‘Bộ Tứ’ mở rộng hợp tác an ninh hàng hải tại hội nghị thượng đỉnh cuối cùng của ông Biden
Các nhà lãnh đạo của Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ sẽ công bố kế hoạch cho các sáng kiến an ninh mới ở Ấn Độ Dương, khi Tổng thống Hoa Kỳ sắp mãn nhiệm Joe Biden tiếp đón những người đồng cấp từ nhóm Bộ Tứ (Quad), vốn được thành lập do những lo ngại chung về Trung Quốc.
(Từ trái sang) Thủ tướng Úc Anthony Albanese, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (phải) và (trái) tại Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Bộ Tứ (Quad) tại Kantei ở Tokyo ngày 24/5/2022.
Ông Biden sẽ chào đón Thủ tướng Úc Anthony Albanese, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida trong một cuộc họp bốn bên gần thành phố quê hương Wilmington của ông vào ngày 21/9 để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì Bộ Tứ, mà ông coi là một thành tựu chính sách đối ngoại đặc trưng, trước khi ông rời nhiệm sở sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 5/11.
Các quan chức cấp cao của chính quyền Biden nói với các phóng viên rằng các nhà lãnh đạo sẽ công bố kế hoạch mở rộng Quan hệ đối tác Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương về Nhận thức trong Lĩnh vực Hàng hải, vốn được đưa ra cách đây hai năm để bao gồm khu vực Ấn Độ Dương.
Các nhà lãnh đạo sẽ công bố một kế hoạch cho các hoạt động chung của lực lượng bảo vệ bờ biển, trong đó các quân nhân từ Úc, Nhật Bản và Ấn Độ sẽ dành thời gian trên một tàu bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ. Theo các quan chức cho biết, các nước cũng sẽ công bố kế hoạch tăng cường hợp tác hậu cần quân sự.
Họ cho biết các nhà lãnh đạo sẽ đẩy mạnh công tác cung cấp các công nghệ quan trọng và an ninh, bao gồm mạng lưới truy cập vô tuyến mở mới, cho các đảo Thái Bình Dương và Đông Nam Á, những khu vực cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, đối thủ chiến lược chính của Washington.
Vẫn theo các quan chức, một sáng kiến về y tế sẽ làm nổi bật sự hợp tác trong cuộc chiến chống ung thư cổ tử cung.
Các nhà phân tích nói rằng những kết quả dự kiến chủ yếu sẽ dựa trên công việc đã được thực hiện trong nhóm Bộ Tứ, mà ông Biden đã nâng lên cấp hội nghị thượng đỉnh vào năm 2021. Cuộc họp vào ngày 21/9 sẽ là cuộc họp thứ sáu của các lãnh đạo nhóm đối thoại an ninh 4 quốc gia này.
Theo các nhà phân tích, các sáng kiến an ninh hàng hải mới vào thời điểm Trung Quốc đang tăng cường gây sức ép lên các đối thủ tranh chấp lãnh thổ của mình ở Biển Đông và Biển Hoa Đông sẽ gửi một thông điệp tới Bắc Kinh.
Họ nói rằng sáng kiến này cũng sẽ đại diện cho sự chuyển hướng trọng tâm hơn nữa của các hoạt động của Bộ Tứ sang các vấn đề an ninh, phản ánh mối lo ngại ngày càng tăng về ý định của Trung Quốc.
Lisa Curtis, chuyên gia chính sách châu Á tại Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới, người trước đây từng làm việc tại Nhà Trắng, CIA và Bộ Ngoại giao, cho biết Ấn Độ, quốc gia không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, đã lo ngại về quan niệm rằng Bộ Tứ có thể quân sự hóa Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
"Nhưng tôi nghĩ rằng hành động xâm lược trên biển gần đây của Trung Quốc có thể thay đổi phương trình đối với Ấn Độ và có thể thúc đẩy Ấn Độ cởi mở hơn một chút với ý tưởng hợp tác an ninh Bộ Tứ", bà nói.
Theo các nhà phân tích và quan chức, việc ông Biden tổ chức họp Bộ Tứ tại Mỹ là một phần trong nỗ lực thể chế hóa nhóm này trước khi ông rời nhiệm sở và ông Kishida, người sẽ từ chức sau cuộc tranh cử lãnh đạo vào tuần tới cũng như cuộc bầu cử ở Úc vào năm tới.
"Chúng tôi kỳ vọng hội nghị thượng đỉnh Bộ Tứ này... sẽ chứng minh rằng các đối tác của Bộ Tứ có sự liên kết chiến lược hơn bao giờ hết, rằng họ vẫn cam kết dành nguồn lực thực sự cho nỗ lực này để cung cấp hàng hóa công cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và quan trọng nhất là Bộ Tứ sẽ tồn tại lâu dài", một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ cho biết.
Vị quan chức này lưu ý rằng Bộ Tứ đã họp ở cấp bộ trưởng ngoại giao dưới thời chính quyền trước của Donald Trump, người đang chạy đua chống lại Phó Tổng thống Kamala Harris vào tháng 11, và nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng, thể hiện qua việc thành lập Nhóm nghị sĩ Bộ Tứ trước hội nghị thượng đỉnh.
Thủ tướng Albanese nói với các phóng viên hôm 20/9 rằng Canberra và Washington chia sẻ mối quan ngại về tham vọng an ninh của Trung Quốc tại các quốc gia Quần đảo Thái Bình Dương, nơi Bắc Kinh đang tìm kiếm vai trò cảnh sát ngày càng tăng.
"Chúng tôi sẽ thảo luận về những cách thức mà chúng tôi có thể cung cấp thêm hỗ trợ trong khu vực cho các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả hành động mà chúng tôi đang cùng nhau thực hiện về biến đổi khí hậu và hỗ trợ an ninh năng lượng của họ", ông nói.
Nguồn : VOA, 22/09/2024
Một nhà nghiên cứu thạo tin Việt Nam (không muốn nêu tên) cho RFA hay, trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 25 đến 28/6/2023 và dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Thủ tướng Phạm Minh Chính khi hội kiến Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường và sau đó gặp Chủ tịch Tập Cận Bình, ông Chính sẽ nói chuyện thẳng thắn với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, mặc dù, người này tiên liệu, Bắc Kinh sẽ không dễ dàng nhượng bộ.
Việt Nam được nói là sẽ mua tên lửa siêu thanh Brahmos của Ấn Độ. Reuters (Ảnh minh họa)
Song song dự đoán về chuyến thăm Trung Quốc của Việt Nam, một số chuyên gia nghiên cứu cũng đưa ra những nhận định về các sự kiện ngoại giao nổi bật diễn ra trong tháng 6 và động thái của Việt Nam.
Trong tháng 6 năm 2023 đã diễn ra một loạt sự kiện ngoại giao nổi bật của Việt Nam với 4 nước thuộc Đối thoại Tứ giác An ninh (QUAD) là Mỹ, Nhật, Ấn, Úc. Thủ tướng Australia Anthony Albanese đã thăm Việt Nam từ ngày 3-4 tháng 6. 2. Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh thăm Việt Nam từ ngày 7-10 tháng 6 và sau đó Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Ấn Độ từ ngày 17-20 tháng 6. Trong hai chuyến thăm cấp cao này, Ấn Độ tặng Việt Nam tàu hộ vệ tên lửa INS Kirpan. Hôm 6/10, tờ Zee Business của Ấn Độ đăng một đoạn tin ngắn : "Zee Business đã có được thông tin độc quyền cho biết Ấn Độ có khả năng bán tên lửa BrahMos vốn được đánh giá cao của mình cho Việt Nam, báo hiệu sự hợp tác quốc phòng ngày càng sâu rộng giữa hai nước. Diễn biến này diễn ra gần với chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang tới New Delhi vào ngày 19/6. Thỏa thuận tiềm năng này sẽ tiêu tốn của Việt Nam tới 625 triệu USD". Đối với Nhật Bản, tàu khu trục chở máy bay JS Izumo (có khả năng đóng vai trò tàu sân bay với tiêm kích F-35) và JS Samidare của Nhật Bản cập cảng Cam Ranh từ ngày 20 đến 23 tháng 6. Sau đó tàu sân bay USS Ronald Reagan (Mỹ) băng Biển Đông và dự kiến thăm Đà Nẵng từ ngày 25 đến 30 tháng 6.
Các động thái ngoại giao nói trên của Mỹ, Nhật, Ấn, Úc diễn ra riêng lẻ, nhưng cả bốn nước này đều được biết đến là thuộc nhóm Bộ Tứ có cùng chí hướng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Giờ đây, tất cả họ đều đến thăm Việt Nam trong một tháng (tháng 6 năm 2023). RFA hỏi TS. Nagao Satoru ở Hudson Institute rằng liệu các động thái ngoại giao riêng lẻ này có phải là ngẫu nhiên không.
Tiến sĩ Nagao giải thích : "Nhìn chung, các chuyến thăm chính thức cấp cao và giao lưu quân sự không dễ chuẩn bị trong thời gian ngắn. Những chuyến thăm này diễn ra sau một thời gian dài lên kế hoạch. Tuy nhiên, cũng có một điều đúng là tất cả các nước QUAD nói trên (Mỹ, Nhật, Ấn, Úc) đều muốn thúc đẩy hợp tác với Việt Nam". Ông Nagao giải thích 3 lý do Bộ Tứ Mỹ, Nhật, Ấn, Úc muốn Việt Nam tăng cường hợp tác :
Thứ nhất, theo Tiến sĩ Nagao, Việt Nam có vị trí quan trọng trong chiến lược đối trọng với Trung Quốc của Bộ Tứ. Sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc có một khuôn mẫu là cứ khi nào thiếu khoảng trống quyền lực thì họ nhảy vào chiếm lãnh thổ. Như tôi đã nói nhiều lần, họ bành trướng trên Biển Đông theo cách đó, mỗi khi cán cân quân sự nghiêng về phía họ. Chi tiêu quân sự của Trung Quốc nhắm vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang tăng cao hơn phía Mỹ và đồng minh. Để duy trì cân bằng quân sự trong khu vực, Mỹ và đồng minh cần tìm một phương pháp khác. Hợp tác giữa các quốc gia có cùng chung lợi ích là câu trả lời như một phương pháp khác như vậy. Ông Nagao giải thích :
"Nếu Nhật Bản và Ấn Độ hợp tác, Trung Quốc cần chia chi tiêu quân sự của họ thành hai mặt trận, phía đông (Nhật Bản) và phía tây (Ấn Độ). Do đó, sự hợp tác giữa Mỹ, Nhật, Ấn, Úc (QUAD,) và dự án tàu ngầm hạt nhân AUKUS (Mỹ, Anh hỗ trợ Úc), v.v. có thể phân chia chi tiêu của Trung Quốc.
Nhìn từ logic này, nếu QUAD hợp tác với Việt Nam, họ có thể chia chi tiêu quân sự của Trung Quốc ra nhiều mặt hơn nữa. Điều này không chỉ có lợi cho QUAD mà còn có lợi cho cả Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam có lịch sử lâu dài giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh với các cường quốc như Pháp, Mỹ, Trung Quốc. Do đó, đối với QUAD, hợp tác với Việt Nam là hy vọng mới trong chiến lược chống lại Trung Quốc".
Lý do thứ hai khiến cho Bộ Tứ Mỹ, Nhật, Ấn, Úc muốn tăng cường hợp tác với Việt Nam là những thay đổi trong thượng tầng lãnh đạo ở nước này gần đây : "Việt Nam đã có ban lãnh đạo mới. Khi các thành viên lãnh đạo mới tuyên thệ nhậm chức, các nước xung quanh Việt Nam cần xây dựng lại các mối quan hệ hợp tác. Các nước QUAD cần đến thăm Việt Nam và gặp ban lãnh đạo mới, đồng thời gửi lực lượng vũ trang đến thăm để bày tỏ thông điệp cam kết ủng hộ Việt Nam".
Và lý do cuối cùng nhưng quan trọng nhất, là việc Trung Quốc ngày càng hung hăng hơn ở Biển Đông. Ông Nagao phân tích :
"Trung Quốc đang khiêu khích bằng cách cử tàu khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ đầu tháng 5 đến đầu tháng 6 vừa rồi, và họ tiếp tục gửi tàu hải cảnh và tàu khảo sát khác đến khu vực. Như vậy, các nước QUAD phải thể hiện sự hiện diện của mình để hỗ trợ Việt Nam".
Theo ông Nagao, các nước trong khu vực như Việt Nam đang lo lắng về một kịch bản trong tương lai là nếu Trung Quốc đẩy mạnh hơn nữa mức độ hung hăng của họ ở khu vực Đông Nam Á thì các nước Bộ Tứ sẽ không tăng cường hỗ trợ khu vực này :
"Ngay cả khi các nước trong khu vực lựa chọn lập trường mạnh mẽ đối với Trung Quốc, các nước này vẫn lo ngại rằng Mỹ và các nước cùng chí hướng khác sẽ không hỗ trợ đủ cho họ. Các nước trong khu vực biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong trường hợp này, khi căn cứ vào những gì xảy ra trong Thế chiến II. Khi Đức ném bom London vào năm 1940, tổng thống Mỹ đã lên kế hoạch tham chiến để hỗ trợ người Anh. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ cần những lý do chính đáng để thuyết phục công dân Mỹ huy động lực lượng và tổ chức lại quân đội tham chiến. Trước khi đồng minh của Đức là Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng vào cuối năm 1941, Mỹ không thể biện minh cho việc can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Anh - Đức".
Theo TS. Nagao, tình hình Đông Nam Á ngày nay cũng gần tương tự như vậy, dù bối cảnh cụ thể rất khác nhau.
"Trong trường hợp của Việt Nam, Việt Nam không phải là đồng minh chính thức của Hoa Kỳ. Như vậy, không dễ tưởng tượng rằng Mỹ sẽ chiến đấu cho Việt Nam. Vì vậy, phía QUAD nên gửi thông điệp tới Việt Nam rằng họ có thiện chí hỗ trợ Việt Nam nếu Việt Nam thúc đẩy hợp tác với QUAD. Đây là thông điệp quan trọng khi Việt Nam đứng trước sự khiêu khích từ Trung Quốc.
Các tàu sân bay của Mỹ và Nhật Bản có thể bày tỏ thông điệp hỗ trợ quân sự mạnh mẽ của họ. Ấn Độ quyết định cung cấp tàu hộ vệ tên lửa INS Kirpan cho Việt Nam. Australia cũng đang huấn luyện quân đội Việt Nam.
Cho đến nay, QUAD và Việt Nam không phải là mối quan hệ bền chặt như các liên minh. Nhưng trong trường hợp vấn đề Trung Quốc, QUAD và Việt Nam có chung lợi ích. QUAD muốn gửi thông điệp thúc đẩy hợp tác vì tương lai".
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận xét rằng Mỹ thường có sự phối hợp với các nước đồng minh như Nhật Bản. Do đó, việc tàu sân bay trực thăng của Nhật là Izumo tàu khu trục JS Samidare vào vịnh Cam Ranh, Nha Trang chỉ trước ít ngày tàu sân bay Hoa Kỳ USS Ronald Reagan sẽ ghé thăm Đà Nẵng (cảng Tiên Sa) không phải là ngẫu nhiên. Ông đồng thời chỉ ra một loạt các động thái nói trên cho thấy Việt Nam muốn xúc tiến nhiều việc một cách "thầm lặng" :
"Việt Nam mời USS Ronald Regan của Mỹ vào Tiên Sa, Izumo và Samidare của Nhật vào Cam Ranh, mua của Ấn Độ tên lửa siêu thanh với giá trị lên đến hơn 650 triệu USD và được Ấn Độ tặng tàu hộ vệ tên lửa. Ngoài ra Việt Nam tham gia tập trận chung với ASEAN ở Biển Đông. Những động thái này ít được báo chí trong nước đưa tin mà chủ yếu là tin tức từ truyền thông nước ngoài. Điều đó cho thấy Việt Nam muốn xúc tiến nhiều việc, nhưng im lặng mà làm, chứ không muốn ồn ào trên truyền thông".
