Vừa qua trên mạng lại xuất hiện một bài phát biểu của Thiếu tướng quân đội Lê Mã Lương gây chú ý lớn. Đến thời điểm tôi viết bài này thì đoạn clip đó đã được chia sẻ hơn 2.800 lần trên mạng xã hội Facebook, và đã được xem hơn 231 ngàn lần, một con số rất ấn tượng. Con số đó cũng nói lên là người dân Việt Nam có một sự chú ý đặc biệt về tình hình cộng sản Trung Quốc đang rắp tâm chiếm bãi Tư Chính.
Thiếu tướng Lê Mã Lương đã nêu ra nhiều vấn đề và ông cũng nhấn mạnh rằng, chuyện ở bãi Tư Chính là chuyện của toàn dân chứ không phải Đảng cộng sản thích thì trả lời cho dân, không thích thì thôi. Tôi cũng là một người dân, đã từng thực hiện nghĩa vụ quân sự để trả nợ non sông, và tôi cũng có quyền bàn chuyện bãi Tư Chính cùng những công dân Việt Nam khác.
Tướng Lê Mã Lương - Ảnh minh họa
Kiện còn không dám thì nói gì tới chiến đấu
Sau đó, tướng Lương lại đặt câu hỏi là nếu cộng sản Trung Quốc chiếm bãi Tư Chính thì sao ? Đảng cộng sản Việt Nam có dám chiến đấu tới cùng để bảo vệ lãnh hải hay không ? Về mặt địa lý thì nếu Việt Nam để mất bãi Tư Chính thì coi như mất hết toàn bộ các đảo còn lại ở Trường Sa vì các tàu từ đất liền không còn đường tiếp tế cho các chiến sĩ và người dân ở các đảo còn lại.
Để tôi trả lời luôn cho tướng Lương câu hỏi này. Đã không dám kiện Đảng cộng sản Trung Quốc ra tòa quốc tế thì Đảng cộng sản Việt Nam làm sao dám đánh nhau với quân đội Cộng sản Trung Quốc để bảo vệ bãi Tư Chính. Biện pháp hòa bình, đúng luật pháp quốc tế, được quốc tế ủng hộ để giành chính nghĩa về phía Việt Nam mà còn không dám làm thì đấm đá làm sao nổi.
Trước đây cũng một ông tướng khác bên công an là Trương Giang Long cũng từng tiết lộ là hàng trăm điệp viên cộng sản Trung Quốc đã được cài cắm vào bộ máy Đảng cộng sản, nhà nước Việt Nam.
Có kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không ?
Câu hỏi đầu tiên mà tướng Lê Mã Lương nêu ra là có kiện Trung Quốc ra tòa hay không ? Ở đây tôi lưu ý tướng Lương là chúng ta cần chỉ đích danh kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam là Chế độ cộng sản Trung Quốc, là Đảng cộng sản Trung Quốc.
Nếu tướng Lương chỉ dùng danh từ "Trung Quốc" sẽ gây hiểu lầm là ông kích động hận thù với nhân dân Trung Quốc, và ông có thể bị tòa án xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam kết án tù như hai chị tiểu thương Vũ Thị Dung và Nguyễn Thị Ngọc Sương ở Đồng Nai.
Phần đầu tướng Lương nêu ra câu hỏi như vậy nhưng phần cuối bài phát biểu ông cho biết Bộ Ngoại giao nói rằng, sẽ không kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, tuy nhiên Bộ Ngoại giao đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ. Tướng Lương cũng thắc mắc là đã không kiện thì bày đặt chuẩn bị hồ sơ làm gì ?
Cho nên tướng Lương nên xác định là nếu hải quân cộng sản Trung Quốc chiếm đóng bãi Tư Chính thì Bộ Ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục "quan ngại sâu sắc" mà thôi. Ông đừng mơ mộng gì chuyện Đảng cộng sản Việt Nam sẽ chỉ đạo hải quân Việt Nam chiến đấu chống giặc.
Trách nhiệm để mất bãi Tư Chính thuộc về ai ?
Tướng Lê Mã Lương cũng tuyên bố rằng, nếu để mất bãi Tư Chính thì ông sẽ dẫn các cựu chiến binh thời chống Mỹ đi gặp Bộ Ngoại giao. Tướng Lương cũng quy trách nhiệm việc để mất bãi Tư Chính, nếu xảy ra, sẽ thuộc về Bộ Ngoại giao, Ban đối ngoại trung ương của Đảng cộng sản, Ban đối ngoại quốc phòng của Bộ Quốc phòng. Có lẽ ý ông là do các bộ phận phụ trách ngoại giao của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam không dám kiện nên mới bị mất lãnh hải.
Thật sự tôi không nghĩ tướng Lương hồ đồ như thế vì thực ra các cơ quan ngoại giao ông nêu tên không phải chịu trách nhiệm nếu lãnh hải quốc gia bị mất. Tất cả các cơ quan đó đều phải phục tùng sự lãnh đạo "trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện" của giới lãnh đạo cộng sản. Trong khi đó người đứng đầu Đảng cộng sản là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng giờ này mới chỉ đạo ở Hội nghị Trung ương là "đề nghị phân tích, dự báo tình hình biển Đông". Tức là giới lãnh đạo cộng sản hoàn toàn chưa có bất kỳ đối sách gì ở biển Đông thì làm sao các cơ quan ngoại giao có thể hành động gì.
Trách nhiệm để mất lãnh hải là ở Nguyễn Phú Trọng và toàn thể đảng viên cộng sản
Cần chỉ rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể nếu để mất bãi Tư Chính. Về mặt cá nhân thì ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phải chịu trách nhiệm cao nhất. Về mặt tập thể là Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam, Quốc hội Việt Nam, Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Điều 4 khoản 2 Hiến pháp 2013 do các lãnh đạo cộng sản ban hành ghi rõ :
"Đảng Cộng Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình".
Do đó, toàn thể các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân Việt Nam về việc để mất lãnh hải, lãnh thổ quốc gia. Cần nhắc lại cho các đảng viên cộng sản nhớ là dưới sự lãnh đạo "sáng suốt, tài tình" của Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã để mất đảo Gạc Ma vào tay cộng sản Trung Quốc vào ngày 14/3/1988. Chuyện này chắc chắn tướng Lê Mã Lương rất rành vì chính ông cũng kể lại là bộ đội Việt Nam "không được nổ súng" và chính một "đồng chí lãnh đạo cấp cao" đã hạ lệnh như vậy.
Do đó, các đảng viên cộng sản nào cảm thấy không thể gánh nổi trách nhiệm để mất lãnh hải trước nhân dân, thì các vị nên chủ động và tự nguyện rời bỏ Đảng cộng sản Việt Nam. Để mất lãnh hải là mang trọng tội với nhân dân Việt Nam và với các anh hùng dân tộc đã đổ máu để giữ gìn đất nước từ ngàn xưa đến nay. Hình phạt dành cho tội tày trời này là gì thì các vị tự trả lời.
Dân Việt Nam đã "hiểu biết" hơn ?
Cũng theo lời kể của tướng Lê Mã Lương, Bộ Ngoại giao báo cáo là năm 2019 này, trước sự xâm lược ngang ngược của cộng sản Trung Quốc tại bãi Tư Chính, dân Việt Nam đã "hiểu biết" hơn và không còn "gây rối" như khi cộng sản Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD981 năm 2017.
Tôi xin thưa với tướng Lương là người dân chúng tôi không xuống đường trước việc tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ba tháng nay vì người dân chúng tôi đã bị Đảng cộng sản, Nhà nước Việt Nam đàn áp khốc liệt bằng đánh đập, tù tội khi chúng tôi xuống đường phản đối hành vi xâm lược ngang ngược của cộng sản Trung Quốc. Tức là người dân Việt Nam bây giờ cũng căm ghét Đảng cộng sản Việt Nam như Đảng cộng sản Trung Quốc.
Tình cảm của người dân Việt Nam đối với Đảng cộng sản Việt Nam bây giờ là có sợ hãi sự đàn áp tàn bạo của Đảng cộng sản, nhưng thật ra phần căm ghét nhiều hơn rất nhiều, thậm chí có thể dùng từ "căm thù". Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân đã "phong tặng" cho Đảng cộng sản Việt Nam "sáu chữ vàng" là "hèn với giặc, ác với dân".
Người dân không xuống đường là vì chúng tôi muốn chống mắt ra để xem câu nói cửa miệng của an ninh cộng sản khi đánh đập người dân biểu tình là "để đảng và nhà nước lo" hiệu nghiệm đến đâu. Và kết cục bây giờ là ông Nguyễn Phú Trọng chỉ mới "đề nghị phân tích, dự báo" chứ không hề "lo", không có đối sách.
Chỉ có chính phủ dân cử mới có thể đoàn kếtquốc gia
Khi sự bất lực, đầu hàng của Đảng cộng sản Việt Nam trước kẻ thù xâm lược là Cộng sản Trung Quốc đã rõ ràng thì người dân chúng tôi sẽ phải tự bầu lên chính phủ dân chủ để đoàn kết toàn dân chống xâm lược. Chính tướng Lê Mã Lương có nói ở phần cuối là các chuyên gia Mỹ, Trung Quốc rất sợ Việt Nam khi người dân Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm. Và người dân Việt Nam hiểu rằng, chỉ có một chính phủ dân chủ do dân bầu ra một cách thực chất mới có thể làm được công việc đoàn kết toàn dân đó.
Việc người dân không thèm xuống đường phản đối hành vi xâm lược của cộng sản Trung Quốc ở bãi Tư Chính là chỉ dấu rất rõ người dân Việt Nam không đoàn kết, không tin vào sách lược chống Cộng sản Trung Quốc xâm lược của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tướngkhôngbiết đọcbản đồmà đòichốnggiặc
Tiết lộ chấn động nhất của tướng Lê Mã Lương có thể nói là việc các đại tướng chỉ huy cao nhất trong quân đội nhân dân Việt Nam không biết đọc… bản đồ thực địa. Cả hai ông đại tướng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lương Cường đều chỉ là những sĩ quan nhờ tụng niệm Mác Lê mà thăng quan tiến chức.
Cả hai ông đại tướng chỉ huy cao nhất trong quân đội nhân dân Việt Nam : Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, không biết đọc… bản đồ thực địa.
Các anh em chiến sĩ đang tại ngũ nên… khóc là vừa. Thanh niên Việt Nam khi bị tổng động viên chống giặc cũng nên… khóc, vì trình độ đại tướng như thế thì làm sao các anh em có thể tin tưởng vào sự chỉ huy của các tướng tá cộng sản. Họ chỉ có thể đưa các anh em bộ đội vào chỗ chết mà thôi, như họ đã từng làm với các chiến sĩ hải quân ở thảm sát Gạc Ma 1988.
