Ngày 04/3/2020 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì phiên họp của Ban chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì cuộc họp về cải cách tiền lương - Ảnh minh họa
Trong phiên họp này còn nhiều nội dung và cách làm chưa thống nhất, bởi vậy Thủ tướng đã lưu ý, rằng "Đã cải cách thì phải ra cải cách, chứ không phải chỉ điều chỉnh đôi chút, không có nhiều ý nghĩa", và ông đề nghị tổ chức các hội nghị, hội thảo lấy ý kiến.
‘Từ trên xuống’
Việt Nam đã từng có 3 lần cải cách tiền lương trước đây, vào các năm 1985, 1993 và 2004, nếu không kể lần cải cách năm 1960 khi đất nước chưa thống nhất. Nay, lần cải cách lần 5 đang khởi động từ năm 2018 và dự kiến sẽ thực thi từ năm 2021.
Tôi gọi những lần cải cách tiền lương như vậy là cải cách ‘từ trên xuống’.
Cho dễ nhớ, tôi đặt tên cho lần cải cách này là ‘cải cách tiền lương 2020’. Nó xuất phát từ Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 và Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 về chương trình hành động… Nghĩa là chính quyền trung ương, Đảng cộng sản và Chính phủ, ban hành chính sách và chỉ đạo thực thi các biện pháp cải cách tiền lương.
Tùy thuộc vào bối cảnh và Đảng đề ra sự cần thiết, mục tiêu, dự kiến kết quả và các giải pháp thực hiện. Quan sát các lần cải cách đã qua cho thấy cải cách tiền lương phụ thuộc vào cải cách thể chế nói chung và ‘dư địa cải cách’ ngày càng hẹp. Nghĩa là, cải cách tiền lương ‘từ trên xuống’ trong quá trình chuyển đổi sang thị trường sẽ ngày càng ‘khó hơn’, hiệu quả thấp và tác động không mong muốn hay ‘sai sót’ tăng lên, bởi vậy ý nghĩa giảm đi.
Năm 1985 một đề án cải cách kinh tế sâu rộng, khái quát với tên gọi ‘Giá – Lương – Tiền’, nhà nước nới lỏng quản lý giá cả hàng hoá, đổi tiền và cải cách tiền lương, được triển khai và thực thi trong dịp Đại hội 6, tổ chức vào đầu năm 1986 . Đây được coi là bước khởi đầu của chủ trương ‘Đổi mới’ của Đảng cộng sản và những nỗ lực xóa bỏ kinh tế bao cấp, cứu chế độ khỏi sụp đổ.
Cải cách tiền lương năm 1993 đánh dấu sự thay đổi tư duy mạnh hơn để thúc đẩy nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường. Những câu hỏi ‘hóc búa’, ‘nhạy cảm về ý thức hệ’ như sức lao động liệu có là hàng hoá, bóc lột sức lao động đã được thảo luận. Mặc dù không thể có kết luận rõ ràng, nhưng nhà nước đã không còn quản lý ‘độc quyền’ nữa, mà tiền lương đã được chia theo các khu vực, trong đó lương ở khu vực công được ngân sách chi trả, bởi vậy phải cân đối nguồn lực, còn lương ở khu vực doanh nghiệp bắt đầu tính toán trên cơ sở thị trường.
Năm 2004 lại đặt vấn đề cải cách tiền lương, chế độ, thang bảng lương được thiết kế, nhưng không thực sự đạt được mục đích. Có hai nguyên nhân chủ yếu có liên quan với nhau, đó là nguồn chi trả từ ngân sách hạn hẹp do quy mô kinh tế nhỏ bé và guồng máy của hệ thống chính trị, hành chính cồng kềnh. Số người hưởng lương quá lớn từ ngân sách. Mặc dù việc tinh giảm biên chế được nêu lên, thậm chí đặt chỉ tiêu giảm 10% trong nhiệm kỳ, nhưng đã không thể thực hiện.
Lần ‘cải cách tiền lương 2020’ có mục tiêu cải cách rất ‘tham vọng’ ; tầm nhìn đến năm 2030 ; lộ trình soạn thảo ‘khẩn trương’, năm 2019 xây dựng các phương án bảng lương theo vị trí việc làm, năm 2020 thông qua và đến năm 2021 triển khai thực hiện ; đặc trưng chủ yếu là sự tương quan bằng số tuyệt đối giữa mức tiền lương của công chức, viên chức trong khu vực công và mức lương của lao động trong khu vực doanh nghiệp…
Theo tôi quan sát cách tiếp cận, bối cảnh, điều kiện cải cách và những công việc chuẩn bị thì dự báo về sự lặp lại ‘vết xe đổ’ của lần cải cách 2004 có khả năng xảy ra, bởi vậy chính phủ không chỉ ‘quyết liệt’ để có thành tích, mà cần thay đổi hay điều chỉnh phù hợp.
‘Trả lại cho thị trường’
Ở Việt Nam khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thị trường, thì tiền lương dần được hiểu đầy đủ, đó là biểu hiện bằng tiền của giá cả hàng hóa sức lao động và được xác định bởi quy luật cung – cầu trên thị trường lao động, bởi vậy ngoài các chức năng như tái sản xuất sức lao động và là đòn bẩy kinh tế… thì các chức năng khác, đặc biệt công cụ quản lý nhà nước cần được luật hóa cụ thể, trong Bộ Luật lao động và dựa trên nền tảng của kinh tế thị trường. Nghĩa là trả lại cho thị trường lao động cái chức năng định giá sức lao động vốn có của nó.
Thị trường lao động vốn có chức năng xác định tiền lương theo nguyên lý ‘bàn tay vô hình’ mà nhà kinh tế người Scotland đã tìm ra từ năm 1776. Tiếc thay, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều đã cản trở việc hình thành và phát triển các nguyên tắc của thị trường lao động.
Trong xã hội thị trường phát triển bình thường sức khỏe của nền kinh tế có thể được đo bằng nhiều tiêu chí. Thông thường là tỷ lệ thất nghiệp, số việc làm được tạo ra hàng tháng hay GDP – tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế trong một năm. Mặc dù tiền lương là chỉ tiêu quan trọng, nhưng nó thường không được sử dụng.
Người ta cũng thấu hiểu cơ chế tiền lương tăng lên khi nào, khi người sử dụng lao động có nhiều lợi nhuận hơn nên họ có khả năng tài chính để tăng lương cho công nhân, khi thị trường lao động trở nên cạnh tranh hơn, nghĩa là số lượng cơ hội việc làm vượt quá số lượng người tìm kiếm việc làm, và thông thường, tiền lương tăng lên cùng với kỹ năng và kinh nghiệm.
Tuy nhiên, các chính khách ở các quốc gia đó không lãng phí công sức và tiền bạc để cải cách tiền lương như chúng ta ở Việt Nam. Họ tìm cách thông qua thị trường để thúc đẩy nền kinh tế và chắc chắn một điều : Khi nền kinh tế đang hoạt động tốt hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp, tiền lương sẽ tăng lên.
Ở Việt Nam, một quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ do đảng cộng sản lãnh đạo, thì ý thức hệ xã hội chủ nghĩa đề cao sự công bằng xã hội, lý tưởng của đảng thường là một trong những động cơ cải cách tiền lương.
Công bằng xã hội, về nguyên lý, dường như đó là một giá trị cao quý, lý tưởng mà loài người cần hướng đến, dễ thu hút đông dân chúng, và đảng cộng sản ‘quả quyết’ rằng sứ mệnh của họ là phải thúc đẩy một cách sâu rộng. Tuy nhiên, trong thực tế, công bằng xã hội có thể là bất cứ điều gì mà đảng cộng sản cầm quyền muốn thế, thấy có lợi cho việc duy trì quyền lực, cho nên họ ban hành và thực thi các chính sách ‘từ trên xuống’.
Cải cách tiền lương là một kiểu chính sách như vậy. Lần này, với lập luận rằng hệ thống chế độ tiền lương hiện hành đã lạc hậu, đã mất đi các chức năng của nó, và thậm chí, đã không ‘che đậy’ ‘cải cách’ sao cho tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở khu vực công tăng cao dần so với khu vực doanh nghiệp.
Thiết nghĩ, các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia… nên chăng trình bày ’thẳng thắn’ với các lãnh đạo đảng và chính quyền rằng tiền lương của họ trong bộ máy công quyền là tiền thuế của dân, và bộ máy này vốn đã có nhiều đặc quyền, đặc lợi, thế mà lại không chịu trách nhiệm và giải trình trước dân, kể cả khi gây ‘bất ổn kinh tế vĩ mô và để lại những hậu quả nặng nề. Hơn thế, ‘một bộ phận không nhỏ’ cán bộ, đảng viên lại suy thoái, biến chất, tham nhũng…
Các viên chức trong khoảng 6.000 đơn vị sự nghiệp công lập cũng cần tự ‘vấn mình’ về ‘lương tâm, đạo đức’ khi họ được ‘ưu ái’ về cơ sở vật chất, được cấp phát nhiều khoản kinh phí và nhận tiền lương ngân sách nhà nước, do mồ hôi và sức lực của những người lao động chân chính đóng thuế, chỉ để ‘hoàn thành nhiệm vụ chính trị’ được đảng, nhà nước giao…
Nếu không nâng cao được hiệu lực, hiệu quả của bộ máy công quyền và tinh giản biên chế, nếu các đơn vị sự nghiệp công không được cải tổ để có thể tự nuôi sống bản thân thì việc tăng lương cho khu vực công nghĩa là chính phủ lấy tiền thuế của dân đưa nó cho họ không theo nguyên tắc thị trường.
Theo tôi, các nhà kỹ trị, các nhà chuyên môn Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực để thiết kế các chế độ, thang bảng lương theo kiểu truyền thống hay học tập kinh nghiệm của một số quốc gia. Nhưng cải cách tiền lương trong bối cảnh hiện nay, cải cách thể chế quá chậm chạp khi một hệ thống chính trị, bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu năng và nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn thuộc khu vực công, trong đó hàng chục triệu cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước…, thì kết quả sẽ không khả quan như thế nào của lần ‘Cải cách 2020’ có lẽ được dự báo trước.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 18/03/2020
Tác giả, Tiến sĩ Phạm Quý Thọ là nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học việc Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tổ chức đánh dấu 90 năm ngày thành lập.
Hình minh họa. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đánh dấu 90 năm ngày thành lập.
Nhìn lại, lịch sử lãnh đạo của Đảng có thể khái quát thành hai thời kỳ khác biệt về tính chất : giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Một quá khứ chống xâm lăng hào hùng và một hiện tại ‘đổi mới’ nhiều trăn trở khi đất nước còn nghèo và tụt hậu.
Sau hơn 30 năm ‘đổi mới’, thực tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ đang đặt ra nhiệm vụ cải cách thể chế chính trị. Một trong những vấn đề cần ‘đột phá’ là cụ thể hoá mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ được quy định trong ‘Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ’ vốn đã ra đời trước đổi mới, nay đã lạc hậu.
‘Tự diễn biến, tự chuyển hoá’ được Đảng nhận định đang đe doạ sự tồn vong của chế độ. Những gì diễn ra trên chính trường, về hiện tượng, ủng hộ suy luận rằng quá trình này có nguy cơ cao hơn từ phía các quan chức chính phủ. Liệu đây có là lý do Đảng tập trung quyền lực.
Tuy nhiên, bản chất của sự việc không phải vậy.
Phải làm rõ bản chất quá trình ‘tự diễn biến, tự chuyển hoá’ của lãnh đạo đảng viên mới hy vọng cải cách thể chế đúng hướng.
Trong những năm đầu tiến hành chính sách ‘đổi mới’, Đảng không trực tiếp điều hành kinh tế là một trong những giải pháp cải cách cần thiết.
Chế độ tập trung quan liêu bao cấp lúc đó đẩy nền kinh tế trên bờ vực sụp đổ, khiến Đảng, một mặt, buộc phải xoá bỏ chế độ phân phối theo hiện vật, tem phiếu…
Mặt khác, dần bỏ ràng buộc về chính sách và bộ máy để giải phóng các nguồn lực, đặc biệt là đất đai và lao động nông nghiệp…
Khi Đảng không trực tiếp điều hành thì các ban của Đảng song trùng với bộ máy điều hành như Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp… cũng được giải thể…
Một loạt các cải cách không chỉ vực dậy nền kinh tế, mà còn giúp tăng trưởng GDP cao trên 7% trong suốt những năm 1990.
Khi Đảng không trực tiếp điều hành thì vai trò của Chính phủ trở nên mạnh mẽ hơn.
Trong giai đoạn này cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt được nổi bật là người lãnh đạo quyết đoán với những giải pháp táo bạo, thực tế và có tầm nhìn.
Hình minh họa. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong một lần phát biểu về báo cáo kinh tế trước Quốc hội ở Hà Nội hôm 15/10/1996 AFP
Đường dây 500 kw Bắc-Nam là một dấu ấn điều hành.
Người kế nhiệm cố Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp tục chính sách đổi mới vẫn duy trì được đà tăng trưởng. Ông được cho là vị lãnh đạo ôn hòa, biết lắng nghe ý kiến tham mưu.
Tuy nhiên, Đảng cần một tính cách mạnh mẽ của người đứng đầu Chính phủ. Đây là một trong những lý do khiến ông nghỉ hưu trước một năm khi nhiệm kỳ kết thúc.
Sai lầm chính sách là do nguyên tắc lãnh đạo tập thể của Đảng, nên không thể kỷ luật cá nhân.
Điều đó xảy ra đối với nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người điều hành chính phủ hai nhiệm kỳ, Đại hội 10 và 11, từ năm 2006 đến đầu năm 2016.
