốn cứu để giữ.
Ý thức của níu-để-cứu đã đi xa và bay cao hơn trọng bịnh của thi sĩ, câu chuyện này vượt xa hơn câu chuyện tự cứu mình, và nó cao hơn câu chuyện về nghệ thuật sống chỉ thấy cái đẹp cho riêng mình. Tư duy tâm linh tạo có dũng lực tạo ra một luồng ý thức để trả lời hai câu hỏi cốt lõi của cuộc đời mỗi người, câu thứ nhất : "Ta muốn gì ?", câu thứ hai : "Ta muốn trở thành loại người nào ?" trong cuộc sống hữu hạn này. Loại câu hỏi dựa trên động từ trở thành, thì động từ này chính là thượng nguồn của mọi hành động thôi thúc các giá trị tâm linh phải nhập cuộc để trợ duyên cho đời, để trợ lực cho người.
Đây là quyền năng làm nên sự bật dậy của tâm linh, thúc Hàn Mặc Tử ra khỏi hoạn bệnh, thoát khỏi nan bịnh, có khi còn vượt thắng cả trọng bịnh, đang băng hoại thể chất của thi sĩ. Nếu có được một giá trị tâm linh mới là sẽ được vào một vũ trụ mới, ngoài cái quỹ đạo của thần chết đang đục mòn thân xác ông :
Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian
Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực.
Nếu có giá trị tâm linh rõ và mạnh thì sẽ có ý thức muốn sống còn, giờ đây đã thành ý lực của chất sống, chan hòa ý nguyện, mang tầm vóc quyết đoán của tâm linh, kịch liệt không để cái chết đe dọa cái sống. Tại đây, ý lực chính là dũng lực của tâm linh, không để cái họa đe dọa cái người :
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều…
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.
Trong tác phẩm Phản xạ tâm lý (Automatisme psychologique), Janet đã nhận ra được là có những tác hành tiềm thức (actes subconscients), làm lệch các quy luật của mọi thể chất đã có chỗ đứng trong thực tế, có lẽ theo tôi thì các tác hành này đi lại để thường xuyên thăm viếng các giá trị tâm linh, giúp ta sống còn qua thử thách thập tử nhất sinh, giúp ta sống sót qua thăng trầm một đi không trở lại trước lãnh thổ của cái chết. Trong các trào lưu nổi bật của khoa học thần kinh, có công trình của Henry Ey đã phân tích được là một con người có ý thức là con người khi nó chủ động được thời gian tính bằng ý thức của chính mình. Từ thời gian tính này, Penrose tin rằng có một nguyên tắc ý thức, giúp chủ thể ý thức làm được chuyện đi ngược dòng thời gian.
Đừng tự cô lập mình mỗi lần đối diện với các giá trị tâm linh, chính sự cảm nhận sâu xa về các giá trị tâm linh muốn : níu ai để cứu ai, có mặt để chế tác ra hai tuyệt chất mới : thanh khí (souffle pur), và tinh anh (l’intelligence vive), minh chứng cho sự có mặt của tâm linh muốn giữ cuộc đời, một ý thức về thân phận làm người trước vũ trụ, từ đó tạo nên sự sáng suốt riêng, để tìm tới thanh khí, bằng cái tinh anh :
Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt…
Anh đã gặp hồn em đang chới với…
Chúng ta biến, em ơi thành thanh khí…
Cho tan ra hòa hợp với tinh anh.
Ý lực của tâm linh khi đi tìm thanh khí là để tạo ra cái đồng cảm với vũ trụ, để người được thăng hoa giữa đời. Và trên con đường đi tìm một ý thức mới này, con người còn tạo được một nhân sinh quan mới cho mình, nó không nhỏ hẹp kiểu "ếch ngồi đáy giếng", mà nhân sinh quan này chan hòa trong thế giới quan của níu ai ? Trong vũ trụ quan của cứu ai ? Tâm hồn tấm gương soi :
"Hồn là ai ? Là ai ? Tôi chẳng biết
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không ứa ngậm cười
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng".
Tâm linh có phải là cõi lung linh nhưng long lanh của tâm hồn ? Muốn tìm câu trả lời thì phải đặt một tiền đề là tâm hồn là gì ? Linh hồn là ai ? Mà bao lâu nay, triết học phương Tây cứ đặt nó ngoài thể xác, chắc bẩm là nó cao hơn thân xác, sống còn với thân thể nhưng có nó luôn làm thể hình của cá nhân được nâng lên, cao lên, rồi triết học trân trọng đặt nó vào khu vực của siêu hình học, ở ngoài hình thể vật chất của con người. Rồi bây giờ khoa học não bộ tức là thần kinh học lập lại liên minh với tri thức luận để xếp loại siêu hình học vào các phạm trù của tưởng tượng, tức là phản khoa học, vì tất cả chuyện của con người đều được quyết định bởi bộ óc. Kể cả chuyện tâm hồn rồi linh hồn đều do bộ óc quyết định, con tim chỉ là một bắp thịt giúp máu chuyển động để nuôi các tế bào của thân thể, nó không đóng một vai trò gì cả trong tình yêu, tình thương, tình cảm của tâm hồn, của linh hồn.
Câu chuyện của các giá trị tâm linh không phải là đặt nó trong con tim hay khối óc, cũng không phải là chuyện siêu hình học hay thực hình học của khoa học, mà là chuyện khả năng của trí tuệ, tiềm năng của tuệ giác của con người có làm được chuyện tấm gương soi được thế giới muôn thể, của vũ trụ vạn năng chung quanh ta hay không ? Hình tượng tấm gương muốn soi để thấy và thấy để hiểu được thế giới muôn thể, của vũ trụ vạn năng, thì bản thân tấm gương này phải có thể lực, trí lực, tâm lực ngang tầm với thế giới, với vũ trụ. Cụ thể là tấm gương này có xứng đáng đứng ngang tầm với bản lĩnh của thế giới quanh ta, không chỉ có con người mà có cả thiên nhiên, môi trường với bao sự sống ; nó có xứng đáng đứng ngang hàng với tầm vóc của vũ trụ đang bao bọc, che chở chúng ta hay không ? Các giá trị tâm linh phải có nội công loại nào ? Để trả lời các câu hỏi này.
Hãy lấy câu chuyện thế giới quan và vũ trụ quan của Hàn Mạc Tử để làm cầu nối giữa tâm hồn và tấm gương, để nhận ra câu chuyện Hàn Mạc Tử là dùng thi ca để nhập nội vào tâm linh học. Một chuyên ngành muốn ra đời thì phải biến các kiến thức của mình thành các lý thuyết luận phổ quát, biến các tri thức của mình thành các phương pháp luận chỉnh chu, biến giải luận của mình thành khoa học luận chỉnh lý. Hãy bắt đầu bằng câu chuyện : Hồn là ai ? Là ai ? Tôi chẳng biết, hồn là tâm hồn hoặc linh hồn vẫn chưa là chuyện hay, mà chuyện hay và lạ ở đây là : Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi, tai sao lại cợt ? Vì cợt là để tìm hiểu xem con người có đủ lực, đủ tài, đủ tầm hiểu Hồn là ai không ? Và, khi con người bắt đầu hiểu được về chuyện tâm hồn, linh hồn tức là câu chuyện của tâm linh (tâm hồn-linh hồn) thì môi đầy hương, và khi hiểu thấu các giá trị tâm linh thì được : Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng !
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề có hai kinh nghiệm mà cũng là hai vốn quý của Hàn Mạc Tử đã trao cho Việt tộc là mỗi lần ta tìm đến các giá trị tâm linh ta sẽ có một cõi : đầy hương với bao ánh sáng ! Vì các người là những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, độc tài nhưng bất tài, cái bất tài của các người là cái trống vắng đến thảm hại những ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp trong mô thức thi ca Hàn Mạc Tử.
Các người đã diệt
Nhân tâm của mô thức Hữu Loan
Suốt đời nhà thơ Hữu Loan sống chính trực, khí phách
Trong sự nghiệp cướp chính quyền rồi độc quyền bằng bạo quyền, các người không hề có các định nghĩa lý thuyết về giá trị tâm linh. Đừng xa nhân thế, đừng lánh nhân tình, mà hãy nhìn sâu vào nhân tính để thấy rõ nhân tâm, rồi lấy điểm khởi hành là nhân từ, để đi trên con đường nhân đạo mà tìm tới tâm linh. Hãy dụng chữ nhân vì người-vì đời, để nâng niu các giá trị tâm linh, và các giá trị sẽ xuất hiện rành rành trước mắt chúng ta, với gốc nhân ái của chúng, luôn làm chỗ dựa cho nhân tính, có rễ sâu của của nhân từ qua cái tâm làm nên nhân tâm, bạn ơi, đây chính là địa chỉ, nơi cư trú của các giá trị tâm linh.
Các giá trị tâm linh có nguồn, có cội là nhân tâm, nên các giá trị này không cần tôn giáo để tồn tại, không màng tới tư tưởng để đứng vững, càng không thiết tha gì tới ý thức hệ để hoạt náo nó trong nhân thế, và càng xa lạ với chuyện mê tín, dị đoan nơi mà người ta tưởng tâm linh qua đồn đại là có liên hệ với cõi âm, mà mắt thường không thấy được, và phải nhờ thầy bùa, cô ngải chúng mới xuất hiện.
Có chuyện lạ là các giá trị tâm linh luôn được coi là thiêng liêng, và chuyện thiêng liêng này không hề liên can tới ma quỷ, thánh thần gì cả, nó thiêng liêng ngay trong nhân từ, nhân nghĩa, nhân tâm làm nên nhân thiêng. Tại đây, con người cũng có tầm vóc như Thượng đế, Chúa, Phật, thánh thần… để làm được những điều hay lẽ phải, vì nhân sinh quan của nhân tâm (mà Phật giáo gọi là vô lượng tâm) cũng có bản lĩnh bao la như thế giới, cũng có tầm vóc mênh mang như vũ trụ.
Hãy kể chuyện của bác Hữu Loan, đứa con tin yêu của thi ca cận đại, tác giả bài thơ Màu tím hoa sim, được quần chúng yêu thơ bầu là bài thơ tình hay nhất của thi ca hiện nay, mà bác cũng là một trong những nạn nhân của bạo quyền độc đảng phản tâm linh. Khi Đảng cộng sản Việt Nam tác yêu tác quái với tà quyền trong sinh hoạt văn nghệ dưới sự đồng lõa của loại thi sĩ tà tâm như Tố Hữu để hãm hại những tác giả của Nhân Văn Giai Phẩm sau những năm của Cải cách ruộng đất, thì số phận thi ca và phần số công dân của bác Hữu Loan đã bị đẩy tới đường cùng. Bác Hữu Loan nhận nghiệp bất đắc dĩ với một nghề mới : "thồ đá", khiêng đá sống qua ngày, mà bác xem như một nghề bình thường, không coi là nhục hình, chấp nhận số kiếp mới với tất cả liêm sỉ của mình, giữa thanh bần có cái cao thượng của thanh bạch, dù đời sống hằng ngày rất thanh đạm, chắc cũng nhờ vào cái tâm của nhân tâm.
Hãy cứ ở lại trong thời kỳ sắc máu của Cải cách ruộng đất 1956-1958, cái tâm của nhân tâm trong bác Hữu Loan đã có : bác cứu vớt một cô gái bị bỏ rơi giữa đời sau khi cha mẹ, gia đình của cô gái này bị các tên đồ tể của cuộc thảm sát này giết hại. Bác còn thành hôn, lập gia đình với cô gái ấy, trước những con mắt cú vọ của đám bút nô ma bùn, trước các lời đe dọa bỉ ổi của đám tuyên giáo ma xó. Và, bác trai cùng bác gái đã thành bạn đời đầy nhân vị trong một chế độ phản nhân văn, chống nhân bản để diệt nhân tính, cặp vợ chồng này bất chấp mọi thù hằn của bạo quyền công an, mọi rình rập của bọn tà quyền văn nghệ, mọi kỳ thị của bọn ma quyền bồi bút.
Tình yêu đầy thử thách này, tình yêu ngập thăng trầm này tự nó mang theo các giá trị tâm linh của nhân tâm, xin bạn hãy cùng tôi gọi nhân tâm của bác Hữu Loan là nhân thiêng, nó thật thiêng liêng vì người-biết-cứu-người, mà không cần tới thượng đế, đạo giáo, thần thánh… Vì giá trị tâm linh này chỉ được chế tác bằng chất tâm của nhân, mà cả đời nó không hề sợ bất cứ một ý thức hệ nào dọa nạt nó, một bạo quyền độc trị nào hăm dọa nó.
Nhân tâm của Hữu Loan chính là nhân thiêng của Việt tộc biết cứu vớt những nạn nhân của bạo quyền trong cải cách ruộng đất, nơi mà các người là những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vừa giết người qua đấu tố, vừa triệt nhân tâm Việt qua nhiều thế hệ. Nhân tâm của Hữu Loan đi trên vai não bộ của các người, nhân thiêng của Hữu Loan đi trên đầu não trạng của các người.
Các người đã diệt
Những sớm mai xanh của Hoàng Cầm
Nhà thơ Hoàng Cầm
Các người đã truy diệt Hoàng Cầm trong Nhân văn giai phẩm, các người vẫn tiếp tục vùi dập nhân tài thi ca của Việt tộc sau ngày đất nước hết huynh đệ tương tàn, mà thủ phạm cũng chính các người. Các người chắc không sao có tầm vóc để cảm nhận các thi tứ của Hoàng Cầm trong Chào sớm mai :
"Bỏ lại sau lưng hoàng hôn ráng đỏ
Gậy nghiêng mình chào những sớm mai xanh".
Vô tâm linh lại vô giáo lý, các người đâu biết tự đào thật sâu tâm hồn của mình để nhận ra các giá trị tâm linh, vì con đường tự do đang sâu lắng, đang hiện diện trong mỗi chúng ta. Như vậy, muốn đi tìm cõi tâm linh thì hãy tìm ra con đường đi tới cõi đó, muốn nhận ra các giá trị tâm linh, thì phải để đẩy đủ thời gian đi tìm ra các giá trị ấy. Và, trên các nẻo đường đi này, ta đã có niềm tin vui sống để nuôi hy vọng sống vui, với tâm hồn rộng mở, chỉ cần thêm sự nhạy cảm với nỗi khổ niềm đau, với nỗi vui điềm phúc của nhân sinh, lấy sự cảm thông để cõng, bồng, bế, nâng cái nhạy cảm này.
Con đường đi tìm cõi tâm linh, có kho tàng là các giá trị tâm linh, bạn hãy giữ trọn công thức : Hãy làm hơn cái tôi đã có bằng cách vượt cái tôi đang có ! Để tìm bạn, tìm thầy, như tìm các linh hồn mới, cũng chính là sự thông minh mới ; một cái tôi mới và khác sẽ biến cái tôi nhỏ bé trở thành cái tôi mênh mang. Mà Plotin thẩm định là một tâm hồn trọn vẹn biết ở trên cao ! Nhưng không phải ở luôn trên cao, vì là tâm hồn rộng mở nên tâm hồn này lên xuống qua lại, để tiếp người, để nhận đời, để yêu cuộc sống hơn. Hoàng Cầm, chỉ cho Việt tộc con đường đó.
Muốn đi trên một con đường tâm linh hoàn toàn mới này, để tìm cõi tâm linh, có châu báu là các giá trị tâm linh đang đợi ta, thì bạn phải biết : Bỏ lại sau lưng hoàng hôn ráng đỏ, bỏ mà không thương tiếc, vất nó sau lưng để gạt đi khổ lụy của màu đỏ độc tài đảng trị diệt nhân phẩm bằng vô thần, giết nhân tâm bằng vô cảm, qua bao cuộc chiến thảm khóc làm nên màu đỏ của máu, máu của đồng bào, máu của dân tộc... Bỏ nó không khó, vì nó đã đỏ trong hoàng hôn, trong buổi xế chiều của nó, trong giờ tàn gục của nó.
Các người không hề biết chuẩn bị hành lý nhân tâm làm nên nhân phẩm mà thong thả trong thư thái, cứ thong dong trong thảnh thơi, hãy song hành cùng chiếc gậy (nhân tính làm nên nhân tri) của bạn, lấy cái vị tha mà ung dung trong nhân cách, lấy lòng rộng lượng mà nhàn hạ trong nhân dạng, vì bạn đang đi về phía thật đẹp mà : "Gậy nghiêng mình chào những sớm mai xanh".
Các người không biết nghiêng mình chào nhân nghĩa, như chào sự thông minh vừa ra đời, chúng ta sẽ biết đón nhân lý, biết tiếp nhân trí, như tiếp bạn đồng hành tâm giao, đắc khí với ta. Mà chào, tiếp, đón, nhận để làm gì ? Để chữa lành nhân sinh quan của các người đã bao năm bị nghẹn lưỡi bởi tuyên truyền vô minh ; để chữa trị thế giới quan của các người đã bao năm bị què quặt bởi bạo quyền vô tri ; để chữa khỏi vũ trụ quan của các người đã bao năm bị thui chột bởi đảng quyền vô tri.
Các người đã diệt
Những tấm lòng Việt đẹp trong mô thức của Nguyễn Bính
Nhà thơ Nguyễn Bính được tái hiện sinh động qua nét cọ của họa sĩ Trần Thế Vĩnh
Tôi đã gặp không biết bao nhiêu là cán bộ, lãnh đạo các cấp khác nhau, tôi nhận ra họ không biết cảm nhận Những tấm lòng Việt đẹp trong mô thức của Nguyễn Bính :
"Em lo gì trời gió…
Em lo gì trời mưa…
Em lo gì mùa hè…
Em tiếc gì mùa thu…
Em cứ yêu đời đi…
Ta cứ yêu đời đi…".
Một bài thơ đẹp trong bình dị của một thi sĩ dễ thương luôn thảnh thơi trong tình yêu thì có giá trị tâm linh gì ? Mang được chiều cao tâm linh nào cho câu chuyện về các giá trị tâm linh ? Chắc là có, vì khi ta soi rọi sâu vào các động từ lo gì rồi tiếc gì để tìm tới các hành động cứ yêu đời đi ta sẽ thấy, sẽ nhận ra các đoạn đường tâm linh của bản lĩnh biết gạt ra khỏi cuộc sống những lo toan (vì có gì đâu mà lo !), để thấu một nội công biết tiếp nhận hành tác : cứ yêu đời đi.
Không lo gì rồi không tiếc gì để cứ yêu đời đi là một thái độ của minh triết, mà cũng là là một hành động dựa trên một động cơ tâm linh, vì không lo, không tiếc gì để yêu đời chính là nội chất của tâm linh. Minh triết đi tìm cái an trong an nhiên tự tại, còn tình cảm khi đi tìm các giá trị tâm linh thì nó đâu muốn an, đâu muốn yên, đâu muốn rút vào chuyện an phận thủ thừa, nó giục con người bằng động từ : cứ yêu vừa can đảm, vừa thiêng liêng ; nhất là yêu đời, yêu sự sống, yêu người… để giành tình cảm thiêng liêng (tâm linh) cho những ai xứng đáng được ta yêu. Sự khác biệt của tâm linh là nó không yên, vì nó muốn long lanh, nó luôn loáng lên để thúc người ta đi về hướng yêu, vì nó biết chắc bẩm là hướng yêu này : vừa hay lại vừa đẹp vì chúng vừa tốt lại vừa lành !
Các người đã diệt
Nguồn yêu thương thời Thơ Mới của Xuân Diệu
Muốn tìm nguồn yêu thương của Xuân Diệu thì phải cảm nhận được chuyện có-và-không-có trên cõi đời này để nhận ra chiều hướng tâm linh Việt tộc
Trong hành tác lãnh đạo bằng cuồng quyền của độc đảng, thì không sao các người cảm nhận được nguồn yêu thương trong mô thức Xuân Diệu. Muốn nghiên cứu về tâm trạng của con người, khi con người nhìn lại chính cuộc đời của mình để tự đánh giá mình, thì con người luôn cảm giác là mình yêu trễ và cảm nhận chậm khi được người khác yêu mình, chính chuyện cảm giác bị trễ-cảm nhận bị chậm này rất cần sự đánh giá về cuộc sống, mà tại đây các giá trị tâm linh là thước đo để đúc kết giá trị một đời người. Triết gia Jerphagnon khi nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Âu châu để hiểu tại sao các minh sư triết học ngày càng đi sâu vào minh triết để hiểu các giá trị tâm linh.
Nơi đây, minh triết là minh lộ để con người tới được các chân trời tâm linh, tại các chân trời này con người sẽ thấy các kinh nghiệm của nhân phẩm, luôn song hành cùng các trải nghiệm của nhân văn. Tại các chân trời tâm linh này, con người sẽ nhận ra rồi nhận rõ các giá trị của cuộc sống, để hiểu tại sao lại có chuyện trễ, tại sao lại có chuyện chậm ? Platon khi được Jerphagnon soi rọi qua cấu trúc triết học của chính Platon, luôn đi tìm để phân tích quan hệ giữa con người, linh hồn và thượng đế ; nơi mà mỗi con người sống trong cuộc đời như đi trên một con đường, và trên con đường đó con người gặp-nhận-hiểu-thấu nhân vị của linh hồn, nhân sinh qua thượng đế, mỗi lần gặp-nhận-hiểu-thấu như vậy con người luôn tự đặt cho mình câu hỏi tại sao ta gặp-nhận-hiểu-thấu : trễ như vậy, chậm như vậy ?
Augustin là trường hợp mà Jerphagnon ở lại thật lâu trong nghiên cứu của mình, trước hết St Augustin có tất cả các thành công trong xã hội, bằng tinh hoa của học thuật dựa trên tinh anh có trong sự thông minh của ông ; nhưng năm 33 tuổi Augustin đã bỏ tất cả để đi tìm thượng đế, vì nếu nhận ra thượng đế thì sẽ hiểu linh hồn là gì ? Cũng với sự thông minh xuất chúng của mình, Augustin không rơi vào chuyện mê tín, dị đoan, hoang tưởng, mà ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế với tấm lòng kính cẩn tuyệt đối. Nhưng khi ta đọc kỹ tác phẩm Confessions (xưng tội) của ông, người ta nhận ra ông mượn chuyện xưng tội là để vinh danh nhân phẩm của nhân loại. Như vậy, chuyện ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế có thể chỉ là một cái cớ chăng ? Cớ để ông biến đối thoại thành độc thoại, ông độc thoại với thượng đế để đối thoại với đời, với người, với chính thân phận của mình. Một cuộc độc thoại luôn muốn tìm con đường tâm linh để đi lên, lên cao, cao mãi để được ngang tầm với thượng đế. Như vậy sự thông minh làm nên nhân tri có thể hiểu được và thấu được sự thông minh của thượng đế ; cho nên các giá trị tâm linh, tự chúng là những con đường cao tốc, cho phép chúng ta sử dụng tốc độ cao, để tới các đích xa, mà không làm trễ cuộc đời của chính mình, không làm chậm sự thông minh của nhân tri có trong mỗi cá nhân.
Pascal là trường hợp mà Jerphagnon thấy được cái ý thức của con người luôn khiêm tốn để tỉnh táo, luôn khiêm cẩn để sáng suốt, để nhận ra tâm trạng trễ, tâm cảnh chậm khi con người đứng trước các chân lý của khoa học, các sự thật của nhân sinh, các lẽ phải của đạo đức. Pascal luôn tìm định nghĩa để giữ định đề, giữ định đề để không lạc đề khi phân tích và giải thích mọi giá trị, từ toán học tới triết học, từ ngôn ngữ tới nhân sinh. Và khi vào để phân tích và giải thích các giá trị tâm linh, con người sẽ có định hướng qua định nghĩa của ngữ vựng rồi từ đó mà đi tìm ngữ pháp rồi ngữ văn cho các chiều hướng của tâm linh.
Trong không gian học thuật để khảo sát các giá trị tâm linh của Việt tộc, chúng ta không có Platon, St Augustin, Pascal mà cũng không có luôn minh sư như Jerphagnon, vì ngay trên thượng nguồn định đề về thượng đế không có mặt trong văn hiến của Việt tộc, vì chúng ta đã chọn Trời, chọn Phật rồi. Nhưng không phải như vậy là chúng ta không có gì cả ! Không biết gì hết ! Chúng ta có rất nhiều, chỉ cần chúng ta dò lại, xem lại, không qua tư tưởng, không qua triết học, mà qua thi ca. Thí dụ về câu chuyện mình luôn cảm giác là mình yêu trễ và cảm nhận chậm khi được người khác yêu mình, câu chuyện cảm giác bị trễ-cảm nhận bị chậm, thì ta cứ trở về cõi thơ của Xuân Diệu : Tôi buồn nhìn lá hồng tuôn… Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương…
Ở đây, câu đầu có cái buồn khi nhận ra cái tuôn, tại đây cái rơi, cái tuôn, rụng tràn ngập theo bao sự mất mát, thấy sự vật rơi rụng như tuôn mà không làm gì được, chỉ thấy buồn, buồn vì tiếc, tiếc về sự rơi rụng chính là sự mất mát mà chúng ta không cảm nhận được trọn vẹn trước khi chúng rơi, rụng, tan.
Các người là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam muốn tìm nguồn yêu thương của Xuân Diệu, thì các người còn phải cảm nhận được chuyện có-và-không-có trên cõi đời này để nhận ra chiều hướng tâm linh Việt tộc ; cụ thể là mỗi lần chúng ta đọc để hưởng các tác phẩm của Platon, St Augustin, Pascal, thì chúng ta phải tự trở lại tâm linh Việt để thấy đầy đủ rồi nhận trọn vẹn cái đẹp và cái hay của Xuân Diệu. Từ đây, các người sẽ hiểu là chiều cao tâm linh của nhân loại làm nên chiều sâu tâm linh Việt tộc !
Các người đã diệt
Nguồn sinh linh của Trần Dần
Trần Dần qua nét vẽ của Trần Thế Vĩnh
Đây là nạn nhận đầy nỗi khổ niềm đau cả một nhân kiếp đã bị các người là các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam vùi dập từ phong trào Nhân văn giai phẩm. Nhưng các người không hề hiểu gì về Nguồn sinh linh tràn đạo lý của Trần Dần : "Càng chết tôi càng bất tử". Câu chuyện tâm linh thường hay qua lại giữa cõi sống và cõi chết, nhưng nếu con người định nghĩa đúng về cái sống và cái chết, thì các giá trị tâm linh sẽ giúp con người phân biệt được : cái sống trong chướng nhục và nhận cái chết trong tinh anh. Đó là câu chuyện của bác Trần Dần, bị bạo quyền độc tài đầy đọa nhiều năm sau oan án Nhân văn giai phẩm 1956-1960 ; bị tà quyền văn nô hãm hại liên tục cho tới thế kỷ mới, năm 2000 ; bị ma quyền bút nô trù dập cho tới ngày qua đời.
Nên thi ca của Trần Dần là sự sáng đi tối về của các giá trị nhân tâm sắc nhọn, nhận chướng kiếp và nhận luôn tử kiếp. Khi thế kỷ mới tới, bác đặt câu hỏi : "Ai tăng cửa sinh ? Ai rình cửa tử ?", vì bạo quyền, tà quyền, ma quyền vẫn quanh quẩn bên nhau, quyện lấy nhau để thành âm binh, trùm phủ bóng tối của chúng lên số phận của Việt tộc, chúng rình rập để đe dọa sự sống. Mặc cho âm binh rình rập, nội dung tâm linh có trong thi ca, vì thi ca là ngã tư của bốn nhân tố : tự do đưa nhân tri gặp nhân tính, tự chủ dắt nhân lý gặp nhân phẩm, tự tin dìu nhân tâm gặp nhân từ, tự trọng dẫn nhân cách gặp nhân bản.
Khả năng của hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) khi nhập nội vào tiềm năng của hệ nhân (nhân tri, nhân tính, nhân lý, nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ, nhân cách, nhân bản) sẽ làm nên hùng lực tâm linh, để phân tích sâu xa cõi sinh, cõi tử. Từ đây, cá nhân sẽ thấy mình có cá tính để trở thành cá biệt, để tách xa âm binh ; từ đó lấy số phận của chính mình để tra, suy, xét, đoán nhân sinh, để trả lời cho bạo quyền, tà quyền, ma quyền là mọi sự sống đều thiêng liêng. Mọi sinh vật đều là sinh linh, mỗi sinh mạng đều thiêng liêng, mà không một bạo quyền, tà quyền, ma quyền nào có thể diệt mà không bị truy, phán, phạt, xử, đây là luật và là quyền của tất cả sinh linh muốn sống bằng giá trị tâm linh của mình. Trong lao lý, trong nhục hình, trong khổ sai, chính sinh linh với các giá trị tâm linh của mình đã bắt đầu tra, suy, xét, đoán để giúp lịch sử và pháp luật truy, phán, phạt, xử bọn bất nhân, thất đức qua lời của thi sĩ :
Tha cho tôi. Tôi chưa đánh vỡ gì cả
Tôi chỉ đánh vỡ của mọi người một mảnh sống : đời tôi.
Không ai tin là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thâm thấu những thi từ này !
Và nếu lịch sử cùng pháp luật không thực hiện được công lý truy, phán, phạt, xử, thì chính nhân sinh sẽ bị mất mọi chân trời :
Có những chân trời không có người bay
Lại có những người bay không có chân trời.
Mất chân trời không những là mất tương lai, mà còn mất luôn các giá trị tâm linh, tại đây nếu con người không tự bảo vệ được các giá trị thiêng liêng, thì mất chân trời là mất lối thoát, là mất hẳn nguồn sinh linh của mọi sinh mạng, và sinh linh sẽ rơi vào tay của âm binh. Câu chuyện của khả năng của hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) khi nhập nội vào tiềm năng của hệ nhân (nhân tri, nhân tính, nhân lý, nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ, nhân cách, nhân bản) làm nên hùng lực tâm linh, bây giờ đã trở thành sự thông minh của tự do, sự thông thái của nhân tri : đây là định nghĩa về nội chất của tâm linh !
Hãy trao sự thông minh của tự do, sự thông thái của nhân tri các lối thoát về phía chân trời tới các nạn nhân của bạo quyền, tà quyền, ma quyền mà bản chất là tục quyền (ngược hẳn với thanh lực của tâm linh, vì luôn biết giảng thanh khi bị đố tục). Ở phía chân trời, con người không phải cúi đầu trong nhục hình, khoanh tay trong khổ ải, quỳ gối trong đọa đày, mà con người là những cánh chim tự do, tự do bay, tự do lượn, và nhất quyết không chấp nhận chuyện cúi, khoanh, quỳ, gục trong âm khí của âm binh. Rồi từ đó, khởi duyên cho các giá trị tâm linh để các giá trị này khởi xướng tuyên ngôn là không chấp nhận kiếp tù : Hãy thù ghét mọi lao tù nơi thân ta rữa mục.Tôi không tin các người là lảnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thâm thấu những thi từ này !
Khi các giá trị tâm linh được định hình, thì các giá trị này đau đáu trong mất ngủ, vì thao thức với mọi nỗi khổ niềm đau của nhân sinh, chết đi rồi mà không vơi, không yên trước cái đau của đồng loại : Chết đi tôi vẫn mất ngủ/ Eo ôi, chết vẫn không yên. Tôi không tin các người là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thâm thấu những thi từ này !
Khi thi sĩ lấy cái chết làm điệp khúc cho bài thơ của mình, thi từ chết được nhắc đi nhắc lại, để tạo nên cái không còn sợ chết nữa ! Giờ đây, thi từ chết làm nổi lên, làm thức dậy, làm sống lại nhân phẩm mà không một bạo quyền nào có thể dùng nhục hình mà mô hình hóa nó theo tà khuôn, và đây là tuyên ngôn của hùng lực tâm linh : Càng chết tôi càng bất tử. Khi cái bất tử đã vượt lên cái chết, thì cốt lõi của tâm linh vẫn là sự tha thứ : Hãy ôm lấy thế giới này, tha thứ cho nó. Tôi không tin các người là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thâm thấu những thi từ này !
Các người đã diệt
Sung lực tạo hình của mô thức Nguyễn Gia Trí
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí qua nét vẽ của Trần Thế Vĩnh
Có lần nào trong cuộc đời chỉ biết độc đảng trong độc quyền, độc trị trong độc tài nhưng bất tài của các người đã thấy để thấu một tác phẩm sơn mài nào mà có một nghệ thuật vô cùng thoải mái, phóng khoáng đi cùng với một kỹ thuật tinh tế, sắc nhọn, mà tôi chưa gặp trong sơn mài Việt Nam, cũng chưa hề thấy trong sơn mài Nhật Bản hoặc Trung Quốc.
Có lần nào trong cuộc đời chỉ biết cực quyền trong cuồng quyền, xưng danh là vô sản nhưng đích danh là vô học các người nghe được tâm sự của họa sự này : "Vấn đề không phải là trừu tượng hay không trừu tượng, mà đây là tác phẩm thử thách lớn trong cuộc đời nghệ thuật tạo hình qua sơn mài của tôi. Qua bức Âm dương này, tôi muốn thực hiện cho bằng được màu vàng trên cánh con gián, một thử thách đã lấy rất nhiều công sức của tôi".
Trong khi đi tìm cái đẹp mới, thì kẻ sáng tạo đã có ý định là dứt khoát với cái cũ, với ý muốn là cắt các quan hệ với cái cái bình thường, cái thông thường, cái thông dụng, cái thực dụng đã có mặt trong mỹ quan, trong thói quen, trong xã hội. Cái đẹp mới dưới dạng một tác phẩm của sáng tạo, nó cùng lúc tạo một khoảng cách, một tách biệt, một chia lìa với cái cái bình thường, cái thông thường, cái thông dụng, cái thực dụng. Chính đây không những là lối đi của nghệ thuật hiện đại thế kỷ thứ XX, mà còn là ý tưởng của phái siêu thực (surréalisme). Kinh nghiệm hay nhất tại Việt Nam vẫn là của danh họa Nguyễn Gia Trí dùng tự do nghệ thuật của mình để tạo ra cái đẹp mới, để chọn cho mình cái tự chủ, cái tự sinh, cái tự tồn, cùng lúc làm một cuộc khai phá hoàn toàn mới không những trên kỹ thuật sơn mài mà còn mới về tư duy, ý tưởng, lý luận trong sáng tạo ra cái đẹp mới !
Các người đã diệt
Tình yêu đây là khí giới, tình thương đem về muôn nơi của Phạm Duy
Phạm Duy vượt lên cả chuyện thể phách, tinh anh của riêng mình, để tinh hoa hóa môi trường sống của đất nước qua cách tự tình dân tộc của riêng mình
Việt tộc gần với ca khúc của Phạm Duy qua cái đẹp, cái hay, cái cao, cái lành trong âm nhạc bác, tôi tiếp tục trân trọng những cái này trong việc nghiên cứu về dân tộc học, về nhân học của mình mà không để cái mê chấp của thời cuộc làm mờ nhạt đóng góp của đứa con tin yêu này của Việt tộc. Phạm Duy là người Việt hiếm hoi mà tôi thấy tuổi đời không lấn được trí lực. Lý trí khi đã thành sinh lực, nó trở thành tinh anh và tự cho phép nghệ sỹ và trí thức đi trên vai của thời gian, cụ Tiên Điền thi hào của Việt tộc đã đào sâu được chuyện này : "thác là thể phách, còn là tinh anh". Phạm Duy vượt lên cả chuyện thể phách, tinh anh của riêng mình, để tinh hoa hóa môi trường sống của đất nước qua cách tự tình dân tộc của riêng mình, cả đời nghệ thuật của mình Phạm Duy biết "trẻ hóa tình yêu", "thăng hoa yêu đương", cùng vui chia nhau những niềm thương thật hiếm hoi trong cuộc sống. Muốn làm được chuyện này trong gần một thế kỷ phải có hoài bão mạnh, ý tưởng vững, nơi mà trí lực phải dựa vai cùng ý lực, như lời Phạm Duy đã đọc khi giới thiệu đạo ca, khi phổ thơ Phạm Thiên Thư : "ý lực cứu độ muôn loài như cứu chính mình", ý Phật và tâm Phật là một. Sinh lực của Phạm Duy đủ vai vóc đồng hành với ý lực, chuyện Phạm Duy làm việc say mê dung hòa với chuyện ăn uống điều độ, sống một ngày với bác thấy rõ được việc này, tránh xa mọi nơi "chén chú, chén anh", kỷ luật tri thức rành mạch với thì giờ trước mắt, chuyện nghỉ ngơi đúng lúc giữ cho tầm vóc tư duy luôn được sáng suốt.
