Các thế lực 'thủ lợi', nhóm lợi ích giả làm xã hội dân sự sẽ tiếp tục tác động đến chính sách và cản trở quá trình cải tổ, đổi mới trong năm 2020, một nhà quan sát xã hội dân sự của Việt Nam nói với BBC News Tiếng Việt.
Việt Nam là một quốc gia đứng đầu trong khu vực về tiêu thụ chất uống có cồn, nhưng có ý kiến nói các nhóm lobby bia rượu đã tác động đến chính sách quản lý
"Từ năm 2016 tới nay, công cuộc 'củi lửa', 'đối lò' của nhà nước và đảng Cộng sản đã chĩa mục tiêu vào một số lĩnh vực ở Việt Nam",
"Nhưng liệu sang năm mới, các chiến dịch có dám tập trung vào xử lý các nhóm lợi ích trên hay không sẽ là một câu hỏi lớn được đặt ra, tiến sĩ Trần Tuấn, nhà phản biện thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Việt Nam nói với thảo luận Bàn Tròn thứ Năm của BBC News tiếng Việt (02/1/2020).
Trả lời từ Texas, Hoa Kỳ, nơi ông đang thăm viếng, ông Trần Tuấn hỏi :
"Các thế lực như vừa nói có thể làm được gì ? Thì tôi thấy là họ làm rất cụ thể. Họ hầu hết đều là các thế lực khai thác lợi ích kinh tế trong vấn đề làm ăn ở Việt Nam.
"Tôi nói ví dụ, trong vấn đề vừa rồi, chúng tôi đã làm với luật (phòng chống tác hại của) rượu, bia, luật (phòng chống tác hại của) thuốc lá chẳng hạn, thì chúng ta đều biết chỉ riêng việc đánh thuế thuốc lá, rượu bia là những cái khuyến cáo của các tổ chức khoa học, cũng như là của thế giới, đã thấy rằng là muốn phòng chống được tác hại thuốc lá của rượu bia, thì bắt buộc phải tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với chúng.
"Và mức tiêu thụ đó ở Việt Nam hiện nay trong nhiều năm qua, đã đang đặt mức chỉ bằng một nửa so với khuyến cáo của các tổ chức thế giới và kém rất xa ngay so với những nước xung quanh, ví dụ như Thái Lan, hoặc Úc, hoặc Singapore.
"Thế thì chỉ riêng mức thuế này thôi, tôi cho rằng giữa lúc đang bị trì trệ, bị cản trở rất mạnh và luật thuế tiêu thụ đặc biệt liên quan trực tiếp đến các mặt hàng này, thì các thế lực kia đang ngăn cản đến mức là lẽ ra phải ra (luật) trong các kỳ hợp Quốc hội vừa rồi, thì luôn luôn bị trì hoãn, tôi nói ví dụ thế.
"Mà chỉ riêng mất mát trong vấn đề đó thôi, tôi nói chẳng hạn là thuế của rượu bia là hiện nay thu khoảng 50 nghìn tỷ đồng Việt Nam một năm, thì nếu chúng ta chỉ đảm bảo tăng gấp đôi, đúng như khuyến cáo của các tổ chức thế giới, thì chúng ta đã có thêm được 50 nghìn tỷ đồng Việt Nam nữa.
"Tức là như vậy là cả một khoản rất là lớn. Tôi cho rằng nếu như khoản này, mà theo đúng khuyến cáo của các tổ chức khoa học, thì thấy rằng là chỉ phần tiền đó thôi đổ sang cho y tế, giáo dục, cho tăng cường nội lực của người dân lên đối với các yếu tố tác hại cho sức khỏe, thì cũng đảm bảo chắc chắn rằng các hoạt động của y tế, đặc biệt là y tế dự phòng và vấn đề môi trường, vấn đề an sinh xã hội là tốt".
Cản trở chính sách thế nào ?
Thuế nếu được thu đủ từ các ngành công nghiệp có sản phẩm gây tác hại cho sức khỏe con người và môi trường có thể trợ giúp cho cải thiện y tế, sức khỏe, giáo dục, môi trường và phát triển, theo chuyên gia
Theo chuyên gia phản biện chính sách này, các nhóm lợi ích khi cản trở các chính sách tỏ ra có đối tượng, mục tiêu và động cơ khá rõ ràng :
"Tôi cho rằng những thế lực này luôn luôn làm mọi cách để cản trở chính sách, ít nhất là những chính sách mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đối với các tổ chức quốc tế, với các Công ước quốc tế, từ công ước trẻ em, cho đến công ước sức khỏe, công ước môi trường.
"Các thế lực đó phát triển kinh tế đều nhắm vào vấn đề làm sao khai thác được lợi nhuận tối đa và họ bất chấp tất cả những vấn đề về sức khỏe, vấn đề về môi trường.
"Thì vấn đề đó họ tiếp tục làm, tiếp tục gây bất hoạt các luật đưa ra, tôi nói ví dụ ngay luật (phòng chống tác hại của) rượu bia..., thì họ lại đẩy sang cái hướng là không tăng được thuế, không ảnh hưởng gì đến vấn đề quảng cáo của họ ;
"Và nếu như các hình thức có thực hiện thì chỉ nhằm vào người dân và phạt người dân, chứ không nhằm vào vấn đề là nơi sản xuất, hoặc là các định hướng vấn đề quảng cáo".
Về hiệu quả và nội dung của công cuộc "đốt lò" mà đảng cộng sản và chính quyền Việt Nam đang triển khai mấy năm qua, đặc biệt là hai năm gần đây, Tiến sĩ bác sĩ Trần Tuấn bình luận :
"Công cuộc đốt lò đã đưa ra được một thế lực mà tôi gọi là vì cá nhân vì thương mại, lợi nhuận mà bất chấp tất cả lợi ích của cộng đồng, thì phải có một thế lực đối lập trở lại. Cho nên đây rõ ràng là một cuộc đấu tranh giữa hai thế lực, tôi công nhận.
"Nhưng mà xu hướng vừa rồi tôi nhìn nhận thì chúng ta thấy rằng là cuộc đấu tranh đó, các vụ án đưa ra nhắm đầu tiên vào bên Bộ Công thương, tôi cho đây là đúng, vì Bộ Công thương trong những năm vừa qua là nơi xuất phát của tất cả các định hướng chính sách mà tôi cho rằng đã 'chà đạp' lên các vấn đề về môi trường, các vấn đề về sức khỏe và vấn đề lợi ích phát triển của đất nước.
"Cho nên là đánh vào Bộ Công thương là đúng. Tiếp theo, chúng ta thấy là có những vấn đề ở bên Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và gần đây nhất là vấn đề của Bộ Thông tin và truyền thông.
"Bởi vì thông tin và truyền thông làm cho lệch lạc hết cả các vấn đề nhận thức của xã hội với các tình hình thực tế. Cho nên tôi cho rằng chọn bốn bộ vừa rồi mà các vụ án tập trung vào, tôi cho đều là đúng và như thế chứng tỏ rằng là thế lực muốn làm sạch đất nước, chống tham nhũng, đấy cũng là một thế lực có tính chất đang tăng dần lên...
"Tôi tin rằng, nếu như chiều hướng tiếp tục như thế này, có khả năng thế lực tích cực sẽ có thế. Thế lực tích cực muốn thắng thế được phụ thuộc vào những tác nhân như đã nói, như là tiếng nói bổ trợ của người dân, mà người dân ở đây thể hiện qua các tổ chức, các cá nhân, các nhà trí thức và chúng ta còn gọi chung là các tổ chức xã hội dân sự".
Đốt vàng mã nhân ngày Tết ở Việt Nam. Tiền công quỹ ở nước này cũng 'bị đốt' vào các vụ thất thoát, nhũng lạm và lãng phí
'Thanh lọc để mở đường phát triển'
"Nhưng xã hội dân sự hiện nay cũng đang nhá nhem, là một bức tranh lẫn lộn, trong đó bản thân những thế lực thủ lợi, phi nhân bản cũng tạo ra một bộ mặt của bên gọi là tiếng nói xã hội dân sự để ủng hộ cho họ.
"Đấy là bằng chứng của các hiệp hội như hiệp hội năng lượng, hiệp hội tấm lợp, hiệp hội rượu bia, nước giải khát v.v..., thì họ đã tạo ra một tiếng nói nhằm ủng hộ cho các thế lực của họ.
"Thế thì, trong bốn năm vừa qua, làm được với lại các bộ ngành công thương, thông tin và truyền thông, rồi quân đội, công an và vẫn đang tiếp tục làm, thì tôi nghĩ rằng tới đây, trong năm 2020, nếu có được, sẽ quay sang làm với bên các nhóm tổ chức chính trị, xã hội.
"Và khi làm vào cá nhóm tổ chức chính trị, xã hội, phải thanh lọc bộ máy này thì chúng ta (Việt Nam) mới có cơ hội để cho các nhóm mà vì dân lên được tiếng nói mạnh mẽ hơn.
"Và khi có tiếng nói vì dân lên mạnh mẽ hơn, thì lúc đó mới có cơ hội để mà sửa đổi các luật liên quan xã hội dân sự, liên quan các tổ chức nghề nghiệp và từ đó nó mới mở rộng cho vấn đề tiếng nói đi vào phản biện.
"Chứ còn nếu hiện nay chúng ta vẫn để như thế này, thì nó sẽ là một cuộc rất là gay go, cho nên, tôi xin tóm lược lại là trong công cuộc 'đốt lò', tôi hy vọng rằng đốt lò tới đây sẽ hướng cả sang các tổ chức chính trị, xã hội.
"Và thanh lọc thì sẽ mở đường cho các vấn đề từ luật công đoàn, từ những vấn đề đối với người lao động, cũng như với tiếng nói của các nhà khoa học trong các vấn đề phản biện xã hội, nó sẽ được thay đổi đi lên, khi tiếng nói đó mạnh lên, tôi hy vọng rằng công cuộc 'đốt lò' tiếp tục đẩy mạnh và Việt Nam mới đi được theo các hướng mà các nước đã phát triển", ông Trần Tuấn nói với BBC.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 04/01/2019
Việt Nam hiện đã xuất hiện trên thực tế một lực lượng "đối lập trên mạng" trong nỗ lực còn 'bất cân xứng' trước sự lãnh đạo của đảng cộng sản, một nhà nghiên cứu lịch sử cận hiện và đương đại Việt Nam từ Đại học Sư phạm Lyon (ENS de Lyon) nói với BBC News Tiếng Việt.
Nhà nghiên cứu lịch sử François Guillemot bình luận về tự do ngôn luận và lực lượng đối lập trên mạng ở Việt Nam
Bên lề một tọa đàm bàn tròn về tự do ngôn luận tại Việt Nam diễn ra hôm 21/09/2019, tại Viện Nghiên cứu Á Đông (AIO) thuộc ENS, Tiến sĩ François Guillemot, nhà nghiên cứu lịch sử và xã hội Việt Nam, nói :
"Ở Việt Nam không phải là một chế độ đa đảng, nhưng thực ra là có một đối lập trên mạng để đáp lại và có sự tương tác giữa nội và ngoại để 'nói chuyện' với nhau".
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu này, vẫn "còn khó" để nói về việc đã đến lúc Việt Nam có thể có một cuộc đổi mới về thể chế chính trị theo một mô hình hậu 'độc đảng', ông nói :
"Cái đó là khó, gần đây, những blogger, những người ly khai Đảng cộng sản ở trong một 'bước đường cùng', gặp rất nhiều khó khăn.
"Đây cũng là lý do Viện nghiên cứu Á Đông (IAO) phối hợp với Hội văn hóa Người Việt vùng Rhône (ACVR) tổ chức cuộc hội thảo, thảo luận để nêu lên vai trò của tự do ngôn luận ở Việt Nam, giống như Hội nhà báo Độc lập Việt Nam đã hoạt động ở Việt Nam trong một hoàn cảnh rất khó khăn, làm sao để tồn tại được là rất khó.
"Theo tôi, là nhà nghiên cứu phải đặt câu hỏi về chính thể, một câu hỏi rất quan trọng, để biết tương lai của Việt Nam sẽ ra sao, và sẽ đương đầu với các vấn đề về môi trường, các vấn đề kinh tế, các vấn đề địa chính trị với Trung Quốc thế nào, với Biển Đông ra sao ?
"Với những câu hỏi lớn như vậy, có thể với chế độ đa đảng sẽ là tốt hơn, để bàn luận với nhau và để có thể kiếm ra một giải pháp tập thể mạnh hơn".
Bình luận về độ sẵn sàng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này, Tiến sĩ François Guillemot nói :
"Đến bây giờ vẫn chưa có tín hiệu là Đảng cộng sản đã sẵn sàng. Có thể có những phong trào nội bộ trong Đảng, một số người 'nghiêng' về phía Trung Quốc, và một số người thấy là phải có một thái độ gần nước Nga nhiều hơn, hoặc là gần Mỹ nhiều hơn.
"Nhưng mà ở trong nội bộ thì họ vẫn duy trì 'tính tập thể', họ biết rằng giữ tập thể thì sống còn, tuy họ biết rằng rất khó để sống còn. Thực ra là như vậy thì người ta không dám đề cập đến.
"Đến bây giờ, vấn đề đó phải coi kỹ ai nắm vững chính quyền đó của Việt Nam ? Có đảng, cũng có quân đội, nhưng cũng có công an, thì dân ở đâu ? Thì phải đặt câu hỏi này và vai trò của xã hội dân sự là thế nào ?"
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quá trình nhiều thập niên nắm quyền lực trong tay và 'chấp chính', trước câu hỏi liệu đây có là một 'lợi thế' so với các lực lượng cạnh tranh khác hiện nay hay không, nhà nghiên cứu lịch sử phụ trách Kho tư liệu về Việt Nam học tại Viện Nghiên cứu Á Đông (IAO), bình luận :
"Người ta cũng khó biết được tương lai, tại vì có thể mai mốt sẽ có một vấn đề mà ngoài chính trị, sẽ có ảnh hưởng lớn, giống như vụ án Formosa, từ kinh tế tới, mà có ảnh hưởng, tạo ra những tác động chính trị.
Ông Trịnh Hữu Long cho rằng chính giới vận động dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đã giúp nới rộng không gian tự do ngôn luận ở nước này
"Tôi thấy có thể sẽ có như vậy, một biến cố nào đó thúc đẩy người ta đổi mới, đặt câu hỏi về thay đổi thì cũng về việc mình chọn đường lối nào để phát triển một cách bền vững nhiều hơn, bởi vì Việt Nam là một nước lớn ở trong khu vực Đông Nam Á, với 94 triệu dân thì cũng là khổng lồ ở trong khu vực Đông Nam Á", ông Guillemot nhận xét.
'Thay đổi ngoạn mục'
Ông Trịnh Hữu Long, Chủ biên báo mạng "Luật Khoa Tạp chí", diễn giả tại tọa đàm, nói với BBC về điều mà ông tin là những thay đổi lớn đã đang diễn ra ở Việt Nam qua thời gian, từ quan sát cá nhân của mình :
"Tôi nghĩ rằng từ khi tôi bắt đầu quan tâm sâu sắc đến chính trị vào những năm 2007-2008 và đặc biệt từ khi tôi trở thành một nhà hoạt động vào năm 2011, thì tôi đã chứng kiến những sự thay đổi ngoạn mục của xã hội Việt Nam.
"Chúng ta có thể lấy ví dụ như vào thời kỳ 2007-2018, những người như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Luật sư Lê Thị Công Nhân đứng ra tranh đấu cho một nền dân chủ ở Việt Nam và bị cả chính quyền lẫn phần lớn người dân hắt hủi và họ bị lên án rất là nhiều.
"Ngày nay, sau khoảng 10 năm, hơn 10 năm, xã hội chúng ta (Việt Nam) đã thay đổi rất là nhiều. Những chuyện ngày xưa bị coi là nhạy cảm, bây giờ không còn bị coi là nhạy cảm nữa và việc chỉ trích chính quyền, phơi bày những thói hư tật xấu, những sự gian dối, những sự tham nhũng của chính quyền trở thành một điều hết sức bình thường.
"Những điều đó biến thành một điều bình thường nhờ những người đã đứng lên tranh đấu và bị giam cầm trong thời kỳ "rất đen tối" của đất nước, đó là Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định v.v... Họ là những người đã đi đầu trong cuộc đấu tranh này, tạo ra những hình mẫu, những tấm gương để cho những người sau có thể có không gian tự do hơn.
"Chính họ là những người đã nới lỏng không gian tự do cho chúng ta. Ngày nay, chúng ta được biểu đạt như thế này là nhờ những người đi trước đã gánh toàn bộ rủi ro đó và tất cả những điều đó.
Anna, sinh viên đang học ngành ngôn ngữ học tại Đại học Lyon 3, nói cô trở nên quan tâm hơn về Việt Nam sau khi tìm hiểu những vấn đề xã hội tại nước này
"Tôi nghĩ rằng Trần Huỳnh Duy Thức với sự kiên định ở trong nhà tù Việt Nam để bảo vệ đường lối đấu tranh của mình, để tạo ra một thông điệp rất rõ ràng rằng anh từ bỏ tất cả những sự nghiệp công danh cho mình, để tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ, và anh sẽ ở lại Việt Nam cho đến khi nào Việt Nam trở thành một nước dân chủ và anh được trả tự do trên nước Việt Nam, chứ không phải là nơi nào khác.
"Thì đó là một thông điệp cực kỳ mạnh mẽ cho thấy rằng người dân Việt Nam, mọi tầng lớp Việt Nam hiện nay đã ý thức rất rõ về một nhu cầu cần phải có một nền dân chủ, nhu cầu cần phải có những quyền tự do căn bản, nhu cầu cần phải được bảo vệ những quyền tự do căn bản của mình liên quan đến đất đai, liên quan đến tài sản, thuế, môi trường.
"Tôi nghĩ rằng vấn đề của những nhà hoạt động không phải rằng họ giành được những thắng lợi trong một vụ án, họ không phải chỉ giành thắng lợi trong một cuộc biểu tình. Bản thân việc họ biểu đạt, bản thân việc họ ra đường biểu tình, bản thân sự tồn tại của những hành vi đó đã là một sự thách thức với chính quyền, đã là cảm hứng cho những người dân khác đi theo và đó là ngọn nguồn của một nền dân chủ.
"Mà nền dân chủ, bản chất của nó chính là sự tham gia của người dân. Khi nào tất cả mọi người dân đều tham gia vào các tiến trình chính trị, đều tham gia vào các công tác xã hội, thì đó là lúc mà nền dân chủ của chúng ta có thể định hình và có thể trở thành một nền dân chủ rất vững mạnh", ông Trịnh Hữu Long nói.
"Không hề nguy hiểm"
Từ tổ chức công đoàn của người lao động Pháp ở Rhône, thuộc vùng Lyon, một đại biểu khác tham dự tọa đàm, ông Frank Rolland chia sẻ với BBC Tiếng Việt quan sát từ kinh nghiệm riêng về công đoàn độc lập ở Việt Nam :
"Tôi theo dõi hồ sơ của một phong trào từ năm 2015, gọi là tổ chức Lao Động Việt, công đoàn tự do của công nhân ở Việt Nam và chúng tôi đã làm việc với họ, tổ chức các cuộc họp và họ đã ký thỏa thuận với Paris, trong đó họ cam kết không làm chính trị mà chỉ làm những công việc của công đoàn.
"Điều này có mục đích để làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu rằng Lao Động Việt ở đó không phải để nắm quyền mà chỉ là một công đoàn cố gắng giúp đỡ người lao động. Nhưng vấn đề này cũng không có tiến bộ, Việt Nam vẫn còn trấn áp nhiều quyền lao động.
"Liên Hiệp Châu Âu (EU) gần đây đã ký một thỏa thuận tự do thương mại với Việt Nam và một số người dân Châu Âu rất quan ngại rằng Việt Nam vẫn không tuân thủ luật pháp quốc tế về lao động và đặc biệt những gì họ ký ở Geneva với Tổ chức Lao động Quốc tế (IL0).
"Đây là một vấn đề lớn vì họ đã ký một thỏa thuận thương mại lớn với Liên Hiệp Châu Âu, nhưng ngay cả nhiều nghị sĩ quốc hội EU cũng quan ngại rằng Việt Nam sẽ không làm những điều mà họ nói là họ sẽ làm, tức là nói bằng ngôn ngữ hai mặt. Bây giờ, EU đang quan ngại về điều đó".
Tuy nhiên, nhà quan sát đến từ công đoàn vùng Rhône của Pháp cho hay ông khá 'bi quan' về khả năng các nước phương Tây có thể gây áp lực với Việt Nam và cho rằng Việt Nam cần phải tự lực cánh sinh, ông Franck Rolland nói :
"Về các nước phương Tây, tôi khá bi quan, bởi vì trên thực tế tất cả các nước đó đều muốn làm ăn với Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia lớn, với dân số lớn ở trong vùng, một thị trường mở, thị trường đang lên với tăng trưởng rất cao.
"Cho nên tôi không nghĩ trong lĩnh vực này Việt Nam có thể có được sự hỗ trợ lớn từ các nước đó, kể cả Pháp.
