Khía cạnh chiến lược của hiệp ước Australia-Anh-Mỹ rất vững chắc. Nhưng những nghi ngờ về mặt kỹ thuật và chính trị đang gia tăng.
Ngày 13/03/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden phát biểu tại căn cứ hải quân Point Loma tại San Diego (California) về AUKUS
AUKUS đang tiếp tục làm dậy sóng trên khắp Thái Bình Dương. Được công bố vào năm 2021, hiệp ước ba bên này xoay quanh việc Australia mua các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân từ Mỹ và Anh.
Đối với chính quyền Biden, AUKUS đã nhanh chóng trở thành trung tâm trong nỗ lực nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc. Đối với Australia, việc thắt chặt quan hệ quân sự với Mỹ là một lựa chọn có tác động sâu rộng. Đối với Anh, đây là biểu tượng cho tham vọng toàn cầu mới của nước này.
Trung Quốc đã nhiều lần công kích AUKUS là nguy hiểm và mang tính đối đầu. Ngay sau khi hiệp ước ra mắt, Boris Johnson, Thủ tướng Anh vào thời điểm đó, đã chế giễu "tiếng kêu ồn ào từ những kẻ chống AUKUS".
Ba năm trôi qua, những tiếng kêu ấy vẫn chưa lắng xuống. Tuần trước, tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đã đăng một bài viết suy đoán rằng Nhật Bản có thể sẽ tham gia khối hiệp ước, đồng thời tuyên bố rằng "AUKUS đang sụp đổ". Đó là một tuyên bố đã bị thổi phồng, nhưng sự thật là ngày càng có nhiều nghi ngờ rằng những lời tung hô ban đầu đã che giấu một số chi tiết có vấn đề nghiêm trọng.
Cuộc tranh luận diễn ra gay gắt nhất ở Australia, vì AUKUS được coi là trọng tâm trong chiến lược của nước này suốt những thập niên tiếp theo. Chính phủ và cả hai đảng chính trị lớn vẫn mạnh mẽ ủng hộ hiệp ước. Nhưng hai cựu thủ tướng có ảnh hưởng – Paul Keating và Malcolm Turnbull – đã lên tiếng chỉ trích gay gắt.
Những lo ngại về khả năng tồn tại của AUKUS rơi vào ba nhóm chính : chiến lược, chính trị, và kỹ thuật.
Về mặt chiến lược, các nhà phê bình cáo buộc rằng Australia đã đặt cược không bền vững vào việc Mỹ sẽ duy trì bá quyền ở Thái Bình Dương. Hugh White, một học giả có ảnh hưởng, chỉ ra rằng : "Những chuyển biến lớn về quyền lực và của cải kể từ năm 1980 khiến việc duy trì trật tự cũ do Mỹ lãnh đạo là không thể". White cũng lo ngại rằng Australia hiện đang ngầm cam kết sẽ chiến đấu bên cạnh Mỹ trong một cuộc chiến tương lai với Trung Quốc.
Về mặt chính trị, ngày càng có nhiều lo lắng về việc liệu Mỹ có còn là đồng minh đáng tin cậy hay không. Nếu Donald Trump giành được nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, giả định rằng Mỹ có thể duy trì sự hỗ trợ ổn định cho các cam kết chiến lược toàn cầu của nước này sẽ bắt đầu lung lay. Tuy nhiên, cam kết buộc phải được duy trì vì AUKUS là một dự án kéo dài nhiều thập niên.
Về mặt kỹ thuật, việc mua và bảo trì các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân là một bước nhảy vọt về công nghệ lớn và tốn kém đối với Australia. AUKUS sẽ được tiến hành theo ba giai đoạn phức tạp. Đầu tiên, Australia sẽ đại tu các tàu ngầm thông thường hiện có của mình. Sau đó, vào đầu những năm 2030, nước này sẽ nhận một số tàu ngầm hạt nhân lớp Virginia đã qua sử dụng từ Mỹ. Thêm 10 năm nữa, các tàu ngầm lớp AUKUS đầu tiên – được thiết kế ở Anh, sử dụng công nghệ của Mỹ, và được chế tạo ở Anh và Australia – sẽ được triển khai.
Đang có một chút lo lắng trong giới quốc phòng Australia về vai trò lớn của người Anh trong việc chế tạo SSN-AUKUS. Người ta ít tin tưởng vào cơ sở công nghiệp quân sự của Anh so với khả năng của Mỹ. Những nghi ngờ đó lại càng gia tăng sau những khó khăn của các tàu sân bay Anh và thất bại trong vụ thử tên lửa hạt nhân Trident gần đây. Elizabeth Buchanan của Học viện Quân sự West Point lập luận thẳng thắn rằng : "SSN-AUKUS có lẽ sẽ không thành hiện thực". Những người chỉ trích AUKUS ở Australia lo ngại đất nước này đang dấn thân vào một con đường dài và tốn kém, nhưng chẳng đi đến đâu.
Những lập luận chống lại AUKUS về khía cạnh chiến lược là những lập luận yếu nhất. Chính phủ Australia, giống như Nhật Bản và Ấn Độ, có quan ngại chính đáng trước tham vọng quân sự và lãnh thổ của Trung Quốc. Họ hiểu rằng nếu Bắc Kinh xâm chiếm Đài Loan thành công – hoặc thực thi được các yêu sách của nước này trên Biển Đông – thì Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thống trị ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, gây ra những hậu quả sâu sắc cho an ninh của Australia.
AUKUS là một ví dụ điển hình về việc tăng cường khả năng răn đe thông qua việc gia tăng rủi ro cho Trung Quốc trước bất kỳ hành động xâm lược tiềm tàng nào. Như một quan chức an ninh Australia đã tuyên bố : "Mục tiêu là ngăn chặn chiến tranh chứ không phải để gây chiến".
Những lo ngại về việc dựa vào Mỹ rõ ràng sẽ gia tăng nếu Trump "bất ổn" trở lại nắm quyền. Nhưng Michael Green, cựu quan chức Nhà Trắng hiện làm việc tại Đại học Sydney, nhận định rằng Trump có thể sẽ bổ nhiệm những nhân vật diều hâu chống Trung Quốc vào các vị trí chủ chốt và họ sẽ duy trì cam kết với AUKUS. Ông khẳng định : "Tôi tin chắc rằng Australia sẽ có được tàu ngầm lớp Virginia".
Ngay cả một số người bảo vệ AUKUS cũng đồng ý rằng có những nghi ngờ thực sự về mảnh ghép cuối cùng – khâu chế tạo các tàu ngầm hạt nhân mới. Vấn đề không chỉ là năng lực chế tạo của người Anh, mà còn nằm ở tiến trình phát triển của công nghệ quân sự. Hoàn toàn có khả năng tàu ngầm hạt nhân có người lái sẽ mất đi tính hữu dụng sau 30 năm nữa, và sẽ được thay thế bằng các phương tiện không người lái.
Nhưng giá trị của một liên minh kéo dài hàng chục năm nằm ở khả năng thích nghi. AUKUS không chỉ có tàu ngầm. Trụ cột thứ hai của hiệp ước là chia sẻ công nghệ quân sự tiên tiến trong các lĩnh vực như vũ khí siêu thanh (hypersonics), mạng, và trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ quân sự phát triển, AUKUS cũng có thể phát triển theo.
Suy cho cùng, hiệp ước này là một tuyên bố về quyết tâm và cam kết lâu dài. Nó dựa trên nhận thức chung về mối đe dọa chiến lược ngày càng tăng từ Trung Quốc và Nga, khi hai nước này hợp tác cùng nhau để lật đổ trật tự quốc tế hiện tại. Nhận thức đó dường như cấp bách và có giá trị hơn bao giờ hết.
Gideon Rachman
Nguyên tác : "The squawkus about AUKUS is getting louder," Financial Times, 26/02/2024
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2024
AUKUS siết chặt hợp tác về radar giám sát tầm xa 36.000 km, công nghệ theo dõi tầu ngầm
Trọng Thành, RFI, 02/12/2023
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, Anh, Úc - ba thành viên của đối tác quân sự AUKUS, họp tại California hôm qua, 01/12/2023. Bộ ba AUKUS thỏa thuận gia tăng hợp tác trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao, với trọng tâm là hệ thống radar giám sát tầm xa DARC (Deep Space Advanced Radar Capability) hay sử dụng "trí thông minh nhân tạo" (AI) để giám sát hiệu quả hơn hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc.
Thủ tướng Anh Rishi Sunak gặp tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden sau cuộc họp báo với thủ tướng Úc Anthony Albanese, tại căn cứ hải quân Point Loma, ở San Diego, Hoa Kỳ, ngày 13/03/2023. AP - Evan Vucci
Theo AFP, sau cuộc họp tại Sillicon Valley, ba bộ trưởng Quốc Phòng AUKUS nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các thỏa thuận hợp tác vừa được thông qua. Trả lời báo giới, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Lloyd Austin nhấn mạnh đến các hợp tác cho phép mỗi bên "phát triển và cung cấp các công nghệ tân tiến giúp cho các lực lượng vũ trang có thể nghe được, quan sát được và hành động với lợi thế quyết định".
Theo bộ trưởng Quốc Phòng Anh Grant Shapps, chưa bao giờ việc gia tăng hợp tác công nghệ quốc phòng lại cấp thiết đến như vậy trong bối cảnh thế giới "đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn", với các đe dọa từ Nga, Trung Quốc hay tổ chức Hamas ở Cận Đông. Về phần mình, bộ trưởng Quốc Phòng Úc Richard Marles ca ngợi một "thời điểm hệ trọng" trong lịch sử hợp tác của AUKUS, đặc biệt với hệ thống radar giám sát DARC, có khả năng theo dõi các vật thể trong không gian ở tầm xa đến 36.000 km.
Theo mạng ABC News, hệ thống radar giám sát không gian DARC bắt đầu được Quân đội Mỹ phát triển từ năm 2017. Úc dự kiến là một trong ba quốc gia tiếp nhận một trạm radar thuộc hệ thống này, cùng với Anh và Mỹ. Ba trạm radar sẽ đi vào hoạt động từ đây đến 2030.
Theo SCMP, trong cuộc họp hôm qua, Mỹ cùng hai đối tác AUKUS thỏa thuận thử nghiệm phương pháp mới, dựa trên "thuật toán trí thông minh nhân tạo AI để xử lý nhanh chóng dữ liệu định vị âm thanh, được các thiết bị dưới nước thu thập", cho phép theo dõi tàu ngầm Trung Quốc nhanh hơn, với độ chính xác cao hơn. Công nghệ này sẽ được áp dụng trước hết với các phương tiện như máy bay tuần tiễu trên biển P-8A Poseidon, chuyên chống hạm, chống tàu ngầm. Phi cơ P-8A Poseidon của ba nước Mỹ, Anh, Úc thường xuyên tuần tiễu ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, bao gồm cả Biển Đông.
Nhiều thỏa thuận đạt được hôm qua giữa bộ trưởng Quốc Phòng ba nước nằm trong khuôn khổ trụ cột hợp tác thứ hai của AUKUS, có tên gọi chính thức là Aukus Pillar II. Trụ cột I của AUKUS tập trung vào việc xây dựng lực lượng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Úc, dự kiến đưa vào sử dụng từ 2040. Trụ cột hợp tác thứ hai là 8 lĩnh vực công nghệ cao, bao gồm công nghệ lượng tử, trí thông minh nhân tạo và các hệ thống tự trị (AS), vũ khí siêu thanh và phản siêu thanh, chiến tranh điện tử, an ninh mạng và chiến tranh trong lòng biển.
Trọng Thành
***************************
Biển Đông : Philippines lập trạm gác mới trên đảo Thị Tứ để đề phòng Trung Quốc
Trọng Thành, RFI, 02/12/2023
Philippines khánh thành một trạm gác mới trên đảo Thị Tứ, quần đảo Trường Sa, ngày hôm qua, 01/12/2023. Mục tiêu là để giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp.
Lực lượng Philippines trong buổi lễ khánh thành một cơ sở giám sát mới trên đảo Thị Tứ, khu vực tranh chấp ở biển Đông, ngày 01/12/2023. AP - Aaron Favila
Theo Reuters, tuần duyên Philippines ra một thông cáo cho biết : trạm gác mới trên đảo Thị Tứ gồm ba tầng, được trang bị các công nghệ giám sát và viễn thông tân tiến, như các radar, thông tin liên lạc qua vệ tinh hay hệ thống nhận dạng tự động hàng hải AIS. Cố vấn an ninh quốc gia Philippines, Eduardo Ano, trong chuyến viếng thăm đảo hôm qua, nhấn mạnh việc trạm gác mới "thu thập thông tin theo thời gian thực" là một "bước ngoặt quan trọng", "cho phép cải thiện đáng kể khả năng kiểm soát hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc và một số nước khác" tại khu vực Manila đòi hỏi chủ quyền.
"Các hành xử của lực lượng tuần duyên Trung Quốc, của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và của dân quân biển Trung Quốc đôi khi không thể lường đoán được", theo cố vấn an ninh quốc gia Philippines. Ông Eduardo Ano cũng trực tiếp lên án "các chiến thuật vùng xám", "trên thực tế là các hành động hành hung nhằm gây sợ hãi, hoàn toàn bất hợp pháp. Không thể chấp nhận được theo luật pháp quốc tế." Ông khẳng định Philippines "sẽ không nhân nhượng"
Đại sứ quán Trung Quốc tại Manila không trả lời yêu cầu bình luận của Reuters về diễn biến mới nói trên tại quần đảo Trường Sa, Biển Đông.
Đảo Thị Tứ, người Philippines gọi là Pag-asa, nằm cách bờ tây của đảo Palawan, Philippines khoảng 480 km. Lực lượng đồn trú trên đảo gồm khoảng 200 người. Trong những tháng gần đây, căng thẳng Manila – Bắc Kinh gia tăng, với hàng loạt sự cố giữa tàu thuyền hai bên.
Trọng Thành
Cách đây đúng một năm, trong đêm 14 rạng sáng ngày 15/09/2021, Anh, Mỹ và Úc thông báo thành lập liên minh quân sự AUKUS. Một năm sau, có nguy cơ Washington và Luân Đôn sẽ thất hứa với Canberra về hợp đồng trang bị tàu ngầm cho Hải quân Úc. Chính quyền của thủ tướng Albanese để ngỏ khả năng "tìm giải pháp thay thế". Paris có thể tháo gỡ bế tắc cho Canberra.
Một tàu ngầm của Hải quân Úc rời cảng Sydney, Úc, ngày 04/05/2020. Reuters - Reuters Photographer
Chính vì tham gia liên minh AUKUS với Hoa Kỳ và Anh, năm ngoái Úc đã thông báo hủy hợp đồng mua 12 tàu ngầm của Pháp, trị giá hơn 30 tỷ đô la. Thủ tướng Scott Morrison khi đó viện lẽ Úc chọn trang bị tàu ngầm của Anh và Mỹ sử dụng năng lượng hạt nhân thay vì tàu ngầm chạy bằng điện của Pháp. Paris xem đấy là một sự "phản bội". Nhưng đúng một năm sau, bộ trưởng Quốc Phòng Úc Richard Marles thực sự lo ngại về kịch bản khả năng phòng thủ của Hải quân bị "đứt gẫy" : Canberra không kịp thay thế đội tàu ngầm đang hoạt động vào ngưỡng 2040.
Thông tín viên RFI Grégory Plesse từ Sydney giải thích :
"Một năm trước đây, Pháp tố cáo Canberra đâm sau lưng Paris. Giờ đây có thể nói Úc đang bị một đòn trời giáng. Chính quyền trong tay Công Đảng Úc vừa xác nhận hai đối tác Anh và Mỹ không đủ khả năng cung cấp cho Canberra tàu ngầm sử dụng năng lượng hạt nhân.
Do vậy, tránh để bị hụt hẫng, Úc cần phải trang bị tàu ngầm quy ước. Theo báo chí Úc, Pháp là một trong những mục tiêu Canberra đang nhắm tới. Trong cuộc tiếp xúc với thủ tướng Anthony Albanese với hồi tháng 7 vừa qua, tổng thống Emmanuel Macron dường như đã đề nghị bán cho Úc bốn chiếc tàu ngầm sử dụng dầu diesel. Thư ký Ủy Ban Quốc Phòng của Hạ Viện Pháp, dân biểu Anne Genetet, thuộc đảng Phục Sinh, không phủ nhận tin trên. Bà nói : ‘Pháp nắm bắt cơ hội là chuyện bình thường, vì chúng ta làm chủ công nghệ và có những thiết bị cao cấp… Không phải tình cờ mà hồi 2019 Úc đã ký hợp đồng với Pháp’.
Vào đầu tháng, bộ trưởng Quân lực Pháp Sébastien Lecornu và đồng cấp Úc Richard Marles đã thăm căn cứ Hải quân tại Brest. Đây là bằng chứng củng cố thêm giả thuyết Canberra cần đến Paris. Tuy nhiên, về phía Úc, Hải quân nước này dường như vẫn thận trọng, bởi họ e không đủ nguồn nhân lực để điều khiển loại tàu ngầm mới. Phải đợi đến tháng 3/2023 mới biết thêm thông tin, khi Bộ Quốc phòng Úc công bố toàn bộ chiến lược về trang bị tàu ngầm".