Tuy nhiên, theo Trần Bằng, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Paris 2 Panthéon-Assas, Pháp, mỗi nước ASEAN có những bước khi khác nhau trong chiến lược an ninh. Indonesia có những bước đi bộc lộ ý muốn tự chủ tự cường bằng việc nâng cấp và chuyển đổi năng lực quốc phòng và khả năng công nghệ nói chung. Chúng ta chưa rõ Indonesia muốn đạt đến trình độ nào và họ sẽ mất bao nhiêu thời gian để đạt được mục đích. Còn với Việt Nam, các hoạt động mời tàu chiến Mỹ, Nhật ghé thăm hoặc tập trận với ASEAN là cần thiết nhưng có lẽ chỉ có tác dụng răn đe ngắn hạn. Theo nhà nghiên cứu Trần Bằng, điều quan trọng là nâng cấp công nghệ quốc phòng trong tổng thể năng lực khoa học công nghệ nói chung của Việt Nam.
Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến đầu tiên vào tuần trước (12/03/2021) của nhóm Đối thoại Tứ giác về An ninh – thường được gọi là Bộ tứ (Quad) – cho thấy sự hợp tác ngày càng tăng giữa bốn thành viên : Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ. Sau một thời gian mà ý tưởng về Bộ tứ bị trì hoãn, hình ảnh "Bộ tứ 2.0" kiểu mới đang nhanh chóng nổi lên như một phần quan trọng của kiến trúc an ninh toàn cầu mới, đặt ra những câu hỏi cấp thiết về vai trò và vị trí trung tâm trong tương lai của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến đầu tiên vào tuần trước (12/03/2021) của nhóm Đối thoại Tứ giác về An ninh – thường được gọi là Bộ tứ (Quad)
Bất chấp những nghi ngờ về khả năng hợp tác sâu rộng và được thể chế hóa giữa các nước thuộc Bộ tứ, cuộc họp chỉ ra rằng bốn cường quốc sẵn sàng hợp tác trong các vấn đề cấp bách liên quan đến các mối quan tâm chung, chẳng hạn như việc phân phối vắc-xin Covid-19 và tác động toàn cầu của biến đổi khí hậu, bên cạnh những thách thức về an ninh truyền thống. Theo Tuyên bố chung được đưa ra vào cuối cuộc họp, bốn quốc gia cam kết "sẽ nhân đôi cam kết của mình đối với hợp tác trong khuôn khổ Bộ tứ".
Trung Quốc có lẽ cũng đã đoán được điều này từ trước. Chính phủ Trung Quốc từ lâu đã coi Bộ Tứ là một nỗ lực do Mỹ đứng đầu nhằm kiềm chế và chống lại sự trỗi dậy toàn cầu của họ, và sự củng cố của nhóm có thể làm tăng thêm căng thẳng giữa hai siêu cường. Bất chấp sự thay đổi quyền lực ở Mỹ, Tổng thống Joe Biden cho đến nay vẫn cho thấy rằng ông sẽ có cách tiếp cận Trung Quốc tương tự như của người tiền nhiệm Donald Trump. Hơn nữa, sự tham gia của Úc, Nhật Bản và Ấn Độ thông qua Bộ tứ có thể tạo ra một thách thức mới đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình. Cách tiếp cận này, nhấn mạnh sự hợp tác chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và các đối tác chiến lược, đã được vạch ra bởi Biden kể từ năm ngoái làm nền tảng cho chiến lược Trung Quốc của ông.
Tinh thần đa phương được Joe Biden ủng hộ trong chiến dịch tranh cử của ông cũng được thể hiện qua sự quan tâm của ông dành cho Bộ Tứ. Làm việc cùng với các đối tác và đồng minh để giải quyết các vấn đề chung là một đặc điểm khác biệt trong quan điểm chính sách đối ngoại của ông. Ở đây, Biden rõ ràng khác với Trump, người thích can dự trực tiếp với Trung Quốc bằng cách tiến hành một "cuộc chiến thương mại" đơn phương và một cuộc cạnh tranh gay gắt về công nghệ 5G. Ngay cả khi Bộ tứ tái trỗi dậy vào giữa nhiệm kỳ tổng thống của Trump, nó diễn ra trong bối cảnh chính quyền Trump xem thường chủ nghĩa đa phương, tiêu biểu như việc Trump rút Mỹ khỏi Tổ chức Y tế Thế giới và không quan tâm đến các đồng minh lâu năm. Do đó, quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc và hiện nay là Bộ tứ chuẩn bị bước sang một giai đoạn mới dưới thời chính quyền Biden.
Ở Đông Nam Á, một trong những khu vực nơi cạnh tranh Trung – Mỹ là rõ ràng nhất, sự hồi sinh của Bộ tứ chắc chắn đang được theo dõi chặt chẽ. Đông Nam Á đã trở thành đối tượng cạnh tranh chiến lược của cả hai cường quốc. Ví dụ rõ ràng nhất là việc Biển Đông tiếp tục là một điểm nóng, nơi Hải quân Mỹ thường xuyên thách thức yêu sách "đường chín đoạn" của Trung Quốc đối với tuyến đường biển quan trọng thông qua các chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải (FONOP).
Trong lịch sử, Đông Nam Á đã chứng kiến sự can thiệp từ các tác nhân bên ngoài nhiều lần khác nhau. Các cường quốc Châu Âu đã thực dân hóa khu vực này trong hàng trăm năm. Cả Mỹ và Liên Xô đều tranh giành khu vực này như một phần của cuộc đối đầu tay đôi trong Chiến tranh Lạnh. Ngay cả hiện nay, Đông Nam Á vẫn thu hút sự quan tâm đáng kể khắp toàn cầu. Nó chiếm vị trí trung tâm trong "Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương", một khái niệm chiến lược đã trở thành trọng tâm trong các chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia phương Tây, bao gồm Mỹ, Đức, và Pháp.
Trong suốt lịch sử của mình với tư cách là một tổ chức khu vực, ASEAN đã thực hiện các cách tiếp cận khác nhau để ngăn chặn sự can thiệp từ các cường quốc bên ngoài. Giữa lúc Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và khối cộng sản đang căng thẳng, ASEAN đã tuyên bố một khuôn khổ được gọi là Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN). Văn kiện lịch sử này được ký vào năm 1971 và trở thành kim chỉ nam để các quốc gia thành viên quản lý quan hệ của họ với các cường quốc bên ngoài.
Có khả năng tình hình chiến lược khu vực sẽ trở nên phức tạp hơn và ảnh hưởng đến lập trường của Đông Nam Á như một khu vực trung lập mà ZOPFAN đã hình dung. Ở Biển Đông, vốn là điểm nóng quan trọng nhất khu vực, Mỹ đã tích cực tham gia vào các tranh chấp lãnh thổ này bằng cách trực tiếp thách thức tính hợp pháp của các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc đã có những hành động mạnh tay trong lĩnh vực an ninh hàng hải của mình, gần đây nhất là việc công bố Luật Hải cảnh.
Mặc dù bốn cường quốc thuộc Bộ tứ không có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trong khu vực, họ vẫn quan tâm đến các tranh chấp trên khía cạnh "thúc đẩy một trật tự tự do, cởi mở dựa trên luật lệ, bắt nguồn từ luật pháp quốc tế để thúc đẩy an ninh và thịnh vượng và chống lại các mối đe dọa đối với cả Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng như các khu vực khác" – theo lời tuyên bố chung được đưa ra tại cuộc họp tuần trước. Kịch bản này nếu xảy ra chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và khiến các nước thành viên ASEAN phải thận trọng.
Vai trò trung tâm của ASEAN là một khái niệm khác có thể bị thách thức bởi Bộ tứ 2.0. Khái niệm này cho rằng ASEAN có thể đóng vai trò ngoại giao trung tâm ở Đông Nam Á và rộng hơn là Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), được thành lập năm 1994, là một trong những sáng kiến của ASEAN nhằm nhấn mạnh vai trò trung tâm của mình trong lĩnh vực an ninh bằng cách cung cấp một hình thức đối thoại về các vấn đề chính trị – an ninh cho 26 bên tham gia, bao gồm cả Mỹ và Trung Quốc.
Một cuộc đối thoại an ninh khác do Bộ tứ xây dựng và giới hạn trong bốn thành viên có thể đẩy ARF ra khỏi vị trí trung tâm trong trật tự an ninh khu vực. Nỗ lực của ASEAN nhằm đưa các thành viên ARF ngồi chung một bàn để thảo luận về các mối quan tâm an ninh khu vực sẽ không còn dễ dàng nữa khi kiến trúc an ninh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bị chi phối bởi Bộ tứ, với các thành viên là các quốc gia hùng mạnh bên ngoài Đông Nam Á. Điều này có thể làm giảm vai trò diễn đàn đã được ASEAN duy trì trong 27 năm qua trên cơ sở "đối thoại và hợp tác, ra quyết định dựa trên sự đồng thuận, không can thiệp lẫn nhau, tiến triển từ từ với tốc độ phù hợp với mọi thành viên".
Mặc dù Bộ tứ đã trấn an ASEAN rằng họ sẽ tôn trọng sự thống nhất và vai trò trung tâm của khối trên cơ sở Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà khối ban hành hồi năm 2019, tuyên bố này cần được đánh giá lại thường xuyên vì sự gia tăng căng thẳng Mỹ – Trung có thể làm thay đổi kế hoạch ban đầu của Bộ tứ và biến Đông Nam Á, một lần nữa, trở thành một đấu trường nguy hiểm của cạnh tranh nước lớn.
Rifki Dermawan
Nguyên tác : "Is the Quad’s Revival a Threat to ASEAN ?", The Diplomat, 18/03/2021.
Nguyễn Thành Long biên dịch
RFI, 07/10/2020
Theo trang tin Ấn Độ Businessinsider.in, hôm 06/10/2020, trong cuộc họp tại Tokyo, Nhật Bản, các ngoại trưởng các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và Hoa Kỳ đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác để Ấn Độ-Thái Bình Dương thành khu vực tự do và rộng mở trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong khu vực chiến lược.
Cùng sự tham dự của thủ tướng Nhật Yoshihide, ngoại trưởng các nước Bộ Tứ (Quad), khẳng định tăng cường hợp tác vì một trật tự quốc tế tự do rộng mở dựa trên luật pháp quốc tế, bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực, thông cáo của chính phủ Nhật cho biết.
Cuộc họp ngoại trưởng Quad, theo sáng kiến của Nhật, diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đang ngày càng tỏ ra hung hăng về mặt quân sự trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Trong các phát biểu tại cuộc họp, dù không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng ngoại trưởng các nước đều nhấn mạnh đến khía cạnh hòa bình và ổn định trong khu vực đang bị đe dọa, cần phải tăng cường hợp tác mạnh mẽ hơn nữa trong khu vực để bảo đảm các quyền tự do lưu thông hàng hải, tôn trọng toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và giải quyết các tranh chấp bằng con đường ngoại giao.
Trang tin Ấn Độ nhắc lại, Trung Quốc là nước có tranh chấp với nhiều láng giềng trong khu vực, từ biển Hoa Đông, xuống Biển Đông, qua đến biên giới trên bộ với Ấn Độ. Không chỉ tỏ rõ ý đồ bành trướng mà Bắc Kinh còn ngày càng có những hành vi ngang ngược, chèn ép các nước có tranh chấp lãnh thổ.
Tuy nhiên các nước Bộ Tứ không đưa ra tuyên bố chung nào sau cuộc họp.
Hôm nay (07/09), theo Reuters, vẫn tại Tokyo ngoại trưởng Nhật Bản Toshimitsu Motegi và Úc Marise Payne đã thảo luận về quan hệ đối tác đặc biệt, đồng ý mở rộng hợp tác an ninh sâu rộng hơn nữa trong điều kiện khu vực có nhiều "vấn đề mới".
Ngoại trưởng Nhật sau đó đã gặp đồng nhiệm Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar và tuyên bố Tokyo tiếp tục coi trọng quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ.
Anh Vũ
*******************
RFI, 06/10/2020
Quân đội Đài Loan đã gia tăng gấp đôi các phi vụ ngăn chặn máy bay Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm nay so với 2019. An ninh hải đảo bị đe dọa nghiêm trọng trước áp lực quân sự của Hoa lục, theo bản báo cáo của Bộ Quốc phòng.
Trong những tuần lễ vừa qua, máy bay quân sự Trung Quốc liên tục vượt qua đường trung tuyến trên eo biển Đài Loan, được xem là vùng trái độn chính thức giữa hải đảo và Hoa lục, cũng như nhiều lần xâm nhập vùng nhận dạng phòng không ở phía tây nam Đài Loan.
Một bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trình Quốc Hội Đài Loan cho biết, từ đầu năm đến nay, không quân Đài Loan đã phải can thiệp 4.132 lần để ngăn chặn máy bay Trung Quốc, tăng 129% so với toàn năm 2019.
Theo lược thuật của Reuters, Bộ Quốc phòng Đài Loan tố cáo Bắc Kinh sử dụng sức mạnh quân sự với ba mục tiêu : Tìm cách làm thay đổi "nguyên trạng" trong eo biển Đài Loan, trắc nghiệm khả năng ứng phó của quân đội hải đảo và thu hẹp không gian hoạt động của Đài Loan.
Bản báo cáo thẩm định, chiến lược phát triển sức mạnh của quân đội Hoa lục được tiến hành song song với các hoạt động quân sự nhắm vào Đài Loan.
Cũng theo Reuteurs, với dân số vỏn vẹn 23 triệu người, chính phủ Đài Bắc tiến hành một chương trình hiện đại hóa quân đội để các binh chủng của hải đảo linh động hơn, khó bị phát hiện và tấn công.
Theo nhận định của thứ trưởng quốc phòng Đài Loan, tướng Trương Quan Quần (Chang Guan Chung), trong một cuộc hội thảo về an ninh quốc phòng Mỹ-Đài Loan vào ngày 05/10/2020, Trung Quốc đang gia tăng "tập luyện tấn công Đài Loan một cách thực tế".
Nhưng vị tướng ba sao này cho biết thêm là Đài Loan có một hệ thống phòng thủ đa hiệu với các đặc tính lợi hại : nhỏ nhưng rất nhiều, thông minh, tàng hình, cơ động, ít tốn kém, bền bỉ, hiệu quả, phát huy dễ dàng, bảo trì đơn giản và che mắt được đối phương.
Thứ trưởng Trương Quan Quần kêu gọi Hoa Kỳ, ngoài các hợp đồng vũ khí, cần hợp tác chặt chẽ hơn Đài Loan trong nỗ lực đào tạo, tham mưu, thẩm định các khả năng, hợp tác tình báo và vũ khí…
Tú Anh
**********************
RFI, 05/10/2020
Ấn Độ và Hoa Kỳ có các cuộc gặp song phương dồn dập trong tháng 10/2020, đặc biệt là đối thoại 2+2 lần thứ ba, giữa bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng hai nước, dự kiến diễn ra ngày 26 và 27/10. Chính quyền New Delhi sẵn sàng ký Thỏa thuận Hợp tác và Trao đổi Cơ bản (Basic Exchange and Cooperation Agreement, BECA) nhân dịp này.