"Song tôi nghĩ quyền công đoàn không phải là một mối nguy hiểm cho Việt Nam. Mọi người phải tự tổ chức mình để nói ra điều gì là sai trái, công đoàn không muốn nắm quyền lực, họ không muốn can thiệp vào chính trị.
"Cho nên tôi nghĩ Việt Nam sẽ cần phải thay đổi trong tương lai để cho phép mọi người tự tổ chức và cố gắng đàm phán, và đó là tất cả và chúng tôi không hy vọng gì hơn thế", nhà hoạt động công đoàn là một công chức nhà nước thuộc ngành cảnh sát của Pháp nêu quan điểm.
'Đem lại kiến thức'
Bà Nguyễn Thị Ngọc Anh cho rằng các nhà xuất bản như Nhà xuất bản Tự do cung cấp cho người dân ở Việt Nam những hiểu biết có ích về tri thức, chính trị, pháp luật v.v...
Từ Hội văn hóa Người Việt vùng Rhône (ACVR), đơn vị đồng tổ chức tọa đàm, bà Nguyễn Thị Ngọc Anh, nói với BBC rằng các bạn bè Pháp, Việt theo quan sát của bà đều quan tâm tới vấn đề tự do ngôn luận, báo chí, xuất bản ở Việt Nam hiện nay.
Bà cũng chia sẻ bình luận của mình về sự kiện nhà báo, blogger Phạm Đoan Trang vừa nhận được một giải thưởng quốc tế, cũng như về một nhà xuất bản mới xuất hiện tại Việt Nam gần đây mà theo bà là hữu ích khi đem lại tri thức cho bạn đọc ở Việt Nam về cả chính trị lẫn luật pháp.
"Việc Phạm Đoan Trang nhận được giải thưởng "Ảnh hưởng" của Tổ chức Phóng viên Không biên giới tuần trước ở Berlin thực sự là một nguồn động viên rất lớn, không chỉ cho Phạm Đoan Trang mà cho tất cả các anh chị em ở trong nước (Việt Nam) đang đấu tranh, đòi hỏi cho quyền tự do ngôn luận", bà Ngọc Anh nói.
"Tôi cũng xin được nói thêm về một chương trình ủng hộ cho tự do ngôn luận ở Việt Nam, đó là Nhà xuất bản Tự do, đây là một nhóm các bạn trẻ hoạt động, in ấn những cuốn sách đem lại kiến thức cho người đọc ở Việt Nam, những cuốn sách không được những nhà xuất bản chính thức in ấn.
"Những cuốn sách này, ví dụ như các cuốn sách của tác giả Phạm Đoan Trang (Chính trị Bình dân, Phản kháng phi Bạo lực, Cẩm nang nuôi tù và Politics of a police state), đem lại những kiến thức rất cơ bản, được viết với ngôn ngữ rất bình dân để giúp cho tất cả những người lao động ở Việt Nam mà muốn tìm hiểu về chính trị, pháp luật ở Việt Nam có thể đọc, tham khảo và từ đó biết được quyền của mình là gì và quyết định mình nên làm những điều gì cần thiết để tạo nên sự thay đổi ở Việt Nam".
Tự do ngôn luận ở Việt Nam cũng là một chủ đề nhận được sự quan tâm, như Nina, một cử tọa trẻ đang là sinh viên năm thứ ba Đại học Lyon 3 ngành ngôn ngữ, nói với BBC :
"Tôi là một sinh viên người Pháp gốc Nhật Bản, tôi không có liên hệ huyết thống với Việt Nam, nhưng bạn trai của tôi, một sinh viên Pháp gốc Việt đã nói với tôi về vấn đề tự do ngôn luận ở Việt Nam. Hôm nay, tôi có cơ hội để tìm hiểu về Việt Nam, nhất là về tự do ngôn luận và vấn đề kiểm duyệt, và những gì tôi biết được thực sự làm tôi xúc động, và tôi nghĩ là tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu thêm về đất nước Việt Nam".
Ông Dominique Foulon, Giám đốc xuất bản ấn bản Việt Nam học Carnets dur Vietnam quan tâm và theo dõi vấn đề ruộng đất ở Việt Nam từ những năm 1990 sau khi nước này tuyên bố chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
Một đại biểu khác, Dominique Foulon, Giám đốc xuất bản của ấn bản Việt Nam học Carnets du Vietnam bình luận với BBC về một khía cạnh khác mà lâu nay vẫn được nghe đến nhiều là vấn đề ruộng đất và chiếm hữu đất đai ở Việt Nam, có liên quan đến tiếng nói của tầng lớp 'dân oan khiếu kiện', ông nói :
"Vấn đề đất đai, sở hữu, chiếm hữu đất đai, ruộng đất ở Việt Nam là vấn đề tôi đã theo dõi từ những năm 1990 và thu lượm được một số thông tin, theo tôi, đây là một vấn đề rất quan trọng vì nó liên quan nhiều đến người nghèo ở Việt Nam, và là một vấn đề trong lịch sử liên quan đến cuộc đấu tranh giành độc lập của người dân.
"Ngày nay, có thể thấy nhiều cuộc biểu tình, khiếu nại của người dân về đất đai, ruộng đất, và qua đây cũng thấy đất nước đã chuyển đổi sang một thể chế tư bản rất đặc biệt, trong đó có thể thấy một bộ phận những người có quyền lực, cầm quyền là những người thâu tóm nhiều đất đai để bán lại, hoặc việc đó gây ảnh hưởng khó khăn đến những người từng làm việc trên đó trước đó...
"Và chúng ta có thể thấy một sự thay của một chế độ mà luôn tự gọi là xã hội chủ nghĩa mà không phải hoàn toàn như thế, nhưng đó là một thể chế kinh tế đã được hoàn toàn sửa đổi đi với sự giải thích về kinh tế thị trường mà trong đó có hiện tượng bóc lột, tước đoạt ruộng đất, chiếm hữu đất đai, mà đối với chúng tôi ở Châu Âu gợi nhớ về giai đoạn ở thế kỷ 19 ở Châu Âu, mà ở một số quốc gia đã có sự bóc lột hay tước đoạt người nông dân của tầng lớp những người có quyền lực địa phương.
"Đây là vấn đề làm cho chúng tôi khá bị sốc và làm cho chúng tôi thấy cần phải tiếp tục đặt câu hỏi về tính chất thực sự của chế độ hiện nay ở Việt Nam", ông Dominique Foulon nói với BBC bên lề cuộc tọa đàm về tự do ngôn luận Việt Nam tại Lyon hạ tuần tháng 9/2019.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 25/09/2019
Nhà nước Việt Nam khó có thể chống tham nhũng trong tình hình thể chế như hiện nay, một nhà hoạt động nói BBC Tiếng Việt trong cuộc hội luận hôm 16/5/2019, trong dịp Đảng Cộng sản đang nhóm họp Hội nghị Trung ương 10 khóa XII.
Lãnh đạo chủ chốt của nhà nước và Đảng cộng sản Việt Nam họp hôm 14/05/2019
Trong khi đó một bình luận khác tại cuộc tọa đàm cho rằng người lãnh đạo chiến dịch "đốt lò" chống tham nhũng này cần nêu gương, đi đầu trong việc công khai về kê khai tải sản.
Trước hết, bình luận với Bàn tròn thứ Năm từ London về Hội nghị Trung ương 10 của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 16-18/5/2019, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A nói :
"Tôi cũng phải nói thẳng ngay là chuyện người ta gọi là chống tham nhũng thực sự là đấu đá nội bộ thôi. Không thể chống tham nhũng ở trong thể chế như thế này.
"Trong thể chế mà không có tư pháp độc lập, không có tự do báo chí và tòa án xử theo lệnh của Đảng.
"Bản thân bộ máy này đẻ ra tham nhũng, hay nói là cái lò này là lò đẻ ra tham nhũng thì phải vứt cái lò đẻ ra tham nhũng này đi, chứ không phải là đốt những kẻ tham nhũng, bởi vì không bao giờ đốt hết được cả, hết tên này thì nó sẽ sinh ra tên khác.
"Cho nên nói một cách thẳng thắn là như vậy. Nhưng việc mà họ xử nhau để mang lại độ tin cậy nào đấy, cái làm người dân tin, thì tôi nghĩ cũng là tốt, không phải là xấu. Tôi ủng hộ việc mà họ xử như thế.
"Nhưng nhiều khi họ xử, tôi nói như là ông nguyên Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, về chủ trương kiểu như thế tôi nghĩ phải xử hết từ chóp bu trở xuớng, bởi vì chủ trương các ông đều hỏng cả, hoặc không chính xác cả. Tôi nghĩ rất khó nói ở đây thực chất nó là gì. Muốn thực chất là phải sửa đổi hệ thống, chống tham nhũng từ chỗ đó".
Bình luận về người được cho là dẫn dắt công cuộc "đốt lò" chống tham nhũng đang diễn ra ở Việt Nam từ đầu Đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam tới thời điểm này, Tiến sỹ Khoa học Nguyễn Quang A nói tiếp :
"Tôi nghĩ thực sự muốn chống tham nhũng là phải thay đổi những cái ở trong hệ thống, và chỉ thay đổi những cái đó trong một quá trình mà xã hội đang chuyển động như thế này, thì hiện tượng tham nhũng xảy ra là một chuyện bình thường.
"Bây giờ muốn để chống tham nhũng về dài hạn là phải thay đổi luật lệ, phải thay đổi cơ cấu của nhà nước và quan trọng nhất là tư pháp phải độc lập và phải có tự do báo chí. Chứ còn tất cả các báo chí đều hô là 'đốt lò', thì ai cũng hoan hô đốt lò, và nhiều báo chí hoan hô đốt lò thì người dân cũng rất là tin," ông Quang A nói.
So sánh với Trung Quốc
Từ Hà Nội, nhà văn Nguyên Bình, con gái của nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, chia sẻ góc nhìn tham khảo về Trung Quốc, bà nói :
"Trung Quốc cũng quá là một thể chế độc tài, độc đảng thì làm gì mà chẳng tham nhũng. Thế nhưng nhiều nước người ta cũng moi ra việc, chẳng hạn như Hàn Quốc, người ta cũng nói là có những ông bà làm to tham nhũng. Nhưng việc ấy không là phổ biến.
"Còn ở Việt Nam thì đây là ông Nguyễn Phú Trọng đứng ra chống tham nhũng, nhưng các cụ lão thành cách mạng đã ra một kiến nghị nói là ông Nguyễn Phú Trọng nói là mình liêm khiết thì phải tự mình đứng đầu làm gương mẫu kê khai tài sản.
"Nhưng cuối cùng ông ấy bảo kê khai tài sản lại ảnh hưởng đến quyền riêng tư. Thế là ông không chịu. Thành ra người ta cảm giác là ông Nguyễn Phú Trọng liêm khiết thôi, chứ chứng cớ để nói ông Phú Trọng liêm khiết là gì thì có ai biết đâu.
"Việc kê khai ấy nói là kê xong thì đóng vào dấu mật, thế thì kê khai làm gì ? Tham nhũng ở Việt Nam có tính chất phổ biến, còn ở các nước thì cứ có tham nhũng thì dù là Tổng thống hay là ai cũng phải bị đi tù.
"Vừa rồi ông Phú Trọng có 'bắt được' ông Ủy viên Bộ Chính trị, thì nhiều người cũng hoan nghênh lắm, bảo từ trước đến nay đã ai làm được như thế đâu. Đúng vậy, từ trước đến nay chưa ai làm được, như thế cũng là tốt.
"Thế nhưng mà nói như Tiến sỹ Quang A, thể chế mà đẻ ra tham nhũng thì nó vẫn còn. Cho nên, điều quan trọng nhất là sở hữu nhà nước về đất đai đó, tha hồ mà tham nhũng".
So sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc trong công cuộc chống tham nhũng, chỉnh đốn đảng, nhà văn Nguyên Bình nói tiếp với Bàn tròn BBC :
"Chính ra là Việt Nam không học được Trung Quốc một cách tử tế, một cách hẳn hoi. Cũng học nhưng lại học méo mó hơn Trung Quốc nhiều. Tôi nói như cách đây mấy Đại hội ở bên Trung Quốc người ta đã đề ra là Đại hội Đảng bầu ra Ban Kiểm tra & Kỷ luật, tức là Ban Kiểm tra & Kỷ luật ấy ngang hàng với Trung ương.
"Bao nhiêu năm nay, Ban Kiểm tra đó rất có uy quyền, nó đã làm được, đã ngăn chặn được nhiều vụ tham nhũng.
"Nhưng còn Việt Nam không có hiện tượng như thế, mà chỉ may ra vừa rồi ông Nguyễn Phú Trọng nổi lên, ông cũng có nhiều những biện pháp lôi ra được những ông Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị để ông chống tham nhũng. Nhưng sau này, nếu không có ông Nguyễn Phú Trọng làm được như thế, thì ai làm, mà có cơ chế nào để mà làm được như thế ?" bà Nguyên Bình đặt câu hỏi.
Cũng hôm 16/5, trong một ý kiến mang tính tham khảo thêm được gửi cho Bàn tròn thứ Năm, nhà báo Phùng Triệu Âm, phóng viên của BBC Tiếng Trung từ Văn phòng tại Washington DC bình luận :
"Chiến dịch chống tham nhũng ở Trung Quốc đã diễn ra được hơn 6 năm. Hơn 440 quan chức cấp cao và cấp trung đã bị hạ bệ. tháng 12 năm ngoái (12/2018), Trung Quốc tuyên bố rằng chiến dịch chống tham nhũng đã mang lại thành công vượt trội.
"Đây là một sự thay đổi lớn trong cách nói. Trong quá khứ, chính phủ thường giữ một giọng điệu rằng rất nhiều việc còn phải làm để trấn áp tham nhũng. Tuyên bố thành công chống tham nhũng có thể có nghĩa là bây giờ ông Tập Cận Bình không phải đối mặt với nhiều thách thức nội bộ và thách thức quyền lực, và bây giờ có thể chuyển đổi sang tập trung cho phát triển kinh tế và tăng cường ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc".
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 17/05/2019
Đã có những ý kiến bất đồng, thậm chí trái chiều khi nhìn lại thân thế, sự nghiệp và di sản của cố Chủ tịch Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh.
Đại tướng Lê Đức Anh tặng hồi ký cho Thư viện Quân đội hồi tháng 1/2016
Hôm 02/05/2019, tại Bàn tròn thứ Năm của BBC Tiếng Việt từ London, một khách mời từ Viện Nghiên cứu Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam, Đại tá Phạm Hữu Thắng phát biểu mở đầu Tọa đàm nói :
"Về sự nghiệp của tướng Lê Đức Anh thì ông sinh ra tại Huế. Ông là người vào Đảng rất sớm. Ông đã tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam. Có thể nói cuộc đời của ông là cuộc đời binh nghiệp là chủ yếu. Sau đó ông giữ cương vị Chủ tịch nước.
"Những năm sau này, có thể nói trong cuộc đời của ông thì ông luôn ở chiến trường gian khó, những nơi chiến sự ác liệt. Ông là người hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước giao cho. Có thể nói ông là người có công lao rất lớn với quân đợi cũng như nhà nước Việt Nam".
Khi được hỏi có điều gì gây tranh cãi trong thân thế, sự nghiệp của ông Lê Đức Anh hay không, Đại tá Phạm Hữu Thắng nói :
"Gây tranh cãi thì từ xưa đến nay thì cũng có nhiều ý kiến đồn đoán và nhiều sự việc lâu rồi. Nhưng cái đó cũng chưa có phát ngôn chính thức của Đảng cho nên tôi cũng không nắm rõ".
Nhà văn Nguyễn Nguyên Bình là cựu sĩ quan quân đội và con gái của cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Nhà văn Nguyễn Nguyên Bình, con gái của cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, từ Hà Nội nói :
"Khi nói về ông Lê Đức Anh thì rất nhiều ý kiến mâu thuẫn với nhau. Gần đây nhất thì có cái việc ra đời cuốn sách "Gạc Ma, vòng tròn bất tử". Trong đó có ông Thiếu tướng anh hùng Lê Mã Lương, Chủ nhiệm Bảo tàng Quân đội cùng biên soạn xuất bản cuốn đó. Hiện tượng này gây ra tranh luận rất là nhiều. Mà thậm chí có người đòi cấm quyển sách đấy.
"Nhưng trong đấy nội dung là việc Trung Quốc đánh đảo Gạc Ma của Việt Nam thì do một nguyên nhân là ông Lê Đức Anh không cho nổ súng để đánh lại Trung Quốc. Đúng như ông Thắng vừa nói, không có một xác minh nào chính thống trên văn bản hay báo chí của nhà cai trị. Thành ra nó vẫn là tin đồn. Trên mạng có những ghi âm hoặc thư tố cáo ; những gì nói về ông Lê Đức Anh là người rất ham quyền lực, sẵn sàng triệt bỏ những người chia quyền lực với mình".
"Có một điều tôi nghe chính thức từ bố tôi. Cụ đã từng nói trên các kênh ở trên mạng, một là lý do ông Lê Đức Anh không cho nổ súng ở Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa. Thứ hai là ông cụ tôi với một số ông lão thành cách mạng ký vào bảng kiến nghị nói là ông Đức Anh có một lịch sử không minh bạch. Ví dụ là ngày trước chưa bao giờ ông được kết nạp vào Đảng nhưng sau đó thừa nhận ông là Đảng viên. Đề nghị Ban tổ chức trung ương xem xét vấn đề đấy. Nhưng chỉ đưa lên các thông tin của người dân thôi. Không có thông tin ai trả lời chính thống hay cái gì cả. Những việc đấy cứ tồn tại mãi trên mạng. Cái đấy đúng là gây tranh cãi rất nhiều mà không có câu trả lời chính thức".
'Để lại nhiều nghi ngờ'
Cũng từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, người gần đây có nhiều bài viết phản biện về Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng này, nói :
"Tôi tán thành ý kiến của chị Nguyên Bình là cuộc đời của ông Lê Đức Anh để lại nhiều nghi vấn, nhiều thắc mắc ở trong nhân dân. Ông ấy xuất thân từ anh cai đồn điền cao su. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, thì ông vận động công nhân, rồi ông đi theo kháng chiến. Sau này thì từ việc tham gia kháng chiến, tham gia quân sự như thế, ông ấy cứ lên dần dần. Rồi đến lúc ông được phong chỉ huy quân sự của Tỉnh. Lúc ấy tự nhiên là người ta cứ tưởng rằng ông phải là một Đảng viên và người ta mời ông sinh hoạt. Tự nhiên ông sinh hoạt Đảng. Và sau này trong cái lý lịch thì bảo rằng ông ấy được kết nạp vào Đảng năm 1938. Nhưng nói rằng hồ sơ không có".
Giáo sư Nguyễn Đình Cống có nhiều bài viết phản biện về Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi được hỏi về bằng chứng, hay cơ sở cho các nhận định trên, Giáo sư Nguyễn Đình Cống nói :
"Không, tôi không có. Thật tình phải nói như thế. Nếu có tôi đã tung ra rồi. Tôi cũng chỉ nói theo dư luận thôi. Đặc biệt có một con người cũng tương đối rõ là ông Nguyễn Khắc Mai, ít hơn ông Lê Đức Anh vài ba tuổi, cũng là người Thừa Thiên Huế. Vừa rồi ông Nguyễn Khắc Mai có viết một bài là "Kỳ quặc, người đồng hương của tôi", ông ấy thắc mắc.
"Thế thì chuyện mà ông Lê Đức Anh không phải là Đảng viên, không được kết nạp vào Đảng lúc nào cả thì người ta nói nhiều lắm rồi. Nhưng cái này tôi cũng chỉ nghe thôi rằng sau đó thì ông Đỗ Mười, lúc ông làm Tổng bí thư ông ấy gạt đi. Ông bảo người hoạt động xứng đáng là Đảng viên quá còn gì, cứ coi như là ông ấy vào Đảng, và rồi ông ấy thành Ủy viên Bộ chính trị, rồi làm Chủ tịch nước. Đấy là một chuyện.
"Nhưng qua việc ông Lê Đức Anh, người ta thấy đấy là sự trưởng thành của một Đảng viên điển hình. Nghĩa là từ một anh công nhân, hăng hái, từ một anh học hành chẳng có bao nhiêu, trưởng thành trong công tác, chiến tranh, trong thực tế, rồi giai cấp, người của giai cấp, lập trường giai cấp, hăng hái chiến đấu thì được đề bạt lên".
Phản biện lại các ý kiến ở trên, Đại tá Phạm Hữu Thắng nói :
"Thứ nhất về ý kiến ông Lê Đức Anh không cho nổ súng ở Gạc Ma thì tôi phản bác ý kiến này. Bởi vì tôi đã được đọc các tổng kết của Quân chủng hải quân về sự kiện 1988. Sự kiện ấy là lúc mà chúng ta đưa bộ đội ra xây dựng căn cứ hậu cần ở các đảo ngầm. Lúc đó Trung Quốc cũng đổ quân và thực hiện các hành động chiếm các đảo ngầm. Và hai bên tranh chấp nhau ở Gạc Ma. Và thực tế trong các tổng kết, lúc đó trong nhiệm vụ của Hải quân và đưa các tàu hậu cần, lực lượng công binh và hải quân đến xây dựng các nơi trú quân để mà chiếm giữ cắm cờ.
