Tiếng Việt đã được công nhận là một trong những ngôn ngữ chính thức ở San Francisco, giúp thêm nhiều cư dân nói tiếng Việt tiếp cận được dễ dàng hơn các dịch vụ của thành phố.
Hội đồng Giám sát San Francisco ngày thứ Ba 11 tháng 6 đã biểu quyết nhất trí tuyên bố tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của thành phố, cùng với tiếng Hoa, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Philippines là những ngôn ngữ mà thành phố bắt buộc phải có dịch vụ dịch thuật, báo San Francisco Chronicle đưa tin.
Bước đi này, cùng với những thay đổi khác đối với sắc lệnh tiếp cận ngôn ngữ của San Francisco, nhằm mục đích bảo đảm rằng cư dân có thể được phục vụ bằng ngôn ngữ mà họ cảm thấy thoải mái nhất.
Sắc lệnh tiếp cận ngôn ngữ của thành phố, ban hành năm 2001, trước đây quy định các ban ngành của thành phố phải dịch các dịch vụ sang bất cứ ngôn ngữ nào với ít nhất 10.000 người nói trong thành phố có trình độ tiếng Anh hạn chế.
Sự thay đổi công bố hôm thứ Ba hạ ngưỡng này xuống còn 6.000, đối với cả tiếng Việt. Tổng cộng có 6.791 cư dân San Francisco được xác định là người nói tiếng Việt chủ yếu, theosố liệu thống kê của thành phố. Thành phố hiện giờ sẽ phải cung cấp thông dịch qua điện thoại, website, thông báo bằng văn bản và các dịch vụ chính thức khác bằng tiếng Việt.
Luật này đã được giới thiệu vào năm ngoái bởi Giám sát viên Khu vực 10 Shamann Walton. Ông nói thành phố cần mở rộng khả năng tiếp cận ngôn ngữ để bảo đảm cộng đồng người nhập cư có thể tham gia vào quy trình của chính phủ.
"San Francisco là nơi có nhiều cộng đồng nhập cư đa dạng và là nơi dẫn đầu quốc gia trong việc cung cấp các dịch vụ tiếp cận ngôn ngữ với một trong những luật tiếp cận ngôn ngữ địa phương mạnh mẽ và toàn diện nhất", ông Walton nói tại một cuộc họp báo trước cuộc biểu quyết hôm thứ Ba, theo tờ Chronicle.
Ông Joaquin Nguyễn Hòa, điều phối viên cộng đồng thuộc tổ chức Marin Asian Advocacy Project, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên hỗ trợ các cộng đồng người nhập cư và người tị nạn ở Quận Marin ngay bên cạnh San Francisco, nói việc tiếng Việt được công nhận là ngôn ngữ chính thức là một "tin vui" không chỉ cho cư dân gốc Việt của thành phố mà còn cho cả khu vực lân cận.
"Lợi ích trước mắt nó đem lại là giúp đỡ nhiều bà con người Việt không thạo tiếng Anh, trong công việc hàng ngày, nhất là những việc liên quan tới sức khỏe, bệnh viện", ông giải thích.
"Những bà con hay đến bệnh viện lại là những người ít thạo tiếng Anh nhất, vì là những người lớn tuổi, khi sang Mỹ không thể học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai này tốt như những người trẻ hơn. Nhóm người thứ hai hưởng lợi từ việc này là bà con dù còn trẻ, nhưng mới sang, vì sinh kế phải làm công việc chân tay, không có thời gian để học".
Ông nói thêm chính địa phương công nhận tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức cũng sẽ "hưởng lợi lớn" vì những người Việt không thạo tiếng Anh sẽ hiểu quy định pháp luật, lề thói xã hội Mỹ hơn. Ông đơn cử một ví dụ là việc phân loại rác tại nhà vì nhiều người Việt Nam không hiểu phải làm như thế nào vì không có ngôn ngữ đi kèm với các hình dán trên thùng rác.
Một lợi ích khác nữa là cho việc phát triển của cộng đồng.
"Việc công nhận tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại một thành phố đóng vai trò hàng đầu về kinh tế và văn hóa như San Francisco sẽ tạo sự tự tin, cảm hứng cho cộng đồng người Việt duy trì văn hóa của mình, vì ngôn ngữ là cốt lõi, là phương tiện cho việc duy trì đó", ông cho biết.
Nhưng đi kèm với những lợi ích là những thách thức, theo nhận định của ông.
Thứ nhất, nhà chức trách sẽ cần phải chú ý đến việc trình bày ngôn ngữ một cách sáng sủa và dễ hiểu. Bản thân là một nhà báo tự do, ông Hòa cho biết ông từng tham gia kiểm tra một website mới phiên bản tiếng Việt của Quận Marin và phát hiện những từ ngữ dùng sai hoặc không rõ nghĩa, vốn được dịch lại từ tiếng Anh bằng công cụ Google Dịch thuật.
Thứ hai, việc sử dụng tiếng Việt có khả năng sẽ dẫn đến những tranh cãi không đáng có, theo ông Hòa. Phần lớn những cư dân gốc Việt ở Mỹ là người tị nạn và một số người có quan điểm chống đối cộng sản kịch liệt thậm chí cả trong cách sử dụng ngôn ngữ.
"Tiếng Việt nào đúng, từ nào trước năm 1975, từ nào sau 1975, mang đầy màu sắc chính trị", ông nói. "Nên nhớ rằng trong mấy chục năm qua, tiếng Việt thay đổi rất mạnh tại Việt Nam, và những người Việt nhập cư vào Mỹ trong hai mươi năm gần đây ngày càng đông trong cộng đồng Việt Nam, và những người này, những người quen thuộc với loại tiếng Việt phát triển sau năm 1975, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong không gian tiếng Việt tại Mỹ".
Nguồn : VOA, 14/06/2024
"Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ.
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ…"
(Thơ "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ)
"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi, tiếng ru muôn đời… Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi…
(Bài hát "Tình ca" của Phạm Duy)
Tình Ca – Nhạc và lời : Phạm Duy - Hợp ca Thúy Nga
Chẳng rõ ngoài tiếng Việt ra, trên thế gian này còn có thứ tiếng dân tộc nào được cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ ca ngợi bằng những lời lẽ nghĩa lý sâu xa, tình cảm thắm thiết đến thế ? Ắt hẳn tiếng Việt phải có khả năng tạo nên một sức hút kỳ diệu khiến trái tim các nhà nghệ sĩ rung lên phát ra thành lời thơ mượt mà, điệu nhạc du dương như trên. Là những người có giác quan nhạy cảm trước mọi cái đẹp, cái vượt trội, các nghệ sĩ bẩm sinh có khả năng nhận ra những cái người thường khó nhận thấy. Mấy câu ca lời thơ trích dẫn ở trên chứng tỏ điều đó.
Lưu Quang Vũ mở đầu bài thơ ca ngợi tiếng Việt bằng một nhận xét tinh tế, chính xác, khiến các nhà ngôn ngữ học bậc thầy cũng phải ngạc nhiên : "Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói". Nhà thơ muốn nhắc lại một sự thật lịch sử quan trọng mà các học giả ta ít để ý tới : Cách đây hơn 2000 năm, trước ngày chữ Hán chính thức vào Việt Nam theo chân đội quân của Triệu Đà, người Việt chưa hề biết chữ viết là gì, còn người Hán đã sử dụng chữ viết được hơn nghìn năm. Thế nhưng hồi ấy tổ tiên ta đã làm chủ một ngôn ngữ nói hoàn thiện, chín muồi tới mức "vẹn tròn", có các ưu thế như ngữ âm cực kỳ phong phú, phát âm thống nhất trong cả nước, thích hợp dùng chữ viết biểu âm, được toàn dân yêu quý gìn giữ như một vật báu –– đó là tiếng Việt.
Tiếng mẹ đẻ của dân tộc ta có đặc điểm nổi trội nhất là ngữ âm cực giàu, ví dụ số âm tiết (syllable) nhiều gấp hơn chục lần tiếng Hán [1]. Vì thế tiếng Việt khác hẳn và không chung nguồn gốc với tiếng nói của các chủng tộc láng giềng phương Bắc, là những ngôn ngữ nghèo ngữ âm. Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), tiếng Hán và tiếng các tộc Bách Việt thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan) hoặc Tai-Kadai. Đây là một trong những căn cứ để suy ra cộng đồng người nói tiếng Việt là cư dân bản địa chứ hoàn toàn không phải là cư dân di cư từ phương Bắc tới [2].
Cũng do ngữ âm phong phú kỳ lạ như vậy nên tư duy ngôn ngữ của người Việt rất linh hoạt. Hiếm có dân tộc nào như dân tộc ta, trong lịch sử ngắn ngủi (4000 năm ?) của mình từng thành công sử dụng tới 3 loại chữ viết : chữ Hán/Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Nhờ ngữ âm phong phú, tổ tiên ta đã vay mượn chữ Hán và từ ngữ tiếng Hán theo một cách cực kỳ khôn ngoan là dùng tiếng mẹ đẻ để đọc chữ Hán – còn gọi là cách đọc Hán-Việt, nhờ thế đã học được chữ Hán mà không học và không nói tiếng Hán. Toàn bộ chữ Hán đều được phiên âm thành từ Hán-Việt, tức phần ngữ âm của chữ Hán nào cũng được Việt Nam hóa.
Về sau dân ta gọi chữ Hán được phiên âm sang tiếng Việt là chữ Nho. Mỗi chữ Nho là một từ Hán-Việt ; chữ Nho trở thành ký tự ghi từ Hán-Việt của tiếng Việt. Qua đó tổ tiên ta đã mượn được chữ Hán về dùng cho mình và xây dựng được nền giáo dục chữ Nho phát triển.
Học giả Phạm Quỳnh nói : Chữ Tàu phổ thông trong dân gian đến nỗi ngày nay có người gọi chữ Hán là "chữ ta", "chữ Việt Nam". Thử về nhà quê đưa cho ông già hay đứa trẻ một tờ chữ Nho hỏi là chữ gì, tất ai cũng đáp "chữ Việt Nam". Mười, hai mươi năm trước có ai nghĩ cái chữ mình học là chữ của ngoại quốc đâu [3] ?
Rõ ràng, nếu không phiên âm sang tiếng Việt mà cứ đọc chữ Hán theo âm Hán thì người Việt không thể coi chữ Hán là "chữ ta" và không thể học chữ Hán giỏi như vậy. Triều đình nhà Đường Trung Quốc từng cho phép người Việt đỗ tiến sĩ Hán học ở Việt Nam sang Trung Quốc thi tiếp, Khương Công Phụ người Thanh Hoa đỗ Trạng nguyên, được vua Đường trọng dụng.
Ngữ âm phong phú cũng giúp chúng ta ngày nay có thể vay mượn thành công hầu như bất cứ từ vựng ngoại nào, ví dụ ô tô, pho mát, sô (show), ây ai (AI)… nhưng ngược lại ngoại ngữ nào nghèo ngữ âm thì khó có thể mượn dùng được tiếng Việt.
Hơn thế nữa, việc phiên âm chữ Hán còn làm cho từ ngữ tiếng Việt phong phú thêm bội phần do hấp thụ được nhiều từ ngữ trong biển Hán ngữ mênh mông. Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo nói từ Hán-Việt chiếm khoảng 70% từ vựng tiếng Việt. Thực ra, từ Hán-Việt đã tạo nền tảng để từ đó sản sinh ra không biết bao nhiêu từ ngữ mới, ví dụ linh mục, cận nghèo, tái đàn, vi tính…, khiến cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng tăng vô hạn, khó có thể thống kê chính xác.
Trong khi người Trung Quốc bỏ ra gần một thế kỷ nghiên cứu làm chữ viết biểu âm mà không thành công, tất cả chỉ vì Hán ngữ nghèo ngữ âm, thì tiếng Việt tuy cũng là ngôn ngữ đơn lập (đơn âm tiết, monosyllabic) như Hán ngữ nhưng do ngữ âm phong phú nên làm được chữ Nôm có tính biểu âm, nhờ đó tạo dựng được nền văn học dân tộc tuyệt vời, và sau cùng tiếp nhận được chữ Quốc ngữ là chữ Nôm được Latin hóa, hiện đại hóa — chữ viết lý tưởng nhất cho người Việt.
Có thể khẳng định : nếu không đọc chữ Hán bằng tiếng Việt mà cứ đọc chữ Hán theo âm Hán, thì tiếng Việt đã biến mất từ lâu do nước ta từng bị người Hán đồng hóa ngôn ngữ trong hơn nghìn năm Bắc thuộc. Nhờ áp dụng cách đọc chữ Hán bằng tiếng Việt nên dân ta đời đời nói tiếng Việt, không nói tiếng Hán, vì thế tiếng Việt vẫn không hề suy suyển, kết quả là "Tiếng ta còn, nước ta còn", tổ tiên ta giữ được nòi giống và tổ quốc Việt Nam để lại cho con cháu muôn đời.
Học giả Phạm Quỳnh nhận xét : "Tổ tiên ta có công trạng lớn là làm cho toàn dân suốt từ Bắc đến Nam đều cùng một tiếng nói, một phong tục ; vì thế "cái tính tình, tư tưởng cũng không khác gì nhau… Dân Việt Nam ta thật được hơn các dân khác là chỉ có một thứ tiếng suốt trong bờ cõi… người Việt đi đến đâu cũng có thể nghe hiểu" [4]. Toàn dân nói cùng một ngôn ngữ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự thống nhất văn hóa, thống nhất dân tộc. Ngay từ thời chưa có chữ viết mà ngôn ngữ nói của người Việt đã hoàn thiện như thế, thật đáng tự hào. Tại Trung Quốc năm 2020 vẫn còn 20% dân chưa biết nói tiếng Phổ thông, mặc dầu họ đã có chữ viết từ hơn 3300 năm trước.
Có ý kiến cho rằng toàn dân ta nói một ngôn ngữ cơ bản thống nhất là do tiếng ta đơn giản dễ học dễ dùng và ngữ âm cực kỳ phong phú. Tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ đơn lập, mỗi tiếng một âm tiết, tương đối đơn giản so với ngôn ngữ đa lập (đa âm tiết, multisyllabic, như tiếng Nga, Anh, mỗi tiếng có thể có 2 âm tiết hoặc hơn). Khi đặt câu tiếng Việt chỉ cần chắp chữ (tiếng) theo thứ tự trước sau. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Trạng ngữ thường đứng ở đầu câu. Động từ sau chủ ngữ. Tính từ hoặc cụm tính từ sau danh từ. Ngữ pháp tiếng Việt đơn giản, không có khái niệm "thì, số, giống, cách", tất cả các từ đều không biến đổi ; thường dùng hư từ (ví dụ : đã, sẽ, rồi, cứ) để lập mối quan hệ giữa các từ.
Ngữ âm phong phú đã tạo thuận tiện tăng vốn từ ngữ, hầu như người bình dân nào cũng có thể tự đặt ra từ mới. Một số từ có thể đảo ngược thứ tự mà không đổi ý nghĩa, ví dụ tha thiết – thiết tha, đày đọa – đọa đày. Một số từ có thể láy lại hoặc thêm đuôi để tăng hiệu quả lời nói, ví dụ ào ào, rầm rầm, láo nháo, nhảm nhí. Nguồn từ tả âm thanh hầu như không bị hạn chế, như tả tiếng gió có thể dùng ù ù, rì rào, vi vu. Ngữ âm phong phú làm cho tiếng Việt có tính quốc tế cao, phiên âm được hầu hết các ngoại ngữ, tạo thuận lợi cho người Việt dễ tiếp xúc với ngôn ngữ, văn học, văn hóa nước ngoài, qua đó hấp thu được kho từ vựng phong phú, cấu trúc ngữ pháp trong sáng của tiếng nước ngoài, làm cho tiếng Việt luôn phát triển, trở thành một ngôn ngữ giàu từ vựng, đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội hiện đại.