Phạm Duy đã tặng cho chính mình một món quà thật quý, mà thi sĩ Y.Bonnefoy, tầm cỡ loại nam tào của thi ca Pháp trong thế kỷ hai mươi, đã nói rõ được chuyện này "l’esprit sait vaincre la grisaille". Lý trí biết cách thắng cái ảm đạm, cái mờ đục, nó không chấp nhận cái đìu hiu. Không già tức là không lẩm cẩm, mà cũng là không thụ động trước các truy bức trong cuộc sống, cứ đẩy nhân tính gần về phía biên giới của thú tính. Phạm Duy luôn thấy được lối ra mỗi lần cuộc sống bế tắc, sự thụ động hoàn toàn xa lạ với cá tính quyết đoán của bác, không có cá tính này đừng tìm đến nghệ thuật, có cá tính mạnh mới trao truyền được sáng tác, kể cả những sáng tác buồn, kể cả những tác phẩm bi quan. Vì cá tính đánh thức cảm tính, vực dậy linh tính, làm thẳng lưng trí tính, mở đường cho nghệ thuật được thăng hoa ; không rũ tức là không cam nhận tai biến.
Trong chuyện vật đổi sao dời sau 1975, với hằng triệu đồng bào phải bỏ quê cha đất tổ ra đi, Phạm Duy có trong khúc ruột bị cắt điếng vất xa tắp khỏi quê hương đó. Những năm đầu tiên bác cũng hoang mang như mọi người, vì đồng bào di tản của mình bắt buộc phải vượt biên mà dân tộc mình chưa hề có kinh nghiệm vượt biển. Biển đông đã thành một nấm mồ khổng lồ vô hình của bao bạn bè, của bao quyến thuộc… nhưng Phạm Duy không rũ, không gục ; với bầy chim bỏ xứ, chủ động với nhận định "tự do là tiếng loài chim !", phải chọn lựa tự do mới bảo vệ được nhân cách của mình, phải gìn giữ tự do mới che chở được tư cách của mình, đối với nghệ sĩ và trí thức phải ôm ấp tự do mới nuôi nấng được phong cách của mình.
Có lần, Phạm Duy hỏi tôi : "Trong thiền ca, nếu chọn một câu hay nhất thì toi chọn câu nào ?", tôi thảnh thơi nhưng cũng trầm mặc trả lời : "Cháu chọn câu : "Tròn như viên đạn đồng đen, đã khô vết máu, xa miền chiến tranh", cháu chọn câu này vì nó có nội dung hòa hợp, hòa giải dân tộc !". Sau cuộc huynh đệ tương tàn trong thế kỷ hai mươi, đáng lẽ kẻ thắng là người cộng sản phải làm chuyện này, họ không làm lại để kẻ thua trận, bại cuộc làm chuyện này, thì lương tri và nhân phẩm sẽ thuộc về bên thua cuộc. Nhớ lại người xưa thật hay, như Quang Trung Nguyễn Huệ chẳng hạn, từ Nam ra Bắc, giải phóng trọn vẹn tổ quốc, khi tới Thăng Long, thủ đô thương yêu của Việt tộc, không còn một bóng giặc Thanh, vua liền bị vây quanh bởi các kẻ đầy tị hiềm dân tộc, trao tới vua một hồ sơ những người đã hợp tác với ngoại xâm, đưa đẩy vua phải mang họ ra xử, vua đã xé bản tường trình tố cáo đó, lại còn lập ngay đàn giải oan, dứt khoát xóa tất cả vết nhơ trong chuyện huynh đệ tương tàn.
Trong Đảng cộng sản Việt Nam từ khi lập đảng tới khi cướp được chính quyền cho tới ngày nay độc quyền, không có đấng minh quân loại này đã hóa giải chuyện "gà nhà bôi mặt đá nhau" để hòa giải nên chuyện "gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau". Phạm Duy nghe tôi kể xong chuyện hóa giải để hòa giải, bác liền nhắc tôi : "Moi đã làm chuyện hóa giải để hòa giải này từ lâu, hồi còn trẻ giữa cuộc chiến tang thương, trong bài Bên Cầu Biên Giới moi đã thấy hậu quả của chuỵên hận thù : "lòng tôi sao vẫn còn biên giới ?", rồi trong bài Bà Mẹ Gio Linh, ôm đầu đứa con vừa bị giặc chặt, nhưng lòng tràn đầy tình thương đồng loại : "xa xa tiếng chuông chùa réo", moi hình dung một viễn ảnh của dân tộc mình mà tâm Phật qua tiếng chuông chùa chan hòa trong không gian ; tình thương đồng loại ngân vang như chuông chùa giữa cuộc sống".
Thái Thanh hát Bà Mẹ Gio Linh của Phạm Duy
Nhạc hay là nhạc cảm hóa được mọi tỵ hiềm, cảm nhận được tình thương bao la của việc hóa giải để hòa giải, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tâm, đủ ý, đủ lực để hòa hợp được với dân tộc này, đã chịu quá nhiều thảm hoạ. Phạm Duy không coi chuyến lưu vong sau 1975 vừa qua là vĩnh viễn, phải chấp nhận kiếp lưu đày tới chết, Phạm Duy đã trở lại với quê hương, đã tìm về với dân tộc, không một xảo thuật chính trị nào có thể giật dây được thái độ này. Đừng mơ hồ và cũng đừng đánh lận con đen trên chuyện này, vì nước Việt là của mọi người Việt, không một chế độ nào, không một chính phủ nào, không một ý thức hệ nào thay đổi được chân lý này. Không nản ở đây là không để cho dân tộc này bị chia xé, không để cho đất nước này bị chia cắt, vì "tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời", cho dù "đất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu", cùng dân tộc tôi "tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ" ; đó là thông điệp âm nhạc của Phạm Duy.
Nhưng khổ đau cuộc sống hàng ngày trên đất nước đã tới Phạm Duy trọn vẹn, nhờ sức nhận định rành mạch về thời cuộc của bác, lần cuối gặp Phạm Duy tại Sài Gòn, bác tâm sự : "Đối với nghệ sĩ trên đời này chỉ có hai chế độ, chế độ ác và chế độ lành, chế độ này không lành, vì nghệ sĩ không được tự do sáng tác, kể cả tự do gặp gỡ nhau. Moi về đây đã năm năm, bị mổ, bị bịnh, bạn bè không dám tới thăm… nhưng buồn nhất vẫn là chuyện dân tộc mình còn trong lầm than, nhất là về nông thôn, đồng bào mình sống khổ cực lắm cậu à !… Có lẽ moi sẽ trở lại Mỹ, rồi viết tiếp hồi ký, cuốn hồi ký lần này, moi sẽ đặt tựa là : năm năm mặc áo giấy !". Các người là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chắc các người biết ngạn ngữ đi với thầy tu mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, Việt tộc dặn dò, chỉ bảo nhau chuyện này vừa để phòng thân đối với bọn xấu, vừa để thủ thân đối với kẻ ác, cũng vừa để tìm cách lập thân trong một môi trường lành, rồi tu thân trong cái trong. Phạm Duy đi và hát để thấu được số phận của Việt tộc đã nằm trong cái tăm tối của thế kỷ hai mươi, rời khỏi thế kỷ này không biết là mình đang cười hay đang khóc, hài kịch cõng bi kịch trong thế kỷ này vì thảm kịch đã bồng thảm cảnh trong thế kỷ qua, "nước mắt len sau từng nụ cười", vận nước nay mai rồi không biết về đâu ? nhưng đừng chùng bước trong cuộc tầm xuân : "… Người ôm nhân loại trong mình. Cười trong nước mắt cho xuân tình dấy men…".
Nhạc của Phạm Duy cũng dặn thêm cho đời chữ mất, người ta yêu và không ngừng yêu, vì đã bị mất mát nhiều, và biết vui lên khi cuộc sống trở lại bình thường : "Tình xuân chớm nở đêm qua khi mùa chinh chiến đã lùi xa ngoài đời", số phận của một dân tộc đếm bằng mùa chinh chiến. Không chờ, không đợi, sẵn sàng tìm nhau "Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu…" để gặp nhau… "Gặp nhau trong vinh dự của đời người…". Không chờ, không đợi để không vội, không hoảng, biết nhận vận tốc của thời gian như biết nhận tuổi đời, nhưng cũng biết thong thả với đời, để được ung dung với thân : "Nắng còn nắng lê thê thì đêm ơi chớ vội gì". Phải tiếp tục sáng tác, phải tiếp tục làm chứng nhân cho sự thật và lẽ phải : "Đừng ngậm miệng im hơi thành xác không hồn…", cũng chỉ vì : "… lời tôi thay cho tiếng đạn bay… lời tôi khâu vá tình thương... đừng cho ai ăn cướp tình ta… lời tôi sâu như tiếng tình yêu…". Trước sau, bác vẫn không nản : "tôi còn yêu đời, tôi còn yêu người".
Phạm Duy có nhạc thuật như rừng thẳm mang bao bài thơ vào ca khúc, trao bao thi từ cho ca khúc Việt, trong đó có Phạm Thiên Thư "Chắp tay lạy người cho xin nụ cười". Động tác nghiêm cẩn chắp tay, để khẩn nguyện, để gởi tới tấm lòng thành trên đường đi tìm tới các giá trị cao đẹp của cuộc đời, với hình tượng qua bài Chắp tay hoa, mang hình ảnh cao quý của con người lấy ý nguyện nhân tâm để tạo nên ý lực cho chính mình giữa nhân thế. Đây là một định nghĩa thuộc về hiện tượng luận của các giá trị tâm linh, qua "vô trương bất tín" (không thấy không tin, thấy rồi mới tin), vì thấy một người đang kính cẩn cầu nguyện ta hiểu người đó đang khẩn nguyện, và hình tượng chắp tay, đẹp lại đẹp hơn với nụ cười : Chắp tay lạy người cho xin nụ cười, xin nụ cười như xin sự vui sống để sống vui giữa người, giữa đời, chỉ một nụ cười là cuộc sống giữa người và người vui lên, là sinh hoạt giữa người và người sẽ hay lên, là quan hệ giữa người và người sẽ đẹp lên.
Nụ cười đánh thức chuyện hay, đẹp, tốt, lành của kiếp người, mà nó cũng là dấu hiệu của sự thức tỉnh giúp người biết gần người hơn. Chắp tay lạy trời xin đám mưa rơi, lạy trời được làm mưa để làm mát, làm mát nhân tình, làm sạch nhân thế ; mà Việt tộc còn biết biến mưa thành lửa nữa : "Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp". Những câu ca dao tưởng là tầm thường, nhưng nó mang lòng thành của một cõi tâm linh nói lên chuyện "biết ơn", vì khi "biết ơn" là bạn đã đi được một bước để vào cõi tâm linh. Chắp tay lạy đất cho mầm cây tươi ; lạy đất là lạy gốc, rễ, cội, nguồn của chính mình, lạy với sự kính cẩn của kẻ biết được mình đang sống là nhờ : đất, từ đất "đâm chồi, nẩy lộc" làm nên cây trái, nuôi người, nuôi bao sinh vật khác cùng chung sống trong chung vui với mình. Biết nghiêm cẩn để biết, để nhận sự chung sống-sống chung là đã đi được bước thứ hai vào các giá trị tâm linh rồi đấy !
Chắp tay lạy nước cho mát cõi đời, lạy nước thượng nguồn của mọi sự sống, lạy toàn thể quá trình nuôi dưỡng sự sống ; vì nếu không có cõi nước, chắc chỉ còn cõi khô, cằn, gục, quỵ, đang báo tin là sự sống đã ra đi. Nước còn làm mát cõi đời, khi con người đang bị khô trong nhân tính, rồi cằn trong nhân tâm, để gục trong nhân tri, và quỵ trong nhân vị, thì nước còn biết rửa các vết nhơ, các bẩn chất, nước sẽ mang lại cái trong cho nhân tri, và cái sạch cho nhân phẩm. Khi đã lạy người, lạy trời, lạy đất, lạy nước rồi, thì bạn sẽ vừa lạy cung kính, vừa bay trong tự do : "Tôi lạy mây bay cho trời cao rộng", lạy để được bay cao trên nhân tình, thế thái, bay cao trong nhân nghĩa, trong nhân ái. Cõi tâm linh là cõi cao rộng, chính nó là cõi của tự do, vì nhân vị cao trong nhân quyền rộng.
Khi tâm lực của bạn biết bay cho trời cao rộng, thì tâm trí của bạn đã bay thảnh thơi, bay nhẹ nhàng vào cõi tâm linh đấy :
"Tôi lạy sông trôi cho sạch sầu đời
Tôi lạy tất cả hiện hữu diệu vời
Đâu không là Phật… đâu chẳng là trời
Xin mở lòng ra cho trời đất hiện
Tâm là đạo quý…
Thần thánh đi rồi… chỉ có lòng thôi
Hiện hữu đây rồi… Không ý không lời…
Tôi không là tôi… người không là người…
Lạy cho sạch sầu đời… lạy tất cả hiện hữu diệu vời",
cho vạn vật hiện rõ nguyên hình, hiện sáng nguyên trạng trong cái đẹp tuyệt vời, rồi hòa chung vào Phật, vào trời, vào đất, nơi có tâm của bạn là đạo của cõi tâm linh, không cần thần thánh, chỉ cần lòng thành của chính bạn, vì trong đó cái tôi và cái người đã nhất quán là : một !
Việt tộc xa lạ với các bài quốc ca cổ vũ chuyện diệt thù, việc giết người vì đã chọn thù hằn để diệt đối phương, để bị đánh mất cái đức của cái tâm làm nên cái đạo của cái người. Việt tộc rất xa lạ với các khẩu lịnh sát nhân kiểu Tố Hữu : "nhìn thẳng đầu thù mà bắn", loại khẩu lệnh này gây cho chúng ta cảm giác lờm lợm, buồn nôn, chỉ vì nó không được trợ duyên bằng một chiều sâu tâm linh của cõi người. Chiều sâu tâm linh dặn dò ta là thù cũng là người, hãy vận dụng sự thông minh tâm linh để biến thù thành bạn, vì vậy trong chiến tranh diệt thù bằng cách giết thù là một hành động có thể hiểu được, vì phải giết thù để sống còn, khi thù đang tìm cách giết ta, nhưng khi giết thù rồi thì đừng xem đó là chiến thắng của nhân tâm.
Lõi nhân tâm làm nên cõi tâm linh, như vậy chiến thắng lớn nhất trên cõi người này là chiến thắng cùng với kẻ thù, cùng với đối phương, cùng với đối thủ, cụ thể là song hành cùng kẻ thù để cùng đi về phía chân trời của vị tha : sống giữa đời và sống suốt đời mà không có tử thù ! Nếu thù ai quá đổi tới độ phải thốt lên câu : "không đội trời chung" với kẻ đó, thì đây là một quyết đoán của chủ quan, có thể hiểu được nhưng ta có quyền không chấp nhận nó, chỉ vì nó không mang một giá trị tâm linh vĩnh hằng nào cả, mà ngược lại nó là sự thất bại của cõi người. Vì chuyện sống chung với người là chuyện đội trời chung với người, qua thử thách và cùng người vượt thoát và vượt thắng chuyện thảm sát nhau ; không thực hiện được chuyện này, thì thất bại này sẽ lớn lắm bạn à.
Mỗi lần có những nỗi buồn lo ập đến trong tâm hồn bạn, mang theo bao độc chất của tà quyền đang biến thành ám chất trong cõi người, với loại câu hỏi như sau, làm hỗn loạn tư duy : Tại sao Việt tộc ra nông nổi này ? Người Việt hiện nay chọn vô cảm làm phản xạ trước các nỗi khổ niềm đau với chính đồng bào mình. Tại sao Việt tộc lại đánh để mất đời sống tâm linh của nhân tâm như vậy ? Rồi gọi tên mê tín, dị đoan là tâm linh, biến cõi tín ngưỡng, từ chùa chiền tới lăng miếu, thành nơi buôn thần bán thánh có vụ lợi, để phục vụ cho tư lợi. Tại sao Việt tộc lại cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trước bạo quyền độc tài, trước tà quyền tham quan, trước ma quyền buôn người bán tình ? Mà không vận dụng chiều sâu tâm linh của tổ tiên, để biến nó thành chiều cao cho chính nhân phẩm của mình ; là đứng dậy, là thẳng lưng, là ngẩng đầu, để gạt đi cái bạo, xóa đi cái tà, vất đi cái ma, để lấy lại cái người vì cõi người.
Các người là lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thể trả lời câu hỏi này qua ca khúc Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy : Việt Nam, Việt Nam tên gọi là người… Việt Nam đem vào sông núi tự do, công bằng, bác ái muôn đời : nên chỉ có thể là nạn nhân của bao tàn phá chiến tranh, bị đổ nát sâu đậm trong tâm hồn như Việt tộc mới thấy hết giá trị của tự do, công bằng, bác ái. Vì ba định đề này là ba tiền đề cho nhân quyền, một nhân quyền bao la, đó là quyền yêu người để yêu mình, yêu đồng loại để yêu đồng bào… yêu muôn đời. Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau, Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu : Việt tộc không đòi xương máu, quyết tâm ra khỏi vòng điêu lụy của xương máu, để kêu to, để kêu xa, để kêu sâu bằng tiếng gọi thương nhau ; trong cõi thương nhau, luôn mang hai giá trị của hạnh phúc mà cũng là hai giá trị của tâm linh yên (và) vui, dài (và) lâu.
Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng soi toàn thế giới, Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời : Việt tộc sẽ đi trên con đường tương lai không bằng sự vô cảm đã bị độc chất của tà quyền ám chụp bao lâu nay, mà chúng ta sẽ đi trên con đường tương lai bằng ý nguyện của lửa thiêng để biến nó thành ý lực đủ sức soi toàn thế giới ; chính sung lực của ý nguyện và hùng lực của ý lực trao tặng cho Việt tộc bản lĩnh biết nguyện tranh đấu cho đời. Việt Nam, Việt Nam… tình yêu đây là khí giới, tình thương đem về muôn nơi, Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người : có bản lĩnh lấy tình yêu làm khí giới vì nhân phẩm Việt làm cao nhân ái ; có tầm vóc trao tặng tình thương cho muôn nơi vì nhân tâm Việt làm rộng nhân từ, có nội công với tiếng nói đi xây tình người vì nhân đạo Việt đi xa vào nhân bản.
Tại sao giờ đây trong một chế độ độc đảng vô thần, tạo nên vô tri trong xã hội, sinh ra vô cảm trong dân tộc, vì vô giác trước tiền đồ của tổ tiên, đã "vô luân hóa" các giá trị tâm linh của Việt tộc ? Dân tộc dưới tà quyền độc đảng đang đánh mất linh hồn Việt ! Nếu có một ngày nào đó, có một cuộc thăm dò ý kiến về chuyện nên chọn một bài trong ca khúc Việt nào gồng gánh được vai vóc tâm linh Việt, một bài hát có ý lực tâm linh để xây dựng lại tâm hồn Việt đã bị rã nát qua bao cuộc chiến, đã bị một chủ thuyết ngoại lại vô thần (nên vô linh) dùng độc tài vô giác để vùi dập cõi thiêng Việt từ hơn 70 năm qua, thì Việt tộc có thể chọn bài Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy.
Sự chọn lựa này không chỉ cho riêng ai, mà còn vì Việt tộc phải lấy lại chiều sâu tâm linh cho chính mình, để lấy lại chiều cao cho cả thế giới, cho mọi dân tộc, vì Việt tộc biết thương hòa bình vì thương đồng loại, như thương chính đời sống tâm linh của mình, đã bị đổ nát qua bao chiến cuộc vô nhân. Các người đang cuồng quyền trong bạo quyền độc đảng toàn trị, các người hãy bình tâm nghe kỹ bài Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy, không chỉ vì Việt tộc, mà còn vì cả thế giới này, vì Việt tộc biết thương cả nhân loại này !
Chiều sâu tâm linh giúp Việt tộc nhận ra mọi cõi : cõi tử, cõi sinh, cõi tình, cõi hận… mà sức mạnh của khoa học không nhận ra được, mà giáo dục không nhìn ra được, ngay cả đạo đức của đạo lý và của luân lý cũng không nắm bắt được. Chỉ vì cõi tâm linh là cõi có lực vận hành rộng hơn khoa học, sâu hơn giáo dục, xa hơn đạo đức, nó có đường đi nẻo về của tâm cảnh làm nên tâm cảm, tương tác liên tục với nhân thế để đúc kết ra nhân cảm. Trong nhiều cõi : cõi tử, cõi sinh, cõi tình, cõi hận… mà mỗi cõi có quy luật riêng vì có lập luận riêng, có chuyển động riêng vì có sự vận hành riêng, mà một người đã vào được nhiều cõi và đủ an nhiên tự tại để : nằm đó nằm yên mọi chốn, thì người này yêu cõi sinh nhưng cùng lúc không sợ cõi tử, và người này hiểu cõi hận nhưng không để ai đó xóa đi cõi tình của mình.
Câu chuyện mọi chốn của Phạm Duy là câu chuyện của chính cuộc đời ông, đi nhiều nên sống nhiều, sống nhiều và cũng hận nhiều vì tình nhiều, câu chuyện mà mọi trải nghiệm không hề vô thưởng vô phạt, nó chính là kinh nghiệm của sự sống đã được sống, trong mọi chốn, nên khi tổng kết cuộc đời thì ông kết luận được : tôi nằm đó nằm yên mọi chốn… Cõi tâm linh là cõi của sự sống đã được sống, nó không trên trời rơi xuống, nó không dưới đất trồi lên, thậm chí nó không xuất đầu lộ diện trong đời sống xã hội nếu đời sống xã hội đó không có các giá trị tâm linh trong quan hệ giữa người và người, nếu đời sống đó không có tầm vóc tâm linh trong sinh hoạt người và người.
Mà vắng bóng các giá trị tâm linh thì con người sẽ rời xa nhân tính, rồi sa vào mê lộ nửa nhân tính-nửa thú tính, mang nửa nhân kiếp nhưng bị đày đọa bởi nửa thú kiếp. Vì chỉ biết đói ăn khát uống mà không biết thụ hưởng nhân cảm đã có trong nhân cảnh, vì chỉ biết ăn tươi nuốt sống mà không biết tận hưởng tâm cảm làm nên tâm khảm ! Một cuộc đời mà không được trợ lực bởi các giá trị tâm linh, không được trợ duyên bởi cõi tâm linh của mọi chốn, thì chắc chắn cuộc đời này sẽ chật vì nó hẹp nhân cảm, thì chắc chắn cuộc đời này sẽ cạn vì nó đã để khô tâm cảm.
Tròn như viên đạn đồng đen, chỉ một thi từ mà mang bao khổ nạn của Việt tộc qua bao cuộc chiến, với bao triệu đồng bào đã bị mất đi sinh linh của mình, mà linh hồn Việt đã chịu bao đổ nát, bây giờ lại bị bạo quyền độc tài đã biến thân thành tà quyền độc trị vùi sâu trong vô minh làm ra vô tri, để vô giác tạo ra vô cảm ngay trong tâm khảm Việt. Hãy thấy trong từ : tròn, trong quy trình tròn trịa của nhân sinh, vì chúng ta phải đi cho trọn cái tròn, như để che chở cái hòa sẽ làm nên cái hoàn, nơi quyết lực đi tìm sự hài hòa để loại bỏ chiến tranh, từ đó hoàn tất kiếp người, phải được tròn như lý tưởng của chúng ta quyết tâm bảo vệ sự sống.
Hãy ngừng lâu hơn với từ : khô qua giòng thời gian đã làm ráo đi bao hậu quả của chiến tranh, khô thì ráo đi mọi hận thù, nơi mà mọi oán thù sẽ bốc hơi, vì sự sống mang sung lực biết quên, làm được chuyện quên thù cũ để chế tác nhận thương mới, chiều cao tâm linh biết xa cái hận cũ để tìm những cái yêu mới. Đây là tiềm lực đôi của chiều sâu tâm linh làm nên đạo đức cho nội công tâm linh, biết quên đi những cái xấu, tồi, tục, dở để con người xa rời được những cái thâm, độc, ác, hiểm, từ đó dễ dàng tìm tới những cái hay, đẹp, tốt, lành của các giá trị tâm linh được dựng lên từ gốc, rễ, cội, nguồn của cõi tâm linh cao, sâu, xa, rộng.
Sự thất bại tâm linh vô cùng lớn của bạo quyền độc đảng hiện nay là không làm được chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc, sau chiến cuộc huynh đệ tương tàn 1954-1975, để tạo dựng nên được sự chung sống (anh em một nhà) trên gốc rễ của sự chung chia (hạt muối cắn làm đôi) làm nên sự chung dạng (anh em như thể tay chân), tạo ra từ nguồn cội của sự chung vui (chia ngọt sẻ bùi). Hãy tới cõi tâm linh bằng chính tự do của bạn, bằng chính tâm hồn trong, linh hồn sáng của bạn, hãy đi trên con đường : nhân tính làm nên nhân tình ; có nhân từ biết chở che cho nhân nghĩa, từ đó mọi tuyên truyền ngu dân, mọi khẩu lịnh mỵ dân tự nhiên thành bọt bèo, rồi tự biến mất trong cõi sinh, cõi sống của bạn.
Việt Nam có nhạc sĩ Phạm Duy, có thi sĩ Phạm Thiên Thư mà nhiều dân tộc khác mơ mà không có ; câu chuyện ta có mà ta không biết đã là một cái lỗi, nhưng các người là lãnh đạo độc đảng toàn trị biết mà không giữ gìn, nâng niu, chăm sóc là một cái tội ! Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ… sương thì yếu yểu, rơi là tan, nhưng hoa cũng mong manh vậy, vậy mà hoa biết hứng đỡ sương, lấy chính thân mong manh của mình để hứng đỡ cái chóng chày, cái đang phôi pha giữa sự sống. Đây là một bài học quý về giá trị tâm linh, nếu bạn đang yếu lả, đang mong manh, bạn vẫn có thể giúp, có thể cứu những ai yếu hơn mình, mong manh hơn mình.
Tình thương thật cụ thể, vì nó không bỏ quên ai, dù kẻ cứu cũng đầy ngập các khó khăn, các thử thách, các thăng trầm, nhưng phải giúp-cứu-nâng-đỡ kẻ yếu "trước đã", còn mọi chuyện khác thì để "tính sau" ! Muôn loài như cát trắng, xin làm dòng nước trong. Khi cát đang bị nóng, đang bị khát, nếu nhân phẩm là dòng nước trong thì bạn sẽ cứu được vô vàng hạt cát ; chỉ một động thái mở lòng nhân từ để làm dòng nước trong, thì lòng nhân từ này chính là lòng nhân hậu. Muôn loài như mây lam, xin làm trời bát ngát… Hãy thấy trong trạng từ : bát ngát, cái rộng mở của cõi thương, biết thương dung dị vì đã biết thương sâu đậm ; thương để chứa, để nâng, kẻ được thương nhờ vậy mà yên tâm ; bài học tâm linh này, xin được đặt tên là : thương bát ngát !
Muôn loài như hoa thắm, xin làm một ánh dương… Bạn ơi, hoa thắm, mỗi ngày đều cần ánh dương, cần bình minh, cần rạng đông, cái sáng, cái nóng của mặt trời để được ấm thân, để nuôi thân, để "tiến thân" : nở thật sáng cho đời, thật đẹp cho người, thật mạnh cho sự sống. Bài học tâm linh đã nằm sẵn trong vũ trụ hằng ngày : hoa thắm, một sinh thể hữu hình của cái đẹp, được làm nên, được tạo ra bởi cả một vũ trụ của ánh sáng, mang sức nóng của mặt trời để sự sống tự nói lên rằng : sự sống rất đẹp ! Mỗi lần đi tìm các giá trị tâm linh trong cuộc sống, bạn đừng quên ánh dương này, không những đang ở trên đầu bạn, mà ở chung quanh bạn, đang làm ấm, làm sống bao sự sống ! Muôn loài như hương thơm, xin làm cơn gió sớm… Hãy đưa và giữ hương thơm trong cõi sống của bạn, hãy đi cùng với hương thơm trên con các nẻo đường tìm tới các giá trị tâm linh, vì nhận ra được các hương thơm là nhân cảm đang sống mạnh trong nhân tính, nhân tri.
Muôn loài như con suối, xin làm biển khát khao… Muôn loài mà chỉ như một con suối, muôn loài này tưởng bao la như cũng thật nhỏ bé, lẩn quẩn trong quanh quất qua lau sậy, vượt ghềnh thác, vì muốn ra được biển cả. Con suối này, muôn loài này, tạo tâm lực bền, trí lực vững để con suối có thể lực mạnh mà tìm đường ra biển. Vì vậy, chính Việt tộc cũng có thể là biển lớn để trợ lực, để trợ duyên, để giúp con suối muôn loài dể tìm đường ra biển, khát khao là động tự trong hành tác của các giá trị tâm linh, luôn tạo các điều kiện hay, đẹp, tốt, lành cho đồng loại, đồng bào, cho muôn loài đi về cõi cao, sâu, xa, rộng của đại dương. Biết mình là suối, nhưng muốn làm biển, đó là hùng lực của tâm linh ! Một động tự khác : Xin làm, không phải cúi đầu đi "xin việc", mà ngẩng đầu để xin làm đẹp cuộc sống bằng các giá trị tâm linh :
Xin làm màu hoa kia hoa vàng trong kiếp sống ; nơi mà hoa tự đẹp không chỉ cho riêng mình trong ích kỷ, mà làm đẹp cho cả cuộc sống, nơi mà tầm nhìn tâm linh làm nên tầm vóc tâm linh, rồi chế tác ra ngay tức khắc các giá trị tâm linh. Xin làm hạt cây nhé hoa cho đời hiện hữu xuân ; làm hạt mầm trong lòng đất, làm hạt cây để cây sẽ được làm cây, để cây sẽ tặng hoa cho đời, dâng trái cho người. Một nghĩa cử mang giá trị tâm linh luôn là một hành động có ngay trên thượng nguồn của mọi sự sống, có trong hạt, có trong mầm, và sự thăng hoa của hạt, của mầm, sẽ làm đẹp đời, sẽ nuôi người.
Đây là cái đẹp sơ nguyên của mọi cái đẹp hiện hữu ; nếu muốn luôn có hiện hữu xuân thì phải chăm lo cái đẹp sơ nguyên ! Xin làm chim gõ mõ gõ tan kiếp thăng trầm ; gõ mạnh, gõ lớn, gõ tan kiếp thăng trầm, cho người bớt khổ, cho đời bớt buồn, cho thăng trầm phải qua đi, cho trầm luân không còn ám kiếp nhân sinh nữa. Đây đích thị là định luận của các giá trị tâm linh đến để xóa đi nỗi khổ niềm đau của nhân sinh. Thơ của Phạm Thiên Thư nhạc Phạm Duy đưa thật xa nhạc điệu yêu đời ngay trong cõi tâm linh, với giọng hát của Thái Thanh ngân theo giòng đời có tiếng thương muôn loài, có tiếng thương yêu người, có tiếng thương yêu mình : Thương người như thương thân… Thương người như thương mình…
Trong sự nghiệp độc đảng trong toàn trị tự khi cướp chính quyền tới khi độc quyền luôn thiếu chữ thương ; đây là một thảm bại của các người và là thảm họa của nhân kiếp Việt tộc đang bị trùm phủ bởi cuồng quyền của các người.
Các người đã diệt
Con chim thiêng hát lời Việt tộc của Trịnh Công Sơn
Người đã vấn nạn được họa căn của Việt tộc thế kỷ vừa qua, chim thiêng hát lời mệnh bạc, còn là người nghệ sĩ biết dạy tình anh em cho dã thú giữa cuộc chiến tranh mà con người có lúc không giữ được nhân tính. Những câu anh tâm sự với bạn bè, sẽ hiểu Trịnh Công Sơn : "Tôi cần quê hương để sáng tác" ; "Sáng tác là niềm vui lớn nhất để vượt thăng trầm"… Có lần Trịnh Công Sơn tâm sự : "Phải hiểu hai chuyện để sống và sáng tác : chuyện thứ nhất "vắng mợ chợ vẫn đông", không ai trên đời này là tối cần, là không thay thế được ; chuyện thứ nhì "thiền giữa chợ" chấp nhận sống chung với đồng loại, là chấp nhận cái thanh phải chung chạ với cái tục, giữ được cái thanh, vượt lên cái tục… Thiền để tỉnh thức, để giữ lý trí sáng suốt nhưng cũng phải biết là cõi chợ là cõi hỗn nháo, nhưng không loại bỏ nó…", khoa học xã hội và nhân văn gọi những người có "gân cốt" phân tích đó là : chủ thể tri thức (sujet cognitif), biết mình biết người, biết vai vóc của cá nhân, biết tầm vóc của nhân loại.
Chủ thể tri thức tìm được cái lõi của cuộc sống, để khi trở thành chủ thể xã hội (sujet social) sẽ không bị các quy tắc tập thể hủy diệt mình, vì các chế độ độc tài, toàn trị luôn tìm mọi cách để diệt chủ thể. Chủ thể tri thức còn biết bảo vệ được chủ thể tình cảm (sujet affectif) để làm chỗ dựa của đời sống tâm linh cá nhân mình ; chủ động được ba chủ thể này trong chuyện vật đổi sao dời của năm mươi năm đất nước biến loạn vì chiến tranh, dân tộc như bị thôi miên vì các ý thức hệ không đâu, không phải ai cũng làm được. Trịnh Công Sơn tặng cho dân tộc mình vài trăm ca khúc mà tầm cỡ tư tưởng, vai vóc diễn luận nghệ thuật thuộc loại tinh đẩu của ca khúc thế giới.
Chuyện lạ là dân tộc Pháp được nhân loại xem như một dân tộc trí thức, nhưng ca khúc của Pháp không trí thức ; ngược lại có thể nhân loại xem dân tộc Việt Nam chưa trí thức, nhưng qua các sáng tác của Trịnh Công Sơn ca khúc Việt Nam đã rất trí thức. Trí thức theo nghĩa là dùng kiến thức để bảo vệ lý trí, tiếp đó sử dụng kiến thức lẫn lý trí để gây dựng đạo lý, sau cùng biết dựa trên đạo lý để sáng tạo ra cái đẹp, cái hay, cái lành đặt chúng cạnh cái đúng, cái thật, cái trong. Trịnh Công Sơn đã làm được tất cả chuyện này, Trịnh Công Sơn là đứa con tin yêu của dân tộc, trong sử Việt tộc mình chỉ có vài đứa con như vậy thôi.
Trịnh Công Sơn gần gũi gắn bó với thơ, từ ngay trong cách dựng vần tìm nhạc, làm cho biên giới giữa thơ và nhạc như không còn nữa, nhưng anh hiểu Antonio Gamoneda hơn ai hết : "la poésie n’est pas de la littérature. La poésie est révélation", thơ không phải là văn chương mà là chuyện khám phá để khai sáng, khai sáng các chân trời, khai sáng các số phận. Những năm chết chóc trước 1975. Vùng xương khô lên tiếng nói… Trịnh Công Sơn tìm được hình ảnh cho thơ để thơ là thơ, tức thơ là hiện hữu của khai sáng mặc dù kiếp người phù du. Một trăm năm như tiếng thở dài. Ý nghĩa sống giữa chết chóc chiến tranh nhiều khi không vượt được số phận Việt Nam oan khiên đắm chìm trong chuyện huynh đệ tương tàn từ 1954 tới 1975 mới dứt, xin cho mây che đủ phận người.
Các nhạc sĩ khác thích dùng hai chữ hoàng hôn, anh Sơn sử dụng hai từ tà dương, từng lời tà dương là lời mộ địa. Tà dương xuất hiện như đưa đẩy dân mình tới các chân trời thẳm, tới các cõi chìm. Những năm chiến tranh đó Trịnh Công Sơn nói rõ được nỗi đau của dân tộc. Một ngày như mọi ngày. Từng mạch đời trăn trối. Đau nặng từng lời nói. Lời thơ của anh còn vượt lên chuyện kể lể, mà theo Goethe thơ là sức nổi loạn để được sống còn bằng lời nói, vì lời nói là ý thức sống. Ta thấy em đêm đêm đòi lại tiếng nói, mặc dầu đạn về đêm đêm đốt cháy tương lai. Lời của anh nói lên lẽ sống đang phải trực diện với cái chết. Từng vùng thịt xương có mẹ có em.