Có lẽ giải pháp tốt nhất cho Việt Nam lúc này là mời ngay các vị tướng Hoa Kỳ gốc Việt như Lương Xuân Việt, Lapthe Chau Flora, Nguyễn Từ Huấn… lấy lại quốc tịch Việt Nam và nắm quyền chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bên cạnh đó, nhanh chóng mời các cố vấn quân sự Hoa Kỳ đến tư vấn và huấn luyện lại kỹ năng chiến đấu cho các sĩ quan và quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tất nhiên cũng phải trích ngân sách quốc gia để mua các khí tài quân sự hiện đại, đủ sức răn đe cộng sản Trung Quốc.
Kết luận
Có thể nói chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại bị uy hiếp nặng nề như thế vì kẻ thù xâm lược là cộng sản Trung Quốc đang tỏ ra rất hung hăng trong khi Đảng cộng sản cầm quyền thì tỏ ra khiếp nhược, bất lực.
Trước sau gì thì dân tộc Việt Nam sẽ phải tiến đến việc bầu cử tự do và công bằng để chính phủ dân chủ mới đứng ra đoàn kết dân tộc chống giặc ngoại xâm. Có thể suy luận sự xâm lược Việt Nam từ "bạn vàng" của Đảng cộng sản Việt Nam, và việc cả thế giới tẩy chay, tuyên chiến với cộng sản Trung Quốc sẽ là thời cơ để chính trị Việt Nam dân chủ hóa. Từng người dân Việt Nam cần chuẩn bị ngay từ bây giờ cho sự kiện vĩ đại này.
Trung Nguyễn
Nguồn : Tiếng Dân, 10/10/2019
Từ cuối tháng 6 đầu tháng 7 đến nay, Trung Quốc công khai cho tàu xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam dọc theo Biển Đông, vừa sách nhiễu công việc thăm dò dầu khí của Việt Nam tại vùng Bãi Tư Chính, vừa khảo sát một khu vực ngoài khơi miền nam Trung Bộ mà theo tiết lộ mới nhất trên một tài khoản Twitter, chỉ cách bờ biển Việt Nam 150 km vào hôm 09/10/2019.
Sơ đồ vị trí các lô dầu khí của Việt Nam (màu xanh lá) và Trung Quốc (màu xanh dương) tại Biển Đông. Có rất nhiều lô chồng lấn lên nhau. AMTI/CSIS
Trong một bài phân tích ngày 08/10/2019 mang tựa đề : "Động lực và rủi ro của việc Trung Quốc gây sức ép trên Việt Nam - Drivers and risks of China’s pressure on Vietnam", cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á AMTI, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS tại Washington đã cảnh báo rằng "chiến lược gia tăng sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam hàm chứa nhiều rủi ro nghiêm trọng cho Bắc Kinh, và nếu đi quá trớn, có thể gây tác động ngược lại" vì "các hành vi hù dọa của Bắc Kinh có thể thúc đẩy ASEAN và cộng đồng quốc tế ủng hộ Hà Nội".
Trong phần mở đầu bài phân tích, Lucio Blanco Pitlo III, giảng viên tại Trường Khoa Học Xã Hội thuộc Đại Học Ateneo de Manila ở Philippines đã nêu bật việc Trung Quốc đang tăng cường cản trở các hoạt động kinh tế trên biển chính đáng và hợp pháp của các láng giềng, cũng như gây áp lực đối với các công ty nước ngoài, buộc họ ngừng hoạt động thăm dò, không chỉ bên trong đường chín đoạn bị coi là không có giá trị pháp lý, mà cả trong vùng biển tiếp giáp.
Trước đây Bắc Kinh chỉ phản đối miệng, nhưng ngày nay họ đã tung một lực lượng hải quân, hải cảnh và dân quân biển hùng hậu xuống Biển Đông để áp đặt yêu sách. Và như vậy là Trung Quốc đã gia tăng sức ép với các nước nhỏ hơn mình, nhất là đối với Việt Nam.
Các lý do thúc đẩy Trung Quốc chĩa mũi dùi vào Việt Nam
Theo tác giả bài viết, có khá nhiều yếu tố giải thích vì sao Bắc Kinh lại tập trung mũi dùi vào Việt Nam.
Lý do đầu tiên là Trung Quốc giờ đây đã nắm được Philippines, cho nên đã tương đối rảnh tay để đối phó với Việt Nam. Trước đây, trong số những nước có tranh chấp ở Biển Đông, Philippines và Việt Nam là quốc gia đi đầu trong việc phản đối các yêu sách quá trớn của Trung Quốc. Nhưng với việc Manila đang càng lúc càng sẵn sàng đồng khai thác với Bắc Kinh, Trung Quốc đã có thể tập trung đối phó với cản lực còn lại là Hà Nội.
Lý do thứ hai liên quan đến tập đoàn dầu hỏa Mỹ ExxonMobil, hiện là đối tác của Việt Nam trong dự án Cá Voi Xanh ngoài khơi miền Trung Việt Nam. Exxon sắp đưa ra quyết định về việc có nên tiếp tục đầu tư hay không, không riêng gì ở Việt Nam, mà ở nhiều nơi khác trên thế giới, từ Na Uy cho đến Vịnh Mêhicô. Bắc Kinh có lẽ đã muốn gây sự cố để khuyến khích Exxon thoái vốn ra khỏi Việt Nam. Trên vấn đề này, Trung Quốc muốn lập lại kịch bản trước đây, khi sức ép của Trung Quốc đã thành công, buộc được tập đoàn Repsol của Tây Ban Nha rút đi.
Lý do thứ ba là ý đồ tác động đến chuyến thăm Mỹ từng được dự kiến của lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, với hồ sơ Cá Voi Xanh được cho là sẽ hiện diện trong chương trình nghị sự. Đã có nhiều nguồn tin là quan chức thuộc tập đoàn dầu khí PetroVietnam, đối tác của ExxonMobil trong dự án, sẽ tham gia phái đoàn thăm Mỹ.
Lý do thứ tư là Việt Nam sắp đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của ASEAN vào năm tới và Hà Nội có thể sẽ sử dụng cơ hội này để thúc đẩy một sự đồng thuận khu vực vững chắc hơn nhằm đẩy lùi các hành động quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông.
Một lý do khác là việc vào năm 2021, đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập. Bắc Kinh có thể muốn chứng minh là Đảng đã thành công trong việc bảo vệ quan điểm được mở rộng về lãnh thổ, quyền hàng hải và an ninh quốc gia.
Trung Quốc cũng có thể tính toán rằng Việt Nam sẽ không để tái diễn các cuộc bạo loạn như vào năm 2014 sau khi Bắc Kinh cho cắm một giàn khoan nước sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, vì bạo động có thể khiến các nhà đầu tư sợ hãi vào thời điểm Việt Nam đang thu hút các công ty chạy trốn cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Hành động quá đáng của Trung Quốc có thể bị tác động dội lại
Tuy nhiên, đối với tác giả bài phân tích, việc Trung Quốc quyết định gửi tàu khảo sát vào vùng biển của các quốc gia láng giềng như Việt Nam hàm chứa nhiều rủi ro to lớn, và nếu đi quá đà, Bắc Kinh có thể bị phản đòn trên nhiều mặt.
Theo chuyên gia Philippines, hành động của Trung Quốc có thể nâng cao hơn nữa quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi kinh tế trên biển của mình ; thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ Exxon để chống lại áp lực của Trung Quốc, và thúc đẩy ASEAN đẩy lùi các nỗ lực của Trung Quốc muốn loại trừ các công ty nước ngoài khác, không cho đầu tư vào các dự án năng lượng ngoài khơi của họ.
Mặt khác, cho dù phương án của Hà Nội đối phó với Bắc Kinh còn hạn chế, cơ sở pháp lý yếu kém của các yêu sách Trung Quốc vẫn là một lỗ hổng mà Việt Nam có thể khai thác bằng cách đưa vụ việc ra một định chế quốc tế, như Philippines đã làm vào năm 2013.
Phán quyết trọng tài vô hiệu hóa yêu sách dựa trên chủ quyền lịch sử của Trung Quốc, đã buộc Bắc Kinh phải đưa ra những lập luận mới để biện minh cho các yêu sách chủ quyền đối với bốn nhóm đảo khác nhau ở Biển Đông mà họ gọi là Tứ Sa. Tuy nhiên, do phán quyết của Tòa Trọng Tài đã khẳng định rằng không một thực thể nào ở Trường Sa có đủ điều kiện là hòn đảo có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, và các quyền đó phải dựa trên các đặc điểm riêng lẻ của từng đảo, chứ không thuộc nhóm đảo nói chung, việc Bắc Kinh sử dụng chiêu bài Tứ Sa làm cơ sở để đòi chủ quyền trên vùng biển và tài nguyên cũng sẽ không đứng vững.
Bắc Kinh không nên dùng biện pháp đe dọa để gây sức ép
Sự cởi mở của Trung Quốc đối với việc thăm dò và phát triển chung cũng như các biện pháp thiết thực khác ở Biển Đông có thể là cơ hội để thúc đẩy hợp tác và giải tỏa căng thẳng. Nhưng Bắc Kinh không nên dùng sự đe dọa hoặc áp lực để hạn chế lựa chọn của các láng giềng. Phát triển chung có thể tồn tại song song với các dự án hiện có liên quan đến những tác nhân nước ngoài khác. Trung Quốc có thể mua cổ phần của các công ty nước ngoài muốn thoái vốn ra khỏi Biển Đông, nhưng không nên dùng sự ép buộc để có những đề nghị và quyết định thoái vốn như vậy.
Mặc dù vào lúc này, có vẻ như là Bắc Kinh có thể ngang nhiên đe dọa các nước láng giềng ở Biển Đông mà không bị trừng phạt, nhưng trong thực tế, nếu tiếp tục chiến dịch gây áp lực trên Việt Nam, Bắc Kinh rõ ràng là sẽ gặp rủi ro. Việc thiếu vắng động thái xuống thang và đề nghị hợp tác thực sự từ phía Bắc Kinh, có thể làm cho các nước trong và ngoài khu vực cứng rắn hơn với Trung Quốc, qua đó giúp Hà Nội dễ dàng tổ chức một mặt trận phản công của cả ASEAN lẫn cộng đồng quốc tế.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 10/10/2019
Một số cựu quan chức Việt đang hùng hồn phát biểu trên các diễn đàn về việc Việt Nam đang đấu tranh với Trung Quốc trên Biển Đông sau khi ông Nguyễn Phú Trọng chính thức nói về vấn đề này. Chẳng hạn như phát biểu của ông Võ Tiến Trung, Thượng tướng, cựu Giám đốc Học viện Quốc phòng. Ông quan quốc phòng về hưu này cũng như nhiều ông khác vẫn mơ màng về cục diện quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc, về việc quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam thế nào… bla bla.
