Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

21/04/2020

Trung Quốc đòi chiếm trọn Hoàng Sa và Trường Sa

Thu Thủy - Cánh Cò

Trung Quốc dùng Công hàm Phạm Văn Đồng đòi chiếm trọn Hoàng Sa và Trường Sa

Thu Thủy, Thoibao.de, 21/04/2020

Trung Quốc thông báo thành lập quận Tây Sa và Nam Sa

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 19/4 lên tiếng về việc Trung Quốc thông báo thành lập quận Tây Sa và Nam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

congham1

Đảo Trường Sa Lớn thuộc quần đảo Trường Sa cách Cam Ranh khoảng 254 hải lý (470,4 km) và cách Vũng Tàu hơn 500 km đường biển, trên đảo có cư dân Việt Nam và có trụ sở UBND huyện Trường sa, do Việt Nam quản lý

"Việt Nam đã nhiều lần mạnh mẽ khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng nói trong một tuyên bố, một ngày sau thông báo của Bắc Kinh.

"Lập trường nhất quán của Việt Nam là phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là ‘thành phố Tam Sa’ và các hành vi có liên quan vì đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, không có giá trị và không được công nhận, không có lợi cho quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và gây thêm phức tạp tình hình Biển Đông, khu vực và thế giới".

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng "yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, huỷ bỏ các quyết định sai trái liên quan đến những việc làm đó và không có những việc làm tương tự trong tương lai".

Trung Quốc hôm 18/4 thông báo việc thành lập quận Tây Sa có trụ sở đặt tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Trụ sở của quận Nam Sa đặt tại Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Hai quận này thuộc thẩm quyền của thành phố Tam Sa ở tỉnh Hải Nam.

Tin cho hay, chính quyền Bắc Kinh tuyên bố rằng quận Tây Sa sẽ quản lý quần đảo Hoàng Sa, bãi Macclesfield và vùng biển xung quanh, trong khi quận Nam Sa quản lý quần đảo Trường Sa và vùng biển kế cận.

Phản đối của Việt Nam được đưa ra hơn mười ngày sau khi Hoa Kỳ cho biết "hết sức quan ngại" về các tin tức nói rằng Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Việt Nam ở gần quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói trong một tuyên bố hôm 6/4 rằng kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, Trung Quốc đã khẳng định các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông như "công bố các trạm nghiên cứu" mới đặt trên các căn cứ quân sự được xây dựng trên Đá Chữ Thập và Đá Subi, cũng như cho "máy bay quân sự đặc biệt" hạ cánh trên Đá Chữ Thập.

Trung Quốc khẳng định chủ quyền ở Biển Đông

Trung quốc vừa gửi Công hàm tuyên bố buộc Việt Nam phải rút quân khỏi các đảo ở Trường sa.

Trước đó hôm 17/4/2020 Trung quốc đã gửi Công hàm số CML/42/2020 đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, với những nội dung cơ bản được Facebook Nguyễn Đạt An lược dịch như sau :

1. Trung quốc khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa và Tây Sa - là Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như vùng nước bao quanh các đảo trên.

2. Bắc Kinh khẳng định lại việc chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã công nhận chuyện đó, qua công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã ngày 14/9/1958 gửi đến Thủ tướng Chu Ân Lai.

3. Bắc Kinh cáo buộc sau năm 1975, Việt Nam gửi lính đến xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo này - tức là vi phạm lời khẳng định của ông Phạm Văn Đồng trước đó.

4. Bắc Kinh yêu cầu Việt Nam rút hết quân đội và cơ sở ra khỏi chuỗi đảo trên, vì họ đã xâm lược và đánh chiếm phi pháp.

Ông Nguyễn Đạt An nhận định :

- Trung Quốc đang bắt đầu sử dụng kênh ngoại giao chính thức để giành đảo và ảnh hưởng địa chính trị tại Biển Đông với Việt Nam.

- Trung Quốc chính thức sử dụng công hàm của Phạm Văn Đồng để đánh về mặt ngoại giao. Và chính xác công hàm đó là một công hàm bán nước.

- Trung Quốc sẽ bắt đầu các bước tiếp theo để thực hiện ý đồ này, bao gồm cảnh cáo, kêu gọi VN rút quân, và sau đó là gây chiến.

