Đã có những bằng chứng rất thực tế và xác thực về việc tại sao "Tiền thu ngân sách năm 2018 từ bất động sản của Thành phố Hồ Chí Minh giảm hơn 16%, trong đó phần thu tiền sử dụng đất giảm hơn 24%".
Đóng băng bất động sản Sài Gòn = Mất ăn ngân sách độc đảng
Một bài viết trên báo Dân Trí cho biết dịp cuối năm, nhu cầu mua nhà của người dân thường tăng cao và các môi giới, cò lái lại có dịp "ăn nên làm ra". Tuy nhiên, dịp cận Tết nguyên đán năm nay lại là những ngày "u ám" đối với dân môi giới nhà đất tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Anh Hùng, một cò đất ở huyện Củ Chi cho biết, anh đang nhận bán một lô đất diện tích 145m2 tại xã Tân Phú Trung với giá 1,1 tỷ đồng nhưng cả tháng nay không có người mua. Một số người đến xem rồi cũng đi luôn và không thèm trả giá.
"Năm ngoái, đất đai dễ làm ăn lắm, năm nay sao khó quá. Cả tháng nay mới chỉ bán được một lô nhưng cũng phải chia cho hai cò đất khác nên mỗi người chỉ kiếm được khoảng 7 triệu đồng", anh Hùng nói.
Sau một thời gian nhà đất quận 12 có lượng giao dịch sôi động thì đến nay đã khá trầm lắng. Giá nhà hiện tại đang ở ngưỡng khá cao, dao động từ 45 - 50 triệu đồng/m2. Điều này khiến cho người dân có nhu cầu mua để ở "chùn tay" vì cách đây một năm, giá nhà tại các con hẻm lớn ở quận 12 cũng chỉ dao động ở mức 27 - 30 triệu đồng/m2.
"Giá nhà đất leo thang cũng là do một số đầu nậu, cò lái "thổi giá". Khi giá đã lên cao thì lại không giảm xuống được dẫn tới ít người mua. Nhiều anh chị đầu tư bị "chôn vốn" thời gian dài và rơi vào cảnh nợ nần cũng chỉ vì nhà đất", chị Linh nói.
Nhiều nhân viên môi giới làm việc tại các công ty bất động sản ở quận 2 và quận 9 cũng cho biết, dịp cận Tết nguyên đán năm nay là một trong những đợt buôn bán "ảm đạm" nhất của các nhân viên này trong vài năm trở lại đây. Nguyên nhân là do các dự án "bình dân" đang ngày càng ít đi nên các công ty môi giới có rất ít "hàng" để tung ra thị trường. Trong khi đó, khách đi mua nhà dịp Tết chủ yếu là tìm phân khúc bình dân, giá rẻ.
Theo Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA), năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 77 dự án nhà ở hình thành trong tương lai với 28.316 căn, quy mô thị trường giảm đến 34,1% so với năm 2017. Phân khúc cao cấp có giá bán trên 40 triệu đồng/m2 chiếm 30%, tăng 4,5% so với năm 2017. Phân khúc trung cấp chiếm 45,3% tương đương với năm 2017. Phân khúc bình dân chỉ còn chiếm 24,7% giảm 4,4% so với năm 2017…
Những bằng chứng trên cho thấy tình hình thu ngân sách từ bất động sản năm 2018 là kém khả quan hơn hẳn so với năm 2017 - năm mà đất nền Sài Gòn được các nhóm đầu cơ ‘đánh lên’ dữ dội để vừa đút túi một khoản chênh lệch giá khổng lồ, vừa ‘cống hiến’ thuế cho chính quyền thông qua số lượng giao dịch tăng vọt.
Vào cuối năm 2018 và đầu năm 2019, bất chấp việc một số nhóm đầu cơ vẫn cố sức PR ‘triển vọng bất động sản sán lạn trong năm 2019’, không ít người trong giới chuyên gia đã phải nhận định rằng 2019 sẽ là một năm ‘điều chỉnh’, nói cách khác là năm giảm giá nhà đất khi mặt bằng giá đã bị đẩy lên quá cao nên không thể thu hút được túi tiền của người mua.
Nhưng lại có một quy luật đặc thù của thị trường bất động sản Việt Nam : khi giá đang lên thì người mua rùng rùng đổ xô vào khiến tăng vọt lượng giao dịch, nhưng khi giá giảm thì thị trường gần như đóng băng, đặc biệt đối với phân khúc đất nền mà trước đó đã bị đẩy giá trên trời. Ngân sách Thành phố Hồ Chí Minh và kéo theo ngân sách trung ương sẽ thất thu lớn từ tình trạng đóng băng của phân khúc này.
Gần như chắc chắn, tiền thu ngân sách năm 2019 từ bất động sản, trong đó có thu tiền sử dụng đấtcủa Thành phố Hồ Chí Minh sẽ còn giảm hơn cả năm 2018.
Quả bom bất động sản ở Sài Gòn sẽ phải nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần. Khi đó chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 - 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái.
Cần nhắc lại vào trung tuần tháng Năm năm 2018, trong một cuộc báo cáo cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã phải thừa nhận một sự thật mà đã bị giấu biệt vào năm 2017 : dù tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2017 vượt 49,16 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội, vượt 76,48 nghìn tỷ so với dự toán, nhưng số tăng thu đạt được chủ yếu không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà là nhờ tăng thu từ tiền sử dụng đất (61,58 nghìn tỷ đồng so với dự toán), và một phần khác từ thu cổ tức và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước (15,19 nghìn tỷ đồng), tăng thu từ dầu thô (11,28 nghìn tỷ đồng so với dự toán).
Định chế Ngân hàng Thế giới đang bị nghi ngờ là đã tiếp tay, hoặc đã có một hành động hoàn toàn không khách quan và trung thực, cho chính thể độc trị ở Việt Nam khi nêu ra con số thống kê lượng kiều hối về Việt Nam năm 2018 lên đến 15,9 tỷ USD.
Sau khi lập đỉnh vào năm 2015, kiều hối về Việt Nam đã lao dốc liên tiếp trong những năm sau đó.
Ngay lập tức, các tờ báo đảng và ‘thân đảng’ ở Việt Nam dẫn tin từ Ngân hàng thế giới để khoa trương thành tích nhờ có nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và các chính sách nhân văn nhân bản của đảng và nhà nước ta mà Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều kiều hối từ ‘khúc ruột ngàn dặm’ hay từ ‘kiều bào ta’.
Tuy nhiên, công bố của Ngân hàng thế giới về lượng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 lại chỉ thuần túy là con số tổng nhưng đã không kèm theo bất kỳ một liệt kê chi tiết nào cần có về cơ cấu khu vực và quốc gia trên thế giới gửi kiều hối về Việt Nam, cơ cấu khu vực và ngành nghề ở Việt Nam nhận kiều hối, phương pháp tính kiều hối của Ngân hàng thế giới…
Trong khi đó tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của Bộ Kế hoạch và đầu tư ngày 16/1/2019, chính Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong cho biết rằng kiều hối về Sài Gòn đạt 5 tỷ USD, thấp hơn con số năm 2017 là 5,2 tỷ USD.
Sự thừa nhận trên cho thấy ngay cả Sài Gòn - bị giới chóp bu Hà Nội xem là ‘con bò sữa’ để tha hồ vắt kiệt sức dân và doanh nghiệp - cũng đã lần đầu tiên bị giảm kiều hối sau nhiều năm.
Cho đến nay, ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng nghi ngờ rằng nếu Bộ Kế hoạch và đầu tư và Ngân hàng Nhà nước cho rằng kiều hối về Sài Gòn chiếm khoảng 50% tổng lượng kiều hối cả nước, con số kiều hối tối đa mà Việt Nam nhận được trong năm 2018 chỉ khoảng 10 tỷ USD chứ làm sao được ‘vẽ’ đến 15,9 tỷ USD như công bố của Ngân hàng Thế giới ?
Nói cách khác, giữa Ngân hàng Thế giới và chính quyền Việt Nam liệu có tồn tại âm thầm một thỏa hiệp chính trị nào để tô hồng cho chế độ độc đảng này ?
Mối nghi ngờ trên càng lớn khi trong hai năm liên tiếp 2017 và 2018, các cơ quan Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng nhà nước… ở Việt Nam đã ‘câm như hến’ mà không hề công bố kết quả tổng lượng kiều hối về Việt Nam mỗi năm.
Vậy lượng kiều hối thực về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 có thể là bao nhiêu ?
Hãy dựa ngay vào cách thống kê của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh khi cơ quan này thường xuyên xác định về cơ cấu địa phương tiếp nhận kiều hối : Sài Gòn thường nhận khoảng 60% trong tổng số kiều hối về Việt Nam.