"Chúng ta [Việt Nam] có mang theo súng bộ binh, mang theo của các tàu vận tải, chứ không có tàu chiến v chúng ta tránh những xung đột lớn. Nếu xung đột lớn thì thực ra với tiềm lực hải quân của chúng ta mà xung đột lớn, chúng ta sẽ mất hết đảo. Chúng ta kiềm chế trong phạm vi xây dựng những đồn trú.
"Chứ còn có một lệnh như thế thì tôi đã xem hết những lịch sử hải quân, cũng như các tổng kết của các đơn vị hải quân tham gia sự kiện 1988, thì Bộ tư lệnh hải quân trong sự kiện ấy đã thành lập một Bộ tư lệnh Tiền phương ở trong Cam Ranh, Nha Trang, chỉ đạo việc xây dựng đảo ngầm và chiến đấu với Trung Quốc. Tôi đọc tài liệu như thế tôi không thấy có một quyết nghị nào, cũng như mệnh lệnh nào là cấm nổ súng.
'Không có lý do gì ?'
Đại tá Phạm Hữu Thắng là nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam
Khi được hỏi vì sao "không nổ súng" và trước câu hỏi của khán giả gửi Bàn tròn BBC hỏi "liệu như thế thì phải chăng Tướng Lê Mã Lương đã nói sai", Đại tá Phạm Hữu Thắng đáp :
"Chúng ta cũng có nổ súng bộ binh chứ không phải là không nổ súng. Nhưng bởi lực lượng của Trung Quốc áp đảo và chúng ta chỉ có tàu vận tải nên không thể chống đỡ nổi hoạt động quân sự của Trung Quốc ở thời điểm đó".
Về thân nhân và lý lịch Đảng của ông Lê Đức Anh, nhà nghiên cứu từ Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam nói :
"Thực ra tin này cũng đồn thổi trong nhân dân rất nhiều. Với quan điểm của tôi, khi Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, thì thu phục rất nhiều lực lượng từ người nông dân, trí thức, cả những người theo lính cho Pháp của chính quyền bên kia để tham gia một cuộc kháng chiến. Sau này, họ có những người trở thành tướng lĩnh, và trong quá trình phấn đấu vì sự sống còn của dân tộc, họ đã trưởng thành.
"Còn có hay không việc ông Lê Đức Anh không vào Đảng thì nó chỉ là đồn thổi thôi, tôi không dám khẳng định là có hay không. Nhưng với công lao của ông như thế, và được trưởng thành trong lò lửa của cuộc kháng chiến như thế, ông trưởng thành từng bước như thế ; và sau này khi ở cương vị cao, ông vẫn là người có trách nhiệm với quốc gia. Và ông có những công lao rất to lớn trong việc xây dựng đất nước. Nếu chúng ta đặt lại vấn đề đó, thì mục đích cũng không được trong sáng".
Khi được hỏi liệu lý lịch Đảng của ông Lê Đức Anh là rõ ràng, không có vấn đề hay là không, Đại tá Phạm Hữu Thắng nói tiếp :
"Bởi vì tôi không nắm được, và cái đấy là tin đồn. Cái đấy là cơ quan tổ chức Đảng thì người ta sẽ phải nắm. Và rõ ràng với một người được tôi luyện như thế và được trưởng thành trong tổ chức như thế, thì không có lý do gì họ lại làm gián điệp, phản động Tổ quốc được".
Giáo sư Ngô Vĩnh Long là sử gia từ Đại học Maine, Hoa Kỳ
Từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nêu quan điểm :
"Nước ta có câu "Sông có lúc, người có khúc". Khi ta đánh giá cống hiến của người nào thì chúng ta phải nói các giai đoạn khác nhau. Có giai đoạn tích cực và có giai đoạn không có những cống hiến tốt. Giai đoạn tích cực của ông Lê Đức Anh là khi ông ấy làm tham mưu trưởng ở Quân đội giải phóng miền Nam từ năm 1964 đến năm 1974. Lúc đó ông cũng là Phó tư lệnh Quân đội giải phóng miền Nam.
"Trong giai đoạn này, ông có nhiều cống hiến tốt. Và đặc biệt là sau Hiệp định Paris, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh Quân đội Sài Gòn đi đánh các vùng của Mặt trận giải phóng. Họ gọi là Hành quân tràn ngập lãnh thổ và Mỹ không biết cho bao nhiêu súng ống, đạn dược. Và chính các tư liệu của Mỹ nói là phần lớn những cuộc tấn công này là do ông Thiệu gây nên. Và bên Việt Nam thiệt hại rất nhiều. Ngoài Bắc thì bảo là không được tấn công lại, không được đánh lại, không được đánh các đồn của Sài Gòn.
"Nhưng cuối cùng, với sự đồng ý của ông Võ Văn Kiệt và một số người khác, thì cuối năm 1973, ông Lê Đức Anh chỉ huy đánh lại. Và khi chỉ huy đánh lại thì quân đội của Sài Gòn nhiều nơi tan rã. Cái này dẫn đến cuối cùng là chiến tranh đã được kết thúc. Nếu không có sự đánh lại dưới sự chỉ huy của ông Lê Đức Anh, chưa chắc gì bộ đội của Mặt trận giải phóng miền Nam có thể sống còn trong giai đoạn rất là khó khăn này. Cái đó là giai đoạn tích cực.
"Còn giai đoạn tôi nghĩ là ông Đức Anh làm nhiều sai lầm là khi ông có trách nhiệm ở Campuchia. Từ cuối năm 1979, thì ông đã đề ra chủ tương khóa chặt biên giới, xây dựng phòng thủ biên giới với mật danh là K5, bằng cách bắt nhiều người dân địa phương chặt cây, chặt từ rừng núi, chặt xuống đến đồng bằng. Nhiều tài liệu nước ngoài nói cái bề dài của tuyến phòng thủ là 1.200km, nhưng mà đặc biệt là từ tháng 7/1984, 700km được xây dựng bằng cách chặt rừng và từ đó là 700km, và bề rộng là 500 thước.
"Trong cái bề rộng này, mỗi một cây số phía Việt Nam chôn 3.000 mìn. Vì chôn mìn như thế, sau này gây ra rất nhiều thương vong cho người Campuchia. Có một số tài liệu cho rằng năm 1990, có 6.000 người Campuchia bị thương vong, nhiều người phải cắt bỏ chân. Đây là vấn đề gây nhiều căng thẳng giữa Việt Nam với Campuchia, cũng như là Việt Nam mất sự ủng hộ trên thế giới".
'Không có lửa, sao có khói ?'
Về bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ của Việt Nam và vài trò của ông Lê Đức Anh, Đại tá Phạm Hữu Thắng nói :
"Có thể nói nhiệm kỳ mà ông Lê Đức Anh làm chủ tịch nước thì Việt Nam đã bình thường hóa được quan hệ với hai nước lớn là Trung Quốc và Mỹ. Và ông Lê Đức Anh cũng là người đầu tiên đến trụ sở Liên Hiệp Quốc sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Và ông Lê Đức Anh là một trong những người đầu tiên có những đóng góp trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Thế còn tranh luận về việc quan hệ với Trung Quốc thì lại coi ông ấy là "Việt gian" thì tôi cho rằng cái đấy cũng không thật đúng đắn".
Khi được mời trao đổi lại, Giáo sư Nguyễn Đình Cống nói :
"Trong nhân dân thì có những chuyện nói như thế nhưng mà không thể kết luận như thế được. Nhưng mà rõ ràng người mà "móc ngoặc" để làm nối với Trung Quốc, việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là việc tốt, nhưng để cho Việt Nam lệ thuộc nhiều quá vào Trung Quốc thì đấy là chuyện dở. Nếu như việc bình thường ấy mà mang lại một sự bình đẳng hợp tác tương trợ lẫn nhau thì rất đẹp, ví dụ như là bình thường hóa quan hệ với Mỹ chẳng hạn.
"Nhưng mà bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc đưa cho Việt Nam ở cái thế là bị lệ thuộc nhiều hơn và hiện nay nói dẫn tới rất nhiều lĩnh vực của Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc, thì cái ấy nó không tốt".
Bộ đội Việt Nam rút quân khỏi Campuchia
Nhà văn Nguyễn Nguyên Bình bình luận thêm :
"Tôi nghĩ là những chuyện người ta đồn đoán trong dân gian thì trong tục ngữ Việt Nam có câu "không có lửa làm sao có khói", nó phải có vấn đề gì chứ. Thế tại sao người ta không đồn người khác ?
"Nhưng mà tại vì thế này, đã bảo từ trước đến nay chưa bao giờ có một cái sự minh bạch, chưa có sự công nhận một cách chính thống nào cả cho nên là chỉ có thể nói đến thế thôi".
Về di sản và bài học rút ra từ cuộc đời, sự nghiệp của ông Lê Đức Anh, Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ Mỹ nói :
"Tôi nghĩ rằng vấn đề đối đãi với các nước láng giềng thì nên học một bài học về sự đối đãi của ông Lê Đức Anh ở bên Campuchia và tại sao nó gây khó khăn cho Việt Nam sau này. Thành ra tôi nghĩ là phải nghiên cứu kỹ về vai trò của ông Lê Đức Anh ở Campuchia, đặc biệt là từ năm 1981 cho đến năm 1986 lúc ấy ông là tư lệnh quân đội Việt Nam ở bên đó. Và những gì ông đã làm ở bên đó như là bắt bớ một số lãnh đạo ở bên Campuchia… thì tôi nghĩ Việt Nam nên học bài học này và không nên đối đãi với các nước anh em của mình theo kiểu như vậy.
"Liên quan Hội nghị Thành Đô (1990), ông Lê Đức Anh được cử sang để liên lạc với bên Trung Quốc, bên Trung Quốc phải có tin tưởng gì ông thì Việt Nam mới cử sang. Còn như mà Trung Quốc không tin tưởng như là trong vấn đề với bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thì sau hội nghị đó bên Trung Quốc bắt Việt Nam phải đuổi ông Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi bộ chính trị. Nếu chúng ta so sánh vấn đó ta hiểu rằng là vai trò của ông Lê Đức Anh là như thế nào. Nhưng tôi muốn nói thêm một vấn đề nữa là vấn đề bình thường hóa với Trung Quốc và Mỹ sẽ không có được nếu không có vấn đề Việt Nam đã vận động tốt các nước trong ASEAN. Các nước trong ASEAN đã ủng hộ Việt Nam, tất cả các nước đó đã bỏ vấn đề cấm vận với Việt Nam, tất nhiên là Mỹ và Trung Quốc không thể tiếp tục được nữa. Lúc đó Mỹ và Trung Quốc thấy là phải làm sao bỏ chính sách chống Việt Nam. Nhưng mà lý do Trung Quốc làm được như vậy là bởi vì bên Việt Nam chịu nhượng bộ rất nhiều ở bên Campuchia và các nơi khác".
Chủ tịch Việt Nam Lê Đức Anh, Tổng Bí thư Đỗ Mười tiếp Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân
Giáo sư Nguyễn Đình Cống nêu quan điểm :
"Tôi đang suy nghĩ xem thử ông Lê Đức Anh có để lại một cái gì cho dân tộc Việt Nam hay không thì tôi thấy chung chung qua những ý người ta đánh giá ông Lê Đức Anh không cao lắm. Có thể đối với đảng Cộng sản, đặc biệt là đối với lãnh đạo đảng Cộng sản hiện nay người ta đề cao quan hệ với Trung Quốc, vì thế mà người ta đánh giá cao ông Lê Đức Anh. Còn những người đảng viên hoặc quần chúng hoặc nhân dân mà người ta không thích thú lắm cái chuyện quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay thì người ta lại xem ông Lê Đức Anh là người mà có nhược điểm".
'Đặt vào bối cảnh và viễn thị'
Đại tá Phạm Hữu Thắng nói :
"Thời điểm chúng ta bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991 cũng là thời điểm sau đó chúng ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ là thời điểm kinh tế đất nước đang ở thời điểm hết sức khó khăn, bị hai nước cấm vận. Có lẽ là không ai thấu hiểu bằng những người lính chúng tôi trong cái điều kiện của những năm tháng đó. Những năm tháng mà miền Bắc thiếu từ các kim, hộp thuốc đánh răng, nhân dân trước năm 1986 thì đói kém, và một đất nước sau chiến tranh mà bị cấm vận của các nước lớn như thế rồi bị chiến tranh ở hai đầu như thế nó đang cực kỳ khó khăn.
"Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc cũng như với Mỹ là yêu cầu cấp thiết. Và thực ra thì sau này bản thân chúng tôi thấm trải cái xung đột của ta [Việt Nam] với Trung Quốc, quan hệ Việt Nam với Trung Quốc nó trục trặc thì nền kinh tế của chúng ta nó ọp ẹp. Do đó, điều kiện như thế mà bây giờ chúng ta lại đổ lỗi cho đồng chí Lê Đức Anh trong việc thân Trung Quốc thì tôi cho rằng cái đấy là không đúng. Và cũng cái thời điểm như thế, ông cũng là Chủ tịch nước và cũng là thời điểm bình thường hóa quan hệ và tạo ra quan hệ tốt đẹp với Mỹ thì chúng ta lại chỉ lấy cái gán cho "thân Trung Quốc" rồi "lệ thuộc Trung Quốc" mà chúng ta đã đổ lỗi cho ông Lê Đức Anh thì tôi cho rằng cái đấy không phù hợp".
Nhà văn Nguyễn Nguyên Bình phát biểu :
"Từ lâu lắm tôi đã đọc ở đâu đấy một câu nói người ta nói là lịch sử là một "sinh vật viễn thị". Cho nên người ta muốn đánh giá lịch sử cho đúng thì người ta phải lùi ra rất xa. Bây giờ tôi nghĩ trong thời đại này, thời đại Internet, rồi được cởi mở hơn trước thì người ta nhìn nhận lịch sử phải khác. Mà thời gian đã lùi xa rồi thì có rất nhiều cái ngày xưa người ta là tốt thì bây giờ nó thành là bị hỏng, cả những con người cũng thế.
"Công tội thì tôi nghĩ là theo cái cách để mà đánh giá chung, đúng đắn, thì phải rõ ràng. Ngay phía bên Trung Quốc, ông Mao là một ông to lớn được gọi là nổi bật nhất của Trung Quốc thì người ta còn dám viết ra quyển sách là "Công bảy, tội ba". Thế thì bây giờ những nhân vật như từ ông Lê Đức Anh trở lên thì đáng lẽ phải công khai, phải có đánh giá công tội, nhất là bây giờ ông ấy mất rồi thì "Cái quan định luận", tức là đóng nắp quan tài rồi sẽ đánh giá.
"Chứ bây giờ cứ nói một người này tài giỏi quá, lộng lẫy quá, rất là nhiều công lao nhưng mà khuyết điểm của người ta ở đâu cũng không được công khai hóa những chuyện đấy. Thì cái đó tôi thấy là lịch sử cũng chưa đúng đắn mà phải đến một lúc nào đó vấn đề gì cũng phải được công khai hóa và vấn đề lịch sử phải đánh giá cho khách quan hơn bây giờ, chứ bây giờ là chưa khách quan".
Đưa ra nhận xét cuối cùng tại cuộc Tọa đàm, Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ Mỹ nói :
"Tôi đồng ý với ý kiến vừa mới đưa ra, chỉ xin nói thêm như thế này. Nếu mà những tài liệu ở trong nước chưa đưa ra được thì những người nghiên cứu cũng nên dùng tài liệu của nước ngoài ; là bởi vì những tài liệu về những cống hiến của ông Lê Đức Anh ở nước ngoài cũng có rất là lạ".
Mời quý vị theo dõi toàn văn cuộc Tọa đàm Bàn tròn về Di sản Đại tướng Lê Đức Anh tại đây.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 05/05/2019
Ngày 03/3/2019, Ban vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam đánh dấu năm năm ngày thành lập.
Trang bìa số đặc biệt đánh dấu 5 năm thành lập Ban vận đ Văn đoàn Độc lập trên Tạp chí mạng Văn Việt
Ban vận động này không được chính quyền ở Việt Nam công nhận.
Nhìn lại giai đoạn phát triển này, một thông điệp được đăng tải trên Tạp chí Văn Việt, diễn đàn thuộc Ban vận động, có đoạn :
"Thoắt cái đã năm năm ! Vui buồn lẫn lộn ! Vui vì anh chị em ta, những người Việt viết văn tử tế trên toàn cầu liên kết nhau, đã làm được những việc đúng đắn và có ích, nhiều việc lúc đầu không mấy người nghĩ là làm được".
Nhân dịp này, mời quý vị theo dõi một cuộc trao đổi giữa BBC với nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng, thành viên sáng lập Tạp chí Văn Việt và Ban Vận động bên lề một Hội thảo tư trong dịp nhà thơ ghé thăm Châu Âu.
Hoàng Hưng : Trang mạng Văn Việt là cơ quan chính thức của Ban vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam mà chúng tôi thành lập từ tháng Ba năm 2014. Đến nay qua mấy năm vận hành, tôi thấy rất có hiệu quả và cái chúng tôi mừng nhất là nó tập hợp được ngày càng đông các tác giả về văn học trong và ngoài nước. Thí dụ số tác giả ở hải ngoại có mặt trên Văn Việt tôi thống kê tạm thời đã tới trên 150 tác giả, tức là chiếm một nửa các tác giả xuất hiện trên Văn Việt.
Thế thì chứng tỏ điều chúng tôi đề ra từ đầu, tức là tạo ra không gian để cho các nhà văn không phân biệt quan điểm chính trị, nghệ thuật, mà chỉ có chung nhau một nguyện vọng xây dựng nền văn chương tiếng Việt tự do, nhân bản, không phân biệt trong, ngoài nước, chúng tôi cho rằng chúng tôi đã bước đầu thành công.
Hiện giờ chỉ có hai vấn đề. thứ nhất là khả năng về công nghệ, kỹ thuật của chúng tôi rất hạn chế, bởi phần lớn những người làm cũng là những người lớn tuổi, không phải là thạo công nghệ lắm. Và thứ hai vẫn là sự ngăn chặn rất ghê gớm của an ninh mạng. Tức là họ tìm cách chặn bằng tường lửa, rồi họ tìm cách cản trở các cộng tác viên trẻ làm việc với chúng tôi, vì họ rất sợ các ảnh hưởng. Cho nên họ gây sách nhiễu rất nhiều với những người trẻ tuổi mà cộng tác với Văn Việt.
Và cái đó chúng tôi cũng nhiều lần có ý kiến phản đối. Hay là hàng năm chúng tôi đều trao giải Văn Việt, thì giải thưởng này càng ngày càng có uy tín, trao cho cả tác giả trong nước lẫn ngoài nước, dựa trên một tiêu chí duy nhất là có chất lượng nghệ thuật. Thế nhưng họ vẫn luôn luôn phá những buổi trao giải đó. Gần đây họ phá rất kinh khủng, chẳng hạn, chỉ vì chúng tôi trao giải thưởng cho một tác phẩm dịch "1984" của George Orwell. Chúng tôi đã phản đối công khai vì chúng tôi không chấp nhận được chuyện đó.
'Làm văn, không làm chính trị'
Một tác phẩm thi ca được Văn Việt chọn giới thiệu trên tạp chí này
BBC : Liên quan Ban vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam, bao giờ Văn đoàn đó chính thức ra đời và sẽ như thế nào, thưa ông ?
Hoàng Hưng : Cái này cũng có rất nhiều người đặt vấn đề, ngay trong nội bộ thành viên của Ban vận động cũng nhiều lần đặt ra. Nhưng cuối cùng, sau khi cân nhắc, những anh em chủ chốt cũng đưa ra một ý kiến là chưa đến lúc để ra đời một Văn đoàn Độc lập đúng như danh xưng của nó. Tức là một tổ chức rõ ràng, một thứ hiệp hội rõ ràng.
Là vì chúng tôi là những người làm văn là chính, chúng tôi không phải là một tổ chức đấu tranh chính trị, cho nên chúng tôi cần một sự làm việc lâu dài. Như tôi vẫn nghĩ chúng tôi không muốn làm liệt sỹ quá sớm. Bởi vì đối với văn học, chuyện xông ra để mà làm liệt sỹ đấu tranh, tôi nghĩ là nó không có ý nghĩa lắm bằng việc mình phải làm tác phẩm, làm tác phẩm để lại cho lâu dài đối với nền văn học tiếng Việt.
Cho nên chúng tôi không chủ trương đối đầu đối với công an hay là đối với nhà nước. Thế thì bây giờ nó có một cái tế nhị là theo quy định hiện hành của nhà nước Việt Nam, chúng tôi muốn lập hội thì chúng tôi phải xin phép. Mà xin phép tất nhiên là không được, chắc chắn là không được rồi.
Bởi vì chỉ cần họ đưa ra lý lẽ như thế này là chúng tôi sẽ bị loại ngay, tức là trong Nghị định quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội của họ, họ nói rằng mỗi một công việc chỉ có một hội thôi, thế thì văn học đã có Hội nhà văn Việt Nam chính thức của nhà nước rồi thì không thể có một hội thứ hai được nữa.