Tiếng Việt "vẹn tròn" ở chỗ có thể diễn đạt chính xác, rõ ràng, gãy gọn mọi ý nghĩ, tư duy của người Việt. Khi đọc các tác phẩm văn học chữ Nôm ra đời từ mấy trăm năm trước, ta thấy hầu như không tác phẩm nào có sai sót đáng kể về dùng từ và ngữ pháp, chứng tỏ tiếng Việt trước khi có chữ Nôm đã rất hoàn thiện. Lời nói hàng ngày của người dân quê mù chữ cũng vậy, ví dụ câu "Hôm qua tát nước đầu đình, để quên chiếc áo trên cành hoa sen…". Toàn bộ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ tiếng Việt thời xưa đều vừa dễ hiểu vừa đúng chuẩn ngữ pháp và từ vựng.
Tiếng Việt lại "óng mượt như tơ", mềm mại như lụa, giàu âm điệu, giàu từ ngữ, dễ đặt câu, tạo điều kiện rất thuận tiện để sáng tác thơ ca, ca dao, tục ngữ, hát nói, tuồng chèo, dân ca… Các thể loại văn học này đều có vần điệu, rất dễ nhớ, dễ truyền miệng, nhờ thế tổ tiên ta khi chưa có chữ Nôm đã tạo lập được một kho tàng từ ngữ vô cùng phong phú. Sau khi chữ Nôm ra đời, các tài năng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v… đã vận dụng vốn từ ngữ đó viết các tác phẩm văn thơ chữ Nôm nói lên được tư tưởng, tình cảm của đông đảo bình dân, làm nên một thời kỳ văn học rực rỡ trong lịch sử nước nhà. Áng thơ Nôm "Truyện Kiều" là bộ sưu tập tuyệt vời về nghệ thuật sử dụng từ ngữ tiếng Việt bác học và dân gian, nhiều từ ngữ đạt trình độ tinh tế cao về ý nghĩa và âm điệu. Như câu :
"Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao !"
"Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời".
Rõ ràng, văn học chữ Nôm, tức văn học tiếng Việt thời xưa, tuy tồn tại không lâu nhưng đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt, xét về mọi mặt đều vượt xa văn học chữ Hán do người Việt sáng tác trong hai nghìn năm.
Có lẽ chính vì chậm có chữ viết nên người Việt rất chuộng văn chương truyền khẩu, dùng ngôn ngữ bình dân truyền miệng khắp cả nước vô vàn ca dao, tục ngữ ý vị, chung đúc bao nhiêu luân lý đạo đức, học thức, nhân sinh quan của dân tộc. Nghệ thuật truyền miệng ấy đạt trình độ rất cao, nhờ thế kho tàng từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và nhiều tác phẩm văn học dân gian vẫn được lưu giữ lâu dài trong dân chúng, cho dù thời ấy nước ta chưa có chữ viết, hoặc có rồi nhưng hầu hết dân mù chữ, cho dù quân đội nhà Minh trong mấy chục năm chiếm đóng nước ta đã tiêu hủy gần như toàn bộ thư tịch, văn bản do người Việt Nam viết.
Học giả Phạm Quỳnh nhận xét : "Tôi dám quyết rằng văn chương truyền khẩu là thứ rất phong phú, không nước nào có một cái văn chương truyền khẩu giàu như nước ta. Người nào hay chê tiếng Việt là nghèo hãy về nơi dân thôn hay ra chốn chợ búa, nghe bọn phụ nữ nói năng. Tôi tưởng các bậc tu mi [đàn ông] phải ghê cái tài hùng biện của các bạn quần trồi [đàn bà]… [điều đó] đủ chứng minh rằng tiếng Việt ta giàu biết bao nhiêu. Hãy thử nghe hai người đàn bà nhà quê nói chuyện hay cãi nhau, từ đầu chí cuối toàn là phương ngôn tục ngữ cả, cứ từng hồi, từng tràng, như một bài diễn thuyết trường thiên. Tiếng ta có nhiều tiếng rắp đôi hay lắm, hay vô cùng, tưởng không có tiếng nước nào bằng" [5].
Tiếng Việt gắn kết kỳ diệu với vận mệnh dân tộc ta, như lời ca "Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi." Sự thực lịch sử này càng làm tăng giá trị của tiếng Việt, chứng tỏ tiếng Việt đích thực là hồn cốt của dân tộc. Suốt mấy nghìn năm xưa, tầng lớp phong kiến và nhà Nho cổ hủ ở ta luôn khinh rẻ, hắt hủi tiếng Việt bình dân mà họ chê là nôm na mách qué, khiến cho ngôn ngữ và văn học dân gian bị kìm hãm, khó phát triển. Sai lầm đó bắt nguồn từ tâm lý mù quáng sùng bái văn hóa Hán và chữ Hán. Ví dụ, sĩ tử đi thi phải thuộc lòng Tứ thư Ngũ kinh, trong đó có 300 bài thơ Kinh Thi – đều là tác phẩm văn, sử học của người Hán, mà chẳng học văn học và lịch sử dân tộc mình. Kinh Thi là cái gì mà ta phải học ? "Kinh Thi chẳng qua là những lời ca dao trong dân gian Trung Quốc, được thánh nhân [cụ thể là Khổng Tử] biên tập, san định, truyền cho đời sau, tôn sùng làm một bộ kinh sách thánh thần có nghĩa huyền bí. Tôi thiết tưởng nhiều bài ca dao của ta lại còn hay hơn những bài trong Kinh Thi nhiều, chỉ vì không có lòng mê tín sùng thượng nên thường bị coi là nôm na" [6]. Đúng thế. Kinh Thi lấy đâu ra những câu ca dao tuyệt vời cả về văn và về ý nghĩa, toàn bộ dùng từ thuần Việt như "Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?". Chẳng qua vì người Việt là kẻ nô lệ nên "mẫu quốc" bắt học cái gì cũng phải học.
Cuộc thi viết chữ đẹp trường Trưng Vương (Quảng Trị) nawm. Ảnh Trường Trưng Vương
Ví dụ sau đây một lần nữa cho thấy tiếng Việt gắn chặt với vận mệnh dân tộc ta. Thực dân Pháp sau khi chiếm nước ta đã chủ trương buộc dân ta học tiếng Pháp từ bậc tiểu học, nhằm tiến tới toàn dân chỉ nói tiếng Pháp, như chúng đã làm ở nhiều thuộc địa Châu Phi. Thấy rõ chủ trương đồng hóa ngôn ngữ ấy sẽ giết chết tiếng Việt, giới trí thức tiến bộ nước ta đã lên tiếng phản đối. Năm 1922, học giả Phạm Quỳnh khi diễn thuyết trước Viện Hàn lâm Pháp ở Paris đã nói : Việc Chính phủ Pháp dự định dạy tiếng Pháp cho người An Nam (tức Việt Nam) từ nhỏ đến lớn, kết quả chỉ đủ làm cho dân nước chúng tôi mất tính cách An Nam, thành ra một giống lửng lơ thật nguy hiểm. Muốn tránh nguy hiểm ấy chỉ có một cách là dạy trẻ con An Nam học tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học [7]. Trước sự phản đối của dân ta và sau khi thấy chữ Quốc ngữ đủ khả năng thực hiện công cuộc khai hóa Việt Nam, Chính phủ Pháp đã bỏ chủ trương nói trên. Nhờ vậy dân tộc ta lần thứ hai tránh được thảm họa đồng hóa ngôn ngữ.
Sau ngày nước nhà độc lập, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất. Tất cả các bậc học đều giảng dạy bằng tiếng Việt. Trong hơn 70 năm, tiếng Việt được gìn giữ và được quan tâm nghiên cứu phát triển, cơ bản đáp ứng yêu cầu mới của thời đại : hiện đại hóa, tin học hóa, quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Tuy vậy trên thực tế vẫn có tình trạng sử dụng tiếng Việt lệch chuẩn, nói viết sai ngữ pháp, sai chính tả, dùng sai từ Hán-Việt, tùy tiện nhập từ ngữ nước ngoài làm cho tiếng ta bị pha tạp, thiếu trong sáng…
Tóm lại, dân tộc ta có một lịch sử ngôn ngữ rất vẻ vang. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ đã góp phần quan trọng đưa nền văn minh Việt Nam lên tới tầm cao như hiện nay. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ thực sự là một tài sản phi vật thể vô giá của toàn dân ta, mãi mãi đáng tự hào, đáng tôn vinh, và mãi mãi phải được bảo vệ, được phát triển đúng hướng.
Nguyễn Hải Hoành
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 01/01/2024
[1] Nguyễn Quang Hồng : "Âm tiết và loại hình ngôn ngữ", Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1994. Nguyễn Hải Hoành : "Một vài tìm tòi về ngôn ngữ", Tạp chí Tia Sáng số 11 (8/6/2020).
[2] Trần Trí Dõi : "Lịch sử ngôn ngữ người Việt – Góp phần tìm hiểu văn hóa Việt Nam", Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022.
[3] Phạm Quỳnh : "Luận giải văn học và triết học", Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2016.
[4] Như trên.
[5] Như trên.
[6] Như trên.
[7] Phạm Quỳnh : "Tuyển tập du ký", Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội 2012.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện với ông Hoàng Hưng, cựu giáo viên trung học môn Văn, nhà thơ, dịch giả, từ miền Bắc, và ông Lê Nguyễn, nhà nghiên cứu lịch sử độc lập, cựu Phụ tá Tỉnh trưởng đặc trách Phát triển Kinh tế dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, từ miền Nam.
Nhà thơ Hoàng Hưng, nhàn nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn
Song Chi : Thưa nhà thơ Hoàng Hưng, thưa nhà nghiên cứu Lê Nguyễn, bây giờ phải nói là hiện tượng sai chính tả hay "nói ngọng" từ những biểu ngữ, bảng hiệu ngoài đường, trong sách giáo khoa dạy vỡ lòng, cấp 1, cấp 2 cho tới báo chí truyền thông chính thức… không phải ít ; tệ hơn nữa, ngay một số từ điển chính tả mà cũng bị sai chính tả-đã từng có những trường hợp cuốn sách bị thu hồi vì bị dư luận lên tiếng. Có những người bào chữa cho rằng "cũng chưa có quy định nào về chuẩn chính tả do Nhà nước ban hành".
Hai ông nghĩ thế nào về chuyện này ? Có phải là do chưa có chuẩn ? Nhưng so với các thế hệ trước, tại sao bây giờ chuyện "nói ngọng" lại nhiều như vậy ?
Hoàng Hưng : Phải nói ngay là nguyên nhân chủ yếu của mọi hiện tượng yếu kém về ngôn ngữ có gốc chung là chất lượng giáo dục, đặc biệt là môn Ngữ Văn. Hệ thống giáo dục ở Việt Nam ngày càng mở rộng đến mọi thôn xóm vùng sâu vùng xa tất yếu làm suy giảm chất lượng giáo dục. Thêm nữa, ở Việt Nam lâu nay không có một thiết chế đủ thẩm quyền và uy tín để san định, thống nhất ngôn ngữ. Viện Ngôn ngữ, Viện Từ điển và Bách khoa thư của Việt Nam không làm được công việc của Viện Hàn lâm Pháp ngữ (Academie Française) thế kỷ 17 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hồng y Richelieu (trong vai trò như Thủ tướng nước Pháp). Cho nên những sai sót đáng kể về ngôn ngữ ngay trong giới trí thức, quan chức cấp cao, trong các sách công cụ như từ điển, sách giáo khoa là điều dễ hiểu !
Viết sai chính tả là vấn nạn chung của mọi người cầm bút Việt Nam, không chỉ bây giờ hay chỉ ở một vùng nào. Khi làm hồ sơ "Văn học miền Nam 1954-1975" tôi phát hiện không ít trường hợp viết sai chính tả ở những tác phẩm thời đó. Bản thân tôi khi viết cũng không đảm bảo đúng chính tả, nhất là những trường hợp s/x, d/gi/r… Các biên tập viên, nhân viên sửa morasse của những nhà xuất bản, những tờ báo nghiêm túc luôn phải tra cứu từ điển tiếng Việt khi sửa bài ! Và chắc không chỉ ở Việt Nam đâu ! Tổng thống Hoa Kỳ D. Trump hay bị chỉ trích vì những câu viết sai chính tả trên Twitter mà ! Nước Pháp chắc cũng có vấn đề không nhỏ về chính tả, nên vừa mới đây đã tổ chức một ngày hội viết chính tả hoành tráng có hàng ngàn người lớn và trẻ em tham gia ở trung tâm thủ đô Paris !
Riêng hiện tượng "nói ngọng" (lẫn lộn l/n) thì… là vấn đề chỉ có ở Việt Nam ! Những năm 1990, bản thân tôi đã sững sờ khi nghe trên tivi một ông Giám đốc Sở Giáo dục Hà Nội nói ngọng, và khi dự một hội thảo văn hoá nghe một ông vụ trưởng của Bộ Văn hoá nói ngọng ! Đến những năm gần đây, ông Bộ trưởng Giáo dục nói ngọng líu ngọng lô đã là hồi chuông cảnh báo một "quốc nạn", cứ nghe các quan chức nói trên tivi thì biết !
Hiện tượng "ngọng l/n" vốn khá phổ biến ở nhiều vùng quê miền Bắc. Tôi nhớ lại những năm dạy học cho sĩ quan quân đội và học sinh xuất thân nông thôn (1960-1973), tôi thường xuyên phải sửa ngọng cho học viên ! Thời đó, "nói ngọng" đồng nghĩa với "ít học". Nhưng thời đó, số trường cấp hai, cấp ba không nhiều lắm, và giáo viên cấp ba thường xuất thân từ thành phố (không nói ngọng) nên việc chỉnh sửa cho học trò là khả thi ! Sau này, có lẽ vì chính số không ít giáo viên xuất thân nông thôn cũng nói ngọng, nên việc sửa ngọng thành bất khả thi !
Lê Nguyễn : Lập luận cho rằng "chưa có quy định nào về chuẩn chính tả do Nhà nước ban hành" nhằm biện bạch cho những sai sót nghiêm trọng về chính tả Việt ngữ đã bộc lộ một thái độ thiếu trách nhiệm đối với ngôn ngữ nước nhà. Dù Việt Nam chưa có một Hàn Lâm viện đúng nghĩa để có thể nghiên cứu và ban hành những chuẩn mực về ngôn ngữ áp dụng cho cả nước, nhưng sau hàng trăm năm tiến hóa, tiếng Việt vẫn có những "chuẩn mực bất thành văn" được cả xã hội công nhận.
Khi cả xã hội viết là bàng hoàng, ta không thể viết là bàn hoàn ; khi cả xã hội viết là con trai (một loại hải sản), ta không thể viết là con chai ; trầy trật không thể viết là chầy chật, tréo ngoe không thể viết là chéo ngoe, thành ngữ xuôi chèo mát mái không thể viết là xuôi chiều mát mái ; sung công không thể viết là xung công ; giở trò không thể viết là dở trò ; rục rịch không thể viết là dục dịch ; ma trơi không thể viết là ma chơi ; trìu mến không thể viết là trừu mến ; sa trường không thể viết là xa trường ; xét xử không thể viết là xét sử ; xuýt xoa không thể viết là xít xoa ; sừng sộ không thể viết là xừng xộ ...
Thế mà ngần ấy lỗi sơ đẳng về chính tả có đủ trong một quyển sách gọi là "Từ điển chính tả tiếng Việt", được soạn thảo bởi những người có bằng cấp và chức danh thuộc vào hàng bậc nhất trong ngành giáo dục Việt Nam ! Đó chỉ mới là những lỗi tiêu biểu được công luận vạch ra, nếu xem kỹ từng trang, không biết sẽ còn bao nhiêu những "thảm họa" như thế nữa.
Từ điển vốn dĩ là loại hình văn hóa phẩm mẫu mực về ngôn ngữ của một nước mà có những sai sót nghiêm trọng như vậy thì đây là điều rất đáng báo động. Mặt khác, đây là trách nhiệm không chỉ của người soạn thảo từ điển, mà của cả một hệ thống điều hành tại nhà xuất bản, từ người biên tập, người đọc bản thảo hoàn chỉnh, người ký duyệt trước khi đưa đến nhà in.