Như vậy nếu căn cứ vào con số 5 tỷ USD của Sài Gòn vào năm 2018 và tỷ lệ 60% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 chỉ vào khoảng hơn 8 tỷ USD chứ không thể lên đến 13,8 tỷ USD cho năm 2017 và 15,9 tỷ USD cho năm 2018 như Ngân hàng thế giới công bố.
Nhưng con số hơn 8 tỷ USD trên vẫn có thể là lạc quan, bởi phản ánh chung của báo chí và giới chuyên gia tài chính là trong những năm gần đây, kiều hối đổ về Việt Nam có khuynh hướng ngày càng tập trung về Sài Gòn - nơi có hàng triệu gia đình có thân nhân ở nước ngoài, chủ yếu từ thị trường Hoa Kỳ (chiếm 55-60% tổng kiều hối từ các nước gửi về Việt Nam), trong khi giảm mạnh ở tỉnh thành khác. Nếu tỷ lệ kiều hối về Sài Gòn vượt trên 60% nhưng vẫn giữ giá trị tuyệt đối là khoảng 5,2 tỷ USD thì dĩ nhiên con số tổng kiều hối quốc gia sẽ phải giảm dưới mức 8 tỷ USD.
Sau hơn hai chục năm duy trì xu hướng tăng liên tục, hiện tượng rất đáng chú ý là vào năm 2016, lần đầu tiên dòng kiều hối bị khựng lại, suy giảm rất mạnh và báo hiệu về dòng kiều hối này sẽ đảo chiều trong những năm tới.
Năm 2016 thực sự là một cú sốc dành cho chính thể cầm quyền tại Việt Nam : lượng kiều hối trong năm đó chỉ còn có 9 tỷ USD, sụt giảm rất mạnh - đến 30% - so với đỉnh kiều hối 13,2 tỷ USD của năm 2015.
Trong khi Hội đồng Châu Âu và Ủy ban Châu Âu có một cuộc họp để bỏ phiếu liên quan những thủ tục về số phận của EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu), đã có một xác nhận đầu tiên mang tính gián tiếp của Tiến sĩ Chang Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) tại Việt Nam về khả năng Hiệp định EVFTA có thể sẽ không được thông qua khi Việt Nam chưa chứng minh được cho Nghị viện Châu Âu những cải tiến trong vấn đề lao động.
Tiến sĩ Chang Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) tại Việt Nam
Ông Chang Hee Lee - người có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan của Liên minh Châu Âu - đưa ra nhận định ‘nguy hiểm’ trên tại buổi gặp gỡ với phóng viên khu vực phía Nam tại Sài Gòn ngày 14/01/2019.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn dẫn lời Tiến sĩ Lee cho biết EVFTA sẽ được Ủy ban Thương mại Châu Âu xem xét vào tháng Hai năm 2019. Tiếp đó, vào tháng Ba, hiệp định này sẽ được đưa ra Nghị viện Châu Âu.
Và từ giờ đến lúc đó, nếu Việt Nam không tiến triển gì trong việc đáp ứng các yêu cầu về lao động, dựa trên những tuyên bố của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động thì hiệp định này có thể sẽ không được thông qua và đây sẽ là một tổn thất của Việt Nam.
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa phê chuẩn 3/8 công ước cơ bản, gồm công ước về thương lượng tập thể (98) ; công ước về tự do hiệp hội (87) và công ước về lao động cưỡng bức (105).
Theo Tiến sĩ Lee, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam đã có kế hoạch phê chuẩn công ước 98 vào tháng 5/2019 ; công ước 105 vào năm 2020 và công ước 87 vào năm 2023. "Kế hoạch này là tốt nhưng như thế là chưa đủ với Nghị viện Châu Âu. Đó như tờ séc rỗng trong khi họ cần tiền mặt. Vấn đề là nhiệm kỳ của Nghị viện Châu Âu sẽ kết thúc vào tháng 5 tới. Từ giờ đến thời điểm bầu cử, không có tiến bộ mới nào thì họ không biết lấy gì để chứng minh", tiến sĩ Lee nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, một trong những điểm được nhìn vào là sửa đổi Bộ luật Lao động. Nhiệm vụ của việc sửa đổi là đưa bộ luật này tiệm cận nhiều hơn với tiêu chuẩn quốc tế của ILO, nhất là điều khoản thương lượng tập thể và tự do hiệp hội. Việc sửa đổi Bộ luật Lao động 2012 cũng để đáp ứng yêu cầu của hiệp định CPTPP, bên cạnh nhu cầu tự thân của Việt Nam.
Nhưng lao động có phải là khó khăn duy nhất mà chính thể độc đảng ở Việt Nam phải đối mặt để khó ‘nuốt’ được EVFTA ?
Trên tất cả là nhân quyền - rất nhiều vi phạm nhân quyền trầm trọng của chính quyền Việt Nam mà cho tới nay vẫn không hề được cải thiện theo khuyến nghị và khuyến cáo của các thành viên trong Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc và Liên minh Châu Âu.
Ngày 15/11/2018, gần một tháng sau khi Việt Nam đã tưởng như chắc ăn khi Ủy ban Châu Âu đồng thuận làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu để xem xét việc ký kết EVFTA với Việt Nam, Nghị viện Châu Âu bất ngờ tung ra nghị quyết 2018/2925(RSP) về nhân quyền mà đã nhấn kỳ vọng ‘EVFTA được ký kết’ từ xác suất cao hoặc rất cao xuống mốc 50/50.
Khác nhiều với quan điểm không mấy rõ ràng và dứt khoát của Ủy ban Châu Âu, ngay phần đầu của nghị quyết 2018/2925(RSP) đã khẳng định : "Quan hệ giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam phải căn cứ trước hết trên nền tảng tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp quyền ; và trên cơ sở bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế về lĩnh vực này".
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925(RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về các quyền tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do báo chí và Internet, bắt bớ người hoạt động nhân quyền, đàn áp người biểu tình, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…
Động thái tung ra bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu vào ngày 15/11/2018 đã hàm ý như một thông điệp trực tiếp cho Cộng đồng Châu Âu về quan điểm ‘nhân quyền trước hết’, trước khi cơ quan này họp để quyết định có thông qua EVFTA với Việt Nam hay không.
Bản nghị quyết trên cũng chính thức xác lập quan điểm rất rõ ràng của Nghị viện Châu Âu về EVFTA. Điều đó có nghĩa là cho dù EVFTA có được Cộng đồng Châu Âu thông qua, nhưng tại cuộc họp vào tháng Ba năm 2019, rất có thể Nghị viện Châu Âu sẽ bỏ phiếu phản bác hiệp định này, đưa mối quan hệ giữa Châu Âu và Việt Nam về cái thời mà bản hiệp định này mới chỉ là ý tưởng.
Chỉ còn khoảng 4 tháng nữa là đến kỳ bầu lại Nghị viện Châu Âu. Đã quá rõ là từ cuộc điều trần ở Bỉ vào tháng 10 năm 2018 cho đến cuối năm đó, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng chịu làm một điều gì để cải thiện nhân quyền. Cũng đã quá rõ là chính vì nguyên do rất chính yếu ấy mà Cộng đồng Châu Âu đã chưa thể thông qua EVFTA với Việt Nam, cho dù bản thảo của hiệp định này đã khá đầy đủ và nằm sẵn trên bàn chỉ chờ ký.
Cách nói rất thận trọng trước báo giới Việt Nam của Giám đốc Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) tại Việt Nam - ông Chang Hee Lee - về tương lai Hiệp định EVFTA là một cảnh báo gián tiếp đối với chính quyền Việt Nam : không chịu cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, thực chất và mang tính chứng minh được, sẽ chẳng có EVFTA nào tự động chui vào dạ dày của những kẻ chỉ biết ăn không biết làm.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 18/01/2019
Một ngày sau vụ cưỡng chế, một số hộ dân ở vườn rau Lộc Hưng (Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh) trở về lại chỗ đống đỗ nát để dựng chòi ở tạm bởi họ đã mất trắng tài sản, không có nơi dung thân…
Một số hộ dân ở vườn rau Lộc Hưng trở về lại chỗ đống đỗ nát để dựng chòi ở tạm
Vào ngày 9/1/2019, tức là một ngày sau vụ cưỡng chế ở vườn rau Lộc Hưng, anh Cao Hà Trực, một hộ dân bị nhà cầm quyền Q.Tân Bình nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung đập nhà cửa, cưỡng chế đất đai đã cho Việt Nam Thời Báo được biết là tình hình hiện tại có một số hộ dân về lại chỗ cũ để dựng chòi ở tạm. Nhìn đống đỗ nát, nhiều người đã không cầm được nước mắt bởi lẽ tài sản đã mất trắng, lâm vào cảnh nợ nần và không có chỗ ở.