Điều này vô lý lắm, nhưng đã là quy định của nhà nước rồi thì họ có thể dựa vào đó để họ 'khủng bố', do đó chúng tôi chủ trương không đối đầu, cái đó không cần thiết, mà cái chính là mình làm được cái gì. Còn cái đó ngày xưa người ta gọi là một Câu lạc bộ thì có cái gì đâu ? Hay thử gọi đây là một nhóm vui vẻ thì cũng chẳng chết ai, miễn là nội dung làm được cái gì.
BBC : Trước đây ông có thời gian tham gia biên tập cho Tạp chí mạng Talawas, sau này tham gia sáng lập và điều hành Văn Việt, có điều gì đặc sắc mà ông có thể chia sẻ từ hai kinh nghiệm làm báo này ?
Hoàng Hưng : Nổi bật nhất trong công tác biên tập của Văn Việt là chúng tôi phải giữ được sân chơi rất rộng rãi, cởi mở, nhưng có một đường hướng rõ ràng, chứ không phải là thỏa hiệp một cách bừa bãi. Chúng tôi luôn luôn phải dựa vào một số tiêu chuẩn.
Thứ nhất là tất cả những bài mà chúng tôi đăng lên phải có một chất lượng nhất định về cả mặt nghệ thuật lẫn về mặt tư tưởng.
Thí dụ những bài viết có tính chất quá khích chúng tôi cũng không đăng. Hay những bài viết có thể có ý tưởng hay, nhưng chất lượng nghệ thuật chưa đến nơi, thì chúng tôi cũng không thể đăng được.
Tiêu chuẩn chỉ có thế thôi, còn ngoài ra, chúng tôi chấp nhận mọi trường phái, mọi phong cách, mọi quan điểm nghệ thuật. Đó cũng là điều mà có lẽ cũng khác với nhiều chỗ khác, kể cả khác với Talawas.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 04/03/2019
*******************
Vì sao Văn đoàn Độc lập không kỷ niệm 5 năm ? (BBC, 05/03/2019)
Ban Vận động Văn đoàn Độc lập thông báo họ không kỷ niệm 5 năm hoạt động "vì lý do an ninh" trong lúc một thành viên nói với BBC rằng "người ta báo trước là mình không được tổ chức công khai".
Hình tư liệu sự kiện thành lập Ban vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
Thông cáo của tổ chức xã hội dân sự nêu trên đăng tại trang Vanviet.info nói họ "quyết định hủy bỏ buổi kỷ niệm 5 năm hoạt động và trao giải Văn Việt lần thứ tư vào hôm 3/3 vì lý do an ninh".
Ban Vận động Văn đoàn Độc lập quy tụ những cây bút quen thuộc như Bùi Chát, Bùi Minh Quốc, Bùi Ngọc Tấn, Dương Tường, Đặng Tiến, Đỗ Lai Thúy, Đỗ Trung Quân, Giáng Vân, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Quang Lập, Phạm Đình Trọng...
Cũng trong dịp này, bài phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc, trưởng ban Vận động Văn đoàn Độc lập đăng trên Vanviet.info cho biết : "Chúng tôi là những người cầm bút không muốn để cho ai dùng mình cả. Có thể có một câu châm ngôn mới : "Hãy nói cho tôi biết ai nuôi và dùng Hội của anh, tôi sẽ nói cho anh biết hội của anh là cái thứ hội gì !".
"Nguyên tắc của chúng ta là không chỉ tôn trọng mà còn cố gắng phát huy tối đa sự đa dạng, đa nguyên của văn học, bới chính văn học sinh ra là để nói lên và bảo vệ tính đa dạng, đa nguyên của thế giới, của cuộc sống và con người".
'Đã báo trước'
Hôm 4/3, dịch giả Phạm Nguyên Trường, thành viên Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, nói với BBC : "Theo như tôi biết, người ta đã báo trước là mình không được tổ chức kỷ niệm công khai".
"Năm ngoái thì người ta phá ngay từ đầu bằng cách cắt điện, cắt nước tại nơi tổ chức ở Sài Gòn".
"Sau đó mọi người đành kéo vào quán ăn một tô phở".
"Năm nay thì không biết lý do cụ thể là gì nhưng năm ngoái, người ta nói với ban tổ chức là cuốn 1984 [tiểu thuyết của nhà văn George Orwell] do tôi dịch có những đoạn mà giới an ninh văn hóa bảo là nói về họ, nên không được trao giải cho cuốn này".
"Nếu cứ trao giải thì người ta sẽ phá".
Ông Nguyên Trường nói thêm : "Tất nhiên là chính quyền không khuyến khích các cá nhân tham gia Văn đoàn Độc lập".
"Đây là tổ chức tư nhân nên họ không kiểm soát được, nên họ sẽ ngăn chặn thôi".
"Theo như tôi hiểu, người ta chỉ làm phiền những buổi tụ tập đông người [của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập] chứ còn đăng bài trên trang web thì toàn những người già già thôi thì người ta cũng không làm gì".
Bàn về chuyện kiểm duyệt xuất bản sách, dịch giả Phạm Nguyên Trường nhận định : "Tôi thấy tình hình kiểm duyệt sách hiện khá tùy tiện".
"Ông kiểm duyệt lúc làm căng, lúc không căng. Đã cấm đoán mà chẳng có theo luật lệ gì cả".
"Cùng một cuốn nhưng nhà xuất bản này thì bị cấm còn nhà xuất bản khác thì làm được nên cuối cùng chẳng hiểu nó như thế nào".
Nhà văn Nguyên Ngọc
'Đối trọng với Hội Nhà văn của nhà nước'
Hồi năm ngoái, một đại diện của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập nói với BBC rằng "nên lấy làm mừng" về văn bản của Ban Tuyên Giáo lệnh đề nghị "rút toàn bộ tác phẩm của nhà văn có tên trong Văn đoàn Độc lập ra khỏi sách giáo khoa".
Mạng xã hội rò rỉ một văn bản do ông Võ Văn Phuông, phó ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, "đề nghị Ban Cán sự Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ đạo rút toàn bộ tác phẩm của các tác giả tham gia tổ chức Văn đoàn Độc lập ra khỏi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới".
Văn bản cũng nêu : "Việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới phải bám sát định hướng của Đảng. Sách giáo khoa Ngữ văn mới phải thể hiện sâu sắc nội dung giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc và chủ nghĩa nhân văn cao cả".
Thời điểm đó, ông Hoàng Dũng, thành viên Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, nhà nghiên cứu ngôn ngữ và cũng là giảng viên ở TP. Hồ Chí Minh, bình luận : "Đã có không ít nhà văn tên tuổi bị trục xuất khỏi văn đàn, tác phẩm bị tiêu hủy, mà có phải ai cũng may mắn có một văn bản như thế đâu".
"Thì đấy, giấy trắng mực đen Ban Chấp hành Hội Nhà văn chỉ ra quyết định truất ba năm hội tịch Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán nhưng mãi 30 năm sau hội tịch của họ mới được phục hồi !"
"Còn Nguyễn Mạnh Tường từ năm 1957 đến 1993, không biết do lệnh của ai, hoàn toàn bặt tiếng, không có một tác phẩm nào được in, cho dẫu là một bài báo nhỏ !"
"Chuyện xửa chuyện xưa ? Không, chuyện nảy chuyện nay đấy : một bài đăng báo không vừa ý một quan chức có trách nhiệm quản lý, là có thể bị bóc tức khắc, đôi khi chỉ cần một cú điện thoại, thậm chí-người ta đồn-một cái tin nhắn !"
"Cho nên, trước một văn bản như thế này, nên lấy làm mừng ! Chỉ mong từ nay, tất cả những chỉ thị kiểm duyệt văn chương đều có văn bản. Để cho các thế hệ sau hiểu được, chứ mọi chuyện cứ thì thụt trong bóng tối thì quả thực phải kêu lên như Nguyễn Trọng Tạo : "Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi. Câu trả lời thật không dễ dàng chi !".
"Tôi hiểu là văn bản của Ban Tuyên Giáo là áp dụng cho sách giáo khoa phổ thông sắp tới, chứ không phải sách giáo khoa hiện hành. Mà dự thảo Chương trình Ngữ văn như đã công khai trên báo chí thì chỉ quy định sáu tác phẩm bắt buộc, trong đó có duy nhất một tác phẩm văn học hiện đại là 'Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.'
"Còn các nhà văn khác, kể cả người thuộc Văn đoàn Độc lập là nhà văn Nguyên Ngọc, xuất hiện trong phần các văn bản gợi ý, tức người viết sách giáo khoa có thể đưa vào hay không".
Ông Hoàng Dũng cũng nói thêm : "Về cách hành xử của chính quyền với Ban vận động Văn đoàn độc lập và giải Văn Việt của tổ chức này, tôi chỉ có thể nói : "Hết ý kiến !"
"Nói thế này thì gần sự thật hơn : người ta muốn đẩy Ban vận động Văn đoàn Độc lập đến chỗ đối trọng với Hội Nhà văn của nhà nước".
"Rất nhiều nhà văn có tên trong Ban vận động Văn đoàn Độc lập đồng thời cũng là hội viên của Hội Nhà văn đấy chứ. Nhưng tháng 5/2015, sau việc lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam chỉ thị loại bỏ khỏi danh sách đi dự Đại hội lần thứ 9 những ai là thành viên Ban vận động Văn đoàn Độc lập, tước bỏ một trong những quyền cơ bản của hội viên, xúc phạm nghiêm trọng danh dự của người cầm bút thì nhiều người trong số đó mới tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam".
"Chúng tôi là chúng tôi, trước sau không "đối trọng" với bất kỳ ai cả".
"Còn chuyện vượt qua rào cản kiểm duyệt, định hướng của bất kỳ ai, tổ chức nào, không cứ là của Ban Tuyên Giáo thì đó chẳng phải nguyên tắc và là-ở Việt Nam-ước mơ của người cầm bút hay sao ?
Trả lời câu hỏi của Ben Ngô-"Khái niệm tự do sáng tác có tồn tại ở Việt Nam hay không ?", ông Hoàng Dũng đáp : "Tôi tưởng anh hỏi : "Người Việt Nam có tự do hay không ?"
Cuộc xung đột đẫm máu Chiến tranh Biên giới Trung - Việt nổ ra năm 1979 chính "là mặt trái" của quan hệ hai nước "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai đảng và hai nhà nước dựa trên cơ sở quan hệ bạn bè cá nhân giữa các nhà lãnh đạo hai nước, một học giả Nhật Bản nghiên cứu về cuộc chiến này nói với BBC.
Ông Đặng Tiểu Bình và Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh quàng tay nhau trong một sự kiện vào giai đoạn quan hệ Trung Quốc nồng ấm 'môi hở, răng lạnh'
Nếu cần rút ra bài học từ cuộc chiến tranh đẫm máu và kéo dài này thì ngày này cần quan tâm chú ý khía đầu tiên là 'không nên xây dựng quan hệ hai nước quá nặng về tình cảm và tin cậy giữa các lãnh tụ mà cố gắng xây dựng quan hệ thế hệ sau có thể thừa kế được,' Giáo sư Hirohide Kurihara từ Đại học Tokyo bình luận với BBC.
Theo nhà nghiên cứu Việt Nam học này hai bên 'rất cần thường xuyên tiến hành giao lưu hoặc ký kết các loại văn bản để tránh khỏi tình trạng không may bất ngờ xảy ra'.
Và ông bình luận thêm đối với Trung Quốc "chúng ta rất cần luôn luôn nâng cao cảnh giác" để "theo dõi lời nói" của các lãnh tụ cấp cao, chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Chính phủ Trung Quốc "mặc dù ta không muốn".
Mở đầu cuộc trao đổi bằng bút đàm qua tiếng Việt với BBC Việt ngữ hôm 16/2/2019, nhà nghiên cứu này trả lời câu hỏi cuộc Chiến tranh Biên giới Việt - Trung (1979) hiện nay được nhìn nhận ra sao sau 40 năm từ phía Nhật Bản và giới nghiên cứu Nhật Bản ? Liệu nhìn nhận đó có sự khác biệt gì hay không vào 30-40 năm trước, khi cuộc chiến mới nổ ra ?
Hirohide Kurihara : Khi chiến tranh Biên Giới Việt - Trung bùng nổ, ở Nhật Bản có nhiều lập trường và ý kiến khác nhau như bàng quan, không quan tâm, cho rằng đó là vấn đề nội bộ giữa hai nước Cộng sản nên không ảnh hưởng gì đến Nhật Bản ;
Có ý kiến lên án Trung Quốc mà đòi Trung Quốc rút quân xâm lược ngay từ lãnh thổ Việt Nam (trong đó có tôi) ; và có những người thân Trung Quốc, coi hành động của Trung Quốc là đúng, lỗi tại Việt Nam (họ ủng hộ chính quyền Pol Pot).
'Mặt trái của một mối quan hệ'
BBC : Giới nghiên cứu Nhật Bản quan tâm gì nhất khi nghiên cứu cuộc chiến này ? Có kiến giải, phát hiện gì nổi bật mà tới nay Giáo sư có thể chia sẻ ?
Cuộc chiến tranh để lại những hậu quả xấu và căng thẳng trong quan hệ Trung - Việt trong một thời gian dài.
Hirohide Kurihara : Nói chung, hồi đó ở đây người ta quan tâm chủ yếu là : chiến tranh do nguyên nhân gì ; phía nào là đúng, phía nào là sai ; phía nào thắng, phía nào thua, v.v…
Sau đó 40 năm đã trải qua rồi. Khi nào chúng tôi muốn tiếp cận Chiến tranh Biên giới này thì vấp phải khó khăn như sau :
Hai bên (Việt Nam và Trung Quốc) chưa công bố các văn kiện và số liệu liên quan tới Chiến tranh Biên giới ; và muốn tiếp cận vấn đề này thì phải biết hai thứ tiếng (tiếng Việt và tiếng Hán).
Vì vậy bên Nhật rất hiếm tìm thấy học giả nào mà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, kể cả Chiến tranh Biên giới năm 1979. Nhưng thông qua công trình nghiên cứu của mình, tôi có thể chỉ ra vài điều về ý nghĩa lịch sử của chiến tranh Biên giới năm 1979 :
Đó là mặt trái của quan hệ hai nước "vừa là đồng chí, vừa là anh em" (thập niên 1950 - 1960). Quan hệ "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai đảng và hai nước đã dựa trên cơ sở quan hệ bạn bè cá nhân giữa các nhà lãnh đạo hai nước - Hồ Chí Minh với Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông.
Khi nào có vấn đề nghiêm trọng và phức tạp thì họ trực tiếp bàn nhau để tìm đường giải quyết - đó là đặc điểm của quan hệ "vừa là đồng chí, vừa là anh em". Vì thế không cần xác định đường biên giới, không cần ký kết hiệp định về hợp tác quân sự, chẳng hạn.
Nói một cách khác, tiền đề của quan hệ đó là loại trừ khả năng quan hệ hai nước có thể là xấu đi. Đáng tiếc quan hệ đó không được truyền đạt tới các lãnh tụ thuộc thế hệ sau : Lê Duẩn không có kinh nghiệm hoạt động tại Trung Quốc lại không biết tiếng Trung Quốc ; Đặng Tiểu Bình cũng không có tình cảm đặc biệt về VN.
Thời gian Hồ Chí Minh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông lần lượt qua đời và quá trình quan hệ hai nước xấu đi song song với nhau.
Hiện nay ở đây [Nhật Bản] hoặc ở các nước khác người ta bắt đầu coi Chiến tranh Biên giới năm 1979 là một bộ phận của "Mười năm chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc (1979-1988/1989)", trong đó có Mặt trận Vị Xuyên, Hải chiến Trường Sa (Gạc Ma), v.v…
'Tránh né đề cập cuộc chiến'
BBC : Theo quan sát của Giáo sư, hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã và đang xử lý thế nào di sản của cuộc chiến này ? Họ có gặp trở ngại gì không ? Giải pháp của họ đã hợp tình hợp lý và thuyết phục hay chưa ?
Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh từng có quan hệ đặc biệt gần gũi 'như anh em' với nhiều lãnh đạo của Trung Quốc, trong đó có Thủ tướng Chu Ân Lai (phải)
Hirohide Kurihara : Tôi chưa biết hai bên đã đạt tới thỏa thuận như thế nào về việc xem lại chiến tranh năm 1979 tại vì hai bên đều không nói gì về điều đó. Tuy vậy có một điều rõ ràng là hai bên đều cố gắng hết sức tránh đề cập tới đề tài này. Đồng thời cũng có sự khác nhau giữa hai bên về việc đối xử với Chiến tranh Biên giới năm 1979.
Ở Trung Quốc các loại văn kiện hay đề cập tới chiến tranh năm 1979 như là chiến tranh "tự vệ phản kích lại" kẻ xâm lược Việt Nam. Điều đó cho thấy rằng phía Trung Quốc vẫn giữ quan điểm hồi năm 1979 mà không có ý định xem lại sự kiện đó.
Ngoài ra Trung Quốc còn xây dựng một số "Căn cứ giáo dục chủ nghĩa yêu nước" như Nhà lưu niệm Chiến dịch Lão Sơn (Việt Nam gọi là Cao điểm 1509) hoặc di tích chiến tranh trên đỉnh Lão Sơn (Vân Nam).
Còn phía Việt Nam thì hết sức để ý đến các đoạn lên án hoặc nói xấu Trung Quốc trong các loại văn kiện của Đảng Cộng sản. Trong bộ Văn kiện Đảng toàn tâp hoặc cuốn "Thư vào Nam" của ông Lê Duẩn (xuất bản lần thứ hai năm 2015), đoạn nào mà lên án Trung Quốc (chủ yếu là những năm 1970-1980 thế kỷ trước) đều bị xóa bỏ.
Trong thời gian khá lâu ở Việt Nam không tìm thấy nhà lưu niệm hoặc di tích lịch sử về chiến tranh. Nhưng gần đây mới có một số chỗ tưởng niệm được xây dựng với sự dẫn đầu của chính quyền địa phương, cựu chiến binh như : Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Pò Hèn (Quảng Ninh, khánh thành 10/01/2011) ; Đài tưởng niệm 468 (Hà Giang, khánh thành 17/01/2017) ; Khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma (Khánh Hòa, khánh thành 27/07/2017).
Lại thêm hiện tượng mới : Hồi ký về Gạc Ma ("Gạc Ma vòng tròn bất tử") được xuất bản năm 2018. Theo tôi biết thì đây là hồi ký lần đầu tiền ghi lại một phần của mười năm chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc.
Ngoài ra còn xuất hiện nhân sĩ chủ động đi khảo sát để sưu tầm tài liệu về chiến tranh như blogger Phạm Viết Đào.
Ở đây ta có thể khẳng định rằng ở Việt Nam, cấp trên (các nhà lãnh đạo cấp cao) muốn tránh đề tài nào mà liên quan đến chiến tranh 1979-1988/1989 mặc dù người dân và cựu chiến binh, gia đình những người hy sinh trong chiến tranh muốn ghi lại lịch sử và làm rõ sự thật.
Tôi đoán nếu Đảng Cộng sản Việt Nam (cấp Trung ương) cứ im lặng thì mức độ nghi ngờ của người dân đối với chính sách của Đảng Cộng sản về quan hệ hai nước sẽ tăng lên.
'Bài học ngay với Nhật Bản'
BBC : Theo Giáo sư người ta có thể học được gì cuộc chiến này (chẳng hạn từ nguyên nhân, động cơ tới hậu quả, hệ quả của nó) và riêng với Nhật Bản thì sao ?
Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh được cho là rất thạo văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc, điều mà nhiều lãnh đạo lớp sau không có hoặc không bằng
Hirohide Kurihara : Nếu chúng ta rút được bài học từ Chiến tranh Biên giới năm 1979 thì hai điều sau đây đáng chú ý :
Ta không nên xây dựng quan hệ hai nước quá nặng về tình cảm và tin cậy giữa các lãnh tụ mà cố gắng xây dựng quan hệ thế hệ sau có thể thừa kế được. Nói cụ thể, hai bên rất cần thường xuyên tiến hành giao lưu hoặc ký kết các loại văn bản để tránh khỏi tình trạng không may bất ngờ xảy ra.
Đối với Trung Quốc, chúng ta rất cần luôn luôn nâng cao cảnh giác để theo dõi lời nói của các lãnh tụ cấp cao, chủ trương, chính sách và đường lối của đảng và chính phủ Trung Quốc mặc dù ta không muốn.
Hai điều trên rất hợp với Nhật Bản hiện nay. Ông Shinzo Abe rất coi trọng quan hệ cá nhân với ông Donald Trump, ông Vladimir Putin, v.v…
Nhưng không rõ người nào mà thay ông Abe thừa kế quan hệ đó hay không.
Đồng thời ngoại giao nặng về quan hệ cá nhân sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến bộ máy quan liêu ngoại giao Nhật Bản.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 17/02/2019
Giáo sư Hirohide Kurihara là nhà nghiên cứu Việt Nam học, thuộc Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa Á - Phi (ILCAA), thuộc Đại học Tokyo, Nhật Bản. Ông có công trình nghiên cứu về xung đột và chiến tranh Trung - Việt từ cuối thập niên 1970 ở thế kỷ trước.