Song Chi : Thứ hai, phải nói là đọc báo chí VN bây giờ nhiều khi câu cú rất lủng củng, gây hiểu nhầm, hoặc sơ xuất một cách tắc trách, hoặc đưa vào bài viết ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ tuổi teen, ngôn ngữ lai căng nửa Anh nửa Việt v.v…
Nguyên nhân nào đưa đến những tình trạng này ? Và tại sao đã có hàng bao nhiêu cuộc hội thảo về vấn đề "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" với sự tham gia của các nhà báo, nhà giáo, nhà ngôn ngữ học…nhưng tình trạng sai sót, lệch chuẩn về ngôn ngữ, về sử dụng tiếng Việt trên báo chí, truyền thông cho tới sách vở vẫn diễn ra ?
Hoàng Hưng : Riêng ở lĩnh vực truyền thông đại chúng, thì việc phát triển ồ ạt báo chí, kênh truyền hình… thuộc các tổ chức chính quyền và đoàn thể đủ các cấp, nặng tính tuyên truyền, không mang tính chuyên nghiệp như ở các nước không thuộc hệ thống "xã hội chủ nghĩa", dẫn đến không đảm bảo chất lượng cần thiết về văn hoá, ngôn ngữ, nghiệp vụ của người viết, người biên tập, người xướng ngôn…
Riêng việc đưa ngôn ngữ đường phố, tuổi teen… vào báo hàng ngày lại là chuyện khác. Hiện tượng này không chỉ thấy ở báo Việt Nam. Có lẽ vì báo ngày có xu hướng dùng "khẩu ngữ" để tăng tính sinh động, tiếp cận đông đảo người đọc và cập nhật đời sống, lôi kéo bạn đọc trẻ. Theo tôi, khẩu ngữ, trong đó có việc lai ghép tiếng nước ngoài trong xu thế hội nhập toàn cầu về kinh tế, văn hoá… chính là tài nguyên tốt để phát triển, làm phong phú ngôn ngữ của một dân tộc, không nên bài bác quá ! Tiếng Việt hiện đại có vô số từ vốn lấy từ tiếng Pháp, tiếng Anh, lâu ngày được Việt hoá ! Tôi nhớ những năm 1990, khi dẫn một bạn người Đức đi thăm vườn đào Nhật Tân Hà Nội, khi tôi hỏi anh chủ vườn còn trẻ : "chỗ đi tiểu ở đâu ?" anh ấy ngớ ra, rồi hỏi lại tôi : "toa let hả bác ?". Nay thì chắc chắn "nơi tiểu tiện, đại tiện", "nhà vệ sinh" đã bị thay thế bằng "W.C", "toa lét" trong ngôn ngữ hàng ngày ! Đó là xu thế của đời sống, khó cưỡng !
Lê Nguyễn : Sự xuống cấp của ngôn ngữ báo chí hiện nay là điều có thật, tất nhiên trách nhiệm này thuộc về đội ngũ các nhà báo chuyên nghiệp, không ít trong số đó là những người tốt nghiệp khoa Báo chí bậc Đại học.
Một trong những hậu quả trước mắt của tình trạng này là trong ngôn ngữ báo chí thường xuất hiện nhiều câu cú lủng củng, mù mờ, sự kết hợp chủ từ, động từ, túc từ trong các mệnh đề để lộ nhiều sơ hở đáng chê trách.
Theo thiển ý của tôi, tình trạng này xuất phát từ mấy nguyên nhân sau :
- Nhà báo hay ban biên tập báo chủ trương đặt những tựa cho thật kêu để thu hút độc giả mà không quan tâm đến sự chính xác của cú pháp Việt ngữ.
- Nhan đề bài báo bị rút gọn tối đa hay sắp xếp luộm thuộm khiến người viết nghĩ một đàng mà người đọc hiểu theo một nẻo khác. Một bài báo gần đây có cái tựa về việc một người bị xe tông chết rồi mà vẫn còn đủ sức lực để rời khỏi hiện trường là một ví dụ ( ! ! !). ("Thành phố Hồ Chí Minh : Người đàn ông đi sinh nhật về bị xe tải cán tử vong rồi rời khỏi hiện trường", báo Công An Thành phố Hồ Chí Minh). Đó là lỗi cú pháp nghiêm trọng, nhà báo muốn nói rằng chiếc xe đụng người xong rồi rời khỏi hiện trường nhưng cách đặt câu lại khiến người đọc hiểu rằng nạn nhân dù chết rồi vẫn rời khỏi hiện trường !
- Chương trình đào tạo khoa Báo chí bậc đại học còn nặng nề về chính trị (Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học...) khiến nhiều sinh viên ra trường và trở thành nhà báo vẫn chưa vận dụng nhuần nhuyễn tiếng mẹ đẻ, vốn ngoại ngữ yếu kém, không dịch chính xác tên nhiều cơ quan, tổ chức thông thường trên thế giới, xướng ngôn viên (phát thanh viên) truyền thanh và truyền hình không đọc đúng tên của nhiều nhân vật quen thuộc với khán thính giả của đài. Chỉ cái tên Troussier của huấn luyện viên người Pháp dẫn dắt đội tuyển quốc gia mà cũng được nhiều người đọc theo nhiều cách khác nhau, không biết đâu mà lần.
Song Chi : Một hiện tượng nữa cũng hay gặp ngay trên báo chí truyền thông chính thống là viết sai từ Hán Việt do không hiểu nghĩa. Chữ Nôm và chữ Hán hiện nay không được giảng dạy đại trà trong hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam, mà chỉ được giảng dạy và nghiên cứu trong các chuyên ngành về Hán-Nôm tại bậc đại học.m Hai ông nghĩ sao về chuyện nên cho giảng dạy lại một số giờ chữ Hán, chữ Nôm ở bậc phổ thông ? Hay là do những vấn đề về chính trị trong mối quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc nên sợ rằng có nhiều người sẽ đả kích chuyện này ?
Hoàng Hưng : Đúng là những thế hệ sau 1975 ngày càng ít biết về các từ Hán-Việt, từ gốc Hán. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do chất lượng môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông ! Cũng có lý do ở "tâm lý dân tộc" không muốn thừa nhận gốc Hán của số lớn từ tiếng Việt (có người thống kê lên đến 70-75% ! ! !). Cho nên mới có việc dùng sai những từ như "cứu cánh" (nghĩa đúng là "mục đích cuối cùng" giờ đây được hiểu rất phổ biến là "biện pháp giải cứu"), "yếu điểm" (nghĩa đúng là "điểm trọng yếu", giờ được hiểu là "điểm yếu")…
Một số chuyên gia ngữ-văn đã đề xuất dạy chữ Hán (và cả chữ Nôm) trong nhà trường phổ thông để khắc phục tình trạng trên ! Tôi nghĩ, cũng không nhất thiết, nhất là trong khi chương trình học vẫn bị coi là quá tải, mà nhu cầu sử dụng tiếng Anh trong thực tế vẫn đòi hỏi nhà trường nỗ lực nhiều hơn ! Bản thân tôi, đã học Trung Văn ở Đại học Sư phạm Văn trong 3 năm, mà giờ đây cũng quên gần hết ! Tuy nhiên, vẫn có thể nắm được các từ Hán Việt viết bằng chữ quốc ngữ nếu như chương trình Ngữ Văn phổ thông lưu ý đầy đủ việc dạy từ gốc Hán và kết cấu Hán (tính-danh) tồn tại trong tiếng Việt ! Biết rõ kết cấu tính-danh của từ gốc Hán thì không thể nhầm "yếu điểm" (hoàn toàn gốc Hán) với "điểm yếu" là từ kết hợp Hán (điểm) + Việt (yếu) theo kết cấu danh-tính của tiếng thuần Việt.
Việc hiểu sai những từ gốc Hán đã tồn tại khiến cho ngôn ngữ bị nhiễu loạn, không lợi cho sự phát triển khoa học, văn hoá, giáo dục. Nó khác với cách tạo từ mới không quá phụ thuộc vào từ gốc Hán (thường kết hợp từ thuần Việt với từ gốc Hán đã quen thuộc), là điều có thể chấp nhận, như "cát tặc", "phượt thủ"…
Lê Nguyễn : Về mặt văn tự, chữ Hán - Nôm và từ Hán -Việt khác nhau hoàn toàn, song hình như hiện nay có không ít ngộ nhận về hai thứ ngôn ngữ này. Chữ Hán là văn tự của người Trung Quốc, chữ Nôm là thứ chữ mà từ thời Trần, cha ông ta đã cải biên từ chữ Hán để phát âm đúng theo tiếng nói của người Việt, song hình thức vẫn như cách viết chữ Hán. Đó là trường hợp các tác phẩm văn học cổ điển : truyện Phan Trần, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm (bản dịch), truyện Hoa Tiên, truyện Kiều ...
Trái lại, từ Hán-Việt là những từ Việt có xuất xứ từ âm chữ Hán, nhưng viết theo dạng chữ La-tinh, mà nay ta thường gọi là chữ quốc ngữ, ví dụ, những từ sau đây là từ Hán-Việt : xuất phát, xuất khẩu, nhập khẩu, nguyên nhân, tranh đấu, tiến hóa, văn minh, tiếp kiến, yết kiến, sử dụng, thông dụng…
Tại miền Nam trước 1975, ở bậc Tiểu học và Trung học đệ nhất cấp (cấp 1 và cấp 2 ngày nay), học sinh không được dạy chữ Hán. Lên đến bậc Trung học đệ nhị cấp (cấp 3), họ được chọn một trong 4 bốn ban :
- Ban A (môn chủ yếu là Lý Hóa, Vạn vật [nay là Sinh vật])
- Ban B (môn chủ yếu là Toán, Lý Hóa)
- Ban C (còn gọi là Ban Văn chương, Sinh ngữ, gồm các môn Việt ngữ, Triết học, Sử Địa, Anh ngữ, Pháp ngữ)
- Ban D (còn gọi là Ban Cổ ngữ, gồm chủ yếu Triết học, Việt ngữ, Hán ngữ hay La (tinh) ngữ).
Ở bậc Đại học, các trường Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm có hẳn ban Việt-Hán dành cho các sinh viên theo học chữ Hán.
Ngày nay, ngành giáo dục xem nhẹ việc rèn luyện từ Hán-Việt cho học sinh và cả sinh viên ở bậc Đại học, khiến cho không it người, kể cả những người thường xuyên sử dụng chữ Việt trên sách báo, không phân biệt được nghĩa của từ yếu điểm khác với điểm yếu như thế nào, không phân biệt được yết kiến và tiếp kiến khác nhau ra sao.
Tình trạng này dẫn đến một hệ lụy khá phổ biến hiện nay là người ta ghép từ một cách vô tội vạ, chẳng hạn như vịt nuôi có khả năng tăng trọng cao thì gọi là "vịt siêu thịt", bọn lấy trộm cát ở sông là "cát tặc", bọn rải đinh trên đường là "đinh tặc", xe hơi (ô tô) đẹp, sang là "siêu xe"... Cách ghép chữ bừa bãi đó đã vi phạm một nguyên tắc bất thành văn đã tồn tại trong xã hội từ rất lâu đời, được cha ông ta tuân thủ chặt chẽ, đó là chỉ được ghép một từ Hán-Việt với một từ Hán-Việt khác, không được ghép một từ Hán-Việt với một từ Việt thuần túy. Trong các ví dụ trên, "siêu" là từ Hán-Việt, còn "thịt", "xe"là từ Việt thuần túy ; "tặc" là từ Hán-Việt, còn "cát", "đinh" là từ Việt thuần túy..., chúng không thể ghép chung với nhau được.
Hiện tượng yếu kém về từ Hán-Việt trong tiếng Việt ngày nay không chỉ xuất phát từ sự thiếu sót trong giảng dạy ở học đường, mà gần đây còn xuất phát từ ý thức chính trị nữa. Tinh thần yêu nước, chống lại thái độ kẻ cả của người bạn láng giềng phương Bắc trong những năm qua ảnh hưởng đến cả sự nhận biết về ngôn ngữ, nhiều người ngộ nhận giữa chữ Hán của người Trung Quốc với từ Hán-Việt được người dân ta sử dụng hàng ngày, coi việc phải học và sử dụng đúng từ Hán-Việt là một hành vi "lệ thuộc Tàu", mà không biết rằng từ Hán-Việt là di sản ngôn ngữ đã được cha ông ta tạo ra và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước.
Song Chi : Kể từ sau khi Việt Nam thống nhất, ngôn ngữ của Miền Bắc dần dần được xem là "chuẩn" và lấn át trong cuộc sống của người dân cả nước. Có những chữ người Miền Nam dùng bị thay thế, bị biến mất, sách giáo khoa dạy trẻ em cũng rất nhiều phương ngữ miền Bắc mà trẻ con miền Nam không hiểu. Có rất nhiều ví dụ về chuyện này. Trong khi người thời xưa mà soạn sách còn cẩn thận chú thích những cách gọi khác nhau tùy theo vùng miền thì bây giờ lại không làm như vậy, và nhiều khi cũng do tâm lý coi ngôn ngữ của miền Bắc là chuẩn mực của ngôn ngữ cả nước. Hai ông nghĩ sao về việc bảo vệ tính địa phương, vùng miền trong ngôn ngữ ?
Hoàng Hưng : Sau khi thống nhất đất nước, có 2 trào lưu ngược nhau :
Trong đời sống hàng ngày, phương ngữ miền Nam rất hấp dẫn người miền Bắc ! Và nhiều từ ngữ đã thành phổ biến khắp nước : "Bao ăn", "bao ngon", "bao xa"… , "trà" (thay cho "chè Tàu"), "xe hơi" (thay cho "ô tô"), "trục xe" (thay cho "moay ơ"), "sên" (thay cho "xích"), "thắng" (thay cho "phanh"), "rau ngò" (thay cho "rau mùi")… Ngược lại, sau khi người Bắc vào Nam sinh sống ồ ạt, thì phương ngữ Bắc cũng ảnh hưởng không nhỏ đến người Nam, nhất là ở những thế hệ sinh sau 1975.
Nhưng trong văn bản hành chính và sách giáo khoa, vì được soạn thống nhất từ Hà Nội, và đông đảo quan chức gốc Bắc vào "lãnh đạo" miền Nam, rõ ràng có chiều hướng coi ngôn ngữ miền Bắc (Hà Nội) là chuẩn mực !
Tôi nghĩ việc thống nhất thuật ngữ trong các văn bản hành chính có hiệu lực toàn quốc là đúng ! Nhưng những từ ngữ đặc thù của mỗi địa phương lại cần tôn trọng. Ví dụ : không việc gì phải đổi "Tân Sơn Nhứt" thành "Tân Sơn Nhất" !
Lê Nguyễn : Cách đây gần 370 năm, giáo sĩ Alexandre de Rhodes là một trong những người đầu tiên nghĩ ra cách diễn đạt ngôn ngữ Việt bằng chữ la tinh, và thứ văn tự này được cải tiến dần thành chữ quốc ngữ chúng ta sử dụng ngày nay. Khi làm công việc quan trọng này, De Rhodes đã ở Đàng Ngoài 3 năm và Đàng Trong 8 năm (nhiều đợt), nhờ vậy, ông nắm hiểu được nhiều phương ngữ khác nhau. Dù cách ký âm trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes còn phôi thai, song nhờ sự trải nghiệm qua nhiều vùng miền, ông viết "ma trơi" hay "(lá) trầu" theo cách đọc của người Đàng Trong, chứ không viết "ma chơi" hay "lá giầu" theo cách đọc của người Đàng Ngoài. Soạn từ điển, De Rhodes đã ý thức được tính đa dạng của ngôn ngữ Việt và áp dụng nhận thức đó trong biên soạn.
Gần chúng ta hơn, song cũng đã hàng trăm năm trước, khi soạn sách giáo khoa cho học sinh, các thế hệ đi trước đã biết quan tâm đến sự khác biệt về ngôn ngữ các vùng miền. Trong bộ sách Quốc văn Giáo khoa Thư được xuất bản lần đầu vào thập niên 1920, các nhà biên soạn sách giáo khoa sinh sống, làm việc tại miền Bắc (Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận), đã soạn thảo sách với một tinh thần trách nhiệm rất cao. Trong các bài đọc, khi viết từ "lợn", các cụ chú thích ở cuối trang là "heo" ; khi viết từ "bẩn", các cụ chú thích thêm là "dơ". Sự cẩn trọng của các cụ còn lên đến mức có hẳn một ghi chú chung như sau : "Trong sách này những tiếng đứng giữa ngoặc đơn là tiếng Trung kỳ của tiếng Bắc kỳ đứng trước, những tiếng có số ở dưới bài là tiếng Nam kỳ của tiếng Bắc kỳ có số viết lên trên (superscript) tương ứng".