Báo chí mà đi phỏng vấn mấy ông này thì phóng viên thà tự viết bài còn hơn. Mấy ông này có biết gì đâu mà phát biểu.
Nói về vấn đề Biển Đông, tôi xin nói ngay, thứ nhất, không có bất cứ nước nào có thể giải quyết vấn đề này ngoài Mỹ. Hay nói cách khác bất cứ nước nào muốn đòi lãnh thổ bị chiếm đóng từ Trung Quốc thì phải dựa vào Mỹ. Ông Võ Tiến Trung phát biểu "kiên quyết đấu tranh bằng những giải pháp hòa bình buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam" nghe phát mệt. Ông nói như nói với trẻ con. Ông Trung còn nói "Chúng ta phải dựa vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh từ dư luận quốc tế cho cuộc đấu tranh này". Haiza người dân Việt Nam bây giờ đâu phải học sinh lớp một hả ông Trung. Vẫn cái kiểu tư duy "thắng 2 đế quốc to" nghe bệnh thật chứ. Tôi xin ông Võ Tiến Trung ngừng trả lời phỏng vấn báo chí đi nếu không biết gì về vấn đề chiến lược.
Vị trí của Bãi Tư Chính trên bản đồ Việt Nam
Tôi nói tiếp chuyện thứ hai, đó là muốn nhờ Mỹ giúp đòi lãnh thổ thì phải như thế nào ? Trước đây có mấy bạn cứ hay hỏi tôi chuyện này và nay tôi nói một lúc luôn.
Tôi xin nói ngay, chỉ có đồng minh của Mỹ thì Mỹ mới giúp đòi lãnh thổ, còn nếu không thì Mỹ chỉ đưa tàu chiến đi qua đi lại cho vui vậy thôi.
Vậy thì Việt Nam có thể trở thành đồng minh của Mỹ hay không ?
Đây là vấn đề lớn.
Chính sách chống Cộng xuyên suốt của Mỹ chưa bao giờ thay đổi một cách căn bản, vì vậy chỉ có những nước "phi xã hội chủ nghĩa", "phi Marx-Lenin" mới có thể thành đồng minh với Mỹ. Mà ngay cả 2 cái phi như vậy rồi, nhưng nếu là một chính thể độc tài thì cũng bị Mỹ xem lại.
Có một vài ý kiến nhận định rằng Mỹ không quan tâm đến thể chế chính trị của Việt Nam khi giúp Việt Nam là vừa đúng vừa sai.
Đúng là họ không quan tâm khi chỉ là quan hệ ở cấp độ kinh tế, văn hóa, an ninh… còn tới mức liên minh quân sự là phải "phi xã hội chủ nghĩa", "phi cộng sản" thì Mỹ mới chấp nhận.
Nói cách khác, muốn làm ăn buôn bán loanh quanh qua lại với Mỹ thì như hiện nay là đủ rồi nhưng muốn Mỹ giải quyết giùm mối hận Biển Đông thì phải thành đồng minh của Mỹ, mà muốn thành đồng minh của Mỹ thì phải thay đổi thể chế, phải đa đảng, còn muốn giữ đảng thì không thể.
Như vậy thành ra bài toán chống Trung Quốc trở thành bài toán thân Mỹ và tự do dân chủ. Nếu không có 2 cái đó thì không nói đến chống Trung Quốc.
Một vấn đề đặt ra là như vậy thì Việt Nam có nhờ Mỹ đòi lãnh thổ ở Biển Đông hay không và nhờ đòi như thế nào, chấp nhận thay đổi tới mức nào, trở thành đồng minh của Mỹ không hay chỉ là "đối tác chiến lược" mà thôi.
Đó là vấn đề cần làm sáng tỏ chứ không phải là chuyện ông Trọng vì sao chưa phát biểu chống Trung Quốc hay phát biểu yếu quá.
Trần Đình Thu
Nguồn : https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=2647368615318795&id=100001370467846
Trước chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Ấn Độ, Việt Nam hôm 03/10 cho biết tình hình ở Biển Đông "nghiêm trọng" và Hà Nội sẽ "hoan nghênh nếu Ấn Độ đóng vai trò mang lại hòa bình và ổn định trong khu vực".
Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Phạm Sanh Châu phát biểu như vậy khi được trang ANI hỏi liệu Việt Nam có yêu cầu Ấn Độ nêu vấn đề biển Đông với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khi ông đến thăm nước này hay không.
"Chúng tôi đã đề cập rằng chúng tôi kêu gọi tất cả các quốc gia trong và ngoài khu vực đóng góp cho hòa bình và an ninh trong khu vực và chúng tôi hoan nghênh sự đóng góp của bất kỳ quốc gia nào trong việc tăng cường hòa bình và ổn định trong khu vực", Đại sứ Phạm Sanh Châu nói.
Ngoài ra, Việt Nam sẽ vận động sự hậu thuẫn của Ấn Độ trong cuộc tranh chấp kéo dài với Bắc Kinh ở Biển Đông tại hội nghị an ninh cấp cao hai nước, trong bối cảnh căng thẳng tiếp tục tăng cao ở Biển Đông.
Bản tin của tờ Hindustan Times trích lời Đại sứ Phạm Sanh Châu cho biết Việt Nam sẽ thảo luận về các hành vi xâm phạm biển Việt Nam của Trung Quốc tại hội nghị an ninh hàng năm với Ấn Độ sắp diễn ra ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại sứ Châu được trích lời nói rằng hôm 30/9 mới đây, Trung Quốc đã điều thêm 28 tàu vào vùng biển Việt Nam, bất chấp Việt Nam đã 40 lần trao đổi với phía Trung Quốc, kể từ vụ xâm phạm đầu tiên cách đây 3 tháng. Ông nói :
"Chúng tôi đã nói với Trung Quốc rằng họ không nên xâm phạm vùng biển của chúng tôi, và phải triệt thoái tất cả các tàu về trong thời gian sớm nhất có thể".
Những hành động xâm phạm gần đây nhất của Trung Quốc xảy ra gần vùng biển nơi công ty dầu khí quốc gia Ấn Độ, ONCG Videsh, đang thăm dò dầu khí.
Vẫn theo tờ báo này, Việt Nam và Ấn Độ sẽ thảo luận không những về tình hình an ninh của hai nước, mà còn về các vấn đề khu vực, và đặc biệt, tình hình hiện nay ở Biển Đông.
Về phần mình, Ấn Độ ra tuyên bố vào tháng 8 năm nay, khẳng định rằng New Dehli có "quyền lợi lâu dài gắn liền với hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á". Ấn Độ kêu gọi các bên tuân thủ luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Quốc tế về Luật Biển.
Ấn Độ là một trong 3 nước có quan hệ chiến lược toàn diện với Việt Nam. Tại đối thoại an ninh hàng năm trong tháng này, ngoài vấn đề an ninh, hai chính phủ còn thảo luận về thương mại và đầu tư và hợp tác công nghệ cũng như khoa học.
Trang India Today cho biết, ông Tập Cận Bình, dự kiến sẽ gặp song phương không chính thức với Thủ tưởng Ấn Độ Narendra Modi tại thành phố Mahabalipuram từ ngày 11-13/10.
*******************
Bãi Tư Chính : Hà Nội gián tiếp gợi lên phán quyết PCA khi phản đối Bắc Kinh (RFI, 04/10/2019)
Hà Nội vào hôm 03/10/2019, một lần nữa lại lên tiếng phản đối Bắc Kinh cho tàu mở rộng hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông, đồng thời tái khẳng định Bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam. Điều được giới quan sát chú ý là một lần nữa, Việt Nam đã viện dẫn phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực (La Haye) bác bỏ đường lưỡi bò Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không nói thẳng mà chỉ gợi lên gián tiếp.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng trong cuộc họp báo tại Hà Nội, ngày 25/07/2019. Reuters/Kham
Trong buổi họp báo thường kỳ tại Hà Nội, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã tố cáo việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã trở lại hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, thậm chí còn mở rộng phạm vi hoạt động, "vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, được xác lập phù hợp với các quy định của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982".
Ngoài việc yêu cầu Bắc Kinh rút ngay tàu của họ ra khỏi vùng biển Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng còn nhắc lại quyết tâm của Việt Nam "kiên quyết bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông bằng các biện pháp luật pháp quốc tế cho phép".
Cũng hôm qua, Việt Nam còn bác bỏ lập luận được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đưa ra hôm 18/09, tố cáo Việt Nam xâm phạm vùng biển Trung Quốc ở Bãi Vạn An, tên Bắc Kinh đặt cho bãi Tư Chính. Theo bà Lê Thị Thu Hằng : "Khu vực mà Trung Quốc gọi là 'bãi Vạn An' thực chất là bãi ngầm, là một phần của đáy biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, được xác định phù hợp với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982".
Đối với phát ngôn viên Việt Nam : "Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý quốc tế nào" để đưa ra yêu sách đối với khu vực Bãi Tư Chính vì "Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 và thực tiễn xét xử thời gian qua đã khẳng định rõ điều này".
Nhóm từ "thực tiễn xét xử thời gian qua" chính là để chỉ phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye năm 2016, bác bỏ giá trị pháp lý của các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông.
Đây là lần thứ hai mà Việt Nam viện dẫn – dù gián tiếp – phán quyết La Haye về Biển Đông. Hôm 12/09, trong một tuyên bố phản đối hành vi của tàu Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, bà Lê Thị Thu Hằng cũng khẳng định Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất để các quốc gia xác định quyền thuộc các vùng biển của mình và "điều này đã được các quốc gia tuân thủ, thừa nhận bởi các thực tế xét xử, cũng như sự đồng tình rộng rãi của các luật sư có uy tín quốc tế".
Tuyên bố hôm qua của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, về việc tàu khảo sát Trung Quốc mở rộng hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đã chính thức xác nhận thông tin lưu hành trên internet từ mấy ngày qua.
Ngay từ hôm 30/09, trong một tin nhắn Twitter, giáo sư Ryan Martinson thuộc trường Hải Chiến Mỹ, người đã theo dõi sát hoạt động của chiếc tàu khảo sát Trung Quốc trong thời gian gần đây, đã công bố một bản đồ có ghi lại tín hiệu nhận dạng tự động của tàu Trung Quốc.
Tấm bản đồ cho thấy là từ ngày rời Đá Chữ Thập ở Trường Sa hôm 27/09 cho đến ngày 30/09, chiếc tàu khảo sát HD 8 đã đi ngược lên phía bắc để thăm dò một khu vực dọc theo bờ biển Việt Nam từ Phan Thiết lên đến gần Quảng Ngãi. Một tin nhắn Twitter từ một tài khoản khác đã ước tính rằng vùng hoạt động của tàu Trung Quốc chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 250 km.