*********************
Đặng Tiểu Bình và các mục tiêu của Trung Quốc trong cuộc chiến 1979 (BBC, 17/02/2019)
Cuộc chiến Biên giới 1979 nhằm 'dạy cho Việt Nam một bài học' là cơ hội Đặng Tiểu Bình xóa đi di sản quân sự Mao Trạch Đông và nhằm đạt ba mục tiêu chiến lược.
Di sản cuộc chiến 1979 : bộ đội Trung Quốc gỡ mìn ở vùng biên giới với Việt Nam nhiều năm sau chiến tranh
Nhưng ngày nay, cách nhìn các vấn đề quốc tế của Đặng đang bị âm thầm loại bỏ.
Chiến tranh chỉ là phương tiện
Ngày 16/2/1979, Trung ương Đảng Trung Quốc họp các tư lệnh quân đội để thông báo về cuộc chiến "phản kích tự vệ" nhằm vào cựu đồng chí, đồng minh Việt Nam.
Hoa Quốc Phong chủ trì hội nghị và tuyên bố lý do Bắc Kinh cần trừng phạt "Việt Nam kiêu ngạo", làm "tiểu bá" theo chân Liên Xô ở Đông Nam Á.
Sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại Campuchia cũng là lý do để Trung Quốc ra tay.
Sau đó, Đặng Tiểu Bình, người vừa được phong làm tư lệnh tối cao của chiến dịch, phát biểu nêu ra mục tiêu của cuộc chiến không phải là chiếm đất, tấn công thủ đô Hà Nội mà nhằm cho Việt Nam "một bài học".
Về quân sự, Trung Quốc muốn làm suy yếu nước láng giềng phía Nam, qua hai mục tiêu :
1. Tàn phá tối đa các tỉnh giáp biên của Việt Nam ;
2. Dừng lại chờ, chặn đánh quân chủ lực của Việt Nam phải rút về từ Campuchia.
Nhưng Đặng cũng nói cho các tướng Trung Quốc biết đây sẽ là thử thách cho Quân Giải phóng, nhất là bộ binh.
Các binh chủng không quân và hải quân Trung Quốc sẽ không trực tiếp tham chiến mà chỉ hỗ trợ, để tránh một cuộc chiến lan rộng.
Đây là lời hứa của Đặng với Jimmy Carter, nhưng cũng là cách nhằm 'nắn gân' xem Liên Xô có tham chiến hay không.
Tuy thế, Trung Quốc cũng đã tăng cường nhiều sư đoàn lên vùng biên giới với Liên Xô và di dời hàng vạn dân khỏi vùng sát đường biên để phòng ngừa.
Ngay từ giai đoạn 1982-1983, các sử liệu công bố ở Phương Tây và Châu Á đã xác nhận Đặng không nói dối về mục tiêu cụ thể của cuộc chiến 1979.
Thậm chí, chỉ sang ngày 23/02, một tuần sau khi nhiều sư đoàn Trung Quốc tràn qua biên giới vào Việt Nam, và trước khi trận Lạng Sơn bắt đầu (ngày 27), Đặng công khai nói với quan chức Châu Âu và Nhật Bản rằng Trung Quốc "sẽ rút quân trong khoảng 10 ngày, hoặc thêm đôi ba hôm nữa".
Tuy báo Việt Nam gọi đây là chiến tranh xâm lược từ phía Trung Quốc, Bắc Kinh không hề có ý định chiếm đất.
Cuộc chiến 1979 có đạt được các mục tiêu ?
Về quân sự, Trung Quốc đã không tiêu diệt được một sư đoàn quân chính quy nào của Việt Nam và còn bị tổn thất lớn.
Thất bại này được Đặng Tiểu Bình biến thành động cơ cải tổ Quân Giải phóng, hiện đại hóa các quân binh chủng, thanh lọc các tướng còn lưu luyến thuyết 'chiến tranh nhân dân' của Mao.
Về kinh tế, quân Trung Quốc đã đạt mục tiêu tàn phá tối đa cơ sở hạ tầng các tỉnh biên giới Việt Nam - 80% nhà cửa ở nhiều thị trấn bị tiêu hủy toàn bộ, theo một số tài liệu.
Về ngoại giao, Trung Quốc không khiến Hà Nội rút quân ngay khỏi Campuchia hoặc thay đổi đường lối đối ngoại.
Tuy thế, về chiến lược, Trung Quốc đã thách thức thành công liên minh Moscow - Hà Nội, và chứng minh cho mọi đồng minh của Liên Xô rằng Moscow sẽ không ứng cứu họ khi cần.
Hoa Quốc Phong đã hỉ hả nói Bắc Kinh dám "vuốt râu gấu Nga" mà không sao.
Vì sao đánh ngắn ngày ?
Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường sau thời Mao và làm thay đổi Trung Quốc
Dù không thành công về quân sự, Đặng Tiểu Bình được ca ngợi ở Trung Quốc về các dự báo chiến lược.
Chẳng hạn các phát biểu của tướng Triệu Nam Kỳ của Trung Quốc nhắc lại ngay từ năm 1975, sau Chiến tranh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã nói tình thế quốc tế không cho phép xảy ra Thế chiến 3 trong vòng 5 năm tiếp theo.
Đây là cơ hội cho Trung Quốc bỏ thuyết đấu tranh giai cấp sang xây dựng kinh tế, và tạo môi trường khu vực thuận lợi.
Tự tin rằng không đại cường nào thiết tha với cuộc thế chiến mới, trong khung thời gian 5 năm đó, Đặng đã tấn công Việt Nam.
Vì Moscow không đem quân giúp Hà Nội như đã hứa trong hiệp ước phòng thủ chung ký năm 1978, chữ tín của người Nga bị hạ bệ.
Điều này đã có tác động mạnh đến cả các quốc gia cộng sản Đông Âu thời gian sau đó.
Qua cuộc động binh đầu tiên từ cuộc chiến Trung - Ấn hai thập niên trước đó, Bắc Kinh báo hiệu cho Đông Nam Á sự trở lại với vị thế một cường quốc quân sự.
Cách dụng binh nay thay đổi
Nhưng di sản lớn nhất Đặng để lại từ cuộc chiến 1979 là cách dùng binh của Trung Quốc.
Theo Đặng, Trung Quốc chỉ có thể và chỉ nên dùng binh hạn chế về thời gian, nhanh gọn và không chiếm đất, giành dân, không kéo dài phức tạp.
Quân Giải phóng, theo quan điểm của Đặng, chỉ nên đánh ở biên giới gần.
Đặng ý thức được đường tiếp liệu trên bộ của Trung Quốc quá yếu kém, tốc độ di chuyển chậm.
Cuối năm 1978, có tướng Trung Quốc đã khoe chỉ cần một tuần là họ có thể chiếm được Hà Nội.
Nhưng trên thực tế, sau 18 ngày tấn công ồ ạt, chịu nhiều thương vong, Trung Quốc mới chỉ tiến tới Đồng Đăng.
Tuy thế, các bài học từ chiến tranh Trung - Việt đã làm thay đổi tư duy của quân đội Trung Quốc.
Bộ đội Việt Nam trở về Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 9/1989. Quan hệ Việt - Trung chỉ bình thường hóa sau khi Hà Nội rút quân khỏi Campuchia
Các đánh giá nổi bật nhất về câu nói này đến từ Fareed Zakaria, Lý Quang Diệu và Michael Pillsbury.
Zakaria của CNN dịch câu này là "Hide brightness, nourish obscurity", và chú ý về vế thứ hai "chăm sóc, nuôi dưỡng sự mờ tối".
Quân Trung Quốc pháo kích sang Việt Nam - ảnh chụp đầu thập niên 1980
Lý Quang Diệu thì tin rằng Đặng muốn 'Thao quang dưỡng hối' trở thành chiến lược cho nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc.
Michael Pillsbury, chuyên gia chính trị thạo tiếng Trung, hiện tư vấn cho Donald Trump để đánh Trung Quốc bằng thương mại cho rằng khái niệm 'dưỡng hối', không còn được Tập áp dụng.
Ông tin rằng 'Trung Quốc trỗi dậy hòa bình chỉ là ảo giác' (CHINA'S PEACEFUL RISE IS A MIRAGE) mà Washington nên tỉnh táo nhận ra.
Cũng có ý kiến nói Đặng không hề bảo Trung Quốc phải "chịu nhục" như Câu Tiễn, hoặc "lấy khiêm làm đức" như Lưu Bị.
Đặng muốn lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng cứ để mọi thứ mờ mờ tỏ tỏ là môi trường tốt nhất cho nước này.
Việc thay đổi điều lệ Đảng đưa ông Tập Cận Bình lên ngang hàng với Mao Trạch Đông, bỏ qua Đặng Tiểu Bình
Trong môi trường đó, tự tầm vóc vĩ đại và sức mạnh lên dần của Trung Quốc sẽ tạo thế mạnh điều chỉnh hành vi các nước khác.
Đặc biệt, Đặng Tiểu Bình đã để lại lời giải thích cho câu nói của mình, và điểm quan trọng thứ năm ông nhấn mạnh là "hòa bình, hòa hoãn với mọi quốc gia, không nhấn mạnh ý thức hệ của Đảng Cộng sản" (不再以意识形态来划线).
Nhưng lời khuyên này có vẻ như không còn được lắng nghe.
Thay vì giữ tình trạng mờ ảo lâu dài, Trung Quốc đặt ra các thời hạn chặt như 'Made in China 2025', hoàn tất Hiện đại hóa Xã hội chủ nghĩa 2035, và phục hưng dân tộc 2050.
Về quân sự, Trung Quốc không chỉ triển khai ở các vùng biển lân cận, mà vươn đi rất xa, sang tận Djibouti đóng căn cứ.
Về kinh tế, sáng kiến Vàng đai và Con đường nay không chỉ nhằm kết nối lục địa Âu - Á mà còn vươn sang Châu Phi, xuống vùng Nam Thái Bình Dương.
Ý thức hệ cộng sản không giảm mà thành nội dung cho phát triển, như nhận định của Kerry Brown trong bài về năm '2018 không may mắn' cho Trung Quốc.
Điều này tạo cảm giác cho dư luận Phương Tây rằng Trung Quốc muốn thay Liên Xô cũ làm đối thủ chính của họ.
Một Trung Quốc dùng đồng tiền và công nghệ tư bản để xây dựng một thứ chủ nghĩa xã hội kiểu riêng là điều khó chấp nhận với các nước tư bản.
Một tài liệu của Quốc hội Mỹ tin rằng vào năm 2050, sức mạnh quân sự Trung Quốc, nếu cứ tiến triển theo đà hiện nay, sẽ bằng Hoa Kỳ.
Để đáp lại, bên cạnh thương mại, việc chặn 'chuyển giao công nghệ cao cấp' mà Hoa Kỳ đề xướng còn nhằm hạn chế hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc.
Chiến tranh biên giới 1979 là trận đánh lớn cuối cùng trong thế kỷ 20 của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa.
Đó cũng là là trận chiến thứ ba bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, sau cuộc xâm nhập vào Himalaya năm 1962 đánh sang Ấn Độ, và Chiến tranh Triều Tiên 1951-53.
Sang thế kỷ 21, Trung Quốc chưa lâm chiến lần nào và cách xây dựng chiến lược quốc phòng đã thay đổi nhiều.
Nhưng cục diện khu vực và quan hệ Trung Quốc với các nước đối thủ : Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, khối Nato cũng đã thay đổi.
Bất cứ một xung đột nào xảy ra tới đây sẽ là phép thử với chính sách của chủ tịch Tập, người đã bỏ lại phía sau các bài học chiến tranh của Đặng Tiểu Bình.
Ngồi trong khu vườn của một ngôi nhà mang kiến trúc khá đặc trưng Pháp ở vùng Lognes, ngoại ô thuộc mạn Đông Paris, tác giả của biên khảo "Tổ Quốc Ăn Năn" được biết đến từ vài chục năm trước chia sẻ với BBC về cuộc đời mình.
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa và phụ trách một số lĩnh vực cố vấn về kinh tế và kỹ thuật - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
Ông Kiểng kể câu chuyện ông du học, về lại Việt Nam, đi "học tập cải tạo" sau 30/4/1975, trở thành chuyên gia trong chế độ mới, rồi lại rời Việt Nam sang Pháp từ đó đến nay ra sao.
Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng kể :
"Tôi sang Pháp hai lần, lần đầu tiên là năm 1961. Sau khi học xong trung học, tôi được học bổng du học tại Pháp. Tôi du học sau sáu năm thì tốt nghiệp. Rồi tôi ở lại làm việc vì tôi nghĩ rằng mới ra trường thì không thể nào có kinh nghiệm được.
"Điều quan trọng là không phải học để tốt nghiệp lấy bằng cấp, mà là làm việc, tiếp xúc với người phương Tây, biết cách làm việc của họ. Cho nên tôi có làm việc, ở lại Pháp sáu năm. Tôi về Việt Nam phục vụ từ năm 1973.
"Lúc đầu tôi làm việc ở ngân hàng. Mới đầu, chúng tôi được quản lý một quỹ đầu tư. Sau đó tôi có sang bên Bộ Kinh tế, Việt Nam Cộng Hòa và làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế cho đến ngày 30/4/1975.
"Sau đó cũng như số phận của các viên chức miền Nam, tôi có bị đi gọi là tập trung cải tạo" trong vòng ba năm rưỡi, rồi tôi ra và có làm chuyên gia dưới chế độ cộng sản trong một thời gian. Cho tới năm 1982 thì tôi được chính quyền Pháp can thiệp cho và tôi được sang Pháp từ cuối năm 1982. Tôi hành nghề kỹ sư, tôi về hưu cách đây 10 năm".
Hồi cố điều nổi bật sau những năm tháng đã qua, ông Nguyễn Gia Kiểng nói :
"Số phận của mình đều do những yếu tố bất ngờ hết. Khi phe Cộng sản chiến thắng ngày 30/4 đó, thì tôi là một Phụ tá Bộ trưởng, cấp bậc tương đương với một Thứ trưởng. Thì dĩ nhiên cấp bậc thấp hơn người ta đã phải đi học tập cải tạo rồi.
"Tôi không trình diện để đi học tập cải tạo và tôi tìm cách trốn khỏi Việt Nam, nhưng tôi bị bắt ở trở lại Việt Nam, do đó tội của tôi tương đối nặng hơn. Tôi có bị bắt giam hơn ba năm. Trước khi được làm hồ sơ để chuyển sang diện học tập bình thường, thì vào lúc đó họ lại nhận ra một điều.
"Đó là ở miền Nam lúc đó có những máy điện toán và là máy IBM. Trước đó, họ không biết chúng dùng vào việc gì nhưng sau đó họ thấy rằng các cố vấn Nga nói rằng những chiếc máy này rất cần thiết, thành ra họ có đi tìm.
"Lúc tôi được ra học tập, ra khỏi trại, tôi mới biết rằng có những văn kiện tìm kiếm tôi, vì hồi đó tôi có là Trưởng ban Điện toán của Bộ Kinh tế. Tôi là Phụ tá Bộ trưởng, nhưng tôi lại là chủ tịch ba ủy ban là ủy ban điện tin học, ủy ban thuế khóa và ủy ban kế hoạch.
"Có lẽ họ nhìn thấy rằng tôi có khả năng về tin học, hơn nữa hiểu về những máy điện toán rất nhiều, thành ra họ trả tự do cho tôi và biến tôi trở thành một chuyên viên của chế độ".
Hợp tác vì ai, cái gì ?
Kỹ sư, nhà biên khảo kể lại rằng lúc đầu ông cũng bị theo dõi, nhưng ông đã luôn tỏ ra nói thẳng, nói thật và chỉ mong muốn đóng góp, hợp tác phục vụ cho đất nước, dân tộc, ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp :
"Mới đầu họ theo dõi, nhưng về sau họ thấy tôi nói thực, nói thẳng. Phải nói vào ngày 30/4 tôi đã chấp nhận thua trận và tôi cũng không ra đi vì tôi nghĩ rằng một dân tộc có lúc phải tranh đấu với nhau, có thể va chạm, nhưng một dân tộc không thể cứ tiếp tục nội chiến, cứ xung đột tới cùng thì không còn là dân tộc.
"Cho nên lúc đó tôi đã chấp nhận để đóng góp với tư cách là một người thua trận, tức là là một người đem khả năng khoa học kỹ thuật mà mình biết để góp phần đóng góp cho đất nước một phần nào hay phần đó. Nên khi tôi ra khỏi chỗ học tập, nhân tiện tôi xin kể một chuyện, tôi gặp một ông cựu Bộ trưởng của Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của phe cộng sản. Đó là ông Trương Như Tảng.
Miền Nam Việt Nam đã từng trải nghiệm một mức độ phát triển nhất định về kinh tế, kỹ thuật và thị trường ở khu vực dưới thời Việt Nam Cộng Hòa - Ảnh GETTY IMAGES
"Lúc đó ông ấy bất mãn và ông là giám đốc một công ty, tôi lúc đó làm trong Ban kỹ thuật của Thành phố. Ông đó muốn đóng cửa một nhà máy. Nhưng lúc đó tôi ở ban kỹ thuật của thành phố, tôi không đồng ý.
"Ông hỏi tôi tại sao anh là một người chế độ cũ, tại sao anh lại ủng hộ chế độ mới như vậy, mà anh lại không đồng lòng đóng cửa luôn công ty đó đi ? Chế độ này đâu có phục vụ gì ai ?
"Tôi nói : tôi là một kỹ sư. Một kỹ sư mà nhìn thấy một nhà máy có vấn đề, gặp khó khăn, thì cũng giống như là một bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân. Bổn phận bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân là chữa, bổn phận của một người kỹ sư có lương tâm nghề nghiệp của mình là phải tìm cách cứu nhà máy đó. Nhà máy này tôi thấy có thể cứu được, thì tôi thấy là không đồng ý để ông đóng cửa".
Chia sẻ con đường từ quyết định "hợp tác" đó, rồi ra nước ngoài trở lại và trở thành nhà biên khảo mà cuốn sách "Tổ Quốc Ăn Năn" là một trong các tác phẩm, kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng nói :
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng là chuyên gia về tin học và có thời gian làm việc dưới chế độ mới ở miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
"Phải nói rằng chữ hợp tác đó không phải là tôi hợp tác với chế độ, chủ nghĩa cộng sản là điều tôi đã phản bác từ thời thanh niên, cách quản lý đất nước của họ, cách phân biệt đối xử. Sự thực, theo tôi, cuộc nội chiến vẫn tiếp tục sau ngày 30/4, chỉ có điều là cuộc nội chiến đơn phương, một bên có bạo lực và một bên không có. Sau ngày 30/4 không có "hòa bình" trong dân tộc.
"Vẫn có những người thắng trận "đầy đọa" những người thua trận, cho nên về chế độ thì tôi hoàn toàn không hợp tác, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, tôi làm những gì mà tôi có thể làm cho đất nước Việt Nam trong hoàn cảnh của một người không thể làm gì khác. Tôi là người Việt Nam và lúc nào tôi cũng muốn phục vụ, trong tất cả mọi hoàn cảnh, tôi phục vụ đất nước Việt Nam, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, nhưng không phải là tôi hợp tác với chế độ.
"Sau đó, vai trò của tôi cũng không còn, dầu sao đặc tính của chế độ cộng sản như mọi người cũng biết, họ rất là nghi kỵ, họ vẫn nhìn chúng tôi như là kẻ thù, những người nào không thuộc đảng của họ, thì họ không thể duy trì ở một chức vụ cao, như là một chuyên viên, chuyên gia cao cấp được, cho nên vẫn có sự theo dõi, vẫn có sự nghi kỵ, mặc dù chúng tôi không làm gì cả".
Dám "bắt Tổ Quốc ăn năn" ?
Về lý do viết cuốn biên khảo "Tổ Quốc Ăn Năn" và cách hiểu thế nào là Tổ Quốc, tác giả Nguyễn Gia Kiểng chia sẻ :
"Cho đến lúc tôi được chính quyền Pháp can thiệp thì tôi sang bên này. Cùng với một số anh em, chúng tôi đã lập ra một Tập hợp Dân chủ Đa nguyên và chúng tôi chia sẻ với nhau là một dân tộc sau một cuộc nội chiến, cũng giống như một cặp vợ chồng, một gia đình sau một cuộc xung đột lớn, chúng ta chỉ có hai chọn lựa thôi : một là chúng ta hòa giải để cuộc sống chung tiếp tục, hai là chúng ta không chấp nhận hòa giải và chấp nhận tan vỡ.
"Không chấp nhận hòa giải sau một cuộc nội chiến tương đương với việc để quốc gia tan vỡ, nhiều người không biết điều đó. Cho nên trong tinh thần đó, để nói lên tinh thần đó, tôi có viết cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, tôi đặt ra câu hỏi Tổ Quốc là ai ? Theo định nghĩa của tôi, Tổ Quốc là mọi người Việt Nam, người Việt Nam phải nghĩ lại. Tôi nghĩ như thế.
