Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Vai trò "nhân tố tiềm tàng làm thay đổi cuộc chơi trên toàn cầu" của đại dịch viêm đường hô hấp cấp do virus corona chủng mới (Covid-19) có thể sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ tại Biển Đông.

bd1

Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động tại tuyến hàng hải quốc tế trong bối cảnh Bộ Quốc phòngg Mỹ phải vật lộn với 1.500 ca được xác định là nhiễm virus SARS-CoV-2 trong lực lượng quân đội của họ.

Đại dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát tại thành phố Vũ Hán của Trung Quốc và lên tới đỉnh điểm hồi tháng 2/2020 vừa qua, được coi là dịch bệnh nghiêm trọng nhất. Mặc dù đang phải nỗ lực để ngăn chặn làn sóng bùng phát Covid-19 lần thứ hai, song Trung Quốc cũng đang dần trở lại nhịp sống bình thường thông qua việc phô trương sức mạnh quân sự. Trong khi đó, Mỹ đang ở vào thời kỳ đỉnh dịch Covid-19 với số lượng người nhiễm và tử vong cao ngất. Có thể nói, SARS-CoV-2 đã gây cản trở cho bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ ở Biển Đông.

Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của Mỹ, gần đây đã tới thăm Việt Nam, hiện neo đậu tại đảo Guam sau khi có báo cáo cho biết trên con tàu này có hơn 170 ca nhiễm Covid-19. Mọi việc trở nên xấu đi sau khi thuyền trưởng của con tàu này là ông Brett Crozier bị sa thải vì ông đã viết một bức thư thúc giục hải quân Mỹ tăng cường các biện pháp kiểm soát đợt bùng phát dịch Covid-19 trên tàu. Bức thư đã bị rò rỉ cho giới truyền thông.

Một tàu sân bay khác của Hải quân Mỹ đang neo đậu tại vùng biển Châu Á là tàu USS Ronald Reagan. Tuần trước, một quan chức quốc phòng Mỹ nói với hãng tin CNN rằng trên con tàu này có "rất nhiều" ca dương tính với SARS-CoV-2. Con tàu này hiện neo đậu tại Yokosuka (Nhật Bản) để bảo dưỡng. Các ca dương tính Covid-19 khác trong lực lượng quân đội Mỹ được cho là ở một căn cứ Hải quân tại Sasebo (Nhật Bản) và tại Hàn Quốc.

Một số nhà phân tích, chẳng hạn như Carl Schuster - một thuyền trưởng đã nghỉ hưu của lực lượng hải quân Mỹ và là cựu giám đốc phụ trách các chiến dịch tại Trung tâm Tình báo Liên quân của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Mỹ - cho rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có thể sẽ tận dụng lợi thế trong lúc Mỹ đang phải tập trung sự chú ý cho một vấn đề nghiêm trọng khác. Ông nói : "Tôi cho rằng Trung Quốc đang lợi dụng việc hải quân Mỹ phải đối mặt với những thách thức từ SARS-CoV-2 để tăng cường vị thế ở Biển Đông bằng cách hiện diện và hoạt động tùy thích".

Vụ một tàu thuộc lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Trung Quốc mới đây đâm chìm một tàu cá của Việt Nam chỉ càng củng cố lập luận rằng mục tiêu của Trung Quốc là giành lợi thế ở Biển Đông. Siêu cường thứ 2 thế giới này tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết diện tích Biển Đông và tỏ ra coi thường những lời phản đối của quốc tế và khu vực. Sự phản kháng của các nước láng giềng cũng không phải là thách thức đối với lực lượng quân sự quy mô lớn của Trung Quốc, vì vậy, khu vực này phụ thuộc vào sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ với hy vọng sự hiện diện đó sẽ làm đối trọng với Trung Quốc. Tuy nhiên, do sự bùng phát của đại dịch Covid-19, hiện giờ Mỹ dường như bị "trói tay" phần nào, ngoài việc lên tiếng chỉ trích chính phủ Trung Quốc đang tăng cường đưa ra những "tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp" ở Biển Đông.