Ngày 06/10, ngoại trưởng Ấn Độ và Mỹ tham gia hội nghị "Bộ Tứ" (Quad) tại Tokyo với trọng tâm là Trung Quốc. Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Stephen Biegun dự kiến đến New Delhi vào giữa tháng 10 để tăng cường các thỏa thuận hợp tác song phương. Và tại đối thoại 2+2 trong hai ngày 26-27/10, Ấn Độ và Hoa Kỳ sẽ ký thỏa thuận BECA liên quan đến hợp tác địa-không gian.
Theo trang Hindustan Times ngày 05/10, việc ký kết BECA là bước phát triển quan trọng, cho phép Ấn Độ sử dụng bản đồ không gian địa lý toàn cầu của Mỹ để đánh giá độ chính xác của các loại vũ khí tầm xa như tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. BECA là thỏa thuận cuối cùng trong số bốn thỏa thuận thiết lập liên lạc quân sự và cho phép Ấn Độ mua máy bay không người lái của Mỹ, như MQ-9B sử dụng dữ liệu không gian để tấn công mục tiêu của kẻ thù.
Đối thoại 2+2 Ấn-Mỹ diễn ra vào đúng lúc đảng Cộng Sản Trung Quốc tổ chức hội nghị với 370 thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương và tổng bí thư kiêm chủ tịch Tập Cận Bình để xem xét những quyết định chính trị quan trọng, cũng như kế hoạch 5 năm sắp tới.
Ấn Độ khánh thành đường hầm giúp giảm thời gian điều quân lên Ladakh
Ấn Độ và Trung Quốc đang căng thẳng tại biên giới ở cao nguyên Ladakh, với nhiều cuộc ẩu đả chết người giữa quân đội hai bên. Ngày 03/10, thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, cùng nhiều quan chức chính phủ, đã khánh thành đường hầm Atal, dài 9,02 km, nằm trên độ cao hơn 3.000 mét ở bang Himachal Pradesh, giúp khẩn trương điều quân lên vùng biên giới đang có tranh chấp với Trung Quốc.
Theo AFP, đường hầm Atal, có tổng chi phí 400 triệu đô la, nằm trên một trong hai trục đường duy nhất dẫn đến vùng biên giới Ladakh và có vai trò quan trọng trong chương trình cơ sở hạ tầng chiến lược của Ấn Độ.
Trang Global Times, cơ quan truyền thông chính thức của Trung Quốc, không phủ nhận tầm quan trọng trong thời bình của đường hầm này đối với Ấn Độ, nhưng cảnh báo là công trình "sẽ không có lợi ích nào trong thời chiến, đặc biệt là nếu xảy ra xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc" vì quân đội Trung Quốc "có khả năng vô hiệu hóa đường hầm này".
RFI, 05/10/2020
Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên trang web diaoyudao.org.cn mới được lập. Ngày 05/10/202, Tokyo đã phản đối "bảo tàng số" về quần đảo mà Nhật Bản kiểm soát và quốc hữu hóa.
RFI, 02/10/2020
Kể từ đầu tuần, Bắc Kinh đã bắt đầu 5 cuộc tập trận đồng thời trên vùng biển bao quanh Trung Quốc, trong đó có hai cuộc gần quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông. Vào hôm qua, 01/10/2020, Việt Nam chính thức phản đối và cho rằng hành động tập trận của Bắc Kinh sẽ gây tổn hại cho các đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về một Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông (COC).
Trong cuộc họp báo thường kỳ tại Hà Nội, phát ngôn viên bộ ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên án hành động của Trung Quốc và yêu cầu Bắc Kinh tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với phát ngôn viên bộ ngoại giao Việt Nam, các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Hoàng Sa không những trái với tinh thần của bản Tuyên Bố về Cách Ứng Xử của các bên tại Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), mà còn "không có lợi cho đàm phán COC", tức Bộ Quy Tắc Ứng Xử về Biển Đông. Bà Lê Thị Thu Hằng nhắc lại rằng việc khởi động lại các cuộc đàm phán về COC, sau một thời gian dài bị đình chỉ vì dịch Covid-19, đang là ưu tiên của khối ASEAN và Trung Quốc.
Theo hãng tin Anh Reuters, COC là một mục tiêu mà cả ASEAN lẫn Trung Quốc đều nêu lên từ gần hai chục năm nay, nhưng giới chuyên gia an ninh khu vực đã đặt nghi vấn về thực tâm của Trung Quốc, cũng như rất hoài nghi về việc các bên đạt được một thỏa thuận có tính ràng buộc về pháp lý.
Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã lợi dụng tình hình các láng giềng phải lo chống dịch Covid-19 để tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông và liên tục tổ chức các cuộc tập trận tại các khu vực mà họ đòi chủ quyền. Hoa Kỳ đã cáo buộc Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, trong khi Bắc Kinh nói rằng Washington và các đồng minh phương Tây đã đe dọa an ninh khi gửi tàu hải quân đến khu vực.
Về phần mình, tháng 8 vừa qua, Việt Nam đã tố cáo sự hiện diện của oanh tạc cơ Trung Quốc ở Hoàng Sa, xem đấy là điều "gây nguy hiểm cho hòa bình".
Trong cuộc họp báo hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã tuyên bố hoan nghênh lập trường của Anh, Đức, Pháp, thể hiện trong công hàm gởi lên Liên Hiệp Quốc ngày 16/09 vừa qua, bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Mai Vân
Chính sách mới về Biển Đông của Mỹ có ý nghĩa thế nào ?
Gregory B.Poling, Thụy My, RFI, 16/07/2020
Chuyên gia Greg Poling : "Lần tới, nếu một tàu hải cảnh Trung Quốc giở trò với một giàn khoan ngoài khơi Việt Nam, hay một đoàn tàu đánh cá Trung Quốc xuất hiện tại vùng biển Indonesia, Hoa Kỳ có thể lên tiếng kiên quyết hơn để tố cáo những hành động bất hợp pháp, khiến Trung Quốc mang tai tiếng nhiều hơn trên trường quốc tế".
Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Nimitz được tiếp liệu trên Biển Đông ngày 07/07/2020. © U.S. Navy/Christopher Bosch/Handout via Reuters
Ngày 13/07/2020, ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo loan báo một thay đổi quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ về Biển Đông. Hôm sau, trợ lý ngoại trưởng David Stilwell trong cuộc hội thảo thường niên về Biển Đông của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) đã làm rõ thêm vấn đề.
RFI Việt ngữ lược dịch bài viết của chuyên gia Gregory B. Poling, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở Washington D.C.
------------------------
Thông cáo báo chí của ông Pompeo nêu cụ thể các yêu sách trên biển của Trung Quốc mà Hoa Kỳ coi là bất hợp pháp. Tuyên bố này nói rất rõ quan điểm của Mỹ, nhưng không hẳn là trái ngược với chính sách trong quá khứ.
Bản tuyên cáo lập trường này giải thích những hành động của các chính quyền trước, và mở ra con đường cho các thông điệp ngoại giao hiệu quả hơn, đáp trả mạnh mẽ hơn những hành động quấy nhiễu láng giềng của Trung Quốc. Các đối tác và đồng minh của Mỹ trong khu vực dường như đã được báo trước, chẳng hạn bộ trưởng Quốc Phòng Philippines sẵn sàng có tuyên bố tích cực trong vài giờ. Và chính sách mới đã tạo ra những phấn khích, thường là cường điệu trên báo chí và mạng xã hội.
1. Quan điểm mới của Hoa Kỳ như thế nào ?
Tuyên bố của ngoại trưởng Pompeo không thay đổi tính khách quan của Mỹ về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Washington vẫn không có lợi ích gì khi dính vào tình hình lịch sử phức tạp, nước nào có chủ quyền trên đảo nào ở Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên từ nay Mỹ có quan điểm rạch ròi về các tranh chấp chủ quyền vùng biển và đáy biển.
Câu mở đầu viết : "Chúng tôi xin nói rõ : các yêu sách của Bắc Kinh về nguồn lợi ngoài khơi trên hầu hết Biển Đông là hoàn toàn bất hợp pháp, cũng như chiến dịch quấy nhiễu nhằm kiểm soát biển". Phần còn lại của tuyên bố giải thích ý nghĩa cụ thể.
Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ hơn nội dung phán quyết năm 2016 của tòa án trọng tài được triệu tập trên tinh thần Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Tòa án này đã trao phần thắng cho Manila trong vụ kiện Bắc Kinh. Tòa nhận định rằng Trung Quốc không có bất kỳ căn cứ nào để đòi "quyền lịch sử", hay những yêu sách khác ngoài những gì UNCLOS cho phép.
Phán quyết này vô hiệu hóa cái gọi là "đường 9 đoạn" hay "đường lưỡi bò" để yêu sách chủ quyền biển. Tòa án cũng quyết định không một đảo nào ở Trường Sa hay bãi cạn Scarborough có được vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) bao quanh, hay thềm lục địa. Đó là những "Đá" không thể có người ở hay có đời sống kinh tế độc lập, và như vậy, chỉ có thể sở hữu lãnh hải 12 hải lý.
Quan điểm mới của Hoa Kỳ dựa theo kết luận logic của quyết định trên. Trung Quốc có thể đòi hỏi nguồn lợi của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ duyên hải phía nam của mình, và có thể tại những vùng xung quanh quần đảo Hoàng Sa, mà phán quyết năm 2016 không đề cập đến. Trung Quốc cũng có thể đòi chủ quyền 12 hải lý xung quanh những "Đá" ở quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough (và các nước yêu sách khác cũng có thể đòi hỏi).
Tuy nhiên Bắc Kinh không thể đòi bất kỳ khu vực nào khác. Như vậy, đa số nguồn lợi Biển Đông thuộc về các quốc gia duyên hải (theo mẫu tự ABC : Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam). Hoa Kỳ nay tuyên bố rõ là việc Trung Quốc đánh cá, khai thác dầu khí và các hoạt động kinh tế khác trên các vùng này là bất hợp pháp, hoặc xâm hại đến quyền của các nước láng giềng.
Phán quyết trọng tài năm 2016 cũng kết luận nhiều thực thể mà Trung Quốc đòi chủ quyền, nhất là Đá Vành Khăn (Mischief Reef), Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) nằm chìm dưới nước, như vậy không thể có bất kỳ yêu sách nào. Tòa cho rằng các thực thể này nằm trên thềm lục địa Philippines, quốc gia duyên hải gần nhất, nên Manila có đặc quyền.
Chính sách mới của Mỹ xác nhận điều này và áp dụng cho các thực thể chìm dưới nước khác mà Trung Quốc yêu sách : bãi cạn Luconia (Luconia Shoals) và bãi ngầm James (James Shoals) ngoài khơi Malaysia, Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) ngoài khơi Việt Nam. Có nghĩa là Hoa Kỳ coi toàn bộ căn cứ quân sự Trung Quốc trên Đá Vành Khăn là bất hợp pháp, và các cố gắng của Bắc Kinh để xác quyết chủ quyền tại các địa điểm khác là vô căn cứ.
Cuối cùng, tuyên bố của ông Pompeo cho rằng việc Trung Quốc xâm phạm quyền đánh cá của Philippines tại bãi cạn Scarborough là bất hợp pháp. Cho dù thực thể này tạo ra quyền lãnh hải 12 hải lý xung quanh, phán quyết 2016 cho phép cả Trung Quốc lẫnh Philippines đều có quyền đánh cá truyền thống. Như vậy một lần nữa Hoa Kỳ không thay đổi quan điểm về chủ quyền lãnh thổ, nhưng nói rõ hơn về quyền trên biển.
2. Quan điểm này có những khác biệt gì ?
Chính quyền Obama kiên quyết ủng hộ quyền của Philippines đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài, và sau đó tuyên bố phán quyết của tòa mang tính ràng buộc theo UNCLOS, và kêu gọi cả hai bên chấp hành, tuy nhiên lại sử dụng từ ngữ thận trọng. Vài giờ sau khi phán quyết được công bố, bộ Ngoại Giao Mỹ tuyên bố đó là quyết định "cuối cùng và mang tính ràng buộc theo luật pháp cho cả Trung Quốc và Philippines", nhưng lại nói thêm "Chúng tôi vẫn đang nghiên cứu và không có bình luận nào về cơ sở của phán quyết".
Tại hội nghị thượng đỉnh Đông Á ở Vientiane vào cuối tháng và sau khi ghé Manila, ngoại trưởng John Kerry nhắc lại rằng phán quyết mang tính ràng buộc pháp lý và kêu gọi tôn trọng. Ông Kerry nhiều lần lên tiếng ủng hộ luật pháp quốc tế và tự do hàng hải nói chung. Tuy nhiên ông cũng như bất kỳ viên chức Mỹ nào khác - kể cả trong chính quyền trước đó hoặc trong ba năm đầu của chính phủ đương nhiệm - khẳng định cơ sở của phán quyết. Đây là một chọn lựa tế nhị nhưng cố ý.
Khi tham gia UNCLOS, các quốc gia chấp nhận sự liên quan về luật pháp với kết quả của bất kỳ phán quyết trọng tài nào mà họ tham gia. Tuy nhiên điều này không tự động mang lại sức nặng thông lệ quốc tế cho quyết định trọng tài, và không có nghĩa là các nhà nước khác phải đồng ý rằng các thẩm phán đã đúng hoặc tuân theo các quyết định trước. Tất cả các phiên trọng tài đều như thế, dù là giữa các Nhà nước, công ty hoặc cá nhân. Thế nên các viên chức Mỹ kêu gọi Trung Quốc tuân theo phán quyết, nhưng tránh gọi các hành động vi phạm của Trung Quốc là "bất hợp pháp".
Washington dành từ ngữ này cho những yêu sách thấp hơn của Trung Quốc, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do hàng hải của Mỹ theo thông lệ quốc tế. Đó là đường lưỡi bò của Trung Quốc xung quanh quần đảo Hoàng Sa, đòi hỏi của Bắc Kinh khi đi qua vô hại ở khu vực lãnh hải phải thông báo trước, và các mưu toan áp đặt quy định về hàng hải, hàng không xung quanh Đá Vành Khăn. Tuy Hoa Kỳ thường chỉ trích việc Trung Quốc đánh cá, thăm dò dầu khí và sách nhiễu láng giềng tại vùng đặc quyền kinh tế của các nước này, gọi đó là những hành vi "gây bất ổn", "hung hăng", nhưng tránh nói là "bất hợp pháp".
Điều này khiến ở Đông Nam Á người ta cho rằng Hoa Kỳ chỉ ưu tiên cho quyền "tự do hàng hải" của mình - mà nhiều người coi là chỉ liên quan đến các hoạt động quân sự Mỹ - chứ không phải "tự do trên biển", gồm cả các quyền kinh tế được luật pháp quốc tế bảo đảm. Các chính quyền Mỹ trước đây có coi những hành động của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước láng giềng là bất hợp pháp hay không ? Hầu như là chắc chắn. Tuy nhiên Washington cho đến nay không muốn nói ra.