Người xưa tinh thần trách nhiệm là thế, ngày nay sách giáo khoa cùng nhiều văn hóa phẩm khác được soạn thảo ra sao ? Nhiều tác phẩm biên soạn hay dịch thuật xuất phát từ miền Bắc đã tùy tiện sử dụng cách gọi của miền này làm chuẩn mực cho cả nước, nhiều khi làm thay đổi hẳn tên gốc của địa phương hay nhân vật ở các vùng miền khác. Có thể viện dẫn nhiều ví dụ của việc làm này : tên gốc Huỳnh Tịnh Của được đổi thành Hoàng Tịnh Của ; Châu Văn Tiếp thành Chu Văn Tiếp, Ngô Tùng Châu thành Ngô Tòng Chu, Đỗ Thành Nhơn thành Đỗ Thanh Nhân ...
Về biên soạn sách giáo khoa, có lúc dư luận mạng xã hội rộ lên về sự cẩu thả của người biên soạn, giống lạc đà được liệt vào loài... chim, viết cho học sinh cấp một mà "ăn" viết là "chén", "nhai" viết là "nhá", "uống" viết là "tợp"…, thì tính nghiêm túc của nhà soạn sách giáo khoa cần phải được xem lại, nếu không, sẽ phương hại đến tương lai của lớp người trẻ sau này.
Song Chi : Hồi năm 2022 có chuyện ồn ào đòi đổi tên hàng trăm tên đường ở Sài Gòn với lý do trùng hoặc tên không chính xác nhân vật lịch sử, địa danh, tên không ý nghĩa và cần sửa đổi. Nhưng trong đó cũng có lý do đưa ra là tên đặt không chuẩn ví dụ như Lê Thánh Tôn (được cho rằng chính xác phải là Lê Thánh Tông), Ngô Thời Nhiệm (được cho là chính xác phải là Ngô Thì Nhậm).
Nhưng thật ra với người miền Nam thì tên đường Lê Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Ngô Thời Nhiệm không hề sai. Đổi thành Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Tông Đản, Ngô Thì Nhậm mới là sai chánh tả đối với người miền Nam. Cũng giống như người miền Nam có họ Võ, người miền Bắc có họ Vũ, người miền Nam có họ Huỳnh, người Bắc có họ Hoàng…không lẽ cũng thay đổi ?
Thưa các ông nghĩ sao ?
Hoàng Hưng : Như ở trên tôi đã nói, những gì thuộc một địa phương, không có hiệu lực toàn quốc thì cần tôn trọng phương ngữ ! Tên đường phố lưu hành ở đâu thì nên theo phương ngữ vùng đó ! Việc bắt buộc thay đổi theo "chuẩn quốc gia" ở đây là máy móc, không cần thiết, lại dễ gây phản cảm của người dân địa phương, và gây phiền nhiễu về nhiều mặt thực tế !
Lê Nguyễn : Trong câu hỏi này, có hai ý khác nhau, xin được trả lời riêng từ ý một :
a) Về việc tên các vì vua Việt Nam được đặt tên đường, đúng là có sự khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Miền Bắc viết Lê Thánh Tông thì miền Nam trước 1975 viết là Lê Thánh Tôn ...
Đây là sự khác biệt không quan trọng về tập quán ngôn ngữ của hai miền, trong một phạm vi thật nhỏ hẹp ; theo tôi, ngày nay, nên đồng nhất hóa việc viết và đặt tên đường các vì vua Việt Nam dưới hình thức có chữ "Tông" ở cuối, thay vì "tôn", điều này phù hợp với các bộ sử chính thống của nước ta.
b) Riêng với việc "Bắc hóa" một cách tùy tiện các nhân danh và địa danh xuất phát từ nhiều địa phương trong cả nước, điều này cần được bài bác, vì nó làm sai lạc tên gốc của các nhân vật lịch sử hay vùng miền. Các ví dụ tiêu biểu đã được nêu ra trong phần trả lời câu hỏi số 4.
Song Chi : Xin hai ông cho vài ý kiến, quan điểm riêng về việc làm thế nào để khắc phục tất cả những điều này ?
Hoàng Hưng : Giáo dục, truyền thông đại chúng và hành chính là 3 hệ thống có ảnh hưởng lớn nhất đến ngôn ngữ dân tộc. Trong đó giáo dục Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông là nền tảng. Gần đây, vẫn có những ý kiến tranh cãi về chức năng của môn Ngữ Văn : coi trọng dạy tiếng (ngữ) là liệu có làm mờ nhạt việc dạy văn chương ? Tôi cho rằng ở bậc phổ thông, chức năng dạy sử dụng đúng và thành thạo tiếng Việt vẫn là điều cần cải thiện rất nhiều, vì sự bất cập của nó chính là gốc sinh ra những yếu kém về ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày cũng như trong các sinh hoạt văn hoá cao mà ta đang chứng kiến. Dạy văn chương trước nhất cũng là dạy tiếng Việt, "tiếng Việt đẹp" !
Lê Nguyễn : Xin nêu mấy việc cần làm.
1) Phải cải thiện tình trạng yếu kém về từ Hán-Việt trong hiểu và viết tiếng Việt của công chúng nói chung, của học sinh, sinh viên nói riêng, bằng cách tăng cường việc giảng dạy loại ngôn ngữ này trong học đường. Ngay cả thành phần giáo viên dạy tiếng Việt cũng cần được tu nghiệp, rèn luyện thêm. Khi một Phó giáo sư, tiến sĩ còn phạm những lỗi sơ đẳng về chính tả Việt ngữ thì chuyện rèn luyện thêm cho đội ngũ giáo viên văn không phải là điều vô ích.
Về chữ Hán-Nôm, có thể khuyến khích nhiều sinh viên bậc Đại học chọn môn học này để sau khi ra trường, họ sẽ góp phần nghiên cứu, dịch thuật và phổ biến nhiều tác phẩm Hán Nôm do cha ông để lại nhưng đến nay vẫn còn nằm yên trong các văn khố.
2) Trong lúc Việt Nam chưa có Hàn lâm viện để có thể đưa ra những chuẩn mực cần thiết trong việc sử dụng tiếng Việt, nhà nước cần huy động chất xám của các nhà ngôn ngữ học có tài năng, giàu tâm huyết để góp phần làm trong sáng tiếng Việt, mặt khác, cần ngăn chặn sớm những hành vi "cải tiến ngôn ngữ" mà không có căn cứ xác đáng, làm xáo trộn môi trường xã hội đang cần sự ổn định và lành mạnh.
3) Triệt để bài bác việc "cải tiến ngôn ngữ" bằng cách lấy cách nói của người miền Bắc làm chuẩn mực cho cả nước, ví dụ "con trâu" viết thành "con Châu", "rục rịch" thành "dục dịch", "tréo ngoe" thành "chéo ngoe" ....
4) Sách giáo khoa dù được biên soạn hay xuất bản ở đâu, cũng phải tránh tối đa những từ ngữ chỉ phổ biến ở một vùng miền nhất định, trong trường hợp chẳng thể làm khác hơn thì phải có chú thích thêm về cách gọi ở những vùng miền khác. Đội ngũ biên soạn sách giáo khoa phải được tuyển chọn kỹ trong số những người có kiến thức rộng về ngôn ngữ các vùng miền khác nhau.
5) Trong dịch thuật các tài liệu văn hóa-lịch sử, cần tôn trọng triệt để tính chính xác về nhân danh và địa danh, không "Bắc hóa" theo kiểu họ Huỳnh đổi thành họ Hoàng, núi Châu Thới (thuộc tỉnh Bình Dương) đổi thành núi Chu Thái, tên Ngô Tùng Châu đổi thành Ngô Tòng Chu ....
Song Chi : Xin cảm ơn nhà thơ Hoàng Hưng và nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn.
Song Chi (thực hiện)
Nguồn : RFA, 10/07/2023
Giữa khe cửa trước nhà, bữa rồi, thấy có gài một mẩu giấy quảng cáo – với dòng chữ in đậm – trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh : "Under New Management - Tăng Cường Ẩm Thực". Tăng cường giờ mở cửa tới midnight. Đọc nghe hơi chương chướng nhưng tui cũng hiểu được liền, và còn đoán được luôn tác giả : cha nội Hải Ký Mì Gia – ở ngay ngã tư đầu đường – chớ còn ai vô đó nữa !
Tiệm này "chuyên trị" mì gà chiên và mì vịt tiềm. Thỉnh thoảng, tui vẫn ghé qua và lần nào cũng có trao đổi với chủ nhân đôi câu chào hỏi (xã giao) nên biết cái kiểu nói chuyện và hiểu ý của ổng mà : "Tiệm có quản lý mới. Thực đơn phong phú hơn. Từ đây sẽ mở cho tới tận khuya".
Ông chủ người Minh Hương, sinh trưởng ở Bạc Liêu, vượt biên hồi đầu thập niên 1980. Dân Việt gốc Hoa, sống ở Mỹ gần nửa thế kỷ mà vẫn viết được "tiếng nước tôi" như vậy là ngon lành cành đào rồi – đúng không ?
Tôi đã từng "đụng chuyện" với một vị "người Hoa gốc Tầu" nữa kìa. Ổng viết tiếng Việt (theo kiểu gu gồ) đọc mà muốn khóc bằng… tiếng Tây luôn. Thằng chả (chắc) là chủ nhân của một hãng làm thức ăn khô của Đài Loan hay Hồng Kông gì đó, và sản phẩm được bầy bán ê hề ở California, bao bì cũng in một dòng chữ trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh : "Chuẩn Bị Con Cá Mực – Prepared Cuttlefish" !
Cái gì vậy, hả Trời ? Thông minh tới cỡ tui mà phải mất mấy chục giây mới hiểu (té ra) là… "khô mực ăn liền". Thiệt là thầy chạy !
Tiếng Việt, cũng như dân Việt – trên bước đường lưu lạc – tránh sao khỏi những cảnh ngộ bi hài hay những mảnh đời tơi tả. Kampuchea là nơi không thiếu những cảnh tình này. Nhà báo Ngy Thanh đã từng cảm thán : "Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận".
Việt ngữ ở đây cũng thế, cũng "mạt vận" chả khác chi người.
Theo tường trình của MIRO (Minority Rights Organization ) thì có khoảng 5%, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Xứ Chùa Tháp. Đây là nhóm dân thiểu số đông nhất ở đất nước nhỏ bé này. Phần lớn đều không có được một tờ giấy lận lưng (không khai sinh, cũng không căn cước) nên không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào cả. Họ cũng không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo. Bởi vậy, rất nhiều kiều bào ở Miên hiện vẫn sống trong những túp lều tranh (lều bều như mấy dề lục bình) trên mặt Biển Hồ – Tonlé Sap.
Chắn chắn không nơi nào trên trái đất này mà dân Việt phải sống lam lũ và thảm thương đến thế. Y tế cũng như giáo dục đều là những điều xa xỉ, nói chi đến chuyện báo/đài hay một cái trường (Việt ngữ) cho những đứa bé luôn trôi nổi bấp bênh.
Vậy mà chả hiểu nhờ vào cơ duyên nào đó, năm 2008, bỗng dưng có vài người Việt từ Canada lặn lội đến tận làng Kampong Luong (Kampong Luong Floating Village) làm tặng cho dân ấp Koh Ka Ek một ngôi trường tử tế.
Mãi đến năm 2014, tôi mới theo chân sư Minh Trí (người sáng lập Hội Vì Dân – Vidan Foundation) lò dò tìm đến chốn này. Tới nơi thì trường học đã nằm chỏng chơ trên cạn vì nổi hết được rồi.
Sau khi gắn vô mấy chục cái thùng phuy nhựa mới (mỗi cái cỡ 25 mỹ kim) và dặm thêm một mớ lồ ô hai bên cạnh sườn (không có tre để giữ cân bằng nó sẽ bị bồng bềnh) rồi sửa sang lại chút đỉnh thì kể như êm. Tụi nhỏ lại có cơ hội đến trường ê a ("mờ a ma sắc má" – "ba a ba huyền bà") như trước.
Năm 2012, lại có thêm một cơ duyên kỳ diệu nữa, người Việt từ Perth (Australia) cũng lặn lội đến tận làng Kandal – thuộc xã Phsar, tỉnh Kampong Chhnang – để xây tặng cho đồng bào mình một ngôi trường bề thế, tốn kém cả trăm ngàn mỹ kim chứ không phải ít.
Vài ba năm sau, sư Minh Trí cũng đưa tui đến đây luôn. Chúng tôi đều hân hoan khi nhìn thấy ba lớp học được dựng trên những cột xi măng vuông vắn và vững chắc, bên trong được trang bị bàn ghế đàng hoàng. Chỉ kẹt cái là nó không có điện, cũng không có nước nên WC vô phương sử dụng.
Chuyện nhỏ thôi (so với tiền của và công sức của bao nhiêu người Việt Nam tại Úc) nên chúng tôi hăng hái bắt điện, bơm nước, gắn quạt máy, và còn lát xi măng luôn cả cái nền để vào mùa khô học sinh có chỗ chơi đùa.
Từ đó – theo sự cắt đặt của nhà sư – tôi vẫn thường trở lại thăm non hai cái trường này (cùng dăm ba lớp học ở vài nơi khác nữa) để mang sách vở bút viết cho học sinh, và chút tiền trợ cấp cho mấy vị giáo viên.
Tới đâu, tôi cũng đều "lớn tiếng" lập đi lập lại cái quan niệm rất thực tiễn và cấp tiến của mình : Xin quý thầy cô đừng quá quan tâm đến Việt Ngữ. Thay vào đó hãy dùng thời giờ dậy các em làm được mấy phép tính (cộng – trừ – nhân – chia) căn bản, và đọc được tiếng Miên để sau này chúng có thể sinh tồn một cách dễ dàng hơn nơi đất nước này.
Cái quan niệm "đúng đắn và cấp tiến" đó, mới đây, vừa bị thử thách (một cách vô cùng nghiêm trọng) khi tôi ghé qua lớp học ở Bati – nằm trong khuôn viên của Chùa Ông Quan Đế, thuộc huyện Peam Ro, tỉnh Prey Veng – vào tháng 11 năm rồi. Đây là một nơi hết sức đặc biệt vì người Việt chả những có chùa (và ban trị sự) mà còn có cả hội đồng hương tề luôn nữa.
Tôi được coi là khách quý, đến tự phương xa, và được hân hạnh họp mặt với tất cả quý vị chức sắc địa phương. Họ đều thuộc vào hàng lão hạng nên tôi rất nhỏ giọng khi lập lại quan niệm (cố hữu) của mình là con cháu chúng ta cần học toán và học tiếng Khmer để sinh tồn, chứ không phải là Việt Ngữ. Mỗi đứa trẻ chỉ được tới trường vài ba năm thôi, mất thời giờ học tiếng Việt làm chi khi mà cái cơ hội đọc được một tờ báo (hay viết một cái thư) bằng Việt Ngữ kể như là bằng không. Chỉ cần sắp nhỏ vẫn nói chuyện bằng tiếng nước mình là cũng đã tốt lắm rồi, chớ…".
Tôi chưa dứt lời mà không khí buổi họp đã trầm hẳn xuống. Những ánh mắt, và những nụ cười chứa chan thiện cảm mà mọi người đã dành cho tôi từ lúc ban đầu (bỗng) tan biến hết trơn. Rồi một vị lão nhiêu, chắc cũng đã bát tuần, mới nhỏ nhẹ đáp lời :
"Chúng tôi lại có chút suy nghĩ khác. Người Việt ở nơi đây từ đời này qua đời nọ nên bây giờ ai cũng đen thủi, đen thui y như người bản xứ. Ngó qua thiệt khó nhận ra là "Duồn" ai là "Miên" nữa. Sự khác biệt chỉ còn ở cái tiếng nước mình thôi. Bởi vậy, khi đã có cơ hội cắp sách đến trường thì ưu tiên là phải dậy bầy trẻ đọc viết tiếng mẹ đẻ cái đã, chớ còn nói như ông thì...".