Nữ phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus cho biết Mỹ "quan ngại sâu sắc" về việc tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam, khiến 8 ngư dân Việt Nam bị hất khỏi tàu khi con tàu này chìm. Bà nhấn mạnh : "Vụ việc này là sự kiện mới nhất trong một loạt hành động lâu nay của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) nhằm khẳng định các tuyên bố hàng hải bất hợp pháp của họ và gây bất lợi cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông". Bà cho rằng Trung Quốc nên "tập trung vào việc tiếp tục hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong nỗ lực chống đại dịch toàn cầu này và ngừng lợi dụng sự sao nhãng hay tình trạng dễ bị tổn thương của các quốc gia khác để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền phi pháp tại Biển Đông".

Tuyên bố của bà Ortagus cũng chỉ ra rằng kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, Bắc Kinh đã lợi dụng tình hình để công bố 2 trạm nghiên cứu mới mà nước này thiết lập tại các căn cứ quân sự ở Đá Chữ Thập và Đá Subi, đồng thời đưa một máy bay quân sự đặc biệt ra Đá Chữ Thập.

James Patterson

Nguyên tác : With US Sideswiped By Coronavirus, Beijing Steps Up Operations In South China Sea, International Business Times, 08/04/2020

Minh Anh giới thiệu

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 24/04/2020

James Patterson, nhà báo tại Thời báo kinh doanh quốc tế (IBTimes). Bài viết được đăng trên báo IBTimes

Additional Info

  • Author James Patterson, Minh Anh
Published in Diễn đàn

Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng đe dọa Việt Nam về Biển Đông

Thu Thủy, Thoibao.de, 23/04/2020

Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 21/4 nói rằng họ vừa "giao thiệp nghiêm khắc" để đáp trả điều mà họ gọi là "Việt Nam tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp ở biển Hoa Nam [tức Biển Đông]", theo tin của Reuters và The Beijing News.

dedoa3

Tin cho hay ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói tại một cuộc họp báo hàng ngày rằng kể từ cuối tháng 3 vừa qua, Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi một số công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, "liên tục tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp" tại Biển Đông, cũng như "cố phủ nhận" chủ quyền và các quyền của Trung Quốc ở vùng biển này.

"Trung Quốc kiên quyết phản đối điều đó và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam", ông Cảnh Sảng tuyên bố, vẫn theo tin của Reuters và The Beijing News.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp đến nhấn mạnh rằng bất kỳ nước nào cố phủ nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào đều là "vô hiệu" và "chắc chắn sẽ thất bại", bản tin của Reuters và The Beijing News cho biết.

"Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải [tức Biển Đông]", ông Cảnh Sảng nói.

Theo quan sát của VOA, cho đến khi bản tin này được đăng, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng chính thức nào về tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, Việt Nam đã phản đối những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, bao gồm cả việc gửi tuyên bố chủ quyền đến Liên Hiệp Quốc.

Một số nhà phân tích và quan sát nhận định với VOA rằng cụm từ "mọi biện pháp cần thiết" trong tuyên bố hôm 21/4 của phía Trung Quốc là rất đáng lưu ý vì nó có hàm ý đe dọa, cũng như không loại trừ việc Trung Quốc tiến tới sử dụng biện pháp quân sự.

Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng 4 ngày, Trung Quốc nói bóng gió đến việc sử dụng vũ lực, theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông.

Ông Việt nhắc đến công hàm hôm 17/4 của Trung Quốc gửi đến Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc để phản đối Việt Nam, trong đó có đoạn : "Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp" ở quần đảo Trường Sa.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định với VOA về những tín hiệu liên tiếp phát đi từ Trung Quốc trong ít ngày qua : "Rất có khả năng là lúc này, Trung Quốc có thể sẽ có hành động mạnh tay hơn ở khu vực Biển Đông".

Đối sách của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo ông Hoàng Việt, là "phải giữ vững được thực địa" kết hợp với các biện pháp ngoại giao, hòa bình. Ông nói thêm với VOA :

"Việt Nam đang chiếm giữ, kiểm soát tất cả là 21 cấu trúc ở Trường Sa, cũng như các giàn ĐK, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, thì Việt Nam phải kiên quyết giữ vững được. Nếu không giữ vững được thì có thể bị đe dọa rất là lớn. Việt Nam cần tiếp tục gửi công hàm, và Việt Nam phải vận động các quốc gia trực tiếp liên quan như Malaysia, Philippines cũng phải gửi công hàm lên tiếng cho trường hợp này".