"Tức là mọi người Việt Nam đều phải nghĩ rằng họ đã có một cái lỗi gì đó, mình phải ăn năn, mình phải xét lại cách ứng xử của mình đối với đất nước, nhiều người cứ nói là tôi coi thường Tổ Quốc, bắt Tổ Quốc phải ăn năn. Họ nghĩ rằng Tổ Quốc là thiêng liêng.
"Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ Tổ Quốc là bạn với tôi, là con tôi, là cha tôi, là tổ tiên tôi, là những người thành công, cũng như những người thất bại - là tất cả chúng ta trong suốt dòng lịch sử. Đó là Tổ Quốc !
Tác giả Nguyễn Gia Kiểng bên một số cuốn sách mà ông viết hoặc tham gia soạn thảo - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
"Đáng lẽ chúng ta yêu nước trước hết là yêu đồng bào. Chúng ta phải thể hiện lòng yêu nước đó bằng cách yêu quý, khoan dung với người đồng bào của chúng ta. Trái lại trong dòng lịch sử, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để "giết người" chống chúng ta, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để "buộc tội", để "bỏ tù", có khi để xử tử tội phản quốc. Nhưng chúng ta không nhân danh Tổ Quốc để mà tha thứ, để mà hàn gắn với nhau, để quý trọng nhau.
"Theo tôi từ nay trở đi nếu có một điều chúng ta phải suy nghĩ lại, nhân tiện nói về Tổ Quốc, tôi nghĩ rằng chúng ta phải quan niệm Tổ Quốc là một tình yêu trước hết, chứ không phải là một sự thù hận".
Viết gì cho một chương mới ?
Vài chục năm trước, sau khi trở lại Pháp, ông Nguyễn Gia Kiểng đã hoàn tất và cho công bố cuốn biên khảo luận thảo luận về chính trị với tựa đề "Tổ Quốc Ăn Năn", khi được hỏi là nếu hiện nay muốn viết thêm một Chương bổ sung hay tiếp nối cho cuốn biên khảo, thì sẽ viết gì, tác giả nói :
"Tôi sẽ viết về những cơ hội đã bỏ lỡ. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ. Cơ hội thứ nhất là sau Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam với chương trình rất hoành tráng, rồi nó hoàn toàn thất bại, không thực hiện được bất cứ một phần nhỏ nào, trong bất cứ mục tiêu nào.
"Thời gian đó đáng lẽ đã phải là một thời gian nghĩ lại. Nghĩ lại trước hết là những người lãnh đạo ở chế độ cộng sản phải nghĩ lại, những ông như là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, những người đó, hay ông Lê Đức Anh v.v..., những người đó phải nghĩ lại.
"Nhưng phần còn lại, những người thuộc phe thua trận như chúng tôi cũng phải giúp họ nghĩ lại. Bằng một thái độ nói : thôi, những chuyện gì đã qua, chúng tôi cũng bằng lòng bỏ qua. Các ông không sợ gì cả nếu như các ông thay đổi, nếu các ông thực hiện đường lối hòa giải dân tộc thực sự thì có chúng tôi.
"Chúng tôi biết các ông có lỗi, chúng tôi cũng có phần có lỗi, nhưng chúng ta nên nhìn về tương lai hơn là về quá khứ. Tôi nghĩ đó là vào thời điểm 1980 khi chương trình hoành tráng của Đại hội IV thất bại.
"Tôi đã làm việc trong chế độ, tôi biết là có những hoang mang, có nhiều người biết là chủ nghĩa này không thành công, có nhiều biết là chế độ này thất bại, họ muốn nghĩ lại, nhưng một phần họ không đủ can đảm nghĩ lại và một phần vì điều kiện xã hội cũng làm cho họ không dám nghĩ lại.
"Lần thứ hai tôi nghĩ là một cơ hội rất là lớn cho nhiều dân tộc, như là các dân tộc ở Đông Âu, hay cả một nước ở Châu Á tôi nghĩ đến là nước Mông Cổ, Ngoại Mông, là khi mà bức tường Berlin sụp đổ. Đáng lẽ lúc đó chúng ta phải gạt tất cả những ưu tư về chủ nghĩa, chúng ta hãy nhìn nhau hãy nhìn là anh em, hãy nhận lại bạn bè. Đó là một cơ hội rất lớn.
"Thế nhưng ở trong nước có những người lại nghĩ rằng phải kiên trì, không còn Đảng thì không còn mình, họ nghĩ rằng sau những gì họ đã làm với người khác, những người khác sẽ không tha thứ cho họ, cái đó ở trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại và một phần những dư luận ở miền Nam lại cho rằng đây là một cơ hội để 'dứt điểm chế độ' và có thể để 'trừng phạt' những 'tội ác cộng sản' chẳng hạn.
"Cuối cùng là những người cộng sản tuy rằng họ ở trong thế lúng túng, có thể nói là khi bức tường Berlin sụp đổ thì như 'trời sập' trên đầu họ, nhưng họ là lực lượng duy nhất và họ vẫn trụ được. Và chúng ta bỏ lỡ một cơ hội".
Ông Nguyễn Gia Kiểng (phải) đang sống tại Lognes, thuộc ngoại ô mạn Đông Paris, Pháp
Sắp bỏ lỡ thêm một cơ hội ?
"Ngày hôm nay, chúng ta đang sắp sửa bỏ lỡ một cơ hội, tại vì Đại hội vừa qua của Đảng Cộng sản, tôi nghĩ rằng có một sự rập khuôn theo công thức của Trung Quốc, tức là cũng nhất thể hóa, cũng tập trung quyền lực vào một người, rồi cũng đặt trọng tâm vào vấn đề chống tham nhũng.
"Những điều đó theo tôi không có tác dụng, bởi vì nếu chúng ta thực sự muốn chống tham nhũng, phải hiểu bản chất của tham nhũng. Chúng ta phải hiểu đó là một vấn đề có tính cách đạo đức. Tham nhũng định nghĩa của nó là một vi phạm đạo đức bằng cách sử dụng công quyền cho lợi ích cá nhân, bản chất của nó là như thế.
"Như vậy nếu chúng ta duy trì chế độ độc tài có quá nhiều quyền lực dồn vào quá nhiều một đảng, chúng ta không thể chống được tham nhũng, bởi vì chừng nào có quyền lực, chúng ta đều hiểu là vẫn còn tham nhũng. Đó là vấn đề nguyên tắc, nhưng thực tế cũng cho ta biết đạo đức là những gì chúng ta chỉ có thể làm gương, chứ chúng ta không thể thuyết phục được.
"Cho nên như mọi vấn đề đạo đức, tham nhũng khi đã đạt tới một mức độ nào đó thì nó không thể sửa chữa được nữa. Ở một mức độ nào đó, người ta không thể cải tổ được một chính quyền tham nhũng để nó hết tham nhũng, mà người ta chỉ có thể thay thế một chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác.
"Hiện nay, đáng lẽ ra - tôi nghĩ một chính quyền khác không nhất thiết phải là chính quyền 'chống cộng', không nhất thiết phải là chính quyền hoàn toàn độc lập với Đảng Cộng sản, cũng có thể có những người Cộng sản ở trong đó. Thì đây là một cơ hội mà tôi nghĩ rằng vào lúc này chúng ta đang sắp có một cơ hội. Cơ hội đó đến bởi vì công thức, mô hình gọi là Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đến 'giai đoạn chót', đằng nào nó cũng sẽ bị 'đào thải'.
"Trung Quốc (kể cả Việt Nam) đang gặp những khó khăn... không phải chỉ là do Donald Trump gây cuộc chiến tranh thương mại đâu, mà bởi vì các quốc gia - dù các quốc gia phương Tây, các nước dân chủ giàu mạnh ở một mức độ nào đó - trong cuốn Dự án Chính trị của chúng tôi "Khai sáng Kỷ nguyên thứ hai" - chúng tôi đã nói rõ là bắt buộc phương Tây, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, phải xét lại sau một thời gian họ chấp nhận thâm thủng mậu dịch, dù là Donald Trump, hay không phải Donald Trump, cũng bắt buộc phải thăng bằng mậu dịch.
"Và thời đại vàng son [đã hết], giai đoạn ân huệ của chính sách Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mà về bản chất là xuất khẩu thật nhiều, với giá thật rẻ để xuất khẩu tối đa - có nghĩa là Trung Quốc cũng như Việt Nam xuất khẩu 'sự nghèo khổ' mà chính họ là tác giả. Tôi nghĩ mô hình đó dù có 'Donald Trump' hay không cũng chấm dứt và chúng ta sắp phải xét lại toàn diện.
"Tôi nghĩ vào giờ này là những người Việt Nam, nếu chúng ta quan tâm tương lai của đất nước mình, thì đây chính là lúc chúng ta nhìn nhau với một con mắt thân thiện hơn để cùng nhau tìm một giải pháp cho đất nước, để đừng làm lỡ thêm một cơ hội nữa. Và tôi nghĩ rằng, tôi hơi bi quan, bởi vì tôi thấy rằng trong thời gian vừa qua, chính quyền đã hành động ngược với nhu cầu và tình thế. Tức là thay vì có một thái độ khoan dung hơn để tìm một giải đáp chung cho tất cả đất nước, thì lại có những bản án rất thô bạo.
"Tôi nghĩ rằng chính quyền này họ không hiểu rằng cả mô hình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang bế tắc", ông Nguyễn Gia Kiểng nói với BBC từ nhà riêng tại Lognes, ngoại vi Paris, Pháp.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 04/02/2019
Ông Nguyễn Gia Kiểng, hiện sinh sống tại Pháp, là một nhà hoạt động, thành viên sáng lập của tổ chức Tập Hợp Dân chủ Đa nguyên, từng đi 'học tập cải tạo' sau biến cố 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam. Chia sẻ của ông nằm trong loạt bài thuộc chuyên mục 'Người Việt toàn cầu' của BBC Tiếng Việt.
Gần hai chục năm ra mắt cuốn sách 'Những mảnh đời rách nát ' dựa trên những câu chuyện 'đời thường và có thật' mà những người làm dự án thiện nguyện về xe lăn cho thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa thu thập được qua thời gian và xuất bản tại hải ngoại, chuyên đề 'Người Việt đó đây và câu chuyện hải ngoại' của BBC Tiếng Việt có dịp trao đổi với một trong hai tác giả đang sống tại Pháp.
Bác sĩ Phan Minh Hiển là đồng tác giả cuốn sách 'Những mảnh đời rách nát', tập hợp chuyển kể từ 'hàng nghìn hồ sơ' thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa ở Việt Nam mà ông và dự án của ông trợ giúp từ hải ngoại.
Đồng tác giả này là Bác sĩ Phan Minh Hiển, sinh tại Sại Gòn năm 1956, du học tại Pháp cuối năm 1974, có bằng bác sĩ y khoa về bệnh nhiệt đới do Pháp cấp, ông là người tham gia và chủ trì nhiều dự án thiện nguyện trong đó có hoạt động cứu người vượt biên cùng bác sĩ Bernard Kouchner ở Biển Đông trên tàu Boélo và chiến hạm Le Balny năm 1982 và giúp đỡ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa và người tàn tật từ năm 1993.
Cuốn sách dày 345 trang được xuất bản mùa Xuân năm 1999 từng thu hút sự quan tâm của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, từ châu Âu sang Mỹ, từ Nhật Bản tới Úc gần hai thập niên trước ghi tên chung của ông Hiển và đồng tác giả, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, nay là Chủ nhiệm tờ báo mạng Thông Luận RDP Online mà BBC Tiếng Việt đã có dịp giới thiệu gần đây trong loạt phóng sự của chúng tôi.
Từ phòng mạch của mình tại ngoại ô Paris ở Le Perreux-sur-Marne hôm 27/8/2018, bác sĩ Phan Minh Hiển chia sẻ câu chuyện của ông :
"Tôi có may mắn đi du học từ năm 1974 và đến nay chưa bao giờ về Việt Nam, tôi tốt nghiệp năm 1982 và được may mắn đi ra vớt thuyền nhân với bác sĩ Bernard Kouchner và sau đó từ năm 1992 tôi đã chuyển các công tác về Việt Nam, đặc biệt cho các anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.
Thuyền nhân tị nạn người Việt Nam được vớt lên tàu Goelo của tổ chức Thầy thuốc Thế giới, một dự án cứu người trên biển mà Bác sĩ Phan Minh Hiển kể lại là đã tham gia
Khi vớt thuyền nhân tôi chứng kiến được những gì ư ? Vâng, rất là hãi hùng mặt dù mình biết trước vấn đề rất là tế nhị, nhưng khi đi ra đến ngoài biển khơi rồi thấy một chiếc ghe 10 thước mà chở 115-120 người thì nó cứ mãi mãi ở trong tâm thức của tôi trong vòng nhiều năm.
Sau khi với thuyền nhân hai tháng trên Biển Đông với bác sĩ Kouchner, thì tôi có giúp tiếp tục một số thuyền nhân ở trại Palawan ở bên Philippines và đặc biệt ở trại Sikiew ở Thái Lan, là một trại cấm mà nhiều người bị cưỡng bách hồi hương.
Những trường hợp nào mà tôi chứng kiến và có thể chia sẻ ? Vấn đề là cuộc sống của những người ở trại cởi mở như Palawan thì cũng thoải mái, với sự tiếp sức của chính quyền Philippines và của các Cha ở Philippines.
Còn ở Sikiew thì rất khó khăn vì bị cưỡng bách hồi hương, như quý vị biết, cưỡng bách hồi hương thì họ không để ý đến vấn đề người xin tị nạn dù là cựu quân nhân [Việt Nam Cộng Hòa] hay không, chỉ có vấn đề là họ được 'hối lộ' một cách nào đó thì họ có thể tráo những người đáng lẽ được cứu, thành ra bỏ rơi một số cựu quân nhân đáng lẽ được cứu, nhưng bị cưỡng bách hồi hương.
Vấn đề thì nhiều người đã tự tử và cũng đã treo cổ và tôi cũng đã có những hình ảnh rất đau thương được gửi ra từ những người còn sống sót. Số thông tin đó, hình đó thì qua Cha Prayoon Namwong, là một Linh mục nói tiếng Việt, đẻ ra ở Thái Lan, hiện Cha Namwong vẫn còn hoạt động giúp một số cựu thuyền nhân mà Cha đã quen biết trước đây, đã về Việt Nam do cưỡng bách hồi hương và nay đã trở qua Thái Lan, xin tị nạn và đi định cư, Cha vẫn nuôi vài trăm người ở Trại là nhà riêng của Cha Prayoon Namwong".
Các thuyền nhân được Tổ chức Thầy thuốc Thế giới cứu giúp trên con tàu Goelo sau khi được an toàn
Về thực hư các trường hợp bị cáo buộc là vi phạm nhân quyền, thì riêng vấn đề tị nạn mà bị cưỡng bách hồi hương, thì có một chương trình rất quy mô là 'ép cho họ, bỏ đói', thời điểm bị cưỡng bách là từ 1992-1996, hoặc 1998 nếu một số người đó mà vẫn không chịu về, thì họ ép lương thực.
Ví dụ như chỉ còn 50 xu một ngày, ăn không đủ, thành ra phải một là chịu khó hồi hương, hai là có những cách hoặc là 'đem con ra để mà trao đổi' một số lương thực với các lính ở các trại. Đem con tức là mại dâm thôi. Bên đó thì họ chỉ có vậy thôi. Còn nếu có tiền, một số người bản xứ đem đồ tới bán với giá rất đắt đỏ.
Liệu Quốc tế, hay chính quyền địa phương có biết hay không ? Một số chứng cứ tôi đã gửi cho UNHCR (Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc) vào thời điểm đó và cũng không có được trả lời gì lắm, có một điểm đặc biệt là có một vị người Mỹ lo về các trại ở Thái Lan, khi đã về Mỹ đã bị bắt và đã ở tù vì đã bỏ vào túi riêng tiền nhiều trăm ngàn, hay triệu đô-la, đó là công dân Mỹ lo về UNHCR ở trại Thái Lan, người đó đã bị bắt".
'Sáng kiến đền ơn, đáp nghĩa'
"Từ năm 1992, tôi có một ý kiến nho nhỏ là đền ơn, đáp nghĩa cho các thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa, vì tôi thuộc gia đình may mắn, chưa bao giờ có ai trong gia đình đi lính, chưa mất mát và cá nhân tôi cũng chưa có chứng kiến chiến tranh vì ở Sài Gòn khá an tâm để ăn học.
Nên tôi có sáng kiến là cho một Chương trình giúp 100 xe lăn cho các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa và đã gửi cho bạn bè. May mắn, lúc đó tôi được biết anh Nguyễn Văn Huy để tiếp tay phổ biến những công tác đó cho báo chí hải ngoại. Đặc biệt bên Mỹ, cũng được tiếp một số báo chí bên Mỹ và một số cựu quân nhân bên Mỹ sẵn sàng hỗ trợ cho vấn đề đó, nên ngày nay phong trào đó khá phổ biến và hầu như mỗi tiểu bang, mỗi xứ đều có nhiều hội đoàn lo ít nhất là dịp Tết đền ơn, đáp nghĩa cho các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.
Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn trong một hoạt động hỗ trợ, động viên thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa
Trước năm 1992 thì sao ư ? Trước năm 1992 thì cũng có một số người có ý kiến đó, nhưng rất là mờ mịt. Vấn đề sáng kiến của tôi là làm sao cho ân nhân [người giúp đỡ, người làm thiện nguyện] tin tưởng số tiền của mình tới nơi. Trước đó cũng có một vài người, mà tôi quên tên rồi, lo vấn đề 'kêu gọi mù mờ' mà thôi.
Số tiền gây quỹ không biết là đến tay ai và nghe nói người đó, nay đã qua đời rồi, đã quyên được một số tiền, nhưng cách làm việc của họ không may, đưa về cho một đại diện bên Việt Nam giữ và người đại diện đó 'lấy hết số tiền'. Từ đó tôi cũng suy nghĩ phải có cách nào không qua đại diện mà trực tiếp đến với phế binh, cho nên tôi kêu gọi anh em phế binh gửi hồ sơ với những chứng từ đã phục vụ cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nếu bất đắc dĩ nằm trong những trường hợp mà 1973, 1974 'chưa ra Hội đồng' mà còn bị bên cộng sản đuổi ra lúc đó thì có thể trình bày hoàn cảnh với những thương tật, ân nhân, tùy mỗi cá nhân, có thể bỏ qua vấn đề đưa ra chứng từ đó, vì chúng ta không thể cưỡng bức một lần thứ hai những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã giúp chúng ta, trong khi chúng ta di tản, thì họ đã đánh đến giờ phút cuối cùng, bị thương và bị quân cộng sản 'đuổi ra khỏi bệnh viện'.
Về cuốn sách 'Những mảnh đời rách nát' ra đời từ năm 1999, góp từ hơn 6.000 hồ sơ thương, phế binh gửi cho tôi. Tôi gửi cho anh Nguyễn Văn Huy, anh Huy có tâm hồn đặc biệt, vì cá nhân anh cũng có một người anh hay em chết trong chiến tranh, một người khác là thương, phế binh, nên anh cảm xúc rất mạnh để mà viết cuốn sách này.
Từ cuốn sách này, sau này tôi đưa cho mỗi hội đoàn, vì lúc đó tôi không muốn giữ số tiền nhiều, tôi chỉ nghĩ lăng-xê phong trào, thì mỗi hội đoàn lấy sách này ra, họ trích những truyện ngắn, rồi sau đó họ để tên với sự hỗ trợ của ân nhân địa phương, cho nó giản dị vấn đề kiểm soát tài chánh".
Vì sao chọn tên sách như vậy ?
Bác sĩ Phan Minh Hiển (phải) chia sẻ với Quốc Phương của BBC Tiếng Việt về các dự án về hoạt động thiện nguyện của ông và các cộng sự
"Về ý tứ của việc chọn và đặt tên sách, tên 'Những mảnh đời rách nát' là của anh Nguyễn Văn Huy đặt ra, nhưng viết từ 6.000 hồ sơ, vì mỗi hồ sơ có một quãng đời rất là đau thương. Thì dĩ nhiên chúng ta không thể góp trong sáu ngàn chuyện, mà chỉ góp một số mẩu chuyện để cho dễ đọc, nhưng 'cái đau' của phía chính quyền cộng sản là giờ này vẫn chưa biết ai là những người phế binh đã gửi những hồ sơ này ra. Đó là một cái 'cú đòn' rất là lớn cho vấn đề nhà cầm quyền cộng sản tuyên truyền là 'hòa giải, hòa hợp'
Liệu có gì đặc biệt trong việc đi quyên góp tài trợ cho dự án ? Đối với cá nhân tôi thì cũng không có gì đặc biệt, có một uy tín nào đó, trừ những chi phí, thí dụ như kể cả những ân nhân cho tiền từ ngoại quốc, Mỹ hay bất cứ xứ nào, khi anh nhận một chi phí, anh nhận khoảng 25 đô-la chi phí, tôi sẵn sàng bù đắp để cho ân nhân đừng thắc mắc tại sao cho 100 đô-la, mà lại mất 25 đô-la, rồi từ đó có những sự thắc mắc không hay.