Với động thái này có thể nói Trung quốc gần như sẵn sàng chiếm trọn cả Hoàng sa Trường sa, như họ đã từng làm năm 1974 (cưỡng chiếm Hoàng sa) và 1988 (dùng vũ lực chiếm Trường sa). Đây là một bước đi vô cùng manh động và nguy hiểm trong khi Việt Nam và cả thế giới hầu như dành trọn mối quan tâm vào việc chống lại cơn đại dịch từ Vũ hán.

Hồi tháng 5/2014, một nhà ngoại giao và một học giả Trung Quốc nói Công hàm 1958 là bằng chứng Việt Nam công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.

congham2

Phạm Văn Đồng và Công hàm 1958 về Biển Đông gây tranh cãi

Công hàm 1958 gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được Trung Quốc đề cập lại trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc đối đầu vì vụ giàn khoan HD-981.

Hôm 20/5/2014, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia có bài đăng trên báo Indonesia Jakarta Post để biện hộ cho Trung Quốc.

Ông Lưu Hồng Dương nói quần đảo Tây Sa (tên Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa) là "lãnh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc".

"Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai.

"Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc".

Ông Lưu Hồng Dương cáo buộc "việc chính phủ Việt Nam gần đây thay đổi và từ chối công nhận Tây Sa là của Trung Quốc thật vô cùng gây sốc".

"Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc ‘estoppel’ [nghĩa là : không được nói ngược]", ông Lưu cáo buộc.

Hôm 26/2/2014, ông Lý Thái Hùng từ Hoa kỳ có bài bình luận trên BBC News Vietnam về sự khó xử của Việt Nam đối với Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký năm 1958.

Ông Lý Thái Hùng viết : "Mặc dù Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập gì đến Hoàng Sa hay Trường Sa, nhưng Công hàm đã viết : "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc".

Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã viết :

"Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc".

Như vậy, dù giải thích thế nào đi nữa, Công hàm 1958 vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn quần đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay", ông Lý Thái Hùng nhận định.

Cũng trong giai đoạn cả thế giới bận tâm chống lại đại dịch Cúm Vũ Hán thì Trung quốc khởi động hàng loạt hành vi khiêu khích trên Biển Đông và nay thì họ bắt đầu nêu ra Công hàm 1958 do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký kết như là một bằng chứng triệt buộc, như một nước chiếu bí nhằm thẳng vào Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như là một chủ thể đồng nhất và kế thừa trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa 1958.

Một nước cờ được gợi ý để gỡ bí cho Việt Nam hiện nay là phải thừa nhận tư cách chủ thể Quốc gia độc lập của Việt Nam Cộng Hòa khi ấy do ông Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống tuyên bố chủ quyền và có quân đội quản lý Hoàng sa thì bị Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm vào ngày 19/1/1974. Tuy nhiên phía Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa bao giờ chính thức đưa ra lập luận ấy.

Mỹ nói Trung Quốc nên ngừng ‘hành vi bắt nạt’ ở Biển Đông

Mỹ ngày thứ Bảy kêu gọi Trung Quốc ngừng "hành vi bắt nạt" ở Biển Đông và nói rằng Mỹ lo ngại trước các báo cáo về "những hành động khiêu khích" của Bắc Kinh nhắm vào các hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi ở vùng biển tranh chấp.

Ba nguồn tin an ninh khu vực nói với Reuters ngày thứ Sáu rằng một tàu khảo sát của chính phủ Trung Quốc đang đeo bám một tàu thăm dò do công ty dầu khí nhà nước Petronas của Malaysia vận hành ở vùng biển đó.

Tàu Hải dương Địa chất 8 trước đó trong tuần này đã được nhìn thấy ngoài khơi Việt Nam, nơi mà năm ngoái nó đã thực hiện các hoạt động nghi là khảo sát thăm dò dầu khí trong các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

"Mỹ lo ngại trước các báo cáo về các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào việc phát triển dầu khí ngoài khơi của các quốc gia có tuyên bố chủ quyền khác", Bộ Ngoại giao Mỹ nói trong một thông cáo gửi qua email cho Reuters trả lời câu hỏi về sự hiện diện của Hải dương Địa chất 8 ở vùng biển Malaysia.

"Trong trường hợp này, (Trung Quốc) nên chấm dứt hành vi bắt nạt của mình và không tham gia vào hoạt động khiêu khích và gây bất ổn kiểu này", thông cáo nói.

Các hành động của Trung Quốc đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, thông cáo nói thêm.