Lời đây là lời của kiến thức mới chống lại cái tự hủy, cái diệt vong. Tôi mất trong chiến tranh này, bao nhiêu người tình… Người tình lớn lên từ ba miền… Những người tình chưa gặp một lần… Để hiểu thơ cận đại, có lần H.Michaux đề nghị mỗi bài thơ là một phân tích qua thực nghiệm, chữ trải nghiệm chưa đúng, thực nghiệm là nắm cái thực rồi nghiệm nó bằng lẽ sống của nhân loại nơi mà : "Tout poète connait cette impression rare : tout d’un corps et totalement se détacher de l’humanité et entrer dans un monde qui ne doit rien à personne ". Thi sĩ sẽ nhận ra được một ấn tượng hiếm : cả thân mình, toàn thể tự tách rời ra khỏi nhân loại để vào một thế giới (khác) mà thi sĩ chẳng phải nợ ai, chẳng phải mang ơn ai.
Trịnh Công Sơn biết các công thức thơ loại này, còn biết luôn cách thực hiện nó, nhưng anh không làm, vì giữa diệt vong anh đã thấy họa lưu vong của Việt tộc, nên Trịnh Công Sơn không muốn rời cái kiếp chung của đất nước, cái họa chung của dân tộc này. Mẹ ngồi ru con, nghe đất gọi thầm trọn nợ lưu vong. Có những kẻ bên này, bên kia chỉ trích hay phê phán lòng yêu nước của anh, hình như họ chưa có "thâm duyên" với dân tộc này. Muốn thâm với duyên phải sáng với trí, để thấy được đã có lần dân tộc phải chịu bao thăng trầm tủi nhục. Người nô lệ da vàng… ngủ quên… Người nô lệ da vàng… đi quên nước, quên non. Người nô lệ da vàng… xin áo, xin cơm…
Phải thấy được sự thật này mới biến nó thành ý thức để làm chỗ dựa cho lương tri, chỗ đứng cho nhân phẩm. Nghe xót xa hằn lên tuổi trời. Trẻ thơ ơi trẻ thơ ơi. Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người… Anh Sơn làm được hai chuyện, hai thử thách, một của Bo Carpelan "rester au centre de l’univers", tìm mọi cách đứng giữa vũ trụ trước mọi cơn lốc xoáy của thời cuộc, hai của Max de Carvalho "fixer les vertiges", nắm và thấu các chuyện làm con người choáng váng, để biết rõ lúc nào trái đất này sống được, lúc nào sống không được. Ghế đá công viên dời ra đường phố… Em bé lõa lồ suốt đời lang thang…
Thế hệ trước Trịnh Công Sơn, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã báo động : "Chúng tôi tuổi trẻ đầu thai lầm thế kỷ", tới thế hệ của Trịnh Công Sơn, đã làm được chuyện tổng kết lịch sử thế kỷ thứ hai mươi chỉ bằng một câu, giờ đã thành dấu ấn trong tâm linh chúng ta : "Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì". Ngọn gió hoang vu nào đã mang theo cái ác, cái sai, cái tối vào thế hệ chúng ta, để rồi cái ác hà hơi cho cái bất công, cái sai bồi sức cho cái vô nhân, cái tồi nuôi dưỡng cái cúi đầu.
Nội lực thơ của Trịnh Công Sơn, vai vóc nhạc của Trịnh Công Sơn là chối từ dứt khoát không mang những cái này vào lương tri, cũng như không bao giờ chấp nhận mang hận thù. Một bàn cơm ngon, chiếu ghế không người. Mẹ bầy cho con với nước mắt rơi… Đường về phố lớn có đoàn quân đi tim không mang hận thù... Trịnh Công Sơn còn tự dặn mình đi để quên : "Khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm… Đi để quên chuyện non nước mình…", đi đây không phải là vừa đi vừa cúi đầu, mà đi để mở ra con đường hòa hợp hòa giải dân tộc sau ngọn gió hoang vu huynh đệ tương tàn, vậy đã gần bốn mươi năm những kẻ lãnh đạo của chế độ thắng cuộc không làm chuyện đó, lời nhạc của anh vẫn chờ đợi chuyện đó để "Việt Nam ơi ! Cho mắt nhìn rạch tan căm thù".
V.Hugo dặn thi sĩ hãy làm cho bằng được chuyện "devoir contenir la somme des idées de son temps ", gồm cho bằng được mọi ý (lực) của thời mình. Thấy được mặt trời mới trong tầm nhìn tức khắc của mình. Mặt trời mặt trời đã lên, còn nhìn, còn nhìn thấy con người. Mặt trời là tương lai, Saint-Pol Roux nhận định không sai : "L’arbre de la poésie plonge ses racines dans l’avenir", cây thơ cắm rễ của mình trong tương lai, thi sĩ thấy được tương lai trước mọi người. Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm. J.Coteau nói theo cách của ông : "Le poète se souvient de l’avenir", thi sĩ biết nhớ về tương lai, Apollinaire còn rõ hơn : "l’art de prédire", thơ là loại nghệ thuật nói trước, nói trước được vì đoán trước được, nói trước người, nói vượt đời, nếu tìm về tận Baudelaire thì sẽ thấy thơ là : "une sorcellerie évocatoire" như chuyện bùa phép khơi gợi, khơi lên cái đột biến, gợi lên cái thâm sâu, Trịnh Công Sơn có cách nói riêng cho mình : Người ôm lấy muôn loài. Nằm trong tiếng bi ai.
Nhạc của Trịnh Công Sơn là trí tuệ người cẩn trọng trước chính đổ vỡ của tâm hồn mình, thơ của anh đi tìm cái thức trước khi đi tìm tương lai, chống lại cái trôi chìm của tâm linh hiện tại, từ độ í a chim thiêng hót lời í a mệnh bạc… Từng giọt í a vô biên, trôi chìm í a tiếng tăm. Hót lời mệnh bạc là kiếp thi nhân của anh, trôi chìm tiếng tăm là nỗi lo mất ký ức của mình và của đồng loại, Octavio Paz thấy trong mỗi bài thơ : "une mémoire devenue image, et image devenue voix", một ký ức đã thành hình ảnh, và hình ảnh đó đã thành lời, anh Sơn còn nghe được cả lời ký ức của mình vang động mỗi đêm : Nhiều đêm thấy ta là thác đổ. Tỉnh ra có khi còn nghe. Paul Valéry nhìn rõ được trong thơ như có sự lưỡng lự, có cái phân vân : "l’hésitation prolongée entre le son et le sens", sự ngần ngại kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa, anh Sơn thấy phân vân có băn khoăn, thấy lưỡng lự như nỗi buồn bị kéo dài ra. Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo. Cái buồn trùm phủ cái vui, cái vui báo tình yêu vừa tới, cái buồn nhắc ngay là người yêu phải đi ; cái vui nhẹ nhàng gởi tín hiệu của hạnh phúc, cái buồn áp đặt mật tin cái mất sẽ có mặt, vĩnh hằng không chỗ đứng trước phôi pha.
Thơ trong nhạc của Trịnh Công Sơn ở dạng tri thức cao -tri thức giữ cho trí thức thẳng lưng- của một chủ thể biết làm lắng đọng các biến loạn. Tôi tìm thấy tôi trên từng xót xa. Ta nghe đời rất mênh mông. Trong từng bước đi chầm chậm. Lấy sự thật làm lẽ phải, lấy kiến thức để bảo vệ ký ức, S.Mallarmé rất rõ trong chuyện này : "Les poètes seuls ont le droit de parler, parce qu’avant coup, ils savent". Những thi sĩ được quyền nói, vì họ biết trước mọi người là họ biết.
Gaston Bachelard, một triết gia yêu thơ, một nhà khoa học luận biết quý trọng linh hồn, linh hồn cái lõi của tâm hồn, một phạm trù đang bị thần kinh học tấn công tơi tả và xếp vào loại mê tính của siêu hình học, không có chỗ đứng trong khoa học ; nhưng lấy gì thay thế linh hồn để làm nghệ thuật ? Để bảo vệ tâm linh ? Nên ông vẫn tin là : "La poésie nous apporte des documents pour une phénoménologie de l’âme", thơ mang lại cho chúng ta những tư liệu để ta gây dựng được một hiện tượng luận của linh hồn. Người chết nối linh thiêng vào đời. Và nụ cười nối trên môi. Trịnh Công Sơn hay tự nhắc mình là kẻ hát rong, hát lên những chóng chày của sinh linh (từ này của Phật giáo dùng để gọi chúng sinh là sự sống thiêng liêng).
Kẻ hát rong này đứng giữa biên giới, bên này là nhân tính, một bên kia là thú tính, biết làm được chuyện bảo vệ bên này, nhưng không chận bên kia, mà triết gia J. Derrida diễn luận là : "Cette question fondamentale des limites entre l’homme et la bestialité nécessite la déconstruction pour clarifier notre volonté du savoir d’enlever l’enclos qui enferme notre prétention de savoir et de prendre soin (animaux, fous, malades, marginaux…)". Vấn đề cơ bản trong ranh giới giữa cái người và cái thú đòi hỏi con người phải biết tháo gỡ lề thói tư duy cũ của mình để thấy rõ cái ý chí của con người là gạt bỏ hàng rào, cọc đóng đang giam tù cái kiêu căng hiểu biết của chúng ta, để giúp chúng ta chăm lo kỹ hơn (cho thú vật, cho người điên, cho người bệnh, cho những kẻ đang ngoài lề cuộc sống).
Trịnh Công Sơn thấy rõ chuyện này thời chiến : Người nằm co như loài thú khi mùa đông về. Hãy nối lại tình người, để nối lại môi cười, như anh đã mơ nối vòng tay lớn, nếu những kẻ lãnh đạo hiện nay là những đấng minh quân, họ sẽ lấy bài nối vòng tay lớn của Trịnh Công Sơn để làm quốc ca, để dứt khoát xóa sạch chuyện huynh đệ tương tàn, xây lại cơ đồ của Việt tộc qua lương tri, qua nhân phẩm. M.Foucault, triết gia của triết học chống chuyện hãm tù nhân tính, ông yêu cầu còn gay gắt hơn : "d’affranchir la pensée de ce qu’elle pense silencieusement et lui permettre de penser autrement". Vượt thắng tư tưởng khi nó đang lẳng lặng suy nghĩ và giúp nó tư duy cách khác ; cách khác này Trịnh Công Sơn đã thấy, đã mơ : Một ngày kia dân ta đi dựng cờ. Dạy tình anh em cho dã thú.
Có những lời thơ bị người đời coi như không thực hiện được trong thực tế cuộc sống, nhưng lời thơ đã mở đường giữa đêm cho hy vọng lần tìm lối ra, tự người cứu người, chuyện ngoan đạo là vô ích, vì Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người. Y.Bonnefoy cảm nhận được dư chấn này của thơ, vì biết chỗ ở của nó : "... Je voudrais réunir, je voudrais identifier presque la poésie et l’espoir. Un possible apparait sur la ruine de tout possible, une attente dans la substance des mots : ils apparaissent aux confins de la négativité du langage comme des anges parlant d’un Dieu encore inconnu". Tôi gom lại, tôi muốn nhận ra thơ và niềm hy vọng. Một chuyện có thể có trên cái đã hoang tàn của những chuyện có thể làm được của đời này, đó là chuyện chờ đợi trong nội chất của chữ : chúng xuất hiện giữa lằn ranh của tính tiêu cực trong ngôn ngữ, thơ như lời các thiên thần đang nói về một thượng đế chưa có tên ; Trịnh Công Sơn hiểu phân tích này, nhưng Trịnh Công Sơn biết từ tốn hóa thơ nhạc của mình.
Một ngày còn sống góp tiếng mong manh. Thật vậy, xung quanh ta mọi sự sống mong manh quá, cái chết có lúc ngang nhiên mơ mộng giữa đời. Nằm chết như mơ. Octavio Paz tìm được trong thơ vai vóc của con người vượt được cái chết : "une machine qui produit de l’anti-histoire. L’opération poétique consiste dans l’inversion et dans la conversion du flux temporel, le poème n’arrête pas le temps : il le contredit et le transfigure, toute grande poésie doit se confronter avec la mort et être une réponse à la mort". Có thể coi thơ như một nguồn máy chống sử, phương cách thơ nằm trong sự lật ngược hướng đi của thời gian, thơ không chận được thời gian nhưng nó nói ngược và nó biến dạng thời gian, thơ có tầm vóc lớn là thơ biết đối đầu với cái chết và có câu trả lời về cái chết.
Trịnh Công Sơn còn thấy cả cái hận thù, cái đau khổ, cái thờ ơ, báo cái chết đang tới để dân tộc anh mau tỉnh giấc. Người con gái Việt Nam da vàng… Em chưa biết quê hương thanh bình… Em chỉ có con tim căm hờn. Người con gái một hôm qua làng. Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng. Người con gái chợt ôm tim mình. Trên da thơm vết máu loang dần. Người con gái Việt Nam da vàng. Nhạc và thơ của anh thật gần gũi, làm rõ lên suy tư của A. Maumejean thấy qua hành động thơ : "Une cause irréalisable, de réduire la contradiction qu’un destin fatal impose à la condition de l’humain par le langage : l’usage d’une parole par laquelle nous sommes voués à l’inconnaissance".
Một nguyên nhân không khả thi, đã thu cái mâu thuẫn của số kiếp oan thiên rồi buộc con người qua ngôn ngữ : dụng lời để tự thú là mình vô minh. Bạn bè ngồi quanh tuốt sáng giáo gươm. Từng ngày đảo điên, giết chết linh hồn. Không ai có lỗi trên chuyện này, vì người khác, người ngoài áp đặt chuyện huynh đệ tương tàn bằng chiến tranh, dân tộc ta không chế tạo ra chuyện này, vậy mà ta đã chấp nhận tiếng bom đạn làm ta điếc tai, loạn óc như chấp nhận một nghiệp chướng. Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn.
Trong quá khứ bọn xấu nói với ta là chiến tranh không thể tránh được, chúng ta hãy nói với các thế hệ sau ta là chiến tranh không thể chấp nhận được. Trong những cơn điên loạn, A.Artaud vẫn thấy thơ là "refaire l’homme", gây dựng lại được con người, vì nó là tác phẩm của chuyện thu hồi lại ý thức. Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm. F.Kafka, thấy được trong thơ một cố gắng vượt thoát để vượt thắng : "soulever le monde pour le faire entrer dans le pur, dans l’immuable, dans le vrai". Nhổ thế giới ra, nâng thế giới lên đưa nó vào cái sạch, cái vĩnh hằng trong cái thật. Tìm trong vô thường. Thấy có đôi dòng kinh sấm bay rền vang.
Những năm chiến tranh, nhạc của Trịnh Công Sơn như về từ cõi yên lặng khi con người tìm lại được tiếng nói của mình, loại tiếng nói của tri, của giác, của minh, chứ không phải nói để nói. R.Barthes (tác giả này, Trịnh Công Sơn rất thích, nên hay hỏi về các công trình của ông, hồi ông còn sống) kể là trên đời này có một loại nhạc rất thông minh : "la musique se tait toujours. Elle ne m’encombre d’aucun discours ; elle ne veut rien substituer à mon malaise (ce qui serait le meilleur moyen de l’approfondir)". Loại nhạc luôn biết im tiếng, không dành làm tham luận, nó cũng chẳng muốn thay thế chuyện khó nhọc của người (chính nó là phương tiện hay nhất buộc mình phải đào sâu nó).
Trịnh Công Sơn có nhiều bài thuộc dạng này, chẳng hạn như bài Diễm Xưa, đã thành "cổ điển" đối với người nghe nhạc, thành "kinh điển" đối với người làm nhạc, một bài hát biết rõ mọi diễn biến của lòng người trong cả cuộc đời. Mỗi câu trong bài này là một kinh nghiệm không quên của một lứa tuổi. Khi hai mươi tuổi, bị thất vọng trong tình yêu, người ta hát : Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau, vì người ta còn tin. Khi bốn mươi tuổi, người ta hết tin, người ta hát : Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu. Khi gần sáu mươi tuổi, người ta hết tin và không còn quê hương để nương thân, người ta hát : Để người phiêu lãng quên mình lãng du. Nhạc tiên tri là nhạc có cái tri, cái giác, cái minh, có luôn cả cái đúng, cái bền, cái đời trong nó.
Khánh Ly hát Diễm xưa của Trịnh Công Sơn
Đối với những bạn bè thân, Trịnh Công Sơn thường tâm sự : "Một trong những cái buồn nhất trên đời này là lỡ hẹn với bạn bè" ; có kẻ vô tâm nghe nhưng không hiểu, lại còn "dạy đời trở lại", ngoài Bắc thì "hẹn nhỡ thì hẹn lại !", trong Nam thì "hẹn sai hẹn lại mấy hồi !". Chuyện lỡ hẹn của anh Sơn không phải vậy, người ta lỡ hẹn vì người ta bị chiến tranh cướp đi cuộc đời. Đất hoang vu khép lại hẹn hò. Bị o ép bởi chén cơm manh áo, người ta quên cả hẹn với tình. Em theo đời cơm áo. Mai ra phố xôn xao. Có khi người ta lỡ hẹn vì người ta bị cướp mất mặt trời, ánh sáng, đường đi tới nơi hẹn. Hôm nay thức dậy. Không còn thấy mặt trời. Lắm lúc người ta lỡ hẹn vì ngoan đạo, nhưng thờ ơ với tình. Vì em đã mang lời khấn nhỏ. Bỏ ta đứng bên đời kia.
W.Carlos Williams dặn đời là mỗi lần được đọc thơ phải thấy được : "Un univers complet en miniature. Il existe en lui-même. Tout poème de quelque valeur exprime la vie entière du poète, donne un reflet de ce qu’il est". Một vũ trụ đầy đủ nhưng bị thu nhỏ lại. Nhưng chính nó tự tồn tại. Mỗi bài thơ tự nó mang giá trị của cả cuộc đời thi sĩ, nó là bóng soi của thi nhân. Từ bóng qua hình trong nhạc của chính mình, Trịnh Công Sơn hoàn toàn không có sự thờ ơ với đời, lãnh đạm với tình, nguội lạnh với hẹn hò. Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn. Để sớm mai kia lại tiếc xuân thì. Nỗi lo chống lại sự thờ ơ, cái lãnh đạm, tư cách nguội lạnh không có chỗ đứng trong nhạc của anh, nỗi lo đã thành lời trong nhạc của Trịnh Công Sơn.
Chiều hôm thức dậy. Chập chờn lau trắng trong tay. Có bận có người hỏi V.C.Richez thơ có phải là một hành động không ? Vậy hành động thơ là gì ? Ông trả lời : "Rassembler le silence. L’épuiser… Se gorger lentement du monde souterrain, des terres sombres d’un très ancien abri… Une parole de silence qui se perd en soi… S’avaler, se défaire, consentir à cette perte…". Tập hợp yên lặng. Vắt cho tàn sức… Để tự nó nhễu thành từng giọt xuống lòng đất, trong miền tối tăm của một nơi ẩn trú cũ kỹ… một tiếng nói của yên lặng tự lạc đường… Rồi tự thoát, tự mở tung, để cuối cùng nhận cái mất mát này. Chuyện này sẽ không khó hiểu, vì Trịnh Công Sơn đã tổng kết được nó, làm rõ thành từng lời (yên lặng) trong nhạc của anh. Thừa đôi tay dư làn môi. Từ nay tôi quên hết tiếng người.
Trịnh Công Sơn thấy và thấu : "Trên cùng một đất nước, nhưng có nơi là đất chết, có nơi là đất sống, muốn sống phải có nội lực để sống còn, một force vitale, mỗi lần bị nhấn chìm là tự nó bật dậy, trồi lên, không ai làm nó chết đuối được, Sài Gòn đây là nơi có force vitale". Tưởng đày đọa được nó nhưng không đày đọa được, cùng lúc có nhiều nơi trên đất nước này coi như đã chết hoặc sắp chết. Đời sao im vắng. Như đồng lúa gặt xong. Như rừng núi bỏ hoang… Không còn không còn ai. P.Rozewicz tin là : "… La poésie de nos jours est une lutte pour respirer". Thơ thời nay là cuộc chiến đấu để thở, anh Sơn biết chuyện này, vì sáng tác của anh luôn bị đe dọa.
Trong tim tôi có lần. Một mùa ôi rất lạnh. Thở qua thơ là chuyện không phải của thể xác, mà là chuyện của linh hồn, S.Mallarmé thấy hồn người trong tiếng thơ : "Toute âme est une mélodie qu’il s’agit de renouer". Mọi linh hồn trong thơ là một nhạc điệu nối được người với đời, khuyên ta thoát càng sớm càng hay kiếp vong thân, vong linh. Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây. Từ thái độ sống của mình, thơ đã thành hành động thật, J.Bastaire tin vào hành động này : "Parole essentielle, libérée du bruit pour arriver à un silence qui parle", lời đã thành chủ yếu, giải phóng người khỏi tiếng động hỗn loạn để tới sự yên lặng đang nói, đang tâm sự với mình.
Yên lặng biết nói là chuyện của thơ, cũng là chuyện đời nghệ thuật của anh vì nếu con người biết sống mà không biết yêu thương thì nên giữ yên lặng là hơn. Hôm nay thức dậy. Không còn thấy loài người. Vây phủ quanh đời. Nói tiếng yêu thương… Như vừa mới vào đời. Tay mẹ đâu rồi ? Nôi trống ru ai ? Nôi trống là sự yên lặng vừa tuyệt đối, vừa đáng sợ, P.Celan tìm cách định thần chuyện này : "Le poème n’est pas intemporel. Certes, il élève une exigence d’infini, il cherche à se frayer passage à travers le temps - à travers lui et non par-dessus et toujours la tentation de trouver une direction". Một bài thơ không vĩnh hằng. Chuyện đó đúng, vì chuyện thơ đòi hỏi không ai lường được, nó tự vạch lối đi của nó qua thời gian - qua nó và không trên nó - luôn bằng ý muốn tìm ra được một phương hướng.
Trong nhạc của mình, Trịnh Công Sơn lấy chữ phù du làm cầu nối cho thơ và thời gian. Ôi ! Phù du… một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua. Chuyện phù du cũng là chuyện của A.Suied thấy được trong thơ : "Le poème ouvre le tremblement secret des âmes en éveil… Entre énigme et présence, le Poème énonce le destin et l’infinie liberté de l’aventure de chacun dans le monde inconnu et premier". Bài thơ luôn mở ra một cơn động đất bí mật giữa những linh hồn đồng điệu, cùng nhau thức… giữa bí ẩn và hiện tại, bài thơ báo lên số phận và sự tự do vô biên trong cuộc thám hiểm của mỗi người giữa một thế giới chưa được biết mà ta gặp lần đầu qua thơ. Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn, Nụ cười mong manh một hồn yếu đuối…
Câu chuyện phù du, cười mong manh, hồn yếu đuối chưa hết ; giữa thơ và nhạc của Trịnh Công Sơn, xuất hiện một ẩn số thứ ba là họa, Trịnh Công Sơn thích vẽ, biết vẽ, có khi say vẽ, nhiều người đã thấy tranh của anh, nhưng hiếm người nhận ra Trịnh Công Sơn vẽ ngay trong nhạc của Trịnh Công Sơn, chẳng hạn như trong Tuổi đá buồn, rõ ràng portrait một cô gái cô đơn : hồn lẻ, nghiêng vai, gọi buồn. Loại câu sáu chữ, ba nhóm, mỗi nhóm hai từ này, tự nó đã đứng ở chỗ vừa sâu, vừa cao trong thi ca Việt Nam. Câu chuyện thơ để thở, thở bằng thơ cũng là chuyện của L.P.Fargue thấy được hành động thơ qua sức sáng tạo ra một cuộc đời song song cũng quý báu như cuộc sống hằng ngày : "La poésie, cette vie de secours où l’on apprend à s’évader des conditions du réel, pour y revenir en force". Thi ca, có cuộc sống bảo toàn thứ hai, nơi mà người ta học cách thoát ra khỏi điều kiện sống thực, để sau đó trở lại mạnh hơn.
Trịnh Công Sơn giúp đời thấy được tình yêu, làm cho kiếp mình mạnh hơn, dạng ra… Mặt đất âm u, ngày tháng hoang vu. Chợt thấy em qua, rợp bóng cờ… Chuyện con người vững vai vóc hẳn lên qua thơ được Ramos Rosa nhận định là : "La poésie établit un rapport entre le réel et l’inconnu, en restant dans la vie, cet acte suggère une aspiration vers le haut, mais il tend pour y parvenir à la résolution des contraires". Thơ dựng được một quan hệ giữa cái thật và cái ẩn, giữ nó giữa đời, hành động này là chuyện thăng hoa, nó thực hiện được bằng cách xử lý các đối chấp. Nghe nhạc của Trịnh Công Sơn người ta nhận ra : càng áp đặt chết chóc, chiến tranh, con người càng yêu nhiều, thương nhiều. Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ. Yêu để cuộc sống dễ thở. Reverdy gọi thơ là "bouche-abime du réel", miệng-vực sâu của cái thực. Cái thực biết nhận ra người, ra ta. V.Hugo có lúc thốt lên : "C’est insensé de croire que je ne suis pas toi". Thật không chấp nhận được nếu không tin tôi không phải là anh, là chị, là kẻ đối diện… Trong câu chuyện suy bụng ta ra bụng người này, anh Sơn luôn có cách nói âu yếm, thanh nhã hơn : Tôi là em mà em cũng là tôi. Trong nhạc của Trịnh Công Sơn con người luôn nhận ra nhau, bằng trực diện, mà không một bạo quyền độc dảng nào vùi lấp được, không một tà quyền độc trị nào khử trừ được, không một ma quyền độc quyền nào truy diệt được.
"…Em cứ yêu con người, đời ngọt ngào vẫn thế. Em cứ dâng cho đời một nụ hoa tình cờ. Em đến bên tôi ngồi, đời mở ra cuộc tình…". Yêu người vì yêu đời mà chính cũng để thương thân mình. Biết thương người, thương thân, biết dâng tặng đời là biết nâng cuộc sống lên, không để cuộc sống mất nhân tính ; trong chiến tranh vừa qua có khi phải nâng cuộc sống lên từ vực thẳm, vực nó dậy từ hố sâu. Joyce xem hành động thơ như chuyện tiếp nhận trí thông minh của sự nổi loạn, nổi loạn để đòi tự do, chứ không phải nổi loạn để đập phá : "la poésie, même lorsqu’elle semble à son plus fantastique, est toujours une révolte contre l’artifice, une révolte, dans un sens, contre la réalité". Thi ca, ngay như lúc nó mang dạng giả tưởng nhất, nó luôn là cuộc nổi loạn chống chuyện vẽ vời, nó là cuộc đứng lên, nổi dậy, và trong một ý nghĩa nào đó, có chống lại thực tế.
Người Việt nói viết văn, nhưng làm thơ, không ai viết thơ, làm đây là làm cho ra chuyện, theo cách của R.Daumal : "La prose parle de quelque chose, la poésie fait quelque chose par des paroles". Văn xuôi nói về một chuyện nào đó, còn thơ thì làm chuyện đó bằng lời nói. Ta thấy em đêm đêm đòi lại tiếng nói, rồi thấy luôn Nghe tiền thân về chào bóng lạ, thấy được kiếp trước về chào tương lai mặc dầu lạ lẫm, vô định, vô phương. Nhạc của Trịnh Công Sơn có sức mạnh của một loại siêu hình học luôn đi tìm lối ra cho tâm linh. Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi ? Triết gia Bergson, tin rằng ý thức luôn là một kinh nghiệm thân quen, trực tiếp trong hạn hữu đời người, cái hạn hữu này là một dữ kiện trực quan của ý thức.
Chuyện dân tộc lầm đường với độc đảng toàn trị hiện nay, biến những đứa con thành bụi đời trong lúc sống, rồi thành oan hồn sau khi chết là cuộc triển lãm đầu tiên về lối vào tri thức của chủ thể : thân là tro, đời là bụi, Trịnh Công Sơn thấu hiểu thấu chân lý vô thường này của Phật học. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai tôi trở về làm cát bụi. Ôi cát bụi mệt nhoài. Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi. Nhưng lẽ sống của nhân sinh luôn tìm cách đi ngoài cái chết, vì cái chết luôn tìm cách diệt cho bằng được lý tưởng của các giá trị vĩnh hằng, làm được chuyện này cái chết đe dọa luôn các giá trị khác của sự sống, tạo sự căng thẳng giữa chủ thể và những giá trị của nhân sinh ; anh Sơn thấy được chuyện này : Còn bao lâu cho thiên thu xuống trong thân này ?
Cái nhún nhường của Lão giáo đã thâm nhập vào các bài thơ (không phổ nhạc) ở cuối đời Trịnh Công Sơn : Đường dài vỡ mộng vô thường. Ta xin một góc ta ngồi với ta. Carl Sandburg có cách giải thích thật lạ : "La poésie est le journal d’un animal marin qui vit sur terre et qui voudrait voler". Thơ là nhật ký của một con thú biển giờ phải sống trên đất liền rồi còn lại muốn bay. Thật ra chẳng có gì là lạ, đây là chuyện tự do của tư duy sáng tạo, chẳng có một chế độ nào, một ý thức hệ nào ngăn cấm được. Xin cho ngục tù thành những công viên. Lấy thơ dâng đời, rồi nâng cuộc sống "dở sống, dở chết" này, và nâng cả không gian tù rạc thành nơi quần chúng đến vui chơi, hẹn hò, Trịnh Công Sơn đã làm chuyện này.
Có lần Velter kể chuyện ngày thanh bình của tâm hồn trong thơ sẽ là ngày : "L’oeil contemple le bleu du ciel, la vue réfléchit, l’azur profond du corps… par le coeur, par le souffle, par le haut, l’excès trouve son équilibre". Mắt trầm mặc với màu xanh của trời, ánh nhìn biết suy nghĩ, màu xanh trong lắng thật sâu trong thân. Qua con tim, qua hơi thở, trên chiều cao, cái bị xem thái quá tìm được sự thăng bằng của mình. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về. P.Eluard cũng nhấn mạnh thêm về hành động thơ luôn để lại : "marges blanches, de grandes marges de silence, les mots du poète ne servent pas à dévoiler leurs sens immédiats mais à les contraindre à livrer ce que cache leur silence".
Những lề trắng, những lề lớn của sự yên lặng, chữ của thi sĩ không phải để vạch ra nghĩa tức khắc mà để ngăn hãm những gì mà sự lặng lẽ muốn giấu kín. Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này. Mambrino tin rằng : "langage silencieux qui efface ses propres traces, pour qu’on entende ce que les mots ne disent pas". Một ngôn ngữ yên lặng còn biết xóa chính dấu vết của nó, để người ta nghe được những chữ không đọc được. Mỗi vết thương lành một nỗi vui. Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay. Vết thương lành, nỗi vui, mắt cười, đôi bàn tay… tất cả đây là những chốn không lời và sẽ không cần lời. Pasternak nhận ra được cõi lắng này : "la prose en action. La poésie est le langage du fait organique". Văn xuôi qua hành động.
Thi ca là ngôn từ của cơ chất, tức là của ruột thịt. Baudelaire tự dặn mình : "La poésie est ce qu’il y a de plus réel. C’est ce qui n’est complètement vrai que dans un autre monde". Thi ca là cái có hơn thật, chuyện này hoàn toàn đúng ở một thế giới khác. Mới hôm nào bão trên đầu. Thấy được chuyện mà người khác không thấy, M. Edwards gọi đó là lực nhập nội của thơ : "la poésie est le possible qui demeure possible, l’attente qui accepte d’attendre". Thơ là chuyện có thể luôn ở thế khả thi, nó là cái chờ biết đợi, sáng tác của Trịnh Công Sơn có sức nhập nội linh chuyển đó : lòng thật bình yên mà sao buồn thế. Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ.
Cendrars phạm trù hóa được lực nhập nội này : "Chaque vie cache un destin, il y a des destins pour toujours, une épée tranchante. Parfois dans mes rêves, je vois la lumière de cet acier…". Mỗi đời cất dấu một số kiếp, có những kiếp được sống hoài, như dao sắc. Có lúc giữa cơn mê, tôi thấy ánh lên chất thép của nó. Malcolme de Chazal chia sẻ được kinh nghiệm này : " Le poète est un réaliste dans le plus haut sens spirituel du terme". Thi sĩ là kẻ theo chủ nghĩa hiện thực trong cái nghĩa tâm linh cao nhất của nó. Đường thật lặng yên mà sao buồn thế. Giật mình nhìn quanh ồ phố xa lạ. Brodsky nhận ra một điều trong thơ : "La poésie est essentiellement la recherche par l’âme de sa libération dans le langage", thi ca là cõi lùng tìm của linh hồn trong việc nó tự giải phóng qua ngôn ngữ.
Trịnh Công Sơn nói thật gọn : Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ… Tôi là ai mà trần gian thế… Tôi là ai mà yêu quá đời này. Leclaire cảm nhận được nội lực này : "c’est faire parler la langue au-delà du sens… La langue étrangère que l’on entend au fond de soi " đủ sức nói được bằng ngôn ngữ trên luôn cả nghĩa của chữ, một ngoại ngữ mà người ta nghe được từ tận đáy hồn mình. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời… Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi. Nietzche thấy các triết gia mỗi lần nhập nội vào sự gay gắt của lý luận để tổ chức các quyết đoán trong lập luận của họ, là mỗi lần họ cần phải gần thơ để : "les sentences des poètes pour donner à leurs idées de la force et de l’authenticité". Để những câu đối của thi sĩ thổi vào ý triết một sức mạnh của cái chính thống. Thơ dâng đời để nâng thân, giờ thơ dâng triết để nâng người trước mọi thử thách của nhân thế.
Có lần Trịnh Công Sơn kể về một câu trong nhạc của anh : Này nhân gian có nghe đời nghiêng, chỉ một người quý yêu ra đi mà cả thế giới bị nghiêng đi, nhân loại bị lệch qua hướng khác. Ngay trong tình yêu muốn tìm tới các giá trị tâm linh để tình yêu tự nâng cao tình yêu cao hơn nữa ! Và càng lên cao -thoắt chốc- (tức là : chợt) tình yêu khám phá ra : nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) đang có mặt giữa tình yêu của "đôi lứa", lúc đầu chỉ tưởng là chỉ có "đôi ta", tự nhiên bây giờ ở đâu ra một ẩn số khác : nội công của tình yêu là gì ?
Sự sống còn của tình yêu tùy thuộc vào nội công này, tức là vào bản lĩnh của hai kẻ yêu nhau định nghĩa nhân tố thứ ba là gì ? Kẻ thứ ba này là ai ? Nó tác động gì đến chiều cao, chiều sâu, chiều rộng, chiều dài của tình yêu ? Tại sao nó giúp ta kết chặt với nhau, không rời nhau được, mà nó còn biết "bền vững hóa" tình yêu, và chỉ có hai ta mới biết là có : nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) mà St Augustin khẳng định là nó đang ngự trị trên sự sống còn của "lứa đôi".
Nhân tố thứ ba là gì ? Kẻ thứ ba này là ai ? Mà tại sao không có nó thì tình yêu sẽ chết yểu ! Nếu chỉ có hai người thôi, hai kẻ yêu nhau thôi mà không có nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) này thì tình yêu sẽ gặp hai loại tai biến giết dần mòn tình yêu. Xin được trả lời ngay nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) chính là : giá trị tâm linh của tình yêu. Không có nó thì tình yêu sẽ gặp hai loại tai họa để thành tai biến bất cứ lúc nào, tai biến thứ nhất là chỉ thấy một cái tôi (narcissisme), kẻ chỉ biết yêu mình thôi thì bắt người mình yêu phục vụ cho mình. Tai họa thứ hai là tình yêu ích kỷ, chỉ thấy hai kẻ yêu nhau thôi và bắt thân thuộc, gia đình, tập thể, xã hội phục vụ cho tình yêu của mình, loại tình yêu ích kỷ này là thuộc loại độc tài toàn trị vi mô (micro-totalitarisme), biến môi trường chung quanh thành nô bộc cho mình, chỉ biết sống "cặp đôi" trong tháp ngà, trước giờ cơm thì bắt kẻ khác làm bếp cho mình.
Chỉ thấy cái tôi của một người, hay chỉ thấy hai người yêu nhau mà không thấy nhân loại chung quanh thì đây là loại tình yêu sẽ chết yểu, sẽ chết sớm, vì nó không biết tới nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) là khi tình yêu tự định nghĩa cho mình (để được sống lâu, sống bền, sống thọ với thời gian) thì tình yêu phải đi trên con đường của tình thương ! Khi tình yêu đi tìm để tới được tình thương thì nó sẽ thành một dòng suối bền, một nhân lộ rộng : hai kẻ yêu nhau sẽ "có con" và "thương con" rồi chấp nhận mọi hy sinh để "lo cho con". Tình yêu khi tới được tình thương thì nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) đã có mặt giữa " lứa đôi ", đúng ngay trung tâm của "đôi ta" và hai kẻ yêu nhau cần nhân tố thứ ba (kẻ thứ ba) này để đi xa hơn nữa, để gặp nhân phẩm của tình yêu ! Đây mới chính là giá trị tâm linh đích thực của tình yêu.