Trọng Nghĩa
******************
Hà Nội xác nhận Hải Dương 8 mở rộng hoạt động trong vùng EEZ của Việt Nam (VOA, 03/10/2019)
Nam chính thức xác nhận thông tin nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc "tiếp tục mở rộng hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam".
Tàu dân binh Trung Quốc bảo vệ vòng trong cho tàu Hải Dương Địa chất 8 khảo sát trái phép ở bãi Tư Chính - Phúc Tần, tháng 9/2019 - Ảnh : Ngư dân cung cấp
Trong cuộc họp báo ngày 3/10, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nói rằng hành động của Trung Quốc "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam", và Hà Nội "kiên quyết phản đối hành động này và đã có giao thiệp với phía Trung Quốc".
"Một lần nữa, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển Việt Nam và không để tái diễn hành động vi phạm tương tự", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói.
Kể từ đầu tháng 7, tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc cùng với nhóm tàu hải cảnh hộ tống đã xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần khu vực Bãi Tư Chính, nơi Việt Nam đang hợp tác với một số nước để thăm dò và khai thác dầu khí. Sự kiện này đã đẩy căng thẳng trong quan hệ Việt-Trung lên đến đỉnh điểm, kể từ sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Bất chấp những phản đối chính thức từ phía Hà Nội, Trung Quốc vẫn không dừng lại hoạt động của nhóm tàu này, dẫn đến những suy đoán có thể xảy ra đụng độ vũ trang nếu Bắc Kinh tiếp tục leo thang hành động và đưa giàn khoan khu vực.
Cũng trong cuộc họp báo chiều 3/10, khi được hỏi về thông tin Trung Quốc thông báo triển khai giàn khoan dầu mới Hải Dương 982 ở Biển Đông, nhưng chưa nêu vị trí chính xác, kể từ ngày 21/9, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nói phía Việt Nam "đang theo dõi và xác minh thông tin này".
Trung Quốc : Biển Đông không dễ nuốt
Cựu tổng thống Pháp ra đi trong niềm thương tiếc, tổng thống Mỹ đương nhiệm trong chiếc lưới "impeachment", Trung Quốc tung chiến thuật mới nhưng thiếu ba yếu tố để chiến thắng tại Biển Đông. Jacques Chirac, Donald Trump, Biển Đông nổi sóng và Hồng Kông dậy lửa là những chủ đề lớn trên các tạp chí cuối tuần.
Ảnh minh họa : Quần đảo Trường Sa chụp từ trên không. Ảnh 21/04/2017. Ted ALJIBE / AFP
Tình hình nóng bỏng tại Hồng Kông được Courrier International tóm lược trong tựa ngắn " Hồng Kông trong lửa và máu ". Cùng nhận định, The Economist dự báo nguy cơ " căng thẳng leo thang tại đặc khu hành chánh " sau vụ một học sinh bị bắn. Trong khi đó tại Biển Đông, cũng theo tuần báo Anh, kịch bản hợp thức hóa đường lưỡi bò không thuận buồm xuôi gió như Trung Quốc toan tính.
Biển Đông ít được nhắc tới không có nghĩa là Bắc Kinh đã bớt tham lam
Có hai lý do trong thời gian qua, công luận ngày càng ít nghe nói Trung Quốc gia cố các đảo nhân tạo tại Biển Đông. Điều này không có nghĩa là Bắc Kinh giảm bớt lòng tham làm bá chủ trên một vùng biển rộng 3,5 triệu cây số vuông.
Lý do thứ nhất là 7 tiền đồn ở Trường Sa đã được hoàn tất. Thứ hai, là với những tiền đồn này, Bắc Kinh nghĩ rằng đủ mạnh để bước qua giai đoạn hai, thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử (Code of Conduct-COC). Năm 2013, Tập Cận Bình thề thốt là các phi đạo, hải cảng mà Trung Quốc đang xây dựng trên các đảo nhân tạo là để "phục vụ lợi tích chung". Thực tế cho thấy Trung Quốc xây pháo đài, công sự chiến đấu, bố trí máy bay quân sự , tên lửa… Về quân sự, 7 tiền đồn trên biển cho phép Trung Quốc kiểm soát toàn khu vực nếu xảy ra chiến tranh với Mỹ.
Các đảo tiền trạm này, ngày nay là hậu cần của các tàu thăm dò dầu khí của Trung Quốc, lui tới như "xe cắt cỏ" tại các vùng biển của Việt Nam, như đã xảy ra vào năm 2014, và đang diễn ra hiện nay. Cùng lúc, tàu hải cảnh Trung Quốc cũng lui tới hù dọa các giàn khoan của nước ngoài hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam hay với Malyasia láng giềng.
Đây là một chiến thuật áp đặt chủ quyền, buộc các nước láng giềng chấp nhận chuyện đã rồi. Tuy nhiên có lẽ Bắc Kinh tính không qua trời tính. Theo The Economist, kế hoạch của Trung Quốc bị nhiều trắc trở không ngờ.
Trung Quốc bị 3 cản lực tại Biển Đông
Trước tiên, nhiều nguồn tin cho rằng Biển Đông là "vùng nước độc" khắc kỵ Trung Quốc. Cấu trúc "bê-tông" trên các đảo nhân tạo bị nước biển, muối biển soi mòn, nền móng bị sụp đổ trong khi chờ đợi xẩy ra một cơn bão lớn.
Thứ đến, Trung Quốc không ngờ các nước Đông Nam Á cự tuyệt, đề kháng đề nghị "cùng khai thác tài nguyên". Manila chỉ hứa miệng chưa có gì chính thức.
Trung Quốc cũng không ngăn cản được các công ty nước ngoài hợp tác với các nước Đông Nam Á. Cho dù Nga được xem là bạn của Trung Quốc nhưng tàu Trung Quốc hù dọa giàn khoan của công ty nhà nước Nga Rosneft ở Bãi Tư Chính.
Điều trớ trêu là những hành động dọa nạt này chỉ gây bất lợi thêm cho Trung Quốc trong ý đồ buộc các nước Đông Nam Á ký bộ quy tắc ứng xử COC vào năm 2021.
Ian Storey, một chuyên gia địa chiến lược ở Singapore cho biết có rất nhiều cản lực mà cội nguồn là do mưu tính của Trung Quốc. Cụ thể là để một "bộ quy tắc" có giá trị pháp lý, thì phải đệ trình Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng Bắc Kinh không đồng ý.
Trở ngại thứ hai là Trung Quốc muốn bộ quy tắc COC công nhận đường "chín đoạn" bao trùm cả Biển Đông vừa mù mờ, vừa không cơ sở. Thế là các nước Đông Nam Á chống lại "lưỡi bò".
Một điểm nữa, là hoạt động nào bị cấm ? Trung Quốc không muốn cấm các hoạt động quân sự hóa, cải tiến cơ sở quân sự (bị xuống cấp) trong tương lai. ASEAN cũng bác bỏ lại đề xuất của Trung Quốc cấm ASEAN tập trận chung với một "cường quốc ngoài khu vực", tức là Hoa Kỳ.
Thừa hiểu thâm ý của Bắc Kinh muốn hợp thức hóa ý đồ thống trị Biển Đông, ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin cảnh báo : Chấp nhận "những yêu sách của Trung Quốc liên quan đến bộ quy tắc ứng xử COC là "gián tiếp công nhận bá quyền Trung Quốc" như "cho con voi vào phòng khách".
Hồng Kông phá tan ngày hội của Bắc Kinh
Tình hình tại Hồng Kông cũng trở thành phức tạp thêm sau vụ cảnh sát bắn một thiếu niên biểu tình. Nhất cử nhất động của chính quyền Lâm Trịnh Nguyệt Nga đều gây phản ứng bất lợi.
Ngày Bắc Kinh kỷ niệm trọng thể 70 năm chế độ Mao thì cũng là ngày "máu lửa" tại Hồng Kông. Courrier International đăng bức ảnh cảnh sát đàn áp một nhóm thanh niên biểu tình ngày 01/10 : Hơn 50 người bị bắt, một học sinh 18 tuổi bị cảnh sát bắn thẳng vào ngực, trọng thương.
Với tựa "Phá nát lễ hội", The Economist nhận định : "Ngày 01/10 không bao giờ là ngày vui của dân Hồng Kông. Từ bốn tháng nay, người dân đặc khu nổi dậy đòi dân chủ đúng nghĩa và tố cáo bàn tay của Đảng cộng sản Trung Quốc can thiệp vào đời sống, sinh hoạt tự do của Hồng Kông".
Ngày quốc khánh của Hoa Lục biến thành ngày quốc táng tại Hồng Kông. Khắp bán đảo, người biểu tình tuần hành với biểu ngữ "ChiNazis " (Trung Quốc Xã), đốt lửa, đốt cờ Trung Quốc. Họ còn khiêu khích để cảnh sát đàn áp mạnh. Hơn 100 người bị thương trong đó có Tsang Chi Kin, bị bắn vào ngực.
Cho dù cảnh sát biện minh là "tự vệ chính đáng và có chừng mực" nhưng vụ này, đối với một lực lượng an ninh có tiếng chuyên nghiệp, và nhất là viên cảnh sát sử dụng đạn thật có trang bị vũ khí không sát thương, sẽ làm cho các nỗ lực làm giảm căng thẳng sau này của chính quyền đặc khu phức tạp thêm.
Nhiều dấu hiệu cho phép lo ngại tình hình sắp tới sẽ căng thẳng thêm : có tin lực lượng Trung Quốc tại Hồng Kông tăng gấp đôi từ 5.000 quân lên 10.000 hay 12.000. Báo chí thân Bắc Kinh đề xuất sử dụng một đạo luật cũ thời nhượng địa về "tình trạng khẩn cấp" để chống biểu tình. Ngày 24/11, Hồng Kông bầu ủy viên hội đồng thành phố. Theo The Economist, đây sẽ là một cơ hội để biểu tình dữ dội nổ ra nếu các ứng cử viên chủ trương ly khai với Trung Quốc bị cấm tranh cử.
Donald Trump trong màn xiếc phế truất
Báo chí Mỹ phê bình chủ nhân Nhà Trắng đặt cá nhân lên trên đất nước, bất chấp những vấn đề quan trọng mà Hoa Kỳ đang đối phó.
Courrier International chọn hai bài báo Mỹ. Trước hết, với bài "Cơn lôi đình trong văn phòng bầu dục", Los Angeles Times tường thuật "những lời tuyên bố phóng đại và vô trách nhiệm" của tổng thống Donald Trump từ khi phe Dân chủ quyết định khởi động cuộc điều tra để truất phế tổng thống.