Đầu tuần trước, khi tàu khảo sát này xuất hiện trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói con tàu đang tiến hành các hoạt động bình thường và cáo buộc các quan chức Mỹ bôi nhọ Bắc Kinh.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông giàu tài nguyên và cũng là một tuyến đường thương mại trọng yếu. Philippines, Brunei, Việt Nam, Malaysia và Đài Loan cũng có những tuyên bố chồng chéo.

Liên quan đến những động thái gia tăng căng thẳng từ phía Trung quốc mới đây của Trung quốc, hôm 17/4/2020 Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhà nghiên cứu bang giao quốc tế từ Đại học George Mason, Hoa kỳ đưa ra bình luận :

"Chiến thuật của Trung Quốc là mềm nắn, rắn buông và lợi dụng thời cơ. Viêc quốc tế và các nước lân cận đang lúng túng đối phó dịch Cúm Vũ hán trong khi mối đe dọa dịch cúm giảm đi ở Trung Quốc, cùng môt lúc với sự kiện tầu sân bay của Mỹ bi tê liệt vì Cúm Vũ hán và việc cách chức vụng về, vội vã vị tư lệnh hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt gây bất mãn trong hải quân Mỹ đã tạo ra cơ hội ấy.

Gần đây cả Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ nối nhau ra tuyên bố quan ngại sâu sắc hay lên án đích danh hành vi Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam ở vùng biển khu vực.

Đó là tín hiệu mới phản ảnh một sự đồng thuận ở Mỹ về một chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc từ áp lực của quân đội, các chiến lược gia và Quốc hội Mỹ, cùng với mâu thuẫn kinh tế - thương mại giữa hai nước được đẩy mạnh lên nhân cơ hội dich Cúm Vũ hán", Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nhận xét.

 "Mục tiêu tối hậu của Trung Quốc không thay đổi, nhưng việc thực hiên mục tiêu đó tùy thuộc vào sự tính toán về thời cơ của Trung Quốc. Thời cơ này tùy thuộc những biến chuyển nhất thời, như đại dịch Cúm Vũ hán, và sự thay đổi trong cán cân lực lượng.

Các nước nhỏ trong khu vực phải nương theo chiều gió để bảo vệ quyền lợi và chủ quyền của mình.

Nếu vì những lý do này, thế của Mỹ xuống thì thế của Trung Quốc sẽ lên, và áp lưc của Trung Quốc đối với các nước nhỏ trong khu vực sẽ gia tăng. Đó là mối lo của các nước này.

Nói chung và trong trường kỳ, dài hạn, thế giới phải đối phó với "thách thức Trung Quốc" và sự thay đổi đang xảy ra trong trật tư thế giới (world order), ai lên ai xuống, bắt nguồn từ sự cạnh tranh chiến lươc giữa Mỹ và Trung Quốc.

Tuy nhiên, đại nạn cúm cũng làm suy yếu vị thế của Mỹ, không những về kinh tế mà còn về khả năng lãnh đạo hướng đến việc tạo ra một trật tự thế giới phản ánh giá trị nhân bản Tây phương. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Mỹ đứng ra lãnh đạo và đoàn kết khối được gọi là "Thế giới Tự do" xây dựng lại nền kinh tế và xã hội đổ nát ở Âu Châu, chống bành trướng cộng sản. Mỹ có lợi nhưng cũng phải hy sinh nhiều.

Cán cân lực luợng và trật tự thế giới đang thay đổi và đang cần sư lãnh đạo và phối hợp của Mỹ để giải quyết các mối quan tâm chung, như biến đổi khí hậu, phục hồi kinh tế và các thách thức của Trung Quốc. Thiếu sự lãnh đạo và phối hợp này, thế giới sẽ chia ra nhiều khối để đoàn kết, tự bảo vệ, và thích ứng thách thức của Trung Quốc.

Đó là mối lo của những nuớc không muốn sống dưới môt trật tự thế giới mới do Trung Quốc lãnh đạo mà tiếng Anh gọi là Chinese World Order".

Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)

Nguồn : VNTB, 21/04/2020

********************

Từ Phạm Văn Đồng tới Nguyễn Phú Trọng

Cánh Cò, RFA, 21/04/2020

Chưa lúc nào đất nước bị đe dọa chiến tranh như lúc này khi mà Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố sẽ tiếp tục cho Việt Nam một bài học nữa về chủ quyển biển đảo khi chính thức đưa ra công hàm ngày 17/4/2020 nhắm tới. Với những lý lẽ gần như thô bạo "Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp" và rồi "Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải". Điều này có nghĩa là căn cứ đo quân đội Nhân dân Việt Nam đang trấn giữ tại Trường Sa phải bị rút bỏ và đồng thời mọi lô dầu mà Việt Nam đang khai thác trờ thành bất hợp pháp.

congham8

Trung Quốc lấy bãi đá Chữ Thập chiếm được của Việt Nam làm đại bản doanh quản lý 2 quận Tây Sa (Trường Sa) và Nam Sa (Hoàng Sa).