Trên bình diện rộng hơn, ông Việt, thành viên Ban Nghiên cứu luật Biển, thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đề xuất Việt Nam tận dụng vị thế chủ tịch đương nhiệm của khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) để làm việc cùng các thành viên và đưa ra một tuyên bố chung. Thêm vào đó, Việt Nam cần kêu gọi sự lên tiếng của các nước khác trong cộng đồng quốc tế, vẫn theo lời thạc sĩ Hoàng Việt.

Biện pháp thứ tư trong số các đối sách là Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, nếu cần thiết, ông Hoàng Việt nói với VOA.

Trong bối cảnh tình hình mỗi lúc một căng thẳng thêm, nhà nghiên cứu này cảnh báo rằng Việt Nam cần giữ bình tĩnh trước các hành vi khiêu khích, hay còn gọi là "dưới ngưỡng chiến tranh", của Trung Quốc.

"Có những phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ bao vây, chặn các đường tiếp tế của phía Việt Nam đến các đảo ở khu vực Trường Sa hoặc các dàn ĐK. Đấy là những việc Việt Nam phải tính đến, làm sao vừa bảo vệ được mình mà không mắc bẫy của Trung Quốc vào chuyện nổ súng trước hoặc khiêu khích Trung Quốc, để Trung Quốc tạo cớ".

Về nguyên nhân Trung Quốc trở nên hung hăng hơn trong giai đoạn hiện nay, ông Hoàng Việt, thành viên Ban Nghiên cứu luật Biển, thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nhận định với VOA rằng nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, có thể đã và đang gặp những thách thức chính trị nội bộ trong bối cảnh kinh tế năm qua sụt giảm vì thương chiến với Mỹ, nên ông Tập muốn hướng sự chú ý ra bên ngoài, đặc biệt nhắm đến Biển Đông.

Bên cạnh đó, vẫn theo thạc sĩ Hoàng Việt, tình hình quốc tế hiện cũng đang có thuận lợi cho Trung Quốc theo đuổi các mục đích của họ ở Biển Đông, khi các nước bận rộn đối phó với dịch Covid-19, trong đó, Hải quân Mỹ đang tạm thời suy giảm sức mạnh vì hai tàu sân bay có nhiều thủy thủ bị nhiễm bệnh, phải dừng hoạt động.

Trung Quốc đặt tên cho hàng chục đảo, thực thể trên Biển Đông

Mới hôm 19/4, Bộ Dân chính Trung Quốc công bố "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông.

Phần lớn số này nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc cũng công bố kinh độ và vĩ độ của các đảo, bãi đá và thực thể.

Việt Nam nói trong những thực thể này có những bãi cạn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có điểm chỉ cách bờ biển Việt Nam chưa đầy 60 hải lý hoặc đường cơ sở Việt Nam khoảng 50 hải lý.

dedoa1

Ảnh : Nhà giàn DK1 ở Biển Đông, cách đất liền khoảng 250-350 hải lý. Việt Nam đã xây dựng bảy khu vực nhà giàn ở Biển Đông giao Lữ đoàn 171 thuộc Vùng 2 Hải quân quản lý.

Chỉ một ngày trước, 18/4, truyền thông Trung Quốc đưa tin nước này đã quyết định thành lập cái gọi là "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa" thuộc "thành phố Tam Sa", lấy Bãi đá Chữ Thập mà Trung Quốc chiếm được của Việt Nam làm Đại bản doanh (cơ quan chính quyền) quản lý 2 quận này.

Đây là "đơn vị hành chính" mà Trung Quốc đã thành lập vào năm 2012 để quản lý "Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa".

Ngày 19/4, người phát ngôn ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng phản đối Trung Quốc thông báo thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa".

"Việt Nam đã nhiều lần mạnh mẽ khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Lập trường nhất quán của Việt Nam là phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" và các hành vi có liên quan vì đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, không có giá trị và không được công nhận, không có lợi cho quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và gây thêm phức tạp tình hình Biển Đông, khu vực và thế giới", bà Hằng nói.