Trong mũi dùi tấn công nhân viên tình báo đánh tiếng chuông báo động vụ Ukraine cũng như trong tweet đòi bắt chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Adam Schiff, chủ nhân Nhà Trắng tuyên bố như mê sảng : người nào cũng nói dối, người nào cũng loan tin thất thiệt. Nghiêm trọng hơn nữa, tổng thống Mỹ còn chia sẻ quan điểm của một mục sư bình luận gia của đài truyền hình bảo thủ Fox News, theo đó, truất phế tổng thống sẽ đưa đến "nội chiến".
Một lần nữa, từ khi nhậm chức cách nay gần ba năm, tổng thống Donald Trump đánh đồng cá nhân ông với Nhà nước là một. Los Angeles Times lưu ý : tổng thống là đại diện nhưng không phải là hiện thân của quốc gia. Những gì tốt cho Hoa Kỳ không hẳn là tốt cho Donald Trump và ngược lại. Những lời tuyên bố cuối tuần qua cho thấy chủ nhân Nhà Trắng không chấp nhận sự thật này.
Không chấp nhận thì làm gì ? New York Times công kích mạnh hơn : Tổng thống làm trò xiếc và gây chia rẽ. Đối với nhật báo kịch liệt chống Donald Trump thì ông có thể không bị cách chức mà còn huy động được cử tri ủng hộ mạnh hơn để tái đắc cử. Thủ tục Impeachment lúc đó có lợi cho Donald Trump, nhưng tiếp tục nhiệm kỳ hai trong điều kiện này thì thật là không may cho nước Mỹ.
Công và tội của cố tổng thống Pháp Chirac
Có phúc phần hơn tổng thống Mỹ đương nhiệm, cựu tổng thống Pháp Jacques Chirac, từ trần trong niềm thương tiếc. Courrier International đề cao nhà lãnh đạo "thân dân", nhưng nghiêm khắc phê phán các sai lầm trong chính sách đối ngoại.
Nhìn từ các nước Ả Rập, tổng thống thứ năm của nền Đệ ngũ Cộng hòa Pháp là một người đáng quý vì ông là bạn của Lebanon, của Iraq, là người nói "không" với nước Mỹ để chống can thiệp quân sự vào Iraq.
Báo L’Orient-Le Jour của Lebanon thì không quên tổng thống Chirac là người giúp Lebanon của thủ tướng Rafiq Hariri từ năm 1995 thoát khỏi vòng kềm tỏa của Syria.
Nhìn từ Mỹ, New York Times ghi nhớ tình cảm tốt đẹp của tổng thống Chirac với Hoa Kỳ. Báo Đức Tagesspiegel cho rằng tổng thống Chirac tập trung vào chính trường quốc tế hơn là tình hình nước Pháp.
Trong khi đó, báo chí Châu Phi ghi nhớ "công lẫn tội" của nhà lãnh đạo Pháp vừa qua đời. Trong khi các nguyên thủ Châu Phi tỏ lòng thương tiếc thì tờ L’Observateur Paagal, Burkina Faso, trách Chirac bao dung cho các nhà lãnh đạo bạn hữu tham ô.
Tuần báo thiên tả Pháp, L’Obs, không ngần ngại dành một số đặc biệt với hình bìa là tấm ảnh một chính trị gia trẻ tuổi, đep trai như tài tử điện ảnh lúc mới bắt đầu tham chính thời cố tổng thống Pompidou cho đến khi trở thành "tổng thống trong nhân dân Pháp". Đó là chủ đề của 80 trang tổng kết các sự kiện nổi bật và giai thoại vui buồn trong sự nghiệp lâu dài, trong đó có 18 năm làm đô trưởng Paris và 12 năm ở điện Elysée.
Tú Anh
- Từ những sự kiện thực tế,
- Quốc dân Việt Nam muốn biết vì sao ?
Đó là nội dung bài viết này.
Ông Phạm Bình Minh đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, New York, 28 tháng Chín.
I. Từ những sự kiện thực tế
Những sự kiện thực tế đó là, trong nhiều năm qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã nhiều lần ra những quyết định pháp lý, hành chánh và bằng hành động quân sự bạo lực xâm chiếm nhiều vùng lãnh thổ và lãnh hải, biển đảo của Việt Nam, vi phạm trắng trợn chủ quyền lãnh thổ lãnh hải biển đảo Việt Nam và vi phạm công ước quốc tế cũng như các hiệp định song phương về biên giới lãnh thổ và lãnh hải giữa hai nước Việt - Trung đã ổn cố và được tôn trọng từ hàng thế kỷ qua.
Thực tế là Trung Quốc đã dùng bạo lực tấn công, chiếm đoạt một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, lúc đó thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam trong bối cảnh đất nước chia đôi, cuộc chiến tranh Quốc-Cộng Nam và Bắc Việt Nam ; và năm 1988 tấn công, chiếm đoạt đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đặc biệt nghiêm trọng và gần nhất là vụ Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu khảo sát và các tàu hộ tống vào khu vực Bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, lưu lại ở đây trong nhiều tháng qua, vào ra như vùng "ao nhà" của họ ; tiến hành thăm dò dầu khí bất hợp pháp trong vùng biển thuộc thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đồng thời, người phát ngôn của Bộ ngoại giao Trung Quốc hôm 18-9-2019 còn ngang nhiên tuyên bố chủ quyền sai trái tại vùng này và đòi Việt Nam phải tôn trọng ; cũng như trước đó đơn phương tuyên bố chủ quyền "9 đoạn" chiếm hầu hết Biển Đông, theo kiểu quân cướp nước "vừa ăn cướp vừa la làng".
Hành động xâm phạm chủ quyền lãnh hải, hải đảo của Việt Nam mới nhất này, nhưng vẫn chưa phải là hành động cuối cùng, Trung Quốc đã ỷ mạnh hiếp yếu, vi phạm trắng trợn quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển, mà Trung Quốc đã ký và cam kết thi hành. Đồng thời Trung Quốc cũng vi phạm các quy định của Tuyên bố chung về ứng xử của các bên đang có tranh chấp trong biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã cùng ASEAN ký kết năm 2002. Theo đó, DOC quy định tạm thời các bên phải tự kiềm chế, duy trì nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp.
II. Quốc dân Việt Nam muốn biết vì sao ?
Đứng trước các sự kiện thực tế trên, quốc dân Việt Nam (những công dân của Tổ quốc Việt Nam) trong cũng như ngoài nước muốn biết :
1. Vì sao trong bài phát biểu hôm 28/9 tại phiên họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Phó Thủ tường kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã không chỉ đích danh Trung Quốc, như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam dưới quyền ông trong những tháng qua đã nhiều lần cáo buộc đích danh Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam ?
Vì tại phiên họp này, ông Minh chỉ nói "Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển Việt Nam" và rằng "các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển".
Quốc dân Việt Nam quan tâm đều cảm thấy thất vọng trước cách hành xử này của nhà đương quyền Việt Nam thể hiện qua bài phát biểu của người đứng đầu ngành ngoại giao Việt Nam, trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc ; là đã đánh mất một cơ hội cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền biển đảo của mình để tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế trong tranh chấp Biển Đông.Trong khi Việt Nam đã và đang đi tìm kiếm sự hậu thuẫn quốc tế để có thế lực đương đầu, ngăn chặn tham vọng xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải biển đảo Việt Nam của Trung Quốc, luôn ỷ thế mạnh "bắt nạt Việt Nam" và các nước nhỏ yếu khác trong vùng.
2. Vì sao, cũng trong bài phát biểu dài 16 phút, Phó Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh có đề cập đến chủ trương chính sách giải quyết tranh chấp lãnh thổ lãnh hải biển đảo một cách hòa bình theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và căn cứ trên luật pháp quốc tế như Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển ; lại không vận dụng ngay vào việc giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam khi cả hai nước Việt –Trung đều là hội viên Liên Hiệp Quốc ?
Nói cách khác, tại sao Việt Nam không "quốc tế hóa việc tranh chấp" trên Biển Đông với Trung Quốc" như nhận định của Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales. ?
Ông Phạm Bình Minh nói "Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) – ‘Hiến chương của Biển và Đại dương".
Thế tại sao giờ này Việt Nam vẫn rụt rè như "gà phải cáo", hay "vừa tố cáo vừa run", vẫn không dám đưa vụ tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ra trước Liên Hiệp Quốc hay trước các tòa án quốc tế có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế ?
3. Vì sao đến giờ này Quốc hội Việt Nam mệnh danh là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân, đẻ ra chính phủ, nhất là Ông Tổng Trọng người lãnh đạo tối cao Đảng, Quốc Hội và chính phủ thì vẫn im hơi lặng tiếng, không dám lên tiếng ; lại chỉ để cho người phát ngôn Bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng gần đây mới lên tiếng tố cáo đích danh Trung Quốc vi phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo của Việt Nam ; còn người đứng đầu Bộ ngoại giao Phạm Bình Mình thì trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc lại tránh né không dám gọi đích danh "Ông Trung Quốc" vì sợ"phạm húy" chăng ?
Trong bài viết trước "Đến non nước này Quốc hội Việt Nam cần và phải lên tiếng" chúng tôi có đề nghị đôi điều Quốc hội cần làm ngay, thiết nghĩa không cần nhắc lại ở đây.
III. Thay lời kết
Với trách nhiệm bảo vệ đất nước, quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước đòi hỏi Đảng, Quốc hội, chính phủ đương quyền phải :
- Một là thực hiện khẩn cấp mọi đối sách chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự kiên quyết, để tranh thủ sự hậu thuẩn mạnh mẽ của quốc tế, tạo thế lực chặn đứng các hành động xâm lăng trắng trợn ngày càng gia tăng của nhà cầm quyền Trung Quốc.
- Hai là, nhà cầm quyền Việt Nam cần cấp thời đưa những vi phạm chủ quyền lãnh thổ lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc ra trước Liên Hiệp Quốc. Vì cả Trung Quốc và Việt Nam đều là hội viên Liên Hiệp Quốc.Đồng thời, đưa vụ việc tranh chấp chủ quyền ra trước các cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền, để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình theo tinh thần Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, căn cứ trên Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển, và bản Tuyên bố chung về ứng xử của các bên đang có tranh chấp trong biển Đông (DOC) năm 2002.
- Ba là, nhà cầm quyền Việt Nam cần phải thay đổi đường lối cai trị, mở rộng tự do, dân chủ, thả hết các tù nhân chính trị, tôn giáo, bất đồng chính kiến đang bị cầm tù và chấm dứt đàn áp, bắt bớ giam cầm những người đấu tranh ôn hòa cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước, để đoàn kết toàn dân, huy động toàn lực quốc gia vào công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 05/10/2019
Hình ảnh Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Mình đứng cô đơn trong nghị trường đọc bài diễn văn tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phản ánh hiện trạng tình thế của Việt Nam trước dư luận quốc tế một cách sinh động. Nó cho thấy Việt Nam dù muốn làm gì, nói gì cũng không thuyết phục được bất cứ nước nào chịu nghe lời minh chứng trước việc Trung Quốc không dừng bước trong âm mưu thôn tính biển Đông qua đường chín đoạn mà nước này áp đặt.