Thanh Hà
Thu Hằng, RFI, 30/10/2021
Một cuộc họp thượng đỉnh và lời thừa nhận "vụng về" từ phía tổng thống Joe Biden trong khủng hoảng tầu ngầm đã làm giảm căng thẳng Pháp - Mỹ. Sau buổi làm việc với đồng nhiệm Biden tại đại sứ quán Pháp ở Roma (Ý) ngày 29/10/2021, tổng thống Emmanuel Macron cho rằng từ nay cần "hướng đến tương lai", với nhiều điểm được hai nguyên thủ nhất trí trong thông cáo chung, từ an ninh đến phòng chống dịch Covid-19 và năng lượng sạch.
Tổng thống Mỹ Joe Biden hàn gắn quan hệ với nguyên thủ Pháp Emmanuel Macron tại Roma, trước thượng đỉnh G20. Ảnh ngày 29/10/2021. Reuters - Kevin Lamarque
Đặc phái viên RFI Valérie Gas tóm lược buổi làm việc giữa hai lãnh đạo Pháp Mỹ tại Roma :
"Xuất hiện bên cạnh ông Emmanuel Macron và thừa nhận rằng Hoa Kỳ đã "vụng về" trong cuộc khủng hoảng tầu ngầm, ông Joe Biden nhìn nhận nỗi tức giận chính đáng của tổng thống Pháp. Đây là một điều kiện cần thiết để nối lại quan hệ với Emmanuel Macron. Chủ nhân điện Elysée tỏ ra hài lòng ghi nhận nỗ lực của nguyên thủ Mỹ.
Sau cuộc gặp, trả lời báo chí Pháp , tổng thống Macron đã khẳng định : "Chúng tôi đã tái lập niềm tin. Niềm tin cũng như tình yêu, mọi tuyên bố đều tốt, nhưng đưa ra bằng chứng thì còn tốt hơn".
Và bằng chứng về sự tin tưởng đó, theo như ông Macron hiểu, là tổng thống Mỹ Joe Biden đã thể hiện trong một lĩnh vực rất quan trọng đối với Pháp, đó là vùng Sahel. Ông Macron phát biểu : "Sau lời yêu cầu của chúng tôi, đã có sự hứa hẹn gia tăng phương tiện. Đây là một trong những thành quả để thoát khỏi cuộc khủng hoảng này". Theo tổng thống Macron, đó là những phương tiện giúp Pháp trở nên hiệu quả hơn về mặt tình báo để chuẩn bị cho những chiến dịch chống khủng bố.
Ông Macron cũng nhận thấy tín hiệu công nhận vai trò "khung" của Pháp trong một liên quân quốc tế, một vai trò mà chỉ có Hoa Kỳ nắm giữ trong lịch sử đương đại, theo nhận định của ông Macron. Một sự so sánh giá trị để cho thấy chủ nhân điện Elysée muốn đặt Pháp vào vị trí nào".
Mỹ công nhận Pháp là "một nhân tố chủ đạo ở Ấn Độ-Thái Bình Dương" dựa trên vị trí địa lý, cam kết của Pháp, cũng như năng lực quân sự với những căn cứ được đặt khắp khu vực, nhằm bảo đảm an ninh, tự do và rộng mở cho khu vực này.
Ngoài ra, trong thông cáo chung ngày 29/10, Hoa Kỳ hoan nghênh chiến lược của Liên Hiệp Châu Âu về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương và cam kết tiếp tục tham vấn sâu rộng về chiến lược của mỗi bên. Nguyên thủ hai nước nhấn mạnh Pháp và Mỹ "cần hợp tác chặt chẽ ở Ấn Độ-Thái Bình Dương", đặc biệt trong bối cảnh những vấn đề về kinh tế, chiến lược ngày càng gia tăng ở khu vực này. Hai bên khẳng định tiếp tục "ủng hộ đối thoại và hợp tác cụ thể với các đối tác trong khu vực, vì chỉ có hợp nhất nỗ lực mới có thể bảo vệ được trật tự quốc tế dựa trên luật pháp và đạt được những cách tiếp cận chung cho các vấn đề quy mô thế giới".
Về chủ đề tự chủ quốc phòng Liên Hiệp Châu Âu, được tổng thống Pháp khởi xướng và vận động, nguyên thủ hai nước đã tái khẳng định "sự ủng hộ đối với việc tăng cường đối tác chiến lược giữa Liên Hiệp Châu Âu và NATO".
Căng thẳng liên quan đến xuất khẩu vũ khí cũng sẽ được hai bên tìm cách giải quyết thông qua "đối thoại chiến lược về thương mại quân sự" để "có cách tiếp cận chung về các vấn đến liên quan đến việc thâm nhập thị trường và xuất khẩu vũ khí". Hiện Hoa Kỳ có Quy định về Kiểm soát trao đổi vũ khí quốc tế (ITAR) cho phép Washington ngăn tái xuất khẩu linh kiện nhạy cảm của Mỹ được lắp ráp trong vũ khí do nước ngoài sản xuất. Nhiều doanh nghiệp quốc phòng Pháp và Châu Âu phàn nàn rằng quy định này gây trở ngại cho việc xuất khẩu vũ khí sang nước thứ ba.
Thu Hằng
*********************
BBC, 30/10/2021
Tổng thống Mỹ Joe Biden nói với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron Mỹ đã "vụng về" trước một hiệp ước an ninh được ký kết giữa Anh, Mỹ và Úc khiến Pháp mất hàng tỷ đôla.
Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo kể từ khi hiệp ước Aukus - cho phép Australia đóng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân - được ký kết.
Hiệp ước Aukus đã làm nổ ra một cuộc cãi vã với Pháp - nước mất một hợp đồng trị giá 37 tỷ đôla với Úc.
Ông Macron nói rằng điều quan trọng là phải "nhìn về tương lai".
Cuộc gặp giữa hai tổng thống diễn ra tại đại sứ quán Vatican của Pháp ở Rome, Villa Bonaparte.
Đây là một phần trong chuỗi các cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ và các nhà lãnh đạo thế giới trước thềm hội nghị thượng đỉnh G20 của các nền kinh tế lớn vào cuối tuần này và hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc vào tuần tới, COP26, tại Scotland.
"Những gì chúng tôi làm rất vụng về", ông Biden nói. "Tôi có ấn tượng rằng Pháp đã được thông báo từ lâu trước đó rằng thỏa thuận sẽ không thành công, thành thật với Chúa".
Hiệp ước Aukus, cũng sẽ bao gồm AI và các công nghệ khác, là một trong những quan hệ đối tác quốc phòng lớn nhất của Australia trong nhiều thập kỷ và được coi là một nỗ lực nhằm chống lại Trung Quốc.
Hiệp ước này đã khiến Pháp mất hợp đồng đã ký với Úc vào năm 2016 để Pháp đóng 12 tàu ngầm thông thường.
Vào thời điểm Aukus được ký, ngoại trưởng Pháp gọi hiệp ước an ninh là "một nhát dao sau lưng", và Pháp tạm thời triệu hồi các đại sứ tại Mỹ và Úc.
Phát biểu sau cuộc gặp với ông Biden hôm thứ Sáu, ông Macron nói với các phóng viên : "Niềm tin giống như tình yêu, tuyên bố là tốt, nhưng bằng chứng thì tốt hơn". Hai nhà lãnh đạo cũng trao đổi về biến đổi khí hậu, chống khủng bố ở Tây Phi và quốc phòng Châu Âu.
Cuộc họp đầu tiên của ông Biden trong ngày là tại Vatican, nơi ông ca ngợi Giáo hoàng Francis về vai trò lãnh đạo của ông đối với vấn đề biến đổi khí hậu.
Trong cuộc họp kéo dài 90 phút, ông Biden cảm ơn Đức giáo hoàng vì đã ủng hộ những người nghèo đói và bị ngược đãi trên thế giới. Ông cũng ca ngợi sự lãnh đạo của Giáo hoàng đối với cuộc khủng hoảng khí hậu và đại dịch.
Ông Biden đã tặng cho Giáo hoàng Francis một đồng xu đặc biệt và gọi ông là "chiến binh quan trọng nhất vì hòa bình mà tôi từng gặp".
Mặt sau của đồng xu có phù hiệu của đơn vị Vệ binh Quốc gia Quân đội Delaware, đơn vị mà con trai quá cố của Tổng thống, Beau Biden, phục vụ.
Ông nói đùa rằng nếu Giáo hoàng không mang theo đồng xu trong cuộc gặp gỡ tiếp theo của họ, Giáo hoàng sẽ phải "mua đồ uống" cho cả hai.
Giáo hoàng Phanxicô đã tặng ông Biden một viên gạch men và các bài giảng gần đây của ông.
Sau cuộc gặp với Giáo hoàng, ông Biden đã gặp Tổng thống Ý Sergio Mattarella và Thủ tướng Ý Mario Draghi.
Trước đó, trong một thông điệp được ghi hình c ho BBC, Giáo hoàng kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới cùng đồng lòng ra một thỏa thuận có ý nghĩa tại COP26, mang lại "hy vọng cụ thể" cho các thế hệ tương lai.
**********************
Thanh Hà, RFI, 29/10/2021
Sang trang khủng hoảng ngoại giao Pháp-Mỹ, tạo đà mới cho quan hệ xuyên Đại Tây Dương, đó là mục tiêu của buổi làm việc đầu tiên vào chiều 29/10/2021 giữa tổng thống Macron và Biden tại Roma, sau vụ Hoa Kỳ phỗng tay trên hợp đồng của Pháp bán tàu ngầm cho Úc và thành lập liên minh quân sự AUKUS với Anh, Úc.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói chuyện với tổng thống Mỹ Joe Biden trước cuộc họp của khối NATO tại Bruxelles, Bỉ, ngày 14/06/2021. Reuters – Pool
Một ngày trước khi tham dự thượng đỉnh G20, nguyên thủ quốc gia hai nước gặp nhau tại tòa đại sứ Pháp ở Roma – Ý. Theo giới quan sát, Nhà Trắng tỏ thiện chí giảng hòa với Paris sau nhiều tuần lễ căng thẳng. Đôi bên đều cần nhau trên ít nhất ba hồ sơ. Thứ nhất là Pháp cần Mỹ ủng hộ để thúc đẩy dự án xây dựng một hệ thống phòng thủ chung Châu Âu. Thứ hai là Pháp cần Mỹ yểm trợ trong cuộc chiến chống khủng bố tại Châu Phi. Thứ ba, như nhà nghiên cứu Pierre Morcos, Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược CSIS của Mỹ ghi nhận, Pháp muốn Hoa Kỳ "phối hợp chặt chẽ hơn với Liên Hiệp Châu Âu trong khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương".
Đặc phái viên RFI Valérie Gas từ Roma xem buổi làm việc chiều nay giữa tổng thống Macron và Biden là cơ hội để Paris chuẩn bị cho giai đoạn giữ chức chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu kể từ đầu năm tới.
"Cuộc gặp diễn ra tại Roma, bên lề thượng đỉnh G20, nhưng Emmanuel Macron là người tiếp tổng thống Mỹ. Đây là một chi tiết quan trọng cả về mặt biểu tượng lẫn chính trị. Qua việc này, người ta thấy rằng Joe Biden đến gặp Emmanuel Macron để khép lại khủng hoảng mà Pháp đã coi là một sự "phản bội từ phía đồng minh Hoa Kỳ". Cuộc tiếp xúc ở cấp cao nhất này nhằm đặt nền tảng cho đối thoại mới kể từ sau cuộc điện đàm giữa hai vị tổng thống hồi cuối tháng 09/2021 để làm giảm bớt căng thẳng song phương (do AUKUS gây ra).
Giới thân cận với tổng thống Emmanuel Macron giải thích mục đích cuộc gặp là nhằm định hình lại và cập nhật hóa quan hệ Pháp – Mỹ, cũng như quan hệ giữa Hoa Kỳ với Liên Âu. Tổng thống Pháp muốn thúc đẩy dự án một khối Liên Hiệp Châu Âu độc lập về mặt quốc phòng. Paris muốn chứng minh rằng không có sự mâu thuẫn nào giữa chính sách phòng thủ chung của Châu Âu với Liên Minh Bắc Đại Tây Dương. Đây là cách để cân bằng lại vai trò của các bên và để Paris ghi điểm trước ngày Pháp giữ chức chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu. Tham vọng của tổng thống Emmanuel Macron là biến khủng hoảng với Mỹ lần này thành cơ hội".
Thanh Hà
Sau cú điện thoại của tổng thống Biden gọi cho Tổng thống Macron, hai bên Mỹ và Pháp ra tuyên bố chung ngày 22/9/2021. Phía Mỹ có vẻ nhìn nhận sai lầm của mình. Đó là chuyện Mỹ đã không tham vấn trước với đồng minh, khi Mỹ và Úc phá vỡ "hợp đồng tàu ngầm" ký kết giữa Pháp và Úc năm 2016. Nhưng đây không phải là một lời xin lỗi mà người dân Pháp muốn nghe. Dư luận báo chí đa số chỉ bàn về "hợp đồng tàu ngầm" dưới cái nhìn thuần túy kinh tế mà phần lớn sự kiện bị lệch lạc. Phần chìm của tảng băng là ý kiến của cựu thủ tướng nước Úc Kevin Rudd trong bài viết đăng trên báo Le Monde hôm 21/9/2021.
Ông Kevin Rudd cho rằng hợp đồng tàu ngầm không phải là một hợp đồng thuần túy kinh tế mà là trọng điểm trong quan hệ chiến lược Úc và Pháp. Theo ông này, thủ tướng Scott Morrison đã phạm nhiều sai lầm. Morrison hành sử thiếu chuyên nghiệp, cái cách mà người ta không thể sử dụng cho kẻ thù của mình, huống chi đối với "đồng minh chiến lược" của Úc là nước Pháp.
Cựu thủ tướng Kevin Rudd cho rằng bộ trưởng bộ ngoại giao Pháp Jean-Yves Le Drian có lý, khi ông này lớn tiếng chỉ trích Úc "dối trá", chơi trò "lật lọng" và "đâm sau lưng" đồng minh.
Nhắc lại Hiệp ước AUKUS được công bố qua cuộc họp báo chung ba bên Mỹ, Anh, Úc hôm 15 tháng Chín 2021. AUKUS là chữ viết tắt của AUstralia - United Kingdom và United States - nước Úc đứng đầu, nước Anh đứng thứ hai nhưng ai cũng thấy Mỹ mới là "anh hai" đứng đầu trong liên minh mới thành lập. Mục đích thành lập liên minh "chống Trung Quốc" dưới tiêu chí "bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ".
Sau cuộc họp báo, Úc tuyên bố vì nhu cầu thay đổi nên Úc ngưng hợp đồng tàu ngầm với Pháp. Úc quyết định chuyển sang tàu ngầm chạy bằng lò nguyên tử do Mỹ chế tạo, thay vì tàu ngầm qui ước chạy bằng diesel của Pháp.
Các lý do hủy bỏ hợp đồng với Paris, Thủ tướng Scott Morrison nhắc các việc hợp đồng không tuân thủ qua các khía cạnh "đội giá" (từ 50 tỉ đô Úc lên đến 90 tỉ đô Úc), không chuyển giao công nghệ, giao hàng trễ và hợp đồng với Pháp không tạo nhiều việc làm trên lãnh thổ Úc.
Về nhu cầu "tàu ngầm hạt nhân". Các quốc gia Nhật (1995), Ấn Độ (1998) và Úc (2012) đã là "đồng minh chiến lược" của Pháp. Năm 2017 hai bên Úc-Pháp nâng tầm hiệp định lên "quan hệ chiến lược toàn diện", bao gồm nhiều lãnh vực (quốc phòng, an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa…). Cả bốn quốc gia này chia sẻ một quan niệm chiến lược chung về "Ấn Độ - Thái Bình Dương".
Úc đàm phán với Pháp từ năm 2014 để mua tàu ngầm và hợp đồng được ký năm 2016. Tức là "hợp đồng tàu ngầm" là "điểm nhấn" của "trục chiến lược" Úc-Pháp trong khu vực "Ấn Độ - Thái Bình Dương".
Từ quá trình đàm phán đến lúc ký kết "hợp đồng tàu ngầm", nhu cầu của Úc luôn là "tàu ngầm qui ước". Pháp đã phải thay đổi, từ nền tảng kỹ thuật của lớp Barracuda, vốn là tàu ngầm tấn công nguyên tử, trở thành tàu ngầm qui ước chạy diesel cho phù hợp với nhu cầu quốc phòng của Úc.