"Tình hình bà con giờ điêu đứng lắm. Họ phá tanh bành như thế này rồi, một số người bị bể nợ vì người ta mượn tiền dựng mấy phòng trọ để ở với lại cho thuê giờ không biết ở chỗ nào ? Bởi vì giờ đã cuối năm, người ta ngồi người ta khóc xung quanh đây. Tôi khuyên người ta giờ dựng cái chòi ở đỡ chứ bây giờ làm sao ?" – Anh Trực nói.
Anh Trực và người dân cho biết, diện tích đất ở vườn rau Lộc Hưng mà mọi người đang ở có từ thời thập niên 1950, người dân được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ cấp quyền sử dụng đất hẳn hoi. Sau ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam hiện tại sau khi tiếp quản miền Nam, thống nhất đất nước thì lại không đổi giấy tờ pháp lý đất đai cho các hộ dân. Nhận thấy đây là diện tích "đất vàng" nằm trong trung tâm thành phố, nhà cầm quyền Thành phố Hồ Chí Minh vẽ ra dự án xây dựng trường học để thu hồi đất.
Người dân cho biết, họ bị áp giá đền bù rẻ mạt khiến người dân không đồng ý nên nhà cầm quyền đã áp dụng biện pháp cưỡng chế một cách phi pháp vì không có văn bản thu hồi, không tái định cư..
Bất chấp sự chỉ trích đến từ dư luận cũng như báo đài, truyền thông quốc tế, từ mấy năm qua nhà cầm quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành khá nhiều cuộc cưỡng chế để lấy đất vườn rau Lộc Hưng nhưng không thành. Cho đến ngày 4/1/2019, nhà cầm quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động xe ủi, xe xúc, hơn 200 công an cùng các thành phần lực lượng chức năng khác tiến hành đập đỗ 4 căn nhà của các hộ dân ở vườn rau Lộc Hưng. Tiếp đến, đỉnh điểm của cuộc cưỡng chế là vào ngày 8/1 vừa qua, với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ lấy đất, đập phá nhà dân trước dịp Tết Nguyên đán, nhà cầm quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa khoảng 1000 người cùng các phương tiện cưỡng chế một lần nữa tiến vào vườn rau Lộc Hưng. Trong cuộc cưỡng chế, đã có 20 căn nhà của các hộ dân bị đập phá, vườn rau Lộc Hưng trong một ngày đã trở thành bình địa, khung cành tàn phá chẳng khác gì thời chiến tranh.
Anh Trực cho rằng đây không phải là cuộc cưỡng chế mà là một cuộc phá hoại, nhà cầm quyền cắt đường sống của người dân như thế là rất dã man.
"Cắt đường sống của người ta như thế rất là dã man. Mà tôi nói với anh, ở đây không chỉ là cưỡng chế xây dựng trái phép, đây là cuộc hủy hoại tài sản, phá hoại, có những gốc cây họ cố tình lấy móc móc cho chết cây, phá hết tất cả cây cối, dây điện thì họ cắt ba bốn khúc, bồn nước thì họ đâm cho thủng… Đây là phá hoại chứ không phải cưỡng chế xây dựng trái phép. Về đây nhìn cảm giác mới thấy nó ác với dân, nó gian tà quá".
Anh Trực nói thêm, tại thời điểm cưỡng chế đã có hơn 10 người dân bị bắt và bản thân anh ngoài việc bị bắt từ rất sớm còn bị phía công an hành hung.
"Có tôi bị bắt và tôi bị đánh, họ đấm vào mặt tôi".
"Ngày hôm qua tôi mới bước ra khỏi nhà, ở đầu hẻm nhà tôi là tượng đài Đức Mẹ. Tôi vừa bước xuống một cái là có khoảng 20 người an ninh, họ bao vay, họ xiết cổ tôi. Họ cho tôi lên xe. Khi lên xe họ lấy cùi chỏ giật vào người tôi một cái"..
Cuộc cưỡng chế vào ngày 8/1 bắt đầu từ sáng sớm và kết thúc vào lúc tối muộn cùng ngày. Còn anh Trực và mọi người được trả tự do sau khi lực lượng cưỡng chế rút khỏi vườn rau Lộc Hưng. Đây không chỉ là cuộc cưỡng chế phi pháp mà nhà cầm quyền còn bị dư luận tố cáo vô nhân đạo khi biến hàng trăm người bao gồm cả trẻ em, người già neo đơn và các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trở thành người vô gia cư trước dịp Tết Nguyên đán cận kề.
Nỗi đau Lộc Hưng hôm nay đã ghi thêm tội ác của nhà cầm quyền TP.Hồ Chí Minh khi mà trước đó nỗi đau Thủ Thiêm đã trở thành tâm điểm quan tâm của cả nước nhưng chưa được giải quyết, ở đó nỗi đau của người dân thấp cổ bé họng bị cướp đất đang phản ánh tiếng nói chung nỗi đau của người dân cả nước khi phải sinh sống tại những vùng đất bị dính vào dự án. Và trên thực những dự án điển hình như Thủ Thiêm ở TP.Hồ Chí Minh, Long Hưng ở Đồng Nai, Dương Nội ở Hà Nội và Cồn Dầu ở Đà Nẵng… đang cho thấy sự biến thể, phân lô bán nền làm lợi cho nhà đầu tư bất chấp nước mắt, tù oan sai của người dân.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 12/01/2019
Bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị viện Châu Âu được ban hành vào giữa tháng 11 năm 2018 cũng đề cập đến việc Việt Nam phải ký 3 công ước quốc tế về lao động.
Tuyên bố năm 1998 về 8 Công ước cơ bản của Tổ chức Lao Động Quốc tế - CIRD
John Sifton, Giám đốc Vận động, Ban Á Châu của Human Rights Watch, đã hoàn toàn đúng khi nhận định trong một thông cáo đăng tải trên trang web của tổ chức này hôm 10/1/2019 :
"Vội vàng thông qua hiệp định thương mại với Việt Nam sẽ là một sai lầm lớn. Làm như vậy là tưởng thưởng cho Việt Nam trong khi nước này chẳng làm gì cả, thông qua EVFTA là đánh đi một thông điệp tệ hại cho thấy những cam kết mà Liên minh Châu Âu đã đưa ra trước đây là dùng thương mại như một công cụ để quảng bá nhân quyền trên toàn cầu không còn đáng tin".
Thông cáo trên xuất hiện trong bối cảnh do áp lực của cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu, một số thành viên trong Nghị viện Châu Âu đang tìm cách đẩy nhanh việc phê chuẩn EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam), bất chấp Việt Nam đã lờ đi những lời kêu gọi liên tiếp đòi Hà Nội cải thiện hồ sơ nhân quyền. Dự kiến các biểu quyết chủ yếu về mặt thủ tục cho hiệp định này đã được lên lịch cho tuần sau.
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất về quan điểm đánh bài lờ về các điều kiện nhân quyền của chính thể độc đảng ở Việt Nam là từ sau cuộc điều trần về chủ đề EVFTA - nhân quyền do Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức vào ngày 10 tháng Mười năm 2018 tại Brussels, Bỉ, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa chịu ký 3 công ước quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể và việc bãi bỏ lao động cưỡng bức.
Tại cuộc điều trần trên, các nghị sỹ đã yêu cầu Việt Nam sớm thông qua 3 công ước còn lại của Công ước Quốc tế về Quyền lao động nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động Việt Nam một khi có công đoàn độc lập.
Điều mà những người tham gia đặt câu hỏi muốn biết là Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nhân quyền ; kế hoạch cụ thể để cải thiện nhân quyền là gì ; Việt Nam cần thể hiện bằng hành động để chứng minh sẽ và có thể thực hiện các cam kết. Ngoài ra cũng yêu cầu rằng 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA.
Bà Granwander Hainz đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể.
Còn bà Maria Arena thuộc đảng Xã Hội của Vương quốc Bỉ, là thành viên của Nghị Viện Liên Âu cho biết không thấy nhiều tiến triển về phía Việt Nam : "Năm nay là năm 2018, từ năm 2012-2018 chúng tôi nhận thấy các tiêu chí về quyền Nghiệp đoàn và nhân Quyền của Việt Nam vẫn chưa tiến bộ một cách đầy đủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chờ thêm 6 tháng nữa để Việt Nam thực hiện lời hứa. Nhưng không chỉ là lời hứa mà là sự đảm bảo, ngay cả trước khi Nghị Viện Liên Âu phê chuẩn hiệp định này. Nghị viện Liên Âu cần Việt Nam có những chỉ dấu tích cực chứ không chỉ là lời hứa. Chúng tôi có thể cho thêm thời gian, nhưng thời gian đó phải được Việt Nam sử dụng để có những hành động cho thấy được sự nổ lực của họ".
Bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị viện Châu Âu được ban hành vào giữa tháng 11 năm 2108 cũng đề cập đến việc Việt Nam phải ký 3 công ước quốc tế về lao động.
Khỏi phải nói là 3 công ước lao động còn lại thể hiện mối ‘an nguy’ đến thế nào đối với chế độ cầm quyền ở Việt Nam, vì những công ước này, đặc biệt là công ước về quyền tự do lập hội, liên quan mật thiết đến công đoàn độc lập - một định chế mà từ lâu chính quyền Việt Nam đã luôn gán ghép nó với tổ chức Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ XX, để từ đó quy kết cho công đoàn độc lập là nhằm thu hút, tập hợp số đông công nhân để lật đổ chính quyền.
Chiến thuật ‘câu giờ’ của chính quyền Việt Nam liên quan đến việc ký 3 công ước quốc tế về lao động là rất rõ. Hứa hẹn ‘sẽ ký’ từ trước cuộc điều trần ở Bỉ cho tới nay vẫn chỉ là một lời hứa chẳng có giá trị gì. Trong khi đó, Việt Nam vừa âm thầm vừa công khai vận động một số nước Châu Âu nhằm tác động đến Nghị viện Châu Âu để sớm thông qua EVFTA, để nếu việc thông qua này diễn ra sớm trong nửa đầu năm 2019 thì Việt Nam sẽ có luôn EVFTA trong tay mà chẳng phải ký thêm bất kỳ một công ước quốc tế lao động nào.
"Hội đồng Châu Âu và Nghị viện Châu Âu cần gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng không thể phê chuẩn hiệp định EVFTA cho tới khi nào nhà nước Việt Nam có thái độ nghiêm túc muốn giải quyết những lo ngại về nhân quyền", ông Sifton nói. "Việt Nam nên hiểu rằng nếu Châu Âu trì hoãn hiệp định này thì đó là do lỗi của Hà Nội, chứ không phải của Brussels".
Rất có thể, đó là những đồng đô la cuối cùng mà Ngân hàng nhà nước vét dễ dàng từ thị trường tự do...
Tại tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2019 được tổ chức vào ngày 9/1/2019, ông Lê Minh Hưng cho biết trong năm 2018 Ngân hàng nhà nước đã mua ròng trên 6 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối.
Như vậy, số USD mua ròng của Ngân hàng nhà nước trong năm 2018 là thấp hơn đáng kể so với lượng mua ròng được Ngân hàng nhà nước báo cáo trong hai năm trước - 2017 và 2016, với khoảng 10 - 12 tỷ USD mỗi năm.
Hiện tượng Ngân hàng nhà nước bị giảm số mua USD trong năm 2018 từ các ngân hàng thương mại cổ phần và thị trường tự do, cộng hưởng hiện tượng giới quan chức nhà nước không dám nêu cụ thể lượng ngoại tệ của quỹ dự trữ ngoại hối cho thấy lượng USD trôi nổi không còn nhiều như trước và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn cứ sau mỗi năm.
Vào thời kỳ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình, nạn bội chi và vung tiền vô tội vạ đã khiến kho dự trữ ngoại hối cạn đi nhanh chóng, chỉ còn khoảng 30 tỷ USD theo báo cáo. Đến thời thủ tướng mới là Nguyễn Xuân Phúc và thống đốc mới là Lê Minh Hưng, Ngân hàng nhà nước đã có một chiến dịch âm thầm, miệt mài và đầy thủ đoạn để tung ra một núi tiền đồng nhằm gom tích USD từ hệ thống ngân hàng và USD trôi nổi ở chợ đen lẫn từ khu vực dân cư, khiến chỉ trong vài năm, kho dự trữ ngoại hối của nhà nước đã được báo cáo tăng gấp đôi và được xem là ‘thành tích kiến tạo’ của chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng rất có thể, đó là những đồng đô la cuối cùng mà Ngân hàng nhà nước vét dễ dàng từ thị trường tự do. Từ tháng Năm - Sáu năm 2018, tình hình vét đô cho Quỹ dự trữ ngoại hối đã chậm hẳn lại, để cho đến nay không còn nghe báo cáo thành tích dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng phi mã.
Một hiện tượng đồng pha khác củng cố cho kịch bản lượng ngoại tệ trôi nổi giảm sút khá nhiều là lượng kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ chuyển về Việt Nam trong năm 2018 rất có thể đã không thỏa mãn nguện vọng của Bộ Chính trị đảng muốn ‘kiều bào ta’ gửi đô la về để cống hiến và cầm hơi cho chế độ.
Kết thúc năm 2018 và rất tương đồng với cái kết của năm 2017, vẫn không có một con số thống kê tổng hợp nào về kiều hối quốc gia được phát hành bởi Tổng cục Thống kê và các cơ quan liên quan, mà chỉ có ước tính khu vực Sài Gòn nhận được khoảng 5 tỷ USD. Nếu tính theo tỷ lệ thông thường là Sài Gòn chiếm khoảng 60% tổng lượng kiều hối về Việt Nam thì số kiều hối thực về Việt Nam trong năm 2018 chỉ vào khoảng 8 - 8,5 tỷ USD – giảm sút nghiêm trọng so với mức kỷ lục 13,2 tỷ USD vào năm 2015.
Thế còn ‘vét’ vàng ?
Một lần nữa, trong nhiều lần kể từ năm 2011 đến nay, Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và hai cơ quan tham mưu là Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính phải tính đến việc gom 500 tấn vàng trong dân, mà rất có thể sẽ được quy đổi sang USD để trả nợ nước ngoài.
Hiện nay, con số nợ nước ngoài của Việt Nam (chỉ tính riêng nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh mà chưa tính đến số tự vay tự trả của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) đã lên đến 105 tỷ USD, xấp xỉ 50% GDP…
Nhưng hàng loạt vụ đổ bể ở nhiều ngân hàng như Đại Dương, Xây Dựng, Dầu Khí Toàn Cầu, cùng nhiều dấu hiệu rủi ro ở Agribank, Vietinbank, Eximbank, DongAbank..., cùng các vụ thụt két và siêu lừa như Huỳnh Thị Huyền Như..., hoặc hiện tượng "tiền tiết kiệm bốc hơi" xảy ra trong những năm gần đây đã khiến cho dân chúng mất đi đáng kể niềm tin vào giới ngân hàng. Trong tình thế đó, nhiều người dân thà chôn giấu vàng dưới gầm giường, thay vì gửi vào ngân hàng mà không thể chắc chắn là vàng của mình sẽ "không cánh mà bay".
Từ khi Ngân hàng nhà nước dự trù thực hiện đề án huy động vàng vào năm 2011, đã có rất nhiều ý kiến của giới chuyên gia và người dân yêu cầu Ngân hàng nhà nước phải có những giải pháp thật sự an toàn cho người gửi vàng. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chưa thấy bất kỳ một dấu hiệu nào từ phía Ngân hàng nhà nước để trưng ra sự bảo đảm của họ.
Điều đơn giản là nếu lần này Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại không xây dựng được một cơ chế tuyệt đối bảo đảm an toàn cho người gửi vàng, chính sách huy động vàng nhiều khả năng sẽ tiếp tục thất bại, và sẽ chẳng có 500 tấn vàng nào trong dân tuôn chảy vào ngân quỹ của giới ngân hàng quen thủ lợi thay cho mối lo lắng về quốc kế dân sinh.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 10/01/2019
Trong trường hợp cái được gọi là ‘sự thật’ ở hôm nay, lại là sự ‘dối lừa’ ở ngày mai, vậy thì có cách nào để kiểm soát, giám sát những gì gọi là ‘sự thật’ ?
Cần thay đổi phương thức kiểm soát quyền lực để không nhầm lẫn ‘sự thật’
Luật An ninh mạng, tại điều 8 "Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng", khoản 1.d ghi : "Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác".
Băn khoăn lớn nhất đặt ra : thế nào là sự thật ? Nếu sự thật được minh định ngay từ đầu thì chắc chắn không có vụ đại án Thủ Thiêm như hiện tại ? Nếu sự thật được tôn trọng, thì cũng khó thể có con tàu đắm Vinashin ở hôm qua để rồi di chứng kéo dài đến tận hôm nay.
‘Sân khấu’ kịch trường chính trị ở thành phố Hồ Chí Minh
Gọi là ‘sân khấu’ vì ở đó nhiều quan chức đã khoác những bộ mặt khác nhau trong ứng xử. Cựu nhà báo Nguyễn Đông Thức của báo Tuổi Trẻ, kể một câu chuyện lãnh vực văn hóa nghệ thuật mà ông từng chuyên trách.