Hải Dương 981 ở Biển Đông hồi 2014.
Trước sự lấn lướt, uy hiếp của Trung Quốc tại bãi Tư Chính thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam giới quan sát chính trị quốc tế nêu ra trong những ngày gần đây cho thấy đã đến lúc Hà Nội cần nhìn lại chính sách đối ngoại mà họ từng theo đuổi trong nhiều năm qua nhằm thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hiện nay trước nguy cơ xâm lược của Trung Quốc ngày một rõ ràng và không cần che dấu.
Trong một bài báo trên tờ Diploma Tiến sĩ Rajeswari Pillai Rajagopalan, Học giả và Chủ tịch Sáng kiến Chính sách Hạt nhân và Không gian thuộc Quỹ Observer Research Foundation (ORF) ở New Delhi, Ấn Độ cho rằng mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đang lao vào một cuộc đối đầu dữ dội tại Biển Đông nhưng sự việc lại không thu hút được sự quan tâm đầy đủ của thế giới. Theo trích dẫn của VOA, sau khi nêu hàng hoạt các phản ứng của Việt Nam sau vụ nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng EEZ của Việt Nam, Tiến sĩ Rajeswari viết : "Trong tình hình này, chính phủ Việt Nam tìm cách tác động đến các nước Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Úc và nhiều nước khác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đáp lại lời kêu gọi này là gì ? Một sự im lặng và những lời phát biểu "sáo rỗng".
Câu hỏi đặt ra : Tại sao quốc tế quay lưng với Việt Nam về vấn đề Biển Đông trong khi vẫn làm ăn, mua bán giao hảo và thậm chí còn giúp đỡ Việt Nam trong các dự án xã hội ?
Bởi vì giao thương và giao chiến là hai việc hoàn toàn khác nhau. Việt Nam và Trung Quốc có giao tranh cách nào đi nữa thì các nước thuộc khối tư bản sẽ không bao giờ tham gia vì ý thức hệ đã phân chia hai khối từ những năm đầu của thập kỷ 50 của thế kỷ trước, khi cộng sản và tự do chia cắt rạch ròi với nhau gây nên nhiều cuộc chiến tranh quốc cộng mà chiến tranh Việt Nam là một bài học lịch sử còn tươi vết máu của cả hai miền Việt Nam và các nước khác như Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Hàn, Philippines, và nhất là Mỹ.
Bởi vì Việt Nam vẫn là nước kiên trì theo chủ nghĩa cộng sản trong số 5 nước cuối cùng còn sót lại trên thế giới bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào, Cuba và Việt Nam. Câu chuyện tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là Bãi Tư Chính đang xảy ra giữa hai đất nước có cùng ý thức hệ, cùng lý tưởng và cùng chung mục đích chính trị sẽ không được bất cứ nước nào trong thế giới tự do có thể tham gia vào việc hòa giải, can thiệp hay bênh vực một cách tích cực.
Bởi vì thái độ của Việt Nam không nhất quán và luôn luôn gây cho quốc tế những dấu hỏi về tính đi dây trong quan hệ ngoại giao. Việt Nam cho rằng các nước lớn có quyền lợi tại Việt Nam phải bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách ủng hộ lập trường của Việt Nam nhưng Hà Nội quên rằng Trung Quốc mới chính là nguồn lợi vô tận đối với nhiều nước hiện nay.
Bởi vì ngay chính Hoa Kỳ cũng không hoàn toàn thoải mái khi quan hệ ngoại giao trở lại với Việt Nam sau nhiều chục năm đứt đoạn. Một mặt Hà Nội tay bắt mặt mừng với Mỹ nhưng sau lưng lại cho phép báo chí của Đảng tiếp tục hạ nhục Mỹ bằng các bài viết nhắc lại cuộc chiến tranh thần thánh chống mỹ gần 50 năm về trước.
Bởi vì mục tiêu là nhắm tới sự góp sức của Mỹ nhưng Hà Nội công khai cho phép bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tiếp xúc với đại diện của Tổng thống Murado của Venezuela khi nước này trên bờ vực sụp đổ vì sự phong tỏa của Mỹ và nhiều nước phương Tây. Việc làm phi chính trị này chắc chắn sẽ được các chính khách Mỹ ghi vào sổ tay của họ để cảnh báo chính quyền Washington nếu có ý định tiến thêm một bước với Việt Nam.
Bởi vì các nước EU cũng như Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Philippines, Hàn Quốc chia sẻ lý tưởng tự do dân chủ với Mỹ trong khi Việt Nam cho rằng mỗi nước có cách nhìn dân chủ nhân quyền khác nhau và vì vậy Việt Nam từng nhiều lần bị quốc tế chỉ trích về vấn đề này, một vấn đề cốt lõi mà Việt Nam không bao giờ tuân thủ.
Bởi vì Việt Nam theo sự chỉ đạo rất khôn khéo của Trung Quốc không chấp nhận đứng chung với nước này mà chống lại nước khác nên mọi lời kêu gọi thế giới lên tiếng trước hành vi xâm lấn của Trung Quốc đều vô ích. Không nước nào chấp nhận làm công việc hồ đồ giúp cho kẻ đã từ chối nhận mình làm bạn.
Bởi vì Trung Quốc cật lực ngăn cản Việt Nam liên minh với Mỹ hay bất cứ nước nào trong thế giới tự do vì Bắc Kinh biết rằng khi chấp nhận giải pháp liên minh Việt Nam sẽ bị buộc phải từ bỏ thể chế Cộng sản vì thế giới tự do và cộng sản không thể liên minh.
Bởi vì Việt Nam biết chắc rằng ngay cả chấp nhận liên minh với Hoa Kỳ thì Quốc hội Mỹ sẽ ràng buộc Hà Nội vào nhiều yêu cầu mà nước Mỹ vẫn theo đuổi trong đó có vấn đề nhân quyền, một cục xương khó gặm cho chính thể Việt Nam. Bởi vì nước Mỹ không thể hy sinh xương máu của công dân nước mình để liên minh, bảo vệ cho một đất nước xem nhân quyền là kẻ thù của chế độ.
Tất cả những "bởi vì" ấy đang cản trở Việt Nam tiến gần với thế giới để bảo vệ mình. Trung Quốc biêt rõ điều ấy và thản nhiên tiếp tục đưa tàu vào khu vực Bãi Tư Chính để cảnh cáo Việt Nam rằng họ sẽ có thể cho Việt Nam một bài học thứ hai vì Hà Nội chơi ván cờ cộng sản lại nhìn chừng sang phía kẻ thù là thế lực thù địch.
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 04/10/2019
Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 vào Biển Đông, tiếp tục gây nên lo ngịa về một cuộc đối đầu mới với Việt Nam. Và đây được xem là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm suy yếu nỗ lực của Việt Nam trong theo đuổi, thăm dò dầu khí chung với các quốc gia khác.
Một giàn khoan dầu khí của Trung Quốc ngoài khơi Biển Đông - Ảnh : Reuters
Các biện pháp hòa bình ?
Trong bối cảnh sự va chạm của Việt – Trung chưa dừng trên Biển Đông, thì gần đây nhất, Thời báo Kinh tế Ấn Độ ngày 30/9 đã đăng một bài viết ủng hộ Việt Nam và phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ). Bài báo dẫn lời các chuyên gia hàng hải nói rằng Bắc Kinh không được phép thực hiện bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình và vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế.
Cũng theo trang tin này, Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ - ông Phạm Sanh Châu, cho biết Hà Nội sẽ sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình được định nghĩa bởi luật pháp quốc tế để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Quan điểm này phù hợp với những gì mà ông Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại phiên thảo luận cấp cao Khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vừa qua.
‘Các biện pháp hòa bình’ vẫn là một lựa chọn mà Hà Nội đang kiên trì tiến hành để ứng phó các hoạt động lấn lướt và phi pháp của Bắc Kinh từ trước đến nay. Và cách ứng phó này theo ông Carl Thayer trong một bài báo ngày 30/9 trên RFA là ‘hết sức nhẹ nhàng’.
Và biện pháp hòa bình cũng có thể được hiểu là ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’.
Và đấu tranh không chỉ duy ‘vờn nhau’ ngoài khu vực biển đông giữa tàu hải cảnh của hai quốc gia, mà bao hàm cả việc Hà Nội có thể tính toán đến việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Kiện ra tòa : không thể ?
‘Kiện Trung Quốc’ hiện giờ nhận được không ít sự đồng thuận. Nhưng liệu kiện có thể là biện pháp hữu hiệu giải quyết các vấn đề phát sinh tại Biển Đông ?
Shirley Wang, tác giả bài viết về luật quốc tế áp dụng tại Biển Đông trên The MCGILL International Review tỏ ra bi quan về phương án này.
Cụ thể, hiện tại khung chính hướng dẫn quản lý tranh chấp Biển Đông nằm trong Bộ quy tắc ứng xử ASEAN-Trung Quốc (COC), nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ tiếp cận COC một cách nghiêm túc. Đó là lý do vì sao vào tháng 8/2018, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua một dự thảo văn bản đàm phán COC. Trong dự thảo, dù đã có thỏa thuận về sự cần thiết phải thiết lập một khuôn khổ dựa trên các quy tắc và hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, khi Hà Nội kêu gọi cấm xây dựng các đảo nhân tạo và triển khai các vũ khí phòng thủ như tên lửa đất đối không trên các đảo nhân tạo, thì Trung Quốc đã làm cả hai điều này.
COC cũng không phải là cơ chế giải quyết tranh chấp, và sẽ có một lộ trình rất dài để tiệm cận với một nghị quyết chung thẩm về các yêu sách chủ quyền và ranh giới hàng hải theo các quy định của UNCLOS. Hải cảnh và dân quân Trung Quốc liên tiếp vi phạm các Điều 2, 6, 7, 8, 15 và 16 của Bộ Quy tắc phòng ngừa đâm va trên biển (COLREG), do đó vi phạm Điều 94 của UNCLOS. Thậm chí, ngay cả Công ước SAR-79 và thỏa thuận quốc tế về ‘Tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực Biển Đông’ cũng không được Bắc Kinh tuân thủ, khi mới đây, tàu Trung Quốc đã từ chối cứu hộ tàu cá Việt Nam, mặc dù tàu cá đang trong tình trạng nguy cấp [1].