Về điểm này cựu thủ tướng Kevin Rudd phê bình : "Tôi thấy quyết định của chính phủ Scott Morrison có nhiều điểm sai lầm sâu sắc, từ cơ bản. Quyết định này vi phạm tinh thần quan hệ đối tác chiến lược mà Pháp và Australia thông qua vào năm 2012, được Thủ tướng Australia, Malcolm Turnbull, củng cố thành "đối tác chiến lược toàn diện" vào năm 2017… Nước Úc đã phạm sai lầm là không cho cơ hội nước Pháp đệ trình một dự án khác về tàu ngầm nguyên tử mà nước này có bề dày kinh nghiệm trong quá trình sản xuất… Scott Morrison đã không tôn trọng qui tắc ngoại giao, là không thông báo trước cho đối tác mà đã công bố quyết định đơn phương của Úc ra trước công chúng…".
Về việc "đội giá". Hợp đồng hai bên ký kết có qui định mục "đền bồi", nếu một bên không tuân thủ, hay sơ suất một điều gì đó đã qui định theo hợp đồng. Vụ "đội giá" thường xảy ra lúc thi hành hợp đồng, hoặc do giá cả vật liệu gia tăng, hoặc do đồng tiền (Úc) bị mất giá. (Ta thấy vụ "đội giá" đường sắt Cát Linh - Hà Đông ở Hà Nội do nhà thầu Trung Quốc (Trung Quốc) xây dựng. "Đội" biết bao nhiêu lần mà phía Việt Nam (Việt Nam) chỉ móc tủi ra trả mà không làm được chuyện gì).
Về các lý do "chuyển giao công nghệ", giao hàng trễ và hợp đồng với Pháp không tạo nhiều việc làm trên lãnh thổ Úc.
Báo chí bên Pháp phản biện rằng hợp đồng ghi thời hạn giao đến năm 2030. Chưa đến thời hạn giao thì làm gì có vụ "giao hàng trễ" ? Trong khi tàu ngầm được chế tạo bằng thép của Úc, tại các nhà máy được xây dựng trên đất Úc và với công nhân của Úc.
Vài giờ trước khi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng, đại diện Bộ Quốc phòng Pháp còn nhận được thư từ đồng nhiệm ở Úc bày tỏ sự hài lòng qua những gì mà Pháp đã thực hiện trên thực tế. Lá thư còn khen ngợi những khả năng ưu việt của tàu ngầm Barracuda…
Pháp có thể cung cấp cho Úc tàu ngầm nguyên tử lớp "tấn công", y như nguyện vọng của Úc. Tàu ngầm của Pháp năng lượng chạy hầu như "vô hạn", có thể hoạt động liên tục dưới biển sâu 277 ngày mỗi năm, với giá rẻ hơn tàu ngầm của Mỹ. Pháp có thể cung cấp nhanh chóng hơn Mỹ thời gian 10 năm và phía Úc được lợi nhiều hơn (do chuyển nhượng kỹ thuật).
Đúng như cựu thủ tướng Úc Kevin Rudd đã nói : Hợp đồng cung cấp tàu ngầm không phải là một hợp đồng kinh tế. Đây là một phần của kết ước "chiến lược" giữa hai quốc gia Úc và Pháp.
Thành lập liên minh AUKUS rõ ràng là Scott Morrison đã "rập khuôn" tầm nhìn chiến lược của nước Úc lên quan niệm chiến lược toàn cầu của Mỹ (đúng ra là "lý thuyết Biden").
Bài thuyết trình của Tổng thống Biden trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc mới đây ta có thể nhìn thấy phần cốt lõi của "lý thuyết Biden".
Tổng thống Biden cho biết Mỹ đang "mở ra một kỷ nguyên ngoại giao không ngừng".
Vấn đề là liên minh AUKUS là một nhát dao "đâm sau lưng đồng minh". Cái cách hành sử của thủ tướng Morrison tệ hại đến đỗi tập quán ngoại giao quốc tế còn không sử dụng cho kẻ thù. Huống chi đối đãi với đồng minh có ký kết hiệp ước "chiến lược toàn diện".
Mục tiêu của AUKUS, qua tuyên bố của ba bên, là "bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ".
Mà "luật lệ quốc tế" được xây dựng trên "niềm tin" giữa các quốc gia. Các hiệp ước, kết ước giữa các quốc gia cấu thành "luật quốc tế".
AUKUS thành hình trên một sự "bội ước". Niềm tin giữa các đồng minh đã bị đổ vỡ.
Biden cũng nhấn mạnh rằng : "Mỹ sẵn sàng làm việc với bất kỳ quốc gia nào ủng hộ và theo đuổi giải pháp hòa bình để chia sẻ thách thức, ngay cả khi chúng ta có bất đồng gay gắt trong các lĩnh vực khác".
Rõ ràng ý kiến này dành cho Việt Nam.
Liên minh AUKUS đã cung cấp cho các lãnh đạo cộng sản Việt Nam thân Trung Quốc những lập luận vững chắc để khẳng định "Mỹ không đáng tin cậy". Việt Nam không được ngã theo Mỹ.
Ai cũng biết rằng điều lo sợ của Mỹ là thấy một ngày nào đó bị Trung Quốc "qua mặt". Đó là lý do Mỹ thành lập liên minh AUKUS.
Đây không còn là một "dự kiến" mà có thể là sự thật.
GDP của Trung Quốc có thể "qua mặt" Mỹ trong vòng vài năm tới. Kỹ thuật 5G của Trung Quốc, cũng như các thành quả về không gian, về "vật lý nguyên lượng" áp dụng cho máy tính, cũng như đà phát triển kinh tế của Trung Quốc sau Covid-19… Khả năng quốc phòng của Trung Quốc, về hải quân, không quân… ngày một tăng cao. Trong chừng mực một số lãnh vực Trung Quốc đã tiệm cận với "tầm" của Mỹ.
Trung Quốc là "đối thủ chiến lược của Mỹ". Nhận định này đã có từ lâu. Mới đây Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Loyd Austin nhắc lại nhân chuyến công du qua Châu Á.
Nhưng quyết định thành lập Liên minh AUKUS của Biden không chắc là thành quả của một quá trình suy nghĩ lâu dài.
Một lần Afghanistan có thể là "sai lầm" của Biden đối với đồng minh Ấn Độ. Biden đã giao Afghanistan cho Taliban mà đám khủng bố này là "con nuôi" của Pakistan, quốc gia "thù địch" của Ấn Độ.
Ấn Độ và Pháp có cùng tâm trạng bị Mỹ phản bội. Ngay cả Nhật, nước này không thể không đặt dấu hỏi cho số phận của mình, nếu một ngày nào đó Mỹ "trở áo" đi với Trung Quốc.
Câu hỏi cựu thủ tướng Anh Theresa May đặt ra cho Boris Johnson tại Quốc hội Anh : Nếu Trung Quốc đánh Đài Loan và Mỹ can thiệp. Anh có theo Mỹ đánh Trung Quốc hay không ?
Câu hỏi coi bộ khó trả lời, bởi vì Boris Johnson nổi tiếng chính trị gia "cơ hội chủ nghĩa". Ngay cả khi Mỹ xung đột toàn diện với Trung Quốc, tại Biển Đông hay vì lý do nào đó, Anh có tham dự bên cạnh Mỹ hay không ?
Dân Anh có lý do để đặt vấn đề : tại sao tôi phải đổ máu cho dân Đài Loan ? Còn ở Biển Đông, lợi ích của dân Anh ở đâu ? Tại sao tôi phải đổ máu bảo vệ cái không phải của tôi ?
Boris Johnson "chống" Trung Quốc rất trễ. Chủ trương Brexit trải qua nhiều thời thủ tướng Anh. Mục tiêu của Brexit đến gần đây không đổi. Đó là Anh không cần Châu Âu vì sẽ ký hiệp ước kinh tế với Trung Quốc và sử dụng Hong Kong như là "cánh cửa" để chinh phục lục địa Trung Quốc. Boris Jonhson mới đây còn có chủ trương đặt hệ thống 5G của Hoa Vi trên toàn nước Anh. Nếu không có vụ Trump "đập" Tập Cận Bình, qua vụ "chiến tranh kinh tế", thì Anh đã nằm trong hệ thống "vành đai con đường" của Trung Quốc.
Anh chỉ bắt đầu chống Trung Quốc, vì sức ép của Mỹ (buộc phải chọn phe) và vụ Hong Kong.
Nhưng nếu đặt câu hỏi cho Pháp, nếu Trung Quốc "trỗi dậy không hòa bình" đánh Đài Loan và nếu Mỹ can thiệp. Ta chắc chắn có câu trả lời.
Chiến lược "Ấn Độ - Thái Bình Dương" là một khái niệm khởi nguồn từ Pháp, Nhật, Ấn Độ và Úc từ năm 1995. Pháp, tương tự như Úc trong khu vực, có các lãnh thổ hải ngoại, có hàng chục triệu cây số vuông vùng kinh tế độc quyền phải bảo vệ. Pháp là quốc gia Châu Âu duy nhứt có quân đội (7.000 quân) đóng ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Chiến lược "Ấn Độ - Thái Bình Dương" của bộ tứ Pháp, Úc, Nhật, Ấn Độ khải huyền từ khi Trung Quốc đe dọa "trỗi dậy không hòa bình".
Pháp hành sử "độc lập", bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia mình. Trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương Pháp không "cơ hội chủ nghĩa" vì Pháp có quyền và lợi ích phải bảo vệ. Nếu Mỹ đánh Trung Quốc, Pháp sẽ đứng về phía Mỹ. Vì đây là cách bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích của Pháp.
Còn nước Úc ? Phá hủy hiệp ước "chiến lược toàn diện" với Pháp, đứng một góc trong "tứ giác kim cương", ngang hàng với Mỹ trong chiến lược "Ấn Độ -Thái Bình Dương". Thực chất nước Úc có quan hệ kinh tế với Trung Quốc nhiều gấp 3 lần với Mỹ. Gần đây cũng bị Mỹ ép "chọn phe", Úc bị Trung Quốc "trừng phạt" khiến kinh tế Úc lao đao. Úc có tiếng mà không có miếng.
Thực tế cho thấy chiến lược "Ấn Độ - Thái Bình Dương" thiếu TPP, rõ ràng là không ổn. Giải pháp của Úc là gì để phục hồi kinh tế hậu Covid-19 ? Úc đương nhiên sẽ bị Pháp cản trở trong mọi vận động để ký với khối Châu Âu một hiệp ước về kinh tế.
Khối "nói tiếng Anh" gồm Mỹ, Anh, Úc với AUKUS, nếu không mở rộng ra các quốc gia Nhật, Nam Hàn, Đài Loan và các quốc gia ASEAN để làm động lực phát triển kinh tế thì sẽ không bao giờ bao vây được Trung Quốc. Mỹ sẽ thất bại.
Vấn đề là nền tảng của AUKUS là sự "phản bội", sự thiếu chân thật của Mỹ và Úc. Có vô số lý do để các quốc gia "tránh xa" AUKUS hơn là gia nhập khối này.
Làm lãnh đạo chính trị quốc gia thường không có thời gian tính, nhất là những lãnh đạo chân chính. Trong lúc đương nhiệm, có những trường hợp khẩn cấp hay khủng hoảng, đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng, thì thời gian nghỉ hay ngủ là thứ thật khan hiếm với họ. Sau khi mãn nhiệm, những người lãnh đạo quốc gia cũng không phải vì thế mà cảm thấy hết trách nhiệm. Ít nhất là trách nhiệm tinh thần, đối với họ. Có những điều họ muốn làm nhưng chưa làm được, chẳng hạn, lúc còn đương nhiệm, nên vẫn còn canh cánh bên lòng. Có những điều khác, như đường hướng hoặc phong cách lãnh đạo quốc gia mà họ cảm thấy quan tâm, hoặc vì mức độ rủi ro nguy hiểm, nên mạnh mẽ lên tiếng.
Cố Thủ tướng Úc, Malcolm Fraser, lúc còn sống, thường xuyên lên tiếng vềlĩnh vực nhân quyền tại Úc. Fraserphê bình xu hướng bảo thủ mà ông rất quan ngại vì nó đi ngược lại các giá trị nền tảng của Đảng Cấp tiến (Liberal Party of Australia) ; và của chính ông. Fraser thường xuyên phát biểu trên các cơ quan truyền thông và viết bài đều đặn trên các tờ báo nổi tiếng nhất tại Úc, về nhiều vấn đề khác nhau. Năm 2012, ở tuổi 82, không ngại tuổi tác, Fraser bắt đầuhọc cách sử dụng Twitter để thể hiện quan điểm của mình. Trong vòng 3 năm, Fraser gửi tổng cộng 10,300 tweets, trung bình 11 cái một ngày, và vẫn tiếp tục tweet ba ngày trước khi ông mất. Đảng, và chính quyền đương thời, tất nhiên bất bình và bực mình, nhưng điều đó không cản trở tâm huyết của Fraser cho đến hơi thở cuối cùng. Hiếm có một lãnh đạo chính trị Úc nào có tâm và có tầm như Malcolm Fraser, và với tinh thần cởi mở, cấp tiến như thế.
Những cựu Thủ tướng Úc khác đang còn sống là Paul Keating, John Howard,Kevin Rudd, Julia Gillard, Tony Abbot và Malcolm Turnbull. Julia Gillard và Tony Abbot là hai cựu Thủ tướng có thời gian khá ngắn, và cả hai có, nhưng ít, lên tiếng sau khi mãn nhiệm.John Howard là cựu Thủ tướng phục vụ lâu đời nhất, gần 12 năm, chỉ sau cựu Thủ tướng Robert Menzies của cùng Đảng Cấp tiến. Sau khi mãn nhiệm, Howard là người thận trọng khi lên tiếng. Howard được các chính trị gia hàng đầu của Đảng Cấp tiến nể trọng, tuy Howard cũng là người mà Fraser phê bình, trực tiếp hay gián tiếp, nhiều nhất. Paul Keating, trong lúc đương nhiệm cũng như sau khi mãn nhiệm, tiếp tục là một trong những lãnh đạo chính trị gây nhiềutranh cãi và chia rẽ nhất tại Úc.
Keating là người nổi tiếng nhất ở chỗ không ngại lên tiếng, có thể phê phán về bất cứ đề tài gì ông muốn bày tỏ.
Gần đây nhất là hiệp ước an ninh tam quốc AUKUS mà Úc, Anh và Mỹ ký kết với nhau vào giữa tháng 9 vừa qua. Sau khi công bố hiệp ước, Keating là một trong những người đầu tiên, liên tục và mạnh mẽ chỉ trích quyết định này cho đến nay, trên nhiều cơ quan truyền thông, và viếtnhiều bài phản biện trên nhật báo The Sydney Morning Herald và The Age.
Trong bài viết ngày 16 tháng 9, ngay sau khi công bố hiệp ước, Keating cho rằng mục đích duy nhất của nó là ‘khả năng hành động tập thể trong bất kỳ cuộc can dự quân sự nào của Mỹ chống lại Trung Quốc.’ Theo Keating, sự sắp xếp này sẽ làm Úc mất đi chủ quyền, bởi vì sự phụ thuộc của Úc vào Mỹ sẽ làm Úc mất đi tự do hay chọn lựa trong các phương án hành động của mình. Keating cũng chỉ trích Đảng Cấp tiến vì mang Úc trở lại sự phụ thuộc vào nước Anh, mà Úc đã vốn từng mất 240 năm để tách rời. Keating cho rằng sức mạnh của Mỹ mà còn không thể thắng các tay súng Taliban cầm AK-47 thì cơ hội nào họ có thể thắng trận chiến toàn diện với một nhà nước lớn nhất như Trung Quốc, bởi vì khi có xung đột, nhất là giữa các cường quốc, thì (mặt trận) đất luôn thắng thủy. Trong bài này, Keating biện luận một chiều, không đề cập đến mục đích chiến lược của Úc, và như thế, coi Úc như tay sai của Mỹ và Anh trong hiệp ước này.
Chưa hết cơn thịnh nộ, trongbài viết ngày 22 tháng 9, Keating phê phán luôn cả những người trong Đảng của mình, Đảng Lao động, đặc biệt là phát ngôn nhân về ngoại giao Penny Wong. Keating cho rằng Wong đã im lặng không lên tiếng bảo vệ chủ quyền Úc, quyền tự trị riêng biệt mà không thể nhượng bộ hay đánh đổi với bất cứ nước nào, kể cả Mỹ.
Cũng trong bài này, Keating biện luận rằng Trung Quốc không phải là mối đe dọa, nhất là đối với Úc. Một, Trung Quốc chưa bao giờ đe dọa Úc, theo nghĩa hành động hung hăng hay ý đồ xâm lược Úc bằng quân sự, và những gì xảy ra chưa đủ chứng minh nó cấu thành sự đe dọa như thế. Hai, thuế quan của Trung Quốc lên hàng hóa Úc như rượu vang hoặc hải sản không cấu thành đe dọa ; hành động Trung Quốc không khoan dung với sự quản lý chính trị tại Hồng Kông cũng như thế. Ba, ngay cả hành động xây dựng đảo nhân tạo tại Biển Đông cũng không cấu thành mối đe dọa, để đòi hỏi sự cân nhắc một phản ứng quân sự từ phía Úc. Tóm lại, theo Keating, chính quyền Morrison hiện nay muốn tạo ấn tượng đe dọa rất lớn từ phía Trung Quốc, nhiều hơn là khả năng đe dọa thật sự của Trung Quốc. Keating biện luận rằng khác với Mỹ, Trung Quốc không tấn công những nhà nước khác.