Ông được quy hoạch từ khá trẻ, vào Bộ Chính trị năm 49 tuổi. Với tính cách tự tin, mạnh mẽ và được cho là người kế nhiệm cần thiết.
Các nhà quan sát đã từng bình luận rằng ông luôn thể hiện ‘quyết liệt’ trong phát biểu cũng như hành động, tạo ấn tượng về người lãnh đạo đổi mới đối trọng với bảo thủ.
Trong nhiệm kỳ của ông chính sách tăng trưởng nóng vội dựa vào các tập đoàn kinh tế nhà nước là một sai lầm, được che đậy bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều, đi ngược lại nguyên tắc thị trường.
Những hậu quả để lại là rất nghiêm trọng, không chỉ về kinh tế, tăng trưởng GDP giảm sút, mà còn là sự bất ổn thể chế.
Hình minh họa. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại lễ khai mạc Đại hội Đảng 12 ở Hà Nội hôm 21/1/2016 AFP
Như đã biết, tại Hội nghị Trung ương 6 Khoá 11 năm 2014, Bộ chính trị, Ban bí thư đã nhận khuyết điểm ‘trước Ban chấp hành trung ương và nhân dân’ về chính sách sai lầm, quản lý yếu kém. ‘Đồng chí X’, cách gọi tránh nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, được cho là trực tiếp điều hành phải chịu trách nhiệm. Bộ chính trị nhất trí và trình ra Ban chấp hành trung ương, nhưng đã không nhận được đồng thuận.
Hơn thế, ông Dũng không những không bị kỷ luật, mà còn tiếp tục được ‘tín nhiệm cao’ cho đến Đại hội 12 của Đảng.
David Brown, nhà bình luận chính trị quốc tế về vấn đề Việt Nam đã cho rằng "ông Dũng không phải là người nguy hiểm nhất vì ông đã xây dựng quyền lực của ông dựa trên chủ nghĩa tư bản thân hữu, nhưng vì ông thiếu sự tôn trọng các tổ chức của đảng…".
Đây là một ‘rạn nứt’ thể chế, cụ thể là quan hệ giữa đảng lãnh đạo và chính phủ điều hành.
‘Biến cố’ trên là nghiêm trọng. Đảng nhận định nguyên nhân là ‘tự diễn biến, tự chuyển hoá’ của cán bộ đảng. Hơn thế, có nguy cơ cao từ phía chính phủ.
Trong nhiệm kỳ Đại hội 12, ‘Chính phủ kiến tạo’ là mô hình điều hành khác trước. Dựa trên chủ nghĩa thực dụng các chính sách kinh tế được thực thi. Khuyến khích khởi nghiệp và tự do kinh doanh, tạo sức ép lên bộ máy hành chính bộ ngành và địa phương, gỡ bỏ rào cản pháp luật… là những đặc điểm nổi bật.
Trong bối cảnh trong nước quốc tế phức tạp, chứa đựng rủi ro mà nền kinh tế ba năm liền 2017-2019 đạt kết quả tăng GDP cao, trên 7%, là một thực tế ủng hộ ‘sáng kiến’ Chính phủ kiến tạo.
Lo ngại rủi ro ‘tự diễn biến’, Đảng dành sự quan tâm đặc biệt đến Chính phủ. Liên tục trong ba năm của nhiệm kỳ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tham dự và chỉ đạo các Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với lãnh đạo các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Hình minh họa. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc AFP
Trong đó, cuối năm 2018, ông đã phát biểu rằng, tăng trưởng "… là thử thách ! … Nếu sang năm GDP tụt xuống là các đồng chí phải chịu trách nhiệm, chí ít phải bằng, còn không thì phải hơn năm nay. Nếu không đạt, gần sát Đại hội có khi người ta không bầu nữa đâu…".
Sự lưy ý về trách nhiệm người đứng đầu các cấp chính quyền cho thấy những lo ngại về rủi ro này.
‘Tự diễn biến, tự chuyển hoá’ chỉ là bề nổi của tảng băng trôi, còn phần chìm của nó, nguyên nhân thực sự của bất ổn thể chế cần được hiểu đó là cải cách hệ thống chính trị, vốn đã bị níu kéo bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều, đã không theo kịp thực tế chuyển đổi sang thị trường.
Chính phủ - cơ quan điều hành kinh tế, là một bộ phận hữu cơ do Đảng phân nhiệm, có ‘nguy cơ’ cao hơn về ‘tự diễn biến’ mà thôi. Các quan chức bộ máy chính quyền, được nắm giữ ưu thế so sánh so với cán bộ chuyên trách đảng, có đặc quyền trực tiếp phân bố các nguồn lực xã hội, tài sản công. Khi thiếu cơ chế giám sát quyền lực độc lập, hiệu quả, thì quyền lực bị tha hoá và sự chiếm đoạt diễn ra.
Như vậy, thực tế đây là lỗi hệ thống, trong đó ‘một bộ phận không nhỏ’ lãnh đạo đảng viên, đã ‘tự diễn biến’, số còn lại đang và sẽ vẫn có nguy cơ cao, nếu không có cải cách thể chế đột phá trong quá trình chuyển đổi sang thị trường.
Tình trạng tham nhũng đã trở nên nghiêm trọng trong xã hội ta hiện nay. Đặc trưng quan trọng, vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của tình hình này là sự lan rộng của ‘chủ nghĩa tư bản thân hữu’.
Đó là hệ thống trong đó các chủ doanh nghiệp, thực chất là nhà tư bản, thu đặc lợi nhờ các chính trị gia đặc quyền.
‘Chủ nghĩa tư bản thân hữu’ là đặc trưng của các chế độ độc đảng cộng sản như Trung Quốc, và cũng đang diễn ra trong một số quốc gia hậu Xô Viết, trong đó có cả chế độ độc tài trong thực tế, nhưng được cải trang dưới hình thức một nền dân chủ.
‘Nhân dân làm chủ’, một vế còn thiếu của cơ chế ‘Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý…’ cần phải là đột phá trong cải cách thể chế.
Chuyển đổi càng sâu rộng sang thị trường đòi hỏi một thể chế dân chủ, hơn thế phải là dân chủ thực chất.
Đảng tập trung quyền lực, như ‘công việc nội bộ’, để chống tham nhũng, như ‘ta đánh ta’. Nếu không dựa vào dân bằng cơ chế thích hợp, cụ thể và hiệu quả, thì quyền lực sẽ có nguy cơ lớn như Lord Acton đã cảnh báo.
Nguy cơ một chế độ chuyên chế có thể được nguỵ trang dưới vỏ bọc nào, vẫn đang hiện hữu. Và một mô hình phát triển như vậy nhiều khả năng kết thúc thất bại.
Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng về thể chế "Tại sao các quốc gia thất bại", đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam, của Daron Acemoglu và James Robinson có nhận định rằng, các xã hội có giới chóp bu độc quyền nắm giữ quyền và cơ hội tiếp cận của cải sẽ không thể tạo ra thịnh vượng lâu dài.
Phải chăng đó là lời tiên tri.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 05/02/2020
Giáo Sư Phạm Quý Thọ là nguyên Trưởng khoa Chính sách công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Việt Nam.
Sau Đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam, nỗ lực cải cách được đón nhận và đạt được kết quả khích lệ.
Cảnh sát, công an giữ trật tự trong một sự kiện quốc tế ở Hà Nội trong năm 2019
Tuy nhiên, chuyên chế có xu hướng mạnh lên và phức tạp, một mặt để củng cố quyền lực chống tham nhũng và 'tự diễn biến, tự chuyển hoá' trong bộ máy cầm quyền, mặt khác lạm dụng quyền lực trước lo ngại từ đòi hỏi dân quyền, dân chủ có thể lan rộng làm suy yếu chế độ.
Chế độ Đảng cộng sản toàn trị mang đặc tính chuyên chế là nhà nước được miễn trừ khỏi các quy định pháp luật với việc duy trì bộ máy an ninh đông đảo, rộng khắp để kiểm soát mọi mặt cuộc sống của người dân.
Lạm dụng quyền lực hiện nay đang tạo ra xu hướng đáng lo ngại trong công luận. Nó có thể làm tổn hại đến nỗ lực cải cách thể chế hiện nay.
Nỗ lực cải cách
Những sai lầm về chính sách và yếu kém về quản lý kinh tế xã hội trong thập niên trước là sức ép trực tiếp buộc Đảng cộng sản Việt Nam phải tiến hành cải cách thể chế. Hậu quả của các chính sách sai lầm là sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế và bất ổn thể chế. Hơn thế, sự bất ổn diễn ra nghiêm trọng trong bộ máy chính quyền.
Đảng nhận định đó là 'sự tự diễn biến, tự chuyển hoá' của lãnh đạo đảng viên. Nhiều cán bộ, trong đó có bộ phận lãnh đạo cao cấp của Đảng đã 'lợi dụng chức quyền', 'cố ý' vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật, tham nhũng lan rộng. Hơn thế, 'các nhóm lợi ích' được hình thành và phát triển đe dọa những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Sau Đại hội 12, đầu năm 2016, Đảng cộng sản đã và đang nỗ lực cải cách. Một mặt, đảng tăng cường củng cố tổ chức đảng, trừng trị tham quan, xoa dịu công luận nhằm giảm bớt ấn tượng xấu, tiêu cực về bộ máy lãnh đạo các cấp chính quyền. Mặt khác, đảng nới rộng quyền tự do kinh doanh, khuyến khích tư nhân khởi nghiệp, đầu tư, gỡ bỏ rào cản về luật pháp và hành chính, và tạo sức ép với bộ máy hành chính.
Sự khởi sắc kinh tế, nhất là tốc độ tăng trưởng cao trong ba năm gần đây trong bối cảnh trong nước và quốc tế bất định, phức tạp, có thể tạo 'không khí phấn khởi', nhưng không thể cải thiện nhiều về chất lượng nền kinh tế và niềm tin phát triển bền vững.
Hai khuynh hướng thay đổi nêu trên, từ khía cạnh chính sách công, chứa đựng mâu thuẫn. Kinh tế mở hơn hướng về phía thị trường trong khi quyền lực Đảng tập trung cao hơn với đặc trưng chuyên chế luôn hàm chứa rủi ro bạo lực bị lạm dụng và tha hoá.
Sự ngộ nhận có thể lớn dần, có thể trở thành nguy cơ lớn hơn khi câu hỏi cơ bản không có câu trả lời thoả đáng rằng Đảng cộng sản có thể lãnh đạo kinh tế thị trường với hai hệ tư tưởng có bản chất trái ngược nhau.
Một trong những khác biệt lớn giữa hai mô hình chế độ chính là cách thức và tình huống sử dụng quyền lực nhà nước.
Đảng tập trung quyền lực
Tập trung quyền lực để củng cố tổ chức và chống tham nhũng những nỗ lực song hành của Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây.
Dùng quyền lực của đảng, nhà nước để chống tham nhũng được coi như 'ta đánh ta', 'tự lấy đá ghè chân mình', 'đánh chuột không làm vỡ bình'… để giảm thiểu sự bất mãn từ dân chúng, mà không dựa vào dân bằng cơ chế dân chủ, khả thi là một hình thức biểu hiện của chuyên chế.
Sau Đại hội 12, một mặt, Đảng cộng sản đang 'chỉnh đốn' tổ chức nội bộ bằng cách tập trung cao quyền lực. Một mặt, đảng ban hành nhiều quy chế, quy định về đề cử, tuyển chọn, khen thưởng, kỷ luật, nêu gương… và luân chuyển, bố trí nhân sự trong hệ thống chính trị hiện hành cũng như quy hoạch lãnh đạo 'chiến lược' chuẩn bị cho Đại hội 13.
Các bị cáo trong vụ án MobiFone mua AVG bị cáo buộc gây thiệt hại hơn 6.590 tỉ đồng
Hơn thế, đảng mạnh tay 'trừng trị' quan chức tham nhũng. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hơn 90 cán bộ thuộc diện TƯ quản lý, trong đó có 21 ủy viên Trung ương đảng, nguyên ủy viên Trung ương đảng (trong đó có 2 ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang… đã bị thi hành kỷ luật Đảng và bị toà án kết tội.
Gần đây có một số vụ kỷ luật thu hút sự quan tâm của công chúng.
Ngày 8/1/2020 Ủy ban Kiểm tra Trung ương công bố Ban thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Ban cán sự đảng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2011 - 2016 và một số cá nhân vi phạm khuyết điểm đến mức phải xem xét kỷ luật, trong đó có cựu Bí thư, cựu Chủ tịch và các Phó chủ tịch ;
Ngày 9/1 Bộ Chính trị kỷ luật cảnh cáo Bí thư Thành ủy Hà Nội ;
Ngày 10/1 Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Bí thư thành phố Hà Nội bằng hình thức cảnh cáo do có những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng ;
Ngày 13/1 hai cựu chủ tịch Đà Nẵng Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến bị toà án tuyên phạt lần lượt 17 và 12 năm tù…
'Chống tham nhũng không vùng cấm' được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được nhận mạnh mới đây, khi trả lời Báo Quân đội nhân dân nhân Tết Nguyên đán - Xuân Canh Tý 2020 và đánh dấu 90 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Ông đã khẳng định quyết tâm và 'cam kết' của Đảng cộng sản 'tuyên chiến' với bộ máy lãnh đạo tha hóa, đồng thời thể hiện quyền lực tuyệt đối của đảng.
Danh sách các lãnh đạo và nguyên lãnh đạo cao cấp dự đoán có thể còn kéo dài trước Đại hội 13 của đảng.
Chuyên chế trước lo ngại
Chuyên chế trước lo ngại về những biểu hiện hoặc thách thức mà theo cách diễn giải của đảng cho rằng có thể làm suy yếu quyền lực của mình.