Khi phong trào lớn mạnh nhờ mỗi báo địa phương mà in ra những câu chuyện nhỏ rồi để những hội đoàn địa phương lo, thì tôi không còn thắc mắc và cũng không còn muốn nhận những tấm séc (cheque) từ hải ngoại. Bên Pháp cũng có nhiều hội đoàn lo vấn đề này, họ có những cách hoạt động khác, như là tổ chức ăn uống, hoặc tổ chức gây quỹ, bán đồ, còn cá nhân tôi không có thì giờ lo những chuyện đó.
Làm thế nào để phân biệt, xác định một hồ sơ là đúng người, đúng việc ? Cá nhân tôi thì rất khó vì chưa bao giờ đi lính, lúc trước thì có một số cựu quân nhân trong hội có thể giúp vấn đề phân phát, hoặc phân biệt những cái đó. Những người như tôi nói là năm 1973, 1974 chưa ra Hội đồng, thì họ kê những 'Tờ khai danh dự', kể những người chỉ huy cuối cùng, trận đánh ra sao...
Rồi tôi nhờ một số thân hữu đọc lại coi có chuẩn hay không, còn nếu không chuẩn, mà thấy hồ sơ đó đáng thương quá thì tôi cũng bỏ tiền túi tôi cho, hoặc một số ân nhân vì vấn đề đạo pháp họ không phân biệt nhiều vấn đề cứu một người đến mức đó.
Tất nhiên tôi không bao giờ cho một người cộng sản mà xưng những chức trong quân đội cộng sản mà 'huyênh hoang' xưng là 'giải phóng miền Nam', cái đó là không bao giờ có. Có một hồ sơ rất đặc biệt là của một người cộng sản, họ nói 'họ xin một Euro' để họ 'rửa được cái nhục' là 'mặc cảm tội lỗi' đã xâm phạm miền Nam. Họ chỉ xin 'một Euro danh dự' thôi. Thì cái đó là của một bức thư rất xúc động.
Nhiều thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang tiếp tục cần sự trợ giúp của cộng đồng Việt Nam ở trong nước và hải ngoại
Nhà nước và chính quyền cộng sản Việt Nam, theo báo chí nhà nước, nói rằng họ đối xử nhân đạo và chăm sóc chu đáo các đối tượng thương, phế binh của Việt Nam Cộng Hòa ? Vấn đề đó có thể đúng với một số trường hợp, một số thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa ở những nơi phồn vinh như Sài Gòn, mà họ có thể làm một bình phong nào đó để nói rằng họ chăm sóc hoặc là họ giúp đỡ, nhưng ở tỉnh thì dĩ nhiên là họ 'thẳng tay đàn áp', không cho nhận quà qua bưu điện.
Thí dụ như một hồ sơ ở tỉnh, tôi nói là cách đây 5 năm về trước, không may còn những người hận thù với miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa), thì những thư báo tin rằng có quà ở bưu điện thì 'không bao giờ được phát', thì số tiền đó may mắn lắm được 'trả về cho người gửi', vì họ không cho nhận, nếu gửi qua những cơ quan quốc tế. Còn nếu gửi qua cơ quan bưu điện thì 'coi như là mất luôn'.
Tình trạng cần giúp đỡ hiện nay
Từ cách đây 5 năm có một sự dễ dãi nào đó đối với những anh em vì cũng có những phong trào của quý Cha, quý Hòa thượng Thích Không Tánh, hay quý Cha ở Dòng Chúa Cứu Thế làm phong trào rất mạnh mẽ và các quý Cha có những người ở địa phương có thể đứng ra giúp đỡ, thành ra nhà nước có những 'rụt rè' để mà 'đàn áp thẳng tay', trừ một số thương phế binh, chẳng hạn như ở Làng Thương, phế binh ở Thủ Đức ngày xưa, thì còn một số người đối với nhà nước là ngoan cố, không chịu 'hóa giá nhà'.
Hóa giá nhà tức là chịu trả tiền thuê từ 1975 đến bây giờ, mặc dù cái nhà đó được Việt Nam Cộng Hòa cấp cho thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ 'ép phải trả tiền thuê' đó từ 1975 thì họ mới 'để yên'. Trong 3.000 người ở Làng Thương, phế binh Thủ Đức, thì chỉ có dưới ba, bốn người ráng cầm cự cái nhà đó, không chịu, vì không có khả năng đóng số tiền đó. Chẳng hạn như thương phế binh Ngô Duy Thế ở Thủ Đức vẫn ráng cầm cự.
Thì một mặt họ 'hăm dọa là sẽ thẳng tay' thế này, thế kia, một mặt họ cũng 'vuốt ve', có những món quà nhân đạo kiểu như mùa Tết, hay chùa nào cho gạo, thì họ cũng phát phiếu để cho các thương, phế binh cộng hòa đến được nhận.
Đánh giá nhu cầu chăm sóc về mặt xã hội nói chung và sức khỏe nói riêng đối với các thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa ngày nay ? Có một số người nổi tiếng như những thương, phế binh đứng đầu những phong trào đòi hỏi được bình đẳng thì họ [chính quyền] cũng có một sự dè dặt nào đó, họ cũng cho vào diện hộ nghèo và họ cho học bổng tượng trưng tám hay chín trăm ngàn đồng để mà mua sách tựu trường cho các con, các cháu.
Một thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa tri ơn ân nhân ở hải ngoại
Vấn đề xã hội, y tế, rất may mắn có Dòng Chúa Cứu Thế của đặc biệt quý Cha Đinh Hữu Thoại và Linh Mục Thanh và Phạm Hữu Thành lúc trước, Linh mục Bích mới lên sau này thì cũng phải chịu đi theo hướng đó thôi, nhưng 'không cãi lại được', có lúc Linh mục Bích 'muốn dẹp chương trình đó', nhưng bị chống đối rất mạnh mẽ ở hải ngoại và do các thương, phế binh cũng chống đối, cho nên Linh mục Bích 'vẫn để chương trình' đó.
Chương trình đó rất hữu dụng vì các Cha mua bảo hiểm cho các thương, phế binh Việt Nam Cộng Hòa và lo việc chăm sóc sức khỏe, mỗi năm cho đi khám định kỳ, cho xe lăn mới, cho gậy mới, cho mắt kính mới và nếu có chết thì các Cha lo chuyện chôn cất.
Tôi cũng rất mừng có phong trào lớn do Dòng Chúa Cứu Thế mà hồi xưa do Linh mục Phạm Hữu Thành đứng ra chịu trách nhiệm, và cũng cám ơn Linh mục Bích đã tiếp tục cho phép Chương trình đó.
Về nhu cầu cần giúp đỡ với những người tị nạn Việt Nam hiện nay ở khu vực, từ từ cũng có sự cứu xét của quốc tế đối với những người tị nạn ở Sikiew ngày xưa, ở 8, 9 năm rồi bị 'cưỡng bức một cách vô nhân đạo', thì họ cũng xét lại. Nếu may mắn, người đó trốn qua được Thái Lan thì có Cha Prayoon Namwong nhận cho ở nhà riêng của Cha và Cha giúp giấy tờ để được đi định cư.
Dĩ nhiên định cư tùy xứ mà người đó muốn đi, nếu muốn đi Mỹ lúc này rất là khó, còn muốn đi Canada thì có một số điều kiện kinh tế mà họ không có thể có được, cho nên cũng cần một số điều kiện".
Những hoạt động đang làm
"Về những hoạt động thiện nguyện mà bây giờ tôi đang làm, tất cả những gì về người tàn tật ở Việt Nam thì tôi có ý định muốn giúp trong khả năng của mình, từ những trại tàn tật của quý Sơ (Soeur) lo cho các em tàn tật hoặc đui mù, hoặc là bệnh bẩm sinh, hoặc là tự kỷ (autism), vì cá nhân tôi cũng có đưa con tự kỷ, nên tôi rất thông cảm trong những chuyện đó.
Tôi có giúp từ 2008 cho Hòa thượng Thích Không Tánh và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (thành lập từ trước 1975, hiện không được chính quyền công nhận) một số tiền để hoạt động. Trong đó, Hòa thượng cũng đi vào một số làng cùi, hoặc giúp cho những trẻ em bị ung thư, thì cũng tượng trưng thôi, cho 300 ngàn đồng, một con gấu bông, hoặc là một bịch kẹo, bịch sữa.
Lúc đó là còn Chùa của Hòa thượng ở Thủ Thiêm, nhưng cách đây hai năm thì chính quyền đã 'phá chùa' hồi đó, tan nát, cho nên bây giờ chỉ có đi vào trong Bệnh viện Ung bướu để phát quà.
Hòa thượng Thích Không Tánh cùng một thương phế binh trong buổi tri ân -Việt Nam Cộng Hòa tại Chùa Phước Thành, Huế (Nhật báo văn hóa/Báo trẻ online)
Vào đó cũng khó khăn, vì họ [Chính quyền] có mặc cảm rằng Bệnh viện Ung bướu quá tải, và khi chụp hình đưa ra nước ngoài thì là phản tuyên truyền cho nhà nước. Những đứa trẻ ngủ dưới giường với cha mẹ, hoặc cha mẹ ngủ ngoài lan can, hay ngoài sân, thì rất phản cảm đối với chính sách của nhà nước.
Cho nên vào đó cũng rất khó khăn, cho nên cũng không thể mang gấu bông hoặc sữa, hoặc đồ ăn vào, vì nếu đem đồ ăn vào thì có thể 'bị đổ thừa', nếu đưa nhỏ bị tiêu chảy, hay bị bệnh, thì người ta có thể 'đổ thừa' cho Hòa thượng, nên gặp vấn đề từ khi bị mất chùa ở Thủ Thiêm, Chùa Liên Trì, bị đập phá.
Quý vị có thể lên YouTube xem lại một số video phát quà ở Chùa Liên Trì rất là cảm động. Các bé được quý vị trong Liên Tôn, tức là có các Cha, các Mục sư, có các Thầy, có quý Hòa thượng, các Sơ (soeur) đến, tùy mỗi đạo, có người tượng trưng để phát quà.
Trên YouTube còn đầy đủ những hình ảnh rất cảm động của Hòa Hảo, của Cao Đài, của Phật Giáo, của Công Giáo phát quà cho các em, rồi dùng cơm chung với các em.
Trên đây là lời kể xuất phát từ quan điểm riêng của nhân chứng tham gia trả lời BBC Tiếng Việt. Cuộc phỏng vấn do BBC thực hiện trong loạt bài 'Người Việt Đó Đây' ghi chép những câu chuyện về người Việt ở hải ngoại, từ các nhân chứng lịch sử, giới hoạt động, nghiên cứu văn hóa, hoạt động xã hội, thiện nguyện, doanh nhân, nhà khoa học v.v...
Quốc Phương
Chính phủ kiến tạo là một khái niệm được đặt ra trong Chính phủ Việt Nam từ thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, một cựu thành viên Ban tư vấn kinh tế và chính sách của chính phủ giai đoạn trước ở Việt Nam nói với một Tọa đàm trực tuyến của BBC Tiếng Việt.
Đương kim Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại phiên khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN tại Hà Nội hôm 12/9/2018
Chính phủ kiến tạo là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước kiến tạo, với nội hàm rộng hơn bao trùm toàn bộ hệ thống quyền lực của nhà nước, trong đó có Đảng và Quốc hội, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nếu chỉ nhắc tới 'Chính phủ kiến tạo' không thì sẽ bị 'hạn hẹp' về cách hiểu, trong khi 'Nhà nước kiến tạo', vốn là bộ máy khổng lồ hơn chính phủ, lâu nay được coi là một dạng mô hình 'gần giống với tính chất ở nhà nước Đông Á' như ở Hàn Quốc, Nhật Bản, nhưng hiện nay đang có đề xuất thay đổi về khái niệm tuy chưa có 'tiếng nói chung' giữa các giới điều hành chính sách và học thuật, vẫn theo quan điểm của chuyên gia kinh tế và chính sách này.
"Cái gọi là 'Chính phủ kiến tạo' hay 'Nhà nước kiến tạo' cũng là những vấn đề cần phải thảo luận rất nhiều, thế nhưng về mặt lịch sử, những thuật ngữ mang tính chất 'kiến tạo' này đã được hình thành từ thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đề cập rất nhiều", ông Nguyễn Đức Thành nói với Bàn tròn thứ Năm từ London của BBC tiếng Việt hôm 13/9/2018.
"Và dưới sự hỗ trợ và giúp sức mà theo tôi được biết trong nhóm tư vấn kinh tế của Thủ tướng lúc đó là ông Trương Đình Tuyển là trưởng nhóm và cùng với một nhà nghiên cứu về nhà nước rất sâu là ông Nguyễn Sỹ Dũng, lúc bấy giờ là Phó Chủ nhiệm Văn phòng quốc hội, đưa ra thuật ngữ là 'kiến tạo'.
"Ở đây, tôi muốn trao đổi thêm sâu một chút là cấp độ 'Nhà nước kiến tạo' khác với 'Chính phủ kiến tạo', bởi vì chính phủ chỉ là một phần của bộ máy nhà nước thôi, bộ máy nhà nước khổng lồ hơn rất nhiều và nó định hình rất lớn.
"Nhiều người hiện nay vẫn nói 'Chính phủ kiến tạo' chẳng hạn thì nó sẽ hẹp hơn. Thế nhưng ở đây tôi cũng trao đổi thêm là lúc ban đầu, theo tôi hiểu, lúc đó qua trao đổi của ông Trương Đình Tuyển, ông Nguyễn Sỹ Dũng, hay cả phát biểu của Thủ tướng lúc đó, tôi hình dung đó là một nhà nước gần mang tính chất ở nhà nước ở Đông Á - tức là các nhà nước đã đem lại sự thành công kinh tế cho Hàn Quốc, cho Nhật Bản.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành bình luận về nội hàm của 'Chính phủ và Nhà nước kiến tạo' tại Việt Nam.
"Tức là một nhà nước vừa tốt về chất lượng, đồng thời có khả năng định hướng phát triển mũi nhọn, phát triển ngành, tạo lập môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế tốt cho đất nước để đất nước có thể phát triển nhảy vọt".
'Không nên như vậy'
Tiếp tục nói về nội hạm của khái niệm 'kiến tạo, đặt trong tiến trình phát triển của chính phủ và nhà nước kiến tạo ở Việt Nam, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành trình bày tiếp quan điểm của mình :
"Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tiếp tục của khái niệm này, bản thân như chúng tôi, về mặt lý luận, tôi cho rằng 'Nhà nước kiến tạo' của Việt Nam, trong điều kiện của Việt Nam, từ quan điểm cá nhân của tôi, tôi nghĩ rằng nó không nên như vậy, mà nó có thể khác đi.
"Mà nhà nước kiến tạo của Việt Nam ở đây, theo quan điểm của chúng tôi, chỉ đơn thuần trở về với một dạng nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường đang trỗi dậy của Việt Nam, và với điều kiện đó, nhà nước không cần phải quá lớn, không cần phải có trách nhiệm cho chính sách phát triển ngành hay từng ngành cụ thể.
"Chúng ta biết các chính sách ngành của chúng ta [Việt Nam] đã từng phát triển về Vinashin, Vinalines, hay những tổ hợp công nghiệp khổng lồ để chúng ta vươn ra với thế giới đều bị thất bại. Đấy là một đặc thù lịch sử như vậy.
"Nhưng tôi cho rằng cái được gọi là 'nhà nước kiến tạo' của Việt Nam trong một báo cáo gần đây của chúng tôi mà chúng tôi công bố trong năm trước, trong Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam, là sản phẩm của Đại học Quốc gia Hà Nội về mảng kinh tế, thì trong Báo cáo của năm 2017, chúng tôi dành toàn bộ chuyên đề đó cho cái gọi là 'Nhà nước kiến tạo' ở Việt Nam.
"Trong đó chúng tôi đưa ra một khái niệm khác hơn so với khái niệm của 'Nhà nước kiến tạo' mà theo mô hình phát triển Đông Á, chúng tôi cho rằng nhà nước này là nhà nước cần tạo dựng môi trường luật pháp tốt, làm rõ các vấn đề về sở hữu, để cho người dân ở trong nền kinh tế của Việt Nam có nền tảng để kinh doanh tốt và phát triển được sự tự do cá nhân, quyết định cá nhân trong nền kinh tế.
"Và đồng thời phải tạo ra một môi trường kinh tế mà khu vực nhà nước ngày càng phải rút đi, khu vực kinh tế nhà nước phải rút đi để nó đỡ lẫn với những hoạt động điều hành, điều phối kinh tế của nhà nước, để duy trì tính cạnh tranh, bảo vệ cạnh tranh v.v...
"Thì đó là một vấn đề rất là khác và ngay cả bộ máy nhà nước cũng phải khác để phục vụ điều này, chúng ta phải tổ chức lại, kể cả bộ máy nhà nước, và chúng tôi gọi là nhà nước là nhà nước kiến tạo, chúng tôi không gọi là chính phủ, chính phủ chỉ là một phần thôi, còn có Quốc hội, còn có hệ thống luật pháp, còn có hệ thống Đảng trong đó hoạt động như thế nào ?
Phó Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Tích đưa ra ba cảm quan về hiệu quả của 'Chính phủ kiến tạo' tại Việt Nam thời gian qua.
"Đó là tất cả những gì chúng tôi đề xuất, ở đây ý tôi muốn chốt lại một điều rằng khái niệm "Nhà nước kiến tạo" mà độc giả có thể rất sốt ruột và cảm thấy là khó, thì chúng tôi chia sẻ thật là trong giới điều hành chính sách, trong giới học thuật cũng thật sự là chưa có điểm chung ở đây".
Cảm nhận hiệu quả thực tế
Từ góc độ cảm nhận tính hiệu quả, tác động của các chuyển động từ 'Chính phủ kiến tạo' tại Việt Nam trong thời gian qua tới nay, một khách mời khác của Bàn tròn thứ Năm từ London, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Tích, Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU), nêu ba nhận xét :
"Tôi nghĩ là đối với Chính phủ kiến tạo, chúng tôi cảm nhận thấy người dân có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh hơn trong thời gian vừa qua, bằng chứng là có rất nhiều văn bản, giấy tờ, cũng như giấy phép của các ngành mà các doanh nghiệp cũng như người dân cần đến, phải trình bày, thì bây giờ các thủ tục ấy giảm rất nhiều, đó là cái thứ nhất.
"Thứ hai là các chính sách hướng tới phát triển các ngành cũng nhiều hơn, thay vì chúng ta quản lý, thì bây giờ chúng ta là kiến tạo để tạo cơ hội cho các doanh nghiệp, cũng như người dân có thể có cách tiếp cận và có những sinh kế mà có thể phát triển phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường.
"Cái thứ ba mà chúng tôi thấy được đó là sự tạo ra một nhận thức mới cho người dân trong bối cảnh khi chúng ta có những khó khăn về vấn đề nguồn vốn, về vấn đề tài nguyên, thì cơ hội để kiến tạo cho người dân có những điều kiện để học hành, cũng như điều kiện để tạo ra, tìm kiếm những sinh kế lâu dài trong bối cảnh đất nước có nhiều tác động như về vấn đề biến đổi khí hậu, cũng như những vấn đề về xã hội.
"Thì người dân có nhiều cơ hội để tự tạo ra những hướng kinh doanh mới, thông qua những chương trình hỗ trợ như khởi nghiệp cho người dân, cho thế hệ trẻ và cho những loại hình doanh nghiệp mới được hình thành, thì tôi cảm nhận ba hướng mà chính phủ tạo ra là như vậy đối với mô hình gọi là 'Chính phủ kiến tạo', Phó Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Tích nói với BBC.
Bình luận từ hướng nhìn của một nhà tư vấn, cố vấn chính sách và chiến lược phát triển, kinh tế, về ưu tiên lớn nhất cần có trong việc cải cách thể chế kinh tế, chuyên gia Nguyễn Đức Thành nêu nhận định :
Tân thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc (phải) tặng hoa cho người tiền nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng, tại phiên họp của Quốc hội Việt Nam Khóa 13 hôm 07/4/2016.
"Cá nhân tôi với tư cách nhà kinh tế, tôi cho rằng việc cải cách thể chế kinh tế lớn nhất mà cần của Việt Nam hiện nay là xác định được những nền tảng cơ bản nhất của nền kinh tế mà chúng ta đang ở trong đó. Nền kinh tế này phải lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo và vì thế là tạo tất cả những điều kiện để khu vực ấy phát triển và để như vậy, đi liền với điều đó thì nó phải bắt đầu từ những vấn đề như vấn đề về sở hữu.