Ngày 20/4, từ Bắc Kinh, người phát ngôn Cảnh Sảng hồi đáp rằng việc nước này thành lập các đơn vị hành chính là "thuộc chủ quyền".

"Trung Quốc kiên quyết phản đối ngôn từ và hành động của Việt Nam gây hại cho chủ quyền, lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải", ông Cảnh Sảng nói.

Quay lại buổi họp báo mới nhất ngày 21/4, trang báo nhà nước CGTN dẫn lời ông Cảnh Sảng :

"Cố gắng của bất kỳ nước nào muốn vi phạm chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải và đòi chủ quyền phi pháp sẽ chỉ vô ích".

dedoa2

Ảnh : Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 19/4 công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông. Một số nằm dọc theo "đường lưỡi bò" và rất sát Việt Nam. Chẳng hạn, Nhàn Đàm Hải Đài (Xiantan Haitai), cách Cam Ranh khoảng 60 hải lý ; Vạn An Hải Để Hạp Cốc Quần (Wan’an Haidixiaguqun) cách đảo Phú Quý khoảng 50 hải lý ; Tiêu Tương Hải Khâu (Xiaoxiang Haiqiu) cách Hòn Hải khoảng 45 hải lý.

Trong bài viết trên RFA Tiếng Việt với tựa đề "Việt Nam phải làm gì để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc ở biển Đông ?" tác giả Hoài Đông đưa ra một số phân tích về diễn biến mới của Trung Quốc và những hành động cần thiết của Việt Nam.

"Hiện nay, có một số lý do khiến Trung Quốc gia tăng các hành động hung hăng, hiếu chiến trên Biển Đông.

Thứ nhất, đó là việc Hải quân Trung Quốc (PLAN) đang tăng cường sức mạnh, trong đó có việc đưa vào vận hành 2 tàu sân bay (Liêu Ninh và Sơn Đông) và tiến hành các hoạt động gần hơn với eo biển Đài Loan và Philippines, đe dọa Indonesia cũng như Nhật Bản ở biển Hoa Đông.

Dường như, Trung Quốc đang mở rộng việc xác lập vùng ngoại vi của "đường 9 đoạn", nay bao gồm cả các khu vực không có tranh chấp như Bãi Tư Chính của Việt Nam và khu vực biển Natuna của Indonesia.

Trung Quốc cũng đang điều tàu đến biển Hoa Đông, với hàm ý rằng, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, các hành động như vậy sẽ giúp đánh lạc hướng chú ý của quốc tế và né tránh các cáo buộc trên thế giới về việc Bắc Kinh thiếu trách nhiệm đối với toàn cầu.

Thứ hai, đại dịch Covid-19 đã đặt ra những nghi ngờ nghiêm trọng về cam kết của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và thái độ thiếu minh bạch của nước này trong các tuyên bố về dịch bệnh, bao gồm cả con số thương vong.

Biển Đông và các vụ thử tên lửa của Triều Tiên mang lại cho Trung Quốc cái cớ để đánh lạc hướng chú ý cũng như làm gia tăng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, đặc biệt khi Chủ tịch Tập Cận Bình đang phải đối mặt với sự bất mãn lớn ở trong nước.

Thế giới cần phải làm gì ?

Ngoài việc bàn thảo, cộng đồng quốc tế cần phải đưa ra một tuyên bố chỉ trích mạnh mẽ hành vi của Trung Quốc. Về phía các quốc gia trong khu vực và đối tác đối thoại, các nước này cần ra một tuyên bố thống nhất chỉ trích gay gắt những nỗ lực của Trung Quốc nhằm phá vỡ trật tự khu vực ở Biển Đông. Các quốc gia nhóm "Bộ tứ" (The Quad) bao gồm Mỹ, Nhật, Australia và Ấn Độ phải tiến hành các hoạt động giám sát hàng hải chung định kỳ và thậm chí một cuộc đối đầu với Trung Quốc sẽ là bài học lớn giúp cho vùng biển bình yên".

Vậy Việt Nam phải làm gì để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc ở biển Đông ? Tác giả Hài Đông nêu vấn đề.