Chuyên chế gây nên sự sợ hãi. Không chỉ những kẻ tội phạm mới phải sống trong nỗi sợ hãi. Không chỉ các quan chức tha hóa, 'tự diễn biến, tự chuyển hóa' 'bị lộ' hoặc 'chưa' trong bộ máy cầm quyền, mà cả những biểu hiện gây ra lo ngại cho đảng từ phía xã hội, từ dân chúng cũng là đối tượng của chuyên chế.
'Tập kích Đồng Tâm' qua lời kể của Trịnh Bá Phương :
Ngoài ra, các học giả, các nhà bất đồng chính kiến, các blogger và các lãnh đạo doanh nghiệp cũng có thể phải chịu cảnh 'nghi ngờ' và lo sợ bị xét hỏi.
Tình trạng bộ máy hành chính trì trệ, 'trên nóng, dưới lạnh', 'giấu mình chờ thời' là một biểu hiện bề ngoài không ngạc nhiên khi nỗi sợ hãi treo lơ lửng trên đầu nhưng đảng lấy 'răn đe' làm chính.
Tuy nhiên, khi các biểu hiện từ phía xã hội khiến sự lo ngại lớn dần với quyền lực tuyệt đối thì đảng ra tay. Đơn cử hai biến cố dưới đây.
Ngày 21/ 11/2019 nhà báo chủ tờ Thời báo độc lập, tác giả của nhiều bài viết phê phán chính quyền và bảo vệ nhân quyền, đã bị khởi tố và bắt tạm giam về tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước…".
Rạng sáng ngày 9/1/2020 vụ 'đột kích' vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, thủ đô Hà Nội của hàng nghìn cảnh sát cơ động để giải quyết tranh chấp đất đai, đã gây ra thương vong, và hàng chục người bị bắt, và sau đó bị khởi tố với tội danh rất nặng…
Hành động trấn áp mang tính chuyên chế làm cho công luận 'bàng hoàng' và phản ứng lan rộng, mạnh mẽ, khiến chính quyền phải 'chống đỡ' lúng túng, bị động.
Hậu quả nặng nề và lâu dài
Chuyên chế tạo ra nỗi sợ hãi tức thì, nhưng hậu quả để lại có thể nặng nề và lâu dài. Từ các góc nhìn chính sách công làm tổn hại đến cải cách thể chế hiện nay.
Sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong kinh tế làm tổn hại cải cách hướng tới thị trường, giảm chất lượng tăng trưởng. Chuyên chế trong chính trị tạo ra sự chống đối ngầm, bộ máy hành chính trì trệ, quan chức tuân lệnh nhưng 'tâm không phục'. Nguy hại hơn, nếu chuyên chế trong các vấn đề dân sự, như các biến cố trên, có thể gây nên sự bất bình, mất niềm tin, thậm chí sự căm thù, đối đầu với chính quyền. Đây là căn nguyên bất ổn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ và xung đột xã hội.
'Biến cố Đồng Tâm', nhìn từ nỗ lực cải cách thể chế hướng tới kinh tế thị trường và dân chủ, đó là 'bước thụt lùi'.
Hình ảnh các vị đại biểu Quốc hội đến 'hiện trường', khi căng thẳng bùng phát năm 2017, gặp gỡ và lắng nghe từ cả hai phía người dân và chính quyền, đã từng cho thấy kỳ vọng về chính sách đối thoại, về cách giải quyết kiên trì và ôn hoà, theo luật pháp. 'Biến cố Đồng Tâm' đầu năm 2020 không chỉ dập tắt mọi tia hy vọng về sự thay đổi dân chủ. Lời kêu gọi Bộ Chính trị và Quốc hội 'vào cuộc' trở thành sự ngộ nhận đáng thương.
Việc gửi 'Đơn tố giác tội phạm' tới các cơ quan chức năng yêu cầu điều tra về cái chết của ông Lê Đình Kình thể hiện sự kiên trì đấu tranh của các nhà hoạt động dân sự vì sự thật và công lý.
Một số tổ chức quốc tế như Theo dõi Nhân quyền hay Ân xá Quốc tế lên tiếng về vi phạm nhân quyền, thậm chí của một số nghị sĩ của một số nước phát triển, như Hoa Kỳ hay Liên Hiệp Châu Âu lên tiếng về 'điều tra độc lập', nhưng để tạo ra sức ép ngăn việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA) tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác trong bối cảnh các nước này cũng đang đặt ưu tiên tăng trưởng kinh tế lên trên. Đúng vậy, hôm 21/1/2020 tại Brussels, Ủy ban Thương mại Quốc tế thuộc Nghị viện Châu Âu vẫn đã thông qua 2 hiệp định nêu trên, mở đầu cho việc phê chuẩn các thỏa thuận này.
Các biến cố nêu trên xảy ra vào thời điểm 'nhạy cảm' trong bối cảnh có những nỗ lực cải cách thể chế và chuẩn bị cho Đại hội 13, được cho là 'bất ngờ' đối với một số nhà phân tích tình hình chính trị Việt Nam. Đã xuất hiện giả định về 'thuyết âm mưu', rằng liệu có 'kẻ giấu mặt' ngăn cản quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cố tình gây ra biến cố để giải quyết xung đột quyền lực nội bộ.
Cải cách hướng tới thể chế dân chủ là quá trình khó khăn, lâu dài nhưng có thể là xu hướng văn minh của loài người. Chuyên chế không những không thể là công cụ để cải cách, mà còn là 'bước lùi' và để lại những hậu quả nặng nề và lâu dài.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 25/01/2020
Tác giả Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam, gửi cho BBC News tiếng Việt từ Hà Nội.
Việt Nam đang nỗ lực cải thiện hình ảnh quốc gia và chủ trương xây dựng 'chính phủ kiến tạo.' Nhưng nhiều sự kiện gần đây lại cho thấy nhiều điểm nghẽn trong quá trình thực hiện.
Sự phát triển của Việt Nam đang gặp những "điểm nghẽn thể chế"
Hình ảnh quốc gia, từ sự vận hành của thể chế đến phản ứng của chính phủ trong quan hệ quốc tế, vốn có ý nghĩa quan trọng để thu hút đầu tư nói riêng và quan hệ kinh tế với các nước chung.
Việt Nam đang nỗ lực thể hiện hình ảnh quốc gia theo hướng tích cực.
Hành động kịp thời trước sự kiện 'Hạ tín nhiệm quốc gia' của Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody's Investors Service vừa qua đối với Việt Nam và sự thay đổi cách điều hành của 'Chính phủ kiến tạo' đang tạo hình ảnh tích cực trước các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế và trong nước rất phức tạp hiện nay, cải cách thể chế cần có sự thay đổi bước ngoặt, tạo đột phá để phát triển.
Hành động kịp thời
Ngày 18/12, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody's đã hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam xuống Tiêu cực.
Trước đó, Moody's đã đưa hồ sơ tín dụng của Việt Nam vào diện theo dõi hạ bậc, nhưng không nhận được phúc đáp khi kết thúc thời hạn.
Tổ chức này nhận định, vẫn tiềm ẩn rủi ro chậm trả nghĩa vụ nợ gián tiếp của Chính phủ trong bối cảnh chưa có những giải pháp rõ ràng để cải thiện công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan, cũng như tăng cường tính minh bạch về quản lý nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Tiếp theo sự kiện trên, ngày 20/12 Moody's hạ triển vọng tín nhiệm với 18 ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam.
Phản ứng trước đánh giá của Moody's, Bộ Tài chính Việt Nam cho rằng, đó là quyết định 'không xác đáng' khi chỉ dựa trên sự việc riêng lẻ đối với nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ mà bỏ qua thành tựu toàn diện Việt Nam đã đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội…
Việc bị hạ triển vọng tín nhiệm không chỉ ảnh hưởng đến việc huy động vốn từ nước ngoài của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trong nước, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư và hình ảnh quốc gia của Việt Nam nói chung.
Nhận thức đây là sự bất cập về thể chế, Tổ công tác của Thủ tướng đã làm việc với các bộ : Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Công Thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về những nội dung liên quan đến trách nhiệm trong việc chậm thanh toán, trả nợ nước ngoài đối với một số dự án.
Được biết, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo ban hành các Quyết định cho phép ứng Quỹ tích lũy trả nợ để thanh toán…, nhưng do việc phối hợp không tốt giữa các bộ, ngành có liên quan nên dẫn đến hậu quả tiêu cực.
Ông Bộ trưởng, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng nhấn mạnh : "… đây là trách nhiệm rất lớn. Thủ tướng rất không hài lòng, yêu cầu kiểm điểm tập thể, cá nhân liên quan, làm rõ trách nhiệm để báo cáo Chính phủ và Thủ tướng".
Những vấn đề 'tắc nghẽn thể chế' biểu hiện trong nhiều khía cạnh và đã được chỉ ra như 'trên bảo dưới không nghe', 'trên nóng dưới lạnh', 'cục bộ địa phương, bộ ngành'… cản trở sự phát triển của đất nước.
Lần này là sự thiếu phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng khiến cho tín nhiệm quốc gia của Việt Nam bị hạ bậc.
Theo tôi, phản ứng như trên của Bộ Tài chính Việt Nam cũng là điều có thể hiểu khi khả năng tài chính quốc gia để trả nợ nằm trong tầm kiểm soát.
Nhưng liệu Moody's có 'ác cảm' với trường hợp Việt Nam ?
Câu trả lời là không.
Moody's là Tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín và các tiêu chuẩn đánh giá là minh bạch và áp dụng 'công bằng' đối với các nền kinh tế. Hơn thế, các nhà đầu tư, các đối tác kinh tế trên thế giới coi đây là chỉ báo quan trọng.
Chính phủ Việt Nam đã hành động kịp thời đối với một sự kiện ; tuy nhiên để tạo hình ảnh quốc gia tích cực, có trách nhiệm cần thay đổi quan điểm cũng như giải pháp cải cách thể chế nói chung, cũng như để thu hút đầu tư nói riêng.
Chưa có sự khác biệt
Nhiều thập kỷ qua, đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá, có một thực tế cần được khẳng định rằng, nếu không kết nối với các dòng chảy kinh tế, đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ các nền kinh tế thị trường phát triển, thì không thể có tăng trưởng.
Việt Nam xác định tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong chính sách phát triển. Tuy nhiên, việc áp dụng kinh nghiệm của các nước thành công để xây dựng thể chế chưa tạo được sự khác biệt, để đáp ứng được yêu cầu 'kết nối' và 'hấp thụ' có hiệu quả, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, thậm chí bị tụt hậu.
Hiện tại, Việt Nam vẫn thuộc nhóm quốc gia đang phát triển dựa trên nguồn nguyên liệu thô, cung cấp nguồn lao động giá rẻ… và bị giới hạn trong những hoạt động có giá trị gia tăng thấp như ngành dệt, may, da giày, lắp ráp các sản phẩm điện hoặc điện tử… Trong khi đó, các thành tố có giá trị gia tăng cao hơn được sản xuất tại các mắt xích khác của chuỗi dây chuyền sản xuất xuyên quốc gia.
Việt Nam đã và đang học kinh nghiệm của các quốc gia có khả năng kết nối với thị trường toàn cầu và hấp thụ các dòng vốn đầu tư xuyên quốc gia vào các mục đích phát triển nội sinh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, thậm chí cả Malaysia và Thái Lan là các nước đã thành công ở mức độ thấp hơn.
Việt Nam cũng học tập và quan hệ kinh tế sâu rộng với Trung Quốc vì sự tương đồng về chế độ chính trị. Cả hai nước đã biết cách tránh cho nền kinh tế và nhà nước bị sụp đổ, bằng cách mở cửa và cải cách kinh tế theo hướng thị trường, mà vẫn duy trì sự lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản.
Tuy nhiên, Việt Nam còn chậm và bị động, thậm chí là mắc sai lầm, khi vận dụng những bài học kinh nghiệm.
Thay vì khuyến khích các tập đoàn tư nhân như Samsung, Huyndai… vươn ra thế giới trong điều kiện chuyển đổi thể chế dựa trên chủ nghĩa chuyên quyền duy lý như ở Hàn Quốc, Chính phủ Việt Nam lại thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước, và coi đó là 'quả đấm thép' cho tăng trưởng.
Bởi vậy, việc Việt Nam hoạch định các chính sách, đơn cử như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 với mục tiêu lớn đã không thành công, khi chưa thiết lập được các nền tảng của thị trường và không thể triển khai các khung thể chế và các công cụ can thiệp phù hợp với nhiều chuỗi ngành công nghiệp.
Việt Nam học tập Trung Quốc trong việc áp dụng chủ nghĩa tiệm tiến, tập trung vào những ngành công nghiệp thâm dụng lao động và có hàm lượng công nghệ thấp, như dệt may, da giày, lắp ráp… nhưng đã không thể thành lập được các đặc khu hành chính và kinh tế để thu hút dòng đầu tư từ các nước phát triển trong lĩnh vực chế biến hướng đến xuất khẩu.
Trung Quốc thành công trong chuyện này từ những năm 1990, trong khi Việt Nam đưa vấn đề ba đặc khu ra bàn thảo chậm hơn hai thập kỷ và đã bị phản đối mạnh mẽ.
Sự chuyển đổi từ nhà nước toàn trị, đảng trị sang mô hình 'Chính phủ kiến tạo' trong điều kiện Việt Nam là một thách thức lớn
Cần 'đột phá thể chế'
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá đang chững lại, chủ nghĩa dân tộc nổi lên, trong khi tình trạng kinh tế thế giới ảm đạm, các vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng… các dòng chảy kinh tế đang thay đổi phức tạp.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung phản ánh sự thay đổi quan hệ quốc tế cho trật tự thế giới mới, vượt quá giới hạn kinh tế và leo thang sang vấn đề thể chế, các giá trị dân chủ, nhân quyền… đã và đang ảnh hưởng lớn đến Việt Nam - một nước có quan hệ láng giềng và lịch sử với cả hai quốc gia trên.