"Điên chuyện này từ lâu rồi ! Nhưng thấy nhiều người biết nên cũng muốn chờ coi có ai nói không. Rằng cái thành phố này từ lâu nay, đặc biệt là từ khi bị sự lãnh đạo của đám Hải Quân Đua Tài [1], đã nổi tiếng toàn quốc về "bảo hoàng hơn vua", lập trường quan điểm chắc như bê tông cốt sắt, đặc biệt là trong lãnh vực văn hoá văn nghệ.
Với dàn chuyên viên sắt máu bảo vệ chế độ Phan Xuân Biên và đại quan nửa đêm đi bắt bia ôm Ba Đua lên làm thường trực, hoạt động văn học nghệ thuật của thành phố trung tâm này đã trở nên trì trệ, bảo thủ... nhất nước.
Nhớ chuyện nhạc sĩ Phạm Duy đã chịu bầm dập như thế nào mới xin được giấy phép hồi hương sinh sống như một người dân Việt. Lúc được cấp chứng minh nhân dân và hộ khẩu xong, ông chủ động đến Hội âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh để chào ra mắt các ông quan âm nhạc ở đây, thì đã bị... ngồi ngoài sân, không ai tiếp !
Danh sách các tác phẩm của ông, tuy được duyệt cấp phép nhỏ giọt, nhưng luôn ghi rõ "được phép phổ biến, biểu diễn trên phạm vi toàn quốc". Vậy mà các chương trình biểu diễn ca khúc của ông tại thành phố này luôn bị chỉ thị ngầm không được phát sóng phát thanh, truyền hình và còn cấm mọi hình thức quảng cáo.
Có những tờ báo đã nhận tiền đăng quảng cáo các liveshow của ông bị buộc phải trả lại. Một phim tài liệu về ông làm xong, 100% Hội đồng duyệt phim Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định đồng ý thông qua, thế mà cấp trên của thành phố này vẫn cương quyết không cấp phép phát hành. Chuyện này đã hơn 10 năm, đến khi ông ngậm ngùi nhắm mắt vẫn chưa được thấy phim ra mắt !
Vòng hoa của Hội âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh gởi đến đám tang ông là vòng hoa nhỏ nhất, rẻ tiền nhất !. Mở ngoặc ở đây để thử hỏi giờ có ai hát nhạc của các ông quan nhạc đỏ không ?". Nhà báo, nhà văn Nguyễn Đông Thức kể trong tâm thế "điên chuyện này từ lâu rồi".
Vì là độc đảng cầm quyền nên vấn đề mang tính cốt lõi ở đây phải chăng là nằm trong ba trường hợp : sự bất lực/ dung túng/ thỏa hiệp của cấp đảng trung ương trong kiểm soát quyền lực chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh – địa phương đang góp hàng năm với tỷ lệ từ 28% đến 30% cho ngân sách quốc gia.
Cần thay đổi phương thức kiểm soát quyền lực để không nhầm lẫn ‘sự thật’
Góc độ pháp lý, Quốc hội Việt Nam là cơ quan lập pháp, ban hành các điều luật. Chính phủ được xem là cơ quan hành pháp, thực thi các điều luật, còn tư pháp là hệ thống tòa án xét xử. Cả ba nhiệm vụ đó của ba cơ quan khác nhau đó, lại hoàn toàn chịu sự lãnh đạo thống nhất của đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có sự phân nhiệm giữa các ngành với nhau, do các đảng viên của đảng cộng sản được cử ra đảm nhiệm những chức vụ trong ba ngành ấy.
Như vậy rốt cuộc, phải chăng có sự dung dưỡng của đảng cấp trên nên đảng cấp dưới như ‘Hải Quân Đua Tài’ mới dám lộng giả thành chơn ? Và trong bối cảnh đó thì những cái gọi là ‘sự thật’ quả tình không dễ xác định. Hệ lụy là bất kỳ ai dám chống lại ‘Hải Quân Đua Tài’ sẽ đối mặt các điều luật hình sự như điều 88, điều 79, điều 258 của Bộ luật Hình sự 1999 [2].
Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ riêng bộ mặt văn hóa văn nghệ ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn không mấy thay đổi dù không còn ‘Hải Quân Đua Tài’.
Nhà báo, nhà văn Nguyễn Đông Thức kể tiếp : Và những tưởng đang lúc cả lò lâm nguy sẽ giảm bớt vụ làm khó văn nghệ sĩ, ai dè mới tức thì lại lòi ra vụ nghệ sĩ ưu tú, đảng viên Ngọc Huyền đến nay vẫn chưa hề bị rút danh hiệu dù đi Mỹ đã lâu. Cô này gom tiền về xin diễn liveshow, nhân kỷ niệm bao nhiêu năm hành nghề. Cục nghệ thuật biểu diễn (trung ương) cấp phép, nên Sở (địa phương) cũng phải cắn răng duyệt ký. Thế nhưng, đồng loạt Nhà hát Hoà Bình, Nhà hát Thành phố, Nhà hát Bến Thành cùng từ chối hợp đồng diễn, với lý do bận hết rồi.
Tới sân Lan Anh thì ký được, nhưng giờ chót lại bị nói đã kẹt phục vụ ngày quân đội. Chạy qua rạp Thủ Đô là giải pháp tội nhứt rồi, vì rạp quá tệ, nhưng đành cắn răng bỏ luôn tiền sửa rạp cho tươm tất tí, sau khi ký được hợp đồng. Vậy mà hôm sau rạp lại bị "lãnh đạo" yêu cầu huỷ. Và tất cả, như thường lệ, đều là lệnh miệng, không biết của ai và chả có một tờ giấy lộn nào ! Và ngang trái là, sau đó chả có cái nhà hát nào, rạp nào có show diễn hết !
"Nói thiệt là tôi chưa bao giờ coi hay nghe Ngọc Huyền hát, đừng nói là thích. Nhưng đã gọi là mở cửa, là đại đoàn kết, là sống và làm việc theo pháp luật... thì sao lại có chuyện Sài Gòn này một mình một cõi bảo vệ chế độ và ngang nhiên cấm người ta vậy ? Phải chăng dù cả nhà đang sắp vào lò, đám cấp dưới vẫn cứ theo quán tính "lập trường quan điểm đạo đức sáng ngời", cương quyết giương cao ngọn cờ thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa xã hội ?
Lo giữ ghế, lo chứng tỏ "phẩm chất cách mạng", lo ra vẻ trung thành với cái lý tưởng đã... Cứ tiếp tục vầy hoài thì các hoạt động văn hóa nghệ thuật của thành phố này sẽ cứ èo uột như con chuột, và chán như con gián như từ trước tới giờ. Văn nghệ sĩ, các nhà tổ chức thì sẽ tiếp tục khổ như con hổ... trong sở thú.
Hơn 43 năm trước, Sài Gòn này toàn các anh tài. Giờ đây cũng vẫn có rất nhiều nhân tài, nhưng tất cả cùng chỉ biết hai chữ... ngậm ngùi !". Nhà báo, nhà văn Nguyễn Đông Thức nhận xét đầy chua chát.
Cần thay đổi phương thức kiểm soát quyền lực để không nhầm lẫn ‘sự thật’. Đó là ‘đề bài’ mà người đứng đầu đảng cầm quyền tại Việt Nam phải giải cho bằng được trong năm 2019 này. Nếu không thì với các điều luật dễ bị suy diễn như điều 8, Luật An ninh mạng, lại sẽ có nhiều người dân phải mặc áo tù vì dám nói lên những sự thật, mà đảng tự nghĩ rằng vì nó gây hoang mang, nên sự thật đó là… ‘sai sự thật’ !?
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 03/01/2019
Chú thích :
[1] Hải Quân Đua Tài là muốn nói đến 4 nhân vật : Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Quân, Trần Văn Đua, Nguyễn Thành Tài.
[2] Từ ngày 1/1/2018, Bộ luật Hình sự tu chính có hiệu lực pháp luật. Theo đó, các tội danh "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" (Điều 79 luật hình sự cũ), "Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 88 luật hình sự cũ) và "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" (Điều 258 luật hình sự cũ) đều được giữ lại trong Bộ luật Hình sự tu chính, nhưng thay đổi số thứ tự điều luật và còn thay đổi về hình phạt cho mỗi tội danh này theo hướng khắt khe hơn.
Nguồn cơn nào đã khiến chính phủ Việt Nam nợ nhà thầu Nhật Bản có 100 triệu USD mà chưa biết lấy đâu ra ngoại tệ để thanh toán ?