Ông anh cũng chưa hết lời nhưng tôi đã cảm được sự đồng tình của mọi người hiện diện. Rồi có lẽ vì quá xúc động (hay quá bất nhẫn) ổng đưa tay gạt nước mắt và ngồi phịch xuống ghế, tựa như là muốn đứng cũng không nổi nữa !
Những "giọt lệ như sương" của vị đồng hương cao niên khiến tôi chợt nhận ra sự nông nổi và thiển cận của mình. Cùng lúc, tôi cũng "ngộ" được đôi điều quan trọng khác :
Nào phải là tình cờ mà những người Việt từ Bắc Mỹ, từ Úc Châu đều đã cất công tìm đến Cambodia để làm trường học. Cũng đâu phải là vô cớ mà chỉ riêng ở tiểu bang California (Hoa Kỳ) đã có đến cả chục Trung tâm dạy Việt ngữ và hầu như ở khắp mọi nơi trên thế giới, nơi đâu có dân Việt là có những lớp học cho trẻ Việt cùng với sự tham gia (tự nguyện) của hàng vạn giáo viên – từ nửa thế kỷ qua.
Khi Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cho phép giảng dậy Việt Ngữ ở một số trường trung học và đại học tại quốc gia này thì giản dị chỉ vì đó là chủ trương nhân bản và bao dung (đa văn hóa) của xứ sở này. Còn mọi cố gắng, chắt chiu, thương khó để bảo tồn tiếng mẹ đẻ của hàng triệu người dân Việt, đang lưu lạc ở khắp bốn phương (có lẽ) là do sự thôi thúc tiềm ẩn từ vô thức. Đây là phản ứng tự nhiên từ vô thức tập thể (collective uncounciousness) của cả một giống nòi (trong cơn quốc biến) khi ngôn ngữ của họ đang "bị tha hóa, bị thao túng, bị phá sản một cách có hệ thống" – theo như lời báo nguy của nhà giáo và nhà báo Thái Hạo.
Lời báo động muộn màng này cũng đã giúp tôi hiểu ra lý do mà sư Minh Trí – sau khi xuất gia, từ bỏ mọi hoạt động chính trị – đã hết lòng tận tụy chăm lo cho những lớp học Việt Ngữ, ở Kampuchea, cho đến… hơi thở cuối !
Tưởng Năng Tiến
Nguồn : RFA, 06/01/2023
Ngỡ là nhỏ nhưng cách dùng tiếng Việt hiện nay rất quái dị, đang mài mòn và làm méo mó, xấu xí tiếng Việt Nam.
Cách dùng tiếng Việt hiện nay rất quái dị, đang mài mòn và làm méo mó, xấu xí tiếng Việt Nam. Ảnh minh họa
Xin phép dẫn ra một vài ví dụ :
1. Cực hay, cực chuẩn : Chữ "cực" đúng nghĩa, nó chỉ phương hướng trong địa lý : cực Nam, cực Bắc, v.v. Khi dùng "cực hay" nhằm ám chỉ "cực kỳ hay" nhưng nói riết rồi sau này, sanh ra cách nói gom lại vì tật làm biếng, như chữ "danh thắng", vốn phải dùng đủ "danh lam thắng cảnh". Cũng như vậy, chữ "cực chuẩn" bị dùng sai. Bởi vì chuẩn nghĩa là "mực thước" mà như vậy tức phải có tiêu chuẩn. Khi nói về "tiêu chuẩn" tức phải có nhiều yếu tố kết hợp lại theo hệ thống, mới ra chuẩn mực. Ví dụ, một loại sản phẩm nào đó phải tuân theo tiêu chuẩn ISO... Hoặc người ta cũng thấy cách dùng kỳ khôi như chữ "cực lớn", vốn ám chỉ cho nghĩa "rất lớn". Chỉ có "cực đại" và "cực tiểu" dùng trong toán học và các môn khoa học tự nhiên - kỹ thuật.
2. Bức xúc : Ý nghĩa của chữ này, ban đầu muốn nói về sự bực bội hay khó chịu (nghĩa là chưa đến mức giận dữ hoặc cao hơn là phẫn nộ). Chữ này ngày càng dùng để thay thế cho tất cả cảm xúc của con người, khi bị mất đất, bị xử oan ức đến nỗi người bị oan có thể gây ra hành vi dại dột để phản kháng lại bản án. Do đó, sau này chữ "bức xúc" thay thế tất cả tâm trạng. Nó sai, vì ngày nay được dùng phổ quát, để thay thế cho tất cả các cảm xúc khác nhau của con người.
3. Tự hào : Ngày nay, chữ "tự hào" được dùng vô tội vạ, đến nỗi một em bé phải lấy nhiều máu để xét nghiệm nhưng không khóc, cũng làm cho người cha "tự hào" (!). Ngoài ra những chữ mang nặng yếu tố mơ hồ như : Bản lĩnh, lý tưởng cũng được khuếch trương và nâng cao để ru ngủ và mị dân và dùng theo cách rất nông cạn và hời hợt, ngay cả trong trận đá banh cũng thấy tràn ngập.
4. Tranh thủ : Thời bao cấp ở miền Bắc, chữ "tranh thủ" dùng để chỉ sự chụp giựt, tranh giành (tranh tức là giành, thủ tức là hàng đầu) khi xếp hàng mua gạo, dầu hôi, v.v. Sau này du nhập vô Nam và dùng rất rộng rãi (nhứt là thời cũng theo chánh sách bao cấp, sau 1975). Ý nghĩa của chữ này, thu xếp thời gian sao cho khoa học để giải quyết được nhiều việc nhưng xài lâu ngày người dân hiểu như là giỏi giang - đảm đang - xoay đầu này chụp đầu kia v.v. Ví dụ : Tôi tranh thủ chạy qua thăm anh chút xíu, rồi còn đi làm cho kịp và nhiều ví dụ khác mà bất kỳ ai cũng có thể thấy, được sử dụng hàng ngày.
5. Động viên : Vốn là danh động từ. Chữ này có nghĩa là sự huy động số lượng con người, cho một việc gì đó. Trước 1975, chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa có thời gian dài "tổng động viên" cho quân dịch, lúc mà hiệp định Paris 1973 đã ký xong. Sau này, chữ "động viên", bị xài rộng rãi đến mức gây ác cảm, khi nghe đến chữ "động viên". Tới đám ma hay đi thăm người bịnh, người ta cũng dùng "động viên". Lẽ ra, phải dùng chữ "an ủi", "chia buồn", "khích lệ", v.v.
6. Quan hệ : Nhằm nói lên có mối liên quan - liên hệ với nhau trong nhiều việc, ví dụ như : Quan hệ cha - con, quan hệ mẹ - con, quan hệ - anh - chị - em, quan hệ bằng hữu, quan hệ đồng nghiệp, quan hệ đối tác, quan hệ ngoại giao v.v. Không biết từ khi nào, chữ "quan hệ" nhằm để giải quyết cho cái âm đạo và cái dương vật thỏa mãn. Vì vậy, báo chí ngày nay cố ý né tránh chữ nhục dục để thay bằng "quan hệ không trong sáng". Tiếng Việt trở nên méo mó và gây đàm tiếu.
7. Phản bội : Trong một nhạc phẩm có tựa "Mẹ" của Phú Quang, được nhiều ca sĩ trình diễn, có đoạn [*] :
Mẹ là người đầu tiên
Người đàn bà mãi mãi
Không bao giờ phản bội
Ngay cả khi con ngu dại một đời...
Người Việt Nam bình thường nào không biết nghĩa của từ "phản bội" ?
Kẻ phản bội - Tên phản bội - Người vợ phản bội - Người chồng phản bội - Người bạn phản bội, v.v. đầy nhóc trong cuộc sống và trên cả sách báo - tiểu thuyết - phim kịch, v.v. Nhưng chưa một người bình thường nào, lại gán chữ "phản bội" dù ở thể phủ định (nghĩa là có chữ "không bao giờ" đứng trước) để nhằm ca ngợi đấng sanh thành - dưỡng dục như nhạc sĩ Phú Quang.
Dĩ nhiên, ai có đầu óc bình thường cũng hiểu, bản nhạc hàm ý sự thương yêu của mẹ, ngay cả khi con mình lầm lỗi. Thử hỏi, thiếu gì chữ, như : bao dung, vị tha, rộng lượng, hy sinh, v.v. để diễn đạt về tình mẹ vô bờ vô bến ?
Không thể nói rằng "Thơ mà ! Nhạc mà ! Cần cảm nhận hơn là bắt bẻ". Hãy học, hãy đọc hàng ngàn bản nhạc của các nhạc sĩ Việt Nam trước 1975 để tỏ để tường về cách dùng chữ Việt Nam thanh cao - sang trọng, chứ không phải thô kệch và báng bổ vào hình ảnh người mẹ như bản nhạc nói trên !
Thử hỏi, khi đứa con tham nhũng, đứa con phạm tội ác tày trời, mà sau này tràn ngập trong đời thực, không lẽ bà mẹ vẫn nên che giấu - binh vực - dung túng để được gọi là bà mẹ "Không bao giờ phản bội" con mình (?)
Còn rất nhiều chữ làm cho tiếng Việt ngày càng quái dị và mất phẩm giá người Việt Nam. Hãy vui lòng nhớ cho : Không có tiếng Bắc, không có tiếng Nam - tiếng Trung - tiếng Nghệ An, v.v. Chỉ có tiếng Việt Nam mà thôi. Và tiếng mẹ đẻ không phải lúc nào cũng trùng khớp với tiếng Việt. Bộ Giáo dục và đào tạo, Ban Tuyên giáo trung ương cùng các cơ quan hữu trách cần phải nhanh chóng sửa chữa - đính chính và gầy dựng lại tiếng Việt Nam. Tiếp tục để chữ nghĩa tiếng Việt quái dị lan tràn như hiện nay, càng làm phẩm giá người Việt Nam sa sút thảm hại.
Tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi.
(Tình Ca - Phạm Duy)
Nguyễn Ngọc Già
Nguồn : RFA, 16/11/2022
Đảng cộng sản Việt Nam lo lắng giúp người Việt tị nạn hoặc di cư sống ở nước ngoài. Họ lo dân Việt xa quê có ngày sẽ không còn đủ tiếng Việt để xài nữa, dù có cố gắng tiết kiệm, chỉ dần dần xài mỗi ngày một chút cho đỡ tốn. Cho nên, để giúp đỡ hơn 5 triệu người Việt ở 130 quốc gia trên thế giới, Đảng đã chọn ngày 8/9 làm ngày đề cao Tiếng Việt.
"Sau khiva chạmvào mô-tô", chiếc xe tải "tiếp tục va chạm" vào chiếc xe đạp
Theo ký giả Sen Nguyen, trên the South China Morning Post ở Hồng Kông ngày 10/09/2022, một ông phó thủ tướng tên là Phạm Quang Hiêu (Hiếu, Hiệu, hoặc Hiểu), nói đã có một "kế hoạch 8 năm" nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt !
Trong khi chờ đợi "kế hoạch 8 năm" được thi triển, bà con di cư tị nạn muốn nếm thử một chút ít "tiếng Việt cộng sản" có thể tìm đọc ngay trên báoNhân Dân.
Báo Nhân Dân, số ra ngày 19/09/2022, có một bản tin về "tai nạn giao thông nghiêm trọng" hôm trước. Một chiếc "ô-tô tải" do một anh tên Triều lái đã tông vào một "xe mô-tô" do một anh khác lái chở theo một Việt kiều từ Mỹ về chơi.
Thay vì viết anh Triều "lái" chiếc xe, "Tiếng nói của Đảng, Nhà nước..." đã viết rằng chiếc xe do anh "điều khiển lưu thông". Người lái chiếc mô-tô cũng được mô tả là "điều khiển" chiếc xe gắn máy. Sau đó, chiếc ô-tô tải bị lật nhưng lại đụng vào một chiếc xe đạp do một "học sinh lớp 10điều khiển". Không nói "lái xe", xe hơi, xe bình bịch hay xe đạp, phải nói "điều khiển".
Thêm một chữ nữa : "va chạm". Báo Nhân Dân viết tiếp, "Sau khiva chạmvào mô-tô", chiếc xe tải "tiếp tục va chạm" vào chiếc xe đạp, chúng tôi in chữ nghiêng. Thông thường người Việt dùng hai chữ "va chạm" để tả hai vật hay hai người đụng chạm hoặc va nhau, một cách nhẹ nhàng. Nhưng trong báo Nhân Dân các "va chạm" đó làm chết hai người !
Trên cùng trang nhất tờ báo này, thấy "vụ việc một du khách nước ngoàiva chạmvới đoàn xe lửa Lào Cai-Hà Nội", may mắn thoát chết ! Nhưng "Đoàn tàu… va chạm với du khách" đã "phải dừng lại giải quyết sự cố, tuyến đường… ùn tắc". Tốt nhất, bà con ở nước ngoài, dù gặp cảnh "sự cố ùn tắc" cũng nên tránh không "va chạm" với chữ nghĩa của các ông cộng sản.
Hai chữ "sự cố" cũng như chữ "sự kiện" được dùng tự do, thả dàn trên báo đài trong nước. Một tờ báo viết về cô ca sĩ : "Bà mẹ một con… trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tạisự kiện". Tại "sự kiện ?". Những "sự kiện" đó là cái gì !
Một bài khác viết về Nữ hoàng Elizabeth II, nói bà thích một nhãn hiệu đồng hồ nổi tiếng, bà "thường xuyên được bắt gặp đeo thương hiệu đồng hồ… đến các sự kiện xa hoa… bà thậm chí còn cho mượn đồ của mình khi đi sự kiện". Bà nữ hoàng "đi sự kiện". Tức là bà đến dự một lễ lạc. Bà lại "được bắt gặp" đeo đồng hồ ! Đây là những cách nói tiếng Việt mới lạ chưa từng thấy. Người ta dùng chữ "sự kiện" để dịch nguyên văn chữ "event" trong tiếng Anh, vì lười, không muốn tìm những tiếng Việt chính xác hơn !
Chữ "event" hay "sự kiện" nói về nhiều thứ khác nhau. Có thể viết "sự kiện" thay vì lễ hội, tập họp, một buổi trình diễn, trưng bày nghệ thuật, một tổ chức, hội thảo, một trận đấu thể thao, một trường hợp, hoàn cảnh, nghi lễ, sự việc, vân vân. Những chữsự cố, hay biến cố, nói về một chuyện đã xảy ra, chữ "cố" với ý nghĩa là đã xong rồi, cũng được thay thế bằng chữ "sự kiện".
Nếu ông Phạm Quang Hiêu muốn viện trợ ngôn ngữ cho đồng bào ở nước ngoài, ông có thể gửi những chuyến máy bay chở 1.000 thùng chữ "điều khiển", 1.000 thùng chữ "va chạm", 15.000 thùng những chữ "điều khiển", "sự kiện", "sự cố", vân vân, tặng cho bà con người Việt sống ở Paris, Los Angeles hoặc Melbourne. Họ sẽ mở mắt ra, thấy không cần dùng những chữ như cổ lỗ như "lái xe", "buổi họp" hay "bữa tiệc" nữa.
Nhưng báoNhân Dân còn có thể cung cấp nhiều hơn những chữ lẻ tẻ như "sự kiện", "va chạm" hoặcđiều khiển". Ông Hiêu có thể gói tặng bà con những đoạn văn dài đầy chữ nghĩa. Mời quý vị đọc thử mấy câu dưới đây (xin ngưng đọc ngay, nếu cảm thấy khó thở, chóng mặt, hoặc buồn nôn).
Đây là văn chương báoNhân Dân : viết về "Công nghiệp văn hóa".
"Công nghiệp văn hóa tạo ra nhiều cơ hội học tập mới cho người lao động, góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí giữa các vùng miền, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nói chung. Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng. Di sản văn hóa trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào phong phú cho nhiều ngành công nghiệp như âm nhạc, điện ảnh, trò chơi điện tử, từ đó giúp thiết lập lợi thế cạnh tranh, sự độc đáo và nhận diện thương hiệu cho những ngành này ở thị trường trong nước, cũng như thị trường khu vực và thế giới".
Cảm tưởng đầu tiên là nó "Rất khó tiêu !"