Giá trị tâm linh này giúp hai kẻ yêu nhau biết sống chung với nhân loại, biết sống cùng với nhân sinh, biết chia sẻ nỗi khổ niềm đau với nhân thế, và khi tình yêu được giáo dưỡng bởi nội dung tâm linh này nó sẽ không chết yểu, chết sớm, vì cái tôi độc nhất và cái độc tài toàn trị vi mô đã cuốn gói ra đi, nên cuộc tình sẽ không bị đắp mộ ! "Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ" là một ca từ trong một ca khúc mà Trịnh Công Sơn làm ra khi còn rất trẻ, nhưng chính nhờ tầm vóc của từ bi trong tâm hồn của nhạc sĩ nên ca từ nầy không những vén màn cho ta thấy bản lai diện mục nhân tố thứ ba là gì ? Kẻ thứ ba này là ai ? Câu trả lời là từ bi, là đại dương vừa rộng, vừa sạch, mà cái tôi ích kỷ hay hai cái tôi toàn trị vĩ mô chỉ là hai giọt nước đục !
Những tư tưởng gia như St Augustin, Plotin, Montaigne… hay các triết gia Kant, Pascal, Ricoeur… khi họ từ đi tìm con đường tâm linh để nhận ra các giá trị tâm linh thì họ có sẵn hai nhân lộ. Con đường thứ nhất bằng định hướng thần học, chóng chầy họ sẽ tìm tới thượng đế, đấng sinh thành của muôn loài và vạn vật ; con đường thứ hai bằng định hướng của luân lý, đi tìm nhân tính bằng nhân phẩm. Nhưng dù đi trên hai đường khác nhau, nhưng họ thường tâm sự là họ đã gặp nhau trên : cái tôi thức để tin yêu.
Chính cái tôi thức để tin yêu này là một định luận có nhiều định đề khác nhau, và khi được hội tụ lại thì các giá trị tâm linh hiện rõ trong cấu trúc của định luận này. Trước hết là khi cái tôi mà muốn bỏ tự kiêu thì phải bỏ tự mãn, cái tôi mà muốn buông vị kỷ thì phải tháo đi ích kỷ, cái tôi mà muốn xua cái tự xem mình là trung tâm của vũ trụ đi thì phải đuổi đi cái ta đây ra khỏi nhân sinh quan… lúc đó mới mong được đi trên nhân lộ để thấy được các giá trị tâm linh.
Từ đây, cái tôi thức hoàn toàn ngược với cái tôi ta đây ngạo mạn, vì cái tôi đã tỉnh thức trong khiêm tốn vì từ tốn, của khoan dung để khoan hồng, của vị tha để vất hẳn đi cái tôi vị kỷ, đang ngủ trong mê lộ. Cái tôi thức có hành trình của tỉnh táo để sáng suốt của thức, lấy kiến thức để lập tri thức, có ý thức để tạo nhận thức. Đây là định nghĩa thông minh về chữ hiền, làm nên hiền triết, lấy hiền mà xoa diệu mọi điều hung, bạo, ác, dữ đang phùng man trợn mắt giữa nhân thế. Từ đây, cái tôi của chủ nghĩa trung tâm được nuôi nấng bởi cái ích kỷ đã được trút rũ khỏi não trạng, để trưởng thành mà nhận ra cái tôi thức, đã tỉnh thức trước thân phận con người, trong đó cái tôi vị kỷ thuở nào có số phận thật nhỏ bé của cát bụi (theo ca từ của Trịnh Công Sơn).
Cái tôi thức như vậy đã được chấp nhận, để được đi trên nhân lộ, để được gặp các giá trị tâm linh, với hai sung lực rất mới : niềm tin và tình thương, trong một biện chứng rất chặt chẽ : niềm tin vào tình thương và dùng tình thương với niềm tin. Đây là chuyện diệu kỳ của lý luận tâm linh : biến hung kiếp thành hiền tri, biến bạo phận thành hiền thân, chữ hiền là trung tâm của con tim tâm linh, cho phép con người càng yêu thì càng hiền. Như vậy, cái tôi thức đã trở thành cái tôi hiền, để tin yêu, để làm hiền đi mọi số phận, làm lành đi mọi nhân kiếp. Từ đây trí hiền đã hình thành, rồi trưởng thành, và mạnh bước trước các thử thách, vượt được các thăng trầm, thắng được mọi ma trận của bất nhân thất đức luôn có mặt trong nhân sinh. Từ đó tỉnh táo để sáng suốt nhận ra các giá trị tâm linh, luôn hiền lành để trợ duyên cho cái tôi thức để tin yêu, có được một kết quả tinh khôi cho nhân thế hiền mà cũng chính là đúc kết tinh anh cho nhân phẩm hiền của chính mình : Tôi là ai mà yêu quá đời này ? Triết gia Trần Đức Thảo hoàn toàn có lý khi viết trong hồi ký của ông là một chủ thể sáng tạo như Trịnh Công Sơn không thể nào thắng hoa và sống còn trong một chế độ độc đảng toàn trị chuyên môn truy diệt nhân tài.
Kinh Kim Cương trong Phật học khi soi rọi vào chúng sinh ; nơi mà mọi sinh vật đều có sinh mạng mà ta phải tôn trọng và bảo vệ, vì mọi sinh mạng đều thiêng liêng, vô cùng linh thiêng (nên Phật giáo mới đặt tên chúng sinh là sinh linh). Gốc cội của chúng sinh được làm nên từ các chất liệu của môi sinh (sỏi, đá…) tưởng là không thuộc về chúng sinh, nhưng chúng ta phải có cái nhìn vô tướng để thấy môi sinh vừa là nguồn cội, vừa là sự sống còn của chúng sinh, của mọi sinh mạng, của tất cả sinh linh. Vì vậy, câu hỏi của Trịnh Công Sơn có chiều sâu tâm linh của nó : làm sao em biết bia đá không đau ? Nếu ta biết chúng sinh có những nỗi khổ niềm đau trong nhân sinh, thì ta được quyền đặt câu hỏi ngay trên thượng nguồn là khoáng thạch (sỏi, đá…) : có biết đau không ?
Đây là câu hỏi đặt ta vào con đường để đi tìm các giá trị tâm linh. Khi biết hỏi không những tha nhân, đồng loại, đồng bào, mọi chủng loại mà còn biết hỏi luôn sỏi, đá (luôn bị người trần mắt thịt xem như loại vô tri) là sỏi, đá : có đau không ? thì hùng lực tâm linh đã ngự trị giữa tâm hồn ta, để ta không những làm được chuyện yêu muôn loài, mà còn giúp ta cảm nhận rộng hơn để thương mọi loài. Như vậy, không có môi sinh thì không có chúng sinh, nếu chỉ yêu chúng sinh (tưởng như đã đủ, nhưng thật ra chưa đủ), mà ta còn có thể thương thêm nữa : thương môi sinh đang nuôi nấng, che chở, song hành cùng ta trong cuộc sống.
Câu chuyện môi sinh chính là câu chuyện môi trường, đây là sự thảm bại vô cùng tận của Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam, độc đảng để độc tài nhưng bất tài trong tận cùng của vô minh, vô tri, vô giác đã mở cửa cho bạo quyền của lãnh đạo qua các nhóm lợi ích, cho tà quyền tham quan trong mê lộ của tham nhũng, cho ma quyền của Tàu tặc đang tàn hủy môi trường Việt, đang truy diệt môi sinh Việt. Các giá trị tâm linh có mặt trong nhân sinh để chống cơn hạn của nhân thế, khi môi sinh bị hủy hoại, khi môi trường bị truy diệt, cơn hạn của nhân thế đang tới, và trong cơn hạn này nhân sinh không có môi sinh để sống còn, nhân loại không những sẽ chết khát, mà còn chết nhục trong cõi quỵ gục của môi trường.
Các người đã diệt
Chủ thể sáng tạo trong mô thức Thanh Tâm Tuyền
Thơ của Thanh Tâm Tuyền thức tỉnh trí người, tầm vóc này hiếm thấy trong thơ Việt Nam.
Ai cũng biết chế độ dung bạo quyền công an trị của các người thì rất "mất ăn mất ngũ" bởi những chủ thể sáng tạo theo mô thức Thanh Tâm Tuyền, biết nhận bổn phận với dân tộc, biết gánh trách nhiệm với xã hội, dung chính tự do của mình để bảo vệ sáng tạo của chính mình để thăng hoa giống nòi và đất nước. Nên các người rất sợ thể loại thơ này của Thanh Tâm Tuyền :
Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão
Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
Tìm cánh tay nước biển
Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi
Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường
Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt
Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường
Tôi chờ đợi cười lên sặc sỡ… mái ngói thành phố ruộng đồng
Bấu lấy tim tôi thành nhịp thở
Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng chảy máu tiếng kêu.
Phương châm thi ca của Thanh Tâm Tuyền là : "ta đập vỡ hình hài và thức giấc". Thơ của Thanh Tâm Tuyền thức tỉnh trí người, tầm vóc này hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vì những năm còn trẻ, Thanh Tâm Tuyền đã thấy cuộc đời này là hội buồn : "… nghe trong đời miên man ngực yếu… tiếng trống bồi hồi thôn dã giục người về dự hội. Hội sum vầy thắm thiết có hay… và buổi mai này rồi sẽ mọc lên ủ ê niềm thống hối. Trên bầu trời ngày đã quên ngày. Chó tru khiếp đảm… ". Thơ Thanh Tâm Tuyền viết từ ký ức trong sự trống vắng của chữ đang bị thôi thúc hướng về những chân trời tối mịt, niềm tin không có tương lai, niềm yêu không còn viễn ảnh : "… Một phút là thi sĩ đủ sáng tâm hồn đầy cuộc đời… chữ tự do không nghĩa. Mỗi người đã chính một tự do… tôi ngủ ngoài nghĩa địa một mình. Quanh tôi là người khác. Chúng tôi cùng cô độc… không bao giờ quên người ngủ ngoài nghĩa địa…".
Thanh Tâm Tuyền dặn tôi : "Khóa muốn viết về tôi thì cứ viết, nhưng nên bắt đầu đọc thơ tôi qua chữ thất bại (défaite), nó không phải là chủ bại (défaitisme), vì tôi chẳng theo một chủ thuyết nào, cũng không theo một ý thức hệ nào". Khi trở lại Pháp, tôi mang theo bài cây rừng, mà anh dịch từ một bài thơ aux arbres của thi sĩ Bonnefoy lúc Thanh Tâm Tuyền đang "ở tù cải tạo", Thanh Tâm Tuyền không để sự ủ rục diệt mình trong cõi tù xa xăm, anh đã biến một tác phẩm cội gốc của một nam tào trong thi ca Pháp thế kỷ hai mươi ra một tác phẩm rộng với câu cao và chữ ngọn, đầy Việt tính, cũng đầy tình người. Đầu năm 1987, tôi trao tận tay thi sĩ Bonnefoy ngay tại giảng đường của Collège de France, ông vô cùng cảm động vì biết ra là bài thơ được dịch từ nơi tù rạc, ông thốt lên : "Le poète Thanh Tâm Tuyền arrive à réaliser la vérité de parole dans l’expérience poétique", đã làm được chuyện đưa chân lý của lời người vào được kinh nghiệm thơ, Bonnefoy mong có ngày gặp được anh Tâm, nhưng chuyện tổ chức cho hai người gặp nhau không thực hiện được trước ngày Bonnefoy qua đời. Buồn về chuyện này, nhưng Thanh Tâm Tuyền lại vượt lên được cái tiếc nuối : "Tiếng nói gọi về phía trước, bước sóng dài, người sẽ gói vào lòng bàn tay".
Thanh Tâm Tuyền đặt bút để trở thành chủ thể : "…Giật mìn ngay những vùng trời riêng rẽ, ta chui xuống hố cá nhân, ôm ngày mai vào lồng ngực, tình yêu làm giáp sắt, ta rút về chiến khu, pháo đài dựng lên tua tủa niềm tin, nguyện chiếm lại đại lộ bờ cây tâm sự…". Thanh Tâm Tuyền đặt bút để nhận ra cái thử thách của chủ thể :
"Tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng bên bờ sông
nước đen sâu thao thức
Tôi hét tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền. Thanh Tâm Tuyền. Thanh Tâm Tuyền".
Nỗi buồn của Thanh Tâm Tuyền nhiều lúc đưa ông đi thật xa : "Tôi thèm giết tôi… Tôi thèm sống như thèm chết". Đây không phải là chuyện tự đặt ra, mà đây là chuyện cốt lõi trong nhà ngục tâm hồn qua các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, qua thơ của Thanh Tâm Tuyền người ta thấy được số kiếp của kẻ sáng tạo trên đất nước oan khiên này. Không gian tâm hồn trong nhà ngục tâm hồn. Thế giới nói thêm lời hoa cỏ thiên nhiên.
Sống không dễ và chết cũng không dễ.
Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
các anh nhớ tôi còn sống
quờ quạng tay gian díu
cách mạng nổ trong sự nín thinh.
Phạm Đình Chương đã biến thành nhạc những câu mà mỗi lần đọc là mỗi lần thấy nghẹn, nghẹn cổ vì nghẹn lòng :
"... đất nước tôi có một lần
tôi ghì đau đớn trong thân thể
những dòng sông những đường cây núi nhọn
những biệt ly rạn nứt lòng đường…".
Về chuyện chữ nghĩa anh chuẩn bị rất miệt mài, chu đáo, hiếm thấy trong sinh hoạt văn nghệ Việt Nam. Thanh Tâm Tuyền giải trình rất rõ các bối cảnh ra đời của bếp lửa, tại sao nhân vật chính ngay từ đầu đã đi trên đổ nát của lịch sử, rồi của ung thư, cuộc sống như không có lối ra ; anh trở lại phân tích "tận nguồn lạch sông" nhận định của Malraux trong la voie royale "mais vivre en acceptant la vanité de son existence… vivre avec cette tiédeur de mort dans la main comme un cancer". Sống để chấp nhận cái chóng chầy trong nhân sinh… sống với cái ẩm mốc của cái chết trong tay như nhận ung thư.
Đi lần tìm cõi thơ của Thanh Tâm Tuyền, người ta sẽ đọc được lịch sử dân mình từ những viết thương còn tươi tới cái thấp thỏm chờ nhau trong các bịnh viện, nhưng bệnh viện không phải là nơi báo tin về cái chết, nó là nơi mà con người vẫn đòi cho bằng được quyền sống, mặc dầu đất nước đang bị chiến tranh thôi miên ; mặc dầu dân tộc đang bị dòng nước đen của chuyện nội chiến chém giết vấy bẩn. Trong bài gửi Quách Thoại, người bạn sớm mai nhóm Sáng Tạo của anh đã ra đi quá sớm, anh Tâm không để không khí bệnh viện biến thành không gian tật nguyền giữa cuộc sống :
"…bệnh viện thành công viên khuất nẻo
Người ngủ một mình đợi chúng tôi…
Không chết trần truồng không thể được
Chúng tôi đập vỡ những hình hài
Cuộc sống phải thừa như không khí
Cuộc sống phải thừa như sớm mai…".
Thanh Tâm Tuyền hiểu được cái gay gắt của Flaubert trong sáng tác như hiểu nghịch lý của văn chương, vừa mang sức mạnh của kẻ sáng tạo đang thắng tờ giấy trắng trước mắt, vừa có sức hủy diệt từng chữ, từng hàng, cả trang trên tờ giấy trắng đó do chính mình viết ra. Viết trong văn chương, nhất là làm thơ, không phải là chuyện viết nhật ký. Triết gia Rancière, trong tác phẩm La parole muette, Lời câm đã nhận định không sai : viết để chống lại cái trống, loại ra luôn chuyện bỏ chạy, nó là chuyện thấy được nhịp đời trong nhịp câu thật sâu kín luôn nằm bên trong của tư tưởng.
Thanh Tâm Tuyền thấy rõ chuyện này, nhưng anh có cách nói của anh, nhớ lại bài bao giờ :
"…chiều không xanh không tím không hồng
những ống khói tàu mệt lả… chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
như kẻ say rót rượu lấy mà uống… cho vui thêm cuộc hành trình (đúng rồi những người thù ghét thơ của tôi ơi)
cuộc hành trình hoàn toàn cô độc…".
Thời gian đã dắt dìu ý thức bằng cái thất bại giữa đời của chủ thể, cái thất bại này giúp con người hiểu sâu hơn cái thảm bại trong tình yêu, anh không vứt tư tưởng thơ của mình ra giữa khơi, anh bảo vệ tình yêu chống lại mọi ẩm thấp làm chìm ngộp tình yêu, làm nó đuối giữa dòng rồi vùi nó. vì con người còn có một sức mạnh khác : sức mạnh của tự do cho chính mình, sức mạnh này sẽ tạo ra được một không gian mới cho lời người -lời người chớ không phải lời nói- biết đưa người tới một kiếp mới, một kiếp sinh động biết đối thoại với những hẹn hò mới, biết đối thoại là biết mình còn sống, biết hẹn hò là biết mình còn yêu.
Thanh Tâm Tuyền là chủ thể bảo vệ sự sống :
"Đừng bắt tôi từ biệt. vì tôi còn chất đầy tiếng nói
tôi đã bao giờ muốn chết… tôi còn muốn sống muốn sống
thực hiện rừng danh từ của chúng tôi".
Thơ tình của Thanh Tâm Tuyền không ca tụng trơn tru tình yêu, cũng không than khóc thụ động ủ dột tình ái, anh tìm mọi cách bảo vệ chúng, ngay giữa những thời khắc tuyệt vọng nhất :
"Anh sợ những cột đèn đổ xuống
rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
bóp chết mọi hy vọng
nên anh dìu em đi xa… sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
sao tuổi trẻ quá buồn
sao tuổi trẻ quá buồn như bàn ghế không bầy".
Trong tuyển tập la part d’exil, mà tôi chủ biên cho đại học Aix en Provence, Thanh Tâm Tuyền khi nhận tham gia, đã trả lời : "Gần đây, tôi không làm thơ nữa, nếu người ta ngủ cùng giường với thời sự qua những chuyện tức khắc hằng ngày, sinh lực sẽ mòn, trí tuệ sẽ bị ao tù. Thơ như những nghệ thuật khác, cần không khí trong lành, cần nội lực trong sạch, cần não trạng trong sáng… chuyện bỗng dưng không làm thơ nữa đã xẩy ra với tôi trước năm 1960, thời điểm mà tôi bị khủng hoảng nhưng bằng sự sáng suốt giữa cơn điên, lúc đó tôi loại thơ ra khỏi tôi một cách ý thức và rất lạnh lùng, coi thơ như một loại rễ lạ bám vào thân mình, cứ tự hỏi : tại sao thơ ? Tại sao phải làm thơ ? Tại sao làm thơ giữa thời buổi này ? Tại sao phải chính tôi làm thơ thời buổi này ? Những câu hỏi ngu ngốc đó có sức sáng suốt của nó, nó đánh thức tôi đừng sống bằng ảo tưởng, trong thời gian như vậy tôi sống trong cái điên sáng suốt của mình".
Sự yên lặng không phổ biến thơ của anh không phải là chuyện anh ngừng hẳn suy nghĩ và suy ngẫm về thơ.
Tôi vẫn sống thiệt thà dù không còn hình ảnh
dù không còn âm thanh.
Khóa tin chắc một điều là Thanh Tâm Tuyền không hề ngừng suy nghĩ về đời, về thơ. Sự câm lặng này của thơ chống lại cái ồn ào của ngôn ngữ, yên lặng không phải là yên bặt, trí lực thơ vẫn đột nhập vào lòng người, đưa nhân phẩm lên hàng đầu, thơ đã đặt tình người vào một cơn lốc xoáy khác, đặc thù hơn, nơi mà nhạc của thơ đã nhập nội cùng sự lặng thinh của chữ, để lý trí được lẳng lặng sống trọn cho chính mình.
Chuyện lý trí vẫn là chuyện cốt, gốc, rễ trong thơ của anh, chuyện này đã có mặt trong bài lệ đá xanh :
tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình...
chuyện thể hiện ra ngoài bằng ngôn ngữ không còn chỗ đứng tuyệt đối với thi sĩ như Thanh Tâm Tuyền chỉ cần giữ cái nguồn, cái cội, cái mạch của trí tính, vừa lặng, vừa mạnh. Câm giọng không phải là nín lời. Đêm lắng của thơ không phải cái câm trắng của ngày, ta thấy rõ chuyện này qua bài đêm ; những người đi trong đêm, xuyên chiến tranh, thấu rõ mọi đổ vỡ, họ có "sức thấy" của họ mà người khác không có, vì họ đi nhiều, sống nhiều và suy nghĩ nhiều :
"Những đêm nào chiến tranh đã qua
con mắt đen niềm im lặng
anh vẫn đi hoài trong thành phố".
Mann khi bỏ đất nước Đức thân yêu mình ra đi, đã trách đồng bào mình là : "regarder sans voir", nhìn mà không thấy, nhìn và sống với Đức Quốc Xã từ lâu, hàng ngày mà không thấy chúng là bọn sát nhân. Thanh Tâm Tuyền thấy được thật rõ nhiều chuyện tai ương của đất nước, thảm họa của dân tộc trong tay của bạo quyền độc đảng toàn trị : " Hình ảnh tự do đổ vỡ… Các con ơi cha anh chết đều chưa đầy tuổi ba mươi. Đồng bào mình lạc lõng ngay trên đất nước mình, lạc đường giữa nhân sinh, lạc loài giữa đồng loại. Bầu trời nắng như màu bơ vơ, nắng nhiệt đới xéo bàn tay run rẩy.
Thuở sinh thời những lúc bàn bạc về "thơ gần ta, thơ xa ta", Thanh Tâm Tuyền rất gần với R.Char : "Souvent je ne parle que pour toi afin que la terre m’oublie" ; thường thì Thanh Tâm Tuyền có cách nhìn tình yêu của riêng anh : "Sẽ chết như sao rơi vào bất tận. Sẽ yêu như giọt nước hân hoan..." Valéry xem mỗi bài thơ là một cơn bão của tư tưởng : "Il me semble voir la figure une pensée pour la première fois placée dans notre espace ", mỗi bài thơ mang một khuôn mặt mà hình như lần đầu ta thấy được tư tưởng được đặt giữa không gian của chúng ta. Thanh Tâm Tuyền cũng có cách nói của anh : "Cho đi hoang làm cơn lốc bi thảm. Cuốn ngay chính mình chết theo không gian...".
Thanh Tâm Tuyền rất tránh các thi sĩ suốt ngày "đẽo chữ" cho đẹp, anh thích gần các thi sĩ "đào sâu từng chữ", sự thật không phải là chuyện đẽo đục, mà là chuyện đào để tìm, sâu cùng vực, đắm cùng hoạ, để thấy rõ kiếp người, chữ ghẻ lạnh của riêng Thanh Tâm Tuyền ra từ đáy vực : "Trưa nắng cháy vào sâu trong ghẻ lạnh. Với máu trong tim. Chảy nhanh như máy móc đau ốm". Thanh Tâm Tuyền thấy rõ hoang tàn, nhìn rõ tuyệt vọng, chủ thể thất bại nhưng nhân sinh không thảm bại, nhìn thấy được vực để tránh nó, để sống ; đào sâu từng chữ để rèn cứng từng lời, không bầy biện biểu tượng, không phô trương luân lý, để giữ cho bền sức ý thức của tự do.
Cả đời là sa mạc. cả tôi là tự do. Chất tự do của chủ thể trong thơ Thanh Tâm Tuyền luôn bị đe dọa, người ta yêu quý nó, nhưng đối với Thanh Tâm Tuyền nó cũng là nơi của bao gẫy đổ qua thời cuộc, nó nói lên bao hữu hạn của kiếp người, với bao mất mát trước các tai ương của chiến tranh, làm tật nguyền tâm linh của nhân sinh. Làm người cách nào thì trọn vẹn khi đã mất lòng tin ? Nhưng bất cứ giá nào cũng phải ôm ấp cho bằng được chủ thể tự do : "Anh ôm ghì sự bất lực đói khát, mũi dao nhọn giữa lòng tin". Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền chữ tự do có lịch sử riêng của nó vì không hiểu tự do làm sao hiểu được tình yêu. Người ta chỉ yêu khi tự do. Đây cũng là cuộc đối đầu giữa cái ác và cái nhân, trong thơ của Thanh Tâm Tuyền con người phải đi qua đêm để thấy một loại ánh sáng mới đứng giữa lòng đêm, rồi cùng nhau lấy chung một quyết định chém đầu chuyện cúi đầu, nếu lấy thời điểm 1975 làm con mốc cho chuyện biến thiên của người Việt, thì hai mươi năm trước là chuyện di cư : "Tôi chờ đợi. lớn lên cùng giông bão. Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai. Tìm cánh tay nước biển… Con ngựa buồn. Lửa trốn con ngươi…". Rồi gần hai mươi năm sau là chuyện di tản : "rũ bỏ ký ức- ký ức người… nuốt trọng điếm nhục… và đi… biết trí nhớ khuất ngoài tích sự…". Thơ Thanh Tâm Tuyền gom được sử đời, rồi sẵn sàng cõng nó trên lưng và đi. Thanh Tâm Tuyền trực diện với lịch sử, bạn bè của Thanh Tâm Tuyền kể là năm 1954 giữa đợt di cư, Thanh Tâm Tuyền còn lấy chuyến bay cuối cùng để trở lại Hà Nội nhắn gởi gần xa hãy thận trọng với chế độ độc tài mới. Rồi giữa dòng người di tản trước ngày 30 tháng Tư, có bạn bè gặp Thanh Tâm Tuyền và hỏi : "Nên đi hay nên ở ?", Thanh Tâm Tuyền trả lời : "Đất nước của mình, mình ở, không đi, ở và chấp nhận cái giá ở lại này !". Nhưng quyết định ở lại đã lao lý hóa Thanh Tâm Tuyền trong các trại cải tạo hơn 10 năm, đây cũng là tà thuật của bạo quyền tìm mọi cách truy diệt chủ thể sáng tạo.
Thanh Tâm Tuyền cũng chấp nhận cái thử thách lớn nhất của thi ca trong cuộc đời làm thơ của mình, đó là chuyện thấy được cái chung của nhân sinh nằm trong sinh lực chỉ của một chủ thể, chủ thể không phải là một người riêng rẽ, chủ thể là nơi hội tụ của mọi biến cố mà nhân loại có thể chưa biết, nhưng qua chủ thể này các biến cố giờ đã được xếp thành biến cuộc mà con người có thể hiểu được qua thi ca, thơ khung lại biến loạn, thơ rào lại biến tâm, rồi đi tìm nghĩa sống mới cho nhân loại. Triết gia Deleuze, cùng thế hệ với anh nhận rõ được điều này : "Un seul et même océan pour tous les gouttes, une seule clameur de l’être pour tous les étants". Chỉ một và cùng đại dương cho mọi hạt nước, chỉ một cuộc bùng nổ của một chủ thể cho mọi người, bùng nổ rồi gẫy đổ, chủ thể này chấp nhận rơi vào cô đơn, đi từ chuyện thất bại này qua thảm bại khác, để thơ tự lột được vỏ bề ngoài của mình, và thơ sẽ trao nội chất của nó cho chủ thể.
Như vậy nhân sinh sẽ cứng cáp hơn, nhân loại sẽ chịu đựng bền bỉ hơn trong nhân thế hỗn loạn. Không sợ cái tàn nhẫn, vì lửa hẹn vẫn hôn gót chân, vì con người vẫn ham muốn chuyện hẹn hò, bất chấp chiến tranh.
Em hoàng hôn trút áo
ngực gọi đêm về
vì còn đồi đá sỏi
cần lửa hôn gót chân… sao vỡ trên môi.
Thanh Tâm Tuyền có cách nuôi hy vọng riêng cho mình, Thanh Tâm Tuyền rất sáng suốt khi bình câu "l’espoir pour rien" của Char, hy vọng chẳng để làm gì ; Thanh Tâm Tuyền cũng hiểu lời dặn của Héraclite : "l’homme qui ne s’abandonne pas à l’espoir n’atteindra jamais l’inespéré". Người mà không bỏ rơi hy vọng sẽ không tìm tới được sự vô vọng. Trong tuyển tập La part d’exil cùng với Tô Thùy Yên và tôi, Thanh Tâm Tuyền kể cho bạn đọc tiếng Pháp nghe được về nỗi thất vọng của Thanh Tâm Tuyền, nơi mà Thanh Tâm Tuyền biến trí tuệ mình thành cấm địa, loại ra khỏi mình những quan hệ xã hội không đâu, tạo điều kiện cho sự trở lại bất chợt và lạ lùng của thơ. Thanh Tâm Tuyền còn tâm sự mỗi lần thơ trở lại, giữa cảnh tù đày cải tạo, Thanh Tâm Tuyền thấy được hạnh phúc, có khi thấy hơi mắc cỡ, Thanh Tâm Tuyền viết chữ pháp "timide", rồi giấu những bài thơ đó như hồi còn trẻ, như giấu cái vui sướng thật riêng tư.
Hoang vu lời thơ ai heo hút cùng cỏ cây heo hút
dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn chốn bình minh lẩn lút.
Biết tìm cho mình nẻo nguồn chốn bình minh lẩn lút là biết sống. Có những thi sĩ mỗi ngày đều làm thơ nhưng không có chỗ riêng tư để bảo vệ thơ mình, nhiều khi thơ của họ không có chỗ để dung thân, Thanh Tâm Tuyền tự dặn mình tạo chỗ nương thân cho thơ. Không khí nhiễm độc. đập vỡ. quá khứ hỗn xược trên da trống. Cái khó hằng ngày là nuôi hy vọng của mình ngay trong địa ngục trước mắt, mà đạo Phật đã phạm trù hóa được, rồi đặt tên cho nó là : địa ngục điện tiền. Nhớ lại bài Đêm đông ở k2 Tân Lập : "…còn qua bao cửa ngục ? Đây quê mình quê người ?...", địa ngục cải tạo loang như vết dầu trùm phủ cả quê hương, rồi người Việt không còn nhận ra đất nước của mình nữa.
Nếu cái ác của bạo quyền mang con người ra để "đấu giá" thì nhân tính sẽ thất bại, nhân sinh sẽ chết ngộp, nhân tình hấp hối giữa đời. Giọt sáng rơi kiệt cùng cõi hư. Không gian tối tăm này, cũng được anh đặt tên là : Miền khuyết sử, Thanh Tâm Tuyền phân tích rõ ý mình : "Sự thật… sự thật như rắn rết, chuột bọ, ếch nhái, như rau cỏ, quả rừng được ăn nuốt vội vàng bất chấp mọi phép tắc. Bố đã nhai nghiến trệu trạo bằng hai hàm răng đau nhức với sự thực lượm trên đường…". Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền, chủ thể đi hoang để tự cứu mình, vì môi trường sống đã thành môi trường chết, ngày mình sinh ra đời là ngày mình đi lạc trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn này, ngày sinh nhật của Thanh Tâm Tuyền trong trại cải tạo là ngày đất đã không giữ được người, trong bài Sinh nhật trên đồi, Thanh Tâm Tuyền thổ lộ : "… Hắn tự chôn theo gió cuối trời". Anh biết rất rõ thơ của Milosz : "Les morts les morts sont au fond moins mort que moi…", những người đã chết nhiều khi ít chết hơn tôi. Nhưng Thanh Tâm Tuyền không phải Milosz, Thanh Tâm Tuyền thấy được lối ra của nhân sinh giữa vũ trụ sang mùa, lối thoát của nhân loại đi tìm một loại ánh sáng mới bằng tự do của quyền làm người, tự mình tìm lối đi cho chính mình, không để cái chết tự do độc thoại.
Trong bài Vang vang trời vào xuân, giữa trại tù cải tạo Thanh Tâm Tuyền thấy được mùa xuân đang dẫm trên vai cái ác, đang vượt trên đầu cái vô nhân, đi tìm ánh sáng mới giữa mùa xuân mới để đào sâu hơn ý nghĩa -và ý định- của tự do : "Vang vang trời vào xuân. Ta bật kêu mừng rỡ. Ôi bạn bè xa xăm. Tim ta cũng cháy đỏ. Rừng thẳm bóng trăng ngàn". Thanh Tâm Tuyền sống thật với câu chữ của mình, thơ của Thanh Tâm Tuyền là thơ tự do, tự đào trong chữ, tự thoát trong câu, tìm nhạc tính cho riêng mình không bị lệ thuộc vào thói quen của vần điệu nhân gian. Thanh Tâm Tuyền làm thơ như chủ thể luôn tìm ra được các chân trời lạ để thấy và để sáng tác : " Đau như thú dữ cháy rừng. Ta đập vỡ hình hài và thức giấc".
Thanh Tâm Tuyền là chủ thể thức để thấu :
"Em gối đầu sương xuống
Trò chuyện với bóng mình
Tôi đẹp như hình tôi
Như cuộc đời, như mọi người…".
Giá trị tâm linh luôn có chỗ dựa bắt đầu là sự tỉnh thức rồi từ đó là sự thức suốt, một nhân tri của nhân lý, bỗng nhiên khi thức tỉnh thì sẽ tỉnh táo mãi mãi, khoảng thoắt chốc sự tỉnh thức giờ đã thành sự nhận thức thường xuyên cho cả đời người. Phương trình tỉnh thức-nhận thức, làm nền cho mọi hành động mang nội chất tâm linh trong đó có trọn vẹn hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) của nhân trí. Câu chuyện của một người con gái, chỉ một mình, đơn thân, khi gối đầu sương xuống, nhưng không cô đơn, đã biết tự trò chuyện với bóng mình, lập nên cuộc đối thoại có nhiều đối tượng, có hình tôi, có cuộc đời, có mọi người. Như vậy là đã đầy đủ, không thiếu ai, cái tôi ích kỷ vì tôi chỉ thấy tôi đã không được tham dự vào cuộc hội luận về cái đẹp này, nhật thứ của cuộc hội đàm này không chỉ có một cái đẹp mà có ít nhất tới ba cái đẹp : tôi đẹp, cuộc đời đẹp, mọi người đẹp.
Như vậy, nơi nào có sự sống, người ta sẽ tìm ra cái đẹp. Câu chuyện ở đây là giá trị tâm linh nêu lên cái đẹp đa phương, đa chiều, đa dạng của cuộc sống từ tôi ra tới cuộc đời, trong đó đã có mọi người, và từ ba cái đẹp đa nguyên này thì thế giới bên ngoài sẽ đẹp, vũ trụ trên cao cũng sẽ đẹp theo chăng ? Nhưng các giá trị tâm linh có khác với các giá trị minh triết không ? Có chứ ! Các giá trị minh triết tìm lối thoát cho mọi khúc mắc của cuộc đời, có lúc minh triết tính chuyện "thoát tục", chấp nhận chuyện "mai danh ẩn tích" để được an nhiên tự tại (sống yên để yên sống). Còn các giá trị tâm linh ở lại với đời để tìm cách sống đẹp, và cùng lúc bảo vệ cái đẹp của đời, của người. Tâm linh sống với người, ở lại với đời để nâng người lên cao qua cái đẹp, mở tầm nhìn của người để làm rộng đời, rồi đưa đời, đưa người, đưa tôi đi xa và đi sâu vào cái đẹp…
Thanh Tâm Tuyền là chủ thể thức để vượt oán, trong ngục tù lao lý của bạo quyền độc đảng, thơ của Thanh Tâm Tuyền đi trên lưng những oán hận, đi trên vai những thù hận, đi trên đầu những cừu hận : "Lòng phiêu linh không chút oán sầu". Các giá trị tâm linh luôn giúp con người vượt qua oán, sầu, thù, hận… để khi vào cõi của tâm linh với các giá trị cao, đẹp, tốt, lành, khi con người dẹp được chuyện mà đạo Phật gọi là tham, sân, si. Thi từ "Lòng phiêu linh không chút oán sầu" này của Thanh Tâm Tuyền được sáng tác trong những năm tháng bị giam cầm trong các trại học tập, mỗi khi ra khỏi trại giam để "đi lao động", là Thanh Tâm Tuyền có thể gặp được thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ, lá, hoa… đó là lúc Thanh Tâm Tuyền thấy sự thoải mái đã đánh thức được tuệ giác để "không chút oán sầu", để bao dung, khoan hồng, rộng lượng, vị tha tới hội tụ chung quanh ông.