Chính phủ và Thủ tướng Phúc khẳng định nền kinh tế tăng tưởng vượt bậc và quỹ dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục hơn 60 tỷ USD, nhưng tại sao chỉ nợ có 100 triệu USD mà không chịu trả cho nhà thầu Nhật ?
Chính thể độc đảng vừa được Thủ tướng Phúc khoe khoang ‘lần đầu tiên trong 10 năm, nền kinh tế không chỉ đạt mà còn vượt mức tăng trưởng, từ 6,7% đến 7,08%. Năm 2018, Việt Nam xuất siêu kỷ lục trên 7,7 tỷ USD, gấp hơn 3 lần kỷ lục đã từng xác lập được.vượt thu ngân sách trên 3,5 tỷ USD, dự dữ ngoại hối đạt kỷ lục, nợ xấu giảm rất sâu…’, thật trớ trêu và chua chát, đã bị Nhật Bản kéo áo đòi tiền vào những ngày cuối năm 2018.
100 triệu USD mà phía Việt Nam còn thiếu nhà thầu Nhật trong thi công dự án Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên ở Sài Gòn.
Dự án trên đã trở nên nổi tiếng không chỉ bởi nạn đội vốn đến hơn 30.000 tỷ đồng mà còn do một cái chết chấn động vào đầu tháng 11 năm 2018 : ông Võ Phi Anh, mới có 54 tuổi và là Phó Tổng giám đốc Cienco 6 đơn vị thi công một số hạng mục thuộc công trình tuyến metro số 1 tại Thành phố Hồ Chí Minh, chết trong tư thế treo cổ ở cầu thang văn phòng làm việc. Cái chết bằng dây thừng này bị nghi vấn cao về tiêu cực của những quan chức phụ trách dự án này.
Chi tiết ngoại giao rất đáng chú ý là cú đòi nợ của Nhật đã từ nhà thầu lên tới cấp đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam rồi đến cấp bộ trưởng ngoại giao Nhật. Có thể cho rằng là lần đầu tiên Nhật Bản - quốc gia mà Việt Nam được hưởng lợi nhiều nhất từ nguồn vốn phát triển chính thức ODA và luôn mơn trớn người Nhật để được vay mượn và nhận viện trợ không hoàn lại nhiều hơn thế, đã công khai phi vụ đòi nợ cho quốc tế biết, bất chấp phía Việt Nam kiên định giữ kín câu chuyện đáng xấu hổ này.
Ngay sau đó, nhiều dư luận đã dậy lên dấu hỏi : chính phủ và Thủ tướng Phúc khẳng định nền kinh tế tăng tưởng vượt bậc và quỹ dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục hơn 60 tỷ USD, nhưng tại sao chỉ nợ có 100 triệu USD mà không chịu trả cho nhà thầu Nhật ?
Vậy quỹ dự trữ ngoại hối thực chất ra sao vào lúc này ?
Thành tích gần nhất và lớn nhất của Quỹ dự trữ ngoại hối - được công bố bởi Ngân hàng nhà nước vào giữa năm 2018 - là đã tích góp được hơn 60 tỷ USD, một con số lớn chưa từng thấy trong lịch sử quỹ này.
Nhưng từ tháng Năm - Sáu năm 2018, tình hình vét đô cho Quỹ dự trữ ngoại hối đã chậm hẳn lại, để cho đến nay không còn nghe báo cáo thành tích dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng phi mã. Cũng trong thời gian đó, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và hai cơ quan tham mưu là Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính một lần nữa, trong nhiều lần kể từ năm 2011 đến nay - phải tính đến việc gom 500 tấn vàng trong dân, mà rất có thể sẽ được quy đổi sang USD để trả nợ nước ngoài.
Chưa bao giờ kể từ khi nhậm chức thủ tướng, Nguyễn Xuân Phúc thể hiện tâm thế sốt ruột đến thế khi cứ nằng nặc yêu cầu Ngân hàng nhà nước phải có giải pháp thu gom vàng và ngoại tệ trôi nổi trong dân, dù đến nay Ngân hàng nhà nước vẫn chỉ biết cách duy nhất để gom là cho in tiền ồ ạt và tung hàng núi tiền đồng ra thị trường tự do để thu mua ngoại tệ và vàng.
Trong khi đó, hai vụ thình lình ‘đánh úp’ công dân Nguyễn Cà Rê ở Cần Thơ và Tần Thị Việt ở Nghệ An về mua bán USD càng khiến bật ra những dấu hiệu có thể sắp rơi vào tình trạng cạn kiệt của Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Rất có thể đây là những phát súng thăm dò, để nếu thuận lợi mà không bị một xã hội ‘cừu’ phản ứng nhiều thì sẽ mở màn cho chiến dịch ép buộc người dân phải bán đô cho ngân hàng như thế, làm giàu hơn cho Quỹ dự trữ ngoại hối để có tiền trả nợ cho nước ngoài vào năm 2018 và những năm sau – có thể lên tới 10 - 15 tỷ USD nợ phải trả mỗi năm.
Hẳn đó là nguồn cơn khiến trong tình cảnh khốn quẫn ngoại tệ như thế, chính phủ Việt Nam phải nợ nhà thầu Nhật Bản có 100 triệu USD mà chưa biết lấy đâu ra ngoại tệ để thanh toán.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 03/01/2019
Rất đáng ngạc nhiên là trong hai năm 2017 và 2018, Ngân hàng thế giới đã làm thay phần việc của các cơ quan Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước… ở Việt Nam trong việc công bố kết quả kiều hối về Việt Nam mỗi năm.
Logo Ngân Hàng Thế Giới - Ảnh minh họa
Trong lúc các cơ quan ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam vẫn như cấm khẩu trong cả hai năm trên, thì Ngân hàng thế giới đều đặn công bố "Năm 2017, kiều hối gửi về Việt Nam đạt 13,8 tỷ đô la, tăng 16% so với năm 2016 và cũng đã là mức cao kỷ lục của đất nước" và "Việt Nam đã nhận tổng cộng 15,9 tỷ đô la kiều hối trong năm 2018".
Ngay lập tức, các tờ báo đảng và ‘thân đảng’ ở Việt Nam dẫn tin từ Ngân hàng thế giới để khoa trương thành tích nhờ có nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và các chính sách nhân văn nhân bản của đảng và nhà nước ta mà Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều kiều hối từ ‘khúc ruột ngàn dặm’ hay từ ‘kiều bào ta’.
Tuy nhiên, công bố của Ngân hàng thế giới về lượng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 lại chỉ thuần túy là con số tổng nhưng đã không kèm theo bất kỳ một liệt kê chi tiết nào cần có về cơ cấu khu vực và quốc gia trên thế giới gửi kiều hối về Việt Nam, cơ cấu khu vực và ngành nghề ở Việt Nam nhận kiều hối, phương pháp tính kiều hối của Ngân hàng thế giới…
Trong thực tế, số liệu của Ngân hàng thế giới về kết quả kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 là rất đáng nghi ngờ về tính chính xác, nếu không muốn nói là đáng nghi ngờ về tính trung thực.
Từ nhiều năm qua, một thống kê của Ngân hàng nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đã thường xuyên xác định về cơ cấu địa phương tiếp nhận kiều hối : Sài Gòn thường nhận khoảng 60% trong tổng số kiều hối về Việt Nam.
Vào năm 2017 khi các cơ quan Việt Nam không chịu công bố con số tổng kiều hối trên bình diện quốc gia, chỉ duy nhất Ngân hàng nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh công bố kết quả kiều hối về Sài Gòn là khoảng 5,2 tỷ USD.
Khi năm 2018 đã gần trôi qua, trong lúc các cơ quan Việt Nam vẫn im bặt mà không chịu công bố bất cứ con số kiều hối tổng nào, thì cũng lại Ngân hàng nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra con số kiều hối mà Sài Gòn dự kiến thu hút trong năm 2018 là khoảng 5,2 tỷ USD.
Như vậy nếu căn cứ vào con số 5,2 tỷ USD của Sài Gòn và tỷ lệ 60% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 chỉ vào khoảng 8,5 tỷ USD chứ không thể lên đến 13,8 tỷ USD cho năm 2017 và 15,9 tỷ USD cho năm 2018 như Ngân hàng thế giới công bố.