3. Quan điểm mới của Mỹ có thể có những tác động nào ?
Luận điểm mới này tự nó không gây tác động, nhưng việc khởi đầu cho nỗ lực lâu dài nhằm buộc Trung Quốc phải trả giá, và ủng hộ các đối tác của Mỹ, có thể đầy ý nghĩa. Tác động tức khắc của sự thay đổi quan điểm này là trên mặt trận ngoại giao.
Tập hợp sự ủng hộ của quốc tế đối với các hành vi "bất hợp pháp" dễ hơn rất nhiều so với các hành động chỉ đơn thuần gây khó chịu hoặc tạo bất ổn. Tác hại cũng nhiều hơn đối với một quốc gia đang mong muốn trở thành lãnh đạo toàn cầu nhưng lại bị tố cáo là vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế.
Các viên chức Mỹ chừng như bắt đầu sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ hơn trong các thông cáo và các diễn đàn quốc tế, đồng thời gây áp lực lên các đối tác và đồng minh để hành xử tương tự. Điều này được chờ đợi không chỉ tại các hội nghị khu vực như thượng đỉnh Đông Á, nhưng cả ở các tổ chức như "Bộ Tứ" (Quad), nhóm G7, và nhiều cuộc họp song phương, tam phương khác nhau.
Điều này có thể khuyến khích các nước đòi hỏi chủ quyền ở Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam và Philippines có thể tự vệ một cách mạnh mẽ hơn. Lần tới, nếu một tàu hải cảnh Trung Quốc giở trò với một giàn khoan ngoài khơi Việt Nam, hay một đoàn tàu đánh cá Trung Quốc xuất hiện tại vùng biển Indonesia, Hoa Kỳ có thể lên tiếng kiên quyết hơn để tố cáo những hành động bất hợp pháp trên, khiến Trung Quốc mang tai tiếng nhiều hơn trên trường quốc tế. Cách tiếp cận này có thể càng mở rộng hơn sau tháng 11, và chính quyền mới của Mỹ khó thể quay ngược lại.
Với chính sách mới, Trung Quốc có thể phải trả giá nhiều hơn về kinh tế. Khi tố cáo quá nhiều hành động bất hợp pháp của Trung Quốc trên biển, chính phủ Mỹ có thể minh chứng cho việc trừng phạt các công ty và định chế Trung Quốc tiến hành những hoạt động đó. Điều này dẫn đến một loạt những mục tiêu tiềm năng rộng lớn và kịp thời hơn so với các đạo luật trừng phạt của Hoa Kỳ trước đây. Các dự luật trình bày tại Quốc Hội năm 2017 và 2019 chẳng hạn, sẽ tập trung nhiều hơn vào việc đào đắp, xây dựng và các hành động khác của Trung Quốc tại các đảo nhân tạo.
Trong phần trình bày tại CSIS, ông Stilwell đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các công ty quốc doanh Trung Quốc trong các hoạt động bất hợp pháp trên biển. Ông tuyên bố : "Chúng ta cần phải đưa ra ánh sáng về cung cách hoạt động của các công ty này trên thế giới, kể cả tại Đông Nam Á và Hoa Kỳ. Tại tất cả xã hội chúng ta, công dân có quyền biết được những khác biệt giữa các công ty thương mại và các công cụ của một cường quốc bên ngoài". Và khi được hỏi, nếu chính sách mới của Mỹ có thể dẫn đến việc trừng phạt các định chế Trung Quốc hay không, trợ lý ngoại trưởng Mỹ nói rằng khả năng này "đang được đặt trên bàn".
Quốc hội có sự ủng hộ rất lớn đối với chính sách mới. Trong những giờ đầu sau khi công bố, chủ tịch và các thành viên uy tín của Ủy ban Đối ngoại Thượng Viện và Hạ Viện đưa ra tuyên bố lưỡng đảng, ủng hộ chủ trương của chính phủ.
Tất nhiên là chính sách này cũng có những bất tiện, trước mắt là làm tăng thêm căng thẳng giữa Bắc Kinh với Washington. Lần tới, khi Trung Quốc lại đi quấy nhiễu bất hợp pháp các láng giềng trong vùng đặc quyền của các nước này, sự đáp trả mạnh mẽ hơn của Hoa Kỳ có thể làm tình cảm dân tộc chủ nghĩa tăng gấp đôi. Đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch, khiến các nhà ngoại giao Trung Quốc tỏ ra ngạo mạn thay vì giảm thang xung đột với các láng giềng.
Tuy nhiên về lâu về dài, nếu thành công trong một chính sách rộng lớn hơn cùng với việc gây áp lực lên Bắc Kinh và một liên minh quốc tế rộng hơn để hỗ trợ cho các đối tác Đông Nam Á, chính sách mới của Hoa Kỳ có thể khiến Trung Quốc phải hướng về một sự thỏa hiệp mà cộng đồng quốc tế có thể chấp nhận. Và rốt cuộc, đó là cơ hội tốt nhất để xử lý tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình.
Gregory B. Poling
Nguyên tác : How Significant is the New U.S. South China South Policy ?, AMTI, 14/07/2020
Thụy My dịch
Nguồn : RFI, 16/07/2020
********************
Úc sẽ tham gia tập trận của "Bộ tứ" nhằm đối phó Trung Quốc
Thụy My, RFI, 15/07/2020
Đài truyền hình Úc ABC hôm 14/07/2020 cho biết có nhiều khả năng Úc sẽ tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar cùng với Ấn Độ, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong chiến lược ngăn chận sự bành trướng của Trung Quốc.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tham gia cuộc tập trận chung Malabar 2015. Ảnh do Hải quân Mỹ cung cấp ngày 18/10/2015. AFP - MCS CHAD M. TRUDEAU
Bốn quốc gia dân chủ hợp thành "bộ tứ" (Quad) đang siết chặt hợp tác quân sự để đối phó với các hành động hung hăng của Bắc Kinh. Từ 5 năm qua, Úc đã thúc giục nhưng Ấn Độ vẫn do dự. Tuy nhiên nay nhiều tờ báo Ấn Độ dẫn các nguồn tin thông thạo cho biết New Delhi sẽ chính thức mời Úc tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar sắp tới.
Đây sẽ là một chiến thắng ngoại giao quan trọng đối với Úc. Mặc dù từ 2017, bốn nước "Quad" đã tăng cường đối thoại về an ninh, nhưng việc mở rộng cuộc tập trận Malabar là một lợi thế quân sự. Lâu nay Ấn Độ vẫn nghi ngờ sự cam kết của Úc về quốc phòng, nhất là khi chính phủ Rudd từ chối tham gia năm 2008 ; và New Delhi cũng không muốn chọc giận Trung Quốc.
Ấn Độ và Úc cũng tăng cường quan hệ song phương, ký kết hiệp ước đối tác chiến lược toàn diện, và một thỏa thuận cho phép đôi bên được vào các căn cứ quân sự của nhau.
Cựu phát ngôn viên Hải quân Ấn Độ DK Sharma nói với ABC, việc Úc tham gia cuộc tập trận Malabar tạo ra một "liên minh hải quân có cùng quan điểm, các nền dân chủ có cùng tầm nhìn về Ấn Độ-Thái Bình Dương". Việc hai nước xích gần lại với nhau là một bất ngờ cho Trung Quốc vốn thích "bẻ đũa từng chiếc một".
Cũng tại Châu Á, báo chí Kuala Lumpur dẫn một báo cáo công bố hôm qua 14/07 tiết lộ các tàu hải cảnh Trung Quốc đã xâm nhập vùng biển Malaysia đến 89 lần từ năm 2016 đến 2019, với ý đồ xác quyết chủ quyền. Malaysia đã năm lần phản ứng về mặt ngoại giao.
Thụy My
*******************
Hoa Kỳ đã quyết định đẩy mạnh chính sách Biển Đông của mình ?
Trương Hoàng Phương, RFA, 14/07/2020
Ngày 14/7, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo ra tuyên bố lập trường của Washington đối với những yêu sách biển của Bắc Kinh tại Biển Đông, trong đó khẳng định Mỹ ủng hộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và mở rộng ; việc Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với những nguồn tài nguyên trên hầu hết Biển Đông cũng như tiến hành những chiến dịch để kiểm soát vùng này là bất hợp pháp.
Tàu chiến USS Wayne E. Meyer của Hải quân Mỹ ở Biển Đông hôm 11/4/2017 Reuters
Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ đăng trên trang web của Bộ Ngoại giao nêu rõ : Mỹ tìm cách gìn giữ hòa bình và ổn định tại Biển Đông, duy trì tự do hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế, giữ cho lưu lượng thương mại không bị cản trở và chống lại bất cứ âm mưu nào muốn sử dụng sự cưỡng ép hay vũ lực để giải quyết tranh chấp.
Ngoại trưởng Pompeo nhấn mạnh Mỹ chia sẻ những lợi ích sâu sắc với nhiều đồng minh và đối tác vốn từ lâu ủng hộ trật tự quốc tế căn cứ trên luật lệ. Những lợi ích cùng chia sẻ này đang chịu sự đe dọa chưa từng thấy từ Trung Quốc. Ông Pompeo tố cáo Bắc Kinh sử dụng sự uy hiếp để phá hoại quyền chủ quyền của các nước ven Biển Đông Nam Á tại Biển Đông, ức hiếp và đẩy các nước ra khỏi các nguồn tài nguyên ngoài khơi, áp đặt sự chiếm lĩnh đơn phương và thay thế luật pháp quốc tế theo kiểu "chân lý thuộc về kẻ mạnh".
Ngoại trưởng Mỹ cho rằng "mọi người đã thấy rõ cách thức của Bắc Kinh trong nhiều năm qua" và dẫn chứng lời cựu Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì năm 2010 phát biểu trước các đối tác ASEAN rằng "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, đó là sự thật". Ngoại trưởng Pompeo khẳng định : "Quan điểm xâm chiếm thế giới của Trung Quốc không có chỗ đứng trong thế kỷ 21".
Vẫn theo lời Ngoại trưởng Mỹ, Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để áp đặt ý định đơn phương trong khu vực cũng như không đưa ra được cơ sở pháp lý thích đáng về "đường 9 đoạn" tại Biển Đông kể từ khi chính thức loan báo vào năm 2009. Trong quyết định ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài thường trực quốc tế - được thành lập theo Công ước về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà Trung Quốc là một thành viên - đã bác bỏ tuyên bố chủ quyền trên biển của Trung Quốc, gọi tuyên bố này là vô căn cứ theo luật quốc tế và đứng về phía Philippines - quốc gia đưa vấn đề ra tòa trọng tài.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo phát biểu tại một họp báo tại Washington DC hôm 9/11/2018 AFP
Như Mỹ đã tuyên bố trước đây và theo những qui định rõ ràng của UNCLOS, quyết định của Toà án Trọng tài mang tính chung thẩm và ràng buộc pháp lý đối với cả hai bên. Mỹ đứng về phía phán quyết của Tòa án liên quan tới các yêu sách biển ở Biển Đông, cụ thể như sau :
- Trung Quốc không thể đưa ra các yêu sách biển một cách hợp pháp-bao gồm bất cứ vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nào phát xuất từ Bãi cạn Scarborough và Quần đảo Trường Sa - so với Philippines trong những khu vực mà Tòa phát hiện nằm trong vùng EEZ của Philippines hay thềm lục địa của nước này. Việc Bắc Kinh quấy nhiễu các hoạt động đánh bắt cá và khai thác năng lượng ngoài khơi của Philippines trong những khu vực này là bất hợp pháp, cũng như bất cứ hoạt động đơn phương nào của Trung Quốc nhằm khai thác các nguồn tài nguyên đó. Cùng với quyết định ràng buộc pháp lý của tòa án, Trung Quốc không có yêu sách về lãnh thổ hay yêu sách biển hợp pháp tại Đá Vành Khăn hay Bãi Cỏ Mây, cả hai thực thể này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippines. Bắc Kinh cũng không thể có bất cứ yêu sách lãnh thổ hay yêu sách biển phái sinh từ những thực thể này.
- Vì Bắc Kinh không đưa ra được yêu sách nào trên Biển Đông hợp lý và hợp pháp, nên Mỹ bác bỏ bất cứ yêu sách nào của Trung Quốc đối các vùng biển bên ngoài 12 hải lý tính từ các đảo Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại Trường Sa. Do đó, Mỹ bác bỏ bất cứ yêu sách nào của Trung Quốc đối với các vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính ngoài khơi Việt Nam, Bãi cạn Luconia ngoài khơi Malaysia, vùng biển trong khu vực EEZ của Brunei và Natuna Besar ngoài khơi Indonesia. Bất cứ hành động nào của Trung Quốc quấy nhiễu việc đánh cá hay việc khai thác dầu khí của các nước khác trong các vùng biển này - hoặc tiến hành các hoạt động đơn phương như thế, là bất hợp pháp.
- Trung Quốc không có yêu sách về lãnh thổ hay yêu sách biển hợp pháp đối với (hoặc xuất phát từ) Bãi ngầm James, một thực thể hoàn toàn chìm dưới nước chỉ cách Malaysia 50 hải lý và cách bờ biển Trung Quốc 1.000 hải lý. Bãi ngầm James thường được ghi trong các tài liệu tuyên truyền của Trung Quốc là "lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc". Luật quốc tế ghi rõ là : Một thực thể chìm dưới nước như Bãi ngầm James không thể bị tuyên bố chủ quyền và không thể tạo ra vùng biển kèm theo được. Bãi ngầm James (chìm gần 20 mét dưới mặt biển) không phải và không bao giờ là lãnh thổ của Trung Quốc, cũng như Bắc Kinh không bao giờ có thể khẳng định các quyền về biển hợp pháp từ Bãi ngầm này.
Ngoại trưởng Mỹ kết luận : Thế giới không cho phép Bắc Kinh đối xử với Biển Đông với tư cách như là đế chế biển của Trung Quốc. Mỹ đứng về phía các đồng minh và đối tác Đông Nam Á trong việc bảo vệ quyền chủ quyền của các nước này đối với các tài nguyên ngoài khơi, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các nước theo luật quốc tế. Mỹ cũng đứng về phía cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ tự do trên biển và tôn trọng chủ quyền, bác bỏ bất cứ lực đẩy nào áp đặt "mạnh thì thắng" tại Biển Đông hay tại khu vực rộng lớn hơn.
Việc công khai những quan điểm này được đưa ra một ngày sau kỷ niệm 4 năm phán quyết của tòa trọng tài thường trực hồi tháng 7/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Đây là tuyên bố mạnh mẽ mới nhất của chính quyền Tổng thống Donald Trump nhằm thách thức Trung Quốc, nước mà Trump ngày càng coi là kẻ thù trong bối cảnh Mỹ sắp bước vào cuộc bầu cử vào tháng 11 tới. Có một số thông điệp đáng lưu ý ở đây.
Thứ nhất, động lực thúc đẩy việc ra tuyên bố lần này dường như xuất phát các hành động hung hăng, hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông. Trước đây, Mỹ đã có những phát biểu tương tự nhưng với mức độ nhẹ nhàng hơn. Năm 2019, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đưa ra những tuyên bố kêu gọi Trung Quốc ngừng hành động "bắt nạt" Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế của Hà Nội.
Thứ hai, quan điểm của Washington về tự do hàng hải và tự do hàng không hầu như không thay đổi, theo đó Mỹ xác định tự do hàng hải là một lợi ích cốt lõi của họ ở Biển Đông. Quan điểm này được đưa ra từ nhiệm kỳ đầu tiên của chính quyền Tổng thống Barack Obama.