Sống trong lao lý, nhưng chỉ cần một vài giờ giữa một không gian rộng không rào ngăn, không kẽm gai là lòng phiêu linh hiện diện ngay tức khắc, là các điều kiện để tiếp nhận cõi tâm linh sẽ có mặt tức thời. Lòng phiêu linh vừa là động cơ, vừa là kết quả của tự do, dù chỉ tạm thời, chính khi biết dùng tự do để gạt ra, để buông bỏ, để tháo gỡ, để trút rũ cho bằng hết mọi oán thù, để "không chút oán sầu"nào có thể bám được vào tâm cảnh lúc con người đang có tự do, đây là đường đi nẻo về để hiểu, để định nghĩa các giá trị tâm linh. Nếu thi ca đã vào nằm sâu trong các giá trị tâm linh để người nhận ra người, thì câu chuyện tâm linh luôn là sóng lòng chung giữa người và người, nó làm con người xúc động, thường đi đôi với nụ cười.
Thanh Tâm Tuyền thấy để nghe : "Vang vang trời vào xuân", giữa những năm tháng tù rạc tại các trại học tập. Câu chuyện tâm linh thường là chuyện khả năng tái tạo của nhân tri, cụ thể là lấy cái cũ làm ra cái mới, lấy cái mà ai cũng biết, ai cũng công nhận tạo ra cái sẽ được chấp nhận giúp ta có tâm yên-trí vững trước các bão tố của nhân sinh. Đây là câu chuyện lấy giá trị bình thường để tạo ra giá trị khác thường, mang theo cái đẹp mới, cái hay mới, cái tốt mới, cái lành mới, không những làm giàu cho cho nhân sinh quan của chúng ta mà còn để nâng cao nhân phẩm của chúng mình nữa !
Trong câu chuyện đi tìm đường đi nẻo về của các giá trị tâm linh, thì thi từ này đưa chúng ta vào một không gian tưởng chừng chỉ có sự im lặng, nhưng chỉ một trạng động từ vang vang, thì không gian với mùa xuân đã huyền diệu rồi, giờ lại thêm có âm thanh làm nó huyền diệu thêm. Một không gian xuân thì chỉ có màu sắc, không có âm thanh, vậy mà thi sĩ dùng vang vang như âm thanh đang tràn lan trong trời vào xuân, một giai điệu mà ta cảm nhận được khi ta thấy vạn vật đang sinh lộc, nẩy chồi. Và mỗi lần chồi lớn lên, lộc rộ ra, hoa nở rộng ra với màu sắc ngày càng rực rỡ, thì ta cảm nhận được dường như có âm thanh, dường như có giai điệu cho sự trở mình, cho cái đang mọc ra, cho cái lớn lên. Âm thanh của sự thăng hoa này lắng nghe chưa đủ, phải cảm nhận nó, để cảm nhận chất sống đang bật dậy rồi đứng dậy ngay trong sự sống, mà thính giác không đủ tài năng để nhận ra, mà phải cần sự nhạy cảm đầy đủ lực để trở thành sự nhạy tâm. Phương trình nhạy cảm để nhạy tâm là gốc, rễ, cội, nguồn của chuyện nhạy lòng trong cấu trúc của các giá trị tâm linh.
Trời vào xuân là chuyện của mùa màng, của ngoại cảnh, của quy luật bên ngoài trong sự vận hành của vũ trụ, còn câu chuyện nhạy cảm-nhạy tâm-nhạy lòng là chuyện bên trong, của nội tâm, một sinh hoạt nội giới được tâm linh kích hoạt nên nó thấy được, nó nhận ra, nó hiểu để thấu rằng : vang vang là kết quả của sự vận hành xuân, khi xuân đang tới với vũ trụ mà nhân sinh đã cảm nhận được nó. Mọi sự vận hành trong lắng động của mùa xuân, giờ đã được ta cảm nhận bằng âm thanh của vang vang, không những đang vang dội bên ngoài, mà cùng lúc đang vang động bên trong mỗi chúng ta, mỗi dịp xuân về.
Các người đã diệt
Hồn Việt hải ngoại của mô thức Du Tử Lê
Đông và Tây, có những con đường tâm linh thật khác nhau, trong quy luật sinh, bịnh, lão, tử của Phật giáo, trong đó lịch sử của Phật học có những trường phái cổ còn muốn đi xa hơn, trong câu chuyện thấy cái chết giữa cõi sống, đó là bài học lâm thi (quán chiếu thây người đã qua đời trong rừng để thiền định). Phương Tây thì chọn nhiều con đường khác nhau, trong đó có hai phái rất khác nhau, phái của Plotin phân tích thây người không đẹp vì sự sống đã bỏ thân xác, ông còn cả quyết một thân thể xấu luôn đẹp hơn mọi cái tượng qua điêu khắc được xem là đẹp. Descartes thì ngược lại thấy được thây người có thể không đẹp nhưng nghệ thuật có thể trình bày để nó trở nên đẹp, để kẻ chiêm ngưỡng sẽ phải công nhận là thây người có thể đẹp, nhờ nghệ thuật chế tác được cái đẹp. Câu chuyện của Du Tử Lê tự kể về chính cái chết của mình là một câu chuyện vừa buồn, vừa đẹp, và cái đẹp có mặt qua các giá trị tâm linh của kẻ lưu vong, cả kiếp sao không chấp nhận kiếp xa nhà, vắng quê, mất đất nước :
Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển
Đời lưu vong không cả một ngôi mồ
Vùi đất lạ thịt xương sao tan biến
Hồn không đi, sao trở lại quê nhà ?
Trước hết là câu chuyện : Đời lưu vong không cả một ngôi mồ, để kế tiếp là nỗi đau đáu của kẻ lưu vong luôn thấp thỏm khi nghĩ tới chuyện bị vùi thân nơi đất lạ : Vùi đất lạ thịt xương sao tan biến. Ở đây nội chất tâm linh đã làm lõi cho ý định-ý muốn-ý nguyện của hồn để biến thành ý lực của chuyện trở lại quê nhà, trong nhân dạng làm nên giá trị tâm linh của câu hỏi : Hồn không đi, sao trở lại quê nhà ? Khi câu chuyện tâm linh được khởi xướng lên trong đời lưu vong, thì mạch tâm linh là sự trở về quê nhà cho bằng được (bằng con đường tâm linh) :
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Ngược trôi đi đưa hình hài trở về
Bên kia trời là quê hương tôi đó
Dừa nghiêng nghiêng ôm hoài mối tình quê…
Hành tác tâm linh là thây người chết biết ngược trôi đi để hình hài trở về, vì bên kia trời dù xa lắc xa lơ đó, chính là quê hương tôi đó, và người chết có đủ nội lực tâm linh để nhận ra : dừa nghiêng nghiêng ôm hoài mối tình quê. Câu chuyện tâm linh kể rằng khi ta yêu một đất nước, một quê hương, thì ta yêu không sao kể xiết những người mà ta gọi là đồng bào đang sống trên quê hương đó, nhất là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của ta, đã giáo dưỡng ta trong mối tình quê. Đây là hình ảnh của mẹ, của em… mà kỷ niệm, mà ký ức đã giữ trọn để tạo nên cõi tâm linh :
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Vì em tôi, vì mẹ già vẫn chờ
Từ mắt buồn lệ đen hơn bóng tối
Thả tôi đi cho hồn người được nguôi…
Hành động yêu cầu người đang sống là thả tôi đi cho hồn người được nguôi, nơi mà động từ thả như một hành tác giúp hồn được giải thoát để kiếp lưu vong được giải oan, chỉ để được nguôi thôi. Ở đây trạng từ nguôi là kết quả tâm linh đã thực hiện được chuyện hồn được nguôi, hùng lực của tâm linh chính là đây ! Đã làm nguôi những đau đáu tưởng không sao nguôi được. Câu chuyện tâm linh vẫn chưa dứt, tư duy lưu vong lại khám phá ra chuyện tận tuyệt với hồn :
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
Đời lưu vong tận tuyệt với hồn tôi.
Vì nỗi buồn chỉ dứt khi tôi (được) chết, nhưng câu sau tại sao đớn đau lại trở về, lần này nó làm nên một nỗi đau mới, một nỗi đau tuyệt đối, ngay cả người chết lẫn người sống không biết có vượt qua được không : Đời lưu vong tận tuyệt với hồn tôi. Tại sao đời lưu vong lại là tận tuyệt với hồn ? Đây là câu hỏi mà cũng là câu trả lời cho tất cả những đứa con tin yêu của Việt tộc đang phải sống lưu vong, vì bạo quyền trên quê Việt không cho con dân Việt, được sống và chết với mối tình quê. Đây cũng là thử thách của bất cứ ai đang lưu vong lại đang muốn kể câu chuyện lưu vong, hoặc muốn viết sử về chuyện lưu đày của hàng triệu người Việt, để kể làm sao ? Và viết làm sao ? cho có đủ chiều sâu tâm linh của mối tình quê, cho có đủ chiều cao tâm linh của hồn được nguôi… Các người thanh trừng nhau vì quyền lực để tạo quyền lợi mà xây tư lợi thì tôi không tin là các người hiểu thấu hồn Việt hải ngoại của mô thức Du Tử lê.
Lê Hữu Khóa
(09/08/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Xóa thông minh Việt
Xóa thông minh Việt là bạo sách của bạo quyền độc đảng với ý đồ xóa đi thông thái Việt đã có nhân phẩm của tổ tiên Việt ; là tà sách của tà quyền độc đảng với ý đồ xóa đi thông minh Việt đã có nhân văn của dân tộc Việt ; là ma sách của ma quyền độc đảng với ý đồ xóa đi thông thạo Việt đã có nhân bản của con người Việt biết cứu nước và giữ nước.
Xóa thông minh Việt là phần II của Triệt luận dựa trên ba chuyên ngành đã làm nên liên minh khoa học xã hội và nhân văn có tự cổ triết, cổ văn, cổ sử của nhân loại được định luận chung quanh : chính trị học, triết học, đạo đức học.
Chính luận của chính trị học tri thức
Chính luận đưa chính trị vào lý của luận để luận giúp lý cho lãnh đạo chính trị ! Phương pháp luận so sánh sẽ xây dựng nên chính trị học phân tích dữ kiện chính trị và giải thích các sự kiện chính trị không những qua chính sách, mà còn qua hành động cụ thể, phối hợp với phân tích nội dung văn bản của chính sách cùng diễn văn của lãnh đạo, qua ngôn ngữ chính trị để giải luận tư duy lãnh đạo, từ đó tìm hiểu các diễn biến có trong ý định-ý muốn-ý đồ của lãnh đạo. Phân tích chính sách : mức độ của một chính sách là trình độ của lãnh đạo trách nhiệm chính sách đó. Phân tích hành động lãnh đạo : mức độ của hành động lãnh đạo là trình độ tư duy của lãnh đạo đó.
Phân tích tư duy của lãnh đạo : mức độ tư duy của lãnh đạo là trình độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo đó. Phân tích lý luận các chủ trương : mức độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo là trình độ trí tuệ của các lãnh đạo đó. Phân tích trí tuệ của lãnh đạo : mức độ trí tuệ của các lãnh đạo là trình độ các công trình ưu tiên của các lãnh đạo đó. Phân tích các công trình ưu tiên : mức độ công trình ưu tiên của các lãnh đạo là trình độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược. Phân tích các chính sách phát triển chiến lược : mức độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược là trình độ sáng tạo về phát triển bền vững. Phân tích các chính sách phát triển bền vững : mức độ chính sách phát triển bền vững là trình độ về hiệu quả của các chính sách đó.
Thấy nước mắt nhân tình để tiếp nhân tâm.Thấu xương máu nhân thế để nhận nhân nghĩa. Thấm sinh linh nhân loại để đón nhân tính. Muốn nhận chức năng, chức vụ, chức danh lãnh đạo chính trị hiện nay trước Việt tộc thì nên đứng ngay về phía dân đen, trắng tay vì nghèo khổ. Thì nên đứng cùng phía với dân oan, mất trắng đất, lẫn nhà. Thì nên đứng chung với công bằng, để có công tâm, để chống bất công.Thì nên đứng sát phía dân chủ, để sống chết với nhân quyền ! Các vị đang lãnh đạo, đang thất bại trong việc thăng hoa Việt tộc, xin quý vị xem lại, truy lại, soát lại, suy lại quá trình đào tạo lãnh đạo tại các quốc gia tiên tiến, xem lại giáo dục, truy lại giáo khoa, soát lại giáo trình, suy lại giáo án về lãnh đạo, quản lý và tổ chức, nhất là đào tạo nhân sự trong lãnh đạo.
Chỉ vì nội dung trầm trọng của thất bại trong lãnh đạo chính trị là : Việt tộc của quý vị phải bị rơi xuống vực ! Chính luận, không phải là thể loại văn được gọi tên là chính luận, mà chính luận ở đây là lý luận chính trị, tạo cơ sở tư duy cho những ai có nguyện vọng hay có tham vọng làm chính trị, muốn lãnh đạo trong một đất nước như Việt Nam, chưa đón được dân chủ, nên chưa nhận được nhân quyền. Lý luận chính trị vừa qua lịch sử, vừa qua thực tế ; không quên kiến thức chính trị là nền chính kiến, nhất là không quên tri thức lãnh đạo làm gốc cho ý thức lãnh đạo.
Chính luận trong tiểu luận này đi tìm cội là chính lý, dựa trên nhân lý, khi quá trình tri thức lãnh đạo chính trị là quá trình lý luận trên thực tế của nhân sinh, là lập luận trên chính sách để phục vụ nhân dân, với năng lực diễn luận các quyết định chính trị trước nhân tri, với hiệu quả giãi luận các hành động lãnh đạo trước nhân trí. Nếu muốn làm chính trị mà không có gốc, rễ, cội, nguồn từ nhân ; lại vắng luôn năng lực và hiệu lực của luận, thì đừng làm chính trị, đừng làm lãnh đạo, vì sẽ làm trong vô tri, sẽ lãnh đạo trong vô minh, sẽ chỉ hại dân, diệt nước.
Chính luận đi tìm gốc là chính tri, nơi mà kiến thức vừa là năng lượng chính trị, vừa là xương cốt của lãnh đạo, vì kiến thức là chất sống nuôi tri thức, tạo tầm vóc cho hiểu biết chính trị, dựng nên bản lĩnh của lãnh đạo từ rường cột là ý thức chính trị, là nhận thức lãnh đạo. Không quản lý nổi phương trình thức (kiến thức-tri thức-ý thức-nhận thức) này thì chỉ đưa dân tộc tới ngu dân, đưa giống nòi tới chướng nghiệp. Và thức luôn được đưa đường, dẫn lối bởi chính, ngược lại với tà, trái lại với ma, chống lại với gian. Chính tri làm thăng hoa chính nghĩa !
Chính luận đi tìm rễ là chính tâm, tạo ra thành tâm để có thành ý, nơi mà sự thành thật làm vững, làm chắc sức hoàn chỉnh của ý thức. Chính ý thức ngay thật tạo nên tâm thức ngay thẳng với mọi người để có chỗ đứng chính thống trong lãnh đạo : nói thì giữ lấy lời, hứa thì phải làm, nơi mà chính tâm làm ra chính quả, vì lừa dân, dối nước thì sẽ không sao có hậu trong chính giới.Chính luận mang chính khí ; tới tự chính ngôn, nơi mà ý thức chính trị làm cột xuong sống cho luân lý lãnh đạo, có trách nhiệm với chính ngữ vì có bổn phận với chính nghĩa. Qua đó, chính nghĩa tạo hùng lực cho chính khí trong lãnh đạo chính trị, như vậy phải lấy phương trình chính (chính lý, chính tri, chính tâm) để quản lý xã hội, để quản trị cơ chế, để được đi trên chính đạo với chính trị đúng, song hành cùng lãnh đạo đúng.
Dân luận của dân chủ chân chính
Tôi nghiên cứu nhân học trong nhiều năm nay, nhưng tôi vẫn mơ ước có một chuyên ngành nhân học mới sẽ ra đời, nó nhận ra nhân loại, vì thông hiểu nhân tình, vì thông suốt nhân thế, bằng nhân lý, nhân trí, nhân trí với chiều cao của nhân phẩm, chiều rộng của nhân văn, chiều sâu của nhân bản, có nền là nhân nghĩa, có gốc là nhân từ, có đường đi nẻo về của nhân đạo, giữa cõi bờ mênh mông của nhân duyên, nếu có được một chuyên ngành nhân học mới về phía chân trời này, thì có lẽ đó là : nhân học dân chủ ! Tôi đứng về phía nước mắt dân oan màn trời chiếu đất, nạn nhân của tham quan, tham nhũng. Tôi đứng về phía mồ hôi dân đen, suốt kiếp trắng tay, nạn nhân của bạo quyền bất công, tà quyền bất nhân. Tôi đứng về phía bóng tối lao lý của các tù nhân lương tâm, vì lương tri của Việt tộc…
Dân chủ chân chính từ đầu phiếu tới bầu cử, có ứng cử viên của hệ chính (chính tâm phục vụ dân tộc là gốc cho chính diện qua tài năng vì đất nước, làm nên chính nghĩa của kẻ vì dân-vì nước), chính quá trình này đủ lực lột mặt nạ của loại âm binh sinh đôi là đạo đức giả luôn đi cùng chính trị giả, đẻ ra quái thai đảng cử dân bầu, quái thú của tà quyền phản dân chủ trong chính giới. Khoa học luận của chính trị học là làm cho rõ chỉ có : dân chủ chân chính mới định nghĩa một cách chân thành thế nào là dân sinh.
Dân chủ chân chính từ định chế tới cơ chế, có hệ thống tuyển chọn theo hệ chuyên (chuyên cần qua chuyên môn, làm nên chuyên gia, được đào tạo trong chuyên khoa, qua một chuyên ngành được khoa học và giáo dục xác chứng), có gốc là quá trình của hệ thức (nơi mà kiến thức gầy dựng nên tri thức, tạo ra trí thức hiện diện trong xã hội để hỗ trợ dân tộc giữ ý thức, để bảo vệ luân lý giáo dục qua nhận thức để bảo trì đạo lý tổ tiên, bảo trì tâm thức của giống nòi trước các thử thách và thăng trầm của cuộc sống). Hệ chuyên này lột mặt nạ chớp nhoáng quá trình âm binh hóa xã hội của tà quyền qua chuyện đi ngang về tắt của học giả-thi giả-bằng giả, đẻ ra quái vật trong chuyện đi đêm về khuya của lãnh đạo giả-quản lý giả-chính trị giả, dùng độc đảng để giữ độc quyền. Phương pháp luận của chính trị học là hiểu cho thấu để phân tích tới nơi chốn : chỉ có dân chủ chân chính mới định nghĩa một cách chính xác thế nào là dân trí.
Dân chủ chân chính từ dân tộc tới đất nước, từ vận mệnh giống nòi tới tương lai các thế hệ trẻ, trong đó hệ phát (nơi mà phát huy tiềm lực dân tộc sẻ làm động cơ để phát triển đất nước), có chỗ dựa là hệ sáng (tại đây sáng kiến vì dân tộc làm khởi điểm để có sáng chế trong lao động, trong sản suất, có chỗ dựa là sáng tạo không những trong khoa học kỹ thuật mà trong mọi sinh hoạt xã hội, từ văn hóa tới nghệ thuật…). Khi song hành với nhau, thì hệ phát và hệ sáng mang nội hàm của dân quyền, vì mang thực chất của dân chủ, sẽ dẹp được hệ độc (độc đảng sinh ra độc tài, đẻ ra độc tôn, là quái thai là độc quyền), luôn cặp kè với hệ tà (tà quyền ẩn nấp như âm binh trong tà đạo của mua chức bán quyền, qua tà lực của bạo quyền). Tri thức luận của chính trị học là phải xây lý luận để dựng lập luận, khai sáng giải luận để tạo nên diễn luận : chỉ có dân chủ chân chính mới định luận một cách liêm sỉ thế nào là dân tộc.
Tự luận trong tự chủ, tự tin, tự trong
Tự do là rễ của hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể. Tự do là cội của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự do là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước. Tự do là nền của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Tự do là trụ của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sỉ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.
Tự do là cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội, và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.
Tự do là móng của hệ tư (tư duy, tư tưởng) trong đó các hệ thống tư tưởng văn minh luôn lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn), nếu không có tự do nghiên cứu, điều tra, điền dã, trong học thuật thì sẽ không có hệ phát (phát minh, phát huy, phát triển) trong tất cả các chuyên ngành khoa học. Tự do là mái nhà của hệ triết (từ triết học tới minh triết) đây chính là quá trình tiến hóa tư duy của nhân loại qua nhân tri luôn củng cố cho nhân.
Trực luận để trao luận
Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhân vật đang có quyền lực để gánh vác vận mệnh dân tộc hiện nay, dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ đừng lãnh đạo nữa ! Trực luận là trực diện để đối thoại với các lãnh đạo đang nắm chính quyền có nghĩa vụ chăm lo cho an sinh xã hội hiện nay, dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải từ chức !
Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhà cầm quyền, từ lập pháp tới hành rồi qua tư pháp, đang có trách nhiệm pháp triển đất nước, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) để thăng hoa dân tộc hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải rút lui càng sớm càng hay, để chỗ của họ cho những công dân có sáng dạ hơn họ ! Trực luận là trực diện để đối thoại với toàn bộ guồng máy của chính quyền hiện nay, phải có đa dũng để đưa đất nước ngang tầm văn minh của thế giới, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ đa (đa tài, đa hiệu, đa năng) mà không sợ đa nguyên để không diệt đa đảng, tất cả chỉ vì dân tộc hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải nhường vị thế của họ cho những công dân đa trí hơn họ !
Trực luận là trực diện để đối thoại với các cơ quan đầu não của chính quyền hiện nay, phải có nhân văn để bảo toàn văn hiến của Việt tộc, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải trao quyền của họ ngay cho những công dân có văn giáo hơn họ ! Trực luận là trực diện để đối thoại với các lãnh đạo của chính quyền hiện nay, phải có lý để bảo toàn lý lẽ của Việt tộc trước bọn xâm lăng Tầu tặc, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có hệ luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận) để tranh luận và trao luận tới đồng bào ta hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải tháo lui và trả quyền của họ cho những công dân có chỉnh luận hơn họ !
Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhân vật cầm cương nảy mực của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, và dùng quyền công dân để chất vấn họ qua hệ đối (đối trọng, đối kháng, đối đầu) với Đảng cộng sản Trung Quốc hay không, khi đất nước ngày đêm bị Tầu tặc đe dọa ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải rời quyền bỏ chức của họ cho những công dân có đối lực hơn họ ! Trực luận là trực diện để đối thoại với các lãnh đạo đang chịu trách nhiệm về tiền đồ của tổ tiên, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có biết hệ nhân (lấy nhân lý, nhân tri, nhân trí, để bảo toàn cho nhân bản, nhân văn, nhân đạo, để đưa nhân tình vào nhân tính, nhân thế vào nhân nghĩa) hay không ? Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải rời quyền cao, vị rộng của họ cho những công dân có nhân lực hơn họ !
Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhân vật có quyền quyết định tương lai của đất nước, hậu thế của đồng bào, và dùng quyền công dân để chất vấn họ để biết là họ có biết hệ Tầu (Tầu nạn từ lãnh thổ tới môi trường, sinh ra Tầu họa từ kinh tế tới xã hội, đẻ ra Tầu hoạn từ thực phẩm tới tư duy...) hay không ? Nếu họ không biết thì công dân ta yêu cầu họ phải cúi đầu rút lui ngay để chỗ cho những công dân có Việt lực hơn họ ! Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhân vật có quyền thế trong bộ máy chính quyền hiện nay, và dùng quyền công dân để chất vấn họ về hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức) với thực chất tham ô sinh đôi với tham nhũng hay không ? Nếu họ không biết thì công dân ta yêu cầu họ phải tháo lui ngay để chỗ cho những công dân vô vụ lợi hơn họ !
Trực luận là trực diện để đối thoại với các lãnh đạo đang nắm chính quyền hiện nay, và dùng quyền công dân để chất vấn họ có biết để chống hệ minh (có nội lực của minh quân, có bản lĩnh của minh chúa, có tầm vóc của minh chủ) hay không ? Trong lúc dân tộc đang chờ đón dân chủ thật, tự do thật, nhân quyền thật. Nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải từ chức, bỏ quyền ngay cho những công dân thông minh hơn họ ! Trực luận là trực diện để đối thoại với các nhân vật có quyền thế trong bộ máy chính quyền hiện nay, và dùng quyền công dân để chất vấn họ, để cân, đo, đong, đếm để biết xem họ có hệ năng (trí năng, tài năng, hiệu năng) hay không ? Đây cũng chính là khả năng của họ trong lảnh đạo, nếu họ không có thì công dân ta yêu cầu họ phải rời bỏ quyền lực ngay cho những công dân năng động hơn họ !
Các người đã diệt
Bản lĩnh của minh sư theo mô thức Vạn Hạnh
Đại Sư Vạn Hạnh vừa tu học một cách trí thức, vừa là minh sư từ đời Đinh qua đời Lê
Đại Sư Vạn Hạnh vừa tu học một cách trí thức, Ngài vừa là minh sư từ đời Đinh qua đời Lê, Ngài lại là thầy của Lý Công Uẩn, tiếng đồn đại là Ngài có thể là cha đẻ của Lý Công Uẩn, nhưng một điều chắc chắn là không có Ngài sẽ không có Lý Thái Tổ, không có nhà Lý, một triều đại minh và thông của Việt tộc. Minh sư phải là mưu sư, tài phân tích của Ngài mà người thời đó gọi là tài tiên tri, đoán đâu trúng đó, thật ra là thâm tài về tổ chức các sự cố vừa thuận lợi, vừa tích cực để tạo ra tình thế mới, nhất là để thay đổi cán cân lực lượng trong chính trị, trước sự suy đồi của một triều Lê đã không có lối ra, trước họa xâm lăng của giặc phương Bắc. Không những chính giới mà cả trong văn bản của Phật giáo thời đó (Thiền Uyển Tập Anh) kể lại không biết là bao nhiêu mưu lược của Ngài. Chắc là cũng từ Ngài mà ra câu chuyện con chó đen mang trên lưng hai chữ trắng : thiên tử, để mọi người khi thấy phải đoán năm Tuất tới thì nước Việt sẽ có vua mới, cách dọn đường đầy mưu trí để Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nhà Lý như đã cầm được trong tay : "thiên mệnh".
Minh sư phải là mưu sĩ, tuệ giác nhận định tình thế của Ngài luôn tôn trọng quy luật tổ chức không gian qua thời gian, ưu thời mẫn thế, để nắm phần chủ động trên chiến trường. Ngài luôn được Lê Đại Hành tham vấn về các chuyện hệ trọng cho cơ đồ Việt, tuân theo lời Ngài, Lê tướng quân đã đánh đúng lúc để đánh thắng trọn quân xâm lược phương Bắc và quân Chiêm phương Nam. Minh sư ngay trên mặt trận giữ nước, Ngài là cầu nối từ đời Đinh tới đời Lê, qua tới đời Lý (mà ngay trong hậu đài Ngài đã tạo gầy dựng nên). Minh sư phải minh trí, chuyện thịnh suy của một triều đại, chuyện thăng trầm của một đất nước, cũng là hệ vô thường trong Phật học, điều này Phật Hoàng Trần Nhân Tông, đã thấy rất rõ, đã làm thơ ca tụng tài học sâu hiểu rộng, để nhìn xa trông rộng của Ngài. Thơ của Ngài mang tư tưởng sáng suốt về kiếp người, và rất tỉnh táo về lý luận lấy nhân tri để đánh thức nhân sinh : "Thân như bóng chớp có rồi không... Mặc kệ thịnh suy đừng sợ hãi...". Minh sư-mưu sư-mưu sĩ-minh trí chính là phương trình mà các lãnh đạo hiện nay phải ra trí, ra tâm, ra lực để học tập đại sự Vạn Hạnh, vì trận chiến chống Tàu tặc trước mắt cần rất nhiều minh, rất nhiều trí, rất nhiều mưu ! Vậy mà trong nội bộ hiện nay của các người lấy truy cùng diệt tận để lập bè, lập phái ngay trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì minh sư không sao có chỗ đứng, ghế ngồi.
Các người đã diệt
Nội công vạn pháp của mô thức Tuệ Trung thượng sĩ
Tuệ Trung thượng sĩ, tước Hưng Ninh vương, tên thật là Trần Quốc Tuân, là anh cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và cũng là người dạy dỗ Phật hoàng Trần Nhân Tông
Nội công vạn pháp của Tuệ Trung thượng sĩ, các người có thấy để thấu Vạn pháp của tự của ngài chăng :
"Vạn pháp vô thường cả
Tâm ngờ tội liền sinh
Xưa nay không một vật
Chẳng hạt chẳng mầm xanh
Hằng ngày khi đối cảnh
Cảnh đều do tâm sinh
Tâm cảnh đều không tịch
Khắp chốn tự viên thành".
Tuệ Trung thượng sĩ, được vua Trần Thái Tông phong tước Hưng Ninh vương, tên thật là Trần Quốc Tuân, chính là anh cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Tuệ Trung cũng là người dạy dỗ Phật hoàng Trần Nhân Tông, vì là bạn thâm giao với vua cha là Trần Thánh Tông. Khi hoàng hậu Thiên Cảm qua đời, vua Trần Thánh Tông quyết định cúng chay ngay cung, vua mời Tuệ Trung thượng sĩ và vua mời Tuệ Trung viết một bài kệ, đây là bài kệ :
Viết kề trình kiến giải
Như dụi mặt thấy quái
Dụi mặt thấy quái xong
Lại rỡ ràng tự tại.
Hôn mê giữa cuộc đời, chớp mắt khoảng khắc là thấy quái, thấy ma, nhưng biết dụi mắt là để sáng mắt, vì sáng mắt nhờ các giá trị tâm linh qua tu tập, qua rèn luyện để sống giữa đời mà nhận ra chiều sâu của tâm, để chủ động với cảnh. Khi vua Trần Thánh Tông hỏi ông về : "chúng sinh quen nghiệp ăn thịt uống rượu thì làm thế nào để thoát khỏi tội báo ?", Tuệ Trung thượng sĩ đã trả lời vua với bài kệ này, ông đã trao tặng cho đời phạm trù tâm cảnh của ông :
Vạn pháp vô thường cả
Tâm ngờ tội liền sinh
Xưa nay không một vật
Chẳng hạt chẳng mầm xanh
Hằng ngày khi đối cảnh
Cảnh đều do tâm sinh
Tâm cảnh đều không tịch
Khắp chốn tự viên thành.
Câu chuyện của Tuệ Trung thượng sĩ mang cái chung của Phật học, và luôn mang cả cái riêng của ông khi ông rèn đúc nhân sinh quan của mình bằng chính kinh nghiệm và tri thức của ông. Nên Vạn pháp vô thường cả có trong lời dạy của Phật, có trong các kinh Phật, nhưng Tâm ngờ tội liền sinh, thì phạm trù nhận định để lý giải sự ngờ vực sinh ra chuyện buộc tội là tư tưởng của ông. Vì Tuệ Trung thượng sĩ biết rõ luật nhân quả : Xưa nay không một vật. Chẳng hạt chẳng mầm xanh, cấu trúc luận nội tại của vạn vật là nhân ở trong quả, và quả có trong nhân ; nhưng câu chuyện của ông là câu chuyện đào sâu cảnh để thấy tâm, nên : Hằng ngày khi đối cảnh. Cảnh đều do tâm sinh. Và nếu tâm sinh ra cảnh, lục nội kết tâm sinh-tâm ngờ là cội rễ của tư tưởng của Tuệ Trung, giúp ta thấy để biết : Tâm cảnh đều không tịch. Khắp chốn tự viên thành, vậy thì ta nên lấy tâm để giáo cảnh, để lấy cảnh mà điều tâm.
Tuệ Trung thượng sĩ khi đối thoại với minh vương Trần Thánh Tông, ông mở lòng cho vua là đừng nên lấy thuyết quả báo mà quên đi vạn vật là vạn nguyên, mỗi loại một dạng, mỗi dạng một tính, mỗi tính một chất, mỗi chất được nuôi dưỡng và có cách sinh tồn cho riêng nó, ở đây vạn vật trong vạn nguyên, làm nên tư tưởng vạn tự (do) trong vạn (đa) nguyên, qua bài kệ sau đây :
Có loài thì ăn cỏ
Có loài thì ăn thịt
Xuân về thảo mộc sinh
Tìm đâu thấy tội phúc ?
Minh vương Trần Thánh Tông là minh quân sáng suốt, không bỏ cuộc, hỏi sâu về chuyện : "Vậy thì công phu giữ giới (không sát sinh) trong tu tập từ bao lâu là để làm gì vậy ?", Tuệ Trung được dịp nói rõ tư tưởng (riêng) của mình, chính tự do làm nên sự sáng suốt để biết siêu việt tội phúc, qua bài kệ :
Trì giới và nhẫn nhục
Thêm tội chẳng được
Muốn siêu việt tội phúc
Đừng trì giới nhẫn nhục
Như người khi leo cây
Đang yên tự chuốc nguy
Nếu đừng leo cây nữa
Trăng gió làm được gì ?
Tư tưởng của minh sư Tuệ Trung khi phân tích thì sắc nhọn, khi giải thích thì thoải mái trong thư thái, thong dong để có tự do trong thong thả. Trong các cuộc đối thoại giữa hai người bạn tâm giao, chắc là rất đắc khí, vua Trần Thánh Tông xem Tuệ Trung thượng sĩ luôn là thầy của mình để học hỏi, và mỗi lần vua hỏi một câu, cần có một giải thích về một chuyện, nhất là các câu chuyện có tầm vóc tâm linh cao rộng, thì vua luôn có câu trả lời đưa vua vào cõi đốn ngộ. Có lần vua hỏi về hành tác nào để đưa chúng ta vào được cõi giác ngộ ? Tuệ Trung lại lấy chiều sâu của tự để làm chiều cao của giác : "Hãy quay về tự thân mà tìm lấy cái tông chỉ ấy, không thể đạt được từ một ai khác !".
Các người giành độc quyền lãnh đạo trong độc đảng toàn trị mà các người không có cái tự (thân) của Tuệ Trung thượng sĩ là cái hùng của cái tâm, nó làm nên không những tự do, mà nó còn chế tác ra tự chủ, tạo ra tự lực, giúp những kẻ lãnh đạo biết tự tồn trong tự tin, lấy đời người để xây tự trọng vì có tự quyết. Nếu không thì không chóng thì chầy các người sẽ rơi vào dự đoán tiên tri của Tuệ Trung thượng sĩ :
Như người khi leo cây
Đang yên tự chuốc nguy.
Các người đã diệt
Tầm vóc chính quốc của mô thức Trần Thủ Độ
Lăng và bia mộ của Thái sư Trần Thủ Độ tại thôn Ngừ, xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Trong hành vi hèn với giặc, ác với dân, trong hành tác mưu hèn kế bẩn khi các người đang là lãnh đạo nhưng ngày ngày truy diệt nhau, thanh trừng nhau thì các người không bao giờ có được Tầm vóc chính quốc của mô thức Trần Thủ Độ. Thái sư để lại hình ảnh một nhân vật lịch sử gây ra bao tranh cãi trong Việt sử, một hình ảnh đôi : công thần và bạo chúa, không có Trần Thủ Độ thì sẽ không có nhà Trần, một triều đại thông minh hàng đầu của Việt tộc.
Nhưng Trần Thủ Độ cũng mang hình ảnh một kẻ tàn ác, mang đến cảnh giết chóc, tận diệt đời Lý, với phương châm của bạo chúa (nhổ cỏ phải nhổ tận gốc), cũng phải kể thêm chuyện xóa cả họ Lý trong lý lịch mà các nạn nhân nhiều kẻ phải thay thế bằng họ Nguyễn, chuyện nội hôn đã bảo vệ hoàng tộc Trần. Nhưng không ai không muốn tặng cho Thái sư danh vị : khai quốc công thần, vì không có Thái sư thì không thể có chiến tích lừng lẫy thắng quân Nguyên Mông, cũng sẽ không có luôn : Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, các minh quân đại diện cho văn hóa Việt vững, văn minh Việt sáng, văn hiến Việt bền.