'Chính phủ kiến tạo' là 'đột phá thể chế' trong nhiệm kỳ Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện phương châm hành động thực tế lấy phát triển doanh nghiệp làm động lực phát triển, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh, đồng thời với cải cách hành chính, gỡ bỏ các rào cản, chấn chỉnh thực thi công vụ của bộ máy.
Về cơ bản, 'Chính phủ kiến tạo' tương đồng với mô hình nhà nước chuyên quyền duy lý của các 'con rồng' Châu Á. Mô hình này đòi hỏi một nhà nước mạnh, người đứng đầu chính phủ bản lĩnh, quyết đoán và bộ máy hành chính chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi từ nhà nước toàn trị, đảng trị sang mô hình quản lý này trong điều kiện Việt Nam là một thách thức lớn, đòi hỏi sự đồng thuận của lãnh đạo tập thể và linh hoạt về ý thức hệ.
Ở đây, cần lưu ý rằng, các quốc gia thành công kinh tế ở Châu Á nêu trên, sau thời kỳ tăng trưởng cao, đã chuyển đổi sang thể chế dân chủ phù hợp với thị trường. Liệu đây có là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ?
Đối với trường hợp Trung Quốc, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế các nguy cơ : 'không cân đối', 'không bình đẳng', 'không phối hợp' và 'không bền vững' mặc dù đã được cảnh báo, tuy nhiên chúng bị che lấp bởi thành tích tăng trưởng và sự tuyên truyền một chiều, nay trở nên hiện hữu.
Tình trạng khó khăn do tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nguy cơ nổ 'bong bóng' nợ, bất động sản và các vấn đề xã hội, môi trường… trở nên nghiêm trọng.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung như 'giọt nước tràn ly' và căng thẳng thêm bởi các vấn đề dân chủ ở Hong Kong và nhân quyền ở Tân Cương.
Theo tôi, trước thềm Đại hội 13, cần có sự thay đổi thể chế mang tính bước ngoặt để phát triển tránh nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp.
Ở đây, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng thừa nhận vai trò hàng đầu của Hoa Kỳ từ những đầu những năm 1990, để đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thúc đẩy tự do hoá nền kinh tế trong nước và quốc tế hóa ở phạm vi toàn cầu.
Đây là bài học phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Sự khác biệt ở đây là cần tránh tập trung quyền lực tuyệt đối, và hơn thế là mở rộng dân chủ theo hướng thiết lập các thể chế phù hợp với các nguyên tắc thị trường và giá trị phổ quát.
Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam cần dựa vào dân nhiều hơn nữa để chống tham nhũng, chống tha hoá quyền lực, tinh gọn bộ máy và sự dụng quyền lực để giữ gìn an ninh và trật tự xã hội.
Chính phủ phải tiến tới chuyên nghiệp hơn để 'kiến tạo' trong hoạch định chính sách phát triển và điều hành nền kinh tế.
Việc hài hoà vai trò 'ông Thiện' và 'ông Ác' là cần thiết để tiếp tục cải cách thể chế trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 25/12/2019
Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam.
Nghẽn nhân lực khu vực công là nghiêm trọng. Phẩm chất và năng lực quan chức thường được che đậy bởi các quy định của tổ chức và sự thích nghi của cá nhân họ.
Năm chủ tịch quốc hội Việt Nam chụp ảnh lưu niệm hôm 21/12019
Chính họ tạo ra cơ chế, và rồi trở thành 'nạn nhân' của nó. Trong chiến dịch chống tham nhũng họ biết 'giấu mình chờ thời'. Tình trạng 'trên nóng dưới lạnh' phản ánh 'sự ứng phó' của quan chức với cơ chế.
Nguyên nhân chủ yếu là thể chế không kịp thay đổi để thích ứng với quá trình chuyển đổi sang thị trường. Tuy nhiên, có những tình huống, như trên nghị trường, quan chức đã bộc lộ phẩm chất và năng lực quan chức bởi họ đã không thể che giấu được con người thật.
Để nâng cao chất lượng quan chức, cải cách tổ chức, bộ máy hành chính trở nên cấp bách, song trước hết phải thay đổi tư duy.
'Xin lỗi' ngày càng nhiều hơn
Các quan chức 'xin lỗi' ngày càng nhiều hơn trên nghị trường. Trong một kỳ họp Quốc hội thường chọn 4 vị bộ trưởng đăng đàn trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn, và trong quá trình đó có thêm một vài vị bộ trưởng liên quan hoặc các phó thủ tướng phụ trách lĩnh vực 'làm rõ' thêm các vấn đề… Trong phiên chất vấn ngày 7/11/2019 tại Kỳ họp 8 Quốc hội khóa XIV có vị Đại biểu quốc hội 'đếm' số lần 'xin lỗi' của vị Bộ trưởng Nội vụ là 5 lần…
Lời xin lỗi của quan chức là cực kỳ hiếm hoi và khó khăn, đặc biệt với dân chúng, nếu có thì chỉ từ tập thể đơn vị trực tiếp gây ra sự cố, và chỉ khi mọi việc đã rồi, hậu quả có thể nặng nề. Đơn cử, như sự cố ô nhiễm nước sạch ở Hà Nội vừa qua khiến cho hàng trăm nghìn cư dân khốn khổ vì nước ăn bị nhiễm dầu mỡ hàng tuần. Sau đó thủ phạm 'Công ty CP đầu tư nước sạch sông Đà' qua truyền thông gửi "lời xin lỗi và cầu mong được lượng thứ". Ông Chủ tịch thành phố phát biểu vô cảm : "Qua sự việc này, chúng tôi cũng nhận thức rõ trách nhiệm và trong thời gian tới Thành phố sẽ có cuộc họp để rút kinh nghiệm".
Xin lỗi là một phẩm chất cá nhân tốt đẹp, thể hiện bản lĩnh dám nhìn vào sự thật, tôn trọng những người chịu ảnh hưởng bởi hậu quả có liên quan đến trách nhiệm hay hành vi gây nên. Tuy nhiên, đối với hành vi xin lỗi của quan chức có nhiều nghĩa hơn thế. Họ ít khi 'áy náy' về nhân cách bởi vì họ được cơ chế 'bảo lãnh' về quyền và lợi.
Trên nghị trường các quan chức nhận trách nhiệm về hành vi của mình thường dễ được các đại biểu quốc hội cảm thông và tha thứ. Cả quan chức chính phủ và Đại biểu quốc hội đều thuộc hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản. Trong hệ thống chính trị dựa trên nền tảng chủ nghĩa tập thể, coi chế độ như một tổng thể và luôn quan trọng hơn những cá nhân cán bộ đảng viên cấu thành nó. Các quan chức và Đại biểu quốc hội cần phải tuân theo các nguyên tắc tổ chức của Đảng và cách tiếp cận tập thể, thứ bậc trong hành vi ứng xử. Họ thấu hiểu điều đó và cố né những phát biểu mang tính cá nhân, nếu không sẽ bị coi là vị kỷ hay chủ nghĩa cá nhân và sẽ khó tránh bị kỷ luật bởi quyền lực nhân danh 'lợi ích chung' hay lợi ích tập thể'. Bởi vậy, họ che giấu được con người thật.
Miễn nhiễm 'văn hóa từ chức'
Không hoặc không thể công khai nhận xét về năng lực của quan chức chính phủ trên nghị trường Quốc hội, gần đây xuất hiện ý kiến về 'văn hóa từ chức'.
Từ chức là việc rời bỏ chức vụ của cá nhân quan chức trước khi hết nhiệm kỳ. Đó là quyết định tự động hay do áp lực nào đó từ bên ngoài do mức độ không hoàn thành chức trách gây hậu quả, sự cố mà quan chức đó trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan.
Văn hóa từ chức là một văn hóa chính trị phổ biến ở các nước Châu Âu, ảnh hưởng tới các nước đang phát triển với quan niệm đó là hành vi "đúng đắn cùng lương tri". Văn hóa từ chức có thể được tiếp nhận ở các chế độ dựa trên chủ nghĩa cá nhân, trong đó trách nhiệm về hành vi của quan chức được nhìn nhận, nhưng không được thừa nhận bởi chế độ chính trị với nền tảng chủ nghĩa tập thể. Trong thời kỳ chế độ tập trung, bao cấp với hình thức phân biệt đối xử giữa tập thể, như nhà nước hay biên chế và cá nhân, như cá thể hay 'làm ngoài', thậm chí chia dân chúng thành 'chúng ta' và 'chúng nó'.
Chia sẻ về văn hóa từ chức có Đại biểu quốc hội từng nói : "Thời nào cũng vậy, quan chức gắn với trách nhiệm. Có người chức càng to thì hy sinh càng lớn, đứng mũi chịu sào nhưng bây giờ quan chức trong thời đại này có hai mặt : Có quyền hành và quyền lợi. Điều này, ngăn cản quan chức trong quyết định có từ chức hay không từ chức.
Hiện nay, họ luôn dựa vào, họ nằm trong một tổ chức họ chỉ tuân thủ quyết định của tổ chức mà thôi". Phát ngôn này từ hơn 5 năm trước, năm 2014, nhưng đến nay vẫn đúng.
Bản chất chế độ chính trị hiện hành tạo ra sự miễn nhiễm 'văn hóa từ chức' đối với quan chức, bởi vì công tác cán bộ là công việc nội bộ của Đảng cộng sản mang tính nguyên tắc mà mọi đảng viên, lãnh đạo phải tuân thủ. Ngoài ra, cơ chế hiện hành tạo ra một bộ máy quan chức đặc quyền đặc lợi. Từ đó một hành lang răn đe cho hành vi 'bất tuân' được thiết lập. Nếu vị quan chức nào đó 'có gan' từ chức thì sự nghiệp chính trị của ông ta coi như kết thúc. Ngoài ra, ông ta không những mất đi đặc lợi cho bản thân và gia đình, mà còn có thể chịu rủi ro về đạo đức.
'Che giấu năng lực yếu kém'
Quan chức 'xin lỗi', 'xin nhận trách nhiệm' khi những thiếu xót và hậu quả là rõ ràng. Tuy nhiên, trước những câu hỏi khó, vấn đề mới hay 'nhạy cảm' được Đại biểu quốc hội nêu lên, thì cách ứng xử tốt nhất của quan chức trên nghị trường là 'xin lĩnh hội'. Nó có thể giúp che đậy năng lực yếu kém.
Thể chế chính trị không tương thích với sự chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường. Thái độ của nhiều quan chức là 'vừa muốn nhưng lại vừa sợ' thị trường. Họ muốn bởi vì thị trường sẽ là công cụ tăng trưởng kinh tế, tạo thêm đặc lợi cho vị trí quyền lực.
Họ sợ vì những tác động phụ, không mong muốn có thể tuột khỏi tầm kiểm soát, tạo nguy cơ sụp đổ chế độ tạo ra đặc quyền đặc lợi cho họ. Thái độ 'nước đôi' như trên là do nhận thức và diễn giải sai lệch về thị trường. Thí dụ, khái niệm 'nền thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa' được giải thích một cách nguỵ biện làm hạn chế về thái độ và hành động của quan chức.
Bất kỳ chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội đều là phương tiện đạt mục đích thịnh vượng của đất nước và người dân. Xã hội tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường có nền tảng là chủ nghĩa cá nhân, vốn coi động cơ cá nhân là cơ sở của mọi hoạt động xã hội. Phương thức này đang thắng thế.
Trái lại, xã hội chủ nghĩa được thiết lập bằng cách mạng bạo lực, nền kinh tế tập trung dựa trên chủ nghĩa tập thể đã sụp đổ ở Đông Âu. Việt Nam chọn cách duy trì chế độ đảng toàn trị tiến hành chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường 'định hướng xã hội chủ nghĩa'.
Đặc trưng này thách thức năng lực của bất kỳ quan chức nào. Theo quan sát của tôi, trong nhiều phiên chất vấn trên nghị trường các đời bộ trưởng Bộ Nội vụ đều không thể hoặc không giải thích sự tác động của việc chuyển đổi kinh tế sang thị trường đến tổ chức, bộ máy và chính sách nhân lực khu vực công một cách rõ ràng, thuyết phục, cụ thể, câu hỏi như công cụ thị trường để tinh giản biên chế là gì và sử dụng như thế nào trong các bản giải trình trước Quốc hội.
'Thay đổi tư duy cải cách'
Đảng cộng sản xác định nghẽn nhân lực làm đất nước tụt hậu. Nghẽn nhân lực khu vực công, đặc biệt trong hệ thống chính trị, là trở ngại chính cho cải cách chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Tình trạng 'trên nóng dưới lạnh' khiến Đảng phải hành động để 'giải toả' điểm nghẽn này, mà trước hết là thay đổi tư duy cải cách.
Bị níu kéo bởi ý thức hệ chủ nghĩa xã hội giáo điều, quan niệm rằng tinh giản bộ máy và nhân sự như 'tự lấy đá ghè chân mình' khiến cho nhân lực khu vực công vẫn có xu hướng phình to, hiệu quả công việc thấp và các biểu hiện tiêu cực của quan chức đặc quyền đặc lợi.
Không ai phủ nhận việc nhà nước phải bảo vệ người dân từ ngoại xâm, từ tội phạm ở trong nước, vì vậy cần phải có cảnh sát, tòa án và những dịch vụ công thiết yếu như phòng cháy nổ, cứu nạn… Tuy nhiên, thực tế từ các nước tiên tiến chỉ ra rằng khi bộ máy đảng, nhà nước phình to thì không chỉ phẩm chất và năng lực quan chức giảm đi, mà quyền tự do sẽ nhỏ hơn, cá nhân sẽ nhỏ hơn, lòng tốt và nhân cách con người cũng sẽ nhỏ đi.