Công hàm được Bắc Kinh gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc phản đối hai công hàm ngày 30/3 và 10/4 của Việt Nam về Biển Đông liên quan đến một báo cáo do Malaysia trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa hồi cuối năm 2019.

Sau khi gửi công hàm này đi một ngày, thì ngày 18/4 Trung Quốc đã ra tuyên bố thành lập cái gọi là quận Tây Sa và Nam Sa trái phép ở trên hai quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là Hoàng Sa - Trường Sa. Lấy Bãi đá Chữ Thập mà Trung Quốc chiếm được của Việt Nam thành đại bản doanh quản lý 2 quận này.

Trước đó Trung Quốc chính thức mang công hàm Phạm Văn Đồng ra trước Liên Hiệp Quốc như một bằng chứng mạnh mẽ rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc từ năm 1958 được ký bởi Thủ tướng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lý lẽ này từng nhiều lần được Trung Quốc mang ra hù dọa Việt Nam và đó cũng là mối lo khiến Việt Nam chần chừ chưa bao giờ dám đưa Trung Quốc ra tòa Quốc tế.

Trung Quốc biết rõ yếu huyệt này của Việt Nam và không ít lần mạnh dạn xâm chiếm Hoàng Sa lẫn Trường Sa của Việt Nam mà không hề sợ Việt Nam trả đũa dù là trên phương diện pháp lý.

Ông Phạm Văn Đồng dù muốn hay không cũng đã có hành vi tắc trách đối với quốc gia. Ông có thể bị sự thúc bách của Bộ chính trị khi ý chí quyết chiếm miền Nam đã làm lu mờ mọi ý thức chủ quyền biển đảo. Cả một tập thể Bộ chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thấy cái miền Nam béo bở mà quên hẳn những vùng đảo nhỏ nhoi mà ông cha đã dày công kiến tạo và vun bồi. Đối với đa số lãnh đạo cấp cao lúc ấy đều xem thường tầm nhìn xa của Trung Quốc, họ chỉ thấy tình đồng chí môi hở răng lạnh mà không thấy được lòng tham vô tận của đầu não Trung Quốc vốn có tính di truyền từ ngàn năm trước xem Việt Nam vốn dĩ là chư hầu không hơn không kém.

Ông Phạm Văn Đồng đã thay mặt Đàng Cộng sản Việt Nam đóng dấu vào văn kiện biếu không chủ quyền đất nước cho Trung Quốc để đổi lấy khí tài quân nhu tiếp liệu nhằm tấn công miền Nam. Lý do lộ liễu như vậy không cần phải chứng minh. Lịch sử đã cho thấy điều đó và lịch sử cũng cho thấy cuộc chiến tranh biên giới 1979 phản ảnh lòng tham của Hà Nội và sự tức giận của Bắc Kinh trước một học trò phản trắc.

Ông Nguyễn Phú Trọng đã từng nói : "Ừ, mình phải có thế nào người ta mới thế chứ !"

Và ông Trọng, Tổng bí thứ đời thứ 12 đã giữ trọn niềm tin rằng "mình không làm gì khiến Trung Quốc bất mãn thì họ sẽ không làm gì mình". Bám vào niềm tin không lay chuyễn đó trong suốt chín năm với hai nhiệm kỳ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là người kiên cường với lập trường "vô chiêu thắng hữu chiêu" có nghĩa là sẽ không làm gì đối với các động thái ngày một thâm độc của Trung Quốc. Ông chỉ cho phép Bộ Ngoại giao đưa ra những phát biểu chung chung, giống như Việt Nam không thuộc về chính phủ Ba Đình vậy.

Ông Trọng đã phạm một sai lầm không thua gì ông Phạm Văn Đồng khi xưa. Trong cuộc tiếp xúc cử tri quận Ba Đình, Hoàn Kiếm (Hà Nội) vào năm 2015 ông Tổng bí thư đã phát biểu một câu nói để đời về vấn đề Biển Đông mà báo chí chính thống đồng loạt loan tải : "Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không ?..".

Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng xứng đáng được Đảng Cộng sản Việt Nam trao tặng huy chương cao nhất về hành vi bảo vệ Đảng thay vì bảo vệ tổ quốc. Ông Trọng công khai đem Đảng của ông so sánh với mảnh đất được hình thành do tổ tiên bao đời đổ máu ra để gây dựng nó. Trong tư duy của ông Nguyển Phú Trọng chỉ có Đảng là quan trọng nhất vì chỉ có Đảng mới cho ông và gần 5 triệu đảng viên được quyền rút tỉa xương máu của người dân và tài nguyên đất nước.

Trung Quốc nắm được tử huyệt này và ngày hôm nay họ tiến hành âm mưu độc chiếm Biển Đông cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Từ ông Phạm Văn Đồng cho tới ông Nguyễn Phú Trọng, Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa bao giờ ngừng tuyên truyền về vai trò quan trọng của Đảng. Sau Hội nghị Thành Đô những gì mà người dân được phép lên án Trung Quốc trước đó đã bị Đảng rút lại. Từ những tấm bia ghi công chiến sĩ đánh Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới bị đục mất cho tới bắt bớ giam cầm người dân nào biểu tình chống Trung Quốc. Mới nhất là phiên tòa phúc thẩm xử thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh, vừa kết thúc lúc 10h30 ngày 20/04/2020. Tòa phúc thẩm y án 11 năm tù và 5 năm quản chế cho tội yêu nước, chống lại bất công, bảo vệ biển đảo.

Ông Phạm Văn Đồng có thể bị thúc bách nhưng ông Nguyễn Phú Trọng thì không. Tuy nhiên cả hai ông đều phải ra trước vành móng ngựa của Tòa án Nhân dân khi Trung Quốc tấn công Việt Nam lần này. Có như thế lòng dân mới yên và mục tiêu chống Trung Quốc mới được hình thành trong lòng công chúng.

Cánh Cò

Nguồn : RFA, 21/04/2020 (canhco's blog)

*********************

Công hàm mới nhất của Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc về Trường Sa và Hoàng Sa

Thoibao.de, 20/04/2020

Đặc biệt, Trung Quốc đã dùng Công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958 như là một bằng chứng cho lập luận của mình.

congham3

Bản đồ thời tiết Biển Đông cho thấy vùng biển này thuộc về Việt Nam

Trích : "Chủ quyền của Trung Hoa đối với Trường Sa và Hoàng Sa được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi. Chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận nó một cách rõ ràng. Vào ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Hoa ban hành Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải của Trung Hoa, tuyên bố một lãnh hải rộng mười hai hải lý, và quy định rằng, Quy định này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm quần đảo Hoa Đông, Hoàng Sa, Trung Sa (bãi cạn Scarborough của Philippines - lời người dịch), Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Hoa.

Vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao tới Chu Ân Lai, Thủ tướng Hội đồng Nhà nước Trung Hoa, tuyên bố long trọng rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 và rằng chính phủ của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tôn trọng quyết định này.

Trong những năm đầu của thập niên 1970, Việt Nam đã chính thức công nhận rằng Hoàng Sa và Trường Sa luôn là một phần của lãnh thổ Trung Hoa kể từ thời cổ đại. Sở hữu này đã được phản ánh trong các tuyên bố và ghi chú của chính phủ, cũng như các bản đồ, sách giáo khoa và báo chí chính thức của Việt Nam".

Công hàm số : CML/42/2020

Kính thưa ngài Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres,

Phái đoàn Thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc xin bày tỏ sự kính trọng đối với quý Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.

Chúng tôi xin được nhắc lại nội dung quan điểm của mình đã tuyên bố thông qua các Công hàm số CML/17/2009 và số CML/18/2009 đã được Phái đoàn thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc vào năm 2009 gửi tới Ngài Ban Ki-moon, là Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc khi đó ;

Phái đoàn thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đề cập vấn đề liên quan đến Công hàm số 22/HC-2020 ngày 30 tháng 3 năm 2020 và hai Công hàm số 24/HC-2020 và số 25/HC-2020 ngày 10 tháng Tư năm 2020 đã gửi đến Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thông qua Phái đoàn Thường trực của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên Hợp Quốc.