"Hay là vấn đề về đất đai trong quá trình chuyển đổi từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, cách làm như thế nào để khu vực nông nghiệp không bị tổn thương như hiện nay, chẳng hạn như vậy. Thì lúc ấy sẽ dẫn đến việc xử lý vấn đề cơ bản nhất như là cách sở hữu đất đai hay khi người nông dân không sở hữu đất nữa, nhưng mà chuyển cho người khác, thì người ta có quyền đến đâu, hay là người ta sẽ lại bị thu bằng giá rất rẻ, tất cả những vấn đề nhỏ như vậy thôi, nhưng thực ra đấy là nền tảng tạo ra nền móng cho nền kinh tế.|
"Và tiếp đó là các vấn đề về cơ chế về giá, ở đây là những giá cơ bản nhất, tức là vấn đề về nguyên liệu, vấn đề về năng lượng, mà ở đây là do các công ty nhà nước hiện nay đang còn chi phối, ngay cả giá đất đai là do quyết định hành chính chi phối, chứ không phải do thị trường. Với sự cải cách mang tính thị trường cho tất cả khung khổ lớn nhất này, thì doanh nghiệp mới từ từ nhận thấy tất cả mọi thứ được trao đổi thông qua giá cả, thị trường có thể quyết định được và nó đỡ bị méo mó".
Triệt thoái và dân chủ hóa
Theo góc nhìn của chuyên gia này, do chưa có thống nhất về mặt này, các chủ thể trên thị trường và trong xã hội Việt Nam đang buộc phải tìm những phương thức thay thế mà hệ quả làm 'méo mó' nền kinh tế, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nói tiếp :
"Còn bây giờ không quyết định được ở những giá cơ bản nhất, cho nên họ buộc phải sử dụng những quan hệ chính trị, các quan hệ thân hữu và vì thế nền kinh tế trở nên méo mó, mặc dù những thành tựu về kinh tế vẫn liên tục và chúng ta nhìn thấy. Nhưng đi liền với nó là những cái hố ngăn cách hay những bất công về mặt xã hội ngày càng đi liền với kinh tế đó, thì sự phát triển không có ngày càng bền vững, tôi cho rằng thể chế phải nhìn sâu ở điểm đó.
"Nhưng được điểm đó thì nó phải đi thêm một lớp ở trên nữa, tức là về mặt thể hiện, chúng ta xác định được rằng khu vực kinh tế tư nhân là chủ đạo, thì cả hệ thống pháp luật để hỗ trợ, để làm sao họ vươn lên được như vậy, và hệ thống kinh tế của Việt Nam cũng phải như vậy, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, thu hẹp một cách tối đa khu vực doanh nghiệp nhà nước, cái này chúng ta nói rất nhiều rồi, mà chúng ta không thể nào làm được.
"Có những khu vực buộc khu vực nhà nước tồn tại, thì nó sẽ tiếp tục tồn tại bởi vì nếu không có khu vực nhà nước, chẳng có ai làm những chuyện đó, thì chúng ta không phải lo, tự nó sẽ tồn tại. Nhưng cái gì thực sự mà không làm được, thì chúng ta [khu vực kinh tế nhà nước của Việt Nam] không cần phải tham dự vào, thì nên hoàn toàn rút ra.
Các khách mời từ Đại học Quốc gia Hà Nội (bên phải) tham dự Bàn tròn thứ Năm từ London hôm 13/9/2018 về kinh tế, mô hình và cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam.
"Chứ còn nói trong các nghị quyết trong các chính sách, định hướng, chúng tôi thấy đều đã nói rồi, thế nhưng chúng ta không thể thực hiện được, tức là về mặt thực tế nó không đi tiếp, hoặc đi rất chậm, ví dụ như vậy.
"Tiếp đó là vấn đề ngày càng nảy sinh lớn trong một xã hội mà khi khu vực tư nhân trưởng thành như vậy, thì các quan hệ xã hội giữa người và người trở nên phức tạp, thì chúng ta phải có một cơ chế để tiếp thu, tiếp nhận những ý kiến hay những luồng thông tin, hay hiện tượng kinh tế xã hội nảy lên từ trong lòng xã hội, như vậy điều đó gọi là nền dân chủ.
"Thì chúng ta cần phải có một cơ chế để sao cho tính dân chủ của các nhóm lợi ích, hay của những nhóm người dân bị tổn thương, tất cả ở trong xã hội này, họ đều có một cơ chế để đưa được tiếng nói của họ ra, phải tôn trọng tiếng nói đó của họ.
"Và pháp luật phải có một sự công bằng, bình đẳng giữa họ, như vậy thì những cái không phải chỉ những người điều hành, mà kể cả những người quan sát, hay những người trí thức, những người làm truyền thông họ biết những gì đang diễn ra trong nền kinh tế này, trong xã hội này để họ khơi ra, họ giải quyết, và vì thế chúng ta giải quyết được những vấn đề trục trặc của xã hội.
"Còn nếu không chúng ta cứ phủ hết đi, chìm hết đi, thì kinh tế vẫn tăng trưởng lên, ai đó vẫn giàu lên, nghĩa là không thể phủ nhận được, thế nhưng có những người bị tổn thương vì quá trình đó mà chúng ta không biết, chúng ta bị che lấp, bị đậy đi, thì xã hội sẽ trở nên giống như là một cỗ máy mà chạy không có hệ thống lọc mát, hay bụi bẩn mà không được làm sạch, thì rồi nó sẽ bị tung [hỏng hóc] cỗ máy ấy ra.
"Tôi nghĩ cái ấy là rất nguy hiểm và điều ấy về mặt triết học, cũng như về mặt khoa học là hoàn toàn có thể, cho nên chúng ta [Việt Nam] buộc phải chú trọng những điều đó, nếu không cỗ máy kinh tế, cũng như xã hội của chúng ta sẽ bị trục trặc và gây ra những hiểm họa rất lớn cho đời sống dân sinh, cho những người dân mà đặc biệt những người mà dễ bị tổn thương nhất.
"Tôi nghĩ tất cả những cải cách về thể chế đều phải nhìn nhận vấn đề này, đi liền với nó là hệ thống luật pháp, hệ thống tổ chức, bộ máy hành chính ở Trung ương, ở địa phương, các cấp đều phải đi theo cải cách như vậy thì mới được", nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Thành nói với Bàn tròn thứ Năm của BBC từ London.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 16/09/2018
Nói về những điều mà người ở trong nước 'không thể nói được' là một trong những may mắn của chúng tôi và đó còn là một 'bổn phận', một nhà báo tự do và blogger người Việt từ Paris nói về công việc viết lách của mình với BBC Tiếng Việt.
Nhà báo, blogger Từ Thức từng được ngành báo chí của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử sang Pháp để theo dõi về Hòa đàm Paris 1973 trong nhiều năm.
Chúng tôi chỉ là một nhóm anh em tập hợp với nhau và mỗi năm góp một số tiền và từ đó lấy ra để tài trợ cho tờ báo của mình, làm báo với tôi 'hoàn toàn là vì nghĩa vụ' chứ không đòi hỏi tiền bạc gì hết, một nhà báo có ba thập niên gắn bó với một tờ báo tiếng Việt từ Pháp chia sẻ .
Đây là một công việc 'mang tính chất cá nhân' của từng người một, mặc dù tôi sống ở nước ngoài, nhưng những tình cảm, suy nghĩ của tôi vẫn hướng về đất nước Việt Nam của tôi, một blogger khác 'tâm sự' với BBC cũng trong dịp này từ thủ đô nước Pháp.
Trước hết, nhà báo, blogger Từ Thức nói với BBC về những chủ đề mà ông quan tâm khi viết báo và blog :
"Nói chung là tất cả những chủ đề gì có liên hệ tới Việt Nam, quan niệm của tôi như thế này. Mỗi một người phải đóng góp một cái gì cho đất nước, chúng tôi không có ở trong nước, chúng tôi không trực tiếp đóng góp được, chúng tôi không đi biểu tình, không đi đòi hỏi cái này, cái kia như những người ở trong nước, thì việc mà chúng tôi có thể đóng góp được là thứ nhất gửi thông tin về.
"Là bởi vì bên này rất nhiều thông tin, chúng tôi lựa những thông tin nào có thể có ích cho kiến thức, cho sự tìm hiểu ở trong nước, thì chúng tôi viết về. Điều thứ hai nữa là nói về những điều mà người ở trong nước không thể nói được. Chúng tôi có một may mắn là chúng tôi có tự do thì phải sử dụng cái tự do đó để gửi trả lại những thông tin đó cho mọi người ở trong nước".
Blogger Bùi Quang Vươm, cựu Đảng viên Cộng sản Việt Nam, người từng làm việc tại Bộ Xây dựng của Việt Nam nhiều thập niên về trước, chia sẻ :
"Đây là một công việc 'mang tính chất cá nhân' của từng người một... Tôi ra đi, nhưng nguyện vọng của tôi vẫn là quay trở về đất nước của tôi, mà quay trở về là để tìm cách xây dựng đất nước của tôi theo ước vọng của tôi, cho nên có những cái mà tôi bức xúc trong người. Do đó mặc dù sống ở Pháp, nhưng tất cả mọi cái, tình cảm của tôi, suy nghĩ của tôi vẫn là hướng về đất nước của tôi...
"Ở đây mà nói là sinh hoạt thì tôi nghĩ là không có sinh hoạt nào mang tính chất tổ chức cả, mà chỉ là cảm nhận lẫn nhau, trao đổi lẫn nhau, ví dụ như hôm nay tôi đến đây, tôi dự một hội thảo, một thảo luận một đề tài về Chủ nghĩa Cộng sản như buổi tổ chức ở một trường đại học đó là một cách sinh hoạt, ở đây tôi gặp bạn bè của tôi, tôi trao đổi với người ta, người ta sẽ trao đổi với tôi những cảm nhận của họ với tôi và tôi với họ về Chủ nghĩa Cộng sản, và cũng thông qua Chủ nghĩa Cộng sản này, về đất nước của tôi, về chế độ hiện tại đang tồn tại ở đất nước Việt Nam của tôi".
'Tự đóng góp và cống hiến'
Blogger Bùi Quang Vơm (trái) và nhà báo Nguyễn Văn Huy (phải) đều có nhiều năm viết blog hay làm báo từ hải ngoại.
Nhà báo Nguyễn Văn Huy, Chủ nhiệm tờ báo mạng Thông Luận-rdp.org từ Lognes, ngoại vi Paris, nói về công việc làm báo của ông và các đồng nghiệp, cộng sự :
"Thực sự đây là một nhóm anh em chúng tôi tự đóng góp với nhau, tự nguyện với nhau. Mỗi năm mỗi anh em tự đóng một số tiền vào quỹ, từ đấy chúng tôi lấy số tiền ấy tài trợ cho những công tác của mình. Chẳng hạn tôi làm báo này hoàn toàn làm vì nghĩa vụ chứ không có một đòi hỏi nào hết.
"Tại vì nếu đòi hỏi một người làm những việc như vậy thì rất khó. Chúng tôi nghĩ rằng phải có lý tưởng, phải có một sự yêu mến quê hương sâu sắc thì mới làm được việc này. Do đó chúng tôi làm việc này hoàn toàn vì yêu thích, chứ không phải vì tiền bạc, không ai trả tiền cho chúng tôi.
"Từ năm 1988 đến giờ, tôi làm việc này coi như là đã 30 năm. Không ai trong chúng tôi đòi hỏi thù lao, vì chúng tôi là những người đi làm có lương. Chúng tôi chỉ gặp nhau làm những việc này vào những ngày thứ Bảy, Chủ Nhật. Bây giờ tôi đã về hưu nên có thể làm việc toàn thời hơn chút xíu.
"Nhưng có khi vì bận việc gia đình, chúng tôi có hơi trễ nãi trong việc đưa tin, có những tin tức không đăng kịp thời thì cũng độc giả xin thông cảm thôi.
"Chẳng hạn nếu hôm nay, ngày mai vì bận, hơn nữa tôi chỉ làm việc vào buổi tối nên đăng được bài nào thì đăng, nếu không thì phải chờ qua hôm sau.
"Cái bất lợi ở chỗ đó, nhưng cái thuận lợi là có những tin tức hay sự kiện gì mà người Việt Nam quan tâm, chúng tôi phổ biến liền và có thể để lâu trên tờ báo để cho độc giả nắm vững thêm".
Trước câu hỏi có khi nào Ban biên tập đứng trước một quyết định biên tập khó khăn mà một người khó giải quyết, ông Nguyễn Văn Huy đáp :
"Chúng tôi có một Ban biên tập, và Ban biên tập đa số là những người đều có khả năng viết. Vì ở cách xa nhau, chúng tôi thỉnh thoảng có những buổi họp qua mạng để hội ý và trao đổi ý kiến với nhau.
"Nếu là những người trong ban biên tập gửi bài thì chúng tôi đăng liền, nhưng cũng có những bài sau khi vừa đăng lên nhưng anh em nói không được, vì nội dung không đúng với thực tế hay lập trường của Tập Hợp thì tôi mới rút lại, nhưng rất là hiếm.
"Phần lớn những bài cậy đăng đều được đọc kỹ, sau đó chúng tôi lấy quyết định đăng hay không đăng. Có những bài có nội dung phức tạp thì phải hội ý Ban biên tập bằng cách trao đổi hay hỏi ý kiến qua Internet, trong trang nội bộ (Intranet). Mục đích của truyền thông là sự trung thực, chúng tôi rất tôn trọng sự trung thực. Hơn nữa lập trường của Ban biên tập là không có ý kiến nào cấm nêu ra và không có đề tài nào cấm bàn đến, nhưng phải phù hợp với đường lối và chủ trương của Tập Hợp thì mới đăng.
"Trước khi lên bài chúng tôi phải làm nhiệm vụ biên tập, nghĩa là sửa lỗi chính tả, lỗi đánh máy và cách trình bày mà thôi. Nếu bài viết quá sai về sự kiện lẫn dẫn chứng, hay sử dụng những ngôn từ bất nhã thì chúng tôi không đăng. Nói chung, chúng tôi ít gặp những trường hợp đó".
Trang báo mạng Thông Luận-RDP.org do ông Nguyễn Văn Huy làm chủ nhiệm từ nước Pháp.
Ở ngoài viết về trong nước
Trước câu hỏi làm thế nào mà đang ở nước ngoài, không trực tiếp ở trong nước lại có thể có những bình luận đủ sâu và sát về tình hình ở quốc nội, blogger Bùi Quang Vơm nói :
"Không phải cứ phải ở trong nước mới có quyền nói về những việc làm của người ở trong nước, và không phải là cứ phải ở trong nước mới biết được những thứ gì trong nước làm. Tôi nói là anh nhìn một thứ gì đó, anh phải lùi xa anh mới trông thấy được.
"Anh chui vào trong rừng, anh có trông thấy hết cả cánh rừng không ? Nhưng mà tôi đứng ở ngoài, tôi sẽ trông thấy ai là người đang phá rừng".
Có một số ý kiến trong dư luận cho rằng lẽ ra một số bloggers, nhà báo tự do đã ra nước ngoài nên 'yên vị' với đời sống và quốc gia sở tại nơi họ cư trú, mà không nên viết các bài báo, bài blog 'động chạm, can thiệp tới nội tình' của Việt Nam, thậm chí dám 'thách thức' giới cầm quyền và chính quyền trong nước, blogger Bùi Quang Vơm phản bác điều này, ông nói :
"Tôi cho rằng ý kiến đó là không đúng, không xác đáng, bởi vì tôi ở nước Pháp, tôi có trách nhiệm với nước Pháp, nhưng mà tôi cũng là người Việt Nam, tôi có trách nhiệm với Việt Nam, tôi đi, nhưng không phải tôi đi suốt, tôi sẽ phải quay lại. Và tất cả năm triệu người Việt Nam ở nước ngoài đang tìm cách về...
"Cho nên tôi cống hiến lao động của tôi cho nước Pháp, tôi đóng thuế, nhưng cái mà nằm ở trong tim tôi, cái mà nằm ở trong đầu của tôi vẫn là đất nước Việt Nam của tôi.
"Vì thế nếu nói đến chuyện tại sao lại can thiệp vào nước Việt Nam, anh đang ở Pháp, anh đang ở nước ngoài sống ổn định như thế mà anh lại không yên phận, anh lại nhúng vào chuyện nọ, chuyện kia, ai nói đến chuyện nhúng ?".
Khi được hỏi liệu các blogger, nhà báo tự do mà đang viết theo những gì mà họ đã lựa chọn, có nghĩ đến việc có thể gặp những rủi ro gì hay không, chẳng hạn như khi họ vừa muốn cầm bút, gõ bàn phím, nhưng cũng muốn về thăm quê hương bản quán, ông Bùi Quang Vơm đáp :
"Tôi nghĩ là cái rủi ro sẽ tồn tại, sẽ có, nhưng sẽ là một cách thử thách mình và cũng là sự hy sinh của mình.
"Tôi cho rằng khi nào còn cản trở những người làm những việc thuần túy về tư tưởng, hay thuần túy về tình cảm như tôi, hay những người viết blog, thì những việc đó là việc sai của chính quyền.
"Tôi nghĩ rằng việc sai này sẽ được sửa dần, và tôi sẽ được về Việt Nam và tôi sẽ về liên tục đất nước của tôi".
'Bổn phận với đất nước'
Gần đây Quốc hội Việt Nam đã bỏ phiếu thông qua một đạo Luật về An toàn mạng, đạo luật này cũng đã được Chủ tịch nước ký quyết định ban hành theo truyền thông Việt Nam, trả lời câu hỏi liệu khi luật này đi vào có hiệu lực, việc viết blog và làm báo của giới cầm bút độc lập ở hải ngoại, như ở Pháp, có bị ảnh hưởng, hoặc gây ra thay đổi gì hay không, nhà báo, blogger Từ Thức nói :
"Tôi nghĩ rằng ảnh hưởng đối với người ở ngoại quốc thì sẽ rất hạn chế, tại vì ở đây không ai cấm chúng tôi viết hết. Mà cũng rất khó ngăn chặn các thông tin từ ngoại quốc về. Việt Nam dù có muốn tới đâu chăng nữa, họ cũng chưa có đủ khả năng kỹ thuật để ngăn chặn chuyện đó.
"Có thể vấn đề đặt ra với người trong nước nhưng mà không phải là với những người như chúng tôi ở hải ngoại, mà chính vì lẽ đó, chúng tôi tự thấy mình phải có bổn phận phải làm việc nhiều hơn nữa để 'tiếp lửa' cho anh em ở trong nhà".
Trang blog của blogger Từ Thức từ Paris
Bình luận về chuyện khó và dễ khi từ nước ngoài viết blog về Việt Nam, nhà báo, blogger Từ Thức nói :
"Viết về Việt Nam, cái quan trọng nhất là phải tự cảnh giác, phải đừng lấy những tin nào mà nó không chính xác, không có nguồn gốc thật đúng đắn, bởi vì nếu mình cứ lựa những tin nào hợp với ý mình, hay hợp ý của độc giả của mình thôi, nhiều khi mình sẽ đưa những tin thất thiệt ra.
"Thành ra bổn phận đầu tiên của chúng tôi là sự trung thực, mà muốn sự trung thực đó thì phải kiểm soát, so sánh tin tức của ngoại quốc, tin tức các nguồn khác nhau để khi những cái mà mình viết ra, nó là sự đúng đắn. Bởi vì không có gì mà tồi hơn là làm báo hay viết báo mà căn cứ trên những nguồn gốc sai sự thực. Sai sự thực vì thứ nhất không có đứng đắn, không đàng hoàng. Sai sự thực vì mình muốn bóp méo sự thực. Thì trong cả hai trường hợp đó, nó không xứng đáng với một người làm báo".
Trước câu hỏi vì sao không giữ sự im lặng khi đã ra nước ngoài để được an toàn hơn, mà lại lựa chọn lên tiếng và viết blog như đã và đang làm, nhà báo, blogger Từ Thức đáp :
"Lý do rất đơn giản là tôi là người Việt Nam, tôi sinh ra ở Việt Nam, thì cả quá khứ của tôi là ở Việt Nam, tôi ở ngoại quốc với thời gian lâu hơn thời gian tôi đã sống ở Việt Nam, nhưng tôi sinh ra ở Việt Nam, cả thời niên thiếu của tôi ở Việt Nam, thành ra sự liên hệ của chúng tôi đối với Việt Nam rất quan trọng.
"Anh muốn quên ? Nhiều lúc cũng muốn quên thật, bởi vì nhiều tin đến từ Việt Nam chỉ làm cho mình buồn thôi, chỉ làm cho mình mất ngủ, chứ không có gì hạnh phúc, không có gì sung sướng, thỏa mãn, không có gì hãnh diện hết, thành ra nhiều lúc muốn quên, nhưng mà quên không được. Sớm muộn thì cũng trở lại, là vì sao ? Là vì mình thấy là mình không thể bỏ được.
"Bỏ thì thương mà vương thì tội, đó là đất nước của mình. Một lúc nào đó, dù là anh muốn bỏ đi, cũng có một lúc nào đó, anh nghĩ rằng mình phải làm một việc gì đó - cái bổn phận của mình còn gắn bó với đất nước mà mình đã lớn lên".
Trên đây là quan điểm riêng của các nhà báo, bloggers tham gia trả lời phỏng vấn của BBC Tiếng Việt. Các cuộc phỏng vấn do BBC thực hiện trong loạt bài ghi chép những câu chuyện về người Việt đó đây trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, trong đó có phỏng vấn các giới hoạt động, nghiên cứu văn hóa, hoạt động xã hội, thiện nguyện, nhân chứng lịch sử, doanh nhân, nhà khoa học v.v...
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 05/09/2018