Thứ ba, về mặt pháp lý, Washington khẳng định rằng Trung Quốc "không có cơ sở pháp lý để đơn phương áp đặt ý chí của họ ở khu vực" và Bắc Kinh không "đưa ra được cơ sở pháp lý chặt chẽ về tuyên bố cái gọi là ‘đường 9 đoạn’ ở Biển Đông kể từ khi chính thức tuyên bố đường này từ năm 2009". Để hậu thuẫn 2 sự khẳng định này của mình, Mỹ đã viện dẫn phán quyết của tòa trọng tài thường trực hôm 12/7/2016 về vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông.
Nhận thức mới về quan điểm của Mỹ nói trên có thể mở ra một mặt trận mới về cách thức Trung Quốc chọn cách đối phó với những hoạt động quân sự của Mỹ diễn ra hiện nay ở Biển Đông. Sự thay đổi chính sách nói trên của Mỹ trùng với sự thay đổi của Philippines về vấn đề Biển Đông. Manila gần đây đã một lần nữa kêu gọi Bắc Kinh tuân thủ phán quyết của tòa trọng tài, trong đó vô hiệu hóa những yêu sách tham lam của Trung Quốc tại Biển Đông dựa trên các căn cứ lịch sử mà không có bất kỳ khả năng thỏa hiệp nào. Ngoại trưởng Philipines Teodoro Locsin Jr. đã đưa ra lời kêu gọi nói trên nhân lễ kỷ niệm ngày 12/7/2016, ngày Toà trọng tài đưa ra phán quyết mà ông cho rằng đã giải quyết một cách thuyết phục vấn đề quyền lịch sử và các quyền lợi biển tại Biển Đông dựa theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Ông Locsin tuyên bố : "Phán quyết này là không thể đem ra thương lượng. Tòa án có thẩm quyền đã phán quyết rằng những tuyên bố của Trung Quốc về quyền lịch sử đối với các tài nguyên trong vùng biển này là không có cơ sở pháp lý". Đây là tuyên bố đanh thép nhất mà Philippines đưa ra cho tới nay liên quan phán quyết mang tính bước ngoặt này.
Tuyên bố về quan điểm của Mỹ về Biển Đông nói trên được đưa ra giữa lúc xảy ra những căng thẳng gia tăng liên quan Trung Quốc, bao gồm vụ đụng độ biên giới hồi tháng 6/2020 giữa Trung Quốc và Ấn Độ mà Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo gọi là một phần của chiến lược của Bắc Kinh gây thách thức các nước láng giềng. Trước đó, căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng sau khi Trump chỉ trích mạnh mẽ Bắc Kinh không nỗ lực nhiều hơn nhằm ngăn chặn đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19. Trump cũng tăng cường sức ép đối với Trung Quốc về vấn đề giam giữ hơn 1 triệu người Duy Ngô Nhĩ Hồi giáo. Hồi tuần trước, Mỹ đã áp đặt các đòn trừng phạt đối với giới chức Trung Quốc.
Chính sách của Mỹ trước đây tỏ ra "mơ hồ" ở chỗ nó chủ yếu giới hạn trong việc kêu gọi đảm bảo quyền "tự do hàng hải" ở Biển Đông vốn rất quan trọng đối với các tuyến thương mại toàn cầu. Ngoài ra, Washington cũng kêu gọi tất cả các bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, theo con đường ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế, song Washington không thể hiện quan điểm về tính hợp pháp trong các yêu sách biển của bất cứ bên nào. Cho dù Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch kéo dài nhiều năm để xây dựng các căn cứ và các tiền đồn khác trên các bãi cát, đá ngầm và các mỏm đá như một cách để khẳng định yêu sách của mình.
Bằng cách gọi những yêu sách biển của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi Biển Đông là bất hợp pháp và ủng hộ một "Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở", Mỹ đã đảo ngược chính sách được cho là theo "chủ nghĩa biệt lập" của mình và đã tái khẳng định cam kết mạnh mẽ của họ với các đối tác thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng như các đồng minh chủ chốt là Nhật Bản và Australia.
Tuyên bố của Ngoại trưởng Pompeo không chỉ là một sự thể hiện ý chí chính trị to lớn của Mỹ là sát cánh với các đồng minh của mình tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, mà còn là một sự củng cố trên tiền tuyến ở Biển Đông. Một nhà quan sát về vấn đề Trung Quốc nhận định : "Tuyên bố này đã thay đổi quan niệm rằng chính quyền Trump chỉ hướng nội và có chủ trương biệt lập. Bằng cách công khai lập trường rõ ràng về Biển Đông, đây là một lời tái khẳng định học thuyết của Mỹ đối với khu vực này. Nó chỉ ra rằng Mỹ vẫn kiên định sát cánh cùng với các đồng minh của mình như Philippines và Việt Nam, cũng như công nhận các tuyên bố chủ quyền của Indonesia và Malaysia chống lại sự chèn ép của Trung Quốc trong khu vực này".
Tuyên bố về Biển Đông của Mỹ không chỉ thách thức Trung Quốc mà còn là một lời cam kết ủng hộ đanh thép đối với các quốc gia khác như Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc.
Trương Hoàng Phương
Nguồn : RFA, 14/07/2020
Việt Nam 'giữ vững quan điểm' về 'Bộ tứ' Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ (VOA, 21/11/2018)
Giới quan sát cho rằng Việt Nam vẫn giữ vững quan điểm về chính sách "ba không", sau khi Hà Nội lên tiếng phản đối liên minh quân sự ở khu vực, khi đề cập tới việc hình thành "Bộ tứ", còn gọi là "Quad", gồm Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind và Chủ tịch nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hôm 20/11.
Tân Đại sứ Việt Nam ở Ấn Độ, ông Phạm Sanh Châu, mới đây trả lời báo chí địa phương rằng Việt Nam "không muốn bất kỳ liên minh quân sự nào vì nó không có lợi cho an ninh khu vực", nhưng "hoan nghênh bất kỳ sáng kiến nào đóng góp vào hòa bình khu vực".
Tân Đại sứ Việt Nam tại New Delhi, ông Phạm Sanh Châu và Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind.
Trả lời VOA tiếng Việt, ông David Brown, cựu quan chức ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn, nói rằng phát biểu của đại sứ Châu "không cho thấy bất kỳ sự thay đổi nào của Việt Nam".
"Nhiều năm qua, một điểm quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đó là muốn làm bạn với tất cả các nước, và vì thế, nước này sẽ không tham gia bất kỳ liên minh nào", nhà nghiên cứu về tình hình Việt Nam nói về quan điểm "ba không" của Việt Nam là "không tham gia các liên minh quân sự, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia".
Ông Brown nói thêm : "Nhưng nguyên tắc đó không cản trở Việt Nam tham gia sự hợp tác không chính thức với một số các nước, trong đó có tất cả bốn nước thành viên của Quad, bất cứ khi nào Hà Nội thấy cơ hội củng cố khả năng bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược".
Tin cho hay, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe năm 2007 khởi xướng Đối thoại An ninh Bốn bên mà nhiều người hay gọi tắt là "Quad" giữa Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ.
Trong khi có ý kiến cho rằng nhóm "Bộ tứ" này được hình thành nhằm kiềm tỏa sự trỗi dậy của Trung Quốc, ông Patrick Murphy, nhà ngoại giao cấp cao của Mỹ chuyên trách về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương mới được từ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng trích lời nói rằng liên minh này không phải là một cơ chế "tập trung vào quân sự" mà là một diễn đàn đa phương nhằm chia sẻ các giá trị và nền tảng chung giữa bốn nước.
Hiện chưa rõ ông Châu đưa ra nhận định trên trong cuộc phỏng vấn riêng với báo chí Ấn Độ hay tại cuộc họp báo chung ở New Delhi nhân chuyến thăm kéo dài hai ngày của Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind tới Việt Nam.
Thông tấn xã Việt Nam đưa tin về cuộc họp báo của ông Châu tại Ấn Độ ngày 15/11, nhưng không đề cập tới nội dung về "Bộ tứ" Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ.
Về hợp tác quốc phòng - an ninh giữa hai nước, ông Châu được trích lời đánh giá rằng đó là "trụ cột quan trọng, hiệu quả của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện".
Trong chuyến thăm quốc gia Đông Nam Á kết thúc hôm 20/11, ông Ram Nath Kovind cũng được trích lời nói rằng Việt Nam là "trụ cột trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ".
Trong khi đó, Chủ tịch nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc lại tuyên bố của ông Châu rằng "quốc phòng, an ninh là một trụ cột quan trọng của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước".
https://youtu.be/TIpFKk-Egz8
Viễn Đông
***************
Trung Quốc và Philippines đồng ý cùng khai thác dầu khí ở Biển Đông (RFI, 21/11/2018)
Nhân chuyến công du Philippines của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, kết thúc hôm nay, 21/11/2018, Bắc Kinh và Manila đã ký kết tổng cộng 29 thỏa thuận hợp tác trên mọi mặt, trong đó có một bản ghi nhớ về đồng khai thác dầu khí trên Biển Đông. Nội dung cụ thể của thỏa thuận này không được công bố, nhưng nhiều tiếng nói tại Philippines phản đối hành vi "phản quốc" của chính quyền Duterte.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tổng thống Philippine Duterte nâng ly trong buổi dạ tiệc tại Dinh Tổng Thống, Manila, ngày 20/11/2018. Mark Cristino/Pool via Reuters
Theo báo chí Philippines, buổi lễ ký kết các thỏa thuận hợp tác đã được tổ chức long trọng vào tối hôm qua, 20/11 tại Manila, dưới sự chứng kiến của tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Văn kiện về đồng khai thác Biển Đông nằm trong số 29 thỏa thuận ký kết và trao đổi giữa ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr. và đồng nhiệm Trung Quốc Vương Nghị.
Tuy nhiên, theo nhật báo Philippine Star, thỏa thuận về đồng khai thác chỉ là một bản ghi nhớ (MOU), tức là một văn kiện có tầm quan trọng thấp hơn một thỏa thuận đích thực. Cho dù vậy, đến hôm nay, 21/11/2018, chính quyền Manila vẫn không công bố nội dung bản ghi nhớ này, chứng tỏ rằng đây là một vấn đề rất nhạy cảm.
Theo một nguồn tin thông thạo, văn kiện này chỉ bao gồm "các nguyên tắc căn bản", nhưng không chỉ rõ những khu vực ở Biển Đông mà hai bên dự định khai thác chung. Thế nhưng, riêng việc chính quyền Duterte chấp nhận bắt tay với Trung Quốc để tìm kiếm năng lượng ở các vùng biển mà cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đã bị dư luận Philippines, đặc biệt là phe đối lập chính trị, lên án.
Theo nhật báo Anh Finacial Times, hai thượng nghị sĩ đối lập Antonio Trillanes IV và Francis Pangilinan đã kêu gọi ông Duterte không nên ký với Trung Quốc bất kỳ thỏa thuận nào "làm giảm các đặc quyền của Philippines", vì đó là điều vi phạm Hiến Pháp.
Còn Risa Hontiveros, một thượng nghị sĩ đối lập khác, thì nói thẳng là việc đồng khai thác Biển Đông với Trung Quốc là một điều "phi lý và phản quốc…, đảo ngược chiến thắng lịch sử của Philippines tại Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye và từ bỏ chủ quyền đất nước tại vùng Biển Tây Philippines (tên Philippines gọi Biển Đông)".
Cả hai nguyên thủ Tập Cận Bình và Duterte đều giảm mức độ quan trọng của vấn đề. Chủ tịch Trung Quốc cho rằng "Trung Quốc và Philippines có rất nhiều lợi ích chung ở Biển Đông" và hai bên sẽ "tiếp tục quản lý các tranh chấp và thúc đẩy trên biển".
Ông Duterte thì nói về "sự tin tưởng sâu sắc hơn" giữa hai quốc gia, và cho biết là ông "hài lòng với động lực tích cực hiện nay trong quan hệ Philippines-Trung Quốc".
Phải nói là với chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, ông Duterte đã có thêm nhiều dấu hiệu chiều chuộng Bắc Kinh và xa rời Mỹ thêm nữa. Trong số các văn kiện hợp tác được ký hôm qua, có một thỏa thuận cho Trung Quốc xây dựng một khu công nghiệp tại Clark, căn cứ không quân trước đây của Mỹ ở Philippines.
Trọng Nghĩa
*********************
Philippines và Trung Quốc ký thỏa thuận hợp tác tìm kiếm dầu khí ở Biển Đông (RFA, 21/11/2018)
Hãng tin Bloomberg hôm 20/11 cho biết Trung Quốc và Philippines vừa ký thỏa thuận khung về tìm kiếm dầu khí ở Biển Đông nhân chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Philippines.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (phải) bắt tay tại buổi họp báo chung ở Manila hôm 20/11/2018 AFP
Lễ ký diễn ra tại Manila dưới sự chứng kiến của Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và được đưa tin trên truyền hình.
Phát biểu tại buổi hộp báo chung, Chủ tịch Tập Cận Bình nói rwangf hai bên đã đồng ý nâng mối quan hệ hai nước thành hợp tác chiến lược toàn diện. Ông nói thêm là điều này đã gửi ra một thông điệp cho thế giới thấy là hai nước đang là đối tác và đang tìm kiếm sự phát triển chung.
Tuy nhiên, trước đó, Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin nói với báo giới rằng thỏa thuận tìm kiếm dầu khí chung giữa hai nước không có tính ràng buộc về pháp lý và chỉ là một thỏa thuận khung cho những đàm phán sắp tới.
Trước đó, trong chuyến thăm tới Brunei hôm 19/11, Chủ tịch Tập Cận Bình và Quốc vương Brunei Sultan Hassanal Bolkiah cũng đã đồng ý sẽ thúc đẩy những hợp tác khai thác dầu khí ở khu vực Biển Đông.
Biển Đông là vùng nước tranh chấp giữa Trung Quốc với một số quốc gia láng giềng ở Châu Á bao gồm Việt nam. Trung Quốc từ lâu vẫn muốn hợp tác khai thác dầu khí chung với một số nước Châu Á đang có tranh chấp về chủ quyền trong khu vực. Tuy nhiên vẫn có những quan ngại về những hợp tác này. Philippines trước đây cũng từng ngừng hợp tác tìm kiếm dầu khí với Trung Quốc ở bãi Cỏ Rong sau khi đệ đơn lên Tòa Trọng Tài Quốc tế để làm rõ những đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc cùng từng gây sức ép với các công ty nước ngoài và Việt Nam về những hoạt động tìm kiếm khai thác dầu khí ngoài khơi vì cho rằng những khu vực đó nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông. Trung Quốc gọi vùng nước trong đường đứt khúc 9 đoạn này là vùng nước lịch sử thuộc Trung Quốc. Tòa Trọng tài Quốc tế đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này trong một phán quyết vào năm 2016.
Một hiện tượng ‘lạ’ đã xảy ra : chỉ một tháng sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis bất ngờ thực hiện chuyến thăm Việt Nam vào trung tuần tháng Mười năm 2018, một quan chức ngoại giao chỉ ở bậc trung cấp của Việt Nam là đại sứ mới của Việt Nam tại Ấn Độ - Phạm Sanh Châu - đã xuất hiện trước báo chí nước này và nói "chúng tôi không muốn thấy bất cứ một liên minh quân sự nào được hình thành bởi vì chúng tôi tin là nó không có lợi cho môi trường an ninh trong khu vực".