Đọc hết cả đoạn trên cũng chưa hiểu "Công nghiệp văn hóa" là những thứ gì. "Thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí" là thế nào ? "Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa" nghĩa là gì ? Di sản văn hóa cung cấp "nguyên liệu đầu vào"… "cho nhiều ngành công nghiệp !". Nghe như kể chuyện một nhà máy xay lúa !
Đây là một căn bệnh thâm căn cố đế trong các chế độ cộng sản : Ăn to, nói lớn. Khoe khoang chữ nghĩa. Hô khẩu hiệu ! Xác định lập trường ! Không khác gì nhà giàu hợm hĩnh khoe của.
Căn bệnh này không chỉ xuất hiện trên báo chí mà đã lan truyền trong cuộc sống hàng ngày của tất cả mọi người. Bên bờ hồ Hoàn Kiếm quý vị có thể thấy hai tấm bảng treo trên một cửa ra vào, viết giống hệt nhau, một cái treo ngoài đường, một cái ở trước cửa bên trong.
22222222222222222222
Một nhà vệ sinh công cộng bên bờ hồ Hoàn Kiếm.
Tấm bảng xanh lá cây viết bốn hàng chữ trắng, tất cả viết hoa, như thế này :
CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ
XÍ NGHIỆP MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ SỐ 2
NHÀ VỆ SINH CÔNG CỘNG – TOILET
ĐỊA CHỈ : SỐ 8 LÊ THÁI TỔ, HOÀN KIẾM, HÀ NỘI – ĐT : 043.8288072 – 043.9288508
Tất cả tấm bảng 41 chữ và số, cuối cùng, chỉ có một chữ mọi người cần biết, là "Toilet !". Người đi đường, các du khách chỉ cần đọc chữ "Toilet" hay "Toa Lét" là hiểu ngay ! Không hiểu tại sao người ta phải đọc 25 chữ VIẾT HOA lòng thòng rồi mới được thấy chữ "Toilet !" Cũng không hiểu tại sao phải ghi cả địa chỉ cái toa lét này ? Người di tìm toa lét có ai chọn một địa chỉ trước, đúng địa chỉ mới vào, hay không ? Lại còn số điện thoại nữa ! Có cần gọi điện thoại xin hẹn trước, giữ chỗ, mới được dùng toa lét hay không ?
Người Việt Nam sống ở nước ngoài chắc không ai muốn dùng tiếng Việt theo đường lối nhiêu khê của Đảng !
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 21/09/2022
Báo Tuổi Trẻ đưa tin ngày 3 tháng Giêng năm 2019, Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức đối thoại - về sách giáo khoa dạy theo "công nghệ giáo dục" - với ông Hồ Ngọc Đại, ông Nguyễn Kế Hào và các cộng sự của hai ông. Bài báo cho biết [1] "cuộc đối thoại có những lúc rơi vào cãi cọ, nặng lời, xúc phạm nhau" giữa "nhà nước" và "đối phương".
Ông Hồ Ngọc Đại (trái) và ông Nguyễn Kế Hào (phải).
Cho đến mãi sau này, người ta biết thêm, sách "công nghệ giáo dục" do ông Hồ Ngọc Đại "cầm đầu" đã được đưa vào sử dụng từ 40 năm trước và có chỉnh sửa nhiều lần, trước khi dẫn đến bộ sách mới nhất bị dư luận khen chê nhiều chiều, trong đó phần "chê" chiếm số đông.
Không ai gọi "tiếng cha đẻ".
tiếng Việt vốn đơn âm, vì vậy, khi dạy cho trẻ việc gọi là "tách tiếng" là việc làm phản khoa học. Ví dụ : chữ "cho anh", "cho em" không được phép đọc thành "choanh" hay "choem" ; Chữ "cái áo" không được phép đọc thành "cáo" hoặc chữ "thị tình" không được đọc thành "thịt tình" v.v...
Học sinh được tự do chọn hình khối, màu sắc để biểu thị cho các tiếng, theo phương pháp đánh vần của Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục. Ảnh: Quỳnh Trang.
Không chỉ người Việt Nam, bất kỳ dân tộc nào, trẻ em (nếu không mắc bệnh kiếm thính) đã biết nói trước khi biết chữ. Vì lẽ đó, khi tiếp xúc với chữ, trẻ con không cần phải hiểu có bao nhiêu âm (ví dụ : một câu có 6 âm, 8 âm v.v...). Điều này vô nghĩa.
Bước vào năm học đầu đời của trẻ, nhìn mặt chữ và làm quen chữ cái cũng như các âm (nguyên âm, phụ âm, nguyên âm đơn, nguyên âm đôi, nguyên âm ba) được các nhà nghiên cứu giáo dục quan sát, phân tích rồi đúc kết để tạo ra lý thuyết phù hợp cho trẻ, theo cách giản dị : Từ dễ đến khó và từ đơn giản đến phức tạp.
tiếng Việt cũng phát âm khác nhau theo vùng miền. Do đó, có những vùng miền này nói, vùng miền khác không hiểu. Đó là điều bình thường như đã và đang diễn ra trên xứ sở Việt Nam. Nhưng, chữ viết buộc phải giống nhau và phải hiểu đúng cùng một ý nghĩa.
Vì vậy, không thể nào chấp nhận cách dạy trẻ con đọc các chữ : C, K, Q cùng đọc là "cờ". Cho đến nay, cuốn gọi là "sách" có tựa "Đường Kách Mệnh" của Hồ Chí Minh chủ biên là một bằng chứng khó chối cãi về sự bảo thủ cùng cực của người cộng sản Việt Nam. Đã thành "thánh nhân" như Hồ Chí Minh nhất quyết không bao giờ sai (!).
Cũng không thể chấp nhận cách dạy trẻ con đọc các chữ : D, G, R cùng đọc là "dờ". Đây là bằng chứng cho thấy sự bào thủ của ông Hồ Ngọc Đại bằng tư duy phiến diện với phát âm theo kiểu người Bắc. Ngay cả chữ D, GI, R người miền Bắc cũng phát âm giống nhau. Điều này cũng bình thường nốt. Nhưng không được phép viết "cây dù" (umbrella) trở thành "cây giù" hay "cây rù".
Nói đến đây, có thể nhiều người sẽ nói rằng : Hãy gọi là "cái ô". Không sai. Nhưng đó lại thêm bằng chứng xác nhận ngôn ngữ địa phương không phải là ngôn ngữ của một quốc gia. Không ai dám nói chữ "mẹ" hay chữ "má" (chữ "u", chữ "đẻ", chữ "bầm"...) hoặc chữ "ba", chữ bố" (chữ "thầy, chữ "cha", chữ "tía"...) chữ nào "đúng hơn", "hay hơn", "đẹp hơn" cả. Lý giải này, cho thấy rõ hơn tư tưởng đơn nguyên trong sách giáo khoa của người cộng sản Việt Nam ngày càng làm cho tiếng Việt nghèo nàn.
Trong tiếng Việt, chữ P, Q đứng riêng hoàn toàn vô nghĩa. P phải luôn luôn đi cùng H để tạo ra "PH". Q chỉ có nghĩa khi kết hợp với các nguyên âm đôi, nguyên âm ba để tạo ra "QU" (ví dụ : qua, quới v.v...).
Tiếng mẹ đẻ - không ai gọi là "tiếng cha đẻ" - dùng để nói lên mối liên hệ không gì thay thế được cho một đứa trẻ từ lúc lọt lòng mẹ. Người mẹ là người thầy đầu đời cho em bé, dù lúc đó nó chưa hiểu gì "chữ nghĩa".
Tiếng Việt không phải là tiếng Anh, nó không mang tính phổ quát toàn cầu. Vì vậy, tham vọng của Hồ Ngọc Đại - khi ông ta cho rằng - trong tương lai có thể phiên âm tiếng Việt ra "bất cứ thứ tiếng nào cũng được" [2] là một phát ngôn hoang tưởng - điều không nên có ở một người làm khoa học, đặc biệt lại làm khoa học về giáo dục mà lại là giáo dục căn bản cho trẻ em !
Tiếng Việt không còn giản dị, đẹp và dễ hiểu
Người dân có thể không nhớ từ khi nào chữ "Y" và chữ "I" được "coi như một" - chỉ khi có nguyên âm đôi, chữ "Y" mới còn vai trò của nó - nhưng người ta biết chính Hồ Ngọc Đại đã tàn phá chữ "Y" trong cái cách ông ta gọi là "sáng tạo" (!)
Ban đầu nhiều bậc phu huynh vô cùng khó chịu khi phải nhìn thấy những chữ : kì lạ, kỉ niệm, kí sự, lí lẽ, mĩ từ, ma quỉ v.v...nhưng người đời không biết làm sao, hơn là tập quen dần.
Trong khi tập quen dần, sự xỏ xiên lại bắt đầu nở rộ, ví dụ : người ta bỡn cợt khi gọi chữ "thúy" thành ra chữ "thúi", chữ "uy" thành ra chữ "ui" và nhiều người cũng phân vân không biết nên dùng chữ "quý" hay chữ "quí" để rồi cuối cùng chấp nhận "chữ nào cũng được" (!). Thế cho nên những người nào có tên hay chữ lót như : Đặng Đình Quý (Quí) - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Nguyễn Quý Hòa (Nguyễn Quí Hòa) - Nguyên tổng giám đốc Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, nghệ sĩ hài Phú Quý (Quí) v.v... họ cũng mắc kẹt giữa mớ bòng bong do Hồ Ngọc Đại gây ra cảnh "nồi chữ xáo nghĩa" như thế !
Đó không thể là khoa học, bởi khoa học không được phép dung chứa "cái kiểu nào cũng được".
Chính từ việc tàn phá chữ "Y", sẽ rất kệch cỡm khi buộc phá bĩnh bằng nhưng chữ : iêu (thay vì yêu), thyểu não (thay vì thiểu não), phyền muộn (thay vì phiền muộn) v.v...
Không dừng lại ở hình thức "chữ", tiếng Việt - về "nghĩa" - cũng mai một theo thời gian.
Hai chữ : "xin" và "cho" cần được dùng chính xác với ngữ cảnh đặt ra. Ví dụ rất nhiều, người viết xin phép dẫn ra bằng một vài nhạc phẩm để rộng đường dư luận :
- Xin cho tôi yên ngủ phận này (Xin cho tôi - Trịnh Công Sơn)
- Xin hát lên cho mặt trời tình yêu rọi sáng chốn âm u ngục tù (Lửa tù - Đình Đại)
- Xin hỏi anh là ai, sao bắt tôi ? Tôi làm điều gì sai ? (Anh là ai - Việt Khang)
Nếu trong nhạc phẩm "Xin cho tôi" và "Lửa tù", chữ "xin" nói lên nỗi lòng thiết tha, khao khát về một điều gì đó thì nhạc phẩm "Anh là ai", chữ "xin" là một sự mỉa mai nhưng rất lịch sự (tương tự với câu : Anh lấy tư cách gì bắt tôi ?).
Ngày nay, người ta bắt gặp chữ "xin" và chữ "cho" đầy dẫy trong đời : Đơn xin tố cáo (tố cáo mà cũng phải xin !) ; Đơn xin cứu xét (người ta cứ ngỡ "cứu" là cứu giúp" nhưng "cứu xét" nghĩa là nghiên cứu-xem xét) ; Xin mời (đầy trong các hội nghị, diễn văn của quan chức từ cấp cao nhất) ; Đơn xin phong tặng (các loại) nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, thầy giáo ưu tú, thầy giáo nhân dân, thầy thuốc ưu tú, thầy thuốc nhân dân và tất cả các loại danh hiệu (anh hùng, liệt sĩ, huân chương này, huy chương nọ v.v...)
Không biết có phải do nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" tạo cảnh lá lai với "chữ nghĩa ăn mày" đầy nhóc như thế không nữa ?! Chỉ biết người cộng sản Việt Nam vốn luôn luôn thích thú sự "ban ơn bố thí" cho toàn dân, nên "cứ mở ti-vi" lên là nghe thấy... Thật não nề và ê chề cho dân tộc Việt Nam !
Kết Luận
Không thể nhìn giáo dục như một "trào lưu thời trang" để thay đổi xoành xoạch như Hồ Ngọc Đại và cộng sự của ông ta làm, rồi gọi tên "công nghệ" - một loại giống như "công nghệ tiệc cưới" vốn vô hồn trong các đám cưới ngày nay !
Không thể cải cách giáo dục trên vũng lầy "vô văn hóa - vô giáo dục" - nguồn gốc xuất thân của người cộng sản.
Nguyễn Ngọc Già
Nguồn : RFA, 05/01/2020 (nguyenngocgia's blog)
[1] https://tuoitre.vn/doi-thoai-gay-gat-giua-hoi-dong-tham-dinh-sach-va-gia...
[2] https://vnexpress.net/giao-duc/40-nam-thang-tram-cua-sach-tieng-viet-con...
Thay vì làm to chuyện với một slogan quảng cáo thì "cơ quan chức năng văn hóa" nên tìm giải pháp khẩn cấp để chấn chỉnh tình trạng hỗn loạn tiếng Việt. Cái gọi là "rất phản cảm, thiếu văn hóa và thiếu thẩm mỹ" đang hiện diện tràn lan và không chỉ với một từ mà với vô số từ và vô số câu.
VTV loan tin mẫu quảng cáo Mở lon Việt Nam bị phạt 25 triệu đồng. Photo VTV
Nếu nói tiếng Việt là một trong những tấm "căn cước" định tính cho văn hóa dân tộc thì cách sử dụng tiếng Việt thời đại này đã cho thấy tấm căn cước tiếng Việt đang bị phá phách ẩu tả đến mức đáng hổ thẹn. Từ việc ghép từ vô tội vạ đến tình trạng đặt ra những "khái niệm" ngữ nghĩa méo mó (chẳng hạn "trạm thu giá"), tiếng Việt đang bị sử dụng với một thái độ vừa cưỡng bức vừa khinh rẻ. Nếu cần tìm một bằng chứng cho thấy văn hóa xuống cấp và chọn ra nạn nhân tiêu biểu thì tiếng Việt là nạn nhân không thể không nhắc.
Không chỉ "cưỡng hôn" – được hiểu lệch lạc là "cưỡng bức để được hôn", còn có vô số kiểu nói kỳ quái khác. Trong thực tế, có bao giờ chúng ta nói "Nè, khi đang tham gia giao thông thì tạt qua tiệm bánh mì mua giùm cho một ổ" ! Có bao giờ người ta nói, "đang tham gia giao thông thì tôi gặp cậu ấy…" ! Ai đặt ra cái cụm từ dị hợm này ? Ngoài ra, có thể kể vô số từ bình thường khác cũng đang được dùng một cách bất thường. "Quá trình" là một ví dụ. Cái gì cũng "quá trình". Trường hợp nào cũng "quá trình". Sự việc nào cũng "quá trình"… "Một thí sinh dùng máy trợ thính trong quá trình thi" ; "Một giáo viên tử nạn trong quá trình làm nhiệm vụ coi thi". Chưa hết, "trong quá trình uống café", "trong quá trình ăn tô hủ tíu", "trong quá trình tham gia giao thông"… Kinh hoàng hơn là gần đây người ta "tinh giản" luôn chữ "trong" khi nói về một "quá trình" – chẳng hạn "Quá trình đi từ bàn mình đến bàn nạn nhân, hung thủ rút sẵn con dao ra cầm trên tay" ! Trong khi đó, "quá trình" – được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt (chủ biên Hoàng Phê, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Hồng Đức 2018) – như sau : "Tổng thể nói chung những hiện tượng nối tiếp nhau trong thời gian, theo một trình tự nhất định của một sự việc nào đó".
Dĩ nhiên chẳng ai đòi hỏi viết báo phải dùng câu chữ đẹp đẽ và kiêu kỳ như nhạc ngữ trong âm nhạc Phạm Duy nhưng biến mình thành học trò tiểu học khi viết báo thì thật không nên ! Việc viết sai chính tả một cách bất chấp và báo chí đăng sai chính tả một cách bất kể đã không còn là "hiện tượng". Nó đã trở thành một tệ nạn, một thảm trạng thật sự đối với chữ Quốc ngữ. Viết sai chính tả là "chuyện nhỏ". Bây giờ là thời của những lộn xộn giữa "bàng quan" và "bàng quang" ; giữa "rốt cuộc" và "rốt cục" (sai) ; giữa "kết cục" và "kết cuộc" (sai)… Giờ là thời "thích là xài", chẳng cần tìm hiểu hay mất thời giờ tra cứu từ điển, cho nên mới không phân biệt được "điểm yếu" và "yếu điểm" ; cho nên mới viết "thăm quan" thay vì "tham quan".