Thái sư mang hằng số của chính quốc (vì nước xả thân), mang luôn ẩn số của bạo quyền trong quyết định tới quyết sách với bi kịch Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Trần Liễu... Nhưng trong trường hợp của Thái sư thì hằng số lấp, nhấn, dẫm, đè và đi trên lưng, trên vai ẩn số. Tình hình của Việt tộc hiện nay đang bị lấp, nhấn, dẫm, đè bởi độc đảng, tạo tham quyền, sinh tham nhũng, mang theo bao suy đồi như cuối đời Lý (lúc mà Tướng quân phải "ra tay"), như hiện nay với bao thoái hóa về đạo đức xã hội, bao bất công đang vùi dập dân đen, dân oan... Trong khi chờ đợi nhân quyền, dân chủ, công bằng tới với số phận Việt, thì trong thâm tâm của đại đa số nhân dân là mong cầu một sự xuất hiện của một minh chúa như Trần Thủ Độ có quyết định, giữ quyết đoán, nắm quyết sách để thay đời đổi kiếp cho Việt tộc. Vai trò lãnh đạo cá nhân của minh chúa là tiên quyết trong lúc chờ đa nguyên, dù minh chúa đó phải dùng bạo sách như Trần Thủ Độ, đó là kinh nghiệm của lịch sử, đó gần như là quy luật của sử luận, trong tư duy của một cá nhân lãnh đạo muốn cứu nước-cứu dân mà phải mang thân mình ra để xoay chuyển tình thế, và đẩy nó theo hướng thăng hoa, khi đã cả quyết là không có một phương sách nào khác cả !
Thái sư đã thuyết phục được vua Trần Thánh Tông, sau khi vua đã bỏ việc nước muốn đi tu tại Yên Tử, là vua phải trở về kinh đô mà nhận nghĩa vụ cứu nước, tiếp theo Thái sư đã thuyết phục được vua, cùng các tướng lãnh khác trong đại họa Nguyên Mông là : đầu của Trần Thủ Độ chưa rơi thì Trần Thủ Độ không rời bổn phận cứu nguy dân tộc. Đó là công thần, luôn mang theo công lý "vì nước xả thân". Trong lúc Việt tộc đang mong chờ một chế độ chính trị có nhân tâm để đưa văn hiến nhân quyền qua văn minh dân chủ vào xã hội Việt, thì Việt tộc cũng đang cần tức khắc một Trần Thủ Độ biết khai thác triệt để : hằng số minh chúa cứu quốc ! Một ngày nào mà nhân dạng có tầm vóc chính quốc của mô thức Trần Thủ Độ xuất hiện thì ngày đó chế độ độc đảng toàn trị sẽ sụp tiêu trong chớp mắt !
Các người đã diệt
Chính sư-trinh đức trong nhân dạng Chu Văn An
Đền thờ Chu Văn An tọa lạc trong khu di tích Phượng Hoàng, thuộc địa phận phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương
Các người ngày ngày truy diệt tất cả các nhân sĩ liêm chính đại diện cho lương tri của dân tộc, thì nhân dạng Chu Văn An có nội chất của chính sư-trinh đức không sao có chỗ đứng, ghế ngồi trong cơ chế độc tài nhưng hoàn toàn bất tài của các người. Chu Văn An vang danh với ba phẩm chất : trí cương trực, tâm tiết tháo, đời trong sạch nhưng Ngài không để đó mà sống thụ động trong vương triều, Ngài dùng ba phẩm chất này để chống bọn tham quan, chống lại sự thối nát đang đe dọa triều đình, đang đưa dân tộc tới hiểm nạn. Vì tham quan-tham quyền luôn là một hiểm nạn trong lịch sử cũng như trong tình hình hiện nay, tham quan-tham quyền có chỗ dựa là bạo quyền để lạm quyền, qua độc quyền do độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam, đang là một quốc nạn.
Ngài lấy đức độ với lý luận chặt chẽ, phân tích minh bạch, Ngài xin vua hãy chém 7 tham quan nịnh thần, và Ngài liêm chính tới cùng, vua không nghe thì Ngài từ chức, về ở ẩn, lại còn lấy bút hiệu rất khiêm tốn là : Tiểu ẩn. Việt tộc biết Ngài và luôn mong hiện nay phải xuất hiện thật nhiều Chu Văn An, ở bất cứ nơi nào có tham ô-tham nhũng, vạch mặt chỉ tên bọn "sâu dân, mọt nước", đã biến một bộ phận lớn của dân tộc thành dân đen, dân oan ! Không cần phải chém chúng, chỉ cần giáo dục chúng bằng đạo lý hay, đep, tốt, lành của Ngài, chỉ cần giáo dưỡng chúng bằng luân lý sống có trách nhiệm với tổ quốc, sống có bổn phận với nhân dân, đã làm quan thì không thể nào đứng ngoài vận mệnh của dân tộc, lại càng không thể dùng quyền để vơ vét, phải nghiêm minh để nghiêm trị.
Trong thời cuộc Ngài cũng như giữa thời thế hiện nay, bọn "mượn đầu heo nấu cháo", luôn thông đồng với bọn "thừa nước đực thả câu", đồng lõa với bọn "đục nước, béo cò", chúng móc ngoặc với lũ "thừa gió bẻ măng", tất cả chỉ là ký sinh trùng, chúng không "yêu nước, thương dân", ngược lại chúng chính là bọn "sâu dân, mọt nước". Tất cả bè lũ này, chúng luôn sợ nhân phẩm-nhân cách Chu Văn An, lấy sự thật để làm sáng chân lý, lấy chân lý để nói rõ lẽ phải, phải có mô hình chống tham quan Chu Văn An, cho xã hội Việt hiện nay trong đó trí cương trực, tâm tiết tháo, đời trong sạch vừa là lý thuyết luận, vừa là phương pháp luận, để dọn dẹp cho sạch "bọn nội giặc" này, vì chóng chầy chúng sẽ vào con đường "buôn dân, bán nước".
Chu Văn An chính sư-trinh đức, ngài còn là một người thầy cao quý, gương sáng cho giáo dục, thầy có nhiều học trò giỏi (Phạm Như Mạnh, Lê Quất Đỗ...), còn học trò xấu thì thầy không ngần ngại quở mắng, luôn dạy trò phải biết làm người để nên người. Ngài có tài cao đạo trọng, nhiều người, nhiều nhà xin được học thầy, Ngài nhận trách nhiệm mở trường Huỳnh Cung, kiến thức đi đôi cùng đạo đức. Ngài cũng đã là thầy của hai vua : Hiến Tôn, Dụ Tôn. Ngài còn là tri âm của Trần Nguyên Đán, của Mạc Đĩnh Chi, Ngài được thờ ở Văn Miếu, Ngài ơi ! Việt tộc thương, yêu, quý, trọng Ngài.
Các người đã diệt
Minh sư quân mưu của mô thức Trương Hán Siêu
Đền thờ Trương Hán Siêu tọa lạc bên núi Non Nước, ở thành phố Ninh Bình
Trương Hán Siêu tài giỏi, vì chung quanh Ngài ai cũng biết là Ngài thâm nho, thâm giáo, trong một triều đại vừa trọng Nho, vừa sùng Phật. Là minh sư cận kề Hưng Đạo Vương, quân mưu của Ngài được Trần tướng quân sử dụng, Ngài phạm trù hóa chiến thuật "vườn không nhà trống", tức là đốn cỏ ngay dưới chân bọn Nguyên Mông, tới cướp nước ta, vô hiệu hóa chúng ngay trên cái trò trộm, cắp, cướp, giựt của chúng là vừa cướp của dân, vừa giết dân. Những chiến thuật quân sự khác : lấy ít đánh nhiều, lấy không đánh có, Ngài luôn được sự lắng nghe của Hưng Đạo Vương, đứa con tin yêu của Việt tộc. Những bài học mà Ngài để lại phải vào giáo trình quân mưu cho các tướng tá hiện nay, vì làm tướng tá để đánh giặc, để đuổi giặc, để quét giặc ra khỏi biển, đảo, giữ trọn bờ cõi, giữ vững sơn hà của tổ tiên, chớ không phải để đi buôn bất động sản, đi khai thác ngân hàng, lòn lách bằng các đường dây độc quyền để chuyên quyền, cường quyền để lạm quyền, tham quyền để tham nhũng.
Trương Hán Siêu liêm chính, thế nên bọn nịnh thần, tham quan, gây bao thối nát cho triều đình thời đó, luôn tránh Ngài, chúng tránh Ngài vì chúng sợ Ngài, gian sợ ngay, tà sợ chính là chuyện dễ hiểu, nhưng không dễ diệt bọn "sâu dân, mọt nước" này. Và, như Mạc Đĩnh Chi, như Chu Văn An, Ngài tởm bọn nịnh thần, tham quan tới "lợm giọng", vậy mà hiện nay trên đất nước Việt loại này không ít, qua các đường dây "quan hệ-hậu duệ-tiền tệ", chúng "ăn trên, ngồi trốc", và chúng vẫn thói "cướp ngày là quan". Ngài sáng suốt luôn cả trong ngoại giao, gả các con gái gần xa của hoàng tộc cho tù trưởng để giữ liên minh với các bộ lạc chung quanh đất Việt, để che chở nhau trước bọn bá quyền phương Bắc, không bao giờ bỏ mộng xâm lăng các nước nhỏ. Ngài còn để lại các bài thi phú ca tụng đất nước mình, nhất là các bài về quê hương Ninh Bình, văn phong, thi từ của Ngài thật và đẹp.
Trương Hán Siêu còn có một cái đẹp khác chính là lòng chân chính của Ngài trong và sáng, nên Ngài không biết nhắm mắt trước các suy đồi của xã hội, nhất là suy đồi của tín ngưỡng, của đạo giáo, trong đó có Phật giáo thời đó với bọn ký sinh trùng mà Ngài phê phán là : "bọn áo thâm, áo vàng"... "không cày mà ăn"... "không dệt mà mặc". Bọn này bây giờ đầy dẫy, trùm phủ lên cả nước, chúng xây chùa, mượn áo thầy tu, để gạt dân, qua mê tín, dị đoan, chúng chuyên "khẩu phật, tâm xà", chúng mặc tu nhưng đi "buôn thần, bán thánh" ngay tại các chùa, các nơi tôn nghiêm nhất. Chúng quên thiền nghiệp, chúng lợi dụng công quả, chúng thích đếm tiền hơn học đạo, chúng quên lời Phật dạy : "yêu muôn loài như yêu chính mình", "mang tình thương xóa nỗi khổ niềm đau của chúng sinh", giữa lòng dân tộc hiện nay thì đầy nỗi khổ niềm đau của dân đen, dân oan, nhưng chúng ngoảnh mặt làm ngơ để tiếp tục vơ vét, chúng không phải là hòa thượng, không phải chân tu, chúng chính là các tham quan giả Phật để giết Phật ! Trong đường đi nẻo về của độc đảng toàn trị, thanh trừng để truy diệt nhau trong nội bộ, thì làm sao cac người có được nhân cách của Trương Hán Siêu : tâm phật-mưu sư-tỉnh trí !
Các người đã diệt
Tâm thức của nhân vị Mạc Đĩnh Chi
Đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
Mạc Đĩnh Chi để lại hậu thế nhiều bài học, trong đó chữ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức) của Ngài, muôn chiều, muôn dạng, khiến cả đám triều thần nhà Nguyên, cứ vỗ ngực là thiên triều, từ vua tới quan phải biết thế nào thông minh Việt, vừa sắc, vừa nhọn. Phong độ đại thần của Ngài làm nên từ ý thức tự chủ đó, biết mình là ai rồi, thì không bao giờ mặc cảm với đồng loại, run hoảng trước vua chúa, nhất là không bao giờ bị khuất phục trước đối phương, dù nó lớn tới đâu đi nữa.
-Bài học thứ nhất khi học thì phải học tới cùng, sử truyền thời thơ ấu của Ngài, nhà thì nghèo mà hình thể của Ngài thì xấu, bị người đời xa lánh. Ngài mê học nhưng phải "học lóm", đứng ngoài lớp mà nghe thầy giảng bài để... học, đó chính là bài học : học thì phải học tới cùng, học cho bằng được, học cho ra kiến thức. Đây là bài học rất hiện đại cho tất cả học sinh, sinh viên, kể cả những kẻ đã vỗ ngực là "đã thành tài rồi" trên đất Việt hiện nay, trong một bối cảnh trường học và đại học mọc lên như nấm, trên một đất nước đang chịu cảnh bi-kịch-học : học giả-thi giả-bằng giả ; có học vị và có học hàm trên giấy, mà không có học lực.
-Bài học thứ hai là tri thức, là với hình thể bị chê là xấu xí, mới hơn 20 tuổi, Ngài đậu Trạng nguyên, mà ngay cả vua Trần Anh Tông, khi thấy bề ngoài của Ngài không đẹp, không hợp, không muốn ngài có chức Trạng Nguyên. Ngài phải "dụng tri để trị vua" với bài thơ Ngọc tịnh liên (Hoa sen trong giếng ngọc), để khai thị, để khai minh, rồi khai trí cho ông vua này là : đừng chỉ nhìn bề ngoài, đừng nhìn dáng ông thấp, da ông đen, mà không nhận ra não bộ của Ngài, tấm vóc của Ngài, mà kết cục Ngài đã là thầy của vua. Thời đó, người ta còn biết Ngài giỏi cả cầm, kỳ, thi, họa.
-Bài học thứ ba là trí thức, Ngài chấp nhận đấu trí với đám đám quan của thiên triều, Ngài nhận ứng đối luôn với cả vua nhà Nguyên. Tri của Ngài vững, trí của Ngài nhanh, Ngài trả lời các câu đố của chúng vừa chính sát, vừa chỉnh chu, vừa toàn diện, vừa sắc nhọn. Ngài để lại không biết bao nhiêu là bài học về đối đáp (về đốp chác !) trước đối phương tự vỗ ngực cho mình là thiên triều. Mà chính vua Nguyên vì khâm phục Ngài mà tặng Ngài chức Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Có chuyện lạ là dưới (độc) quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, các lãnh đạo, các cán bộ của Bộ Ngoại giao, khi ta thể nghiệm hệ thức của họ về Mạc Đĩnh Chi, thì ta thấy họ không có kiến thức gì về Ngài, tức là trường, lớp của Bộ Ngoại giao không có giáo khoa, giáo trình, giáo án về Ngài, lạ thật ! Vì Ngài chính là tri thức luận ngoại giao Việt.
-Bài học thứ tư chính là cuộc sống liêm khiết, đạm bạc của Ngài, không nhận quà cáp gì của vua, chọn cái đẹp của thanh đạm, cái cao của thanh bạch, mà không sợ thanh bần, cho nên cuộc đời của Ngài tự nó thanh cao.
Các người là lãnh đạo độc đảng toàn trị với tham nhũng trị sinh đôi cùng tham tiền trị trong vô học trị sinh ra vô hậu trị thì làm sao các người có tâm để có tầm của Mạc Đĩnh Chi mà lo được chuyện đất nước.
Các người đã diệt
Minh tri của mô thức Nguyễn Bỉnh Khiêm
Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng
Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri đại tài được cả nước trân quý, các câu sấm của Trạng Trình mà cho tới giờ đây dân Việt vẫn thường lấy ra nghiệm, ra ngẫm để biết các chuyện "vật đổi sao dời" trong nhân sinh, mà kẻ hậu thế này sống bằng khoa học duy lý thì không sao giải thích được. Vì duy lý, nên hậu thế này xin được xem và được gọi Ngài là nhà tiên đoán chính trị vạn năng của Việt tộc, vì tiên tri thì hậu thế này không tìm ra được cái lý để lập ra cái luận. Còn tiên đoán thì cái lý ở trong cái đoán, dựa trên dữ kiện, trên chứng từ để lần tìm ra sự thật, để dọ dẫm ra chân lý, để phỏng đoán được tương lai. Và, trên cơ sở tiên đoán này thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là đứa con tin yêu của Việt tộc. Các bằng chứng : Ngài là thầy bói giỏi trong sử liệu chưa thuyết phục được hậu thế này, chớ riêng về chuyện Ngài sáng dạ, chăm chỉ, thông minh trên con đường học vấn thì chứng cớ rất rõ, rất đầy, nên hậu thế này xin tiếp tục gọi Ngài là nhà tiên đoán, và cũng không quên Ngài là một người thầy giáo mà ai cũng khâm phục, kính yêu !
Cứu cái đã suy, đây là kỳ tài của Ngài, có một không hai trên đất Việt, chính học thức gốc hoa hiểu biết sử nước Nam ta họ cũng phục Ngài. Ngài cứu Nguyễn Hoàng, khi khuyên nên vào Nam, Tướng này nghe lời vào Nam, không những sống sót trước đe dọa của chúa Trịnh, mà còn trị vì và phát huy được hàng trăm năm. Ngài cũng cứu luôn cả chúa Trịnh, khi khuyên Trịnh Kiểm, không nên diệt nhà Lê mà phải thờ nhà Lê, nhờ thế mà các chúa Trịnh cũng tồn tại cũng hàng trăm năm. Chưa hết, Ngài còn cứu luôn cả nhà Mạc, khuyên họ rút về Cao Bằng để có đất sống, để dung thân, nghe lời Ngài nhà Mạc cũng được "yên thân" trong nhiều năm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên đoán đúng thời cuộc, trúng tình thế, thì không những là minh sư mà là đại sư, luôn ở thế" đi guốc ở trong bụng các biến thiên", qua các bối cảnh chính trị vô cùng phức tạp. Ngày hôm nay trước họa Tầu tặc không bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính đất Việt, đồng hóa dân Việt, mọi người đang chờ có vài (hoặc có nhiều thì càng hay) Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để khai thị, khai minh, khai trí các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đang bị nhân dân gắn cho một "chính trị hiệu" thấp và xấu : "Hèn với giặc, ác với dân !". Thật lạ là năm thế kỷ sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn cận kề cùng nỗi lo với bao người Việt yêu nước với một câu tiên tri-tiên đoán rất chính xác, chứng tỏ tư tưởng chiến lược siêu phàm của Ngài : "...Biển đông vạn dặm ra tay giữ/ Đất Việt muôn năm giữ trị bình...".
Các người là lãnh đạo độc đảng toàn quyền mà không một nhân vật nào có liêm sỉ để có liêm minh mà bình cho đúng, nghiệm cho trúng, để đưa dân tộc ra khỏi họa Tàu nạn hiện nay, vì các người hoàn toàn vô tri trước mô thức Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Các người đã diệt
Nhân sĩ của mô thức Ngô Thì Nhậm
Nhà thờ Ngô Thì Nhậm tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Ngô Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm) để lại cho hậu thế thật nhiều bài học thật sâu, đi sâu để đào sâu nhân cách trí thức yêu nước của Việt tộc. Bài học đầu tiên là sống và làm việc vì dân, vì nước, Ngài phục vụ đất nước không ngừng nghỉ, Ngài ra làm quan cho triều Lê-chúa Trịnh, khi vận nước lâm nguy, phải cứu nước thì Ngài tận sức, tận công phò Quang Trung đánh giặc Thanh. Vì đối với Ngài cứu nước- cứu dân là chuyện chính còn chuyện triều này, triều kia là chuyện phụ, từ thái độ tới hành vi, từ quyết định tới hành động, tâm-trí-lực của Ngài luôn sống trong quyết đoán.
Chúa Trịnh vừa nhận ra sức thông minh của ngài vừa biết cá tính tự chủ của Ngài, gọi Ngài là tuấn mã, để xếp ngài trên cao, ở bên ngoài lũ ngựa "ăn không ngồi rồi" là bọn tham quan, ăn bám-sống nhờ lộc vua, tiền dân, bọn "sâu dân, mọt nước" này mà chúa Trịnh hiểu là bọn "tốn thóc, tốn cỏ". Bọn này có rất nhiều trong hệ thống chính quyền độc đảng hiện nay, mà chúng thì tốn kém hơn nhiều : chúng bán tài nguyên đất nước, chúng biển lận quỹ công, chúng "rút ruột" các công trình, để các công trình phải dẫy chết mà chúng đặt tên là đang bị : "đắp chiếu". Trong lúc chờ đợi một chế độ thật dân chủ, Việt tộc đang cần ngay một minh chủ hoặc minh chúa để "đắp chiếu", càng sớm càng hay bọn tham quan này.
Ngài viết sách rất sớm, năm 16 tuổi viết Nhị thập nhất sử toát yếu, năm 20 tuổi viết Tứ thư thuyết ước,và cả đời Ngài viết sách, lấy học thức phục vụ kiến thức, viết đạo đức vì đạo lý. Ngài đổ Trạng Nguyên, sau cha 9 năm là Ngô Thì Sĩ. Là một tác giả lớn, Ngài còn là văn hóa lớn, viết ra nhiều văn bản, luật lệ về giáo dục, văn hóa... khi Ngài được Quang Trung hoàng đế mời vào Phú Xuân để lo việc nước thủa thanh bình sau khi chiến thắng giặc Thanh. Minh chúa tin minh sư, vì minh sư học thật-giỏi thật, ngược lại với thời đại tham nhũng hiện nay, với không ít lãnh đạo với sự nghiệp giả trong học giả-thi giả-bằng giả ; không có học lực mà lại đòi học vị-học hàm chức giáo sư, mà không bao giờ nghiên cứu và giảng dạy tại đại học.
Quang Trung hoàng đế, khi gặp được Ngô Thì Nhậm, đã biết ngay tầm vóc dũng cao-trí dày của Ngài, hoàng đế luôn xem Ngài là tri âm, mà người biết chuyện thời đó gọi là "cặp bày trùng", song hành bên nhau, vì cả hai đều đem tài-trí-lực để bảo vệ quê hương. Khi Ngài quyết định rút quân về Núi Đèo, Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, tạo ra bối cảnh để trống thành Thăng Long, làm tăng lên sức chủ quan khinh địch của quân Thanh, để khi ta thần tốc tấn công với chiến công mùa xuân năm Kỷ Dậu, thì chúng phải bỏ cả cờ mà chạy, manh giáp cũng chẳng còn. Nguyễn Huệ minh tướng lúc đó còn ở Phú Xuân, khi được nghe kể chuyện quân ta rời Thăng Long rút quân về Núi Đèo, Tam Điệp, thì biết ngay đây là mưu cao- trí sâu của Ngài, tâm giao nên đắc khí, vì minh tướng đã gặp được minh sư.
Trước họa Tàu tặc hiện nay đang đe dọa đất nước, Việt tộc đang rất cần nhiều minh tướng và minh sư đây ! Hãy khám phá bản lĩnh "nhìn xa trông rộng" của Ngài : "Đánh giặc phải lượng thế giặc rồi mới đánh. Lượng phần thắng rồi mới hành động. Như đánh cờ, nhịn trước một bước, để thắng nước cờ sau, thế mới là tay cờ cao !". Bài học này hữu ích cho các lãnh đạo, các tướng lĩnh hiện nay trước họa của Tàu tặc. Chánh Sứ là chức vụ ngoại giao lớn nhất mà Quang Trung hoàng đế giao cho Ngô Thì Nhậm để lập lại ngoại giao với nhà Thanh, Ngài còn biết biến các chuyến công du qua Trung Quốc thành những chuyến mà Ngài còn gọi là tráng du, Ngài để lại tác phẩm lớn Hoàng Hoa Đồ Phả. Tâm khảm của Ngô Thì Nhậm được thấy rõ trong các chuyến đi này, khi Ngài chú tâm tìm lại các dấu vết của các danh nhân Việt trên đất Trung Hoa, hậu thế rất khâm phục tâm nghĩa của Ngài. Khi Ngô Thì Nhậm từ quan trước sự vô minh của triều đình sau khi Quang Trung hoàng đế qua đời, Ngài đi vào tu học, mài sắc nhọn thêm lý luận Phật học của Việt tộc, Ngài được phong là người thứ tư đã tiếp nối sự nghiệp của phái Trúc Lâm Yên Tử sau ba vị tổ đời Trần của phái này : Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.
Ai cũng biết mối thù "ngất trời" giữa Quang Trung và Nguyễn Ánh, thuộc loại "không đội trời chung", đào mồ, bới mả lẫn nhau. Nhưng khi Nguyễn Ánh giết một cách máy móc các quan quân của Quang Trung, thuộc loại thảm sát vừa tràn lan, vừa đầy hận thù, mà không phân biệt các công thần, dưới trướng Quang Trung, trong bối cảnh đó họ chỉ vì dân-vì nước. Nhưng Nguyễn Ánh đã mù quáng trong hận thù, khi Nguyễn Ánh cho người đánh đập Ngô Thì Nhậm đến chết, nên người đời thấy rất rõ : Ngô Thì Nhậm vĩnh viễn là minh sư, và Nguyễn Ánh thì không bao giờ là minh quân !
Trong nội giới lãnh đạo của các người là Đảng cộng sản Việt Nam, tướng thì cờ gian bạc lận, chính phủ thì mua chức bán quyền, đại biểu quốc hội thì cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước các bạo lệnh của Bộ Chính trị. Nơi mà, tam quyền phân lập đã là tam quyền đảng lập kiểu cực quyền trong cuồng quyền từ khi các người cướp được chính quyền thì làm sao mà một Ngô Thì Nhậm thứ hai có thể xuất hiện để ngồi cùng chiếu, ăn cùng mâm với các người được !
Các người đã diệt
Mô thức bác học Lê Quý Đôn
Ở thế kỷ XVII, Lê Quý Đôn đại diện cho hình ảnh của kẻ sĩ : thích học hành, ham khám phá, trí nhớ cao, Ngài là đứa con tin yêu vì tinh thông của quê hương Thái Bình, nhân dân yêu quý ngài, tặng nhau câu này : "thiên hạ vô tri vấn bằng Đôn", ai không biết thì hỏi Lê Quý Đôn. Ngài đỗ cả ba kỳ thi, năm 17 tuổi thi Hương, năm 27 tuổi thi Hội, sau đó là thi Đình, Ngài đỗ bảng nhãn, làm quan cho nhà Lê-chúa Trịnh. Ngài cũng là hình ảnh người thật trong học thật, học thật và khám phá thật, hoàn toàn ngược với sự suy đồi hiện nay trong nền giáo dục với bao kẻ mua bằng để mua quyền, bán chức, gian lận trong học giả-thi giả-bằng giả. Mà đến cả ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ lại tai tiếng vì đạo văn ; đến cả Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Kim Tiến, thi học vị giáo sư đại học rồi lại bị thu hồi vì không đủ hoặc không có trình độ. Trước mắt bao thế hệ trẻ đây là một nền giáo dục từ suy đồi qua đốn mạt, với các Bộ trưởng giả học.
Lê Quý Đôn đại diện cho sự tinh thông toàn bộ, sự minh thông dường như toàn diện, Ngài nghiên cứu về khoa học tự nhiên, Ngài phân tích xã hội, giáo dục, văn hóa... với khối kiến thức đồ sộ. Ngài có những công trình kiến thức mà hậu thế phải cúi đầu khâm phục, cả một cuộc đời dâng hiến cho học thuật. Ngoài tác phẩm lớn của ngài là Vân Đài Ngoại Ngữ, Ngài còn là nhà sử học, nhà tư tưởng, nhà chính trị học, nhà đại lý học, nhà ngôn ngữ học... với các tác phẩm thông thái : Đại Việt Thông Sử, Thủ Biên Tạp Lục, Bác Sứ Thông lục ; Kiến Văn Tiểu Lục, Thư kinh diễn nghĩa, Xuân Thu Lược Luận... Luôn là nhà trí thức chân chính, Ngài là tấm gương thật sáng cho tất cả trí thức, sinh viên, học sinh đang khao khát học hỏi, muốn dứt khoát thoát hoạn nạn trong tà thuật của mua bằng để mua quyền, bán chức, trong ma thuật của học giả-thi giả-bằng giả.
Nhân dạng Lê Quý Đôn có nhân cách một nhà nghiên cứu, một nhà giáo được người đời tôn kính, trong truyền thống hiếu học của Việt tộc, biết tâm niệm chuyện tầm sư học đạo để tôn sư trọng đạo, hậu thế này cứ mong có được một người thầy như Lê Quý Đôn để học cho thỏa chí, thỏa trí, thỏa khí ! Nhưng chuyện này đã bị các người là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam truy diệt bằng phương thức thất tri-bất trí của các người mà hiện này cả thế giới đều biết là hệ thống giáo dục của các người tạo ra là một hệ thống học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả !
Các người đã diệt
Mô thức duy tân của Phan Bội Châu
Mộ Phan Bội Châu trong Khu lưu niệm tại Huế
Đứa con cứng cáp của quê hương Nghệ An, quê hương của các kẻ sĩ ham học và yêu nước, dâng cho đất nước nhiều anh hùng, vừa có thư, vừa có kiếm, biết dấn thân để cứu nước. Dưới ách thống trị của thực dân cạnh một triều đại phong kiến hủ bại, Ngài chủ trương cách mạng triệt để qua giáo dục quần chúng, chấp nhận đấu tranh bạo động, Ngài muốn lập nên Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Ngài đi cả nước, gặp các chí sĩ cùng thời : Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp… để bắt mối đồng tâm. Phan Bội Châu kề cận phong trào Cần Vương, Ngài hiểu Cường Để. Năm1904, lập hội Duy Tân, tại Quảng Nam, năm 1905, Ngài cùng Tăng Bạt Hổ qua Trung Quốc, tại đây Ngài đã gặp Lương Khải Siêu đã khuyên Ngài nên dụng thơ văn để khơi dậy lòng yêu nước của Việt tộc. Đông Du, tại Nhật Phan Bội Châu đã gặp Phan Chu Trinh, nhưng bất đồng ý kiến về hai thể chế, Ngài chọn quân chủ và cụ Phan Chu Trinh chọn dân chủ qua nhân trí. Ngài chủ xướng phong trào Đông Du với hàng trăm du học sinh. Chân trời mới lập ra lý tưởng mới, xuất dương vì yêu nước.
Chủ trương Việt Nam Quang Phục Hội, là phải đuổi Pháp cho bằng được, chúng bắt giam Ngài tại Hàn Châu, Trung Quốc, xử án chung thân, nhưng phong trào bảo vệ Ngài nổi lên khắp nước, lan cả sang Pháp, sang Trung Quốc, thực dân phải đổi án qua : quản thúc. Tầm vóc cách mạng của Ngài là : chính trị đi đôi với văn hóa, trong đó nhân cách chính trị song hành cùng nhân cách văn hóa, đây là mô hình lãnh đạo chính trị với kiến thức uyên thâm của Ngài. Đây là một bài học vừa hiện đại, vừa cụ thể cho các kẻ lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam : không có kiến thức uyên thâm thì làm sao có văn hóa, không có văn hóa thì làm sao lãnh đạo chính trị ? Các tác phẩm của Ngài luôn khơi dậy lòng yêu nước, chống thực dân Pháp, Ngài là người thầy của mô hình giáo dân trong giáo dục (một ngày mà không học là môt ngày bị đe dọa mất nước), vì kiến thức dựng lên nhân tri, kẻ lãnh đạo phải vững nhân trí để trì vị với nhân tâm. Trong sự nghiệp trí thức của Phan Bội Châu toàn tập, 10 tác phẩm, hơn 5000 câu), hậu thế thấy tâm huyết của Phan Bội Châu :
"...Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng để rửa vết nhơ nô lệ...".
Trước họa Tàu tặc hiện nay, không có một lãnh đạo nào của Đảng cộng sản Việt Nam có được tâm huyết của Phan Bội Châu. Trong lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, không có một lãnh đạo nào nói lên được huyết lệ như Phan Bội Châu, trước khi từ trần để lại cho mai sau một bài học về lương tri trí thức, về lương tâm kẻ yêu nước : "Tôi có chí mà không có tài… tôi xin chịu tội với nhân dân...". Cuối cùng là không có một lãnh đạo nào của Đảng cộng sản Việt Nam vì nước-vì dân, nhận vận mệnh của dân tộc theo mô thức của Phan Bội Châu : "Hào kiệt đi đâu, giang sơn trơ đó !".
Các người đã diệt
Mô thức nhân trí của Phan Chu Trinh
Mộ phần Phan Chu Trinh tại quận Tân Bình, Sài Gòn
"Hỡi những người tuổi trẻ tài cao... rủ nhau đi học mọi điều văn minh", Phan Chu Trinh cả đời bị ám ảnh bởi chữ văn minh, vì Cụ biết chỉ có chữ đó mới đưa Việt tộc tới con đường phát triển, mới cứu Việt tộc ra khỏi con đường lạc hậu, nô lệ, độc tài... mà hiện nay độc quyền qua độc đảng. Phan Chu Trinh đậu phó bảng, nhận chức Thừa Biện Bộ Lễ. Cụ đi Pháp, sang Nhật, cổ vũ cho một dân tộc phải tìm lối ra bằng văn minh, lấy nhân trí làm nhân tri, lấy nhân tri dựng nhân sinh. Phan Chu Trinh vừa vận động cho dân chủ nơi mà cải cách đất nước đi đôi với thực hiện dân chủ, dân giàu nước mạnh qua trí của nhân, lý của khoa học, luận của văn minh. Thời đó, Phan Chu Trinh hiểu dân quyền sẽ tạo cường lực cho dân sinh, chế tác ra dân khí, giúp dân tộc thăng hoa, đây là nguyên tắc căn bản phong trào Duy Tân. Chính sách này với phương pháp luận tinh thông của nó không hề lỗi thời, và nếu chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam mà lương thiện trong chính quyền bằng lương tri trong chính phủ thì phải nghiên cứu thật kỹ, thật rõ đường lối của cụ Tây Hồ để cứu nước-cứu dân.
Phan Chu Trinh thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục (học đường vì nghĩa), cũng là một bài học rất hiện đại và hữu hiệu cho mọi cải cách giáo dục hiện nay, nơi mà chính sách giáo dục đang đi moi tiền-móc túi, từ phụ huynh tới học sinh. Tại sao hiện nay, lại có một cơ chế giáo dục đang bần cùng hóa các gia đình, các bậc cha mẹ bằng học phí quá cao ? Trong "Bản yêu sách của nhân dân An Nam", cụ viết tại Pháp, ưu tiên cho giáo dục là ưu tiên cho dân trí, trong chủ trương khai trí cho dân, qua kinh nghiệm cụ thể của Pháp, của Nhật...
Với Phan Chu Trinh, giảng dạy đi đôi với diễn thuyết, lấy lý để luận, lấy tri làm trí... với vai vóc trí thức thật sự, ngược hẳn với các kẻ luồn lách hiện nay trong nền giáo dục đồi trụy học giả-thi giả-bằng giả, không có học thực mà đòi học hàm, không có học lực mà đòi học vị, chưa bao giờ lên đứng trên bục bảng mà đòi chức giáo sư. Chưa hiểu lý làm sao lập được luận, kiến thức giả thì làm sao quang minh chính đại thảo luận để tranh luận ; bằng cấp giả thì làm sao giải luận qua diễn luận. Buôn chức, bán quyền không sao có chỗ trong kiến thức, trong giáo dục, trong học đường. Các người là lãnh đạo của ĐCSN các người đã diệt mô thức nhân trí của Phan Chu Trinh, vì các người dung túng và nuôi dưỡng bọn học giả-thi giả-bằng giả luôn lẩn tránh hội nghị, hội luận, hội thảo quốc tế, nhưng cũng luôn lén lút buôn giáo dục để tham ô, tham nhũng. Chính các người đã làm nên họa nạn vô học, chính các người đã tạo ra họa, nạn vô hậu cho cả Việt tộc hiện nay.
Các người đã diệt
Mô thức học sĩ Nguyễn Trường Tộ
Di tích mộ Nguyễn Trường Tộ nằm ở thôn Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Học sĩ nhận hưởng văn hóa phương Tây, mặc dù sinh ra từ một gia đình Nho giáo, Nguyễn Trường Tộ đã thấy rất sớm phải mở cửa để học bên ngoài, mở cửa để chống lạc hậu, để đưa dân tộc đi lên. Nguyễn Trường Tộ hiểu đạo Ki Tô giáo, Cụ có thể theo đạo giáo nầy, nhưng Cụ cũng hiểu là chuyện truyền đạo này cũng có âm mưu với thực dân trong thời đấy. Nhưng chuyện chính vẫn là chuyện triều Nguyễn thời đó phải tức khắc dẹp chuyện "bế môn tỏa cảng", bỏ chuyện "ngăn sông cấm chợ", mà hậu quả chuyện bài thị các sức mạnh của phương Tây về khoa học kỹ thuật gây ra bao hậu quả cho đất nước, cho dân tộc. Chính vì lạc hậu về khoa học kỹ thuật, mới lạc điệu với thời cuộc, để thực dân "đè đầu, đè cổ" dân ta. Cùng lúc đó Nhật Bản đã vào thời đại của Minh Trị Thiên Hoàng để liên tục phát triển cho tới nay. Chuyện lạc hậu của đất nước Việt trong thế kỷ của Ngài là lỗi của triều Nguyễn, của bọn quan lại vô minh chỉ biết vơ vét tiền của nhân dân : đúng như hoạn bịnh mà xã hội Việt hiện nay đang gánh chịu trong một chế độ độc đảng mà tham quyền sinh đôi cùng tham nhũng. Cuộc đời của Cụ gắn liền với bản 56 bản điều trần lên vua để canh tân đất nước, tâm huyết tri thức và ý lực trí thức của Nguyễn Trường Tộ là ở đây. Cụ chủ trương bước đầu của lãnh đạo của đất nước nên hòa với Pháp để học, nhưng bản thân ngài không hề cộng tác với Pháp. Cụ phân tích rõ ràng là phải củng cố lương lực, qua các chương trình đào tạo về cơ khí, kiến trúc, kể cả về luật, cùng lúc xem lại toàn bộ các mạch giao thông trên toàn đất nước, và đất nước Việt phải có nông học để tăng mạnh về nông nghiệp. Quyết tâm trí thức của Cụ thật rõ, không ngừng ở lý thuyết, Cụ muốn tham gia tích cực, trực tiếp vào các công trình do chính Cụ đề nghị, nhưng Vua không nghe, bọn tham quan ngăn chặn các công trình này với bao ngờ vực, với bao vô minh của một cơ chế dày đặc bọn tham quan "sâu dân, mọt nước".