Keating cũng không quên phê phán luôn cả những ký giả trên báo The Sydney Morning Herald và The Age đã phụ họa với chính quyền Morrison, cốt yếu để người dân Úc ủng hộ chính quyền Úc ‘mua hàng’ từ nước Mỹ.
Ngoại trưởng Úc Marise Payne, đã phản biện vào ngày 17 tháng 9, rằng Keating đã sai vì Úc không hề quay lưng với Châu Á. Payne cho rằng thế giới đã thay đổi, và nhiều quốc gia đang cạnh tranh gay gắt hơn trên địa hình chiến lược mới này. Payne nói : ‘Sự gia tăng cường độ của cuộc cạnh tranh này không cần thiết phải kích động chúng ta đến tuyệt vọng hoặc tê liệt : điều đó có nghĩa là có những rủi ro và cơ hội mới, và khán giả thụ động không phải là một lựa chọn.’
Trong cương vị đang nắm quyền và đứng đầu cơ quan ngoại giao, Payne không thể nói phát biểu một cách thoải mái, huỵch toẹt, như người khác. Nhưng người đọc cần hiểu rằng Úc, và mọi quốc gia khác, cần phải đối phó với những thử thách lẫn đe dọa trong tương lai, bằng cái đầu, chứ không phải bằng sợ hãi hay thụ động ngồi chờ.
Trong nhiều năm qua,Keating là người ủng hộ mạnh mẽ mối bang giao giữa Úc và Trung Quốc, và lên án những ai hay chính sách nào bài Trung Quốc. Keating từngcoi thường giới tình báo hàng đầu của Úc như kẻ điên rồ (nutters), những người mà ông cho rằng lẽ ra nên bị tước việc, để cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
Việc Keating, hay bất cứ công dân nào, lên tiếng trước các vấn đề mệnh hệ đối với Úc, là việc làm rất cần và nên được khuyến khích. Tuy nhiên, trong trường hợp của Keating đối với Bắc Kinh và AUKUS, tôi chỉ có ba nhận xét ngắn. Một, Keating không tự biết khả năng và giới hạn của mình, nên có khi nhận định quá tầm hiểu biết hay chuyên môn của mình, như nhận xét về giới lãnh đạo tình báo Úc. Hai, Keating không tự biết rằng thời của mình đã qua, bởi Keating dường như vẫn nhìn thế giới thời của ông thập niên 1990s, khi Trung Quốc vẫn chưa hiện nguyên hình bản chất và động lực của họ. Ba, Keating chỉ muốn nhìn và tin sự việc bằng nửa sự thật, bởi những gì Keating nói về Trung Quốc, như ở trên, cho thấy ông phủ nhận những rủi ro, đe doạ bằng các hành vi khủng khiếp khác của Bắc Kinh.
Keating không phải là không biết chuyện. Vậy tại sao Keating chỉ nhìn sự việc hoặc thiên kiến, hoặc ngây ngô ? Chắc chắn Keating không ngây ngô gì.
Giáo sưClive Hamilton có câu trả lời.
"Trong hơn một thập kỷ qua, Bắc Kinh đã miệt mài để giành được cảm tình của các thành viên quyền lực trong giới tinh hoa chính trị, kinh doanh và đại học của Úc. Họ có các cơ quan có nhiệm vụ duy nhất là làm điều đó và họ rất giỏi trong việc đó.
Bắc Kinh đã bổ nhiệm Keating vào một vị trí béo bở trong ban cố vấn quốc tế của Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và ông được đối xử đặc biệt khi ở Trung Quốc. Kể từ đó, ông là một nhà vận động đáng tin cậy của chính quyền Đảng cộng sản".
Nhận định của Keating về Bắc Kinh, và mối đe dọa của họ, tuy vô căn cớ, nhưng không phải không có người tin. Keating quên điều căn bản rằng đe dọa là sự kết hợp giữa khả năng và động lực, mà động lực của Bắc Kinh là gì thì một người bình thường cũng có thể nhìn ra, không cần đến một cựu Thủ tướng. Không rõ Keating có đủ thọ để nhìn thấy giấc mộng của Bắc Kinh được dần dần diễn ra và kết thúc thế nào trong các thập niên tới không !
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 29/09/2021
Trọng Thành, RFI, 23/09/2021
Sáu ngày kể từ khởi đầu "khủng hoảng tàu ngầm", tổng thống Hoa Kỳ và tổng thống Pháp đã có cuộc điện đàm hôm qua 22/09/2021. Thông cáo chung khẳng định "các tham vấn công khai giữa các đồng minh" có thể đã giúp tránh được cuộc khủng hoảng ngoại giao, được coi là nghiêm trọng nhất trong quan hệ song phương kể từ năm 2003, khi Pháp không tham gia vào cuộc chiến Irak do Mỹ khởi xướng.
Tổng thống Mỹ Joe Biden và nguyên thủ Pháp Emmanuel Macron tại thượng đỉnh G7- Anh hôm 13/06/2021. Reuters – Doug Mills
Trong cuộc điện đàm nói trên, tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden cũng thừa nhận "vai trò chiến lược" của Pháp và Liên Âu, và tầm quan trọng của một "nền quốc phòng Liên Âu", điều mà tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã nỗ lực thúc đẩy trong thời gian qua. "Nền quốc phòng Liên Âu" vốn là vấn đề mà chính quyền Mỹ lâu nay vốn có thái độ không rõ ràng.
Thông tín viên Guillaume Naudin tường trình từ Washington :
"Cuộc đối thoại kéo dài khoảng nửa giờ được Nhà Trắng đánh giá là hữu nghị, và kết thúc cuộc điện đàm là một loạt đồng thuận. Sau một tuần lễ căng thẳng, đây đã là một thành quả. Hai vị nguyên thủ quốc gia đồng ý là việc tiến hành tham vấn công khai giữa các đồng minh có thể đã giúp tránh được các diễn biến vừa qua, nói một cách khác là tránh được khủng hoảng ngoại giao song phương. Rõ ràng là lãnh đạo hai nước đã quyết định chấm dứt cuộc khủng hoảng này.
Hai bên cũng nói đến việc khởi sự "các tham vấn sâu nhằm thiết lập các điều kiện cho sự tin tưởng lẫn nhau", nhưng không cho biết chi tiết. Điểm đồng thuận cụ thể hơn là hai tổng thống sẽ gặp nhau vào cuối tháng 10 và đại sứ Pháp sẽ trở lại Washingston vào tuần tới.
Nhìn chung, Hoa Kỳ thừa nhận vai trò chiến lược của nước Pháp và của Liên Hiệp Châu Âu tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương và một nền quốc phòng Châu Âu mạnh hơn và hiệu quả hơn sẽ đóng vai trò tích cực hơn vào an ninh xuyên Đại Tây Dương. Đây chính là điều mà nước Pháp đã bày tỏ từ nhiều tháng nay, trong khi tìm cách thuyết phục các đối tác Châu Âu. Kể từ giờ, chính tổng thống Mỹ đã khẳng định điều này, nhưng với một điểm hơi khác biệt : Một nền quốc phòng như vậy của Liên Âu sẽ đóng vai trò bổ sung cho khối NATO".
Tiếp theo cuộc điện đàm của nguyên thủ quốc gia hai nước, ngoại trưởng Pháp, Mỹ có kế hoạch gặp nhau hôm nay tại New York bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Nhận định về cuộc điện đàm giữa hai tổng thống Pháp, Mỹ, ông Benjamin Haddad, giám đốc phụ trách Châu Âu của viện tư vấn Atlantic Council, chuyên về quan hệ Hoa Kỳ - Châu Âu, trụ sở tại Washington, nhận xét : Phía Mỹ đã hiểu rằng cuộc khủng hoảng tàu ngầm gây sốc với Paris "chủ yếu không phải về mặt thương mại mà vấn đề chính là sự tan vỡ niềm tin". Đồng thời ông cảnh báo quan hệ song phương Pháp-Mỹ khó mà được khôi phục ngay sau một cuộc đối thoại như vậy.
Trọng Thành
*********************
Thùy Dương, RFI, 23/09/2021
Cuộc điện đàm giữa tổng thống Pháp Emmanuel Macron với đồng nhiệm Mỹ Joe Biden, vốn dĩ rất được trông chờ trong những ngày qua, cuối cùng đã diễn ra ngày 22/09/2021. Một thông cáo chung mang tính hòa giải rất cao đã đưa ra, hướng tới sự tăng cường hợp tác. Sự hợp tác Pháp - Mỹ cũng phải liên quan đến Liên Hiệp Châu Âu. Điều này đã được đề cập nhiều lần trong thông cáo chung của hai nguyên thủ quốc gia.
Lãnh đạo ngoại giao Châu Âu Josep Borell (trái) họp với ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken bên lề Đại Hội Đồng LHQ ở New York, Hoa Kỳ, ngày 22/09/2021. AFP – Jason Decrow
Cũng trong ngày hôm qua, đến lượt lãnh đạo ngoại giao Châu Âu Josep Borrell gặp ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken bên lề Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc tại New York. Đôi bên nhấn mạnh đến việc Âu - Mỹ phải củng cố sự tin cậy lẫn nhau.
Từ Bruxelles, thông tín viên RFI Pierre Benazet giải thích :
"Sau cuộc điện đàm giữa tổng thống Pháp và Mỹ, ông Josep Borrell đã có cuộc gặp với ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken. Đây là cơ hội để lãnh đạo ngành ngoại giao Châu Âu nhấn mạnh và gửi đi một thông điệp giống hệt thông điệp của nước Pháp. Josep Borrell tuyên bố "Chúng ta phải củng cố niềm tin xuyên Đại Tây Dương", tương tự như khẳng định trong thông cáo của hai vị tổng thống.
Theo hai vị nguyên thủ quốc gia, hành động của Pháp và Liên Hiệp Châu Âu ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương có tầm quan trọng chiến lược. Vì thế, đối với Liên Âu, cần tích cực tranh thủ tuyên bố này. Thứ nhất, bởi vì các nước Châu Âu đã quyết định thành lập một mặt trận chung với Pháp : sau một vài ngày lần chần tránh né, giờ đây họ tin rằng mối liên kết xuyên Đại Tây Dương nhìn chung đã suy yếu. Thứ hai, bởi vì mối quan tâm của Liên Âu là đầu tư vào khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương, nơi đang trở thành trọng tâm mới của thế giới.
Vả lại, liên minh Anh, Úc và Mỹ đã được công bố ngay trước hôm Bruxelles công bố chiến lược ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Các nước Liên Âu hiện giờ hy vọng có thể được kết nối với các sáng kiến của Mỹ trong khu vực này".
Thùy Dương
***********************
BBC, 23/09/2021
Pháp và Mỹ đã nỗ lực để chấm dứt căng thẳng bùng phát tuần qua sau khi hiệp ước Aukus giữa Mỹ, Anh và Úc được thông qua.
Tàu ngầm và tàu tuần dương của Mỹ di chuyển qua Eo biển Hormuz. Ảnh : Hải quân Mỹ
Hiệp ước này đã khiến Pháp mất hợp đồng trị giá 37 tỷ đôla đóng tàu ngầm đã ký với Australia.
Paris cho biết chỉ biết được thông tin về hiệp ước này vài giờ trước khi được công bố chính thức.
Tổng thống Pháp và Mỹ đã công bố một tuyên bố chung cho biết tình hình sẽ được cải thiện từ sự tham vấn công khai giữa các đồng minh.
Joe Biden và Emmanuel Macron đã có cuộc điện đàm trong 30 phút hôm thứ Tư 22/9. Hai nhà lãnh đạo sẽ gặp tại Châu Âu vào cuối tháng 10.
Sự giận dữ của Pháp là rõ ràng - Bộ trưởng Quốc phòng Pháp gọi hiệp ước là một "cú đâm sau lưng".
Trong một bước đi hiếm có giữa các đồng minh, Tổng thống Pháp Macron đã yêu cầu triệu hồi các đại sứ Pháp tại Washington và Canberra.
Tuy nhiên, đại sứ của Pháp tại Washington sẽ trở lại Mỹ. Không có thông tin liệu đại sứ Pháp ở Canberra sẽ trở lại hay không.
Tổng thống Biden đã tái khẳng định tầm quan trọng đối với sự tham gia của Pháp và Châu Âu tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tuyên bố này nhấn mạnh đến sự công nhận của Mỹ về tầm quan trọng của một nền quốc phòng Châu Âu mạnh mẽ hơn để bổ sung cho Nato - một trong những kế hoạch trọng điểm của Tổng thống Pháp Macron.
Ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken và người đồng cấp Pháp, Jean-Yves Le Drian dự kiến sẽ có cuộc họp song phương hôm 23/9 bên lề cuộc họp tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, theo nguồn tin từ một quan chức Mỹ.
Phân tích của Nomia Iqbal, phóng viên tại Washington
Đây là "lời xin lỗi mà không phải xin lỗi" kinh điển của người Mỹ : một lời xin lỗi vì quá trình (thiếu sự tham vấn), nhưng không phải xin lỗi vì chính sách (Aukus).
Nhưng chúng ta đã có bức ảnh Tổng thống Biden mỉm cười trong buổi điện đàm với Tổng thống Macron, một nỗ lực cho thấy mọi thứ ổn.
Với các thông điệp được đưa ra, chúng thường khá nhạt nhẽo, nhưng lại mang rất nhiều ý nghĩa.
Đầu tiên, đây là một tuyên bố chung, thường thì có một tuyên bố từ mỗi bên, vì vậy cả hai nhà lãnh đạo đang cố gắng cho thấy một sự đoàn kết sau "cuộc điện đàm thân thiện kéo dài 30 phút".
Tuyên bố nói rõ Tổng thống Biden là người chủ động gọi - có lẽ đây là điều mà Pháp muốn nêu rõ.
Sau đó là một dòng thông tin này trong tuyên bố : "Hai nhà lãnh đạo đã đồng ý rằng tình hình này sẽ được cải thiện từ các tham vấn công khai" - một lần nữa, đây có phải là điều gì đó Pháp muốn ?
Thế nhưng Mỹ cũng có điều cần nói. Biden không thay đổi thông điệp cốt lõi rằng Châu Âu cần tăng cường nền quốc phòng của mình.
Sau đó tuyên bố kết thúc với lời nhắc nhở rằng Mỹ sẽ hỗ trợ thêm việc chống khủng bố tại dải Sahel, nơi người Pháp nhận được sự hỗ trợ khổng lồ.
Tóm lại, đây là một tuyên bố được soạn thảo rất rõ ràng để cả hai bên cùng hiểu nhau và đi tiếp.
Nhưng một cuộc điện đàm kèm theo nụ cười là một chuyện. Còn khi 2 vị tổng thống gặp trực tiếp vào tháng sau tại Châu Âu thì sẽ thế nào ?
Điều này đáng quan tâm khi Tổng thống Macron đang đối diện với cuộc bầu cử vào năm tới.
Thái độ cứng rắn của Macron với Biden quan trọng, trong nội bộ nước Pháp, nhưng công bằng mà nói thì Macron cần tìm một lối ra.
Cuộc điện đàm ngày hôm nay mở ra lối ra đó.
Trước đó, Thủ tướng Anh, Boris Johnson nói với Tổng thống Macron "donnez-moi un break" (tạm dịch 'cho tôi thời gian') và nói ông Macron hãy vượt qua sự giận dữ về Aukus.
Được công bố vào tuần rồi, Aukus được xem là một nỗ lực nhằm đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.
Giới phân tích nhận định đây có lẽ là một thỏa thuận an ninh quan trọng nhất giữa 3 quốc gia kể từ Thế chiến 2.
Tuy nhiên cuộc gặp vào tuần tới giữa giới chức EU và Australia chưa chắc sẽ có kết quả tốt đẹp.
Đây là sự kiện thứ 3 - giữa EU và Australia hoặc giữa EU và Mỹ - có thể bị hoãn theo sau tuyên bố về thỏa thuận Aukus.
Nguồn : BBC, 23/09/2021
Vào ngày thứ Năm 16 tháng 9 (múi giờ Úc), ba lãnh đạo của Úc – Anh – Mỹ, gồm Thủ tướng Scott Morrison và Boris Johnson, và Tổng thống Joseph Biden, đã họp báo trực tuyến để công bố sự hình thành quan hệ đối tác an ninh chung giữa ba nướcAUKUS.
Vào ngày thứ Năm 16 tháng 9 (múi giờ Úc), ba lãnh đạo của Úc – Anh – Mỹ, đã họp báo trực tuyến để công bố sự hình thành quan hệ đối tác an ninh chung giữa ba nước AUKUS.