"Một chuyên gia của Ấn Độ cho rằng, cho đến bây giờ, Việt Nam phải hiểu rằng thực tiễn và động lực toàn cầu đã thay đổi qua thời gian và việc xác định Mỹ là kẻ thù lâu dài sẽ không có lợi cho các lợi ích chiến lược của Hà Nội. Việt Nam cần ký thỏa thuận an ninh và đối tác chiến lược với Mỹ. Có thể áp dụng theo mô hình quan hệ đối tác chiến lược toàn cầu Ấn Độ-Nhật Bản và tuyên bố chung về hợp tác an ninh. Chuyến thăm của tàu sân bay USS Roosevelt của Mỹ không được hoan nghênh trong cộng đồng chiến lược Trung Quốc, và Việt Nam phải tích cực để tàu của các nước đối tác (trừ Trung Quốc) ghé thăm cảng của mình.

Ngoài ra, Việt Nam cần đưa nội dung vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) vào cuối năm nay, và tất cả các bên cần phải tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) ràng buộc về mặt pháp lý.

Với tư cách là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cần thực hiện cách tiếp cận 5 bước để giải quyết vấn đề.

Thứ nhất, thể chế hóa một ủy ban có quyền lực cao để xúc tiến và xây dựng đồng thuận về dự thảo COC trong ASEAN trên cơ sở ưu tiên. Các nguyên thủ tướng chính phủ có thể tham gia vào ủy ban này để có được sự chấp nhận chính trị và tăng cường lòng tin giữa các quốc gia đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.

Thứ hai, Việt Nam phải thực hiện các sáng kiến 3 bên với các đối tác đối thoại và các bên đòi chủ quyền khác để khảo sát thủy văn và lập bản đồ đáy đại dương. Các đối tác đối thoại ASEAN (trừ Trung Quốc) bị ảnh hưởng gián tiếp vì các chiến thuật của Trung Quốc.

Thứ ba, Việt Nam phải tạo ra một Quy trình hoạt động tiêu chuẩn (Standard operating procedure – SOP) giữa các quốc gia ASEAN và đưa ra tuyên bố duy trì hiện trạng.

Thứ tư, cần xây dựng Hiệp ước thân thiện và hợp tác liên quan đến Biển Đông. Có thể đặt tên cho thỏa thuận này là "Khu vực hòa bình, tự do và đi qua vô hại". Thỏa thuận cần được ký kết bởi tất cả các đối tác đối thoại và trên cơ sở đảm bảo quyền tự do hải hành trên khu vực biển này.

Thứ 5, Việt Nam phải kêu gọi cộng đồng quốc tế ưu tiên giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, bởi điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với an ninh biển và thúc đẩy thương mại trong khu vực". Tác giả Hoài Đông kết luận.

Và Việt Nam, sau khi đã thấy rõ bộ mặt và các mưu đồ thôn tính Biển Đông của Trung Quốc thì cần phải có thái độ dứt khoát, gia nhập các quốc gia Dân chủ Tự do trên thế giới để làm đồng minh với Mỹ , Châu Âu cùng bảo vệ tự do hàng hải, tự do hàng không và chủ quyền đất nước. 

Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)

Nguồn : Thoibao.de, 23/04/2020

*****************

Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa

Thoibao.de, 23/04/2020

Bản tiếng Việt

tuyenbo1

"Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố :

1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể cả vịnh Bột Hải và eo biển Quỳnh Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường cơ sở, kể cả đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ, các đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khâu, Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, và đảo Đông Đĩnh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.

3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

4) Mục (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xâm chiếm. Ðây là hành vi phi pháp, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai, không cho phép nước ngoài can thiệp".

tuyenbo2

Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa

Luật sư Lê Công Định (biên dịch)

P/S : Đây là bản tuyên bố minh định Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Cộng, mà Phạm Văn Đồng đã nhân danh Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành.

tuyenbo3

Công hàm đồng ý với "Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc hôm 14/09/1958

Additional Info

  • Author Thu Thủy
Published in Diễn đàn

Biển Đông : Chiến hạm Úc, Mỹ tập trận gần nơi Trung Quốc, Malaysia đối đầu (RFI, 22/04/2020)