Nếu không có ‘Bộ Tứ’ với vai trò rất cụ thể của người Mỹ, chế độ cầm quyền ở Việt Nam sẽ biết dựa vào ai để ‘tiến ra biển lớn’ trước họng súng chỉ chực chờ khạc lửa của ‘bạn vàng’ Bắc Kinh ?
‘Liên minh quân sự’ mà ông Châu đề cập chính là ‘Bộ Tứ’ Mỹ, Úc, Nhật Bản, Ấn Độ - một hợp tác an ninh nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định cho khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Được hỏi liệu Việt Nam có ủng hộ liên minh bốn cường quốc này không, Đại sứ Châu nói : "Nếu bất kỳ nước nào muốn bè phái, sử dụng vũ lực hoặc tìm cách dùng vũ lực, thì điều đó đi ngược lại với quan điểm của Việt Nam", theo Times of India.
Mặc dù chỉ là một quan chức bậc trung, nhưng cách nói của ông Phạm Sanh Châu được hiểu là đại diện cho quan điểm của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đại diện cho cả ‘siêu bộ’ là Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam, kể cả đại diện cho… Trung Quốc.
Từ sau phát biểu của ông Châu, cho tới nay chưa có bất kỳ phản bác hay cải chính nào từ từ các cơ quan hữu quanViệt Nam, cho thấy ông Châu chỉ là một phương tiện để chuyển tải quan điểm của các cấp trên của ông ta.
Như vậy, một lần nữa kể từ năm 2014 là lúc Bộ Chính trị Việt Nam phải chịu cú tát cháy mặt bởi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc khi giàn khoan này xâm phạm vào ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam ở Biển Đông, Việt Nam lại quay trở về với chính sách cố hữu song chẳng có gì là bền vững và hiệu quả của chế độ này : không liên minh quân sự, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại nước khác.
Hoặc hiểu theo một cách khác : Việt Nam vẫn cố duy trì tư thế đu dây chính trị và quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ.
Thế nhưng với cái thế đu dây rất dễ bị té lộn đầu ấy, mà trong thực tế Bộ Chính trị Việt Nam đã bị ‘đồng chí tốt’ Trung Quốc cho té lộn đầu ít nhất hai lần vào năm 2017 và 2018 khi Trung Quốc tung ra các đòn khủng bố về quân sự và ngoại giao tại mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ ở khu vực Bãi Tư Chính mà Việt Nam đang hợp tác với công ty Repsol của Tây Ban Nha để khai thác…, sẽ chẳng có gì giúp cho chế độ độc đảng ở Việt Nam dễ dàng khai thác dầu khí ở không chỉ mỏ Cá Rồng Đỏ mà còn ở mỏ Lan Đỏ và Cá Voi Xanh.
Nếu không tính đến sự trợ giúp trực tiếp của lực lượng hải quân và không quân Mỹ…
Cùng lúc với thông tin chính thức về chuyến thăm Việt Nam bất ngờ vào trung tuần tháng Mười năm 2018 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis, John Bolton - Cố vấn An ninh Mỹ - trong cuộc phỏng vấn của chương trình Hugh Hewitt có tiếng của Mỹ vào ngày 11/10/2018 đã lần đầu tiên nói bóng gió về khả năng Mỹ và Việt Nam sẽ ‘cùng khai thác dầu khí’.
"Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không" - John Bolton nói, tuy không đề cập cụ thể Mỹ sẽ hợp tác khai thác với nước nào trong số các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan.
Trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang nhanh chóng cạn kiệt và đặc biệt đang quá thiếu ngoại tệ để trang trải nợ quốc tế – lên tới 10 - 12 tỷ USD/năm – và để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ các nước, đồng thời phải bảo đảm dự trữ ngoại hối, không thể khác hơn và thật ra cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, hy vọng mỏng manh còn lại của Việt Nam chỉ còn là Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông. Để Việt Nam có thể ‘can đảm bám Mỹ’, ít nhất cho tới lúc nào mục tiêu khai thác dầu khí để bồi hoàn cho một nền ngân sách rỗng ruột của Việt Nam vẫn còn bị Trung Quốc thẳng tay cấm đoán.
Nhưng một tháng sau sự kiện James Mattis đến Việt Nam, rất có thể lại xảy ra một sự cố đáng kể nào đó trong quan hệ Việt - Mỹ mà đã khiến Bộ Chính trị Việt Nam phải bật đèn xanh cho một quan chức bậc trung là Đại sứ Phạm Sanh Châu bật ra phát ngôn phản đối ‘Bộ Tứ’.
Hậu quả tiếp tới là rất rõ : nếu không có ‘Bộ Tứ’ với vai trò rất cụ thể của người Mỹ, chế độ cầm quyền ở Việt Nam sẽ biết dựa vào ai để ‘tiến ra biển lớn’ trước họng súng chỉ chực chờ khạc lửa của ‘bạn vàng’ Bắc Kinh ?
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 23/11/2018
Từ hơn nửa năm nay, chủ trương hợp tác "Bộ Tứ" (bao gồm bốn quốc gia Mỹ-Nhật-Úc-Ấn) tại vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, để kiềm chế thế lấn tới của Trung Quốc, được quảng bá rộng rãi. Thế nhưng vai trò của nước Nga ra sao trong cục diện mới này ?
RFI giới thiệu các nhận định của tiến sĩ Vinay Kaura. Theo chuyên gia Ấn Độ, nếu quan hệ Nga – Nhật nồng ấm, "Bộ Tứ" sẽ dễ bề hợp tác, ngăn chặn tham vọng thống trị của Bắc Kinh.
Cuộc họp 2+2 Nga-Nhật. Từ phải qua trái, bộ trưởng Quốc Phòng Nga Shoigu, ngoại trưởng Nhật Kono, ngoại trưởng Nga Lavrov và bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Onodera, Moskva, 31/07/2018. Reuters/Maxim Shemetov
Bài viết của tiến sĩ Vinay Kaura (1), chuyên gia về quan hệ quốc tế, Đại Học Sarday Patel, bang Rajasthan, được đăng tải hôm qua, thứ Ba 31/07/2018, đúng vào ngày diễn ra cuộc đối thoại theo cơ chế 2+2, giữa các bộ trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng Nga – Nhật.Về phía Nga, có ngoại trưởng Serguei Lavrov và bộ trưởng Quốc Phòng Serguei Choigou, về phía Nhật là ngoại trưởng Taro Kono và bộ trưởng Quốc Phòng Itsomori Onodera.
Đối thoại 2+2 với một quốc gia không đồng minh
Nhà nghiên cứu Ấn Độ đặc biệt chú ý đến cuộc họp Nga – Nhật ngày hôm qua, thứ Ba 31/07/2018, tại Moskva, theo cơ chế 2+2. Vậy vì sao cơ chế này lại được chú ý như vậy ?
Theo tiến sĩ Vinay Kaura, cơ chế 2+2 nói trên vốn chỉ dành cho các đồng minh thân thiết, trong khi đó Nga và Nhật vốn hoàn toàn không phải như vậy, chưa kể trong suốt lịch sử thế kỷ 20, hai quốc gia này lại thường là đối thủ của nhau. Trong cuộc chiến đầu tiên năm 1904-1905, Nhật xâm chiếm lãnh thổ của Nga, và ngược lại trong cuộc chiến thứ hai (Thế Chiến Hai), Nga chiếm đất của Nhật.
Năm 1956, Nhật Bản và Liên Xô ký kết một tuyên bố đình chiến và thiết lập quan hệ ngoại giao, thế nhưng một hiệp đinh hòa bình chính thức song phương vẫn chưa đạt được, do các tranh chấp về lãnh thổ. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Moskva và Tokyo đều giữ khoảng cách. Trong suốt hai thập niên gần đây, nhiều nỗ lực đã được tiến hành để cải thiện quan hệ song phương, nhưng không mấy kết quả.
Chính vì vậy, việc Nga – Nhật thiết lập cơ chế đối thoại 2+2 kể từ tháng 11/2013, được coi là một nỗ lực mang tính đột phá, mang lại hy vọng đưa quan hệ song phương sang một thời kỳ mới (một điều đáng chú ý là Tokyo và Moskva thiết lập cơ chế đối thoại nói trên chỉ một tháng sau khi Mỹ-Nhật thực thi đầy đủ cơ chế đối thoại hai bộ trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng – người viết).
Cuộc khủng hoảng Ukraina, với việc Nga sát nhập bán đảo Crimée của nước này, khiến quan hệ giữa Moskva và Tokyo đột ngột lâm vào khủng hoảng, với việc Nhật Bản tham gia vào các trừng phạt của phương Tây. Tuy nhiên cũng chính Nhật Bản là nước phương Tây đầu tiên nối lại các đối thoại cấp bộ trưởng với Nga. Trong chuyến công du Nhật của tổng thống Nga Putin, tháng 12/2016, một cuộc đối thoại 2+2 lần thứ hai giữa Nga và Nhật đã được tổ chức vào tháng 3/2017 (xem thêm : Hội đàm Nga – Nhật : Bắc Triều Tiên và tranh chấp Kuril là trọng tâm).
Trung Quốc : Nga vừa hợp tác, vừa lo
Vì sao Nhật Bản nỗ lực để cải thiện quan hệ quốc phòng và ngoại giao với Nga ?
Theo chuyên gia Ấn Độ, một trong lý do cơ bản để Tokyo hết sức cố gắng để cải thiện quan hệ với Nga là để không cho Moskva và Bắc Kinh xích lại gần nhau, đặc biệt về mặt quân sự, bởi một trục Nga – Trung khăng khít sẽ gây khó khăn cho các hợp tác chiến lược khác của Nhật, đặc biệt trong đó có trục hợp tác Bộ Tứ, bao gồm Mỹ - Nhật - Ấn và Úc (tức Quad - chữ viết tắt của Quadrilateral Security Dialogue).
Như vậy, việc quan hệ Nga – Nhật nồng ấm không chỉ có ý nghĩa cho quan hệ song phương, mà còn mang lại một thay đổi hết sức quan trọng cho cục diện chiến lược của toàn bộ châu Á.
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe ý thức rõ môi trường an ninh phức tạp ở Đông Bắc Á, nơi có một Trung Quốc đang ngày càng độc đoán, một Bắc Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân, trong khi đó chính sách của Hoa Kỳ ngày càng trở nên khó lường đoán, khi nhà tỉ phú Donald Trump tiền hậu bất nhất trị vì tại Nhà Trắng.
Một đối trọng với Bắc Kinh
Triển vọng hợp tác Nga - Nhật trong tình thế mới này ra sao ?
Trước hết phải ghi nhận là, về phía nước Nga, Moskva có nhiều quan hệ mật thiết với Bắc Kinh về kinh tế và chiến lược. Một liên minh khăng khít với Trung Quốc, có thể giúp chính quyền Putin củng cố uy thế trên trường quốc tế, thế nhưng Moskva cũng không muốn hỗ trợ cho tham vọng gia tăng của Trung Quốc, muốn trở thành "siêu cường châu Á duy nhất", tạo nên một hệ thống lưỡng cực mới, trong thế đối đầu với Hoa Kỳ.
Để tránh phụ thuộc vào Trung Quốc về mặt "chiến lược", Nga cũng cố gắng phát triển các quan hệ với các cường quốc châu Á khác, đặc biệt là với Nhật Bản và Việt Nam. Chính quyền Putin hiểu rằng có thể sử dụng quan hệ với Nhật Bản để đối trọng với Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Moskva và Tokyo liên tục có các thương lượng để tìm ra một giải pháp bền vững cho xung đột chủ quyền lâu nay, liên quan đến quần đảo Kuril, do Nga kiểm soát, mà Nhật Bản gọi là "các vùng lãnh thổ phương Bắc". Những vùng lãnh thổ mà, theo Tokyo, đã bị quân đội Liên Xô chiếm đóng từ năm 1945.
Nhật cũng có nhiều kế hoạch hợp tác kinh tế với Nga tại các đảo tranh chấp, để tăng cường lòng tin. Cụ thể là trong năm lĩnh vực, nghề cá, trồng cây trong nhà kính, du lịch, năng lượng gió và xử lý rác thải. Moskva hiện đang xem xét ký kết một thỏa thuận với Nhật, xây một cây cầu dài 28 hải lý, nối liền hòn đảo Sakhalin của Nga, với đảo lớn Hokkaido, cực bắc Nhật Bản.
Đặc biệt là Nhật và Nga đang hướng đến các hợp tác an ninh mật thiết. Cuốn Sách Xanh mới nhất của bộ Ngoại Giao Nhật (Diplomatic Bluebook 2017) mô tả quan hệ song phương với Nga là "có tiềm năng hết sức lớnlao", đồng thời khẳng định quan hệ này sẽ đóng góp cho hòa bình và ổn định khu vực (xem thêm : Nga muốn tổ chức thượng đỉnh Nam-Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản).
Nhân tố hàn gắn
Về phần mình, Ấn Độ có thể làm gì để thúc đẩy quan hệ Nga – Nhật ?
Ấn Độ không chỉ hợp tác mật thiết với Nga mà cả với Nhật. Đây là hai quốc gia duy nhất mà New Delhi tổ chức hàng năm các hội kiến ở cấp thượng đỉnh, với Nga là từ năm 2000, và với Nhật là từ năm 2006. Quan hệ đặc biệt, lâu bền này khiến Ấn Độ có thể trở thành một nhà trung gian, hay một nhà môi giới hòa giải, mà Moskva và Tokyo có thể mời đến, mỗi khi quan hệ song phương Nhật – Nga gặp trục trặc.
Moskva vốn nhìn Bộ Tứ Ấn Độ -Thái Bình Dương với cặp mắt ngờ vực. Nhưng Ấn Độ và Nhật Bản cũng là thành viên của Bộ Tứ. Nếu cảm thấy bị liên minh Bộ Tứ đe dọa, Nga có thể siết chặt quan hệ với Trung Quốc. Chính ở đây mà Nhật Bản và Ấn Độ có vai trò rất lớn trong việc gây dựng lòng tin với Nga. Bởi hai quốc gia châu Á này không chia sẻ quan điểm của chính quyền Mỹ, coi nước Nga là một "thách thức lớn về an ninh", một quốc gia gây bất ổn. Như vậy, Bộ Tứ, với hai thành viên Nhật - Ấn, chắc chắn sẽ không phải là một khối lập ra để đối đầu với Nga.
Trong lúc Ấn Độ thể hiện rõ ràng là không làm gì để bị coi như là ngăn chặn lợi ích hay ảnh hưởng của Nga, thì Nhật Bản vẫn tiếp tục đón tiếp các quan chức quân sự cao cấp của Nga vốn bị phương Tây trừng phạt. Cuộc gặp không chính thức giữa thủ tướng Ấn và tổng thống Nga tháng 5/2018 tại Sotchi cũng chính là dịp để New Delhi khẳng định Nga không phải là đối tượng của liên minh Bộ Tứ (2).
Chuyên gia Ấn Độ kết thúc bài phân tích với nhận định : quan hệ Nga với Trung Quốc không tránh khỏi những mặt tiêu cực. Mỗi lần như vậy Moskva có thể tìm lại thế cân bằng thông qua mối quan hệ chiến lược với Nhật Bản và Ấn Độ.
Vinay Kaura
Trọng Thành dịch
Nguồn : RFI, 01/08/2018
Ghi chú :
(1) Tiến sĩ Vinay Kaura là phó giáo sư khoa Quan hệ Quốc tế và Nghiên cứu An ninh, Đại Học Sardar Patel (Sardar Patel University of Police, Security, and Criminal Justice).