Một ngày trước đó, thứ Tư 15 tháng 9, Morrison đã triệu tập một cuộchọp khẩn cấp liên quan đến an ninh quốc phòng với một số thành viên nội các của mình, và bốn nhân vật hàng đầu phe đối lập cũng được mời. Có lẽ Morrison muốn bảo đảm rằng phía cầm quyền hay đối lập đều hỗ trợ quyết định này, và dù ai lên nắm quyền sau này cũng có đầy đủ thông tin từ quyết định hệ trọng này. Vì gần như toàn nước Úc đang bị phong tỏa, những thành viên thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia đã được chính quyền tiểu bang cấp giấy thông hành đặc biệt để có thể bay đến thủ đô Canberra tham dự. Tình trạng khẩn cấp như thế này không phải là điều xảy ra thường xuyên.
Rõ ràng quyết định hợp tác chung với Mỹ và Anh để xây tàu ngầm xử dụng nhiên liệu hạt nhân là một quyết địnhvô cùng quan trọng và sẽ ảnh hưởng lâu dài. Nó sẽ thay đổi sâu sắcchính sách ngoại giao và quốc phòng Úc, không chỉ với Trung Quốc mà còn trong vùng và quốc tế. Với quyết định này, Úc chỉ còn con đường tiến, không phải lùi, trong việc đối đầu với Trung Quốc. Trong ba nước, Úc nằm ở trong vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, gần Trung Quốc hơn Anh và Mỹ. Sự ảnh hưởng của Trung Quốc lên nước Úc trong nhiều thập niên qua là rất lớn, nhất là về mặt kinh tế. Vì thế, quan hệ giữa hai nước kể từ 16 tháng 9 sẽ đi qua một bước ngoặc lớn mới. Như Thủ tướng Morrisonxác định, Úc đang bước vào một thời kỳ mới, mà tương lai của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ ảnh hưởng đến tất cả tương lai của Úc.
Tuy nhiên, những gì chính quyền Morrison hay giới truyền thông cho biết và đưa tin trong những ngày qua, vẫn chưa trả lời thỏa đáng vì sao quyết định xây tàu ngầm dùng hạt nhân cũng như quan hệ đối tác AUKUS được hình thành một cách khẩn cấp, và được công bố đột ngột như thế ?
Thái độ của lãnh đạo Bắc Kinh
Chính trị, hay mọi điều khác, đều có nguyên lý nhân (và) quả. Sự kiện 16 tháng 9 chỉ là hệ quả của chuỗi sự kiện kéo dài bao năm qua.
Quan hệ giữa Úc và Trung Quốc đã trở nên tồi tệ hơn trong những năm qua, phần lớn do các hoạt động âm thầm nhằm gây can thiệp và tạo ảnh hưởng tại Úc. Giáo sưClive Hamilton đã vạch rõ các hoạt động này trong hai tác phẩm của ông, và giới tình báo Úc và truyền thông chính mạch cũng nắm rõ, từ những năm 2014 trở đi, mà đã được đề cập trong các bài trước. Nó gia tăng đáng kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền năm 2012, và ngày càng thâu tóm quyền lực một cách vô hạn định.
Nhưng quan hệ trở nên không thể cứu vãn hay đối thoại được, đặc biệt từ năm 2020, khi Úc đã thông qua nhiều đạo luật khác nhau để ngăn chặn hành động của nước ngoài, đặc biệt từ Bắc Kinh.
Để trả đũa, Trung Quốc đã cấm nhập cảng hàng Úc trị giá 20 tỷ đô la năm 2020. Tệ hơn, đưa danh sách với 14 yêu cầu trịch thượng muốn Úc phải nghe theo. Nó thể hiện chủ trương lấn áp chủ quyền của Úc. Thái độ của Trung Quốc cho thấy lãnh đạo Bắc Kinh sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp kinh tế/thương mại, hay ngoại giao, để buộc Úc, phải nhượng bộ.
Nhưng đây không chỉ là xu hướng riêng đối với Úc. Bởi vì chủ trương của Bắc Kinh, phần lớn vẫn mang nặng ý thức hệ cộng sản Stalin và Mao, nên họ muốn kiểm soát mọi hoạt động người dân. Bắc Kinh cũng chủ trương kiểm soát tối đa những gì nước ngoài có thể ảnh hưởng lên tư duy của người dân mình, gần như tuyệt đối và toàn diện.
Bởi thế không có gì đáng ngạc nhiên khi Bắc Kinh quyết địnhthà mất hàng ngàn tỷ đô la giá trị các công ty công nghệ hàng đầu tại Trung Quốc, nhưAnt thuộc công ty mẹ Alibaba, hay WeChat thuộc Tencent, còn hơn là các công ty này không tuân theo, hay phục vụ, mục tiêu chính trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Sự tấn công của Tập Cận Bình vào, và sẵn sàng đánh đổicông nghệ hàng đầu của Trung Quốc, với trị giá bốn ngàn tỷ đô la, cho thấy sứ mệnh chính trị của Bắc Kinh là bất khả tương nhượng.
Rừng thì chỉ có thể có một chúa tể, là Tập Cận Bình mà thôi. Jack Ma hay bất cứ tỷ phú hàng đầu nào của Trung Quốc không chấp nhận trò chơi của Tập Cận Bình thì trước sau gì cũng bị hậu quả nghiêm trọng. Nhắm đến các công ty hùng mạnh nhất và ảnh hưởng hàng đầu, để rung cây nhát khỉ, cũng là để khuyến cáo các công ty và doanh nhân khác phải tuân thủ. Để đỡ công sức Bắc Kinh phải giải quyết từng vụ, và về sau. Tạo lo âu và sợ hãi, là chiêu bài muôn thưở của các chế đế Trung Quốc mà Mao Trạch Đông học thuộc lòng, và Tập Cận Bình là học trò ngoan. Nói tóm lại, chủ trương của Tập Cận Bình và lãnh đạo Bắc Kinh là để củng cố khả năng kiểm soát toàn diện và tuyệt đối xã hội, và mọi thành phần, để thâu tóm quyền lực trong tay, cho giấc mộng lớn hơn. Giáo sư chuyên về Trung Quốc Anne-Marie Brady từ New Zealandbiện luận rằng "Ông Tập đang điều hành Trung Quốc trong tư thế khủng hoảng, nhấn mạnh mối đe dọa từ bên ngoài, giống như Mao đã làm. N ó quen thuộc một cách nhàm chán".
Nhưng tại sao Tập Cận Bình, và Bắc Kinh, chủ trương phải thâu tóm quyền lực một cách hà khắc như thế ? Để làm gì ?
Chắc chắn xã hội dân sự, và các xu hướng dân chủ tại Trung Quốc không phải là mối đe dọa đến sự cầm quyền của Tập Cận Bình hay chế độ. Họ bị tấn công, bị đàn áp thô bạo, nên giờ quá yếu, và quá rời rạc, để có thể tạo ảnh hưởng nào lên xã hội hay chính trị hiện nay.
Gần 10 năm qua, từ khi Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực trong tay, chủ trương đó ngày càng gia tăng, không hề gia giảm. Tập muốn gì ?
Về mặt vĩ mô, mặc dầu Tập Cận Bình có thể không, hay chưa, có tham vọng xuất cảng ý thức hệ chính trị của mình, hay muốn thách thức các nền dân chủ trên bình diện toàn cầu, ít nhất là hiện nay, Bắc Kinh vẫn cho mô hình chính trị và kinh tế của mình là ưu thế. Chính họ còn đưa ra quan niệm riêng về nhân quyền và muốn được chấp nhận rộng rãi, để biện minh cho các hành động đàn áp thô bạo của họ tại lục địa, Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông v.v... Giấc mộng của Tập Cận Bình và lãnh đạo Bắc Kinh là muốn có một chỗ đứng nhất định trên thế giới, nếu không hơn thì cũng không thua Mỹ, trong hai ba thập niên tới. Bởi vì hiện nay những gì Trung Quốc muốn làm, vẫn chưa làm được. Họ vẫn chưa tự tung tự tác được, vì còn chưa đủ mạnh về nhiều mặt. Trung Quốc muốn, đến một lúc nào đó, những giới hạn này không còn nữa. Cho nên Đảng cộng sản Trung Quốc muốn đề cao và xuất khẩu chủ nghĩa cường quyền. Khi nó lan rộng, ảnh hưởng của Trung Quốc gia tăng. Khi kinh tế và quân sự qua mặt Hoa Kỳ, không còn ai có thể ngăn cản, cưỡng chế họ được.
Trong bài "Cách Trung Quốc xuất khẩu chủ nghĩa cường quyền" (How China Exports Authoritarianism), Charles Edel và David Shullman giải thích trên tạp chí Foreign Affairs, ngày 16 tháng 9 năm 2021, rằng :
"Mục tiêu của Đảng cộng sản Trung Quốc không phải là truyền bá chủ nghĩa Mác hoặc phá hoại các nền dân chủ riêng lẻ mà là để đạt được ưu thế về chính trị và kinh tế, và những nỗ lực của nó để đạt được hiệu quả đó — truyền bá chủ nghĩa, mở rộng hoạt động thông tin, củng cố ảnh hưởng kinh tế và can thiệp vào các hệ thống chính trị nước ngoài — đang làm mất đi các thiết chế và chuẩn mực dân chủ trong và giữa các quốc gia".
Cho nên muốn đối phó với thách thức ý thức hệ này từ Trung Quốc, Edel và Shullman biện luận rằng chúng ta cần phải hiểu rõ Trung Quốc muốn đạt gì qua việc xuất cảng mô hình chính trị như thế và bằng cách nào hành động của họ làm yếu đi các nền dân chủ toàn cầu. Chỉ qua đó thì chúng ta mới có thể thiết kế chính sách hiệu quả để phục hồi nền dân chủ trong và ngoài nước, đồng thời chọn lọc cách chống lại chủ trương quảng bá cách quản trị độc tài của Bắc Kinh.
Vài suy nghĩ cuối
Trở lại hiệp ước AUKUS, tại sao có một quyết định khẩn cấp và bí mật đến như thế ? Nếu đồng ý xây dựng tàu ngầm dùng nguyên liệu hạt nhân, thì mất 12 đến 18 tháng tới chỉ để hợp tác với nhau hầu lên kế hoạch và thiết kế. Ngoài ra, dự án này cũng có thểtốn thêm 18 năm để có được tàu ngầm đầu tiên, và có thể 30 năm có được tám chiếc. Vậy thì tại sao có vẻ như khẩn cấp đến độ như chiến tranh sắp xảy ra tới nơi, để rồi làm cho quan hệ ngoại giao với Pháp bị sứt mẻ như vậy ?
Có lẽ cần đi ngược dòng thời gian một chút để nhìn lại vấn đề cho rõ hơn. Trong 18 tháng qua, sự tiến hành đóng tàu ngầm với Naval Group của Pháp gặp nhiều trở ngại, nên bị đình trệ. Đã có thảo luận và dự định cho "Kế hoạch B" nếu "Kế hoạch A" không thành. Tháng 6 năm 2021, Thư ký của Bộ Quốc phòngGreg Moriarty đã bị Thượng viện chất vấn để giải thích tiến triển của dự án. Ông cho biết có nhiều thử thách trong 12 đến 15 tháng qua. Vì lý do đó, Thủ tướng Morrison cũng bày tỏ quan ngại với Tổng thống Pháp vào tháng 6 tại Paris. Cho nên đi tìm một giải pháp cho "Kế hoạch B" là điều cấp bách. Khi đã có giải pháp rồi, tức đã được Mỹ và Anh đồng ý chuyển nhượng công nghệ xây dựng tàu ngầm dùng nguyên liệu hạt nhân, thì việc còn lại của Úc là quản lý việc hủy bỏ hợp đồng với công ty Naval Group của Pháp một cách ổn thỏa nhất, theo tiến trình hợp đồng và ngoại giao sẵn có. Được biết cách đây hai tuần, dự án với Naval Group của Pháp vẫn được xem là tiếp tục. Nếu Mỹ và Anh chỉ mới chấp thuận đóng tàu ngầm cho Úc thôi, trong vòng hai tuần qua, thì cũng không có lý do gì để vấn đề có vẻ khẩn cấp như sống còn. Hiểu rằng, nó cũng mất thêm 12 đến 18 tháng tới để cả ba bên ngồi xuống hoạch định chi tiết kế hoạch xây dựng.
Cung cách giải quyết sự việc có vẻ cấp bách đã xảy ra như trên không lý giải được những thắc mắc đã nêu. Ngoại trừ với hai lý do. Một, thông tin tình báo mới nhất về phía Trung Quốc cho biết Úc Anh và Mỹ cần hành động cấp bách, không thể chờ đợi nữa. Thông tin đó là gì, thì nó là bí mật quốc gia, có lẽ vài chục năm sau mới rõ. Hai, ngay cả như thế, Úc Anh và Mỹ không cần phải hành động như chiến tranh sắp tới nơi. Trừ khi cả ba nước có ý định rõ ràng, nhân cơ hội này, muốn gửi thông điệp đến Trung Quốc và các nước khác rằng, thế liên minh đã hình thành và cuộc chạy đua đã bắt đầu. Cuộc vận động ngoại giao ngầm đằng sau, từ Covid-19, đến kinh tế, quân sự, hay các vấn đề an ninh khác, trong vùng và quốc tế, trở nên cấp bách hơn.
Dường như tất cả đều nằm trong chiến lược sắp xếp của AUKUS !
Hiệp ước AUKUS rất quan trọng đối với Úc, vì, ngoài các nguyên do nói trên, còn vài điều mang tính văn hóa và lịch sử. Một, tư tưởng và ý thức hệ chính trị của cả ba rất giống nhau. Hai, khi còn là cường quốc, Anh đã từng là nước bảo hộ cho Úc, cho đến khi Mỹ thay thế vai trò này, và giờ đây Anh sẵn sàng trở lại đểcả hai nước đều chính thức đứng đàng sau Úc để cùng bảo đảm an ninh của quốc gia này. Ba, cả ba đều nhìn nhận không ai ngoài Trung Quốc là mối đe dọa an ninh không chỉ cho Úc hay vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, mà còn trên bình diện toàn cầu. Sự hợp tác giữa ba nước về tàu ngầm, hay chuyển nhượng công nghệ cao cấp khác, và nhiều mặt an ninh, sẽ thay đổi cuộc chạy đua vũ trang, và thế cờ vay Trung Quốc, trong hai ba thập niên tới.Thế liên minh AUKUS này mang nhiều ý nghĩa hơn là đóng tàu ngầm hạt nhân.
Được biết Trung Quốc hiện đang nỗ lực xây dựng thế liên minh mới với ba nước khác, để hình thành Bộ Tứ/QUAD, gồm Trung Quốc, Iran, Nga và Pakistan, để đối đầu với Bộ Tứ của Mỹ, Úc, Nhật và Ấn. Nhưng làm đồng minh của Trung Quốc có dễ không ? Ai hiểu lịch sử của Trung Quốc xưa nay cũng như nhìn cách điều hành quốc gia và điều khiển ngoại giao từ Tập Cận Bình, thì cũng đã biết được câu trả lời.
Với đặc tính đó, Trung Quốc dù hùng mạnh đến mấy, vẫn mãi mãikhông có bao nhiêu đồng minh, và vẫn rất cô đơn. Mỹ, cũng không phải hoàn toàn tốt lành, vẫn có thể bỏ rơi đồng minh như Miền Nam Việt Nam hay Afghanistan. Nhưng chính sách ngoại giao của mọi quốc gia đều chủ yếu dựa trên quyền lợi và quyền lực. Tuy nhiên trong trận thế này, đối đầu với một mối đe dọa to lớn và mưu mô trí trá như Bắc Kinh hiện nay, là chiến lược mà các nền dân chủ phải tiến hành để bảo vệ chính mình. Bởi rằng liên minh với những đồng minh khả tín và có cùng văn hóa chính trị là một ưu thế cấp số nhân so với đối thủ. Cùng nhau, sức mạnh của QUAD, G7, AUKUS, thế cờ vay này sẽ áp đảo đối với Trung Quốc, Iran, Pakistan và Nga. Nghiên cứu chỉ số quyền lực từLowy Institute cho thấy rõ bức tranh này. Nếu Tập Cận Bình đi bất cứ nước cờ sai nào trong thời gian tới, nhất là vấn đề Đài Loan và vùng nóng Biển Đông, thì hoặc chiến tranh là điều khó tránh khỏi, hoặc Tập sẽ bị thay thế khi thành phần lãnh đạ o Bắc Kinh muốn Trung Quốc tránh rơi vào vực thẳm.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 22/09/2021
Liên minh AUKUS : Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
Phạm Ngọc Phương Đoan, RFA, 21/09/2021
Thiết lập AUKUS để chống Trung Quốc
Mới đây, một sự kiện đã khiến dư luận thế giới chấn động, đó là việc Mỹ, Anh và Australia vừa công bố hình thành Hiệp ước an ninh đặc biệt "Đối tác an ninh ba bên" (AUKUS) gắn liền với Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tổng thống Mỹ Joe Biden phát biểu trong cuộc gặp trực tuyến với Thủ tướng Úc Scott Morrison và Thủ tướng Anh Boris Johnson ở Nhà Trắng hôm 15/9/2021 - AP
Mặc dù không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng hầu như tất cả mọi người đều nghĩ rằng, những diễn biến dẫn đến việc hình thành AUKUS phần lớn là do Trung Quốc. Chính sức ép mà Trung Quốc đã tạo ra đối với Australia, ví dụ nổi bật nhất gần đây là cú đáp trả của Bắc Kinh trước lời kêu gọi của Australia tiến hành cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của Covid-19. Cách thức Bắc Kinh "đánh đòn" Canberra đã khiến Australia nhận thấy nhu cầu cấp thiết trong việc tìm cách đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc.