Tình trạng tiếng Việt bị hạ xuống trình độ "cấp tiểu học" lại xảy ra với một nghịch lý là thích làm sang. Thay vì viết "tôi thấy" thì người ta cứ nói "tôi mục sở thị" ! Giữa việc trang điểm ngôn ngữ với việc làm dáng nhưng không giấu được điệu bộ giả tạo che đậy cái lớp quê mùa chữ nghĩa là một lằn ranh không phải không khó thấy. Nhân tiện nói thêm, việc nhầm lẫn các từ Hán Việt cũng là "hiện tượng thời đại". Mới đây, tôi đã đọc một bài điểm sách, trong đó, vị nhà báo nổi tiếng nọ đã ví ngôn ngữ văn chương như một thứ "thần quyền" để phục vụ cho "thần dân" !
Không chỉ sai lệch chữ và nghĩa mà tiếng Việt ngày nay còn méo mó cấu trúc. Thay vì nói "Chương trình này được Sony tài trợ" ; người ta thích nói "Chương trình này được tài trợ bởi Sony". Như thế còn đỡ. Người ta thậm chí còn nói "Thủ tướng VN đã được đón tiếp bởi ông Shinzo Abe". Người ta không thấy lạ khi nói "Đội mũ bảo hiểm đối với người đi xe máy", mà thay vì phải nói một cách bình thường : "Người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm". Thay vì nói "Thí sinh này ở Tiền Giang" thì lại dùng "Thí sinh này đến từ Tiền Giang", như thể phải vậy mới là ngôn ngữ của thời hội nhập. Where are you from, hử anh/chị dẫn chương trình ? Are you from Vietnam ?
Rồi còn "fan hâm mộ", rồi "cặp đôi", rồi còn đầy những câu không hề có chủ ngữ : "Sốc với phát biểu…" ; "Choáng với hình ảnh"… Nếu thời chiến tranh người ta "khóc cười với vận nước nổi trôi" thì ngày nay chúng ta cần phải biết khóc trước sự bi thảm mỗi lúc mỗi tệ của chữ Quốc ngữ. Trong thực tế, nhiều hội thảo "làm trong sáng tiếng Việt" đã liên tục được tổ chức nhưng nếu đọc các tham luận này sẽ thấy hầu hết đều nhắc đi nhắc lại lời nói của ông Hồ Chí Minh về việc đề cao "làm trong sáng tiếng Việt". Việc viện dẫn phát biểu của một người mà tiếng Việt của ông ta luôn đáng "minh họa" cho sự bi thảm của tiếng Việt – được ông ấy dùng trong cái thời mà Việt Nam có vô số nhân vật có thể nói là bậc thầy ngôn ngữ, từ cụ Phan Khôi đến các nhà văn-thi sĩ kiệt xuất phải lâm vào cảnh bi thương trong cái "vụ án" gọi là "Nhân văn Giai phẩm" – cho thấy điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Thậm chí ngay cả khi ông Hồ có tài giỏi tiếng Việt thì việc trích lời ông ta cũng không phải là giải pháp. Cần phải làm gì, làm như thế nào, làm từ đâu… mới là điều nên bàn.
Báo chí cũng đừng nhắc đi nhắc lại nữa câu nói của cụ Phạm Quỳnh "Tiếng nước ta còn, nước ta còn". Báo chí cần tự sửa mình trước, thay vì cứ nói. Tìm kiếm giải pháp toàn diện cho việc "cứu" tiếng Việt không phải là việc của một cá nhân hay một tổ chức, nhưng trước mắt, và cần kíp, chính báo chí phải tiên phong trong việc chấn chỉnh lại biên tập. Báo chí phải noi gương trong việc "làm trong sáng tiếng Việt". Cứ thích đề cập đến bảo tồn và gìn giữ văn hóa, tại sao lại đối xử với tiếng Việt theo cách như đang chứng kiến ! Khi nhà báo còn viết đầy lỗi chính tả, thường xuyên và cố ý, như có thể thấy hàng ngày trên trang cá nhân của họ, thì sao họ có thể dạy con mình yêu tiếng Việt, hoặc chứng tỏ cho con em mình thấy mình quý tiếng Việt bằng việc đi thắp nhang ở mộ các bậc tiền nhân khai xướng tiếng Việt ? Khi nhà báo than thở trước hiện tượng di tích văn hóa xuống cấp trong một bài viết nghệch ngoạc chấm phẩy tùy hứng thì sự xuống cấp văn hóa đã vô tình bị đẩy xuống thêm một cấp nữa rồi.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 03/07/2019
********************
Công ty quảng cáo ‘Mở lon Việt Nam’ cho Coca-Cola bị phạt 25 triệu (VOA, 02/07/2019)
Sáng 2/7, đại diện Coca-Cola Việt Nam cho biết đã tháo dỡ biển quảng cáo "Coca-Cola - Mở lon Việt Nam - Trúng vàng mỗi ngày" tại một tuyến đường ở Hà Nội sau khi công ty đối tác phụ trách treo biển quảng cáo bị Thanh tra Sở Văn hóa và Thể Thao Hà Nội phạt 25 triệu đồng ngày 27/6.
Quảng cáo "Mở lon Việt Nam" của Coca-Cola bị phạt 25 triệu đồng. Báo Doanh Nghiệp (02/07/2019)
Cụm từ "Mở lon Việt Nam" đã gây xôn xao dư luận trên mạng xã hội Việt Nam trong những ngày vừa qua.
Báo Zing loan tin rằng trước đó hãng Cola-Cola đã buộc phải sửa cụm từ "Mở lon Việt Nam" thành "Cơ hội trúng vàng mỗi ngày" cho các chương trình khuyến mãi sản phẩm của hãng trên truyền hình và các phương tiện quảng cáo khác sau khi Cục Văn hóa Cơ sở thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho rằng nội dung quảng cáo chứa cụm từ "Mở lon Việt Nam" "có dấu hiệu về hành vi quảng cáo thiếu thẩm mỹ, không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam".
Hôm 1/7, ông Tô Văn Động, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, xác nhận với báo Tiền Phong rằng sở này đã xử phạt đối với mẫu quảng cáo ‘Mở lon Việt Nam’ 25 triệu đồng, cho rằng công ty quảng cáo Probina "không thông báo nội dung" về mẫu quảng cáo này và cáo buộc biển quảng cáo "làm mất mỹ quan và an toàn xã hội".
Trang Người Lao Động trích lời bà Ninh Thị Thu Hương, Cục trưởng Cục Văn hóa Cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cho biết tên gọi Việt Nam không thể tùy tiện sử dụng với mục đích quảng cáo, gắn với các slogan một cách thiếu trang trọng.
Vẫn theo lời bà Hương, từ "lon" đứng một mình, không gắn với từ Coca-Cola hay bia... có thể được hiểu theo rất nhiều nghĩa. Ví dụ, nếu thêm dấu, thêm mũ vào cho từ đó... thì từ "lon Việt Nam" có rất nhiều vấn đề.
Báo Tiền Phong trích lời đại diện công ty nói chương trình khuyến mãi với thông điệp ban đầu được thiết kế chỉ nhằm đưa ra hướng dẫn cụ thể về cách thức xem mã khuyến mãi dưới nắp khoén sản phẩm Coca-Cola và đã không xét đến các yếu tố ngữ văn khác trong cụm từ "Mở lon Việt Nam".
Ông Đỗ Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Công ty sở hữu Công nghiệp - Bộ Khoa học Công nghệ, nói với trang Giáo dục và Thời đại rằng "lon" là một vật dụng có từ lâu và được phản ánh trong từ điển với tư cách là một danh từ riêng biệt, định danh một sự vật cụ thể, chứ không hề mang ẩn ý hay gợi lên những suy tưởng thô tục, phản cảm nào cả.
Cũng với quan điểm trên, trang này dẫn lời Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngôn ngữ Nguyễn Phương Trang – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, nói : "Nếu xét trên văn bản ngôn ngữ thì cụm từ đó cũng không đến mức vi phạm thuần phong mỹ tục - những thói quen tốt đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo".
Bà Nguyễn Phương Trang nói : "Tôi thấy chúng ta không nên quá khiên cưỡng và bắt bẻ về nghĩa của các từ "lon Việt Nam" trong cụm từ "Mở lon Việt Nam" rằng đó là từ tối nghĩa chỉ vì trong tiếng Việt không có từ "lon Việt Nam".
Những tháng cuối năm của Seattle rất nhiều mưa. Thỉnh thoảng mới có một ngày nắng ấm. Nhìn mưa nhớ ra những người bạn ở xa sắp tới chơi nguyên cả tuần, gặp mưa như thế này sẽ ngại và chán lắm.
Một ví dụ cải tiến của ông Bùi Hiền. (Hình : M.Q. / trích từ website báo Thanh Niên)
Tôi phải có sẵn mấy câu thơ để hối lộ. Chắc là sẽ vừa ôm vai vừa đọc ngay cho bạn khi ra đón ở phi trường.
Nắng ở đây hiếm hoi như hạnh phúc
Anh có về gọi nắng đến cho em
Anh có về mang theo chút tình riêng
Em sưởi ấm trong những ngày mưa bụi.
(Gọi Nắng-Trần Mộng Thu)
Hy vọng những người bạn yêu thơ được dúi cho vào tay mảnh giấy có mấy câu thơ này chắc sẽ bao dung với đất trời.
Tôi ngồi vào bàn viết, mở máy tính ra gõ xuống câu thơ. Cái máy tính mới được "đổi mới" mấy hôm trước để dùng cho những thảo chương quá cũ cần thay đổi hay bỏ đi. Mấy câu thơ hiện ra trên cái màn ảnh nhỏ :
Nắq ở đây hiếm hoi n’ư hạn’ fúc
An’ có về gọi náq đến co em
An’ có về maq weo n’út tìn’ riêq
Em sưởi ấm troq n’ữq qày mưa bụi
Tôi dụi mắt đọc lại. Đọc mãi vẫn không hiểu mình đang đọc một câu thần chú gì.
Hình như tiếng Việt trong máy của tôi đã bị một mụ phù thủy phá phách. Cái mụ mặc áo choàng đen đội một cái mũ nhọn, nét mặt rất ác và có cái mũi khoằm, cưỡi trên một cái chổi bay ngang mái nhà thường xuất hiện vào ngày Halloween để dọa trẻ con.
Tôi hốt hoảng vào ngay Google tìm bài thơVang Vang Trời Vào Xuân của Thanh Tâm Tuyền.
Mặt cời hồq n’ư chăq
Wức lòq ta buổi sớm
Zó núi wổi rộn ràq
Gọi qe biển đậy sóq
Đọc hai ba lần cũng không tìm ra được câu thơ nguyên tác ngày cũ.
Mặt trời hồng như trăng
Thức lòng ta buổi sớm
Gió núi thổi rộn ràng
Gọi nghe biển dậy sóng
(Thanh Tâm Tuyền)
Bài Thơ này là bài Thơ tôi quý nhất trong những bài Thơ sau 1975 của Thanh Tâm Tuyền.
Hay là tôi đi tìm thi sĩ Mai Thảo. Thi sĩ này đã đem hình mình đặt trong tận "miếu đền" chắc mụ phù thủy áo đen đó không dám rỡn mặt.
Tôi trích một đoạn trong bài thơ dài của ông :
Ta wấy hìn’ ta n’ữq miếu dền
Tượq thờ qìn bệ n’ữq côq viên
Sao xôq xói với hươq sùq ki’n’
Đều qát wơm từ huyệt lãq kuên
Đọc đi đọc lại bốn câu trên, tôi thấy thương thi sĩ quá, chắc khi nào xuống California tôi sẽ ghé qua nghĩa trang tạ tội cùng thi sĩ vì không đuổi được mụ phù thủy áo đen để mụ bay cả vào đền thi sĩ có hình trong đó. Tôi sẽ đọc lại câu thơ nguyên thủy trước mộ ông :
Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên
(Mai Thảo)
Tôi viết thư cho các bạn, lục lọi những trang báo trên mạng thì mới biết là tiếng Việt "Tiếng Nước Tôi" đang bị một ông Tiến sĩ muốn đổi mới.
À hóa ra không phải là một mụ phù thủy như tôi tưởng. Đây là một ông Tiến sĩ thật (không phải tiến sĩ giấy) Phó giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền, ông in thành sách đoàng hoàng và bài đã được đưa vào giới thiệu trong kỷ yếu hội thảo về ngôn ngữ học tháng 9/2017, do Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Đại học Quy Nhơn tổ chức.
Tôi tò mò tự hỏi : "Trong nước có bao nhiêu người hưởng ứng việc thay đổi cách viết mới này". Báo Tuổi Trẻ trong nước, đăng bài của ông lên và kêu gọi ý kiến của độc giả. Chưa bao giờ có một con số góp ý nhiều như thế : 535 lời bình.
Tôi đọc thử một vài lời mà không nhịn được cười : Xin trích ra đây vài câu đọc cho vui mùa Xuân :
- Giờ mới hiểu tại sao chúng ta cần thêm 9000 tiến sĩ
- Ông này muốn ghi danh vào lịch sử đây
- Thần Kinh
- Cái này em thấy nó giống ngôn ngữ của tuổi teen trao đổi với nhau, thí dụ như o thik (không thích), wá đc (quá được) v.v... Nếu "thứ tiêq Việt" này được dùng, "ông Google" cũng chẳng thể dịch nổi loại "chữ" này.
- Mất thời giờ, vô ích.
- Ngoài ra toàn bộ dữ liệu về lịch sử Việt Nam cận đại và hiện tại (từ khi có chữ quốc ngữ) sẽ trở thành đồ bỏ đi do các thế hệ sau khi sửa đổi ngôn ngữ sẽ không ai khai thác được, nhiều công trình sẽ phải đục phá, sửa chữa, kinh phí thay đổi sẽ khổng lồ, quan hệ ngoại giao với các nước bị đình trệ.
- Ngày nay các nhà ngôn ngữ cấp tiến tại Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng việc dùng chữ giản thể đã khiến cho nhiều thế hệ cắt đứt với quá khứ, với văn hóa - lịch sử…
- Ông Tiến sĩ này có định xóa Lịch Sử Việt để dần dần đồng hóa với Tầu không đấy (Một ý kiến của độc giả trên mạng).
Thay đổi cách viết tiếng Việt theo như đề xuất của cá nhân ông Bùi Hiền sẽ đe dọa, gây nguy cơ xáo trộn và đứt gãy tổng thể... trong các hoạt động của đất nước và của dân chúng.
Giả dụ cải tiến của Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Hiền thành hiện thực, không những Hiến pháp phải in lại, mà ngay cả đồng tiền, đơn xin việc, giấy kết hôn, thẻ căn cước, tên người, các danh từ riêng... đều phải sửa và in lại. (Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)
Ở trong nước hiện nay số người có bằng Tiến sĩ rất cao và con số này mỗi năm một tăng. Tiến sĩ nhiều quá nên chắc các ngài phải nghĩ ra một điều gì rất lạ để đánh bóng học vị của mình và tìm đường vào văn học sử, hay chính những vị Tiến sĩ này muốn cho những thế hệ sau không còn đọc được Lịch Sử Việt Nam. Đi xa hơn nữa, nếu chẳng may ‘Dự án điên rồ" này được chấp thuận, một ngân quỹ tiền tỉ sẽ được đề nghị chi ra cho việc in lại sách. Bao nhiêu sách cũ được in lại trung thực ? Bao nhiêu tiền sẽ chi tiêu cho việc in sách và bao nhiêu tiền sẽ bốc hơi bay vào túi các ngài ? Chỉ có Trời biết.
Cuốn sách đã được in ra : Ngôn Ngữ ở Việt Nam- Hội Nhập và Phát Triển (tập 1) Sách dày 2,200 trang do Nhà xuất bản Dân Trí phát hành.