Trong khi đó, để kiện được Trung Quốc, Việt Nam phải dựa vào UNCLOS, nhưng UNCLOS hoạt động hiệu quả nhất khi có biên giới hàng hải được phân định rõ ràng, và điều này ở Biển Đông là sự ‘chồng lấn’ lẫn nhau. Và Bộ quy tắc về tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) [2], một thỏa thuận khác thường được áp dụng cho các tranh chấp ở Biển Đông, thiếu tính ràng buộc và không áp dụng cho hải cảnh, mặc dù hầu hết các sự cố liên quan đến hải cảnh và các tàu thực thi pháp luật hàng hải khác.
Vậy ASEAN thì sao ?
Việt Nam trở thành Chủ tịch Asean vào năm 2020. Đây được xem là yếu tố thuận lợi để giúp Hà Nội giải quyết vấn đề Biển Đông theo hướng có lợi cho mình. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có 4 thành viên của ASEAN (Việt Nam, Brunei, Philippines và Malaysia, với Indonesia) là có yêu sách ở Biển Đông, mặc dù toàn bộ ASEAN có liên quan đến quá trình COC. Và ASEAN không phải là một nơi để giải quyết vấn đề Biển Đông có hiệu quả hiện nay.
Ông Trần Việt Thái thuộc Học viện Ngoại giao Việt Nam bày tỏ về vai trò của ASEAN với tờ Bangkok Post ngày 2/10. Theo đó, ASEAN không phải là tổ chức được thiết kế không phải để giải quyết các vấn đề lãnh thổ (Biển Đông). Asean được thành lập và thiết kế để đối thoại và tạo điều kiện cho quá trình phát triển.
"Nếu bạn kỳ vọng quá nhiều từ ASEAN, bạn đã sai […] Trong vấn đề Biển Đông, ASEAN có thể cung cấp một diễn đàn, Nhưng nếu bạn mong đợi rằng ASEAN có thể giúp bạn giải quyết các tranh chấp, thì không bao giờ - họ không thể giúp bạn", Ông Trần Việt Thái cho biết.
Kết
Với tình hình thực tế hiện tại và những bài học bị ‘lấn lướt’ trong giai đoạn sau năm 2014, thì Hà Nội chỉ còn đúng một lựa chọn tối ưu nhất là ‘đối đầu với sức ép từ Trung Quốc bằng cách gia tăng hợp tác an ninh và quốc phong với Mỹ’. Nhưng muốn như vậy, đội ngũ lãnh đạo Hà Nội phải đồng thuận trong ‘nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên thành đối tác chiến lược’, một điều có thể là bước ngoặt tương tự như cách hai quốc gia thiết lập ngoại giao vào năm 1995.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 03/10/2019
Tham khảo
[2] CUES, http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/6179-cues-va-luc-luong-bao-ve-bo-bien
Biển Đông : 'Né' tên Trung Quốc, Việt Nam có kế sách riêng ? (BBC, 02/2019)
Việc Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đưa vấn đề Biển Đông ra Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) nhưng lại tránh nhắc tên Trung Quốc làm dấy lên tranh luận trên mạng xã hội.
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) bắt tay Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (trái) tại Hà Nội vào ngày 1/4/2018
Nhiều ý kiến bất bình cho rằng Việt Nam đã 'gây thất vọng', trong bối cảnh tàu Trung Quốc vẫn quấy nhiễu tại Bãi Tư Chính. Số khác cho rằng nhà nước Việt Nam có kế hoạch riêng 'không thể tiết lộ' trước khi có thể thực sự đưa 'hành vi bắt nạt' của Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc.
Nhưng có thật Việt Nam đang xem xét cơ hội ấy không ?
Không nhắc tới Trung Quốc 'một lần nào'
Trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) ở thành phố New York, Mỹ hôm 28/9, ông Phạm Bình Minh đề cập tới 'vụ việc nghiêm trọng xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam' trong bài phát biểu kéo dài 15 phút.
Ngay sau đó, cây bút Phạm Thành, người vừa gây xôn xao với cuốn sách về ông Nguyễn Phú Trọng có tên "Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo", đếm thấy trong hơn 15 phút phát biểu, ông Phạm Bình Minh "nhắc tới luật quốc tế 6 lần, biển Đông 3 lần, 1 lần Indo-Pacific, 1 lần vùng đặc quyền kinh tế". Và "không nhắc tới Tàu một lần nào".
Thay vì thế, ông Minh dùng cụm từ 'các bên liên quan' và 'các quốc gia liên quan'.
"Chúng tôi kêu gọi những bên liên quan ở Biển Đông tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, vốn được xem là "Hiến pháp đối với các đại dương", ông Minh nói.
"Các quốc gia liên quan cần tự kiềm chế và tránh các hành động đơn phương vốn có thể làm phức tạp hoặc leo thang căng thẳng trên biển, đồng thời giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS" - Phó thủ tướng Phạm Bình Minh kêu gọi", ông Minh nói thêm.
Tờ Bloomberg trong vài viết về sự kiện này nói bình luận của ông Minh 'nhắm vào Trung Quốc nhưng tránh nhắc tên trực tiếp'.
"Nhu nhược" và "gây thất vọng" ?
Nhiều bình luận trên mạng xã hội cho rằng hành động của ông Minh là "đáng thất vọng", như bài viết trên Facebook của Nguyễn Ngọc Chu.
"Bài phát biểu của ông Phạm Bình Minh tại kỳ họp 74 của UNGA đã làm bao người thất vọng. Không phải chỉ Việt Nam mà cả các nước đang muốn giúp Việt Nam.''
"Trung Quốc xâm lược biển đảo của Việt Nam, đem tàu đến thăm dò địa chất trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không cho Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng biển Việt Nam, mà Việt Nam không dám chỉ mặt gọi tên lên án Trung quốc tại UNGA thì ai sẽ lên án Trung quốc giúp Việt Nam ?" Facebooker này viết.
Luật sư Lê Công Định thì cho rằng những ai quan tâm đến tình hình quốc gia hiện nay đều trông đợi ông Phạm Bình Minh lên án Trung Quốc. Nhưng ông Minh lại chỉ nói đến các 'bên có liên quan' "như thể chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm bởi ai đó vô danh, chưa xác định, chứ không phải Trung Cộng, và người nghe muốn hiểu sao cũng được".
"Như vậy, một lần nữa, hành động xâm lấn trái với luật pháp quốc tế của Trung Cộng đối với chủ quyền của nước ta đã không được tố cáo tại diễn đàn quốc tế quan trọng nhất là UNGA". Người dân Việt Nam còn có thể trông mong gì hơn ở một nhà cầm quyền nhu nhược.".. luật sư Định đặt câu hỏi trên Facebook cá nhân.
Nhà văn Mạc Văn Trang so sánh hành động của ông Bình Minh với "bà già mất gà", chỉ kêu toáng lên chứ không chỉ đích danh được kẻ trộm là ai. "Mình chính nghĩa, tên trộm phi nghĩa, mà không dám dũng cảm bảo vệ chính nghĩa, vạch mặt chỉ tên, lên án mạnh mẽ kẻ phi nghĩa, thì ai cảm thông, ủng hộ mình ?
"Thực ra ông Phạm Bình Minh cũng tội, ông đâu có được tự do nói theo ý mình.."., ông Trang viết.
"Chính phủ Việt Nam có nhiều nước cờ" ?
Biển Đông : 'Né' tên Trung Quốc, Việt Nam chờ thời để đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc ? (ảnh minh họa)
Nhiều ý kiến đồng tình với việc ông Bình Minh thực ra "không được nói theo ý mình", và rằng chính phủ Việt Nam "có nhiều nước cờ" không thể tiết lộ.
Facebooker Anngoc Nguyen viết : "Đây [bài phát biểu của ông Phạm Bình Minh] là quan điểm của tập thể bộ chính trị mà đứng đầu là tổng bí thư. Quy định của Đảng là mọi đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đảng cấp trên, cao nhất là Ban Chấp hành Trung ương của Bộ Chính trị (trong thời gian Ban chấp hành trung ương không họp). Mọi quan điểm khác với nghi quyết được bảo lưu song không được phát ngôn trái với nghị quyết, và phải nghiêm chỉnh thực hiên nghị quyết của đảng".
Ông Nguyễn Thanh Ca, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biển và Hải Đảo cho rằng ông không rõ nội tình, nhưng "các ông ấy [chính phủ Việt Nam] có tính toán của các ông ấy", và rằng "có những chuyện mà chỉ các ông ấy biết được, thí dụ giả thuyết là Việt Nam đe dọa và Trung Quốc nhượng bộ".
"Cờ đi còn nhiều nước. Vì không có đủ thông tin nên tôi cũng không thể bình luận gì hơn khi các ông ấy đi một nước. Có thể thấy bài phát biểu khác với bài phát biểu ở Bangkok [Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 52. Ông Bình Minh được cho là đã có phát biểu 'thẳng thắn' về vấn đề can thiệp của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính]. Như vậy, có thể bối cảnh đã khác…", ông Ca bình luận.
Đáp lại một số bình luận về việc Việt Nam có nên, và có muốn kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không sau sự kiện bài phát biểu của ông Bình Minh, ông Ca phân tích :
"Kiện hay không kiện là một bài toán lợi ích, thiệt hại cần phải tính toán kỹ. Tôi cho rằng Việt Nam cần chuẩn bị hồ sơ và khi cần thì kiện. Kiện cái gì, ở đâu và lúc nào thì kiện là thông tin không thể công bố".
Việt Nam có thể đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc không ?
Trong khi dư luận mạng xã hội còn tranh cãi về bài phát biểu 'tránh né' của ông Bình Minh, nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Minh Trang mới đây có bài trên AMTI, phân tích góc độ luật pháp và bối cảnh quốc tế về vấn đề này.
"UNGA và Hội đồng Bảo an là hai cơ quan quan trọng nhất của Liên Hiệp quốc. Các quốc gia thành viên thường đặt các câu hỏi về hòa bình và an ninh quốc tế với UNGA vì tính hiệu quả của Hội đồng Bảo an thường bị cản trở bởi một quyền phủ quyết từ một trong năm thành viên thường trực (Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ). Nghị quyết được UNGA thông qua có thể mang lại những hệ quả chính trị và pháp lý nhất định mà nhiều quốc gia hy vọng có thể giúp họ giải quyết xung đột.
"Sức mạnh của UNGA phụ thuộc vào thực tế là nó bao gồm tất cả các quốc gia thành viên, và mọi quốc gia đều có quyền bỏ phiếu và các phiếu bằng nhau. Khi UNGA thông qua một nghị quyết, có thể nói là nó phản ánh quan điểm của cộng đồng quốc tế ; các quốc gia tìm kiếm các nghị quyết như vậy để hợp pháp hóa hành động của họ. Nghị quyết của UNGA có thể ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên về mặt chính trị và do đó ảnh hưởng đến các lựa chọn chính sách đối ngoại."..