Cần tạo ra cơ chế sao cho nhà nước phải luôn là 'chỗ dựa cuối cùng' chứ không phải là 'chỗ dựa đầu tiên' mà nhân dân tìm đến khi 'có vấn đề' như hiện nay.
Ngoài ra, khi nhà nước bành trướng, thì nạn tham nhũng, trục lợi và lợi ích nhóm sẽ tăng lên, bởi vì quyền lực chính trị có sức thu hút vô cùng mạnh, và nhiều người khi có quyền lực vô hạn và tiền bạc vô hạn sẽ lạm dụng những quyền lực, đúng ra, thuộc về nhân dân.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 15/11/2019
Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam.
Tìm kiếm mô hình phát triển cho đất nước là tâm huyết của nhiều chính trị gia và các nhà nghiên cứu.
Việt Nam cần tránh bẫy thu nhập trung bình, theo Phó giáo sư tiến sĩ Phạm Quý Thọ
Đường lối Đổi mới tự nó không phải là mô hình. Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình chuyển đổi sang thị trường có lúc thăng trầm. Theo quan sát của tôi, bối cảnh cải cách hiện nay đang hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi cho mô hình phát triển. Xu hướng cải cách tạo ra thời cơ. Tuy nhiên, nó cần được nhận rõ để hiện thực hoá.
Quá trình đổi mới và 'thập kỷ mất mát'
Hơn 30 năm trước, tính từ 1986, đường lối Đổi Mới với chính sách mở cửa và cải cách đã đưa Việt Nam thoát khủng hoảng kinh tế, vươn lên thoát nghèo và trở thành nước có thu nhập trung bình thấp.
Thu nhập quốc dân GDP trên đầu người năm 2018 đạt 2.587 USD.
Bỏ qua 5 năm đầu thoát khủng hoảng (1986-1991) và giai đoạn bất ổn từ 2009, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7,34%, quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000.
Kinh tế thị trường không chỉ là cứu cánh và dần thế chỗ kinh tế tập trung, bao cấp. Dư địa tăng trưởng là giải phóng sức lao động và tiềm năng nguồn lực vật chất như đất đai, tài nguyên.
Nay dư địa 'thô' dần cạn kiệt và những cảnh báo được đưa ra rằng đất nước có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Thời kỳ bất ổn vĩ mô không chỉ khiến tốc độ tăng trưởng giảm sút mạnh, mà còn gây khủng khoảng thể chế, đe doạ sự tồn vong của chế độ, mất niềm tin dân chúng và rối loạn xã hội.
Nguyên nhân được cho là sự sai lầm của chính sách kinh tế dựa vào các tập đoàn kinh tế nhà nước và sự tha hóa của bộ máy hành chính thiếu năng lực điều hành. Bản chất sâu xa là sự duy ý chí khi cho rằng Đảng Cộng sản có thể lãnh đạo kinh tế thị trường mà vẫn duy trì chế độ độc tôn.
Đảng đã không thay đổi kịp để thích ứng với chuyển đổi sang thị trường.
Kinh tế thị trường đòi hỏi không gian tự do cho con người và doanh nghiệp dựa trên sở hữu tư nhân và tự do cá nhân với các giá trị phổ quát, đối ngược với các chuẩn mực lý tưởng cộng sản.
Sự 'tự diễn biến, tự chuyển hoá' trong nội bộ tổ chức đảng là hậu quả của sự duy trì ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều vốn là nền tảng của hệ thống chính trị hiện hành.
Có thể gọi đây là 'thập kỷ mất mát' của quá trình chuyển đổi và hậu quả để lại vẫn rất nghiêm trọng cho đến nay, nhưng bài học quý giá được rút ra : cải cách thể chế phải thích ứng với thị trường.
Tập đoàn tư nhân là trụ cột kinh tế
Chính sách cải cách thế nào trong nhiệm kỳ Đại hội 12 là nhiệm vụ nặng nề cho tập thể lãnh đạo Đảng Cộng sản ?
Trong bối cảnh đó, ý tưởng về chính phủ kiến tạo với chính sách kinh tế 'thực dụng' được tuyên bố. Đó là sự cam kết về một chính phủ liêm chính, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Gọi chính sách là 'thực dụng' không chỉ bởi vì thông điệp khi trích lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, "việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh" được nhấn mạnh, mà còn vì nó có cách nhìn thực tế hơn về các vấn đề chính trị, kinh tế xã hội.
Có vô số các dẫn chứng, ở đây đơn cử như việc triển khai chính sách đã 'bỏ qua' lý luận giáo điều về bóc lột hàng hóa sức lao động vốn là cơ sở của đấu tranh giai cấp xuất phát từ học thuyết Mác-Lênin.
Đó là một chính sách kinh tế khuyến khích tự do kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp, tìm kiếm mọi nguồn lực tăng trưởng trong các lĩnh vực và địa phương, từ kinh tế số, kinh tế 'ban đêm', kinh tế 'ngầm'… đến liên kết vùng và tỉnh thành.
Mặt khác, các rào cản về quy định pháp luật và thủ tục hành chính cản trở môi trường kinh doanh được chỉ tên và yêu cầu dỡ bỏ.
Với những động thái mạnh của Chính phủ, nền kinh tế cho thấy đang chuyển biến tích cực, lấy lại đà tăng trưởng tương đối cao sau 'bất ổn', các nguồn lực tiềm năng được huy động cho mục tiêu này.
Chỗ dựa của chính sách là Nghị quyết 5 khóa 12 của Đảng về 'kinh tế tư nhân là động lực quan trọng'. Đây không phải là quan điểm mới, nhưng nhấn mạnh là 'động lực quan trọng'. Nó thúc đẩy tìm kiếm các nguồn lực và động lực mới cho tăng trưởng.
Các tập đoàn tư nhân lớn đang được khuyến khích phát triển để nâng cao vai trò là 'đầu kéo' cho phát triển vùng và ngành kinh tế, và thúc đẩy tham gia có hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Quá trình hình thành và phát triển của một số tập đoàn kinh tế tư nhân có thể không 'tự nhiên', 'giàu lên nhờ đất', phải lách luật hoặc tuân theo luật chơi quyền lực, nhưng không phải tất cả. Và, nền kinh tế cần có những tập đoàn như Vingroup, Trường Hải…
Lưu ý rằng về lý thuyết tự do kinh tế luôn tạo ưu thế cho các doanh nghiệp tư nhân lớn và thúc đẩy hình thành các tập đoàn đa ngành.
Khi các tập đoàn này được coi là trụ cột nền kinh tế có 'bệ đỡ' của động lực quan trọng là khu vực kinh tế tư nhân sẽ tạo nên sức mạnh mới cho tăng trưởng bền vững.
Khu vực kinh tế này và các tập đoàn tư nhân cần môi trường kinh doanh không chỉ với sự cam kết của Chính phủ, mà môi trường pháp luật, hành chính để thiết lập nguyên tắc cho thị trường phát triển, đặc biệt về quyền đảm bảo tài sản và sở hữu cá nhân và nguyên tắc hoạt động của chính quyền là công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đó là một số nội dung cơ bản của nhà nước kiến tạo hiện đại.
Chủ nghĩa thân hữu và nghẽn thể chế
Thể chế đang bị 'nghẽn' nghiêm trọng và đang cản trở cải cách.
Theo tôi, nguyên nhân trực tiếp của thực trạng nghẽn thể chế là mạng lới thân hữu, nhóm lợi ích được kích hoạt bởi sự tha hóa quyền lực trong quá trình chuyển đổi kinh tế sang thị trường nhưng thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu.
Nhóm lợi ích và quan hệ thân hữu đã được cảnh báo như một nguy cơ. Khi niềm tin vào chế độ và các giá trị chuẩn mực bị khủng khoảng, thì chỗ dựa của nó là quan hệ thân hữu vốn mang bản chất sinh học tự nhiên. Tuy nhiên, khi tính chất các quan hệ này hướng tới chiếm đoạt quyền lực vì lợi ích riêng sẽ có tác động tiêu cực nghiêm trọng và lâu dài.
Việc coi cải cách thể chế là 'dư địa' lớn cho tăng trưởng là sự thay đổi tư duy lãnh đạo quan trọng. Tuy nhiên do nhận định nguyên nhân bất ổn chưa đầy đủ, khiến cho các giải pháp giải 'nghẽn' không mang lại hiệu quả. Chẳng hạn, việc phân cấp quyền quản lý tài sản nhà nước mà không làm rõ các quy định về quyền sở hữu là nguyên nhân dẫn đến tha hóa quyền lực và tham nhũng.
Thủ tướng Chính phủ nhiều lần chỉ thẳng ra những biểu hiện 'nghẽn' của thể chế như "trên bảo, dưới không nghe", "trên nóng, dưới lạnh", công chức "sáng cắp ô đi tối cắp về", "nói không đi đôi với làm", "văn hóa không nhúc nhích" trong công sở…
Tinh giản guồng máy cầm quyền và chống tham nhũng là các mũi nhọn cải cách, nhưng khi thực thi đã đối diện với thách thức.
Thời gian qua Bộ Công an được cho là được cải tổ quyết liệt. Ngoài lý do cồng kềnh, còn có dư luận về 'phe phái', 'lợi ích nhóm' nặng nề trong giai đoạn bất ổn và biểu hiện rõ nét trước Đại hội 12.
Việc kiện toàn tổ chức và tinh giảm đầu mối các bộ, ban ngành khác luôn bị trì hoãn. Việc sáp nhập các văn phòng đảng, quốc hội và chính phủ đang gặp vấn đề khi thí điểm, một số đơn vị hành chính huyện, xã là vấn đề 'đụng chạm'.
Các hoạt động Đảng tập trung củng cố quyền lực, chống 'tự diễn biến, tự chuyển hoá' về tư tưởng - tiêu chí định tính và khó kiểm soát, đặc biệt trước thời điểm chuẩn bị cho Đại hội 13 của Đảng cộng sản.
Để cải cách mang lại hiệu quả thiết thực và bền vững cần nhận thức rằng mạng lưới tư bản thân hữu dày đặc là kết quả tất yếu của quá trình chuyển đổi kinh tế sang thị trường nhưng thiếu cơ chế cần thiết để kiểm soát quyền lực. Hơn thế, các quan hệ thân hữu thấm sâu vào hệ thống đảng trị đến nỗi nó trở thành chất keo để giữ cho guồng máy khỏi tan rã.
Cải cách cần hướng tới xây dựng một nhà nước kiến tạo hiện đại.
Chống tham nhũng và sự lựa chọn
Chống tham nhũng là cấp thiết, nhưng liệu có là giải pháp bền vững hướng tới bộ máy cầm quyền trong sạch và hiệu năng ? Câu trả lời tuỳ thuộc vào sự lựa chọn mục đích hoặc để duy trì chế độ hiện hành hay để chuyển đổi sang nhà nước hiện đại, kiến tạo.
Chống tham nhũng, một mặt để lấy lại niềm tin của nhân dân, mặt khác áp đặt kỷ luật lên đảng cầm quyền, tạo sức ép lên hệ thống quan liêu, khiến nó miễn cưỡng phải thực hiện các cải tổ kinh tế. Tuy nhiên, cải cách có thể làm xói mòn quyền lực và các đặc quyền.
Nhưng nhiều cán bộ trong số họ đang 'giả vờ' phục tùng, 'thế thủ' để an thân, biện lý do trì hoãn công việc.
Ngoài ra, việc chống tham nhũng có thể gây rủi ro cho bản thân chế độ, khi sự thoả thuận trong các cơ quan quyền lực có thể bị phá vỡ, căng thẳng và bất bình.
Chiến dịch chống tham nhũng cũng buộc phải cho phép ngành tư pháp có nhiều độc lập hơn trước để truy tố các quan chức phạm tội.
Việc nhanh chóng đề cử các cán bộ của Đảng vào các vị trí quyền lực trong mùa đại hội các cấp khi đề cao tiêu chí sự trung thành, phục tùng có thể làm tiêu chuẩn kỹ trị và năng lực chuyên môn bị giảm sút.
Việc 'nới lỏng' truyền thông và những tổ chức như Mặt trận Tổ quốc tham gia giám sát có thể khiến quyền lực bị phân tán.
Trong bối cảnh này chống tham nhũng đứng trước hai lựa chọn trái ngược.
Một là để tập trung quyền lực kiểu tôn vinh 'lãnh đạo hạt nhân' không giới hạn nhiệm kỳ như ông Tập Cận Bình. Phương án này dường như nằm ngoài ý muốn của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi các yếu tố về nhân sự và quy hoạch chưa được chuẩn bị. Sự chuyển giao quyền lực ở cương vị 'tứ trụ' cho Đại hội 13, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2021, đang được cân nhắc.
Phương án hai, cải cách để hướng tới kiểu nhà nước hiện đại, kiến tạo để đáp ứng các yêu cầu của chuyển đổi sang thị trường và tạo ra các nguyên tắc vận hành của nó. Theo đó, việc nới rộng dân chủ được tiếp tục. Hơn thế, Đảng cần phải đương đầu với các rủi ro như nêu ở trên, thay đổi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều.
Luật chơi quyền lực đang thay đổi, đặc biệt trong nội bộ Đảng Cộng sản.
Thực tế cải cách đã chỉ ra rằng không thể duy trì sự tồn vong của chế độ bằng mọi giá, đánh đổi dân chủ lấy quyền lực tuyệt đối. Bởi vì, nếu tập trung quyền lực để kiểm soát quyền lực thông qua chiến dịch chống tham nhũng sẽ sớm hay muộn rơi vào 'vòng luẩn quẩn' của việc tha hoá.