Tiến sĩ cũng cho chúng ta một bảng hướng dẫn để chúng ta đọc một chương dưới đây xem có hiểu gì không ?
Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z.
Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể : C = Ch, Tr ; D = Đ ; G = G, Gh ; F = Ph ; K = C, Q, K ; Q = Ng, Ngh ; R = R ; S = S ; X = Kh ; W =Th ; Z = d, gi, r.
Vì âm "nhờ" (nh) chưa có kí tự mới thay thế nên trong bản trên tạm thời dùng kí tự ghép N' để biểu đạt.
Thử đọc một bài viết bằng ngôn ngữ mới xem "Hàn Lâm" đến thế nào ?
Tôi là người làm Thơ, tôi thật bối rối vô cùng. Nếu dùng loại ngôn ngữ "phù thủy" này chắc là trái tim tôi không cách nào theo kịp. Tôi nhớ lại cách đây hơn 20 năm, hồi tôi chưa dùng máy vi tính. Tôi viết tay một bài Thơ gửi đi, thư ký tòa báo sẽ đánh lại bỏ in.
Khi báo ra, câu Thơ của tôi chỉ sai một "dấu" đọc đã khác nghĩa rồi.
Câu thơ là : Trái tim tôi bi thương. Chữ "bi" in ra có dấu nặng thành "bị thương" Tôi mất ngủ ba đêm và thấy mình "bị thương" thật.
Bây giờ bắt tôi phải làm thơ với ngôn ngữ đổi mới này, chắc tôi phải thay nguyên tim, óc, mới và cả hai bàn tay mới. Tôi chắc ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền này không đọc thơ bao giờ và chắc chắn không làm thơ rồi. Nếu có, ông đã chẳng nỡ đối xử với chữ nghĩa tiếng Việt như thế.
Trần Mộng Tú
Nguồn : VOA, 28/11/2017
Gã tán đồng với nhà báo, nhà giáo Huỳnh Ngọc Chênh khi ông kêu gọi hãy tôn trọng những ý tưởng cải cách chữ Việt của tiến sĩ Bùi Hiền.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền và kiểu chữ được ông đề xuất cải cách. Ảnh : Thanh Niên/ Kul. t
Sự sáng tạo nào cũng có thể bị người đương thời phản ứng. Chuyện thường. Thói quen đã đi vào cuộc sống và thói quen không muốn thay đổi cái gì mà mình đã cảm thấy dễ dàng với mình rồi ở bất cứ đâu, ở bất cứ thời khắc nào đều ẩn chứa sự bảo thủ và sự vô tình cản trở cái mới, cái sáng tạo.
Gã cho rằng tiến sĩ Bùi Hiển có quyền thay đổi hệ thống chữ viết Việt Nam hiện nay theo ý mình mà ông cho là khoa học hơn. Có điều ông đã tách chữ viết ra khỏi âm, với bất cứ ngôn ngữ nào âm tức là tiếng mới là hồn, cốt cách, văn hóa của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy.
Chính vì vậy Phạm Quỳnh mới nói : truyện Kiều còn tiếng Việt còn. Mặc dù chữ viết mà Nguyễn Du viết truyện Kiều chả giống gì chữ Việt hiện nay và chắc chắn càng khác xa với chữ Việt mà tiến sĩ Hiển đề xuất.
Chính vì vậy Phạm Duy cất lên tiếng hát : tôi yêu tiếng nước tôi từ thuở nằm nôi, nước ơi !
Tiếng là một phần của ngôn ngữ nhưng lại là phần hồn. Chữ là phần còn lại của ngôn ngữ nhưng là phần xác. Thay đổi phần xác mà phần hồn bị rơi rụng không ăn nhập thì sẽ bị phản ứng là lẽ đương nhiên. Mắt là công cụ để đọc chữ, nhưng mắt cũng là cửa sổ tâm hồn được cài đặt sẵn khi đọc chữ đã quen đọc thì cùng lúc vang lên âm thanh của hồn. Làm xiêu vẹo hoặc điều chỉnh sự cài đặt này dù cho khoa học hơn đều thất bại trước mắt.
Khi trên mạng, chát chít đứa trẻ viết tắt "em k yêu a đâu" thì bạn chát chít đọc thành âm trong đầu là "em không yêu anh đâu"chứ không hề đọc thành âm, "em ca yêu a đâu"., vì chúng đã tự cài đặt riêng cho mình việc đọc và viểt tắt này.
Vì vậy không thể thay cách viết khác mà không làm rối loạn phần âm, tức phần cảm, phần hồn được cài đặt với từng chữ được.
Tuy vậy có một số chữ viết có thể cải cách mà không ảnh hưởng đến tiếng, như ph thay bằng f, q bằng k… để viết phai nhạt bằng fai nhạt, vinh quang bằng vinh koang. Nhưng để làm gì ? Rối mắt ?
Vậy thì thay đổi chữ viết, cải tiến chữ viết cho gọn và khoa học hơn không quan trọng bằng nói và viết tiếng Việt sao cho thuần Việt và đẹp hơn. Cái này thuộc về văn hóa của người nói, người viết.
Và điều quan trọng hơn nữa là làm sao viết và nói tiếng Việt với nhau mà con người yêu thương con người hơn, dân tộc đùm bọc vì nhau, mọi người từ nhà lãnh đạo đến người dân thấy gần gũi nhau hơn.
Chứ như bây giờ, dân chúng cứ phải lộn ruột với các bố, các bác quan trên viết rất đúng chính tả, phát âm rất chuẩn tiếng Việt, ai đọc, ai nghe cũng hiểu cả nhưng mà ruột gan cứ lộn tùng phèo lên vì thấy ngố, thấy dơ, thấy ngu, thấy… ác, thấy… đểu.
Lưu Trọng Văn
Nguồn : Tiếng Dân, 25/11/2017
***********************
Phải cho đi học lại cách đánh vần "alphabet latin"
Trương Nhân Tuấn, 24/11/2017
Cha nội này phải cho đi học lại cách đánh vần "alphabet latin" để biết qui ước quốc tế phát âm các chữ cái "Q", "W", "K"... như thế nào.
Kiểu chữ cải tiến
Không ai chống việc "sáng chế" từ ngữ mới để tiếng Việt gọn gàng trong sáng hơn. Nhưng cái gì cũng phải có "nền tảng" của nó. Cách phát âm "ng" (đọc là ngờ), "th" (thờ), "nh" (nhờ)... muốn "đơn giản hóa" thì phải tìm một chữ tương đương, mà việc này không dễ.
Bởi vì tiếng Việt hiện nay nguyên thủy không phải của người Việt, mà là cách "ghi lại cách phát âm tiếng Việt bằng chữ cái Latin" của các cố đạo người Bồ Đào Nha và Pháp, lúc quí ông này sang Việt Nam truyền đạo.
Một số cách phát âm của người việt, như vần "ng" (ngờ), "nh" (nhờ), "th" (thờ)... không tìm thấy cách phát âm tương đương, từ alphabet Ả rập, Nga, Hy Lạp, Latin....
Tức là, cách nào thì ta cũng phải chấp nhận cách dùng "ng", "th" hay "nh"... vì không có chữ nào khác thay thế.
Chữ "Q" phải đọc "qw", vì đây là chữ Latin. Không thể phát âm cách khác. Chữ W cũng vậy, không thể đọc thành "th" (thờ) như cha nội này.
Riêng chữ "Z", zõ zàng cha nội này muốn "bắc kỳ hóa" tiếng Việt. Mà đất nước VN đâu phải chỉ ở miền bắc và giọng nói của người Việt đâu phải chỉ có giọng bắc ?
Trương Nhân Tuấn
***********************
Khi 'Tiếng Việt' được viết thành 'Tiếq Việt' (TNO, 24/11/2017)
Chúng ta nghĩ sao nếu chữ 'luật giáo dục' phải viết là 'luật záo zụk', 'nhà nước' là 'n’à nướk'… Nhưng đó là cách viết cải tiến mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền đề xuất trong một cuốn sách mới xuất bản gần đây. Điều này gây ra nhiều tranh luận không chỉ trong giới chuyên môn mà cả những người đang sử dụng tiếng Việt.
Chữ viết của tiếng Việt hiện tại chưa hợp lý ?
Đó là cuốn sách Ngôn ngữ ở Việt Nam - Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do nhà xuất bản Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường Đại học Quy Nhơn hồi tháng 9. Trong rất nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài "Chữ quốc ngữ và hội nhập quốc tế" của tác giả Bùi Hiền với đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt gây nhiều tranh cãi.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền - NVCC
Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền (Nguyên Hiệu phó trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy - học phổ thông) cho biết : "Từ năm 1924, khi toàn quyền Đông Dương ký nghị định cho phép dạy chữ quốc ngữ bắt buộc ở cấp tiểu học, trải qua gần một thế kỷ, đến nay chữ quốc ngữ đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần phải cải tiến để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…".
Những bất hợp lý mà Phó Giáo sư Bùi Hiền đưa ra, đó là hiện tại, chúng ta sử dụng 2, 3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm đứng đầu. Ví dụ C – Q – K (cuốc, quốc, ca, kali), Tr – Ch (tra, cha), S – X (sa, xa)… Bên cạnh đó, lại dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt âm vị một số phụ âm đứng cuối vần như Ch, Ng, Nh (mách, ông, tanh…).
"Đó là những hiện tượng không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào dẫn đến khó khăn cho người đọc, người viết, thậm chí gây hiểu nhầm hoặc không hiểu được chính xác nội dung thông tin. Người học như trẻ em hay người nước ngoài, cũng rất hay mắc lỗi do sự phức tạp này mang lại", tác giả Bùi Hiền chia sẻ.
Từ đó, Phó Giáo sư Hiền kiến nghị một phương án làm cơ sở để tiến tới một phương án tối ưu trình nhà nước. Chữ quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội cả về âm vị cơ bản lẫn 6 thanh điệu chuẩn, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt một âm vị, và mỗi âm vị chỉ có một chữ cái tương ứng biểu đạt. Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể : C = Ch, Tr ; D = Đ ; G = G, Gh ; F = Ph ; K = C, Q, K ; Q = Ng, Ngh ; R = R ; S = S ; X = Kh ; W =Th ; Z = d, gi, r. Vì âm "nhờ" (nh) chưa có kí tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền cho biết : "Đề xuất của tôi có nhiều nhà ngôn ngữ họ thấy hợp lý vì chữ viết mới có một nguyên tắc thống nhất. Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác vì cho rằng nếu cải tiến vậy sẽ phức tạp, có nhiều hệ lụy. Ví dụ kho tư liệu đồ sộ cũ chuyển sang chữ viết mới thì sẽ xử lý như thế nào. Và để thay đổi sẽ phải mất rất nhiều thời gian : thay đổi nhận thức, thay đổi cách học, cách dạy, sách giáo khoa cũng phải thay đổi, các văn bản, sách, báo, rồi lập trình chữ viết trên máy tính… Phải thay đổi từng bước một. Nhưng chỉ cần mất 1-2 năm là quen dần".
Bù lại, theo Phó Giáo sư Hiền, cải tiến theo cách này sẽ thống nhất được chữ viết cho cả nước, loại bỏ được hầu hết các thiếu sót, bất cập không nhất quán trước đây gây khó khăn cho người dùng (dẫn mắc lỗi chính tả), giản tiện được bộ chữ cái khi từ 38 chữ cái chỉ còn 31, dễ nắm được quy tắc, dễ nhớ. Ngoài ra, còn tiết kiệm được thời gian, công sức, vật tư trong quá trình tạo lập các văn bản trên giấy, trên máy tính.
Sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt
Chia sẻ về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoành, Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, vấn đề này đã được các nhà ngôn ngữ học trao đổi, đề cập rất nhiều trong những năm qua chứ không riêng gì đề xuất của Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền.
"Tuy nhiên, không thể thay đổi được và cũng không nên thay đổi, vì chữ viết liên quan đến văn hóa, lịch sử và rất nhiều vấn đề khác. Ngay cả tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có nhiều chữ đọc và viết bất hợp lý mà cũng không ai nghĩ đến việc cải tiến. Đến nay, trải qua nhiều thế kỷ, tiếng Việt đã định hình và chữ quốc ngữ đã tồn tại cả thế kỷ với kho tư liệu đồ sộ từ lúc hình thành đến bây giờ", Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoành nhìn nhận.
Giáo sư Tiến sĩ Bùi Khánh Thế (chuyên ngành ngôn ngữ học, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Trường Đại học Ngoại ngữ-Tin học Thành phố Hồ Chí Minh), cũng cho rằng, từ năm 1997, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt, với 32 bài viết từ các chuyên gia ngôn ngữ. Từ đó đến nay cũng có rất nhiều hội thảo, chuyên đề đề cập tới việc nên giữ hay cải tiến.
Nói về đề xuất của Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền, giáo sư Bùi Khánh Thế cho biết : "Có một số bất hợp lý, chẳng hạn ký tự q lại thay thế cho chữ ng, z thay gi, c thay tr, ch… Chưa kể làm vậy sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt. Từ lúc hình thành cho đến nay, tiếng Việt có nhiều âm thay đổi nhưng chữ viết vẫn giữ nguyên. Đó chính là sự bền vững cần có, chỉ những gì bất hợp lý mới mất đi".
Theo Giáo sư Tiến sĩ Bùi Khánh Thế, càng đổi mới thì càng bị rối. Đó là chưa kể, sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí để thay đổi. Vì thế, đối với chữ quốc ngữ, nên tìm cách chú ý khắc phục những cái khó, hơn là cải tiến.
Một ví dụ Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền đưa ra được viết bằng 2 kiểu chữ hiện thời và cải tiến
LUẬT GIÁO DỤC
Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác ; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số ; dạy ngoại ngữ.
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người học được học liên tục và có hiệu quả.
LUẬT ZÁO ZỤK
Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák ; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số ; zạy qoại qữ.
1. Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
2. N’à nướk tạo diều kiện dể qười zân tộk wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn và fát huy bản sắk văn hóa zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ zàq tiếp wu kiến wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa Cín’ fủ.
3. Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq cìn’ záo zụk là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế. Việk tổ cứk zạy qoại qữ coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên tụk và kó hiệu kuả.
Chữ viết hiện tại phong phú và không cần thiết thay đổi
Ông Trương Minh Đức, giáo viên ngữ văn Trường THPT Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, tiếng Việt được hình thành từ lâu, đó là cả một quá trình tất nhiên bản thân nó cũng đã có những quy tắc. Dùng đúng hay chưa phù hợp thì bản thân nó cũng đã mang tính quy ước và có tính ổn định, thống nhất. Việc Chữ quốc ngữ cải tiến dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội liệu có đảm bảo độ chính xác cao khi bản thân phương ngữ và cả ngữ âm Hà Nội không ai dám chắc là chính xác. Vả lại sự phát triển ngôn ngữ trong tiếng Việt nó còn do yếu tố từ yêu cầu của ngôn ngữ địa phương, vùng miền. Mặc dù điều này khó mang đến sự thống nhất nhưng nó lại làm phong phú vốn từ và thể hiện được bản sắc riêng từng địa phương.
Về phương án thay đổi âm vị của 11 chữ cái như Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền đưa ra, theo thầy Đức, là không cần thiết và không hợp lý, chỉ gây nên sự xáo trộn không cần thiết, làm ảnh hưởng đến nhiều hệ thống bảng biểu, luật định, văn bản... Và ngay cả tên gọi cá nhân trong các hồ sơ pháp lý.
"Việc dạy và học văn sẽ gặp rất nhiều sự trở ngại. Đó là phải đào tạo lại giáo viên (không kể giáo viên dạy các môn khác môn ngữ văn), điều chỉnh lại tất cả các văn bản văn học, kể cả văn bản văn học chữ quốc ngữ (phải xin phép cả những tác giả đã khuất) hoặc nếu không phải có hàng loạt các chú thích cuối trang để những học sinh đối chiếu với văn bản gốc. Cần nhiều thời gian để giáo viên và cả xã hội làm quen những điều vốn dĩ không cần thiết song hành với bao phức tạp của xã hội", ông Đức nhìn nhận.
Mỹ Quyên