"Nghị quyết của UNGA cũng có thể mang lại hiệu quả pháp lý nhất định.
"Một số học giả thậm chí coi các nghị quyết của UNGA là đại diện cho sự đồng thuận toàn cầu, sau này có thể được coi là một yếu tố cấu thành luật quốc tế. Theo hướng này, các nghị quyết của UNGA thường được trích dẫn tại các tòa án quốc tế".
Trong bối cảnh đó, theo nhà nghiên cứu, Việt Nam có thể xem xét để đưa vấn đề Biển Đông ra trước UNGA. "Với thực tế là Biển Đông bao gồm các vùng biển quốc tế, và có tầm quan trọng đối với hệ thống thương mại hàng hải toàn cầu, Việt Nam có thể dễ dàng lập luận rằng tình hình ở Biển Đông vượt ra ngoài phạm vi tranh chấp giữa một số quốc gia hoặc thậm chí là xung đột khu vực và nên được coi là một vấn đề của hòa bình và an ninh quốc tế".
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Minh Trang cũng chỉ ra những trở ngại nghiêm trọng cản trở Việt Nam đạt được thắng lợi đáng khi thực hiện bước đi táo bạo như vậy. Trở ngại đó bao gồm sự hỗ trợ 'chưa đủ' của các cường quốc như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và Đức ; vẫn còn số lượng đáng kể các quốc gia từng ủng hộ vị thế của Trung Quốc trên Biển Đông ; và hành động của Trung Quốc trên Biển Đông năm nay không thu hút được sự chú ý của dư luận quốc tế so với năm 2014 - khi Bắc Kinh mang giàn khoan 981 vào vùng biển của Việt Nam.
Ngoài ra còn cần tính đến ảnh hưởng của Trung Quốc tới các quốc gia Châu Phi, và việc Malaysia và Philippines dường như đang ngả theo Trung Quốc.
Kịch bản này khiến Việt Nam khó thuyết phục các nước khác trong Liên Hiệp Quốc, bao gồm các nước láng giềng ở Biển Đông, ủng hộ nhiệt tình cho mình, theo Phạm Ngọc Minh Trang.
Nhà nghiên cứu cho rằng hiện tại, khả năng thành công có lẽ không đủ cao để Việt Nam chấp nhận rủi ro để đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc. Nhưng đây vẫn luôn là một lựa chọn để 'các nước nhỏ' như Việt Nam cân nhắc nếu muốn đối kháng với Trung Quốc ở Biển Đông.
*******************
Trung Quốc ra mắt tên lửa Đông Phong, ‘đe dọa gián tiếp’ Việt Nam (VOA, 02/10/2019)
Trung Quốc hôm 1/10 đã trình làng tên lửa hạt nhân chiến lược xuyên lục địa có tên gọi Đông Phong 41, với tầm bắn lên tới 15.000km, trong động thái mà các chuyên gia nhận định là một "tín hiệu" gửi tới các nước tranh chấp Biển Đông như Việt Nam, và thậm chí cả Mỹ.
Trong cuộc duyệt binh nhân 70 năm ngày lập nước với sự tham dự của 15 nghìn binh sĩ, hơn 160 máy bay cùng với gần 600 các thiết bị quân sự, Đông Phong 41 đã được chở qua quảng trường Thiên An Môn với sự chứng kiến của Chủ tịch Tập Cận Bình và các quan chức Trung Quốc khác.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng ngày quốc khánh "là dịp để họ bộc lộ rõ hơn, khẳng định hơn nữa tất cả sự đe dọa của họ".
"Trong tháng Tám, họ đã để cho máy bay ném bom chiến lược bay ở Biển Đông, rồi nó còn hạ cánh xuống Đảo Chữ Thập có sân bay họ làm lớn nhất. Họ cũng từng đưa tên lửa ra đó. Trực tiếp nhất là họ đã có tập trận, bắn tên lửa. Đó là lần đầu tiên họ bắn tên lửa thật, có dẫn đường. Đấy là những sự đe dọa và chuyện duyệt binh là đe dọa gián tiếp thôi. Những gì đã xảy ra ở Biển Đông thì đó là đe dọa trực tiếp", ông Hợp nói, cũng đề cập thêm tới chuyện Bắc Kinh đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam nhiều tuần qua.
Ngoài tên lửa mà các hãng tin nước ngoài nói rằng có thể đánh trúng mục tiêu ở Mỹ trong vòng 30 phút, Trung Quốc còn cho ra mắt các loại khí tài khác như tên lửa siêu vượt âm Đông Phong 17, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL-2 cũng như tàu lặn không người lái HSU001.
Hoàn cầu Thời báo, một ấn phẩm của Đảng cộng sản Trung Quốc, hôm 1/10 dẫn lời các chuyên gia quân sự Trung Quốc nói rằng "các kẻ thù gần như khó có thể chặn được DF-17 [Đông Phong 17]".
"Nó sẽ đóng vai trò sống còn để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc vì tất cả các khu vực như Biển Đông, Eo biển Đài Loan và Đông Bắc Á đều nằm trong tầm bắn của nó", tờ báo thường có các bài bình luận thể hiện tinh thần dân tộc của Trung Quốc viết.
Tiến sĩ Hợp nhận định rằng trước khi Đông Phong 41 và17 được Bắc Kinh chính thức công bố trong buổi duyệt binh quy mô lớn mà nhiều nhà quan sát nói là để thể hiện sức mạnh quân sự của Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới "đã có tên lửa thừa sức bắn tới Việt Nam".
"Tên lửa tầm 800 cây số là nó đã thừa sức bắn tới Việt Nam rồi. Họ đặt ở ngay đảo Hải Nam thì họ bắn tới tận đảo Phú Quốc", nhà nghiên cứu về tình hình Biển Đông nói.
Hồi đầu tháng Bảy, Bộ Quốc phòng Mỹ đã lên tiếng chỉ trích Trung Quốc tiến hành các cuộc phóng thử nhiều tên lửa chống hạm ở Biển Đông, và coi đó là hành động đi ngược lại với cam kết không quân sự hóa vùng lãnh hải tranh chấp.
Nhận định về tác động của các hành động như vậy đối với quan hệ song phương Hà Nội – Bắc Kinh, ông Hợp nói : "Càng ngày Trung Quốc càng dồn Việt Nam về mặt quan hệ đối ngoại, về mặt an ninh quốc tế, về mặt quan hệ song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam và về cả quan hệ nhóm, tức là đa phương, trong đó Việt Nam có một vai trò gì đó trong khu vực Đông Nam Á".
Từng có tin Việt Nam có thể mua BrahMos, loại tên lửa vốn từng khiến quân đội Trung Quốc buộc phải bày tỏ lo ngại. Tuy nhiên, hiện chưa rõ là Hà Nội và New Delhi đã đạt thỏa thuận nào về loại tên lửa do Ấn Độ và Nga liên doanh sản xuất này hay chưa.
Viễn Đông
Việc Bắc Kinh điều một giàn khoan khổng lồ đến Biển Đông đang gây quan ngại về nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu mới giữa Việt Nam và Trung Quốc tại một vùng biển được xem là rất giàu tài nguyên dầu khí.
Ảnh minh họa : Một giàn khoan dầu khí trên biểnJoe Raedle/Getty Images/AFP
Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/09/2019, trích dẫn một bài viết trên trang mạng Trường An Kiếm (Chang An Jian) của Ủy Ban Chính Pháp Trung Ương Trung Quốc, cho biết là Bắc Kinh vừa đưa một giàn khoan dầu hỏa nước sâu xuống hoạt động tại Biển Đông. Theo tờ báo Hồng Kông, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982) đã bắt đầu hoạt động từ hôm 21/09 tại một vùng biển sâu đến 3.000 m ở Biển Đông.
Hải Dương 982, cao bằng một tòa nhà 10 tầng, là giàn khoan lớn nhất và hiện đại nhất trong số các giàn khoan cùng loại tại Trung Quốc, có thể khoan ở độ sâu đến 9.000 m.
Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan mang tên Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông khiến người ta nhớ lại vụ giàn khoan Hải Dương 981 mà Bắc Kinh đưa vào thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, làm dấy lên phản ứng dữ dội từ phía Hà Nội. Người dân Việt Nam vào lúc đó xuống đường biểu tình rầm rộ phản đối Trung Quốc, và đã xảy ra các vụ bạo động nhắm vào các công ty Trung Quốc ở Việt Nam.
Tờ International Business Times của Mỹ hôm qua nhận định là có hai yếu tố giải thích hành động lần này của Trung Quốc. Thứ nhất là Bắc Kinh muốn tranh giành nguồn dầu khí tại Biển Đông để đáp ứng nhu cầu năng lượng của nước này. Thứ hai, là Bắc Kinh không bao giờ tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng như Việt Nam, thậm chí đã bác bỏ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng không chấp nhận việc Việt Nam hợp tác với các nước khác trong các dự án thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Theo lời chuyên gia người Hàn Quốc Yun Sun, Giám đốc Chương trình Đông Á tại Viện chính sách Stimson, Washington, việc đưa giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông rất có thể không chỉ là nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, mà còn nhằm phá hoại nỗ lực của Việt Nam cùng thăm dò và khai thác dầu khí với các nước khác.
Về phần Alan Chong, giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, ông tin rằng Hà Nội sẽ kháng cự mạnh hơn nếu Trung Quốc khiến Việt Nam tức giận với việc triển khai giàn khoan mới.
Trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cuối tháng 9 vừa qua, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã cảnh báo về những hành động có thể làm gia tăng căng thẳng ở vùng Biển Đông đang tranh chấp. Tuy ông Phạm Bình Minh không nêu tên Trung Quốc, nhưng đây có thể được là lời cảnh cáo trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.
Theo nhận định của International Business Times, việc điều giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông cũng nhằm gởi một thông điệp đến Hoa Kỳ rằng Trung Quốc đang củng cố sự kiểm soát của họ trên các vùng biển tranh chấp, xem đây là "mặt trận thứ hai" trong cuộc đối đầu với Mỹ. Giáo sư khoa học chính trị Herman Kraft, Đại học Philippines cho rằng Bắc Kinh cũng muốn gửi đến Manila thông điệp là họ sẵn sàng thăm dò dầu khí chung nếu Philippines bỏ qua một bên phán quyết 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực.
Theo một số chuyên gia, hành động của Trung Quốc cũng là nhằm gia tăng kiểm soát quần đảo Trường Sa, nơi mà họ có thể tiến hành một chiến dịch quân sự dưới vỏ bọc thăm dò dầu khí và điều này tạo cho họ một lợi thế chiến lược so với Hoa Kỳ ở Biển Đông.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 02/10/2019