AUKUS là khuôn khổ hợp tác đa phương mới nhất mà chính quyền Biden đang thúc đẩy trong bối cảnh Mỹ ngày càng cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc trong các lĩnh vực từ quân sự, kinh tế đến công nghệ.
Nội dung thỏa thuận trong AUKUS gồm những gì ?
Thỏa thuận liên quan việc chia sẻ thông tin và công nghệ trong một số lĩnh vực, trong đó gồm cả tin tức tình báo và công nghệ lượng tử, cũng như việc mua bán tên lửa.Nhưng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân là điểm then chốt. Điểm cần lưu ý đây là các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân chứ không sử dụng vũ khí hạt nhân. Thủ tướng Australia Scott Morrison khẳng định :"Tôi cần phải làm rõ rằng Australia không tìm cách có vũ khí hạt nhân hoặc thiết lập năng lực hạt nhân phục vụ mục đích dân sự".
Nhưng tại sao lại là tàu ngầm hạt nhân ? Nói một cách đơn giản, vấn đề ở đây liên quan đến phạm vi hoạt động, khả năng tàng hình và sức mạnh. Một tàu ngầm diesel không có đủ phạm vi hoạt động hoặc sức bền để đi từ Australia đến một nơi nào đó như Biển Đông hoặc eo biển Malacca và ở duy trì trên biển lâu dài, nhưng một tàu ngầm hạt nhân thì có đủ những khả năng đó. Tàu ngầm hạt nhân có khả năng tàng hình tốt hơn, khó bị phát hiện hơn vì không phải chạy gần bề mặt để sạc lại pin và có tốc độ tránh nguy hiểm nếu nguy cơ bị phát hiện ở mức cao.Michael Shoebridge, Giám đốc Quốc phòng, Chiến lược và An ninh Quốc gia tại Viện Chính sách Chiến lược Australia, nói :"Một tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân có năng lực ph òng vệ ghê gớm và do vậy có thể bao quát được cả khu vực. Chỉ có 6 quốc gia trên thế giới có thể có tàu ngầm hạt nhân. Thực sự, chúng có khả năng ngăn chặn cực kỳ mạnh mẽ mà không cần dùng vũ khí hạt nhân".
Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ năm 2020 về sức mạnh quân sự của Trung Quốc, hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đang vận hành 6 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân và 50 tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ diesel.
Ý nghĩa của việc thành lập AUKUS
Thứ nhất, AUKUS sẽ có những ý nghĩa về mặt địa chiến lược vì nó củng cố một cách hữu hình các mối quan hệ đồng minh gần gũi nhất mà Mỹ chia sẻ với các đồng minh ở cả Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và Châu Âu - đặc biệt là Anh và Australia. một đồng minh Châu Âu của Mỹ đang cùng một đồng minh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ hợp tác để cùng nhau phát triển các năng lực dưới biển và tuần tra các vùng biển ở Thái Bình Dương. Điều này báo hiệu cho Trung Quốc rằng, cũng giống như các đồng minh của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, các đồng minh Châu Âu của Mỹ cũng đang nghiêm túc nhìn nhận các hoạt động quân sự mang tính cưỡng ép của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương (ví dụ như chống lại Đài Loan và các hoạt động quâ n sự ở Biển Đông).
Thứ hai, AUKUS sẽ có ý nghĩa quân sự quan trọng, giúp tăng cường khả năng của các liên minh do Mỹ dẫn đầu trong việc ngăn chặn các hành động cưỡng ép quân sự của Trung Quốc ngay cả khi các năng lực của Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, Peter J. Dean - thành viên cấp cao tại Trung tâm Scowcroft, Giám đốc Viện Quốc phòng và An ninh của trường Đại học Tây Australia- cho rằng AUKUS là một bước tiến lớn đối với tất cả các bên. Ông cho rằng mặc dù Australia là nước sẽ được hỗ trợ phát triển tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, nhưng quyết định này còn thể hiện chính quyền Biden sẵn sàng trao quyền cho các đồng minh chủ chốt bằng công nghệ quân sự tiên tiến mà cho đến nay Mỹ vẫn chưa sẵn sàng chia sẻ. Đây là lần thứ hai Mỹ chia sẻ công nghệ hạt nhân với một quốc gia khác sau lần đầu là với Anh vào năm 1958.Một quan chức Mỹ cho biết việc chuyển giao công nghệ như vậy khó có thể xảy ra một lần thứ ba. Họ giải thích : "Đây là công nghệ cực kỳ nhạy cảm. Có thể nói nói, đây là một ngoại lệ đối với chính sách của Mỹ ở nhiều kh ía cạnh", đồng thời nhấn mạnh rằng quá trình trang bị cho Lực lượng Hải quân Hoàng gia Australia (RAN) các tàu ngầm hạt nhân sẽ vừa là thách thức vừa là điểm nhấn quan trọng.Tuy nhiên, Australia hiện không có cơ sở hạ tầng hạt nhân nội địa. Dù chính phủ Australia đã cam kết sẽ phát triển cơ sở hạt nhân trong nước theo hướng này nhưng đây sẽ phải là một nỗ lực bền bỉ trong nhiều năm.
Thời điểm ký thỏa thuận AUKUS cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thỏa thuận được đưa ra chỉ một tháng sau khi Mỹ rút quân khỏi Afghanistan, khiến cho có những nghi ngờ về cam kết của Mỹ đối với Châu Á.Anh cũng sốt sắng muốn tham gia nhiều hơn vào Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt sau khi nước này rút khỏi Liên minh Châu Âu (EU), còn Australia thì ngày càng lo ngại về mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc.
Guy Boekenstein, Giám đốc cấp cao của bộ phận quốc phòng và an ninh quốc gia của chính quyền Vùng lãnh thổ Bắc Australia, nói : "Đây là một‘chuyện lớn’ bởi nó thực sự cho thấy cả 3 quốc gia này đang vạch ra ranh giới nhằm bắt đầu đối phó với những hoạt động hung hăng của Đảng cộng sản Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nó cũng công khai cho thấy quan điểm chung của chúng tôi về vấn đề này và sự cam kết đối với một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ổn định và an toàn, điều trong vòng 70 năm qua đã đem lại sự thịnh vượng cho toàn khu vực, bao gồm cả sự phát triển kinh tế của Trung Quốc".
Trong khi đó, Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Ben Sasse cho biết thỏa thuận này"gửi đi một thông điệp rõ ràng về sức mạnh tới Chủ tịch Tập Cận Bình". Ông nói :"Tôi sẽ luôn hoan nghênh những bước đi cụ thể để chống lại Bắc Kinh và đây là một trong số đó".
Tàu ngầm của Trung Quốc ở Biển Đông hôm 12/4/2018. Reuters
AUKUS tác động gì đến biển Đông và Việt Nam ?
Thỏa thuận AUKUS cho thấy Mỹ, Australia và Anh coi Biển Đông là địa điểm chính cho cuộc cạnh tranh với Trung Quốc.
Cựu Thủ tướng Australia Kevin Rudd lưu ý chính phủ của Thủ tướng Scott Morrison cần làm rõ xem liệu Mỹ có yêu cầu các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Australia sẽ được triển khai để hỗ trợ Mỹ trong bất kỳ cuộc xung đột nào liên quan đến Đài Loan hoặc Biển Đông hay không. Về câu hỏi này, ngày 17/9 Mỹ khẳng định không đưa ra yêu cầu"có đi có lại".
Phản ứng của các quốc gia Đông Nam Á khá khác nhau trước vấn đề này. Các quốc gia có quan điểm tích cực về vấn đề biển Đông như Việt Nam, Philippines, Singapore cảm thấy việc ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc là điều đáng mừng, cho dù họ không công khai bày tỏ như vậy.
Tuy nhiên, một số nước Đông Nam Á khác lo ngại rằng thỏa thuận AUKUS là một tín hiệu rõ ràng cho thấy phương Tây sẽ có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc bằng cách kết nạp Australia vào"câu lạc bộ hạt nhân".
Cả Indonesia (nhà lãnh đạo không chính thức của ASEAN) và Malaysia đều lo ngại AUKUS cũng sẽ dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang lớn ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Đây cũng sẽ là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho Việt Nam, quốc gia luôn khẳng định việc không chọn bên nào giữa Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam đang cố gắng cân bằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Mối quan hệ giữa hai Đảng cộng sản, hai chính quyền Việt - Trung đã được thiết lập từ lâu, còn Mỹ đã từng là cựu thù. Tuy vậy, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã nhanh chóng phát triển. Đặc biệt, người dân Việt Nam tỏ rõ thái độ "thích Mỹ, ghét Trung". Điều này cũng phần nào tác động lên chính sách đối ngoại của Việt Nam. Một quan chức Mỹ đã phát biểu rằng, AUKUS sẽ sớm thúc đẩy quan hệ với các đối tác tiềm năng, mà Việt Nam sẽ là một đối tác như vậy. Những tác động mà AUKUS mang lại sẽ khiến có những dịch chuyển trong trật tự toàn cầu. Trong một thế gi ới phức tạp như hiện nay, điều duy nhất đảm bảo Việt Nam duy trì được vị thế của mình, ngoài việc cân bằng giữa các cường quốc, thì điểm then chốt phải là nâng cao sức mạnh của chính mình.
Cựu Bộ trưởng kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc mới đây có chia sẻ trên Facebook của ông ta về một kỷ niệm hồi năm 1993 với Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Ông Lý Quang Diệu đã nói với ông Phúc năm đó là :"Bao giờ mà các nhà đầu tư từ Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản giữ vị trí là nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam thì các ông mới thành công ! Muốn thế thì các ông phải có một môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch !..Muốn vậy các ông phải có một chính quyền mạnh từ cấp lãnh đạo cho đến người thực thi ! Muốn vậy thì chính quyền của các ông phải gồm những người giỏi và sạch sẽ nhất".
Cho đến giờ, những nhận định của ông Lý Quang Diệu vẫn đúng cho Việt Nam, nhưng Việt Nam vẫn chưa làm được những gì ông Lý Quang Diệu đã góp ý.
Trọng Nghĩa, RFI, 21/09/2021
Dư luận Pháp đến nay chủ yếu tập trung vào việc Paris mất đi một hợp đồng đóng tàu ngầm kếch xù cho Úc mà hầu như không chú ý đến liên minh chiến lược Anh-Mỹ-Úc vừa được chính thức khai sinh ngày 15/09/2021. Đối với giới chuyên gia địa lý chính trị, việc liên minh AUKUS được hình thành là một ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một "NATO Châu Á" mà Bắc Kinh đang lo sợ.
Tổng thống Mỹ Joe Biden họp trực tuyến từ Nhà Trắng (Washington-Hoa Kỳ) với thủ tướng Úc Scott Morrison (trái) và thủ tướng Anh Boris Johnson (phải), nhân buổi công bố việc thành lập liên minh AUKUS ngày 15/09/2021. AP - Andrew Harnik
AUKUS là một liên minh quân sự bao gồm ba đồng minh truyền thống : Úc, Anh và Hoa Kỳ, mà tên gọi lấy từ các chữ cái đầu tiên trong tên gọi bằng tiếng Anh của ba quốc gia liên quan, xếp theo thứ tự alphabet (A Australia - UK United Kingdom - US United States).
Thông cáo chung về việc thành lập liên minh khẳng định mục tiêu của khối này là "củng cố và hỗ trợ" lợi ích của ba thành viên trong các vấn đề quốc phòng và an ninh, thông qua việc "tăng cường chia sẻ thông tin và công nghệ" và "hội nhập sâu hơn các lãnh vực khoa học, công nghiệp và chuỗi cung ứng".
Sáng kiến đầu tiên được công bố của liên minh AUKUS chính là việc Mỹ và Anh sẽ "hỗ trợ" Úc để có được tàu ngầm hạt nhân trong vòng 18 tháng tới đây, sử dụng năng lực công nghiệp Hoa Kỳ và Anh Quốc.
Tuy nhiên, liên minh AUKUS không đơn thuần là quân sự, mà còn bao gồm các lĩnh vực khác nhau chủ yếu liên quan đến kỹ thuật số như mạng tin học, trí tuệ nhân tạo và thậm chí cả tin học lượng tử.
Đối với giới quan sát, dù không được nêu đích danh, nhưng Trung Quốc chính là đối tượng mà liên minh AUKUS nhắm tới. Cả ba thành viên liên minh đều đã từng cho thấy quyết tâm ngăn chặn đà bành trướng Bắc Kinh.
Theo ghi nhận của báo Pháp Les Echos ngày 18/09, Hoa Kỳ, nền tảng của liên minh AUKUS đã cho thấy rõ quyết tâm đối đầu với Trung Quốc, và liên minh mới hình thành này nằm trong chiến lược đa phương, liên minh với các đối tác truyền thống trong một mặt trận thống nhất, trái hẳn với cách làm đơn phương thời Donald Trump.
Úc được cho là nước hăng hái nhất trong liên minh, vào lúc quan hệ Canberra - Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc không ngừng mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, đặc biệt là kể từ khi họ tung ra sáng kiến "Con Đường Tơ Lụa Mới" vào năm 2013.
Les Echos nhắc lại rằng năm 2015, Canberra đã nhượng lại cảng Darwin ở miền Bắc Úc cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc. Cơ sở hạ tầng chiến lược này nằm trên lộ trình của Con Đường Tơ Lụa Mới và tiếp giáp với một căn cứ Mỹ.
Peter Dutton, bộ trưởng quốc phòng Úc, gần đây cho biết sẵn sàng chấm dứt hợp đồng cho thuê cảng Darwin, và việc xây dựng một cảng thứ hai, cho Hải quân Úc và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ hoạt động, đang được tiến hành.
Liên minh AUKUS do đó cũng nằm trong chiến lược chống Trung Quốc của Úc. Vào tháng 6 năm 2020, thủ tướng Úc Scott Morrison đã công bố ngân sách 270 tỷ đô la trong vòng 10 năm để cải thiện quân đội Úc, trong đó có việc mở rộng khả năng tấn công của hậu quản.
Luân Đôn rất muốn lấy lại vị thế của mình trên trường quốc tế sau khi rời Liên Hiệp Châu Âu. Về mặt lịch sử, Anh rất gần với Mỹ và Úc, và liên minh AUKUS là một cách để Boris Johnson tái khẳng định chiến lược "Nước Anh Toàn Cầu - Global Britain" của ông, dựa trên việc tăng cường hiện diện ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương để kiềm chế Trung Quốc.
Theo nhận định của hầu hết các chuyên gia, hiệp ước giữa Mỹ, Anh và Úc là một sự kiện địa chính trị rất quan trọng, cụ thể hóa quyết tâm của chính quyền Biden đối phó với Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, cơn ác mộng về sự hình thành một liên minh theo kiểu NATO ở Châu Á nhằm bao vây Trung Quốc có thể là đã bắt đầu trở thành hiện thực.
Trả lời phỏng vấn của báo Les Echos, ông Antoine Bondaz, chuyên gia về Trung Quốc tại Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp FRS, cho rằng AUKUS cụ thể hóa sự chuyển hướng chiến lược của Washington qua vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, khiến Bắc Kinh thêm lo ngại trước nguy cơ bị bao vây.
Theo chuyên gia Bondaz, quyết định của Washington chuyển giao công nghệ động cơ tàu ngầm hạt nhân cho Úc rất quan trọng, vì đây là lần đầu tiên sau 70 năm mà Mỹ làm điều này. Trường hợp Úc có thể làm tiền lệ cho Nhật Bản, Hàn Quốc và trong tương lai xa hơn là Indonesia hoặc Việt Nam.
Chính quyền Trung Quốc, theo ông Bondaz, chắc chắn là đang hết sức lo lắng trước nguy cơ bị Mỹ bao vây về mặt chiến lược. Trái với Washington, vốn có rất nhiều đồng minh, Bắc Kinh hầu như bị cô lập về mặt quân sự. Trung Quốc không có đồng minh quân sự nào, ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Nga và Pakistan hiện chỉ là đối tác chứ không hoàn toàn là đồng minh.
Đối với chuyên gia Bondaz, điều mà Bắc Kinh lo ngại hơn cả là về lâu về dài, một NATO Châu Á sẽ hình thành. Với AUKUS, Washington đã thành công trong việc gắn kết hai đồng minh Anh và Úc.
Sắp tới đây, Hoa Kỳ sẽ cố gắng thể chế hóa quan hệ đối tác quốc phòng của họ, bằng cách thúc đẩy việc chính thức hóa nhóm QUAD, tức là Bộ Tứ, bao gồm 4 nước Mỹ, Úc Nhật và Ấn nhân hội nghị thượng đỉnh tại Washington.