Nhưng con số 8,5 tỷ USD trên vẫn có thể là lạc quan, bởi phản ánh chung của báo chí và giới chuyên gia tài chính là trong những năm gần đây, kiều hối đổ về Việt Nam có khuynh hướng ngày càng tập trung về Sài Gòn - nơi có hàng triệu gia đình có thân nhân ở nước ngoài, chủ yếu từ thị trường Hoa Kỳ (chiếm 55-60% tổng kiều hối từ các nước gửi về Việt Nam), trong khi giảm mạnh ở tỉnh thành khác. Nếu tỷ lệ kiều hối về Sài Gòn vượt trên 60% nhưng vẫn giữ giá trị tuyệt đối là khoảng 5,2 tỷ USD thì dĩ nhiên con số tổng kiều hối quốc gia sẽ phải giảm dưới mức 8,5 tỷ USD.
Trong khi đó, khi trả lời phỏng vấn của báo Đầu tư Chứng khoán, ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TP. HCM cho biết, chỉ còn vài ngày nữa là hết năm 2018, con số 5 tỷ USD kiều hối chảy về Thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 50% tổng lượng kiều hối gửi về Việt Nam. Điều đó có nghĩa là trong phương án lạc quan nhất của năm 2018 theo chính xác nận của các quan chức Ngân hàng Nhà nước, tổng kiều hối về Việt Nam chỉ vào khoảng 10 tỷ USD. Vậy số chênh 5,9 tỷ USD (15,9 tỷ - 10 tỷ) theo công bố của Ngân hàng thế giới là từ đâu ra ? Số ảo ? Hay còn có động cơ chính trị gì ẩn chưa bên trong đó ?
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 25/12/2018
Phần 1
Dường như có một mối quan hệ đáng ngờ, rất đáng ngờ giữa chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với Bộ Công thương và EVN.
Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN Dương Quang Thành và Tổng giám đốc EVN Đặng Hoàng An trong một lần tiếp đón Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và đoàn công tác của Chính phủ.
Tháng Mười Hai năm 2018, Bộ Công Thương đưa ra 4 kịch bản về giá điện năm 2019. Quan chức công bố là Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải - nhân vật và từ lâu được dư luận xem là nằm trong nhóm lợi ích điện lực và cổ súy nhiệt tình một cách đầy nghi ngờ cho các chiến dịch EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) tăng giá điện bất chấp quẫn bách dân sinh.
Cứ theo cái cách mà Đỗ Thắng Hải nêu, khả năng tăng giá điện vào năm 2019 là hiển nhiên, là ‘không cho chúng nó thoát’. Quyền duy nhất của ‘chúng nó’ - tức dân chúng nói chung và nhất là cái phần thảm thương nhất của xã hội - chỉ còn là lựa chọn một trong 4 phương án mà Bộ Công thương ‘định hướng’. Nhưng đó cũng chỉ là sự lựa chọn mang tính ‘tham khảo’, bởi không phải dân mà chính Bộ Công thương và tập đoàn lợi ích điện lực mới là những kẻ quyết định. Một cách khôn ngoan và lọc lõi, những kẻ này đã làm khá nhuần nhuyễn một thủ đoạn tâm lý: sau khi vống lên nhiều phương án tăng giá điện, nhóm này ban ơn cho dân chúng bằng cách chọn ‘phương án tăng giá thấp nhất’ như cái cách ‘tăng giá phải như vặt lông vịt, vặt từ từ để vịt khỏi kêu toáng lên’.
Tròn một năm sau cú đánh úp giá điện vào một đêm tối trời cuối năm 2017, một lần nữa EVN và Bộ Công thương sẽ tái hiện hành vi đen tối đó.
Quan hệ ‘ăn đủ’ EVN - Bộ Công thương - Thủ tướng Phúc ?
Ngày 1/12/2017, chế độ "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" đã bất chấp tiếng kêu oán thán của nhân dân và khuyến nghị của giới trí thức khi giáng thêm một đòn xây xẩm mặt mặt người nghèo và doanh nghiệp : giá điện tăng thêm 6,08% thành 1.720,65 đồng/1kw chưa kể thuế VAT.
Khi đó, Chính phủ ‘liêm chính, kiến tạo và hành động’ của Thủ tướng Phúc và Bộ Công thương - cơ quan kế thừa kẻ tội đồ tham nhũng, ‘cõng rắn cắn gà nhà’ và ‘tăng đủ thứ’ là cựu bộ trưởng Vũ Huy Hoàng - đã có một "kịch bản hoàn hảo", rất lạnh lùng và tàn nhẫn, khiến dân tình và báo chí không kịp trở tay.
Trước đó vào cuối tháng Sáu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký phê duyệt đề án tái cơ cấu EVN, nhưng đã không có bất cứ một cải cách nào để xóa bỏ vai trò độc quyền tàn hại dân sinh của tập đoàn mà báo chí quốc tế đặt cho biệt hiệu "cậu ấm hư hỏng" này.
Trong đề án trên, EVN vẫn nắm 100% vốn ở các khâu truyền tải, phân phối mà không hề có một chút hơi hướng nào về điều mà giới quan chức hay phủ dụ là "hướng đến thị trường điện cạnh tranh".
Cũng trong đề án trên, nhiều doanh nghiệp tham gia khâu phát điện nhưng chỉ có một đầu mối EVN mua điện và bán điện. Mặt khác, theo quyết định của chính phủ thì nhà nước nắm 100% vốn ở công ty này, như vậy tư nhân không hề có cơ hội để tham gia…
Dung dưỡng độc quyền đã "nối giáo" cho chuyên chế tăng giá điện.
Ngay sau đề án tái cơ cấu EVN được Thủ tướng Phúc ký phê duyệt, nỗi lo sợ thường trực của nhân dân đã biến thành sự thật khi cũng chính thủ tướng này lại ký tiếp quyết định số 24/2017, thay thế quyết định số 69/2013 về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, áp dụng cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện lực và sử dụng điện, có hiệu lực từ ngày 15 Tháng Tám, 2017.
Quyết định trên cho phép EVN được tự quyết tăng giá điện hai lần mỗi năm với mức từ 3% đến dưới 5%, Bộ Công thương được quyết tăng giá điện từ 5% đến 10%.
Lẽ đương nhiên, nhóm lợi ích điện lực chỉ cần có thế !
Cùng với Bộ Công Thương là cơ quan chủ quản của "cá mập" EVN, cho đến lúc đó sự nghiệp "lobby tăng giá" của EVN đã thành công bước đầu.
Vì đối với nhóm lợi ích EVN và Bộ Công thương mà từ rất lâu rồi người ta vẫn ví là "nhóm cá mập" hay "bạch tuộc," chỉ cần được chính phủ bật đèn xanh tăng giá điện và tăng vài chục phần trăm mỗi năm mà chưa cần đến việc Bộ Công thương xin ý kiến chính phủ cho trường hợp tăng giá điện trên 10%, đã đã đủ để "bù giá vào dân".
Theo đó và trong trường hợp "nhân đạo" nhất, EVN sẽ được quyền tự quyết định tăng giá điện dưới 5% và được tăng hai lần một năm, nghĩa là giá điện ngay trong năm 2017 sẽ tăng khoảng gần 10%.
Còn kém "nhân đạo" hơn, không phải EVN mà chính là Bộ Công thương sẽ "trảm" dân. Nối tiếp truyền thống "đi đêm" và "bảo kê" từ thời Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, đương kim Bộ trưởng Trần Tuấn Anh của bộ này - nhân vật suýt thành công với người anh em cọc chèo Lê Phước Vũ trong dự án Thép Hoa Sen-Cà Ná ở Ninh Thuận, sẽ có hai lần tăng giá điện trong năm với biên độ gần 10%/lần, để "kết quả dân chúng" bằng tỷ lệ tăng cả năm lên đến gần 20% !
Dường như có một mối quan hệ đáng ngờ, rất đáng ngờ giữa chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với Bộ Công thương và EVN.
**************
Phần 2
Núi lỗ ba chục ngàn tỷ đồng từ 10 năm trước vẫn kéo dài hậu quả cho đến tận ngày hôm nay, nhưng cái di họa tàn bạo và kinh khủng nhất là EVN đã bắt cả dân tộc phải chịu chung núi lỗ mà nó gây ra.
EVN đang nằm trong danh sách đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2015 của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
Người dân than trời !
"Giá điện bị ‘đánh úp’ : Người dân than trời !" - một ít tờ báo nhà nước lại rền rĩ, trong lúc hai tầng lớp thu nhập trung bình và người nghèo Việt Nam còn nặng gánh lo toan về chuyện vừa tiện tặn vừa khốn khó hơn cả những năm trước.
Chị Lan Hồng (nhà ở quận 12, Sài Gòn) cho biết khi giá điện tăng 6,08%, tính ra gia đình chị mỗi tháng phải trả thêm khoảng 200.000-300.000 đồng. "Hiện tại người dân đã vất vả vì viện phí, học phí… tăng, nay lại thêm tiền điện tăng. Các mặt hàng tiêu dùng tới đây cũng sẽ "té nước theo mưa" tăng theo, trong khi thu nhập của những thành viên trong gia đình không tăng" – chị Hồng thở dài.