Khả năng tự sửa sai của một chế độ đòi hỏi phải loại bỏ mạng lưới cấu kết, nhóm lợi ích và quan hệ thân hữu. Hơn thế, cần thay đổi môi trường sinh sôi của chủ nghĩa thân hữu theo hướng xây dựng một nhà nước hiện đại, kiến tạo.
Tất nhiên là ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định chính trị có một vai trò lớn, nhưng trong trường hợp này sự ổn định không thể giải quyết nhiều vấn đề của sự chuyển đổi thể chế.
Một mô hình phát triển dựa trên nhà nước hiện đại thích ứng và kiến tạo cho kinh tế thị trường phát triển và dựa vào các trụ cột kinh tế là các tập đoàn tư nhân với 'động lực quan trọng' của khu vực kinh tế tư nhân cần được hy vọng trong quá trình cải cách.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 27/08/2019
Tác giả Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang áp dụng mô hình Xô Viết trong quản lý mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Có ý kiến trên Vietnamnet.vn đặt vấn đề : "Điều gì níu giữ mô hình Xô Viết trong quản trị quốc gia ?", và chia sẻ quan điểm rằng do 'chọn sai' mô hình phát triển dẫn đến sự tụt hậu của đất nước.
Mô hình Xô Viết được Việt Nam học tập và áp dụng lâu dài, theo tác giả
Bài viết làm rõ thêm về bản chất và sự sụp đổ mô hình này ở Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Việt Nam theo Trung Quốc đã điều chỉnh mô hình thích ứng với tình hình và đã thành công về kinh tế. Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành mô hình kiểu này đang ngày càng suy yếu do 'lỗi hệ thống' trước những thay đổi nhanh và phức tạp hiện nay. Liệu Việt Nam vẫn 'níu giữ' hay sẽ thay đổi mô hình phát triển ?
Nguyên tắc lãnh đạo
Các quốc gia theo mô hình Xô Viết đều dựa trên nguyên tắc đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện xã hội và, về lịch sử, do V. I. Lênin khởi xướng.
Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, Lênin từng mơ ước xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, nơi không có sự bóc lột và đàn áp. Người lao động sẽ tiếp quản quyền lực. Mọi nguồn lực xã hội là tài sản chung và nền sản xuất kế hoạch hóa tập trung.
Sau Cách Mạng Tháng 10 Nga thành công năm 1917, trong hoàn cảnh mới giành chính quyền và nội chiến, Lênin coi bạo lực như một công cụ để bảo vệ ý thức hệ với quan điểm rằng bạo lực là yếu tố cần thiết để thay đổi lịch sử vì 'bọn quý tộc và giai cấp tư sản không tự nguyện từ bỏ quyền lực'. Ngoài ra, Ông cũng chỉ thị thanh toán mọi bất đồng chứng kiến và cho rằng, ai phản đối sẽ là kẻ thù cách mạng, và về lâu dài, đó là điều tốt nhất cho người dân.
Lênin đưa ra nguyên tắc lãnh đạo của đảng là dân chủ tập trung với ý nghĩa : nhân dân thảo luận và đảng quyết định… Nhưng trong thực tế nguyên tắc này vận hành theo cách khi người dân không hiểu cái gì, thì tốt nhất, không cần cho họ cơ hội để tạo ảnh hưởng. Từ đó ra đời nhà nước độc đảng với quan điểm : hoặc trung thành tuyệt đối hoặc là kẻ thù, là 'thế lực thù địch'.
Một số luận điểm cơ bản nêu trên còn ảnh hưởng đến 'quản trị quốc gia' của một số nước như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba…
Mô hình quản trị này dựa trên ý tưởng về một vị vua vô cùng thông thái có cách hành xử luôn thể hiện ý chí cộng đồng.
Nhà triết học Pháp J. Rousseau (1712 - 1778) đã giải thích ý chí cộng đồng là cái mà mọi người thực sự muốn nhưng họ lại không hiểu đó là gì. Người ta muốn cái tốt nhất nhưng không biết cái gì là tốt nhất cho chính mình. Bở vậy, việc 'giúp' mọi người hiểu được mọi thứ kết hợp với nhau như thế nào là nhiệm vụ của nhà vua hay người lãnh đạo.
Sự sụp đổ được cảnh báo
Lãnh tụ của Đảng cộng sản Liên Xô, V. I. Lênin qua đời ở tuổi 52
Ra đời bằng cách mạng bạo lực, mô hình Xô Viết chỉ có thể tồn tại và phát triển khi duy trì được năng suất vượt trội so với các nước tư bản, và ngược lại. Sự sụp đổ mô hình Xô Viết được cảnh báo.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã khẳng định rằng, tăng năng suất lao động là nhiệm vụ cốt yếu sau khi giành được chính quyền, là điều kiện để thiết lập chế độ xã hội mới cao hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Lênin đã từng có điều chỉnh từ chính sách cộng sản thời chiến sang Chính sách kinh tế mới (NEP) để phục hồi sức dân, từ đó phục hồi kinh tế. Sự kiện này được dẫn như một gợi ý về sự linh hoạt trong điều hành.
Một số nước láng giềng hấp dẫn bởi các giá trị lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, đã gia nhập Liên bang Xô Viết.
Ông mất sớm, thọ 54 tuổi, vào năm 1924 với những dự định dang dở và không bao giờ được biết đến.
Tuy nhiên, J. Stalin và những người kế thừa ông tiếp tục thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản để phát triển mô hình Xô Viết.
Nhờ đó mà Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế, đã chiến thắng phát xít Đức trong đại chiến thế giới II…
Trong những thời kỳ khó khăn và thời chiến mô hình Xô Viết thích hợp để huy động tổng lực để đạt được mục đích.
Cùng với thời gian các nước trên thế giới cùng tồn tại hoà bình, mô hình Xô Viết với nền kinh tế tập trung dần mất động lực.
Các kết quả kinh tế được 'bệnh thành tích' thổi phồng và tuyên truyền bằng các sự kiện.
Đơn cử : Trong những năm cuối 1970, khái niệm xã hội chủ nghĩa phát triển đã được thảo luận.
Thanh kiếm và cành ô liu biểu trưng của danh hiệu 'Đại nguyên soái' được phong tặng cho nhiều lãnh đạo Liên bang Xô Viết và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Bệnh sùng bái cá nhân không chỉ với Lênin, Stalin mà cả các lãnh đạo đảng và nhà nước đương nhiệm. Quyền lực cần được tập trung vào các lãnh tụ uy tín để lãnh đạo đất nước !
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh năng suất của các nước có chế độ xã hội chủ nghĩa đã tụt hậu ngày càng xa so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Bức tường Béc Linh sụp đổ vào năm 1989. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu dần tan rã. Năm 1991 mô hình Xô Viết kết thúc, cuối cùng là ở Liên Xô.
Mô hình Trung Quốc
So với mô hình ở Trung Quốc, Việt Nam đã thay đổi theo và chậm hơn khoảng 10 năm, theo tác giả
Chính sách cải cách và mở cửa do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và sự trỗi dậy của Trung quốc từ cuối những năm 1970 đã từng được coi là mô hình phát triển mới thích ứng trước sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu và bối cảnh toàn cầu hoá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 10% trong suốt giai đoạn 30 năm.
Tuy nhiên, sự bất ổn của mô hình Trung Quốc ngày càng bộc lộ rõ : Tăng trưởng đến điểm giới hạn và đang giảm sút, khủng hoảng nợ, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là nạn tham nhũng và các vấn đề xã hội.
Tình hình ngày càng nghiêm trọng trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung căng thẳng. Mỹ đang cáo buộc Trung Quốc tiến hành thương mại không công bằng gây tổn hại cho kinh tế Mỹ qua việc đánh cắp sở hữu trí tuệ, ép buộc chuyển giao công nghệ… Đồng thời Mỹ yêu cầu Trung Quốc thay đổi cấu trúc kinh tế và tuân thủ theo nguyên tắc thị trường tự do trong các cuộc đàm phám.
Hơn thế, các vấn đề an ninh hàng hải ở biển Đông, và mới đây là Bắc băng dương, những lo ngại về 'Sáng kiến Một vành đai một con đường' như một bẫy nợ của Trung Quốc đối với một số nước khiến các nhà nghiên cứu cảnh báo về một cuộc chiến tranh lạnh mới, cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Mỹ - Trung, mà thực chất là giữa hai hệ thống chính trị khác biệt.
Việt Nam đã thay đổi theo Trung Quốc, và chậm hơn khoảng 10 năm, và đã từng đạt những kết quả ấn tượng, tăng trưởng kinh tế trung bình đạt mức trên 7% sau hơn hai thập kỷ, thành tựu xóa đói giảm nghèo và một số mục tiêu thiên niên kỷ…
Tuy nhiên, những bất ổn đang xảy ra với thể chế kinh tế và chính trị Việt Nam. Với quy mô và hình thức khác, nhưng về cơ bản, tính chất là tương tự như Trung Quốc, có nguồn gốc từ mô hình phát triển.
Căn bệnh thể chế
Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong một lần đón Lãnh đạo Trung Quốc, Chủ tịch Tập Cận Bình
Mô hình phát triển có nguồn gốc nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và đảng cộng sản toàn trị lãnh đạo nền kinh tế chuyển sang thị trường, sau một thời gian vận hành đã khiến căn bệnh nội sinh, bệnh thể chế, trở nên trầm trọng.
Đảng đứng trên nhà nước. Pháp luật hoặc sự diễn giải khi thực thi phụ thuộc vào ý chí của đảng, nhóm người, thậm chí là cá nhân lãnh đạo. Tập trung quyền lực tạo ra bệnh sùng bái cá nhân. Các hình thức kỷ luật nội bộ thường không kịp thời, thậm chí không tương thích với các mức phạt theo các điều luật. Sự đoàn kết thực hiện theo nguyên tắc phê bình và tự phê bình dần mang tính hình thức.
Hệ thống chính trị khép kín. Kiểm soát đầu vào chặt chẽ thông qua việc kết nạp vào đảng theo các tiêu chuẩn, về nguyên tắc, dựa trên sự tự nguyện, cống hiến và cam kết trung thành với tổ chức. Để có được quyền lực và leo cao trên thang bậc lãnh đạo, các đảng viên được yêu cầu tiếp tục hy sinh theo đuổi lý tưởng
Giữ 'ổn định' thể chế đóng sản sinh xu hướng thổi phồng, khuếch đại ưu điểm và che đậy, giấu diếm khuyết điểm, sai lầm trước công chúng. Tự điều chỉnh, tự sửa chữa lỗi hệ thống, xử lý nội bộ các lãnh đạo vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức được ưu tiên.
Trong thực tế, quyền lực bị tha hóa gây nên 'lỗi hệ thống'. Mỗi vị trí lãnh đạo đều có đặc quyền nhất định đối với các nguồn lực công. Quyền đi đôi với lợi. Phân phối đã trở thành ban phát, xin cho. Chuyển sang kinh tế thị trường khi thiếu các nguyên tắc và công cụ kiểm soát phù hợp, quyền lực có khoảng trống lớn của sự cám dỗ trục lợi.
Kiểm soát cá nhân nghiêm ngặt. Sống trong sợ hãi bị trừng phạt người dân không dám biểu lộ sự thật. Khi luôn được chỉ bảo, chăm sóc họ sẽ trở nên thụ động, triệt tiêu động lực làm việc, thiếu sáng tạo, mặc cảm và mang ơn.
Trên đây là một vài căn bệnh chủ yếu của chế độ đang cản trở sự phát triển.
Làm thế nào một nhóm người có thể nói thay cho toàn dân khi họ không được nêu ý kiến khi thế giới thay đổi ngày càng nhanh chóng và phức tạp ?
Một trong những biện pháp chữa căn bệnh này là cần xây dựng nhà nước pháp quyền để phản chiếu những tâm tình của người dân thông qua một nền dân chủ, trong đó họ có quyền tự do công dân và bình đẳng về tham chính.
Việt Nam dường như đang đứng trước sự lựa chọn hoặc 'níu giữ' hoặc thay đổi 'mô hình Xô Viết'
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 10/05/2019
Tiến sĩ Phạm Quý Thọ, nguyên Trưởng khoa Chính sách công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư Việt Nam.
Các quan hệ thân hữu đang lan rộng và ngày càng nghiêm trọng. Thể chế lạc hậu, không phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế tập trung sang thị trường.
Thành phố Sài Gòn về đêm - Ảnh minh họa
Mặc dù được cảnh báo, nhưng sự thay đổi chỉ có thể khi phản ứng 'từ dưới lên' của người dân ngày càng có ý nghĩa thực tế. Cải cách thể chế chính trị liệu có thể được đặt ra với chính sách cởi mở hơn ?
'Lan rộng và nghiêm trọng'
Các quan hệ thân hữu, chủ nghĩa thân hữu (Cronyism) là thực tế hoạt động tạo ra các ưu thế cho bạn bè, người thân hay đồng nghiệp nhằm đạt được mục đích nhất định. Đặc biệt trong chính trị đó là mối quan hệ giữa các chính khách và các tổ chức, cá nhân bị chi phối bởi quyền lực nhân danh nhà nước.
Trong thời kỳ chuyển đổi ở nước ta từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường, không là tư bản chủ nghĩa cũng chẳng phải xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa thân hữu được dung dưỡng bởi thể chế hiện hành, trong đó các quan hệ 'xin - cho' tồn tại và phát triển, và, theo bản năng, người dân có hành vi thích ứng.