(2) Nhà nghiên cứu Vinay Kaura tỏ ra không mấy tin tưởng vào diễn biến "tích cực" mới đây trong quan hệ Ấn – Trung, sau thượng đỉnh Tập Cận Bình – Narendra Modi tại Vũ Hán, cuối tháng 4/2018. Theo ông, "thỏa thuận Vũ Hán" chỉ có ý nghĩa như một sự hòa hoãn, khiến vùng biên giới phía bắc của Ấn Độ tạm thời không bị Trung Quốc quấy phá.
Mỹ cho B-52 bay sát đảo nhân tạo xây dựng trái phép của TQ ở biển đông (CaliToday, 06/06/2018)
Hoa Kỳ thực hiện hành động mới nhất ở biển Đông là cho hai máy bay ném bom chiến lược B-52 bay sát với các đảo nhân tạo mà Trung Quốc cho xây cất một cách trái phép ở Biển Đông, khiến không khí căng thẳng càng gia tăng.
Hoa kỳ không chịu ngồi yên khi thấy Trung Quốc bành trướng biển đông. Photo Credit : AP
Theo CNN thì Ngũ Giác Đài loan báo các phi cơ này đang trong một nhiệm vụ huấn luyện, đã cất cánh từ đảo Guam và bay ngay trên quần đảo Trường Sa hôm qua.
Hãng tin Reuters cho hay hai phi cơ này đã thách thức rêu rao của giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc, vốn cứ khẳng định là bất cứ tàu hay phi cơ quân sự ngoại quốc nào cũng không ngăn cản được quyết tâm bảo vệ "toàn vẹn lãnh thổ" của Trung Quốc.
Vụ bay trong bầu trời Biển Đông là hành động mới nhất của Hoa Kỳ cho thấy Washington cũng không ngần ngại quyết tâm thi hành quyền tự do hải hành trong khu vực, vốn có nhiều tiềm năng hải sản, dầu mỏ và cũng là con đường huyết mạch cho nhiều tàu bè buôn bán của thế giới qua lại hàng năm.
Trong tháng 5, Bắc Kinh cũng cho các máy bay ném bom có khả năng chở theo vũ khí nguyên tử H-6K đáp xuống lần đầu tiên ở đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa, một hành động làm lo lắng nhiều nước trong khu vực. Theo giới chỉ huy Không Quân Trung Quốc, đây cũng là những chuyến bay ‘thực tập’
Trung Quốc còn trắng trợn nói các máy bay ném bom này nằm trong kế hoạch chuẩn bị cho "chiến cuộc Biển Đông". Quả thật, trong đợt thao diễn này, các chiến đấu cơ của Trung Quốc đã nhào lộn bắn hỏa tiễn vào các mụ ctiêu giả định trên biển.
Phát ngôn nhân Hoa Xuân Oánh của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã cảnh cáo Hoa Kỳ, sau khi hai máy bay B-52 bay xong, là ‘phải tránh những hành động không kiểm soát như thế, vì như thế rất nguy hiểm’ và tố cáo Hoa Kỳ muốn ‘quân sự hóa’ Biển Đông.
Đào Nguyên (theo Newsweek)
***************************
Bắc Kinh có thể đã tháo gỡ các hỏa tiễn tại vùng Biển Đông (CaliToday, 06/06/2018)
Bắc Kinh có thể đã tháo gỡ các hệ thống hỏa tiễn đạn đạo tại một trong những hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông ngay cả khi họ cáo buộc Hoa Kỳ gửi những "vũ khí tấn công" đến khu vực.
Bắc Kinh có thể đã tháo gỡ các hệ thống hỏa tiễn đạn đạo tại một trong những hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông - Photo CNN
Việc thiết lập một số hệ thống hỏa tiễn đạn đạo trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong tháng 5 đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy giận dữ từ Washington về việc "quân sự hóa" của Bắc Kinh. Hầu hết trong vùng tranh chấp này Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
Sau đó một pháo đài bay B-52 đã bay qua trên quần đảo Trường Sa trong tuần này, mà Hoa Kỳ cho biết là một phần của "chương trình huấn luyện thường lệ".
Phân tích mới từ cơ quan tình báo Do Thái, Israel Image Sat International (ISI) cho thấy các hệ thống hỏa tiễn đạn đạo của Trung Quốc có thể đã bị loại bỏ hoặc dời đi.
Hôm thứ Tư, Bắc Kinh cho biết Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, quân sự hóa khu vực.
"Tôi hy vọng Mỹ có thể giải thích cho tất cả mọi người : Không phải là quân sự hóa khi Mỹ gửi vũ khí tấn công như pháo đài bay B-52 tới Biển Đông ? Có phải B-52 qua đó vì "tự do hàng hải và tự do không phận ? Nếu một quốc gia nào biểu dương vũ lực và nhúng vào chuyện chung quanh gần lãnh thổ của một nước khác thì quốc gia đó có hay không nên nâng cao sự đề phòng và phát triển khả năng phòng thủ của họ ?" - Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hua Chunying cho biết tại một cuộc họp báo thường xuyên.
"Trung Quốc sẽ không bị đe dọa bởi bất kỳ phi cơ hay chiến hạm nào. Chúng tôi sẽ cương quyết hơn trong quyết tâm thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh cũng như duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông".
Hình ảnh vệ tinh trước đây cho thấy một số dàn phóng hỏa tiễn và một hệ thống radar trên bờ đảo tranh chấp Woody trong chuỗi đảo Hoàng Sa, được bao phủ bởi lưới ngụy trang.
Những trang bị đó đã biến mất theo những gì ISI nói có thể quyết định của Bắc Kinh loại bỏ, hoặc di chuyển đến một địa điểm khác trong vùng tranh chấp Biển Đông.
"Mặt khác, sự kiện này có thể là một cuộc thao dợt thường xuyên", tình báo ISI cho biết. "Nếu vậy, trong vài ngày tới, chúng ta có thể quan sát sự thiết lập các trang bị quân sự đó trong cùng một khu vực".
Các nhà phân tích khác đồng ý có thể là do các hỏa tiễn đạn đạo không phù hợp với việc vị trí vì có thể dễ bị hư hại do nước mặn, và do đó có thể đang được thay thế hoặc sửa chữa.
Trong những tháng gần đây, các viên chức Mỹ đã nói rằng quân đội Trung Quốc đã thiết lập các hỏa tiễn chống chiến hạm, hệ thống hỏa tiễn địa đối không và các thiết bị làm nhiễu điện tử đến các đặc điểm tranh chấp trong khu vực đảo Trường Sa của Biển Đông.
Trung Quốc cũng vừa hạ cánh một chiếc máy bay ném bom H-6K có khả năng hạt nhân trên đảo Woody lần đầu tiên.
Sau khi Mỹ phản đối việc thiết lập các hỏa tiễn đạn đạo trên Quần đảo Trường Sa, Trung Quốc tuyên bố đó là "các cơ sở quốc phòng cần thiết", và nhắc lại "chủ quyền không thể tranh cãi" của Bắc Kinh trên lãnh thổ này.
Đáp lại, Hoa Kỳ đã loại Trung Quốc khỏi một cuộc tập trận hàng hải lớn vào hàng quốc tế ở Thái Bình Dương liên quan đến hơn 20 quốc gia, theo những gì một nhà phân tích nói "những ngày nhân nhượng đã chấm dứt".
"Cho dù Trung Quốc có tuyên bố gì đi nữa, việc đặt các hệ thống vũ khí này cho thấy chúng sẽ trực tiếp dùng vào mục đích sử dụng quân sự đe dọa và cưỡng chế", Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis cho biết tại một hội nghị thượng đỉnh tại Singapore tuần này.
"Đừng nhầm lẫn : Hoa Kỳ đang hiện diện tại Ấn Độ-Thái Bình Dương và sẽ ở lại lâu dài. Đây là sự ưu tiên của chúng tôi", Ông Mattis nói
Các đại biểu khác đến hội họp các vấn đề quốc phòng trong khu vực cũng bày tỏ lo ngại về hoạt động quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và những nỗ lực phá bỏ "trật tự theo luật lệ" của họ.
Ngọc Thạch (theo CNN)
*********************
Nhật chặn máy bay Trung Quốc do thám lúc Đài Loan tập trận (RFI, 06/06/2018)
Không quân Nhật Bản đã ngăn chặn một chiếc phi cơ do thám Trung Quốc bay sát không phận Đài Loan trong ngày khởi động cuộc tập trận thường niên Hán Quang (Han Kuang) hôm thứ Hai. Tờ Taipei Times hôm nay 06/06/2018 cho biết như trên.
Đài Loan : Một cảnh cuộc tập trận Hán Quang (Han Kuang) ngày 5/06/2018. Military News Agency /Handout via Reuters
Chiếc máy bay thuộc loại Shaanxi Y-9 đã bay từ Biển Hoa Đông đến Tây Thái Bình Dương, đi qua eo biển Miyako rồi hướng về phía nam qua kênh Ba Sĩ (Bashi) trước khi quay về Trung Quốc, theo bộ Quốc Phòng Nhật Bản. Còn bộ Quốc Phòng Đài Loan nói rằng phi cơ do thám này muốn thu thập các dữ liệu của hệ thống radar, và quân đội Đài Loan luôn theo dõi tình hình.
Trong cuộc tập trận Hán Quang, không quân và hải quân Đài Loan được triển khai hôm thứ Hai 4/6 sau khi có tin tức tình báo giả định là Trung Quốc sắp tấn công. Các chiến đấu cơ General Dynamiques F-16, Dassault Mirage 2000 và AIDC F-CK-1 (Kinh Quốc) cất cánh từ căn cứ ở Hoa Liên (Hualien). Còn hải quân tiến hành sơ tán các tàu tại nhiều quân cảng đến các vùng an toàn, chuẩn bị phản công.
Trên đất liền, hôm qua 5/6 quân đội Đài Loan tiến hành 25 phút tập trận bắn đạn thật gần sông Đạm Thủy (Tamsui), đẩy lùi cuộc đổ bộ giả định của quân Trung Quốc với các chiến xa, hỏa tiễn chống tăng, moọc-chê. Theo tướng Lại Vinh Kiệt (Lai Rong Jie), sông này là phòng tuyến cuối cùng bảo vệ thủ đô Đài Bắc cách đó 22 km. Tổng thống Thái Anh Văn đã thị sát cuộc tập trận bắn đạn thật này.
Biển Đông : B-52 bay qua Trường Sa, Trung Quốc phản đối
Liên quan đến Biển Đông, hôm nay 06/06/2018, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh phản đối việc Hoa Kỳ điều hai pháo đài bay B-52 đến gần quần đảo Trường Sa, cho rằng Mỹ chỉ "thổi phồng việc quân sự hóa và gây ra những rắc rối".
Thụy My
*******************
Ấn Độ cụ thể hóa chiến lược Đông Nam Á thách thức Trung Quốc (RFI, 06/06/2018)
Báo India Today ngày 05/06/2018 tiết lộ : sau khi rời Việt Nam vào hạ tuần tháng Năm, đội chiến hạm được Ấn Độ triển khai làm nhiệm vụ trong vùng Đông Á và Đông Nam Á đã bị tàu quân sự Trung Quốc bám đuôi trên vùng biển quốc tế để dọ thám.
Ảnh minh họa : Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (G) và phó thủ tướng Malaysia Wan Azizah (P) cùng ông Anwar Ibrahim (T) tại Sepang, Malaysia, ngày 31/05/2018. Department of Information/Muhairul Azman via Reuters
Hành vi thiếu thân thiện của Trung Quốc thể hiện rõ thêm thái độ tức tối của Bắc Kinh trước việc New Delhi ngày càng tăng cường sự hiện diện tại vùng Biển Đông, với một chiến lược Đông Nam Á càng lúc càng rõ nét
Mục tiêu được tuyên bố của Ấn Độ là góp phần kiến tạo một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương "vận hành trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế", một nhóm từ đã trở thành đồng nghĩa với chống lại các hành vi bành trướng, coi thường luật lệ quốc tế mà Trung Quốc đang áp đặt, đặc biệt là tại Biển Đông.
Trong một bài phân tích ngày 03/06/2018, hãng tin Anh Reuters đã nêu bật nỗ lực mới nhất của Ấn Độ được ghi nhận nhân dịp giới lãnh đạo quốc phòng các nước quan tâm đến an ninh Châu Á tề tựu về Singapore trong ba ngày 01-03/06 để tham gia Đối Thoại Shangri La.
Theo Reuters, trong dòng thời sự đáng chú ý với thượng đỉnh Mỹ-Bắc Triều Tiên và tranh chấp thương mại Mỹ-Trung, Ấn Độ đã bình thản tiến thêm một bước trong việc củng cố quan hệ ngoại giao và an ninh ở Đông Nam Á trong một động thái rõ ràng là thách thức Trung Quốc.
Đối với hãng tin Anh, dĩ nhiên người ta vẫn có thể tự hỏi là Ấn Độ sẽ thúc đẩy những quan hệ đó đi xa đến đâu vì đã từng hứa hẹn từ nhiều năm qua, trong bối cảnh là nước này sẽ bầu lại Quốc Hội trong không đầy một năm, khiến thủ tướng Modi bị phân tâm. Bên cạnh đó, cho dù đã chọc giận Trung Quốc, nhưng New Delhi rõ ràng là không muốn đối đầu trực diện với Bắc Kinh.
Những đề xuất cụ thể mới của thủ tướng Modi
Thế nhưng phải công nhận rằng trong những ngày gần đây, thủ tướng Ấn Độ đã đưa ra nhiều bước cụ thể về ngoại giao và an ninh ở Đông Nam Á.
Ấn Độ đã ký với Indonesia thỏa thuận phát triển một cảng ở thành phố Sabang nhìn ra lối vào phía tây của eo biển Malacca, một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất hành tinh. New Delhi đồng thời thỏa thuận với Singapore về cung cấp hậu cần cho tàu chiến, tầu ngầm, máy bay quân sự trong các chuyến ghé cảng.
Ông Modi cũng đã bay sang Kuala Lumpur trong một chuyến thăm lên chương trình vào giờ chót để tiếp xúc với tân thủ tướng Malaysia Mahathir, và qua đó thắt chặt thêm quan hệ với ba nước có ảnh hưởng nhất ở Đông Nam Á.
Hôm 01/06 vừa qua, ở Đối Thoại Shangri La tại Singapore, hội nghị an ninh hàng đầu tại Châu Á, ông Modi tuyên bố sẽ cùng làm việc với các quốc gia ASEAN để phát huy trật tự dựa trên luật pháp ở vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương.
Trong bài dẫn đề (keynote speech) tại Đối Thoại Shangri La, thủ tướng Ấn Độ xác định : "Chúng tôi sẽ làm việc cùng với ASEAN, với riêng từng nước hay trên thể thức 3 quốc gia hay nhiều hơn, để bảo đảm ổn định và hòa bình trong vùng".
Nhiều đại biểu tại hội nghị trong đó có cả bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis đã lên tiếng ủng hộ.
Khi hội nghị an ninh kết thúc hôm Chủ Nhật 03/06, bộ trưởng Quốc Phòng Singapore Ng Eng Hen đã đánh giá : "Tôi chắc chắn là nhiều quốc gia đã vui mừng khi thấy Ấn Độ chứng tỏ quyết tâm dấn thân rõ ràng vào khu vực".