Từ nhiều ngày trước khi thông tin tăng giá điện mới được công bố, các chủ trọ ở Sài Gòn đã sớm thông báo cho người thuê phòng về việc sẽ tăng nâng giá điện cao hơn bình thường. Bà Nguyễn Thị Dung (chủ khu trọ hơn 20 phòng ở quận Thủ Đức, Sài Gòn) cho biết, khu trọ của bà đa số là sinh viên và công nhân có hoàn cảnh khó khăn.
Với mức giá hiện hành vào năm 2017, mỗi tháng đến kỳ đóng tiền điện, người thuê trọ đã than lên than xuống, còn khi nhà nước tăng giá thì buộc bà cũng phải tăng theo. "Thu nhập của công nhân, sinh viên chẳng được bao nhiêu mà điện, nước, chi phí sinh hoạt cứ tăng lên như vậy thì làm sao họ chịu nổi ?", bà Dung nói.
Cũng như bà Dung, bà Lê Thị Hạnh (chủ hai dãy phòng trọ tại Khu đô thị Đại học Quốc gia) cho hay, bình thường giá điện áp dụng cho các phòng trọ là 3.500 đồng/kwh, nay nhà nước tăng giá thì bà cũng tăng thêm khoảng 1.000 đồng/kwh. Dù mức tăng không cao lắm nhưng khi tính chung cả khu trọ cộng lại, kèm theo thuế VAT nữa thì sinh viên ở trọ cũng phải tăng thêm một khoản kha khá để bù vào tiền điện.
Sinh viên Nguyễn Thị Mỹ Linh (ở trọ tại quận Thủ Đức, Sài Gòn) cho biết, với giá điện như hiện nay đã là gánh nặng rồi, giờ tăng thêm sẽ khiến nhiều sinh viên phải chắt chiu hơn trong các khoản sinh hoạt để trả tiền điện. "Lâu nay bọn em đóng 3.000 đồng/kwh, cách đây mấy ngày, chủ trọ qua thông báo sẽ tăng lên 4.500 đồng/kwh do giá điện nhà nước tăng. Bình thường mỗi tháng phải trả 300.000 đồng tiền điện là bọn em đã thấy khó rồi, giờ tăng lên nhiều như vậy, bọn em chưa biết xoay xở thế nào", Linh lo lắng.
Tương tự, chị Trần Thị Lan Anh (công nhân thuê nhà tại quận Bình Tân) rất lo lắng khi giá điện tăng thêm hơn 6% khiến mỗi tháng gia đình chị chi phí thêm khoảng 500.000 đồng. Chị cũng lo ngại giá điện tăng thì giá cả hàng hóa khác cũng sẽ tăng theo. "Vợ chồng tôi tổng lương thu nhập, tính cả tăng ca chỉ khoảng 15 triệu đồng/tháng. Chi phí đó vừa đủ trả tiền thuê nhà trọ, nuôi hai đứa con đi học, còn dư vài trăm để dành phòng khi đau ốm. Giờ điện tăng, gas tăng, thực phẩm tăng nữa… tôi chưa biết phải xoay thế nào khi năm hết, tết đến", chị Lan Anh nói.
Điện tăng giá không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của công nhân, người dân ở thành thị mà người dân sống bằng nghề nông cũng thấp thỏm lo âu khi chi phí cho sản xuất nông nghiệp tăng thêm. "Cộng tiền điện, phân bón, công chăm sóc thì mỗi sào rau làm ra lời lãi chẳng được bao nhiêu. Giờ điện lại tăng giá thì mỗi tháng chúng tôi phải thêm vài triệu đồng cho việc tưới tiêu, thắp đèn chiếu sáng, nông dân thêm khó khăn", ông Hoàng Văn Nam (54 tuổi, nông dân trồng rau ở quận 12, Sài Gòn) nói.
Ở góc độ sản xuất, tiền điện chiếm phần không nhỏ trong tổng giá thành sản xuất của một doanh nghiệp. Vì vậy, khi giá điện tăng, tức là giá thành sản phẩm cũng tăng. Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh bị tác động mạnh từ việc tăng giá điện, đặc biệt là các lĩnh vực sử dụng lượng điện lớn như thép, xi măng, dệt may, nhựa, thủy sản.
Trong khi đó, trong bối cảnh không thể tăng giá bán sản phẩm thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ ngày càng sụt giảm. Còn nếu tăng giá bán sản phẩm thì gánh nặng lúc ấy sẽ đổ lên người tiêu dùng…
Cặp song sinh tàn phá đất nước
Ở Việt Nam, EVN là một trong những dẫn chứng sống động và dối trá nhất về việc chính thể độc đảng đã mượn dĩ vãng kinh tế chỉ huy để trục lợi như thế nào. Trong điều kiện nền chính trị độc đảng, thủ đoạn lợi dụng càng trở nên có ý nghĩa hơn. Độc quyền và đặc lợi cũng vì thế đồng nghĩa với tội đồ, đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh.
Năm 2011, vào lúc nền kinh tế Việt Nam dợm chân vào suy thoái, sự đổ bể của hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã kéo theo một phát minh không tiền khoáng hậu kể từ thời mở cửa : những doanh nghiệp nhà nước đặc trưng bởi chủ thuyết "giá chỉ có tăng chứ không giảm" như EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) và Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) đã tạo thành cặp song sinh có chung hậu môn. Hàng loạt chiến dịch đầu tư trái ngành của các tập đoàn này vào chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm rốt cuộc đã tích đọng gánh nợ đến trên 40.000 tỷ đồng.
Trong suốt nhiều năm qua, toàn bộ số nợ nần đó đã được EVN và Petrolimex tuồn qua tuyến đại tràng để đổ lên đầu người dân đóng thuế.
Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch Hội đồng quản trị Petrolimex Bùi Ngọc Bảo và Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN Dương Quang Thành ký kết thỏa thuận hợp tác ngày 19/04/2018
Nhưng cũng trong suốt nhiều năm qua, bất chấp những đợt tăng giá điện vô tội vạ của EVN và Petrolimex, đã không có bất cứ cuộc kiểm tra nào được làm tới nơi tới chốn.
Như một quy luật, giá điện và giá xăng dầu tìm mọi cách tăng vào thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội. Còn trong thời gian phiên họp Quốc hội, những nhà làm giá lập tức áp dụng chính sách giảm giá, nhưng chỉ là giảm cho có, để thường sau khi Quốc hội "thành công tốt đẹp", giá lại ào ào tăng lên.
Nhưng những cú tăng giá ‘nhân đạo’ vào những năm trước đã không đủ để bù lỗ cho EVN. Đến quý 1 năm 2015, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải lần đầu tiên phải thừa nhận thế cùng quẫn của "đứa con hoang đàng" của mình : Nếu không tăng và thậm chí không tăng mạnh giá điện, EVN sẽ phá sản !
Nếu EVN phá sản, đó sẽ là thất bại ghê gớm đối với cơ chế độc quyền nhà nước "nói mãi vẫn không chuyển" và "ăn của dân không chừa thứ gì". Nhưng trên tất cả, đó sẽ một sự báo oán lớp dân chúng cùng các đời con cháu của họ không biết làm gì nên tội.
Nếu không tăng giá "bù lỗ vào dân", phá sản là chắc chắn. Bởi vào những năm 2007-2009, EVN đã trở thành tác nhân gây ra khoản lỗ khủng khiếp lên đến 30.000 tỷ đồng khi đầu tư trái ngành vào bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm. Cho đến năm 2018, hậu quả đầu tư lỗ lã và chôn vốn ấy vẫn chưa được EVN xử lý xong.
Cuối năm 2017, một khoản nợ khổng lồ lên đến 9,3 tỷ USD của EVN được công bố. Chi tiết cần đặc tả không kém là vốn vay của EVN phần lớn là nợ vay được chính phủ bảo lãnh.
Nhưng 9,3 tỷ USD chưa phải hết. Kết luận của hãng kiểm toán Delotte Việt Nam, đơn vị kiểm toán cho EVN đã nhấn mạnh : Tổng nợ phải trả của tập đoàn này đã lên đến xấp xỉ 487 ngàn tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2015.
Hiện thời, EVN nằm trong nhóm quán quân về "chúa chổm" trong số các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Núi lỗ ba chục ngàn tỷ đồng từ 10 năm trước vẫn kéo dài hậu quả cho đến tận ngày hôm nay, nhưng cái di họa tàn bạo và kinh khủng nhất là EVN đã bắt cả dân tộc phải chịu chung núi lỗ mà nó gây ra.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 17/12/2018