Căng thẳng quân sự có thể gia tăng tại Biển Đông với việc một khu trục hạm của Úc thao dượt với các chiến hạm của Mỹ gần nơi mà Trung Quốc và Malaysia đang đối đầu.

biendong1

Tàu tuần dương có tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill (CG-52) của Hải quân Hoa Kỳ. ©wikipedia

Theo hãng tin Reuters hôm nay, 22/04/2020, trích dẫn các nguồn tin an ninh khu vực, ba chiến hạm Mỹ trong tuần này đã đến Biển Đông, gần khu vực mà hồi tuần trước, tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc bị phát hiện đang tiến hành khảo sát. Khu vực này cũng gần nơi mà tàu thăm dò của công ty dầu khí Nhà nước của Malaysia Petronas đang hoạt động.

Hôm qua, Hải quân Mỹ xác nhận tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông. Theo thông báo của bộ Quốc Phòng Úc hôm nay, tham gia tập trận chung với hai tàu này còn có tàu hộ vệ tên lửa HMAS Paramatta ( thuộc lớp ANZAC ) của Hải quân Hoàng gia Úc và một chiến hạm thứ ba của Mỹ, khu trục hạm USS Barry. Tuy nhiên, bộ Quốc Phòng Úc không nói rõ thời điểm tập trận.

Năm ngoái, chiếc HMAS Paramatta đã từng bị quân đội Trung Quốc theo dõi sát sao khi chiến hạm này đi qua vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương.

Theo ABC News, các chuyên gia quốc phòng cho rằng sự tham gia của chiến hạm Úc vào cuộc tập trận với Mỹ có thể đã được dự trù từ nhiều tháng trước, nhưng cuộc tập trận này diễn ra vào lúc các nước trong khu vực đang ngày càng lo ngại trước các hoạt động bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Mặc dù đang phải tập trung đối phó với dịch Covid-19, các quan chức Úc vẫn theo dõi các hoạt động của Bắc Kinh tại Biển Đông.

Theo các dữ liệu của trang mạng Marine Traffic, hôm nay, chiếc Hải Dương Địa Chất 8, được một tàu hải cảnh Trung Quốc tháp tùng, vẫn đang ở cách bờ biển Malaysia 325 km, trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Bắc Kinh đã bác bỏ thông tin cho rằng Hải Dương Địa Chất 8 đang đối đầu với tàu thăm dò dầu khí của Malaysia, khẳng định tàu này đang "tiến hành các hoạt động bình thường".

Thanh Phương

**********************

Biển Đông : Mỹ điều hai chiến hạm đến gần khu vực Trung Quốc, Malaysia đối đầu (RFI, 21/04/2020)

Ngày 21/04/2020, Hải quân Mỹ xác nhận đã điều hai chiến hạm ra Biển Đông và theo Reuters, hai tàu này hoạt động gần khu vực mà Trung Quốc và Malaysia đang đối đầu.

biendong2

Chiến hạm USS America của Mỹ (P) trong đợt thao diễn với Hải quân Nhật ở Biển Hoa Đông ngày 13/01/2020. © U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 3rd Class Vincent E. Zline

Hồi tuần trước, tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đã bị phát hiện đang tiến hành khảo sát gần khu vực mà tàu thăm dò của công ty dầu khí nhà nước của Malaysia Petronas đang hoạt động. Hành động của Hải Dương Địa Chất 8 giống với những gì tàu này đã làm ở vùng biển Việt Nam vào năm ngoái.

Vụ khảo sát gần khu vực của Petronas đã khiến Hoa Kỳ phải kêu gọi Trung Quốc ngừng các "hành vi dọa nạt" tại những vùng biển tranh chấp, đồng thời nêu lên những quan ngại về hành động khiêu khích của Bắc Kinh nhắm vào các hoạt động dầu khí tại những khu vực này.

Trong email gởi cho hãng tin Reuters, bà Nicole Schwegman, phát ngôn viên Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ, hôm nay cho biết tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông. Bà tuyên bố : "Thông qua sự hiện diện liên tục ở Biển Đông, chúng tôi nỗ lực thúc đẩy tự do hàng hải và hàng không, và bảo đảm các nguyên tắc quốc tế vốn là nền tảng của an ninh và thịnh vượng ở Ấn Độ - Thái Bình Dương".