Mỗi khi người dân đi xin việc, xin xác nhận, cấp, đổi, mở, kiến nghị, trình bày… thì việc đầu tiên nghĩ đến là tìm các mối quan hệ thân quen hay quyền thế để nhờ vả. Tiếp đến họ chuẩn bị phong bì, quà cáp để thuận tiện giao dịch hay cám ơn.
Hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ thì kết thân với phường, xã. Doanh nghiệp vừa thì 'giữ quan hệ' với quận, huyện. Doanh nghiệp lớn, tập đoàn thì 'tiếp cận' với tỉnh, thành phố hay các bộ ngành trung ương.
'Con ông cháu cha' được 'gửi gắm, cài cắm' đã trở thành tiêu chuẩn 'ngầm định' về sự trung thành, tin tưởng với chế độ khi quy hoạch, lựa chọn hay bổ nhiệm cán bộ.
'Cả họ làm quan' đã không còn là hiện tượng đơn lẻ, khi nhiều địa phương các cấp đã được truyền thông chỉ đích danh.
Học sinh Việt Nam - Ảnh minh họa
Báo Vietnamnet.vn ngày 18/4/2019 cho biết rằng 222 thí sinh được nâng điểm đều là con cháu của các phụ huynh có quyền và có tiền. Họ có các chức danh từ bí thư tỉnh uỷ, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT, Chi Cục trưởng Chi Cục thuế, Giám đốc VNPT tỉnh, Phó Chánh thanh tra tỉnh, Trưởng phòng Giáo dục Trung học, các Phó Chủ tịch UBND thành phố Sơn La, huyện Quỳnh Nhai...
'Nhóm thân hữu' dường như đang bao trùm cả hệ thống chính quyền địa phương !
'Dấu hiệu nhận biết'
Việc đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng và quy mô chủ nghĩa thân hữu là điều không đơn giản, đặc biệt trong các xã hội, các quốc gia đang phát triển bởi các mối quan hệ thân hữu không phải lúc nào cũng rõ ràng đen trắng, hợp tình hợp lý hay hợp pháp.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các dấu hiệu nhận biết phản ánh chủ nghĩa thân hữu có thể đang 'ngự trị' ra sao ở một quốc gia, mà khi liên hệ với thực tế ở nước ta có thể cho biết bức tranh toàn cảnh.
Thứ nhất là điểm số thấp trong chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế.
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) ngày 29/01/2019 công bố Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI) năm 2018, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu. So với năm 2017, số điểm của Việt Nam giảm 2 điểm, và tụt mất 10 bậc.
Thứ hai là Chỉ số Pháp quyền Thượng tôn Pháp luật (Rule of Law Index) của tổ chức Dự án Công lý Thế giới (World Justice Project).
Theo báo cáo mới nhất, năm 2017-2018 Việt Nam xếp hạng 74 trên 113 quốc gia, tụt 7 hạng so với năm 2016. So với Trung Quốc, Việt Nam cao hơn 1 hạng (75). Trong khu vực Đông Nam Á Singapore 13, Malaysia 53, Indonesia 63, Thái Lan 71, Philippines 88, Myanmar 100, Cambodia 112… Việt Nam ở vị trí 10/30 nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Thứ ba là vấn đề nền kinh tế của một quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu, trong đó phần lớn là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, chứ không phải dựa vào năng suất hoặc cải cách đổi mới.
Tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng liên tục trong ba năm từ 2016 đến năm 2018 đạt 7,08%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này còn dựa nhiều vào xuất khẩu, thậm chí từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Năm 2018, khối này chiếm 70,8% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu cả nước. Ngoài ra các mặt hàng thương phẩm và nông, thuỷ sản thô còn chiếm tỷ trọng khá lớn.
Khoảng cách về thu nhập giàu - nghèo ở Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014
Thứ tư là tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ở mức cao.
Theo Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) ở Việt Nam, khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo, trung bình, cận giàu) đã tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập.
Thậm chí một khảo sát của Oxfam năm 2016 cho thấy khoảng cách này lên đến 21 lần, so với của VHLSS 2010 là 8,5 lần.
Việt Nam đang có đến 60% lực lượng lao động đang làm việc trong các mô hình kinh tế hộ gia đình và nghề tự do. Ngoài ra, theo một khảo sát của Tổng Liên đoàn Lao động, tỷ lệ người lao động có khả năng tích lũy chỉ là 8%, tỷ lệ phải chi tiêu tằn tiện và không đủ sống là 51%, mà phần lớn các khoản chi là cho nhu cầu tối thiểu : lương thực, giáo dục, y tế, nhà ở và đi lại.
'Đã cảnh báo'
Chủ nghĩa thân hữu ở nước ta đã được cảnh báo là nghiêm trọng, thậm chí được coi là một trong những nguyên nhân của tình hình 'bất ổn kinh tế vĩ mô' của giai đoạn 2010 - 2016.
Một trong những hình thức biểu hiện nổi bật là 'nhóm thân hữu' có cùng lợi ích hay 'nhóm lợi ích'.
TS Vũ Ngọc Hoàng - nguyên phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã từng viết : "Đặc điểm của các "nhóm lợi ích" là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong đảng cầm quyền… Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội".
Trong kinh tế, chủ nghĩa thân hữu diễn ra khi các quan chức chính phủ và doanh nghiệp thông đồng với nhau để trục lợi và tranh giành những đặc lợi.
Học sinh Việt Nam chịu nhiều áp lực, và bị cạnh tranh không công bằng dưới hình thức chạy điểm, nâng điểm
Ở nước ta với cơ chế Đảng, nhà nước kiểm soát tuyệt đối và nắm quyền quản lý đối với tài nguyên và các nguồn lực quan trọng của quốc gia, các cơ sở kinh tế nhà nước được 'ưu ái' dưới nhiều hình thức, kể cả về chính sách, các ưu đãi, trợ giúp nhằm đạt được các mục đích của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó dẫn đến môi trường kinh doanh không bình đẳng, buộc người dân và các doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng các mối quan hệ với các quan chức nhà nước để tiếp cận các nguồn lực hay các thủ tục hành chính do nhà nước độc quyền. Trong các lĩnh vực đất đai, bất động sản và cơ sở hạ tầng, tài chính ngân hàng, năng lượng, văn hoá tư tưởng… luôn lôi cuốn và nuôi dưỡng những quan hệ thân hữu.
Người ta đã gọi hiện tượng này là 'chủ nghĩa tư bản thân hữu'. Nhưng, theo tôi, áp dụng thuật ngữ này đối với thực tế trường hợp Việt Nam là chưa phù hợp, không chính xác.
Về lý thuyết, chủ nghĩa thân hữu đối nghịch với các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản và, vì thế không nên xem chủ nghĩa thân hữu bắt nguồn từ tư bản. Hơn thế, về thực tế, chế độ ở Việt Nam không phải là tư bản chủ nghĩa, thậm chí kinh tế còn chưa được các nước phát triển và các tổ chức quốc tế lớn, có uy tín công nhận là nền kinh tế thị trường !
'Phản ứng từ dưới'
Chủ nghĩa thân hữu bị chi phối bởi một hệ thống giá trị gắn liền với hành vi của con người vốn mang tính bản năng, cơ hội và có mục đích nhất định, được thúc đẩy bởi các động cơ như vì lợi ích bản thân (vì tiền, sự thăng tiến, sự thể hiện, chuộc lỗi…), vì quan hệ (họ hàng, bạn bè, trả ơn, đáp nghĩa, nể nang…) hay bị ép buộc bởi quyền lực (lệnh 'ngầm' hoặc công khai từ cấp trên, sự khống chế…).
Các nhà văn hoá đã chỉ ra đặc điểm trọng tình và tính cách nước đôi của người Việt. Nghĩa là, khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe dọa sự sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tính đoàn kết và tính tập thể ; nhưng khi nguy cơ ấy qua rồi thì có thể là thói tư hữu và óc bè phái, địa phương lại nổi lên. Yếu tố này cần được tính đến trong cải cách thể chế.
Chủ thuyết xã hội chủ nghĩa dựa trên hệ giá trị sự cống hiến và lòng vị tha vốn thích hợp với các nhóm nhỏ như gia đình, cộng đồng, được áp đặt cho xã hội đại chúng.
Khi chuyển đổi sang thị trường với nền tảng là kinh tế, sở hữu tư nhân, thì thể hiện hành đã không còn phù hợp và đang dung dưỡng cho chủ nghĩa thân hữu tạo ra cán bộ, đảng viên lạm quyền và tham nhũng, cản trở chính sách tự do kinh doanh, hạn chế cải cách hành chính và làm tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
Người dân đã và đang phản ứng mạnh mẽ với các biểu hiện của chủ nghĩa thân hữu, không chỉ trong việc giữ đất của họ, gia đình và tập thể, giữ chủ quyền biển đảo, giữ môi trường sống, đòi hỏi quyền lợi chính đáng và quyền công dân hợp hiến… mà còn đòi hỏi trừng phạt nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm pháp luật.
Ngày 21/4/2019, Công an quận 4 (TP HCM) đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với vị cựu Phó viện trưởng VKSND TP Đà Nẵng về hành vi dâm ô… trước sự phẫn nộ của dư luận. Được biết, trước đó người dân chung cư Galaxy 9 ở thành phố Hồ Chí Minh đã ký đơn tập thể, đề nghị khởi tố vị cựu cán bộ lãnh đạo này.
Bằng các phương tiện sẵn có, người dân đang tạo ra những nhóm 'xã hội dân sự' không chính thức, phù hợp hơn với kinh tế thị trường, nhưng bị cấm bởi chế độ hiện hành.
Phản ứng 'từ dưới' này là xu hướng dân chủ xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sẽ dần mạnh lên đòi hỏi có chính sách cải cách đột phá thể chế chính trị hiện hành, trong đó công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trước nhân dân là một yêu cầu mang tính nguyên tắc.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 23/04/2019
Tác giả, một nhà phân tích về chính sách công, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, thuộc Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư của Việt Nam.
Trả lời tờ Dân trí đầu xuân Kỷ Hợi 2019, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng nói "cải cách được xác định chính là dư địa lớn cho tăng trưởng".
Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng
Đó là quan điểm và phương châm hành động của chính phủ kiến tạo trong những năm còn lại của nhiệm kỳ 2016-2021 và là cách tiếp cận cho các hành động 'bứt phá' trong năm 2019 khi tốc độ tăng trưởng GDP đang có những dấu hiệu giảm sút.
Cải cách thể chế có thể được coi là giải pháp thay thế khi nhu cầu hoạch định một chính sách tăng trưởng nhanh và bền vững ngày càng lớn trong môi trường kinh tế mới.
Chính sách tăng trưởng nóng vội trong hai nhiệm kỳ trước dựa vào các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước - 'các quả đấm thép' - đã thất bại và để lại hậu quả nặng nề về kinh tế xã hội.
Ngoài sức ép cần thay đổi tư duy chủ quan, duy ý chí và từ bỏ mô hình 'tư bản nhà nước' dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì việc khắc phục hậu quả vật chất vẫn còn phức tạp và tốn kém.
Tuy nhiên, việc tìm kiếm chính sách kinh tế phù hợp hơn với thực tế có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện chính trị và kinh tế.
Các hoạt động của 'Chính phủ kiến tạo' từ đầu nhiệm kỳ này được tập trung vào vào việc thúc đẩy tự do kinh doanh và tạo lập môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân bằng cách dần loại bỏ các rào cản thủ tục hành chính.
Động lực từ khu vực dân doanh và đầu tư nước ngoài đã được cởi trói, phát huy tác dụng và mang lại những kết quả nhanh chóng, rõ rệt, đặc biệt là tăng trưởng kinh tế tăng dần qua 3 năm gần đây, và năm 2018 đạt 7,08%, cao nhất trong 10 năm kể từ 2008.
Năm mới, nhiều hy vọng mới ?
Dấu hiệu giảm tốc
Tuy nhiên, các dấu hiệu giảm tốc tăng trưởng GDP đã xuất hiện. Quý 1 năm 2018 đạt 7,45%, các quý sau đó đã giảm đi.
Các biểu hiện của thời kỳ 'bất ổn kinh tế vĩ mô' vẫn còn đó như nợ công, nợ xấu vẫn ở mức cao, thị trường bất động sản khó khăn, nóng lạnh bất thường, thị trường chứng khoán giảm sút đến hơn 20% trong năm 2018, mang tính đầu cơ...
Ngoài ra, các căn bệnh cố hữu của nền kinh tế như năng suất lao động thấp, tụt hậu, chất lượng tăng trưởng thấp, không được cải thiện, phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài dựa vào giá nhân công rẻ và khai thác tài nguyên, ô nhiễm môi trường nặng nề, tệ nạn xã hội…
Hơn thế, đối với Việt Nam, nền kinh tế có độ mở rất cao, trong bối cảnh kinh tế thế giới phức tạp sự tham gia hội nhập kinh tế như một thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) luôn chứa đựng đan xen thuận lợi và rủi ro khó lường, đặc biệt là tác động từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung căng thẳng đang leo thang.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giảm dự báo tỷ lệ tăng GDP thế giới năm 2019 từ 3,4% xuống còn 3,2%. Các dự báo tăng GDP của Việt Nam đã 'thận trọng hơn', ở mức thấp hơn năm 2018, ở mức 6,6% - 6,7% năm 2019.
Thậm chí còn xuất hiện những cảnh báo về chu kỳ khủng hoảng 10 năm, tính từ 2008-2009.
Người dân Việt Nam hy vọng kinh tế tăng trưởng tốt
Cần chính sách dài hơi
Các hành động hiện nay của Chính phủ kiến tạo đang ứng phó với thực tế và mang tính thời điểm.
Các phương châm hành động được nhấn mạnh cho cả nhiệm kỳ như "hành động", "kiến tạo", "liêm chính", "cải cách" và 'bổ sung, điều chỉnh' cho từng năm.