Mỹ cũng đang cố gắng mở rộng liên minh tình báo Ngũ Nhãn Five Eyes (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada, New Zealand và Úc), để kết nạp thêm hai đối tác Châu Á của Mỹ là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Mối lo ngại của Trung Quốc trước khả năng hình thành một "NATO Châu Á" lại càng gia tăng trong bối cảnh khối NATO đang tăng cường quan hệ với 4 đối tác chính thức trong vùng Châu Á Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand, để bảo vệ "trật tự quốc tế dựa trên luật pháp".
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 21/09/2021
********************
Trọng Nghĩa, RFI, 20/09/2021
Với quan hệ Pháp - Mỹ đột nhiên căng thẳng trong vụ "khủng hoảng tàu ngầm", các nhà phân tích cho rằng tình hình này, nếu kéo dài, có khả năng tác hại đến liên minh giữa Mỹ với Pháp nói riêng và với Châu Âu nói chung.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tham quan một tàu ngầm với thủ tướng Úc Malcolm Turnbull, Sydney, Úc, tháng 5/2018. Brendan Esposito Pool /AFP/File
Trước mắt, đây là một sự cố làm dấy lên mối hoài nghi về mặt trận thống nhất mà Washington đang cố thành lập nhằm chống lại sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, một mặt trận trong đó Châu Âu có thể đóng một vai trò không nhỏ.
Trả lời hãng tin Anh Reuters ngày 18/09/2021, ông Benjamin Haddad, giám đốc Trung tâm Châu Âu, thuộc Hội đồng Đại Tây Dương, đã không ngần ngại tự hỏi : "Vào thời điểm mà chính quyền Biden muốn tập hợp Châu Âu trong một mặt trận chung xuyên Đại Tây Dương để đẩy lùi sự quyết đoán của Trung Quốc, tại sao không kết nạp thành viên chủ chốt của Liên Âu ?".
Thành viên chủ chốt ở đây chính là nước Pháp, luôn được đánh giá là một trong hai đầu tầu chính thúc đẩy Liên Hiệp Châu Âu tiến lên, và là một trong số ít quốc gia Châu Âu có đủ thực lực để can dự vào khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, góp sức cho chính quyền Biden trong đối sách Trung Quốc của Mỹ.
Đối với nhiều chuyên gia, Trung Quốc đã vươn lên thành trọng tâm đối ngoại chính của chính quyền Biden, nhưng quan hệ lạnh nhạt với Paris có thể gây tác hại nghiêm trọng đến chiến lược rộng lớn này.
Trước mắt, thỏa thuận tàu ngầm ba bên Úc - Anh - Mỹ sẽ tăng cường sức mạnh của Hoa Kỳ và các đồng minh của họ khi phải đối mặt với sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, nhưng thiệt hại xuất phát từ sự tách rời của Pháp có thể lớn hơn mối lợi trước mắt đó.
Theo chuyên gia Pháp François Heisbourg, cố vấn cấp cao về Châu Âu tại Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế IISS, "Trung Quốc chắc hẳn đang phải cười nôn ruột". Lý do là vì Bắc Kinh thấy "có hy vọng loại bỏ nguy cơ Châu Âu sát cánh bên cạnh Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương".
Theo giới quan sát, mặc dù quan hệ Mỹ - Úc mạnh mẽ hơn sẽ khiến chính phủ Trung Quốc lo ngại, nhưng Pháp, cường quốc quân sự hàng đầu của Liên Hiệp Châu Âu, vẫn có lập trường mạnh mẽ trong việc thúc đẩy một đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc, trong khi các nước Liên Âu khác như Đức có vẻ chú ý hơn đến việc không làm xáo trộn quan hệ thương mại với Bắc Kinh.
Đối với chuyên gia Heisbourg, mối lợi lớn đối với Trung Quốc là khả năng "Châu Âu về cơ bản sẽ ở bên lề và không đóng vai trò tích cực ở Ấn Độ - Thái Bình Dương nói chung". Theo chuyên gia này, trong tương lai, Pháp có thể thu hẹp trọng tâm chú ý để chỉ tập trung vào các lợi ích cụ thể của mình ở Ấn Độ - Thái Bình Dương, thay vì nỗ lực đẩy lùi Trung Quốc trên bình diện rộng hơn.
Điều trớ trêu đối với những ai quan tâm đến việc đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc là một ngày sau khi thỏa thuận tàu ngầm Úc - Anh - Mỹ được loan báo, Liên Hiệp Châu Âu đã công bố chiến lược chính thức nhằm tăng cường sự hiện diện của mình ở Ấn Độ - Thái Bình Dương và chống lại Trung Quốc. Nhưng theo ông Heisbourg, với việc Pháp bớt hăng hái, nỗ lực của Châu Âu có nguy cơ chết yểu, hoặc nếu tồn tại thì cũng sẽ trở nên rời rạc hơn nữa.
Bên cạnh các suy đoán kể trên, một số nhà phân tích khác tin rằng nhu cầu bắt buộc để chống lại Bắc Kinh sẽ giúp các nước phương Tây thu hẹp bất đồng của mình.
Ông Greg Poling, thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế CSIS tại Washington, đã ví von : "Mức độ lo lắng ngày càng tăng trên toàn cầu về Trung Quốc là thủy triều đang nâng tất cả các tàu thuyền trong vụ này. Tôi khá tin tưởng rằng sẽ có một vài tháng khó khăn ở phía trước, nhưng Paris sẽ vượt qua được, bởi vì các lợi ích chiến lược của Pháp buộc họ phải vượt qua".
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 20/09/2021
*************************
Thanh Hà, RFI, 20/09/2021
Theo thông báo của phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh hôm 20/09/2021, chủ tịch Tập Cận Bình sẽ phát biểu qua video trong ngày khai mạc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc 21/09/2021, thay vì cử một giới chức cao cấp đến New York theo dự trù ban đầu. Theo giới phân tích, có lẽ liên minh quân sự Anh - Mỹ - Úc (AUKUS) đã khiến Trung Quốc thay đổi kế hoạch.
Một thành viên đội bảo vệ danh dự đi ngang qua tấm áp phích in hình chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, gần lối vào Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, ngày 18/09/2021. AP – Mark Schiefelbein
Thông tín viên đài RFI tại New York Carrie Nooten giải thích về tầm mức quan trọng của sự thay đổi vào giờ chót từ phía Bắc Kinh :
"Lẽ ra Trung Quốc chỉ phát biểu vào Thứ Bảy tới đây trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, thế nhưng khi chọn giải pháp để chủ tịch Tập Cận Bình phát biểu qua video, Bắc Kinh đốt cháy giai đoạn đến 4 ngày trong lịch làm việc của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, lãnh đạo Trung Quốc sẽ phát biểu ngay trong ngày đầu tiên, tức là ngày mai.
Cần biết rằng, tại Liên Hiệp Quốc, thứ tự đại diện của 193 thành viên phát biểu được quy định tùy theo cấp bậc. Một vị nguyên thủ quốc gia được ưu tiên phát biểu trước một vị thủ tướng và thủ tướng thì được quyền phát biểu trước một vị bộ trưởng. Cho nên chủ tịch Tập Cận Bình sẽ lên tiếng cùng ngày với tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và như vậy có thể trực tiếp đáp lời lãnh đạo Nhà Trắng.
Có rất nhiều khả năng Bắc Kinh đã quyết định thay đổi chương trình để phản đối liên minh Anh – Mỹ - Úc (AUKUS). Chính hiệp ước an ninh này đang khiến Paris phẫn nộ. Đương nhiên, Trung Quốc không phản đối vì những lý do tương tự như Pháp. Rất có thể Bắc Kinh phản đối chiến lược của Hoa Kỳ trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương và lên án một khối gồm 3 nước phương Tây chống lại Trung Quốc. Qua hành động này, Bắc Kinh đưa công luận trở lại với vấn đề cơ bản, vào lúc mà từ nhiều ngày qua mọi người chỉ chú ý đến khủng hoảng giữa Pháp với Hoa Kỳ chung quanh hợp đồng bán tàu ngầm cho Úc".
Thanh Hà, RFI, 15/09/2021
Trong ngày làm việc tại Seoul hôm nay 15/09/2021, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị mạnh mẽ chỉ trích ý định của Hoa Kỳ muốn kết nạp thêm Hàn Quốc vào liên minh tình báo Five Eyes. Theo ông, liên minh hiện tại bao gồm 5 quốc gia, Anh, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand, là một "sản phẩm hạng hai chiến tranh lạnh để lại".
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (trái) được tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đón tiếp tại phủ tổng thống, Seoul, ngày 15/09/2021. Reuters - Jonhap News Agency
Hãng tin Hàn Quốc Yonhap lưu ý là tuyên bố của lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc được đưa ra trong bối cảnh Hạ Viện Mỹ chuẩn bị một dự luật kêu gọi tổng thống Biden mở rộng liên minh tình báo, còn được gọi là nhóm "Ngũ Nhãn" (Five Eyes), đến một số các đồng minh Châu Á của Washington. Sáng kiến này nhằm liên kết các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ. Nhiều nhà phân tích cho rằng, sau việc rút quân khỏi Afghanistan, Mỹ sẽ rảnh tay đối phó với Trung Quốc và tăng cường hiện diện quân sự tại Biển Đông.
Ngoài ra, trả lời báo chí sau buổi làm việc với đồng nhiệm Hàn Quốc Chung Eui Yong, ông Vương Nghị đã kêu gọi Seoul cùng hợp tác với Bắc Kinh vì nghĩa vụ đối với cộng đồng trước những thay đổi to lớn trên sân khấu chính trị. Lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc cũng cho rằng Hàn Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia "không thể tách rời nhau. Đôi bên cần có một mối bang giao tốt đẹp hơn, ổn định, toàn diện và thẳng thắn, cần mở rộng những lĩnh vực mà đôi bên cùng có những quyền lợi chung, cần tìm kiếm những điểm có thể hợp tác".
Về phần ngoại trưởng Hàn Quốc, Chung Eui Yong bày tỏ hy vọng Bắc Kinh tiếp tục hỗ trợ những nỗ lực của chính quyền Seoul vì hòa bình.
Theo một số nhà quan sát, chuyến công tác tại Seoul lần này là dịp để ngoại trưởng Vương Nghị thăm dò ý định của đối tác kinh tế ở đông bắc Á trên một loạt các hồ sơ nhậy cảm, vào lúc Hoa Kỳ, đồng minh chiến lược của Hàn Quốc, thành lập một mặt trận chung để đương đầu với Trung Quốc trên nhiều hồ sơ : luật an ninh quốc gia Hồng Kông do Bắc Kinh áp đặt, các biện pháp trừng phạt việc Trung Quốc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, và quan hơn nữa là về căng thẳng ở Biển Đông và Hoa Đông.
Thanh Hà
Anh Vũ, RFI, 18/09/2021
Thỏa thuận liên minh Mỹ -Anh-Úc cam kết "tăng cường mối liên hệ" với Đài Loan là một tin vui giúp hòn đảo đỡ cảm thấy lẻ loi hơn trước đe dọa bị Trung Quốc thôn tính. Đài Bắc đón nhận thông tin về thỏa ước AUKUS với hy vọng hòa bình và ổn định tại eo biển Đài Loan được giữ gìn.
AUKUS giúp Đài Loan bơn cô đơn trước những đe dọa của Trung Quốc. Ảnh : tổng thống Đài Loan, Thái Anh Văn. Sam Yeh AFP/File
Thông tín viên Adrien Simorre tại Đài Bắc ghi nhận :
"Ngôn từ của chính quyền Đài Loan vẫn thận trọng, nhưng thỏa ước mới của những nước nói tiếng Anh chỉ có thể là tin tốt lành cho Đài Bắc. Nằm cách bờ biển Trung Quốc 200 km, hòn đảo dân chủ này những năm qua luôn phải đối mặt với những sức ép ngày càng lớn của Bắc Kinh.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Đài Loan, Âu Giang An (Joanne Ou) khẳng định : "Từ lâu nay Đài Loan chia sẻ với Hoa Kỳ, Úc và Anh Quốc những quan tâm đến hòa bình và ổn định trong vùng Ấn Độ- Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm sâu sắc mối quan hệ với Washington và những nước đối tác khác để cùng bảo vệ hòa bình trong eo biển Đài Loan".
Đài Loan được nhắc đến 4 lần trong tuyên bố chung giữa Washington và Canberra. Cả hai cường quốc Mỹ-Úc đều nhấn mạnh quyết tâm "tăng cường mối liên hệ với Đài Loan".
Sau Nhật Bản hồi tháng 7 vừa qua, sự hậu thuẫn của nhóm ba nước Anh, Mỹ và Úc là một cảnh cáo nghiêm túc đối với Trung Quốc. Đặc biệt là Đài Loan vừa nhận được một tin vui khác đến từ Liên Hiệp Châu Âu. Trong tuần này, Bruxelles vừa công bố chiến lược trong vùng Ấn Độ- Thái Bình Dương, trong đó cũng tập trung những tham vọng của Trung Quốc.
Nghị Viện Châu Âu hôm 16/09 đã thông qua một nghị quyết báo động về chính sách "bành trướng" của Trung Quốc trong Thái Bình Dương đồng thời bảo vệ thỏa thuận đầu tư với Đài Loan. Như vậy cũng đủ giúp Đài Loan giữ được lạc quan, đỡ cảm thấy đơn độc đối phó với những đe dọa của Trung Quốc".
Anh Vũ
***********************
Thùy Dương, RFI, 18/09/2021
Bị Trung Quốc chỉ trích mạnh mẽ về vụ mua tàu ngầm hạt nhân của Mỹ, chính quyền Úc ngày 17/09/2021 cam kết hành động để luật pháp quốc tế được tuân thủ tại những vùng trên không và trên biển mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Thủ tướng Úc Scott Morrison, khẳng định AUKUS là hiệp ước mang tính "vĩnh viễn". Tolga Akmen AFP/Archivos
Đáp lại những lời chỉ trích của Bắc Kinh rằng việc Canberra mua tầu ngầm hạt nhân là "cực kỳ vô trách nhiệm" và đe dọa sự ổn định trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, trả lời phỏng vấn đài 2GB hôm 17/09/2021, thủ tướng Úc Scott Morrison khẳng định Trung Quốc có một "chương trình đóng tàu ngầm hạt nhân rất lớn", Bắc Kinh có quyền đưa ra các quyết định quốc phòng vì lợi ích của Trung Quốc nên đương nhiên là Úc và tất cả các quốc gia khác đều có quyền làm như vậy.
Thủ tướng Morrison cũng nhấn mạnh Canberra ý thức được rằng năng lực tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc cũng như các chi tiêu quân sự của Bắc Kinh đều gia tăng nên cần bảo đảm rằng hải phận và không phận quốc tế luôn là các khu vực quốc tế và các quy định pháp luật được áp dụng giống nhau ở mọi nơi. Thủ tướng Úc cho biết thêm là Canberra muốn bảo đảm việc không có "khu vực cấm" trong các vùng có sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế. úc khẳng định liên minh mới với Mỹ và Anh, thành quả của 18 tháng thảo luận giữa Canberra với Washington và Luân Đôn, sẽ là "vĩnh cửu".
AFP nhắc lại thủ tướng Úc Scott Morrison đã nhiều lần nhấn mạnh trong các cuộc phỏng vấn rằng Canberra đang ứng phó với những gì đang diễn ra tại Châu Á - Thái Bình Dương, nơi ngày càng có nhiều tranh chấp lãnh thổ và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Thùy Dương
**********************
Thùy Dương, RFI, 17/09/2021
Ngày 16/09/2021, sau khi Hoa Kỳ, Úc và Anh thông báo thành lập liên minh AUKUS nhằm tăng cường quan hệ đối tác an ninh ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, thủ tướng Anh Boris Johnson đã hoan nghênh quan hệ đối tác này, được xem là thành công ngoại giao đầu tiên của ông kể từ khi Anh Quốc ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu.
Thủ tướng Boris Johnson phát biểu trước Nghị Viện Anh tại Luân Đôn ngày 15/09/2021. AFP – Roger Haris
Phát biểu trước các dân biểu, thủ tướng Anh khẳng định Liên minh AUKUS sẽ củng cố vị thế của nước Anh và tạo thêm hàng trăm việc làm trình độ cao.
Từ Luân Đôn, thông tín viên RFI Claire Digiacomi cho biết thêm chi tiết :
"Với liên minh này, chính sách đối ngoại hậu Brexit của Vương quốc Anh sẽ được hình thành Hay nói đúng hơn, đó là chính sách mà Boris Johnson mong muốn, cùng với khái niệm "Nước Anh toàn cầu", một nước Anh gây được ảnh hưởng trên sân khấu quốc tế và thoát khỏi gánh nặng của các định chế Châu Âu, điều mà từ trước đến nay thủ tướng Anh đã không thể áp đặt, nhưng nay đã được thực hiện với quan hệ đối tác này.