Thiếu tướng hải quân Fred Kacher, chỉ huy cụm tàu USS America, nói với Reuters rằng lực lượng của ông đã có tương tác với Hải quân Trung Quốc ở Biển Đông trong tuần này. Viên sĩ quan này khẳng định : "Mọi tương tác của chúng tôi tiếp tục được thực hiện một cách an toàn và chuyên nghiệp với Trung Quốc".

Thiếu tướng hải quân Kacher không cho biết chính xác vị trí các chiến hạm Mỹ đang hoạt động ở Biển Đông, nhưng theo Reuters, các các nguồn tin an ninh cho rằng tàu Mỹ đang ở gần khu vực mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc được cho là đang đối đầu với tàu khoan thăm dò West Capella của công ty Petronas, Malaysia. Tuy nhiên khi được Reuters hỏi, Trung Quốc đã bác bỏ thông tin, khẳng định tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang "tiến hành các hoạt động bình thường". Còn Bộ Ngoại giao Malaysia và Petronas đều chưa trả lời về vụ này.

Thanh Phương

Additional Info

  • Author RFI tổng hợp
Published in Châu Á

Để chứng minh cho cái gọi là chủ quyền "mang tính lịch sử", giới học giả Trung Quốc đã nỗ lực lập luận, đưa ra những bằng chứng lịch sử. Tuy nhiên, các bằng chứng mà họ đưa ra rất mập mờ, không có bất cứ tham chiếu nào về vị trí trích dẫn chính xác, thậm chí còn cố tình sửa đổi ngôn từ gốc.

nine0

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông qua đường chín đoạn tự vẽ được các quốc gia Châu Á gọi một cách nhạo báng là Đường lưỡi bò - Ảnh minh họa

Một trong những bài báo sơ khai nhất trình bày "bằng chứng lịch sử" về nhận thức và thực tiễn lâu đời của Trung Quốc đối với các nhóm đảo ở Biển Đông xuất hiện trên tờ Nhân dân Nhật báo (Renmin ribao 人民日报) ngày 25/11/1975 với nhan đề "Các đảo ở Biển Đông là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời xa xưa" (南海诸岛自古就是我国领土).

Việc xuất bản bài báo trên tờ Nhân dân Nhật báo phản ánh lập trường chính thức của Trung Quốc và khuyến khích các học giả Trung Quốc nỗ lực chứng minh tính xác đáng của các yêu sách lịch sử trên Biển Đông. Bài báo có ảnh hưởng sâu sắc tới quan điểm chính trị và học thuật trong tương lai về cách biến các đảo Biển Đông thành lãnh thổ của Trung Quốc.

Nhằm phân tích cách mà bài báo của "Sử Đệ tổ" (Shi Dizu 史棣祖) thiết lập "chủ quyền lịch sử" đối với các đảo Biển Đông [1], tôi sẽ xem xét một số nguồn tư liệu được nhắc đến ở bên dưới.

Phân tích của tôi diễn ra vào đúng thời điểm khi Mỹ thực hiện các "hoạt động tự do hàng hải" (FONOP) ở Biển Đông với mức độ thường xuyên [2] và khi phần lớn các hoạt động thương mại quốc tế toàn cầu đi qua khu vực này [3]. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế đã bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông. Phán quyết cuối cùng từ Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague vào tháng 7 năm 2016 đã tuyên bố Trung Quốc không có "quyền lịch sử" trên Biển Đông như nước này vẫn yêu sách trong công hàm năm 2009 có chứa bản đồ đường chín đoạn (jiuduan-xian 九段线) [4].

Tiến trình tố tụng, được khởi xướng bằng việc Philippines kiện Trung Quốc vào năm 2013, bắt đầu vào năm 2015. Trung Quốc nhanh chóng bác bỏ Phán quyết, một lần nữa viện dẫn lịch sử cho lập luận khẳng định quyền sở hữu của họ trên Biển Đông [5].