Tình hình đất nước Việt hiện nay, cũng vậy nếu không nói là tệ hơn, với hàng nghìn bản điều trần hàng năm, nếu kể luôn mạng xã hội có thể là hàng triệu bản trần tình để canh tân đất nước, cải tổ cơ chế, cải cách giáo dục... Hậu thế hiện nay, tâm cảnh không xa Cụ bao nhiêu, vì hoàn cảnh "đồng thuyền" với Cụ lắm ! Triều Nguyễn không nghe, gian thần ngăn chặn, Cụ mang bao u uất và rút lui, ở ẩn, nhưng Cụ vẫn viết, vẫn điều trần, vẫn thiết tha với vận mệnh của dân tộc, cho đến khi bại liệt, thành phế nhân. Cả đời Cụ không rời chuyện học, nghiên cứu, thực nghiệm qua mắt thấy tai nghe qua các chuyến Tây du, Cụ thấy rõ một quân đội mà lính là nông dân với giáo, đao, gậy, gộc thì không thể thắng được thực dân có khoa học kỹ thuật trong tay, chúng chỉ cần nả đại bác trước, rồi chúng vào Gia Định, vào Đà Nẵng như vào chốn không người.
Thảm kịch của đất nước trong tay một tầng lớp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bịt mắt-bịt tai không nghe trí thức, y như thảm kịch ngày nay của thời độc đảng-độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, các người hãy đọc cho kỹ, thấy cho thấu qua lời cuối của Nguyễn Trường Tộ trước khi vĩnh viễn ra đi : "Một kiếp sa chân muôn kiếp hận/ Đất nướcViệt này ai là chủ ?/ Muốn đem tâm sự hỏi trời đây !".
Các người đã diệt
Nguồn sống kiến thức của mô thức Trương Vĩnh Ký
Mộ Trương Vĩnh Ký tại quận 5, Sài Gòn
Người đời truyền tụng Trương Vĩnh Ký là một kiệt xuất về ngoại ngữ, ông giỏi tiếng Miên, tiếng Lào, tiếng Xiêm, cùng với tiếng Pháp, tiếng Ấn Độ, tiếng Tây Ban Nha, kể cả tiếng Hy Lạp... Kiệt nhân ngoại ngữ, ông đi nhiều, biết nhiều, được hàn lâm viện Pháp mời làm thành viên. Đứa con thông thái của Nam Kỳ, ông là nhà bác học nghiên cứu về khoa học tự nhiên, xã hội, văn hóa... Nhân bất thập toàn, ông học với người Pháp, làm việc cho Pháp khi đó là thực dân đang đô hộ đất nước ta, những kẻ thấy ông được chính quyền Pháp trọng đãi một thời, thì họ "không tha" cho ông.
Trương Vĩnh Ký làm "thông ngôn" cho chính quyền bảo hộ Pháp, thì họ coi như đã "thông đồng" với Pháp, họ mỉa mai ông là : người tài nhưng làm tay sai cho Pháp ! Cuộc đời của Trương Vĩnh Ký mang bao nghịch lý, năm1862 ông trong phái đoàn Pháp, đi thương lượng với triều Nguyễn để lấy ba tỉnh miền Đông Nam kỳ ; sau đó ông lại theo Phan Thanh Giản qua Pháp để chuộc lại ba tỉnh đó, nhưng thất thành. Ông được các kẻ cầm quyền có tài của Pháp, các trí thức đương thời quý trọng, nhờ các ưu ái này ông được đi tham nhiều nước Tây Âu, đi nhiều nên thấy nhiều, thấy nhiều nên hiểu nhiều, bao lần ông khuyên triều đình phải canh tân đất nước, nhưng không ai nghe ông.
Trương Vĩnh Ký đủ bản lĩnh làm gạch nối giữa hai văn hóa Âu-Việt theo mô hình của V.Hugo là người ông rất khâm phục : giáo dục và báo chí là hai động lực để một đất nước có được văn minh và phát triển. Năm 1869, Ông cho ra đời Gia Định báo, Ông luôn vận động đưa thanh niên đi du học, với châm ngôn : "phải đi và phải về để phục sự đất nước".
Trương Vĩnh Ký quan niệm một công dân tốt phải là trò tốt và thầy tốt, phải làm được cả hai. Năm 1874, Ông tham gia giảng dạy trường đào tạo tham biện. Năm 1883, viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp, năm1864 Ông là Cơ mật viện cho vua Khải Định. Năm 1865, có tên Đô đốc Pháp sau khi tấn công các phong trào khởi nghĩa của miền Nam đã dùng lời hăm dọa, yêu cầu ông dịch văn bản của nó ra tiếng Hán.
Trương Vĩnh Ký làm ngược lại là dịch một bài thơ của Bùi Hữu Nghĩa từ nôm ra quốc ngữ : Ai khiến thằng Tây tới đây ha/ Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba/ ...Nam kỳ chi thiêu người trung nghĩa. Trương Vĩnh Ký viết Đại Nam quốc sử diễn ca, Trương Vĩnh Ký dịch Địa lý An Nam lịch sử ra tiếng Pháp, Ông yêu quý văn học nhân gian mà ông gọi là vàng ròng của văn hóa Việt. Ông mến chuộng Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Trương Vĩnh Ký luôn tham gia tích cực vào việc phát triển đất nước, nhân dân miền Nam thời đó để tên ông vào Tứ bất tử (bốn kẻ không bao giờ chết), vì ông luôn xem kiến thức là nguồn sống : đây là bài học cụ thể cho sinh viên, thanh niên, và là bài học cấp bách nhất cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, bớt tham quyền mà nên quý kiến thức, để dụng nhân tài, lấy đó làm ưu tiên để phát triển đất nước, để thay đời, đổi kiếp theo hướng thăng hoa cho Việt tộc.
Các người không làm Việt tộc thăng hoa, ngươc lại làm cả một dân tộc tụt hậu, trai đi làm lao nô, gái đi làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng. Các người đã triệt nguồn sống kiến thức của Việt tộc, như các người đã có ý đồ tự khi cướp được chính quyền là truy diệt cho bằng được mô thức nhân trí Trương Vĩnh Ký.
Lê Hữu Khóa
(08/08/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Triệt hiện sử Việt
Hiện sử là sử dụng dữ kiện của hiện tại và vận dụng sử kiện để tận dụng sử luận mà hiểu sử tính, mà lập chân dung và nhân dạng cho hiện sử Việt. Bạo quyền độc đảng hiện nay triệt hiện sử Việt với ý đồ triệt tiêu những hùng khí Việt đã làm nên hùng sử Việt của minh tộc Việt, của dũng tộc Việt, đã biết chống ngoại xâm để giữ gìn bờ cõi của tổ tiên.
Bức tranh thêu "Ông Đồ" của cụ Kinh phỏng theo nét vẽ Bùi Xuân Phái
Triệt hiện sử Việt là phần I của Triệt luận dựa trên ba chuyên ngành đã làm nên khoa học xã hội được định vị bởi khoa học luận thực nghiệm của M.Weber : nhân học, sử học, xã hội học.
Nhân học trong nhân Việt
Đất nước Việt Nam một lần nữa bị Trung Quốc xâm chiếm, lần này giặc phương Bắc bắt đầu cuộc xâm lược bằng cách chiếm hải phận của chúng ta, quần đảo Trường Sa thân yêu, trước đó họ đã chiếm Hoàng Sa. Lại một lần nữa, như nhiều lần trước trong lịch sử của Việt tộc, chúng ta sẽ đoàn kết với nhau để giữ trọn vẹn lãnh thổ của tổ tiên, vì tương lai của nhiều thế hệ mai sau, nhất là vì một đạo lý bao quát của nhân loại qua chữ : nhân, về đạo làm người, biết đạo lý và tôn trọng pháp lý. Chữ nhân lần này được thử thách trên một mặt trận lớn, đưa chúng ta đi xa hơn nữa trong nhân lý giữa bối cảnh toàn cầu hóa, trong nhân tính của quá trình thế giới hóa, chúng ta sẽ giữ cho bằng được nhân cách trước đe doạ của chiến tranh tới từ một đối phương lớn và thô bạo. Đây là một mặt trận vừa mới về nhân phẩm, vừa lớn về nhân sinh…
Trước thế giới, chúng ta phải đủ vai vóc của nhân nghĩa, tầm vóc của nhân giáo, nội công của nhân bản để thắng được đối phương trong lần thư hùng này, chính nghĩa của ta chính là nhân đạo, mà cha ông của chúng ta đã dạy chúng ta từ hồi lập quốc, từ khi Việt tộc là Việt tộc. Năm 1992, tôi chủ trì số báo : Chỗ đứng của văn hóa Việt Nam trong Khổng giáo, cho tập san Approches-Asie của đại học Nice-Sophia Antipolis, mà tôi đang làm giám đốc biên tập ; ngoài các bài viết của các chuyên gia, tôi giữ chỗ trung tâm cho bài phỏng vấn về Bản sắc Việt Nam do giáo sư Hoàng Xuân Hãn đảm nhận trả lời. Tôi tránh vòng vo, hỏi trực tiếp giáo sư : Bản sắc Việt Nam là gì ? Thì bác Hãn trả lời là : "Bản sắc của người Việt vừa là nhân phẩm của người Việt, mà cũng vừa là nhân phẩm của nhân loại trong chuyện làm người phải luôn đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của mình trước mọi thế lực ngoại xâm, nhất là những thế lực lại là những cường quốc".
Từ đó tới giờ đã hơn hai mươi năm, tôi không còn được nghe, được đọc các định nghĩa bản sắc của người Việt nào rõ ràng hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn định nghĩa này của bác Hoàng Xuân Hãn. Đây là chỗ dựa, chỗ đứng tạo ra lý luận và lập luận của tôi trong diễn tri chính luận này. Xin hãy coi đây như lời tâm huyết của tôi với tổ tiên tôi, với đồng bào tôi ; rộng hơn nữa hãy coi đây như lời tâm sự của tôi với đồng loại -không phải chỉ là đồng bào của tôi- trong chuyện bảo vệ nhân tính của nhân sinh hiện nay. Vì trên trận đồ này, không còn là xung đột đơn thuần giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà là một chiến trường không biên giới giữa thế giới nhân bản và Trung Quốc bá quyền. Không những chỉ có Á châu, mà Úc châu, Âu châu, Mỹ châu, Phi châu hãy cảnh tỉnh ! Cảnh giác càng sớm càng hay trên mặt trận này ! Vì trước sau gì bành trướng sẽ vô nhân, bá quyền sẽ thất nhân.
Chữ nhân là cả sự nghiệp của Khổng Tử, dân tộc Việt Nam từ nhiều thế kỷ đã học và đã hiểu chữ nhân của người thầy gốc Trung Quốc này, và Việt tộc chúng ta sẵn sàng chỉ bảo nhau, rồi dạy cho các thế hệ mai sau phải đào sâu thêm chữ nhân này. Chúng ta còn học được ở Mạnh Tử, Trang Tử… khi họ diễn luận để làm phong phú thêm chữ nhân này của Khổng Tử, mà chúng ta coi như là một luận thuyết lớn của đạo lý, một chủ thuyết rộng của của luân lý. Vậy mà, tháng 5 năm 2014, giới cầm quyền Trung Quốc lại vô cùng thô bạo, biến thành loại cướp biển, chiếm thềm lục địa Việt Nam theo phản xạ bành trướng trong thói bá quyền, bất chấp đạo lý, gạt bỏ luân lý giữa các láng giềng biết tôn trọng lẫn nhau.
Bất nhân khi bắt bớ ngư dân Việt Nam, vô nhân khi bắn giết các lính biên phòng Việt Nam. Hãy đặt một giả thuyết : nếu Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử đang sống cùng chúng ta trong đầu thế kỷ 21 này, thì chắc chắn họ sẽ cúi đầu xin lỗi dân tộc Việt Nam ! Hãy cùng nhau phân biệt "phong cách đại quốc" của Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử và "thái độ nước lớn bất nhân" của các nhà cầm quyền Bắc Kinh hiện nay. Nếu có "phong cách đại quốc", thì chúng ta sẵn sàng coi họ như đàn thầy, đàn anh… còn nếu chỉ có "hành vi nước lớn bất chính" đi ăn hiếp nước nhỏ láng giềng, cướp biển thì dân tộc ta đã có từ thủy man, bọn cướp biển man rợ.
Chữ nhân từ nay phải trở thành sách lược của Việt tộc trên mặt trận ngoại giao, chiến lược trên mặt trận quân sự, nhất là chủ lược trên mặt trận truyền thông của Việt Nam đối với thế giới để cảnh tỉnh toàn cầu về chủ nghĩa bành trướng vô nhân của Trung Quốc. Chúng ta sẽ dùng phạm trù nhân-hữu-nhân để đối mặt bọn vô-bất-nhân. Ông bà ta gọi chiến lược này là nhân địch luận, dùng nhân giáo của đối phương để thắng thái độ thô bạo, hành vi hàm hồ, phong cách lỗ mãng của đối phương, rồi biến chữ nhân ở đây đã trở thành : nhân dịp, nhân cơ hội, nhân thời cơ, nhân hoàn cảnh, nhân thời thế, nhân bối cảnh… để làm rõ chính nghĩa của ta, cùng lúc tạo điều kiện cho đối phương cải thiện, sám hối trở lại với nhân giáo do chính họ chế tác ra. Đây là loại chiến thuật thông minh, vì nó dựa trên đạo lý thông minh của đối phương, giúp đối thủ ta tìm mọi cách tránh cảnh sắc máu chiến tranh vô phương, chỉ vì vô minh của họ.
Cao hơn nữa, trong những ngày tháng tới, chữ nhân sẽ vừa là kim chỉ nam trong quá trình toàn cầu hóa nhân cách đạo lý Việt tộc, vừa là cầu nối nhân duyên giữa thế giới và Việt Nam trước thảm hoạ mới của chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc bất chấp công pháp quốc tế. Tứ hải giai huynh đệ sẽ được ta chuyển hóa thành năm châu nhân cách đạo lý Việt. Trong 40 năm sống với Việt học ở phương Tây, tôi học được nhiều phân tích của các chuyên gia, của giới chính khách, họ hiểu thấu về lịch sử Việt Nam, mặc dù họ không phải người Việt nhưng họ rất hiểu sâu người Việt, họ thống nhất trên nhận định : "Le peuple Vietnamien, un peuple farouchement indépendant" (Dân tộc Việt Nam, một dân tộc độc lập một cách quyết liệt).
Đừng hiểu chữ quyết liệt theo nghĩa quá khích mà hãy hiểu theo nghĩa quyết tâm, quyết chí và sẵn sàng quyết chiến để quyết thắng… Những chuyên gia phương Tây về Việt Nam này họ thấy rất rõ độc lập tính trong Việt Nam tính của dân tộc ta qua quá trình đánh giặc và đuổi giặc ra khỏi bờ cõi của tổ tiên. Các cường quốc ngoại xâm đã thua trận trên đất nước này, trong đó nhiều lần có Trung Quốc, trên ngàn năm chưa hề đồng hóa được Việt tộc.
Những năm gần đây, trong các buổi gặp gỡ tại Liên Hiệp Quốc về văn hóa, tôi lại nghe nhắc lại câu này : un peuple farouchement indépendant. Các chuyên gia ngoại quốc xem độc lập tính trong Việt Nam tính vừa là cái lõi lại vừa là cái gốc, vừa là cái nguồn lại vừa là cái rễ của dân tộc Việt… Tựu trung, nó là cái trung tâm -nhân tâm- tạo thành cái cốt cách, thể hiện nhân cách đạo lý của Việt tộc. Người nước ngoài nhìn dân tộc ta không sai !
Việt sử : tâm luận xây sử luận
Với Tâm luận thay Sử luận, là dùng tâm sự để tìm tâm giao qua lịch sử, qua đối diện tôn kính trước các danh nhân của Việt tộc, qua đối thoại khiêm cẩn trước các công thần của đất nước, mà không hề có tham vọng truyền sử, không hề có ý muốn trao sử, nên không hề mong làm chuyện viết sử. Phương pháp luận của tâm luận dựa trên thượng nguồn là : sử liệu, chính chức năng của sử liệu sẽ làm rõ nét vai trò lịch sử của các nhân vật mà tác giả tâm luận xin đối thoại khiêm cẩn. Cũng chính sử liệu với vị thế rõ ràng trong sử học của Việt tộc sẽ tạo –được hay không- tâm giao giữa các nhân vật được lựa chọn, tâm luận tìm tâm giao, chỉ để làm sáng một điều là hiện tại của nhân sinh thấy-hiểu-thấu được quá khứ của nhân sử, để tìm nhân lý cho nhân thế. Cũng chính sử liệu là tiền để lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận làm gốc, rễ, cội, nguồn cho đối thoại với các danh nhân, đối thoại này ảo hay thực là tùy vào tính khả thi trong quá trình xây dựng sử học đang trở thành khoa học lịch sử, như ta đang chứng kiến trong các quốc gia có văn minh dựa vào khoa học xã hội và nhân văn.
Lý thuyết luận của tâm luận dựa vào hạ nguồn của phân tích-giải thích-phê bình diễn biến Việt sử (cận đại và hiện đại) của Việt tộc, trong một thế kỷ qua, với bao cuộc chiến tàn khốc hàng sâu trong tâm lý dân tộc. Với bi sử mà hậu quả thật dai dẳng khi chọn một ý thức hệ ngoại tộc : cộng sản với phong trào cộng sản quốc tế mà từ khi đi vào quỹ đạo này, thì số kiếp của Đảng cộng sản Việt Nam không sao tách ra khỏi gọng kìm của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Bi kịch đã trở thành thảm sử, Đảng cộng sản Việt Nam đã buộc Việt tộc vào ba sử đạo thật bi đát : với một chế độ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị) ; mang theo nó một chế độ tham (tham quan, tham quyền, tham nhũng, tham ô) ; ngày ngày thiêu hủy sinh lực dân tộc ; trừ khử đa (đa nguyên, đa năng, đa hiệu, đa tài) như đang khử loại thông minh, trí tuệ của bao thế hệ.
Khoa học luận của tâm luận, là chống độc luận, như chống lối tuyên truyền một chiều, bị ý thức hệ xỏ mủi dắt đi, hay bị quyền lực chóp bu giật dây, thao túng với ý đồ bám quyền-ôm lợi, bất chấp lợi ích của dân tộc, mà tiền đồ tổ tiên ngày ngày đang bị Tàu tặc đe dọa từ biển đảo tới biên giới đất liền, từ chính trị tới kinh tế, từ môi trường tới thực phẩm. Chống độc luận bằng đa luận với đa lý của đa nguyên mà chỗ dựa là lấy nhân tính, nhân tri, nhân tri trong nhân lý để phục vụ cho nhân sinh, nhân tình, nhân nghĩa vì nhân đạo. Chống độc luận bằng đa ngành với đa lý của đa chuyên, vận dụng tất cả các chuyên ngành, chuyên môn, chuyên gia không những trong trong sử học mà của chung cả khoa học xã hội và nhân văn.
Tâm luận khẩn nguyện xin sử luận tìm cho ra nội luận lãnh đạo : Tại sao các minh vương thuở xưa có bản lãnh gì mà làm được chuyện quốc thái, dân an ? Tại sao các minh chúa thuở xưa có nội công mà làm được chuyện cơm no, áo ấm ? Tại sao các minh sư thuở xưa có tầm vóc gì mà làm được chuyện trong ấm, ngoài êm ? Tại sao các minh tướng thuở xưa có sung lực gì mà làm được chuyện giữ yên bờ cõi ?
Sử luận dìu tâm luận vào não bộ lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân. Tâm luận chân nguyện xin đào sâu sử luận tìm cho ra nội chất kiếp Việt : Tại sao các lãnh đạo hiện nay lại không có bản lãnh gì để làm được chuyện quốc thái, dân an ? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có nội công gì để làm được chuyện cơm no, áo ấm ? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có tầm vóc gì để làm được chuyện trong ấm, ngoài êm ? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì để làm được chuyện giữ yên bờ cõi ?
Tâm luận tìm vào tim óc lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân. Tâm luận cầu nguyện sử luận tìm cho ra nguyên nhân, lý do về nỗi khổ-niềm đau của Việt tộc : Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều dân đen-dân oan vậy ? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều tham quan-tham ô-tham nhũng vậy ? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bất bình đẳng, bất công vậy ? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bạo quyền-bạo lực-bạo động-bạo hành vậy ? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì để làm được chuyện giữ yên bờ cõi ?
Sử luận giúp tâm luận vào thông minh Việt, sáng tạo Việt để tâm luận giúp Việt tộc làm được chuyện dân giàu nước mạnh. Hậu thế đây luôn xem Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử là các bậc thầy, nhưng hậu thế nay phải gọi bọn lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc là Tàu tặc, vì chúng đã thực hiện dụng ý xâm lấn, với ý đồ xâm lược, với mưu đồ xâm lăng đối với Việt tộc, chỉ có tên này mới đúng ngữ pháp việt.
Xã luận của xã hội học nhận thức
Khoa học luận của khoa học xã hội và nhân văn không phải là khoa học luận mô hình như toán học, cũng không phải là khoa học luận thực nghiệm qua thí nghiệm như sinh, lý, hóa… mà là các chuyên ngành bắt đầu bằng thực tế của nhân sinh (nhân học, xã hội học) và sáng tạo của nhân sinh (triết học, văn học) ngay trên thực tế đó. Tại đây, khoa học xã hội (nhân học, sử học, xã hội học) nó là nền tảng của kiến thức thực tế ngay trong thực tiễn của cuộc sống hằng ngày, và khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, triết học, văn học) xây dựng kiến thức vừa trên thực tế vừa trên sáng tạo của tư duy và lý luận của cá nhân hoặc tập thể sống trong thực tế đó.
Phương pháp luận là dụng phương pháp để nhận định trong khảo sát, phân tích trong lập luận, trực tiếp hoặc gián tiếp dùng phương pháp để tương tác hóa phương pháp ; dùng phương pháp để bổ sung cho phương pháp, dùng phương pháp để củng cố cho phương pháp. Tại đây, phân tích định lượng phối hợp với phân tích định chất, phương pháp bản câu hỏi hỗ trợ cho phương pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê bổ túc cho phương pháp hồi ký… Lực bổ sung giữa các phương pháp trong điều tra và điền dã, sức củng cố giữa các phương pháp trong phân tích và giải thích, sẽ tác động vào ngay quá trình xây dựng và cải tiến khoa học luận và lý thuyết luận của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Lý thuyết luận là dụng lý thuyết để tăng cường lý thuyết qua lý luận, lập luận, giải luận và diễn luận ; và lý thuyết luận là một ngữ pháp để mô tả quá trình hình thành lý thuyết như quá trình tổng kết và đúc kết kiến thức qua mô thức, tức là tổng quan hóa kiến thức qua tổng hợp hóa tri thức bằng công thức. Tại đây, lý thuyết cũ vừa là nền móng, vừa là dàn phóng để sinh ra các lý thuyết mới, ra đời để củng cố hoặc ngược lại để tấn công, đả phá, xóa đi các lý thuyết cũ, nếu các lý thuyết này sai. Chính tính đa chiều hóa mô thức, đa năng hóa công thức, làm nên tính đa hiệu hóa các lý thuyết, và làm nên tính đa nguyên giữa các lý thuyết trong khoa học xã hội và nhân văn ; các lý thuyết vừa cạnh tranh nhau, vừa bổ túc cho nhau để phân tích và giải thích cuộc sống và xã hội, rất đa dạng của nhân sinh.
Khi mà khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, triết học, văn học) có thể lao tác, thu thập phân tích và giải thích bằng kiến thức qua văn bản hoặc qua mô thức của tư liệu, và xã hội học cũng có thể thu thập dữ kiện qua văn bản và tư liệu. Nhưng thực tế xã hội (bây giờ và ở đây) cần được kiểm chứng và minh định các dữ kiện cùng các chứng từ trong xã hội qua nghiên cứu thực địa trong đó vai trò của điều tra và điền dã bằng các phương pháp định chất và định lượng biết bổ sung cho nhau. Tại đây xã hội học là một chuyên ngành của thực tế, thực tiễn, thực tại, cần thực địa, cần điều tra, cần điền dã. Như vậy, xã hội học không phải là một khoa học của lý thuyết, trong trừu tượng của chuyện phóng bút, mà không có nghiên cứu thực địa, không có điều tra và không có điền dã.
Xã hội học khi được công nhận là một chuyên ngành của thực tế, thực tiễn, thực tại, qua thực địa, tức là qua điều tra, qua điền dã, phải luôn được kiểm chứng qua quy luật khoa học lịch sử, đây chính là mức độ và trình độ chính xác của xã hội học : mọi dữ kiện xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, mọi quan hệ xã hội, mọi đời sống xã hội phải định vị trong không gian và định niên đại trong thời gian. Nếu không có minh chứng độ chính xác về không gian và thời gian, thì tất cả phân tích, giải thích, phê bình… đều mơ hồ, đều thất dụng cho kiến thức trong xã hội học. Tính tổng quát hóa lý luận của xã hội học không hề rời bỏ tính sắc nhọn về không gian và thời gian trong quá trình xây dựng kiến thức của xã hội học.
Xã hội học còn là một khoa học của bối cảnh xã hội, trong đó thực cảnh kinh tế và thực trạng văn hóa, tác động thẳng lên mọi sinh hoạt xã hội, từ hệ thống giáo dục tới đời sống tâm linh của các cộng đồng trong xã hội… Bối cảnh xã hội không ngưng động trong một mô hình, không chết cứng trong một mô thức, mà luôn luôn biến động qua các phong trào xã hội đòi công bằng, công lý, trong đó đạo lý của cộng đồng, đạo đức của quần chúng được tôn vinh. Bối cảnh xã hội cũng luôn là kết quả của các hành động xã hội của chủ thể, không còn là một cá nhân thụ động, không còn là một cá thể chỉ biết thụ hưởng, mà ngược lại nhận bổn phận với đồng bào, nhận trách nhiệm với đồng loại để không ngừng sáng tạo bằng sáng kiến của mình qua các phương cách sáng lập ra các công trình xã hội đúng về luân lý, và đẹp về đạo lý.
Xã hội học còn là một khoa học của lý luận so sánh, so sánh giữa các dữ kiện, so sánh giữa các chứng từ, so sánh giữa các phân tích, so sánh giữa các quá trình lý giải đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội... Phương pháp so sánh không hề rời quá trình tiến hóa và tiến triển của xã hội học, vì nó vừa giúp nhà xã hội học có nhận định tổng quan để phân tích tổng quát các định đề lý luận lớn, nó vừa mài dũa thật sắc nhọn các kiến thức chuyên môn của xã hội học. Tại đây, kiến thức xã hội do xã hội học khám phá ra sẽ trực tiếp tác động vào đời sống và các phong trào xã hội, cụ thể là các chủ thể xã hội sẽ dùng các kiến thức này để đấu tranh, thí dụ khi khám phá ra các quy luật và quá trình hình thành bất bình đẳng trong xã hội, thì trực tiếp hay gián tiếp các chủ thể xã hội này có thể dùng nó để đấu tranh chống bất công vì công bằng, để xây dựng nên một công lý mới, hợp lý hơn cho xã hội.
Xã hội học tổng kết vừa dựa trên phương pháp so sánh tức là so sánh những dữ kiện có thể so sánh với nhau được, nhưng xã hội học hiện đại đã bước thêm một bước trong khoa học luận để vào quy trình của phương pháp luận khoảng cách, tức là : khoảng cách càng xa giữa hai kinh nghiệm thì càng làm giầu cho kinh nghiệm chung của nhân tri, khoảng cách càng sâu giữa hai kiến thức thì càng làm giầu cho kiến thức chung của nhân trí, khoảng cách càng rộng giữa hai văn hóa thì càng làm giầu cho văn hóa chung của nhân loại.
Cụ thể, phương pháp luận khoảng cách sẽ dẫn, dắt, đưa, đón các nhà xã hội học nên tìm tới các chuyện tưởng là không so sánh được để thấy hệ đa (đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu, đa nguyên) của nhân sinh. Cứ so sánh các quốc gia phát triển với các quốc gia chưa phát triển để thấy chiều dài, để thấy các ẩn số của khoảng cách. Cứ so sánh các tôn giáo này, các văn hóa này với các tôn giáo kia, các văn hóa kia để thấy chiều rộng, để thấy các hàm số của khoảng cách. Cứ so sánh các chế độ dân chủ có nhân quyền với các chế độ độc tài do độc đảng để thấy chiều sâu các biến số của khoảng cách.
Xã hội học lý luận lấy cơ sở của hệ lý (từ chỉnh lý tới hợp lý) để nhận định không những các kết quả nghiên cứu, điều tra, điền dả, mà còn để kiểm chứng các bình luận, phân tích, giải thích trong quá trình xếp đặt các kiến thức tới từ thực tế xã hội. Tại đây, dữ kiện và chứng từ làm cơ sở cho quá trình trí thức về bối cảnh xã hội, tác động trực tiếp lên các hành động xã hội, cụ thể là đặt hành động này qua các bối cảnh được chứng thực, trong đó nhà xã hội xây dựng phân tích của mình : từ dữ kiện tới chứng từ, trong bối cảnh xã hội, qua hành động xã hội cụ thể của một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng đang sống trong một bối cảnh xã hội đó.
Các người đã triệt
Hùng khí Việt quốc Ngô Quyền
Lăng Ngô Quyền
Với phản ứng hèn với giặc đã trở thành phản xạ cúi đầu-khoanh tay-khom lưng-quỳ gối trước Tàu tặc, chính các người đang giết hùng khí Việt quốc Ngô Quyền đã sẵn có trong mỗi tâm hồn Việt bất khuất. Nhiều người trong các người lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có biết rõ về sự nghiệp của Ngô Quyền không ?
Muôn dân khâm phục và quý trọng Ngài qua ba biểu tượng thật tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt : Ngài chấm dứt chớp nhoáng một sớm một chiều hàng ngàn năm đô hộ của Tầu tặc phương Bắc. Ngài xử lý gọn trong hai mặt trận "thù trong, giặc ngoài", loại tên bán nước Kiều Công Tiễn, tống giặc Nam Hán ra khỏi bờ cỏi Việt. Ngài cùng Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố… là những chiến lược gia xuất sắc đầu tiên đã phạm trù hóa chiến thuật thủy triều mà chiến tích trên sông Bạch Đằng đã thành mô hình quân sự cho thông minh Việt, được sử dụng nhiều lần bởi các minh tướng sau này.
Chấm dứt ngàn năm đô hộ Bắc thuộc phải có bản lĩnh làm chuyện đại cuộc, biết thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc, và Ngài đã làm được. Xử lý trọn bọn buôn dân, bán nước loại Kiều Công Tiễn, xóa mối hận phản chúa cho chủ tướng Dương Đình Nghệ, giải tỏa luôn nỗi căm tức của nhân dân thời đó là trừ gọn bọn nội phản để gây lại niềm tin cho Việt tộc là một làm việc rất lớn. Trong điều binh, khiển tướng, ngài biết nghe, biết tiếp thu các sáng kiến tài, các sáng tạo hay của Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố…
Ngài là gương của tất cả những ai muốn lãnh đạo đất nước Việt hiện nay, trước họa Tàu tặc, trước họa bán nước của bọn "sâu dân, mọt nước". Vậy mà tình hình hiện nay, Tầu tặc cướp biển, cướp đảo… trên một đất nước có cả ngàn vị có chức tướng, mà không vị tướng nào có một tuyên bố liêm sỉ về toàn vẹn lãnh thổ của Việt tộc, không vị tướng nào có sáng kiến về các phương cách ngăn chặn giặc trên biển Đông, không vị tướng nào có sáng tạo về chiến thuật quân sự trong tình hình mới.
Riêng tướng Trương Giang Long chỉ mới phân tích về tham vọng bá quyền trung quốc, đã bị bịp miệng, đã bị trừng phạt ngay. Làm tướng mà không lo bảo vệ tổ quốc thì làm tướng cho ai ? Họ làm tướng cho riêng họ hay vì dân tộc ? Sơn hà đang nguy biến, tại sao Bộ quốc phòng cùng các tướng lĩnh suốt ngày đi buôn bất động sản, lòn lách trong các hệ thống ngân hàng… với bao mạng lưới tham nhũng qua hối lộ do chính các tướng chủ trì, giờ mới biết là các tướng công an lại tổ chức đánh bạc trên mạng liên quốc gia để thâu tiền kiểu đầu nậu ! Họ là tướng hay họ đang vô tình "nối giáo" cho giặc ? Trong chính sử, Việt tộc chỉ thấy và thờ tướng tài, tướng giỏi, tướng hay, nhân dân thấy "lợm giọng" trước các tướng hèn, vì các tướng hèn chỉ có chỗ trong tà sử, ma sử, tục sử, họ không có đứng trong Việt sử.
Các người đã triệt
Nữ lực Hai Bà Trưng
Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Thảm bại lớn nhất của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là cách đối xử thiếu liêm sỉ, vắng tôn trọng, trống nhân tâm với phụ nữ Việt, đừng trông mong gì trong chế độ độc đảng toàn trị của các người sẽ xuất hiện Nữ lực Hai Bà Trưng. Hai Bà đánh quân Đông Hán, mà người đời đã đúc kết qua câu nợ nước-thù nhà, khi giặc ngoại xâm đã giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nhưng khí thế của hai Bà tạo được trong kháng chiến thủa đó còn có mang nội lực của mẫu quyền còn ảnh hưởng trong văn hóa Việt chăng ? Trong bối cảnh sơn hà nguy biến, có khi nội lực này vượt lên áp lực của phụ quyền. Bằng chứng là chung quanh hai Bà có các nữ tướng : Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Đàng... ngay từ trong tổ chức quân lực cho tới khí thế khi đối diện với địch trên chiến trường, hai Bà đã đóng trọn vẹn vai : vua ! Hai Bà để lại một bài học vô cùng quý báu mà con cháu thời nay luôn phải nhớ là : quyết tâm tự chủ của Việt tộc. Các nhà lãnh đạo độc đảng hiện nay, dù còn độc tài để độc quyền : đừng quên bài học này !
Sử Việt còn ghi sự tàn ác của thái thú Tô Định, nó độc ác nhưng là thằng hèn, đã bị hai Bà đánh cho bỏ chạy, sau đó bạo triều Đông Hán gởi Mã Viện tới và khi thắng được hai Bà, nó đã để lại chiến tích (hay giả sử) về cột đồng Mã Viện, xem đất Việt là đất Tầu, cột đồng sau đó đã không còn dấu tích. Đây cũng là chuyện dễ hiểu : không bao giờ Việt tộc để cột đồng đứng trên quê hương Việt. Những ai cứ thắc mắc : giờ thì cột đồng đó ở đâu ? Thắc mắc thì cứ tìm câu trả lời, trong đó có giả thuyết là dân Việt đã nấu cột đồng chảy ra để làm thau đồng, để lau nhà rồi ! Đừng lẩm cẩm mà để giặc vào đất nước này lần nữa, chúng không những đã cướp biển, cướp đảo, mà đã đến đất nước này qua đường du lịch, để oang oang trong bảo tàng, trong chùa Linh Ứng tại Đà Nẵng, và nhiều nơi khác, khi bọn hướng dẫn viên du lịch gốc Tầu nói bằng tiếng Trung là đất Việt xưa là đất của chúng ! Chúng ta đừng ngần ngại tống bọn hướng dẫn viên du lịch này ra khỏi đất nước ta ! Thời hai Bà ra quân kháng chiến, nhân dân ủng hộ, nhân sĩ tụ nghĩa chung quanh hai Bà, đó là vì hai Bà vừa có trí tuệ, vừa có dũng khí giữ nước-cứu dân, để lại những trang sử -trong sáng và trong sạch- về tâm hồn Việt : quyết tâm độc lập của Việt tộc. Hậu thế này sẽ là hậu duệ đạo lý của hai Bà : không để mất quê hương !