Nay chúng tôi chính thức tuyên bố quan điểm của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa như sau :

Trung Hoa có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (nguyên văn : Xisha Qundao), quần đảo Trường Sa (nguyên văn : Nansha Qundao) và các vùng biển lân cận của chúng. Trung Hoa có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và lòng đất. Trung Hoa có quyền lịch sử ở Biển Đông (nguyên văn : biển Nam Trung Hoa). Chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông (Nanhai Zhudao) và các quyền và lợi ích hàng hải ở Biển Đông được thiết lập trong quá trình thực hành lịch sử lâu dài. Các quyền này đã được duy trì bởi các chính phủ Trung Hoa kế tiếp và phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển. Chính phủ Trung Hoa bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với nội dung của các công hàm số 22/HC-2020, số 24/HC-2020 và số 25/HC-2020 của Việt Nam.

Chủ quyền của Trung Hoa đối với Trường Sa và Hoàng Sa được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi. Chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận nó một cách rõ ràng. Vào ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Hoa ban hành Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải của Trung Hoa, tuyên bố một lãnh hải rộng mười hai hải lý, và quy định rằng, Quy định này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm quần đảo Hoa Đông, Hoàng Sa, Trung Sa (bãi cạn Scarborough của Philippines - lời người dịch), Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Hoa. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao tới Chu Ân Lai, Thủ tướng Hội đồng Nhà nước Trung Hoa, tuyên bố long trọng rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa công nhận và ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 và rằng chính phủ của Cộng hòa dân chủ Việt Nam tôn trọng quyết định này. Trong những năm đầu của thập niên 1970, Việt Nam đã chính thức công nhận rằng Hoàng Sa và Trường Sa luôn là một phần của lãnh thổ Trung Hoa kể từ thời cổ đại. Sở hữu này đã được phản ánh trong các tuyên bố và ghi chú của chính phủ, cũng như các bản đồ, sách giáo khoa và báo chí chính thức của Việt Nam.

Sau năm 1975, Việt Nam đã vi phạm tuyên bố của chính mình và đưa ra yêu sách lãnh thổ bất hợp pháp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Hoa. Vi phạm mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã đưa quân xâm chiếm và chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo và rạn san hô của Trung Hoa ở quần đảo Trường Sa bằng vũ lực, cố gắng kích động tranh chấp. Trung Hoa luôn phản đối sự xâm chiếm và chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam tại một số đảo và rạn san hô của Trung Hoa ở quần đảo Trường Sa, và các hoạt động xâm phạm quyền và lợi ích của Trung Hoa trong phạm vi quyền tài phán của Trung Hoa. Trung Hoa kiên quyết yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ thủy thủ đoàn và các cơ sở khỏi các đảo và rạn san hô mà họ đã xâm chiếm và chiếm đóng bất hợp pháp.

Đệ trình chung của Việt Nam và Malaysia ngày 6 tháng 5 năm 2009 và đệ trình của Việt Nam ngày 7 tháng 5 năm 2009 lên Ủy ban về giới hạn của thềm lục địa liên quan đến các giới hạn bên ngoài của thềm lục địa vượt quá 200 hải lý ở một số khu vực ở Biển Đông đã xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Hoa ở Biển Đông. Trung Hoa kiên quyết phản đối điều này. Quan điểm của Trung Hoa về vấn đề này đã được nêu trong Công hàm số CML/17/2009 và số CML/18/2009 gửi cho Ngài Ban Ki-moon, khi đó là Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, bởi Phái đoàn thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc năm 2009.

Quan điểm của Trung Hoa liên quan đến vấn đề Biển Đông là rõ ràng và nhất quán, và đã được nhắc đến nhiều lần trong các tuyên bố của chính phủ Trung Hoa và các công hàm có liên quan gửi Liên Hợp Quốc.

Phái đoàn thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc đề nghị Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lưu hành công hàm này đến tất cả các quốc gia thành vien của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển và tất cả các thành viên của Liên Hợp Quốc.

Phái đoàn Thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc tận dụng cơ hội này để nhắc lại quan điểm của mình với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

New York, ngày 17 tháng Tư năm 2020


congham4

congham5

congham6

Nguồn : Liên Hiệp Quốc 

 

congham7

Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai, Thủ tướng Hội đồng Nhà nước Trung Hoa 14/09/1958

Công hàm của Việt Nam ngày 30/03/2020 gửi lên Liên Hiệp Quốc :

8888888888888888888888

Nguồn : Thoibao.de, 20/04/2020

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Thu Thủy, Cánh Cò
Read 680 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)