Trung Quốc tỏ thái độ lạnh nhạt
Cụm từ "Ấn Độ-Thái Bình Dương" ngày càng được sử dụng trong thời gian gần đây, trong giới ngoại giao và an ninh ở Hoa Kỳ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản, thay cho khái niệm "Châu Á Thái Bình Dương" mà theo một số người là quá đặt Trung Quốc vào trọng tâm.
Như một sự thừa nhận vị trí ngày càng lớn của Ấn Độ trong khu vực, Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ ở Hawaii đã chính thức đổi tên thành Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương trong một buổi lễ tổ chức vào ngày thứ Tư 30/05 tuần qua.
Cho dù bề ngoài hai nước Ấn Độ và Trung Quốc đều tỏ thái độ hữu nghị, và trong diễn văn của mình, thủ tướng Modi cũng nói đến quan hệ mạnh mẽ giữa hai nước, Bắc Kinh đã lạnh lùng phản bác chiến lược của thủ tướng Ấn Độ.
Trong bài xã luận tuần qua, Hoàn Cầu Thời Báo cảnh báo : "Nếu quả thực là Ấn Độ thật sự muốn cho quân đội tiếp cận cảng chiến lược Sabang, thì họ đã tính toán sai lầm khi lao vào một cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc với khả năng tự làm phỏng tay".
Đại tá Triệu Hiểu Trác (Zhao Xiaozhuo), thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Quân Sự Trung Quốc đã nói với báo giới bên lề hội nghị Shangri La là ông Modi "đã có những đánh giá riêng về những gì ông nghĩ về khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương". Nhân vật này không nói chi tiết nhưng Hoàn Cầu Thời Báo đã trích lời ông cho rằng : "Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương và liên minh giữa Mỹ, Úc, Nhật, Ấn Độ sẽ không tồn tại lâu dài".
Mục tiêu của Ấn Độ rộng lớn hơn
Các quan chức bộ ngoại giao Ấn Độ công nhận rằng nỗ lực của New Delhi nhằm bảo đảm an toàn cho tuyến hàng hải qua eo biển Malacca xuất phát từ một động cơ tư lợi mạnh mẽ : đó là vì 60% ngoại thương Ấn Độ đi qua ngã này. Thế nhưng dấu ấn của Ấn Độ có vẻ rộng lớn hơn.
Hạ tuần tháng Năm vừa qua, 3 tàu chiến của Ấn Độ đã cùng với Hải Quân Việt Nam lần đầu tiên tập trận tại Biển Đông, nơi mà Trung Quốc đòi chủ quyền hầu như toàn bộ.
Thủy thủ tàu ngầm Việt Nam cũng được huấn luyện tại Ấn Độ trong lúc hai bên gia tăng việc chia sẻ thông tin tình báo và xem xét khả năng mua bán vũ khí tối tân.
Ở phía tây, Ấn Độ ký thỏa thuận để tiếp cận cảng Duqm trên bờ biển phía nam Oman, trong chuyến viếng thăm của thủ tướng Modi vào đầu năm nay. Với thỏa thuận đó, theo nguồn tin báo chí, Hải Quân Ấn Độ có thể sử dụng cảng Duqm cho vấn đề hậu cần và tiếp liệu,cho phép Ấn Độ thực hiện những chiến dịch dài hạn ở phía tây Ấn Độ Dương.
Vào tháng Giêng, Ấn Độ cũng đã đúc kết một thỏa thuận trao đổi với Pháp theo đó Ấn Độ có thể sử dụng những cơ sở quân sự của Pháp ở Ấn Độ Dương.
Các nhà phân tích cho rằng một Ấn Độ quyết đoán hơn sẽ giúp giảm bớt các mối quan ngại ở Đông Nam Á về sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng và mối lo ngại về khả năng Mỹ lơ là khu vực.
Theo các chuyên gia này, tranh chấp thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, cũng như sự đảo ngược trong chính sách đối ngoại của Mỹ, đang tìm kiếm hòa bình với Bắc Triều Tiên, đã làm nhiều nước trong vùng bất an.
Ông C. Raja Mohan, giám đốc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Đại học Singapore nhận định : "ASEAN đã bị sức ép là phải đa dạng hóa quan hệ an ninh, tìm kiếm những đảm bảo khác", thay vì chỉ dựa vào Mỹ. "Một Ấn Độ năng động rất phù hợp với tình hình đó".
Tuy nhiên, theo chuyên gia Mohan, cho dù ông Modi đã khởi động mạnh mẽ, nhưng chưa rõ là chiến lược của ông bền vững như thế nào :
"Thực hiện các chiến lược luôn luôn là một vấn đề đối với Ấn Độ. Ông Modi đang cố sức tăng cường khả năng của New Delhi thực hiện những chủ trương bên ngoài biên giới. Đã có một số tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều thách thức mang tính chất cơ cấu".
Mai Vân
Mỹ : Sẽ tiếp tục chống Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông (RFI, 30/05/2018)
Sau các cử chỉ cụ thể để cảnh cáo Trung Quốc về việc đưa vũ khí hạng nặng xuống Biển Đông và quân sự hóa các đảo họ bồi đắp trong vùng đang có tranh chấp với các láng giềng, Mỹ tiếp tục cứng giọng với Bắc Kinh : Trên đường bay đến Hawaii để tham dự lễ bàn giao quyền chỉ huy Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis ngày 29/05/2018 tuyên bố: Washington sẽ tiếp tục đối đầu với các hành vi quân sự hóa Biển Đông của Bắc Kinh.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis phát biểu với báo giới trên máy bay đến Hawaii ngày 29/05/2018.Thomas WATKINS / AFP
Theo hãng tin Pháp AFP, phát biểu với các nhà báo tháp tùng theo ông đến Hawaii, rồi sau đó qua Singapore tham gia Đối Thoại An Ninh Shangri La vào đầu tháng Sáu, ông Mattis ghi nhận thực tế là cho đến nay "dường như chỉ có một nước duy nhất (là Mỹ) là đã có những biện pháp cụ thể để tố cáo các hành vi đó (của Trung Quốc)" trên Biển Đông.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục cho thấy sự hiện diện của mình tại Biển Đông vì "đó là vùng biển quốc tế nơi nhiều quốc gia muốn được quyền đi lại tự do".
Theo ông Mattis, chiến hạm Mỹ đang duy trì những hoạt động hải quân đều đặn quanh các hòn đảo có tranh chấp, và cho đến nay cũng "chỉ có duy nhất một quốc gia" - ám chỉ Trung Quốc - là có dấu hiệu bị hoạt động thường lệ của tàu Mỹ làm phiền.
Đối với bộ trưởng Quốc Phòng Mattis, dù mở rộng hợp tác với các nước vùng Thái Bình Dương, nhưng Hoa Kỳ "sẽ đối đầu với những hành vi bị cho là không phù hợp với luật pháp quốc tế, với những gì mà các tòa án quốc tế đã nói về vấn đề này".
Lời khẳng định được bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ nhấn mạnh khi ông trở lời câu hỏi của một phóng viên về vụ Bắc Kinh lên tiếng cực lực phản đối việc Hải Quân Mỹ, hôm 27/05, đã cho hai chiến hạm tiến vào thao tác bên trong vùng 12 hải lý quanh quần đảo Hoàng Sa mà Bắc Kinh đã chiếm trọn từ tay Việt Nam vào năm 1974, xây dựng trên đó nhiều cơ sở quân sự và bố trí chiến đấu cơ, tên lửa.
Giải thích về các quyết định cứng rắn mới đây của Mỹ đối với Trung Quốc, trong đó có việc không mời Trung Quốc tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2018, ông Mattis cho rằng Bắc Kinh đã nuốt lời cam kết không quân sự hóa Biển Đông, và "khi người Trung Quốc hành động thiếu minh bạch với chúng ta, thì chúng ta không thể tiếp tục hợp tác với họ trong một số lĩnh vực".
Ông Mattis cho biết thêm là các vấn đề kể trên cũng sẽ được ông đề cập một cách mạnh mẽ với phía Trung Quốc khi ông đến Singapore vào cuối tuần để dự Đối Thoại Shangri-La, diễn đàn an ninh lớn nhất Châu Á.
Trung Quốc sách nhiễu tàu hải quân Philippines trên Biển Đông
Theo hãng tin Mỹ AP, hai quan chức Philippines xin giấu tên đã tiết lộ ngày 30/05/2018 rằng Manila mới đây đã kín đáo phản đối Bắc Kinh về vụ tàu Trung Quốc đã cho máy bay trực thăng lượn sát bên trên một chiếc tàu của Hải Quân Philippines tại vùng Trường Sa.
Vụ việc xẩy ra ngày 11/05 khi một chiếc tàu Philippines chuyên chở hàng tiếp tế đến cho toán thủy quân lục chiến Philippines đồn trú trên bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), do Philippines kiểm soát tại Trường Sa, nhưng đang bị Trung Quốc bao quanh.
Theo nguồn tin trên thì gần đây, Philippines và Trung Quốc đã tổ chức đàm phán để ngăn chặn không cho sự cố như trên tái diễn.
Trọng Nghĩa
*******************
Đảng cầm quyền Nhật muốn trang bị hàng không mẫu hạm (RFI, 30/05/2018)
Theo báo chí Nhật hôm 29/05/2018, đảng cầm quyền LDP của thủ tướng Shinzo Abe đã kêu gọi bỏ mức trần chi quốc phòng xưa nay là 1% GDP, đồng thời ủng hộ việc chuyển đổi chiến hạm chở trực thăng Izumo thành hàng không mẫu hạm, trước mối đe dọa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc.
Ảnh tư liệu : Tàu chở trực thăng Izumo, Nhật Bản. Ảnh ngày 6/12/2016.Reuters
Đề nghị này được đưa ra vào lúc chính quyền Nhật Bản phải hoạch định chính sách quốc phòng mới trước cuối năm nay. Đảng LDP nhấn mạnh, nước Nhật "đang đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn nhất thời hậu chiến", với chương trình hỏa tiễn và nguyên tử Bắc Triều Tiên và sự hiện diện quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc trên biển.
Việc có được một hàng không mẫu hạm đa năng sẽ tạo ưu thế cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Nhật cũng cần có khả năng tấn công vào các căn cứ tên lửa của địch, sở hữu các hỏa tiễn hành trình, củng cố cả ba binh chủng hải lục không quân và lực lượng an ninh mạng.
Với mục tiêu đầy tham vọng này, LDP cho rằng cần bỏ ngưỡng tâm lý lâu nay là giữ mức trần chi quốc phòng không quá 1% GDP, nêu ra ví dụ chi quân sự của các quốc gia thành viên NATO là 2% GDP.
Các đề nghị trên đây của đảng LDP sẽ được chính thức trình lên thủ tướng Shinzo Abe, sớm nhất vào tuần tới.
Thụy My
****************
Indonesia và Ấn Độ sẽ xây cảng quân sự ở Ấn Độ Dương (RFI, 30/05/2018)
Hai nhà lãnh đạo Indonesia và Ấn Độ hôm nay 30/05/2018 tại Jakarta thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng, đặc biệt là hải quân, với kế hoạch triển khai một cảng quân sự của Indonesia trên Ấn Độ Dương.
Tổng thống Indonesia Joko Widodo (trái) tiếp đón thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (phải) tại Jakarta, ngày 30/05/2018. Reuters/Darren Whiteside
Tổng thống Indonesia Joko Widodo khi tiếp kiến thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, đã nêu ra việc phát triển cơ sở hạ tầng và khu kinh tế ở Sabang, nằm giữa đảo Sumatra và eo biển Malacca - một trong những kênh thương mại nhộn nhịp nhất. Ông Widodo tuyên bố Ấn Độ là đối tác chiến lược về quốc phòng.
Theo các nhà phân tích, động thái này là do đôi bên cùng quan ngại trước ảnh hưởng ngày càng lớn của hải quân Trung Quốc trong khu vực.
Tuy không yêu sách chủ quyền Biển Đông, nhưng Indonesia tranh chấp quyền đánh cá với Trung Quốc xung quanh quần đảo Natuna, và đã tăng cường sự hiện diện quân sự tại đây. Tuần trước, bộ trưởng Hàng Hải Indonesia Luhut Pandjaitan nói rằng cảng Sabang hiện tại có độ sâu 40 mét, có thể cải tạo để đón tiếp không chỉ tàu buôn mà cả các tàu ngầm trong tương lai.
Đối với thủ tướng Ấn, đây là một phần của chính sách "Hành động hướng Đông" nhằm siết chặt quan hệ với các nước ASEAN. Ông nói : "Quan hệ đối tác giữa Ấn Độ và ASEAN phải trở thành sức mạnh bảo đảm hòa bình, tiến bộ tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương và xa hơn nữa".Thủ tướng Narendra cho biết New Delhi có thể hỗ trợ xây dựng các cảng biển và phi cảng tại Đông Nam Á.
Thụy My
*******************
Úc rà soát luật tình báo vào lúc lo ngại gián điệp Trung Quốc gia tăng (RFI, 30/05/2018)
Nhân vật phụ trách pháp lý của chính quyền Úc hôm nay 30/05/2018, cho biết là Canberra sẽ xem xét lại các luật lệ của mình về gián điệp. Thông tin này được đưa ra vào lúc nước Úc đang tìm cách củng cố các cơ quan phản gián đang phải hoạt động căng thẳng vừa để chống hiểm họa khủng bố, vừa lo lắng về ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc.
Ảnh minh họa : Tổng chưởng lý Úc Christian Porter (trái) và chủ tịch Hạ Viện Christopher Pyne trả lời họp báo ở Nghị Viện tại Canberra, ngày 9/05/2018. AAP/Lukas Coch/via Reuters
Trong nhiều năm qua, Úc đã tăng ngân sách và quyền hạn cho các cơ quan cảnh sát và gián điệp tăng cường khả năng chống khủng bố. Tuy nhiên, từ tháng 12 năm ngoái, 2017, để đối phó với những "phúc trình đáng lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc", chính phủ đã chuyển sự chú ý qua những hành vi xen vào nội tình chính trị Úc và loan báo việc siết chặt luật lệ về các khoản quyên góp chính trị và đặt ra ngoài vòng pháp luật những hành vi can thiệp từ nước ngoài.
Phát biểu trên một đài phát thánh ở thành phố Adelaide, ông Christian Porter, tổng chưởng lý Úc khẳng định rằng tình hình mới, với sự gia tăng của các hoạt động tình báo, can thiệp, tăng cường ảnh hưởng của nước ngoài, cộng thêm với những hành vi khủng bố ngay trong nước, đòi hỏi việc rà soát lại toàn bộ hệ thống đối phó "từ đầu đến cuối". Ông đồng thời xác định rằng luật tình báo của Úc sẽ không nhắm vào "bất kỳ một quốc gia nào cụ thể".
Tiến trình rà soát sẽ kéo dài 18 tháng và đã được giao cho cựu giám đốc tình báo Úc Dennis Richardson chịu trách nhiệm. Vào năm ngoái, nhân vật này đã lên tiếng cảnh báo là Trung Quốc đang tiến hành những hoạt động gián điệp rộng rãi chống lại nước Úc.
Giáo sư Greg Barton, một chuyên gia an ninh tại Đại học Deakin ở Melbourne xác nhận rằng đối phó với Trung Quốc sẽ là một công việc không dễ dành do năng lực và tham vọng to lớn của nước này.
Trọng Nghĩa