Các người đã triệt
Oanh liệt Việt Bà Triệu
Đền Bà Triệu nằm trên núi Gai, làng Phù Điền, Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
Sự lụn bại lớn nhất của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam thì đừng chờ mong gì trong chế độ độc đảng toàn trị của các người không hề có một chính sách gì để phụ nữ Việt được thăng hoa trong sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội, thì sẽ không sao xuất hiện oanh liệt Việt Bà Triệu.
Bà khởi nghĩa ra quân cứu nguy đất nước trong bối cảnh của một thời kỳ bi thảm của dân tộc. Bọn giặc nhà Ngô vô cùng tàn bạo với dân Việt, chúng mang sự tàn độc của cái hỗn chiến cùng thời của Tam Quốc tới đất nước Việt ta. Chúng trùm phủ không khí tàn ác nhà Hậu Hán để đô hộ nước Việt, với bọn tham quan bòn rút tận xương tủy dân ta, trong đó phải kể tội tên thứ sử Lữ Đại, tham ô đi cùng với độc ác. Người thời đó truyền tục : cùng với sắc đẹp Triệu Thị Trinh, can đảm và mưu trí, và để khai minh cho những ai thắc mắc, tại sao bà không lấy chồng, lập gia đình, yên thân với nữ phận, Bà trả lời : "Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, tháo ách nô lệ cho nhân dân". Đây là tầm vóc nhân sinh quan của bà, đây cũng là một sung lực của phụ nữ Việt mà các bọn giặc đến cướp ta thường rất vô minh về ẩn số nữ Việt này.
Dáng mạo oanh liệt trên chiến trận, Bà cỡi voi, ra trận với mãnh lực, mỗi lần binh lính giặc Ngô phải đi đối đầu với Bà, chúng rất sợ. Từ rừng Bồ Điền, nơi Bà tổ chức kháng chiến, tới núi Tùng, Thanh Hóa, Bà đã có hơn 30 trận ác chiến với giặc Ngô. Chính giặc Ngô đặt tên cho Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân, công nhận cái thanh của Bà. Ai cũng biết nhân cách cao đẹp của Bà, chính tướng giặc là Lục Dận đã chọn cái tục khi bắt lính quân Ngô trần truồng ra trận để Bà phải ngượng mà lui quân. Tàu tục, Triệu thanh là kinh nghiệm mà ta phải nhớ mỗi lần ta đối đầu với Tầu tặc, tổ tiên ta dặn con cháu phải luôn giữ cái thanh, vì nó tinh khiết, vì nó trong trắng, cho dù trước các câu hỏi tục, chúng ta phải luôn chọn : "đố tục, giảng thanh".
Vì vậy, trong các trận chiến sắp tới với Tầu tặc, từ ngoại giao tới quân sự, nếu chúng tục, thì ta đừng lùi mà mắc mưu chúng, ta cứ tiến lên để dẹp cho sạch cái tục, vì cái tục dẫn đường đưa lối cho cái xấu, thô, tồi, dở, để sau đó là mở cửa cho cái thâm, độc, ác, hiểm nhập vào nhân tính Việt. Chúng ta quý trọng văn minh Trung Quốc, chúng ta còn xếp Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử vào bậc thầy, nhưng chúng ta đừng để cái Tầu tục có mặt trên đất nước Việt ! Thẳng thắn, không dung kẻ xấu, bà đã xử chính đáng bà chị dâu đã phản bội và tố cáo chồng : Triệu Quốc Đạt, là anh của Bà. Bao lần tướng Ngô tìm mọi cách để chiêu dụ Bà, nhưng chúng luôn thất bại vì khí phách của Bà. Ngược lại, trong tổ chức đội ngũ của Bà, có những kẻ đã để địch mua chuộc, làm tan rã hàng ngũ trước âm mưu của địch. Bài học tổ chức chặt chẽ nội bộ luôn là bài học quý mỗi lần chúng ta phải đối diện với Tầu tặc xăm lăng. Bài học quý hơn cả mà Bà để lại cho các thế hệ Việt hiện nay chính là hùng lực của uy tín tự thân, lấy chính sự tự chủ để làm sức mạnh, và tướng Trần Quang Khải đã tiếp nhận được bài học này của Bà : "Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh".
Xin nhắc lại là từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các người không hề làm rạng ngời sử xanh, sử mà các người làm nên chỉ là sử của xương máu và nước mắt !
Các người đã triệt
Quan âm chính sự Nguyên phi Ỷ Lan
Miếu thờ Nguyên Phi Ỷ Lan (xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội)
Từ lãnh tụ thủa các người thời lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các người không kể vì không được học, các người không làm chính sách vì các người không thấy và không thấu mô thức Quan âm chính sự Nguyên phi Ỷ Lan. Từ một cô gái hái dâu, nuôi tằm, đã trở thành chính khách biết kinh bang tế thế, vì con người thật của Bà là "thức khuya dậy sớm" nghèo nhưng liêm sỉ, là "một nắng hai sương" nghèo nhưng chăm chỉ, vì có lương tâm với gia đình. Kinh bang tế thế, là chân tài của Bà, câu chuyện "tiến cung" với niềm tin, cùng lòng quý yêu của vua Lý Thánh Tông.
Dân truyền rằng khi vua đi đánh giặc Chiêm, cùng Lý Thường Kiệt, năm 1069, giao chuyện quản lý đất nước cho Bà, và Bà chăm lo rất chu đáo cho dân, vì Bà thương dân, vì Bà hiểu dân nghèo hơn ai hết. Có đại quyền điều hành đất nước, bà nhận lảnh trọn vẹn, nhân gian tôn bà là Quan Âm, nhân dân hết lời khen Bà. Khi vua qua đời, dù Bà là mẹ của Lý Nhân Tông, lên ngôi năm 6 tuổi, trước họa Tầu tặc, giờ Bà đã thành Thái phi, nhưng Bà không được chấp chính, không được trực tiếp lo chính sự, mà chỉ có Thái hậu Thượng Dương mới có quyền đó.
Vai trò lịch sử của Bà là tiên quyết, khi quân Tống muốn chiếm nước ta, với bản lĩnh của minh tướng Lý Thường Kiêt đi phạt Tống ngay trên đất Tống : tại đây chắc là có tầm vóc chủ đạo hay tư vấn chiến lược gia quân sự là Thái phi Ỷ Lan, cũng như trong cả giai đoạn phá Tống-bình Chiêm của nhà Lý. Cũng chính trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, Thái phi Ỷ Lan đã để lộ ra một bản lĩnh khác, một bản lĩnh vì nước mà quên tị hiềm, Bà đã triệu Lý Đạo Thành về cung, lo nội chính, để giúp nước, mà Lý Đạo Thành là kẻ đã đứng về phía Thái hậu Thượng Dương, để chống lại Thái phi Ỷ Lan thủa nào. Bà kỹ tính trong tổ chức, Bà kỹ lưỡng trong quản lý, Bà lấy một phần ngân khố để sử dụng vào việc cứu các cô gái bơ vơ, giúp họ lấy chồng ; Bà chống chuyện trộm trâu, giết trâu, gây ra thiếu trâu để cày cấy thời đó, Bà ra những luật chống trộm cắp rất nghiêm minh để ngăn chặn các kẻ trộm trâu. Một tầm vóc khác của Bà là Bà có trình độ Phật học cao, tinh thông Phật pháp, sùng đạo Phật, mở mang dân trí, thích làm việc thiện, luôn nghĩ tới người nghèo, sử dụng hiền tài, đây là thời đã lập ra Quốc Tử Giám. Thực tài lãnh đạo chính trị kiệt xuất của Bà là thật sử của Việt sử. Bà là gương sáng cho mọi lãnh đạo hiện nay đang thích độc quyền để chuyên quyền mà quên bổn phận vì "dân giàu, nước mạnh", đang chuộng tham quyền để tham nhũng mà gạt đi trách nhiệm "vì nước, vì dân". Bản lĩnh lãnh đạo, tầm vóc quản lý, nội công tổ chức của Thái phi Ỷ Lan đi trên vai, trên lưng các đám tham quan bất tài đời nay !
Các người đã triệt
Dũng khí thống quốc của Đinh Tiên Hoàng
Đền thờ Đinh Tiên Hoàng toạ lạc ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
Câu chuyện của Tiên Hoàng với bối cảnh loạn lạc của các sứ quân là có mần móng trong xã hội Việt hiện nay, với người dân luôn "ngắn cổ, bé họng" trước bạo quyền, từ xã, thôn, làng, xóm lên tới vùng, miền, thành phố, chịu cảnh "ngậm bồ hòn làm mật" trong một hệ thống công an trị, nơi mà tham quyền song hành cùng tham nhũng. Với các câu ngạn ngữ mới của cường quyền ác bá thời nay "ở đâu ăn đấy", làm tướng tá thì ở biệt thự, biệt phủ giữa cái nheo nhóc của dân đen. Với các câu châm ngôn mới của quan lớn, quan bé, lạm quyền nhờ bạo quyền "ở trên ăn nhiều, ở dưới ăn ít". Bọn "sâu dân, mọt nước" này còn nghĩ là chúng có lối thoát mà thời của Tiên Hoàng không có là : "vơ tới cùng, vét tới tận" cho đầy túi, đến khi sơn hà nguy biến thì chúng sẽ "cao chạy, xa bay" ra ngoại quốc ! Chúng lầm, những quốc gia phương Tây dân chủ mà chúng chắc bẩm là sẽ yên thân để dung thân tà kiếp của chúng là những quốc gia luôn đấu tranh cho nhân quyền. Cho nên, ông bà ta nói gọn trong ẩn số kiếp người là : "lưới trời lồng lộng", tức là "chạy đằng trời chẳng thoát" ! Vì "trời có mắt", tức là "nhân quyền có thần nhãn", sẽ mang chúng ra xử tội (tội hình sự) với công pháp quốc tế lúc đó chúng mới hiểu rõ câu của ông bà ta : "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa".
Tầm vóc quân sự của ngài lớn vì tầm nhìn tổ quốc của Đinh Tiên Hoàng có được là nhờ tầm cỡ chính trị của Ngài cao, dẹp được thập nhị sứ quân, để thống nhất đất nước đó chính là bản lĩnh vời vợi của Ngài. Chuyện loạn lạc bởi đám sứ quân này nằm trong quy luật khủng hoảng của các triểu đại phong kiến, mỗi lần có một ông vua suy đồi là cả xã hội bị suy thoái, có nội chiến vì vô chính phủ, có bạo động vì đầy bất công, cá lớn nuốt cá bé. Ngài dẹp lũ sứ quân này cho đất nước được trở lại thanh bình, ngừng hẳn mọi giết chóc của một thời cuộc mà người với người xem nhau như lang sói. Sự bất tài của một vương triều, vương triều đó phải nhận trách nhiệm như bọn sứ quân, cả hai phải chịu lỗi trước dân tộc, nếu không nói là tội ! Tội thì chắc chắn nặng hơn lỗi, không những về hậu quả nhân sinh mà về cả hậu quả nhân đức, với sự suy sụp của giáo lý. Chính chế độ của các người độc đảng toàn trị đã cho ra đời hai quái thai là công an trị và tham nhũng trị, để hai quái thai này cho ra đời một quái thai khác là tham quyền địa phương trị, đây là chỉ báo của sự xuất hiện ra hiện tượng sứ quân thời nay. Các người còn nuôi dưỡng công an trị, tham nhũng trị, tham quyền địa phương trị, thì các người chính là tội đồ trước Dũng khí thống quốc của Đinh Tiên Hoàng.
Các người đã triệt
Bản lĩnh nữ Việt của Dương Vân Nga
Miếu thờ Dương Vân nga nằm trong khuôn viên Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng
Từ lãnh tụ thủa các người thời lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, bản lĩnh nữ Việt của mô thức Dương Vân Nga không hề có, có thể là sẽ không bao giờ có. Sinh thời, cả nước ít ai gọi tên thật của Bà : Dương Thị, mà nhất là người ngày nay luôn gọi Bà là Hoàng hậu Dương Vân Nga, họ kể với nhau là tên này có là nhờ qua tuồng, các vở tuồng ca ngợi bản lĩnh hoàng hậu hai đời của Bà, đời Đinh và đời Lê, giai đoạn mà nước ta luôn bị giặc Tống đe dọa, rình rập, rồi xâm lược. Vậy, mà Hoàng hậu đứng như một cột trụ trung tâm để đối đầu với bọn giặc Tống, lúc thì chúng như cú vọ, lúc thì chúng chồn cáo, với bụng dạ sói lang của chúng.
Hai triều Đinh và Lê, đều không dài trong Việt sử, phận nước Việt trong dầu sôi lửa bỏng, Hoàng hậu cận kề Đinh Tiên Hoàng, Hoàng hậu sát cánh với Lê Đại Hành, trước những điểm hẹn gay gắt của thời cuộc, trước những dấu ấn gay go của chính sự, Bà luôn có mặt ! Có mặt vì yêu nước thương dân, có mặt để cứu dân cứu nước. Bà bị tai tiếng trong nghi án giết vua Đinh Tiên Hoàng, lại thêm tin đồn tư tình với Lê Đại Hành ; xóa triều Đinh, dựng triều Lê. Những nghi án này đi qua đi lại giữa chính sử và hư sử, nên hậu tế này xin đưa ra một đề nghị-làm-giả thuyết để tiếp tục nghiên cứu thêm về Hoàng hậu, lấy chiều cao của công tâm, lấy chiều rộng của lương tâm, lấy chiều sâu công lý, cụ thể là lấy tầm nhìn xa để phân tích tâm lý, tâm trạng, tâm sự của Hoàng hậu trước tình hình rối bời thời đó. Tại đây, hậu thế xin phối hợp hai luận thuyết : một là của triết phân tích chính trị, hai là xã hội học bối cảnh chính trị, mà hậu thế đã dùng trong các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nay xin đưa vào trường hợp của Hoàng hậu : đó là phân tích so sánh tinh huống giữa số phần và kiếp nạn.
Số phần và kiếp nạn là hai ngữ pháp rất khác biệt nhau, từ nội dung đến vận hành để kẻ có trách nhiệm lãnh đạo đất nước biến quyết định thành quyết đoán, biến hành vi thành hành động cụ thể để thay đổi chính sự, chiến cuộc, tình thế... Hậu thế này nghĩ rằng khi Hoàng hậu đã mang lên cân, đo, đóng, đếm : một bên là số phần riêng của mình, của một triều đại ; một bên là kiếp nạn của cả một dân tộc. Kiếp nạn là kiếp dài nhục nhã, đốn mạt cho muôn dân : suốt kiếp phải chịu kiếp nô lệ, cả một giống nòi sẽ mang kiếp bị đồng hóa, cả một đất nước sẽ mất mọi gốc, rễ, cội, nguồn về văn hóa, văn minh, văn hiến của mình, kể cả nhân phẩm Việt đã có sẵn trong bản sắc Việt. Hoàng hậu đã gạt số phần của mình, của triều Đinh qua một bên, để trực diện chống kiếp (hoạn) nạn cho cả một dân tộc, và chính nhờ có Hoàng hậu, mà minh tướng Lê Đại Hành mới vững tâm dẹp giặc.
Bài học gạt số phần của tư lợi để trực diện chống kiếp nạn vì dân cứu nước rất hiện đại, nó phải hiển hiện ngay trong não bộ các lãnh đạo hiện nay trước họa Tầu tặc, mà các vị này nên theo Hoàng hậu Dương Vân Nga là : dẹp thù trong trước, để sau đó lo cho đại cuộc là : giặc ngoài ! Từ lãnh tụ thủa các người thời lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các người không hề học kỹ lưỡng bản lĩnh nữ Việt của mô thức Dương Vân Nga. Các người luôn đi tìm chỗ dựa ngoại bang, lúc thì Liên Sô, giờ thì Tàu tặc, các người sẽ không thấy và không thấu được bài học Dương Vân Nga trong nhân sinh quan độc đảng toàn trị của các người.
Các người đã triệt
Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành
Lăng mộ Vua Lê Đại Hành nằm dưới chân núi Yên Viên, nằm trong quần thể khu di tích cố đô Hoa Lư.
Việt tộc biết Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành qua ít nhất là ba phẩm cách, thứ nhất là võ tướng bẩm sinh, thứ hai là sáng danh phận trai thời loạn, thứ ba là công tướng trí dũng. Nhưng phải thống hợp cả ba để lấy ra hằng loạt bài học cho hậu thế, cho hiện tại, có trong phương pháp luận sử học so sánh cổ-kim của phương Tây. Vì Ngài là nhân vật tiểu biểu mà các nước văn minh có sử luận uyên thâm được mang tên là chủ thể cổ sử dẫn dắt hiện sử ; cụ thể là các bài học cổ ngài để lại cho mai sau thì rất hiện đại giữa thời buổi hiện nay. Hậu sinh kể lại vài bài học của Ngài mà hậu thế không những phải ngẫm mà phải làm :
Mưu lược quân sự của Ngài để chống Nhà Tống có một không hai, khi chúng thấy oai dũng của Ngài thì tìm cách viết thư chiêu dụ, chúng đã lầm từ đó, vì Ngài không phải loại người sống để "đầu hàng", mà mưu lược của ngài đi trên vai, trên lưng chúng ! Trận Bạch Đằng của Ngài được xếp là thứ hai trong sử liệu, sau trận của mãnh tướng Ngô Quyền, trước trận của dũng tướng Trần Hưng Đạo, ở đây xin gọi Ngài là minh tướng. Vì giữa trận mạc, Ngài "giả hàng" để tiếp cận sát với địch, mà chủ đích giết được tướng của địch là Hồ Nhân Bảo, ngay trên chiến thuyền của hắn. Giả cầm cự trong thế yếu, giả hàng để sát kề thân địch, để diệt địch, và cứ thế mỗi trận một cách, trận Tây Kết thì bọn xâm lăng kinh hồn bạt vía ! Hằng trăm các tướng lĩnh của Bộ Quốc phòng hiện nay phải học kỹ các bài học quân sự của Ngài, Ngài ạ !
Tài lược ngoại giao của Ngài đã cướp hồn sư giả nhà Tống, cho nên các lãnh đạo của Bộ Ngoại giao hiện nay phải học thật kỹ để luôn thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch. Khi gặp sứ giả nhà Tống, Ngài không làm theo ý chúng là xuống ngựa và quỳ lạy, mà Ngài vẫn ngồi trên yên ngựa để đối thoại với chúng. Ngài luôn làm tăng vị thế ngoại giao của đất nước Việt, khai thị cho bọn sứ giả nhà Tống để chúng phải nể trọng Việt tộc. Ngài thăng hoa dân tộc trong nước về nông nghiệp, kinh tế, rồi biến thành sách lược ngoại giao làm cho địch phải mở mắt là ta cũng thông minh, cũng giỏi, hay, tài, dũng như chúng. Để khi sứ giả nhà Tống trở về quê chúng phải viết lời công nhận : "Ngoài mặt trời xứ Tống, cũng có một mặt trời khác" (Đại cồ Việt).
Hành động lãnh đạo, của Ngài vừa thực, vừa sáng : Ngài cầy với dân, làm ruộng vì biết đất Việt phải mạnh về nghề nông để Việt tộc mới vững về kinh tế. Ngài kinh bang tế thế, với xây công trình thủy lợi, từ Ninh Bình tới Nghệ An. "Có thực mới vực được đạo", mà thực đây vừa là thực phẩm mà cũng vừa là sự thực, ngài không bị sai lầm đến nhó nhăn như nguyên chủ tịch Trương Tấn Sang, như đương kim chủ tịch Trần Đại Quang là chỉ vác cày trên bờ ruộng để báo chí chụp ảnh ; mà lố bịch nhất phải kể đến thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trồng cây, mà không phải là cây non (trồng cho lớn) bứng cây đã lớn chỗ này để cắm ở chỗ khác, để cho ông tưới vài phút cho truyền hình thâu ảnh rồi sau đó thì cây chết mặc cây !
Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành đang bị triệt hủy ngay trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, vì Đảng cộng sản Việt Nam đang đi ngược lại bài học của Lê Đại Hành : "Biết chọn chân chính mà đem tài phò giúp. Biết tìm đường chính mà đi trong các nẻo rối ren của thế sự".
Các người đã triệt
Lực đa dũng của Lý Thường Kiệt
Đền Lý Thường Kiệt làng Như Nguyệt, Ninh Bình
Trong chế độc độc tài nhưng bất tài của độc đảng trị của các người sẽ không còn tầm vóc của cậu thanh niên Ngô Tuấn (tên thật của Lý Thường Kiệt), chấp nhận làm hoạn quan để phò minh quân, để kề cận với chuyện cứu nước-giữ nước, được mang họ Lý của vua với lòng tin yêu của vua, khi vua đã nhận ra bản lĩnh kiện tướng đa dũng của Ngài. Đa dũng với nhiều mặt trận khác nhau trong đời Lý, mặt trận phía nam chống Chiêm Thành luôn là nỗi bất an cho cả triều Lý, mặt trận phía bắc của nhà Tống luôn là mối đe dọa hằng ngày của Việt tộc.
Tầm vóc của Lý Thường Kiệt vượt ngoài phạm vi quốc gia, Ngài biết liên minh rồi tập hợp các dân tộc anh em miền núi để cùng nhau chống giặc Tống. Ngài còn đa dũng ngoài sức tưởng tượng của kẻ địch, Ngài đánh chúng ngay trên đất của chúng, đập tan mọi cơ ngơi chuẩn bị xâm lăng của chúng. Chiến thắng Ung Châu, Liêm Châu, Bạch Châu... của ngài trên đất giặc, làm cho giặc từ thẫn thờ kinh ngạc về lý dũng của Ngài đến ngơ ngác ngạc nhiên về trí dũng của Ngài.
Đa dũng được chế tác từ lý dũng và trí dũng, có gốc là luận cho quả cảm, tức là không sợ, dù địch lớn, mạnh tới đâu đi nữa, được cụ thể hóa qua quyết định trong sáng suốt, quyết tâm trong tỉnh táo, quyết sách với tất cả thông minh thắng giặc vì biết "đi guốc trong bụng giặc". Đa dũng là chỗ dựa của đa tài trong chiến thuật quân sự, linh động tùy cơ ứng biến ; mỗi trận đánh, mỗi bối cảnh quân sự, Ngài luôn có cách tấn công thích nghi, có cách phòng thủ thích hợp, Ngài nắm thế "đi trên đầu giặc" để điều binh, khiển tướng.
Trong bối cảnh của đất nước hiện nay, trước họa của Tàu tặc, nhân dân không thấy lý dũng của các lãnh đạo độc tài trong Đảng cộng sản Việt Nam, không thấy trí dũng của các tướng lĩnh trong Bộ Quốc phòng, mà chỉ thấy các khẩu lịnh đầy cạm bẫy : láng giềng tốt, đồng chí tốt... trong khi láng giềng này ngày ngày cướp đảo, cướp biển, giết ngư dân Việt trên biển Việt ; còn đồng chí (trong tư duy tặc chí của chúng) thì thao túng, giật dây đẩy độc quyền đảng về phía tà quyền theo chúng trong ma đạo. Các người đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã triệt lực đa dũng của Lý Thường Kiệt đã có dũng khí Việt tộc luôn biết làm ra những công tướng, những kiện tướng !
Các người đã triệt
Hồn thiêng quốc đạo của Trần Hưng Đạo
Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc).
Việt tộc kính trọng và thờ phụng Trần Hưng Đạo như thánh (Đức Thành Trần) như thương yêu kính trọng các bậc khai quốc công thần, và giữa các khai quốc công thần dựng nước và giữ nước : Ngài luôn có chỗ một đứng thật cao quý (ngày hội Đức Thành Trần). Câu chuyện này có lý do của nó, mà lý của nó thì rất hay, đẹp, tốt, lành, vì phẩm chất của Ngài thật cao, sâu, xa, rộng để hậu thế học, tu, dưỡng, hành cả đời cũng chưa xong.
Ngài cao đẹp vì là người lãnh đạo vì nước quên thù nhà, trước bi kịch của cha là Trần Cảnh, trong thảm kịch nội hôn, mà chính gia đình Ngài chịu cảnh tan nát. Khi cha hấp hối, Ngài lại còn phải nghe lời cha dặn là : phải trả thù nhà ! Trả hận cho cha ! Ngài đã không làm chuyện đó, Ngài chọn hướng cứu nước, Ngài đứng về phía cứu dân, đạo lý này đủ cho Ngài làm lẽ sống cho mình suốt kiếp, và chuyện này thì tất cả các vua, các tướng, các quan, cả nước ai cũng biết, cũng trọng, cũng khâm phục ngài.
Ngài có thông minh quân sự trọn vẹn của một lý trí luôn sáng suốt, có dũng cảm lãnh đạo tràn đầy của một nhân cách tỉnh táo, phương pháp phân tích của Ngài rất thuyết phục vua mỗi lần cả nước thề một phen sống mái với Nguyên Mông. Sức thuyết phục của ngài trao truyền lan rộng tới tướng sĩ, binh sĩ, muốn biết mãnh lực của nó, thì hãy đọc Hịch Tướng Sĩ của Ngài. Trong Hịch Tướng Sĩ, Việt tộc luôn cúi đầu tiếp nhận trước lòng yêu nước của Ngài : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa...".
Quân tử tạo ra chính nhân, riêng Ngài đã đi xa hơn bao chính nhân, Ngài còn dìu dắt bao chính nhân trong thời đại của Ngài đi theo chính đạo mà chính đạo thời đó, trước đe dọa của Nguyên Mông, chính là quốc đạo (vì nước quên thân), quên luôn cả thù nhà, chỉ vì không được quên nước. Lòng kính phục của hậu thế trước đạo lý của Ngài có cớ sở vững : lấy sung lực lương tâm yêu nước để tạo nên lương tri lãnh đạo trong việc cứu nước-cứu dân, dụng lương tri lãnh đạo để làm sáng lên liêm sỉ vì dân trong nhân cách lãnh đạo.
Các người đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã triệt đi hùng khí của Hịch Tướng Sĩ : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa..." để sa đọa trong lạm quyền và lộng quyền, suy đồi trong tham quyền và tham nhũng. Các người không những hèn với giặc, ác với dân, mà các người còn đốn mạt với tổ tiên, với Đức Thánh Trần, khi các người đã dời lư hương trước đền thờ Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn, vì các người sợ Việt tộc sẽ tống cố Tàu tặc bằng Hồn thiêng quốc đạo của Trần Hưng Đạo.
Các người đã triệt
Tính minh lược của Nguyễn Trãi
Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình trọng điểm trong khu Côn Sơn, di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của đất nước, được khánh thành vào tháng 9/2002.
Trong chế độc đọc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, các người đã triệt diệt tính minh lược của Việt tộc có trong Nguyễn Trãi, được đúc kết bởi bao tinh hoa của tổ tiên Việt, phải về Côn Sơn, mới hiểu tại sao đứa con tin yêu này của Việt tộc đã có những hùng lực thông minh lạ thường, để hiểu tại sao Unesco, Liên Hiệp Quốc công nhận Ngài như danh nhân của nhân loại. Ngài có giòng họ chính thống với Trần Nguyên Đán, Ngài đã hít thở trong nhân tri vững nhân trí của Chu Văn An, Ngài thâm trầm trong thâm học với kinh nghiệm của Huyền Quang, một trong ba sư tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài chắc chắn suy ngẫm nhiều tại sao Hưng Đạo Vương vừa tập trận ngay tại Lục Đầu, nơi sáu con sông tụ đầu ngay trên quê hương của Ngài, vừa là nơi mà Hưng Đạo Vương thường lui về để nghĩ ngơi.
Hãy tới đền thờ của Ức Trai tại Hải Dương để hiểu vì sao mà đứa con tin yêu của Việt tộc được nhân dân tại đây thương yêu đến chừng nào. Những người dân tại đây hẹn nhau tới đền thờ của Ngài, họ ngồi trò chuyện trong thảnh thơi, ung dung, thong dong, nhàn hạ trên tấm phản, ngay trong đền, ngay bàn thờ, dưới chân Ngài Ức Trai. Đây là, tổng kết của nhiều bài học : "ăn ở có hậu", nên "dân thương, dân nhớ", vì "ở người ta thương, đi người ta nhớ"... nhất là đối với các bậc khai quốc công thần. Ngược lại, tham quyền để tham nhũng, lạm quyền để lộng quyền như hiện nay, thì ngày rời cõi đời này, thì người nay và người sau họ "không thương, chẳng nhớ", mà còn bị họ "rải muối" để không có lối về, không có đất mà dung thân !
Ngài để lại đời sau bao nhiêu bài học, trong đó có 5 bài học luôn cận kề với con cháu trong hiện tình đất nước đang bị đe dọa bởi Tầu tặc, dân tộc đang bị suy đồi về luân lý, lạc đường trong giáo dục, lầm lối trong xã hội... Chiến lược sáng trong chiến sự, đây là bài học đầu tiên mà ngài đã làm sáng cho thông minh quân sự Việt, Ngài dạy con cháu là chữ nhẫn đi cùng với chữ thời để tạo ra chữ thế. Ngay từ đầu, chữ nhẫn rất rõ, Ngài chờ những năm ròng ở Đông Quan, chờ ngày gặp chúa để cứu dân cho tới nơi, tới chốn ; chữ thời và chữ thế, càng rõ hơn, khi Ngài cùng Bình Định Vương cầm cự nhiều năm dài trên núi Chí Linh.
Chính lý ngời trong ngoại giao, đây là mặt trận để con cháu thấy rõ Ngài vừa là quan văn, vừa là quan võ, hơn thế nữa Ngài là bậc thầy trên mặt trận ngoại giao, khi chính luận yêu nước Việt chính là lập luận chống tà quyền xâm lăng. Các lá thư Ngài gởi tới bọn tướng giặc, thường không thấy thư trả lời, và nếu chúng có liêm sỉ thì chúng phải cúi đầu khâm phục tài diễn luận và trí giải luận của Ngài về lòng yêu nước Việt của con dân Việt. Câu chuyện chính lý làm mức độ để nói lên trình độ chính tri trong chính trị, đây là câu chuyện cốt lõi hiện nay của đất nước trước họa Tầu tặc đang cướp biển, cướp đảo ta. Chúng ta chỉ thắng được ngoại xâm nếu ngay trên thượng nguồn chúng ta có đầy đủ kiến thức của chính lý và có trọn vẹn ý thức của chính tri.
Tâm lý chiến trong chinh chiến, Ngài cũng là thầy khai minh ra môn tâm lý chiến, tìm là mọi cách tác động lên tâm lý kẻ xâm lược, Ngài lý luận rõ cho bọn tướng, bọn lính của giặc là chúng bất chính trong việc đi cướp nước láng giềng, lại chịu cạnh bị đày đọa xa nhà, xa quê. Sống "vất va vất vưởng" nơi quê người, chết trận bằng xâm lăng, thì chỉ là "oan hồn", thuộc loại "ma bùn" mà thôi ! Có tướng giặc, cả binh lính thấy Ngài phân tích đúng (trúng tim gan của chúng), có khi nhận ra hàng, mà ta không cần phải đánh.
Ẩn tích để sáng danh, Ngài rút lui về Côn Sơn vì bọn nịnh thần, tham quan làm Ngài "lợm giọng", chúng hãm hại Trần Nguyên Hãn, Ngài không những thấy rõ tâm địa của chúng, mà Ngài còn "đi guốc trong bụng" các vua nhà Lê, đồng thuyền trong đồng cam, cộng khổ, nhưng không đồng hội, trong yến tiệc của quyền lực. Đấy cũng là chuyện trình độ đạo lý của Ngài luôn cao hơn mức độ tính toán quyền lực bủn xỉn của các vua, của quan nhà Lê thời đó. Nhưng Ngài không "mai danh, ẩn tích", mà Ngài ẩn tích để sáng danh, qua văn thơ kiệt xuất trong tâm hồn Việt, văn minh Việt, mà nay đọc lại vẫn thấy ngài rất hiện đại !
Nhân tri nuôi văn trí, các bài thơ, các văn bản do chính tay Ngài viết, nhất là Bình Ngô Đại Cáo, làm sáng ngời không những chính nghĩa dày trí dũng của Việt tộc, mà còn làm gốc cho một nhân bản bền vững trong nhân loại : "Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo". Một bài học cũng vô cùng hiện đại sẽ dẩn đưa Việt tộc đi tìm nhân quyền để chống bạo quyền mà độc quyền của độc đảng đang áp đặt trên số phận của Việt tộc.
Thảm kịch của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là các người không hề là những minh lược sư theo mô thức của Nguyễn Trãi, các người luôn tham quyền cố vị nên các người không bao giờ có được nhân cách mai danh ẩn tích làm nên nhân phẩm quang minh chính đại của Nguyễn Trãi.
Các người đã triệt
Hùng thế dũng lực của Quang Trung
Đền thờ vua Quang Trung trên núi Quyết hiện nay.
Bi hài kịch của các người từ lãnh tụ thủa các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam là các người không có hùng thế dũng lực của Quang Trung làm nên thần tốc biết đuổi giặc xâm lăng ra khỏi bờ cõi trong chớp nhoáng. Trước khi Quang Trung trở thành Quang Trung Hoàng Đế, ngài đã là dũng tướng với bao dũng lực, ai hiểu Ngài đã phải thấy là thời buổi Ngài làm chuyện bình Nam, dẹp Bắc là vô cùng phức tạp, một thời đại dường như không có lối ra, nếu không có dũng tài quân sự, nếu không có dũng trí chính trị, nếu không có dũng khí lãnh đạo như Ngài.
Tại sao vậy ? Chỉ tại vì Ngài một thân, một chính nghĩa đã phải đối phó với sáu mặt trận tức khắc vì khẩn trương : Mặt trận thứ nhất là Trịnh-Nguyễn phân tranh, một cuộc huynh đệ tương tàn bị xem như là không thể dứt, nếu không có Ngài. Mặt trận thứ hai dai dẳng với Nguyễn Ánh mà hận thù đã lên ngất trời được xếp loại là không đội trời chung. Mặt trận thứ ba là sự nhó nhé của thực dân qua con đường truyền đạo, mà ít nhiều Nguyễn Ánh đã rơi vào bẫy, khi khai thác triệt để Bá Đa Lộc. Mặt trận thứ tư là Thái Lan, thời đó tên láng giềng cơ hội, thừa nước đục thả câu, cũng được Nguyễn Ánh không ngừng sử dụng. Mặt trận thứ năm chính là ông anh cả của Ngài : Nguyễn Nhạc, tâm địa lắc léo vì ham quyền cố vị. Mặt trận thứ sáu kinh khủng nhất chính là quân Thanh đang xâm chiếm đất nước Việt, chúng vào Thăng Long với tư cách vô cùng thô bỉ của bọn cướp nước Việt và khinh người Việt.
Khinh thường người khác trong chiến tranh thì dễ sinh ra khinh địch, cho nên quân Thanh đã bị quét ra, quét hẳn, quét hết, quét trọn, quét sạch qua chiến dịch thần tốc năm mươi ngày của Ngài. Chúng phải chui, phải chạy và cuối cùng là phải xin được giữ thân để về lại được quê cha đất tổ của chúng. Hiện nay trên quê hương Việt, lãnh đạo hiện nay dường như chỉ có hai mặt trận tức khắc vì rất cụ thể. Mặt trận kinh tế quốc thái dân an để có cơm no, áo ấm rồi dần dà làm được chuyện dân giàu nước mạnh mà các láng giềng cùng nôi văn hóa tam giáo đồng nguyên với ta đã làm được (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc). Mặt trận quân sự phải giữ yên bờ cõi để giữ trọn tiền đồ tổ tiên, tức là hằng ngày phải quyết tâm-quyết chí-quyết chiến chống lại ý muốn-ý định-ý đồ của Tầu tặc là xâm lấn-xâm lược-xâm lăng đất nước Việt. Chỉ có hai chuyện thôi, thật rõ ràng, chỉ như vậy thôi mà Việt tộc hiện nay không thấy cụ thể gì cả trong hành vi-hành động của lãnh đạo độc tài nhưng bất tài của Đảng cộng sản Việt Nam !
Lê Hữu Khóa
(07/08/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.