Đây là một chiến thắng ngoại giao chống lại việc cô lập Anh Quốc sau khi nước này rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu. Theo phủ thủ tướng Anh, điều đó cũng chứng minh là Anh Quốc không cần Liên Âu.
Trước các dân biểu, thủ tướng Boris Johnson đã không giấu giếm niềm tự hào. Trước tiên, ông nêu lên những lợi ích đối với chính sách đối ngoại. Theo ông Boris Johnson, quan hệ đối tác này sẽ "củng cố vị thế của đất nước là một siêu cường quốc về khoa học và công nghệ". Về lợi ích trong nước, ông đưa ra một lập luận về kinh tế. Thủ tướng bảo đảm là "hàng trăm việc làm trình độ cao sẽ được tạo ra trên toàn quốc".
Đối với thủ tướng, liên minh này chỉ là "sự khởi đầu" của một chính sách ngoại giao mới về quốc phòng. Vương quốc Anh cũng tiếp tục công cuộc tìm kiếm các thỏa thuận thương mại trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Á và Châu Mỹ".
Thùy Dương
Chỉ huy tàu sân bay Mỹ khẳng định quyền tự do đi lại ở Biển Đông
RFA, 15/09/2021
Chỉ huy một tàu sân bay Mỹ được triển khai ở Biển Đông vừa cho Đài Á Châu Tự do (RFA) biết rằng việc triển khai này là nhằm đảm bảo "quyền tự do đi lại của tất cả các quốc gia trong vùng biển quốc tế". Khi thực hiện sứ mệnh này, tàu sân bay của Mỹ đã ở vị trí chỉ cách một tàu khảo sát của Trung Quốc khoảng 50 hải lý khi tàu Trung Quốc hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia (EEZ) vào cuối tuần vừa qua.
Một thủy thủ Mỹ dọn dẹp máy bay chiến đấu F/A-18F Super Hornet trên boong đáp của tàu sân bay USS Carl Vinson (CVN 70) vào ngày 11/9/2021 trong đợt triển khai hoạt động ở Biển Đông -Hải quân Mỹ
Dữ liệu giao thông hàng hải toàn cầu cho thấy, vào sáng sớm chủ nhật, tàu USS Carl Vinson (CVN-70) đang đi trên biển Natuna ngoài khơi Indonesia, gần nơi tàu khảo sát Hải dương Địa chất 10 của Trung Quốc đã hoạt động từ cuối tháng 8.
Điều khác lạ là siêu tàu sân bay của Mỹ cũng thông báo vị trí của nó - một động thái mà các nhà phân tích cho rằng là một hoạt động chủ ý nhằm cho thấy tàu này đang hoạt động tự do trong vùng biển quốc tế. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết các khu vực thuộc Biển Đông.
Trong một cuộc phỏng vấn độc quyền với RFA hôm thứ bảy, chỉ huy Nhóm tấn công Carl Vinson, Chuẩn đô đốc Dan Martin cho biết : "Các hoạt động của chúng tôi trong khu vực thực sự thể hiện sự sẵn sàng bảo vệ lợi ích của chúng tôi cũng như các quyền tự do được quy định bởi luật pháp quốc tế".
Tuần trước, nhóm tấn công tàu sân bay bao gồm tàu sân bay USS Carl Vinson (CVN-70) và ba tàu quân sự khác đã đi vào Biển Đông để tiến hành "các hoạt động an ninh hàng hải".
Chỉ vài ngày trước đó, Cục An toàn Hàng hải Trung Quốc thông báo rằng tất cả các tàu nước ngoài, kể cả hàng không mẫu hạm đi vào khu vực mà Trung Quốc cho là lãnh hải của mình, phải thông báo cho Bắc Kinh và chịu sự giám sát của Trung Quốc.
Theo luật quốc tế, lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ lãnh thổ đất liền của một quốc gia. Nhưng Trung Quốc gộp cả các vùng biển xung quanh các đảo nhân tạo mới được nước này cải tạo vào trong quyền tài phán hàng hải của mình bất chấp sự phản đối của các nước khác trong khu vực.
Chuẩn Đô đốc Martin nói : "Bất kỳ luật hoặc quy định nào của quốc gia ven biển không được vi phạm các quyền hàng hải và hàng không mà tất cả các quốc gia được hưởng theo luật pháp quốc tế".
"Các tuyên bố chủ quyền hàng hải bất hợp pháp và sâu rộng bao gồm cả ở Biển Đông đe dọa đáng kể đối với các quyền tự do trên biển, bao gồm tự do hàng hải, hàng không và thương mại hợp pháp".
"Chúng tôi sẽ không bị ép buộc hoặc buộc phải từ bỏ các chuẩn mực quốc tế" – Chuẩn Đô đốc nói.
'Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Hoa trong tình thế cảnh giác’
Lực lượng hải quân và không quân Mỹ định kỳ tiến hành cái gọi là Hoạt động Tự do Hàng hải (FONOP) để đối đầu với các yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi hàng năm có tới 1/3 thương mại hàng hải toàn cầu qua lại. Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hoạt động FONOP này.
Thời báoHoàn cầu, một ấn phẩm của tờ Nhân dân Nhật báo - cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Quốc, cũng gọi việc triển khai tàu sân bay USS Carl Vinson là "hành động khiêu khích".
Đây là lần thứ sáu tàu sân bay Mỹ được triển khai ở Biển Đông trong năm nay nhưng là lần đầu tiên với khả năng tiên tiến của máy bay chiến đấu tàng hình F-35C và máy bay trực thăng tiltrotor CMV-22B Osprey đời mới – tờ Global Times lưu ý.
Tờ báo dẫn lời một chuyên gia quân sự Trung Quốc cảnh báo rằng quân đội Trung Quốc đã được đặt trong tình trạng phải cảnh giác và "Trung Quốc có đầy đủ khả năng và tự tin đối phó với những hành động khiêu khích như vậy".
Tuy nhiên, theo chỉ huy của Nhóm tấn công Carl Vinson, "cho đến nay, tất cả các hoạt động tương tác của chúng tôi với hải quân Trung Quốc đều diễn ra chuyên nghiệp và an toàn. Khi chúng tôi đi xung quanh khu vực, có một số tàu đi theo nhưng tôi chưa thấy bất kỳ hành động hiếu chiến nào trên biển hay trên không khiến tôi lo ngại".
Một đánh giá của Đài Á Châu Tự do về dữ liệu theo dõi tàu cho thấy, khi tàu Carl Vinson đi qua khu vực phía Nam của Biển Đông, nó ở một điểm cách khoảng 50 hải lý so với tàu Hải Dương địa chất 10 - một trong những tàu khảo sát định kỳ tiến hành nghiên cứu tại các vùng biển tranh chấp của Trung Quốc.
Khu vực mà tàu Hải dương Địa chất hoạt động hôm chủ nhật nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Indonesia. Indonesia không coi mình là một bên trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông mặc dù Bắc Kinh tuyên bố các quyền lịch sử đối với một số phần thuộc vùng biển chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.
Một bản đồ cho thấy vị trí của tàu sân bay USS Carl Vinson hôm Chủ Nhật ở Biển Natuna ngoài khơi Indonesia trong tương quan với tàu khảo sát Hải dương Địa chất 10 của Trung Quốc vốn đã hoạt động trong khu vực từ cuối tháng 8/2021. (Nguồn : Marine Traffic / RFA).
Chuẩn Đô đốc Martin nói rằng, do các hạn chế do dịch bệnh Covid-19 gây ra, nhiều khả năng tàu USS Carl Vinson sẽ không ghé thăm cảng nào trong đợt triển khai này nhưng hoạt động linh hoạt của tàu sẽ "cho các đối tác và đồng minh của chúng tôi thấy rằng chúng tôi sát cánh cùng họ".
Ông nhắc lại cam kết của Mỹ trong việc bảo vệ Philippines, một quốc gia tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông nếu nước này bị tấn công. Ông nói rằng Philippines là "đồng minh hiệp ước lâu đời nhất của chúng tôi ở Châu Á".
Chuẩn Đô đốc Martin nói : "Một cuộc tấn công vũ trang chống lại các lực lượng vũ trang, tàu công cộng hoặc máy bay của Philippines ở Thái Bình Dương, bao gồm cả ở Biển Đông, sẽ dẫn tới một nghĩa vụ theo Hiệp ước Phòng thủ chung giữa Mỹ và Philippines".
Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã đến Washington trong tuần trước để gặp các quan chức Mỹ. Theo một tuyên bố của Philippines, "cả hai bên đã nhất trí cùng xây dựng một khuôn khổ hàng hải song phương nhằm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực hàng hải".
Phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế hôm thứ tư tuần trước, Bộ trưởng Lorenzana cho biết Manila đang nỗ lực "nâng cấp và cập nhật" mối liên minh với Mỹ. Ông yêu cầu cần làm rõ hơn "mức độ cam kết của Mỹ" theo hiệp ước mà hai nước đồng minh đã ký cách đây 70 năm.
Anh Vũ, RFI, 17/09/2021
Vụ Úc quyết định trang bị tàu ngầm hạt nhân Mỹ khiến Paris mất đơn hàng mấy chục tỷ đô la đang gây xôn xao dư luận Pháp. Vụ việc nói lên nhiều điều và còn để lại nhiều hệ lụy khác nhau không chỉ về quan hệ giữa các nước phương Tây, mà còn cả về địa chính trị trong vùng Châu Á - Thái Bình Dương, đang nóng lên với cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc Mỹ - Trung.
Tàu chống ngầm của Nga cập cảng Indonesia vào hồi năm 2016. AP - Tatan Syuflana
Phần đông giới chuyên gia nhận định việc Úc trang bị tàu ngầm hạt nhân có thể là yếu tố thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang và đặt ra nhiều vấn đề về cấm phổ biến vũ khí hạt nhân trong khu vực. Từ đầu tuần, Châu Á - Thái Bình Dương liên tiếp diễn ra các sự kiện cho thấy rõ cuộc chạy đua vũ trang với nhịp độ hối hả : Trong vòng 24 giờ, Bắc Triều Tiên đã bắn 2 tên lửa đạn đạo từ bệ phóng cơ động, Hàn Quốc cũng bắn thử một tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm. Tiếp theo, đến lượt Úc thông báo mua một loạt tàu ngầm hạt nhân cùng các tên lửa hành trình thế hệ công nghệ mới của Mỹ.
Những hoạt động quân sự này cho thấy quyết tâm của nhiều nước trong vùng đang sẵn sàng chi không tiếc tiền để trang bị các loại vũ khí hiện đại nhất. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Quốc tế về Hòa bình Stockholm, năm ngoái, chỉ riêng vùng Châu Á - Thái Bình Dương đã chi hơn nửa tỷ đô la Mỹ cho trang bị quốc phòng. Chuyên gia Lucie Beraud –Sudreau của viện này giải thích với AFP : "Người ta thấy xu hướng gia tăng chạy đua vũ trang từ 20 năm nay. Châu Á là nơi có thể cảm nhận rõ xu hướng này".
Bà Beraud-Sudreau nhấn mạnh có mối liên quan giữa tăng trưởng kinh tế nhanh, giúp các quốc gia trở nên giàu hơn và sự thay đổi về "quan niệm mối đe dọa" đang đè nặng trong vùng này.
Riêng Trung Quốc đã chiếm một nửa chi phí vũ trang của khu vực, với việc tăng ngân sách quốc phòng đều đặn từ 26 năm qua. Giờ đây nước này đã có một lực lượng quân đội được đánh giá là hiện đại. Bắc Kinh dành hàng năm cho quốc phòng một ngân sách khoảng 252 tỷ đô la, tức tăng 76% trong 10 năm. Điều này đã giúp Trung Quốc có thể triển khai lực lượng trong toàn vùng Châu Á -Thái Bình Dương và có khả năng cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ.
Chi phí quốc phòng của các nước như Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước còn lại cũng bị cuốn theo xu hướng tăng với nhịp độ nhanh chóng.
Michael Shoebridge, cựu lãnh đạo tình báo quốc phòng Úc, hiện là thành viên của Viện nghiên cứu chiến lược chính trị Úc, nhận định các chi phí quốc phòng như vậy là nhằm phản ứng lại với Trung Quốc.
Theo ông, cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực quân sự vẫn diễn ra giữa Trung Quốc và các nước đối tác khác. Các nước này muốn răn đe và đề phòng Bắc Kinh sử dụng vũ lực với họ. "Phản ứng đó càng lớn hơn đặc biệt từ khi Tập Cận Bình lên lãnh đạo Trung Quốc. Ông ta luôn tỏ cho thấy rõ sẵn sàng sử dụng mọi sức mạnh mà Trung Quốc có được theo cách hống hách và hung hăng".
Giờ đây gần 20% các chi tiêu trong vùng cho quốc phòng được dành để mua sắm trang thiết bị quân sự, đặc biệt là các phương tiện hải quân và các vũ khí răn đe tầm xa.
Theo ông Shoebridge, quyết định lịch sử của Úc mua ít nhất 8 tàu ngầm hạt nhân và các tên lửa hành trình Tomahawk là minh chứng cho thuyết răn đe từ xa. Tương tự, chuyên gia này cho rằng chi tiêu quân sự của Hàn Quốc nhằm đối phó với Trung Quốc cũng như với Bắc Triều Tiên. Đồng thời, việc hiện đại hóa quân đội Ấn Độ rõ ràng là có động cơ từ việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự.
Về phần mình, Trung Quốc tố cáo Hoa Kỳ nuôi dưỡng cuộc chạy đua vũ trang. Nếu như nỗi sợ Trung Quốc là động cơ để chi phí quốc phòng trong vùng thì dường như Hoa Kỳ cũng muốn thúc đẩy tiến trình bằng cách tích cực hỗ trợ các nước đồng minh trong vùng củng cố sức mạnh quân sự .
Trong một góc độ khác rộng hơn, tác giả Nathalie Guibert trên nhật báo Le Monde nhìn thấy những nguy cơ phổ biến hạt nhân trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Quan hệ đối tác chiến lược "AUKUS" giữa Úc, Hoa Kỳ và Anh, vừa hình thành cùng với việc Canberra trang bị một loạt tàu ngầm hạt nhân Mỹ, có thể sẽ kích thích các nước khác cũng muốn có loại vũ khí hiện đại này.
Vụ mua sắm này đưa Úc trở thành quốc gia thứ 7 trên thế giới sở hữu loại tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ngoài ra hợp đồng còn bao gồm cả việc sử dụng công nghệ làm giàu uranium mức độ cao dùng làm năng lượng cho tàu ngầm, tức là mục đích quân sự.
Trong lĩnh vực hạt nhân, "các nước Châu Âu và Pháp đang nỗ lực rất nhiều đối với Iran, họ sẽ phải tập trung vào vấn đề ngày càng phức tạp là phổ biến hạt nhân trong vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương", nhà nghiên cứu Pháp, Antoine Bondaz thuộc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược (FRS) tại Paris nhận định. "Vùng này bao gồm các quốc gia đang phát triển hạt nhân như Bắc Triều Tiên, các nước tham gia Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (TNP) như Trung Quốc, các quốc gia không ký như Ấn Độ, Pakistan, và còn cả những nước đang tranh cãi về việc trang bị vũ khí hạt nhân như Hàn Quốc".
Theo các chuyên gia, nguy cơ trước hết là nhiều nước khác cũng muốn được trang bị tàu ngầm hạt nhân, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc, những nước có đủ tiềm lực kinh tế. Liệu Mỹ có từ chối các đồng minh này không ?
Vấn đề nhiên liệu cho các khí tài quân sự vẫn là góc chết của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân TNP, vốn đã có hiệu lực từ 1970. Hiệp ước quy định chặt về vũ khí, quyền được tiếp cận năng lượng hạt nhân dân sự, chuyển giao công nghệ, nhưng các vũ khí sử dụng năng lượng hạt nhân thì không có quy định nào.
Chỉ có 6 cường quốc Nga, Trung Quốc, Pháp, Mỹ , Anh và gần đây là Ấn Độ vừa có bom hạt nhân, vừa có tàu ngầm nguyên tử. Nhiều nước như Pakistan, Israel, Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn chưa làm chủ được công nghệ phức tạp của tàu ngầm chạy năng lượng hạt nhân.
Tờ Hoàn Cầu Thời báo ( Globel Times), tờ báo có giọng điệu dân tộc chủ nghĩa nhất ở Trung Quốc, số ra hôm 16/09, trích dẫn một chuyên gia quân sự khẳng định chỉ có các quốc gia có bom hạt nhân mới có thể triển khai tàu ngầm hạt nhân. Tờ báo mượn lời chuyên gia để đe dọa rằng, giờ đây Úc trở thành "mục tiêu tiềm tàng của đòn đánh hạt nhân", và "Bắc Kinh và Matxcơva sẽ không còn đối xử với Canberra như là một cường quốc phi hạt nhân, mà như một đồng minh của Hoa Kỳ có khả năng được trang bị vũ khí hạt nhân bất kỳ lúc nào".
Anh Vũ