Ví dụ năm 2019 là "bứt phá" về thể chế và chính sách.
Bởi vậy các hành động này thể hiện sự cam kết và quyết tâm hơn là một chính sách kinh tế ổn định.
Giả thuyết kì vọng hợp lí cho rằng chính sách kinh tế nhất thời không thể 'đánh lừa' người dân được lâu vì họ sẽ sử dụng hợp lí mọi thông tin mới có sẵn để phản ứng với các chính sách của chính phủ.
Trong điều kiện khiếm khuyết các nguyên tắc cơ bản của thị trường, bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu năng, 'trên nóng dưới lạnh', vấn nạn quan liêu, tham nhũng tràn lan… các chính sách kinh tế thường méo mó, sai lệch bởi vì nhà nước can thiệp sâu trong quan hệ với thị trường.
Chính sách tài khóa và tiền tệ 'linh hoạt' thường không mang lại hiệu quả thực sự là do vấn đề xác định thời điểm, trong không ít trường hợp trở thành 'tuỳ tiện' do 'nhu cầu cấp bách' của Đảng Cộng sản trong bộ máy công quyền.
Chính sách trọng cung đang chịu áp lực cạnh tranh từ lượng cầu ngắn hạn và suy giảm.
Việc cắt giảm thuế tạm thời sẽ không thúc đẩy tiêu dùng, vì mọi người đều biết rằng họ sẽ phải trả các khoản chi phí của chính sách đó sau này. Việc tăng cung tiền sẽ chỉ dẫn đến hệ quả là lạm phát cao hơn, nhưng tỉ lệ thất nghiệp vẫn giữ nguyên.
Những bất lợi của thị trường vốn đang méo mó đang bị che giấu. Các tập đoàn tư nhân lớn có xu hướng độc quyền, chi phối thị trường.
Tính 'trục lợi' đang thiếu cơ chế kiểm soát, đang phát tác tinh vi trong các nhóm lợi ích nhiều tầng của các quan chức 'thoái hoá' - đại gia 'giấu mình'.
Các cán bộ lãnh đạo 'suy thoái' ra quyết định cũng chỉ là các tác nhân tư lợi duy lý đang cố ý tạo ra 'sân sau' và các nhà 'tư bản đỏ' cho thế hệ con cháu họ…
Trong môi trường kinh tế mới cần phải chuẩn bị một chính sách mới. Nhu cầu này càng lớn dần tính từ đầu nhiệm kỳ 2016-2021.
Gần đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiều lần đề cập đến sự cần thiết của chính sách tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, thậm chí ông từng đặt hàng cho các chuyên gia, trong đó có Tổ tư vấn kinh tế của Chính phủ.
Tuy nhiên cho đến nay vấn đề này vẫn bỏ ngỏ. Liệu có thể có một chính sách vừa thể hiện sự khát vọng mang tính chính trị vừa tạo khuôn khổ kỹ trị cho 'Chính phủ kiến tạo' điều hành kinh tế trong điều kiện Đảng Cộng sản toàn trị và đang tập trung quyền lực ?
Để có lời giải thì, trước hết, việc xác định "cải cách… chính là dư địa lớn cho tăng trưởng" là cách tiếp cận chính sách phù hợp thực tế, phù hợp phương châm cải cách 'tiệm tiến' mà lại tránh buộc phải diễn giải phù hợp với mô hình 'nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa' mang nặng ý thức hệ giáo điều.
Phạm Quý Thọ (Hà Nội)
Nguồn : BBC, 14/02/2019
Kinh tế của Việt Nam hiện được các tổ chức quốc tế có uy tín như Ngân Hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá là tăng trưởng khả quan. Thống kê nhà nước công bố tỷ lệ tăng GDP năm 2018 là 7,08%.
Bỏ phiếu tại một kỳ họp Quốc Hội tại Việt Nam. Hình minh họa.
Trái lại, theo Báo cáo Chỉ số Dân chủ 2018 của The Economist Intelligence Unit (EIU) ở Anh công bố ngày 9/1/2019, tình hình dân chủ ở Việt Nam không được cải thiện với thứ hạng ở vị trí thứ 139 trong số 167 quốc gia, không thay đổi so với 2017 và có chiều hướng đi xuống những năm gần đây kể từ năm 2015. Câu hỏi đặt ra vì sao kinh tế tăng trưởng, nhưng dân chủ thì không cải thiện ? Câu trả lời liệu có phải chậm thay đổi nhận thức và thực thi dân chủ theo hướng thị trường để hỗ trợ tăng trưởng ổn định ? Nếu phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dân chủ trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở Việt Nam, thì đây sẽ là một nội dung không thể thiếu của chủ đề cải cách thể chế cần được đặt ra trong thời gian tới.
Nhận thức giáo điều về Dân chủ
Dân chủ là hệ thống giá trị được đề cao trong quá trình phát triển nhân loại nói chung và kinh tế nói riêng, trên phạm vi toàn cầu cũng như từng quốc gia. Bàn luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dân chủ luôn là chủ đề nóng khi gắn với các mô hình thể chế khác nhau, tuỳ thuộc vào các bằng chứng thực tế đưa ra thuyết phục đến đâu.
Hệ thống giá trị dân chủ phương Tây được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và chế độ tư bản chủ nghĩa, là nền tảng dân chủ của các nước phát triển, trong đó quyền tự do và bình đẳng được luật hóa và nhấn mạnh vào khía cạnh đầu phiếu phổ thông, các quyền tự do chính trị, tự do dân sự, đa nguyên.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên hệ tư tưởng Marx – Lenin về chủ nghĩa xã hội, còn gọi là dân chủ nhân dân và đối nghịch với ‘dân chủ tư sản’ phương Tây. Ý tưởng ban đầu về nền dân chủ nhân dân là dân chủ trực tiếp, tuy nhiên, khi vận hành nhà nước chuyên chính vô sản, thì quyền lãnh đạo thuộc về Đảng Cộng sản cầm quyền duy nhất. Dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên nền tảng các giá trị dân chủ phương Tây, Chỉ số Dân chủ được lượng hóa theo thang điểm từ 0 đến 10, biểu thị mức độ dân chủ tăng dần từ thấp đến cao và dựa vào năm tiêu chí : Việc tiến hành bầu cử công bằng và tự do ; Các quyền tự do của công dân ; Sự hoạt động của chính quyền ; Việc tham gia chính trị và ; Văn hóa chính trị.
Dựa trên Chỉ số Dân chủ tính được và theo cách phân loại của EIU các chế độ bao gồm 4 nhóm : Dân chủ đầy đủ— có điểm từ 8 – 10 ; Dân chủ khiếm khuyết — từ 6 - 7,9 ; Thể chế hỗn hợp— từ 4 - 5,9 ; Chính thể chuyên chế— dưới 4. Chỉ số Dân chủ năm 2018 là 3,08, Việt Nam thuộc nhóm thứ 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành đường lối Đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường đã được hơn 30 năm, tuy nhiên việc nhận thức về dân chủ dường như không thay đổi, thậm chí giáo điều khi không đặt dân chủ trong mối liên hệ với tăng trưởng kinh tế theo hướng thị trường.
Tăng trưởng thúc đẩy dân chủ
Dù có diễn giải về dân chủ theo mục đích chính trị thế nào chăng nữa, thì tăng trưởng kinh tế luôn gắn với dân chủ, tăng trưởng thúc đẩy dân chủ và ngược lại. Với thời gian và điều kiện cải cách kinh tế theo các nguyên tắc thị trường thì tăng trưởng kinh tế sẽ dần tạo ra nhu cầu hình thành cơ chế dân chủ tương ứng. Nhận ra quá trình thay đổi tất yếu này là đòi hỏi từ thực tế để Việt Nam có được mô hình mới đảm bảo cho phát triển bền vững.
Đường lối Đổi mới được khái quát với hai nội dung chính là Cải cách Mở cửa. Trong những năm 80-90 của thế kỷ trước, Cải cách, thực ra, là thực thi các chính sách hạn chế bớt quyền của nhà nước, công chức bằng cách bãi bỏ chế độ quan liêu bao cấp và trao nhiều quyền hơn cho người dân. Người nông dân được nhiều quyền hơn để canh tác trên đồng ruộng và sở hữu nông sản cho nhu cầu cuộc sống của họ, người công nhân được quyền sử dụng kết quả lao động của họ từ những sản phẩm vượt chỉ tiêu pháp lệnh theo kế hoạch nhà nước, người tiểu thương được quyền buôn bán hàng hóa trên một không gian rộng hơn, khi bãi bỏ ‘ngăn sông chấm chợ’… Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, thì đây chính là cơ sở của quá trình dân chủ hoá. Quyền kinh tế là cốt lõi của các quyền công dân khác.
Trong bối cảnh tiềm năng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động được ‘cởi trói’, giải phóng, thì nhu cầu phát triển kinh tế theo hướng thị trường được mở rộng. Hơn thế, nó còn được hỗ trợ bởi chính sách Mở cửa khuyến khích làn sóng đầu tư nước ngoài (FDI) từ xu thế toàn cầu hóa khiến cho Việt Nam đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, trung bình năm, trên 7% GDP, trong thời kỳ gần 20 năm (1986-2006).
Đáng tiếc, trong thập niên tiếp theo (2006-2016), Việt Nam đã rơi vào bất ổn do những cải cách thể chế không hỗ trợ, thậm chí kéo chậm lại đà tăng trưởng. Tỷ lệ tăng giảm sút nhanh, lạm phát cao lên đến 20% năm 2012, nợ xấu cao, bong bóng bất động sản nổ… lan sang các lĩnh vực khác của xã hội tạo nên khủng hoảng nghiêm trọng, trong đó một bộ máy hành chính cồng kềnh với các quan chức đặc quyền đặc lợi tha hóa bởi lợi ích nhóm và suy thoái về đạo đức lối sống. Đây là thể chế đi ngược quá trình dân chủ, kìm hãm tăng trưởng.
Nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng được nhận định là do chính sách kinh tế sai lầm và quản lý yếu kém của Chính phủ. ‘Sự quyết liệt’ đến duy ý chí khi thực thi chính sách tăng trưởng nóng vội dựa vào các tập đoàn kinh tế nhà nước – người ta ví von là ‘những quả đấm thép’ –mọi nguồn lực xã hội được huy động cho các nhu cầu ảo tưởng về tăng trưởng bỏ qua các quy luật kinh tế. Bài học của chính sách ‘Giá – Lương – Tiền’ trong những năm 1980 dường như đã lặp lại!
Nếu nhìn thẳng vào bản chất sự việc thì đây chính là ‘lỗi hệ thống’, bởi vì trong hệ thống chính trị hiện hành ở Việt Nam Đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện, và Chính phủ là bộ phận cấu thành của Đảng được phân nhiệm để điều hành nền kinh tế.
Bất ổn thể chế được bộc lộ rõ nét trong thời kỳ này đang để lại hậu quả và thách thức lớn cho phát triển. Tuy nhiên, nó có thể là cơ hội để cải cách. Đã xuất hiện những ý kiến về ‘Đổi mới lần 2’.
Sau Đại hội 12 Đảng cộng sản đầu năm 2016 Việt Nam đã và đang tiến hành chính sách kinh tế thích ứng với thực tế. Các hoạt động của Chính phủ được định hướng trở lại quỹ đạo kinh tế thị trường với việc thúc đẩy tự do kinh doanh đồng thời với cam kết xóa bỏ các rào cản từ thể chế. Những nỗ lực này là một trong những động cơ phục hồi tăng trưởng. Liên tục trong 3 năm tỷ lệ tăng GDP nâng dần, năm 2018 đạt 7,08%, cao nhất trong 10 năm tính từ 2008.
Kết luận chủ yếu được rút ra là mặc dù về nguyên lý tăng trưởng kinh tế thúc đẩy dân chủ, tuy nhiên mỗi khi chính sách duy ý chí, xa rời các quy luật kinh tế thị trường và thể chế chính trị không được cải cách theo hướng tạo ra cơ chế dân chủ tương ứng để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang thị trường, thì nền kinh tế sẽ đối đầu với nguy cơ rơi vào vòng xoáy chu kỳ bất ổn tiếp theo.
Hiện nay, khi chính sách kinh tế ‘nới’ theo hướng thị trường, nhưng chính trị ‘thắt’ theo hướng tập trung quyền lực của Đảng cộng sản, câu hỏi cốt yếu được đặt ra là làm thế nào để cân bằng hai hướng ngược nhau này ?
Một đề xuất cho lời giải của vấn đề trên là khi kinh tế Việt Nam đã phát triển đến mức thu nhập trung bình như hiện nay, và để tránh ‘bẫy thu nhập trung bình’, ‘bẫy lao động giá rẻ’, ‘bẫy gia công’, ‘bẫy ô nhiễm môi trường…’ – như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu trong cuộc họp với Tổ tư vấn kinh tế vào cuối năm 2018, thì việc cải cách thể chế cần phải được đặt ra công khai và thu hút sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của toàn dân, của giới trí thức. Một trong những nội dung là cần thay đổi nhận thức, tạo dựng và thực thi cơ chế dân chủ phù hợp với thực tế, đặt nó trong mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Hà Nội, 15/01/2019
Phạm Quý Thọ
Nguồn : VOA, 17/01/2019
Tác giả Phạm Quý Thọ từng là sinh viên và nghiên cứu sinh ngành kinh tế tại Liên bang Nga (Liên Xô cũ). Ông là Phó giáo sư, tiến sĩ, từng giảng dạy và nghiên cứu, phần lớn ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Đến năm 2009 ông làm việc tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Học viện Chính sách và Phát triển, và nghỉ hưu năm 2018.