Giới thiệu

Vào tháng 01/1974, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã giành quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa (Xisha qundao 西沙群岛 – Tây Sa quần đảo theo cách gọi của Trung Quốc ; tên gọi tiếng Anh là Paracel Islands) bằng việc đánh bại quân đội miền Nam Việt Nam đang đóng quân ở đây [6]. Do đó, Bảo tàng tỉnh Quảng Đông (Guangdong sheng bowuguan 广东省博物馆) và Phòng Văn hóa thuộc Khu Hành chính Hải Nam (Hainan xingzhengqu wenhuaju 海南行政区文化局) đã cử một nhóm học giả đến nghiên cứu về lãnh thổ vừa mới chiếm được vào giữa tháng Ba và tháng Tư năm 1974.

Nhóm học giả này phát hiện một số cổ vật như đồng xu, các mảnh gốm sứ và đi tới kết luận rằng "Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc kể từ thời xa xưa" (西沙群岛自古以来就是中国的神圣领土). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu này cũng công bố một tài liệu [Thủy lộ bạ (shuilu bu 水路簿)] của ngư dân Tô Đức Liễu (Su Deliu 苏德柳), từ Đàm Môn (Tanmen 潭门), ở phía Đông của Hải Nam [7] ghi lại lộ trình đi đến các đảo và đề cập đến các đảo và bãi cạn ở Đàm Môn [8].

Điều thú vị là kết quả của các cuộc khảo cứu trên đã cho ra ba bài báo xuất bản ở Hong Kong - không phải Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - cũng lập luận tương tự, lần lượt đề cập đến yêu sách lịch sử của Trung Quốc trong khu vực, dựa trên cơ sở các tài liệu lịch sử [9]. Hai trong số các bài báo xuất hiện ở số tương tự của tờ Minh Báo Nguyệt San (Mingbao yuekan 明報月刊).

Bài báo đầu tiên có nhan đề "Các vấn đề chủ quyền trên các đảo và rạn san hô ở Biển Đông" (南中国海诸岛屿的主权问题) của tác giả Đặng Tự Vũ (Deng Siyu 邓嗣禹) đã tuyên bố hùng hồn rằng tất cả nhóm đảo trên Biển Đông đều là lãnh thổ của Trung Quốc [10]. Ông Đặng Tự Vũ cũng dựa trên một số tài liệu và bản đồ trước thế kỷ 19 để đưa ra lập luận của mình, trong khi đó, bài báo thứ hai của các tác giả Diệp Hán Minh (Ye Hanming 葉漢明) và Ngô Thụy Khanh (Wu Ruiqing 吳瑞卿) mang tính bao quát hơn và gồm các tài liệu Trung Quốc từ thế kỷ thứ nhất trở đi [11]

Bên cạnh nguồn tài liệu tham khảo ngày càng tăng, bài báo của ông Diệp Hán Minh và Ngô Thụy Khanh còn bao gồm bản sao của các bản đồ.

Tác giả của bài báo thứ ba - trong Thất thập niên đại (Qishi niandai 七十年代) - Tề Tân (Qi Xin 齊辛) tập trung vào giai đoạn lịch sử thế kỷ 19, 20 và lý do vì sao Quần đảo Hoàng Sa đã là lãnh thổ của Trung Quốc từ rất lâu rồi. Cũng giống Đặng Tự Vũ, Tề Tân không đưa ra nhiều tài liệu của Trung Quốc thời đầu mà tập trung vào các chính sách thời hiện đại [12]

Hai bài báo của tờ Minh Báo có mục đích làm rõ cách thức mà các nhà nước phong kiến và hiện đại Trung Quốc đã nỗ lực kiểm soát các đảo ở Biển Đông và biến nơi này thành lãnh thổ của Trung Quốc (南海诸岛的主权归属).

Có nhiều khả năng các tác giả của những bài báo này lấy động cơ viết bài từ việc Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa và đuổi quân đội Việt Nam Cộng Hòa thời gian trước. Ở thời điểm đó, do tương quan về khả năng quân sự của Trung Quốc yếu hơn nhiều so với Mỹ, cho nên lập luận lịch sử có lẽ là vòng phòng thủ đầu tiên nhằm chống lại nguy cơ can thiệp của Mỹ yểm trợ cho Việt Nam Cộng Hòa.

Đi tìm Biển Đông trong các tài liệu tiền hiện đại : "Sử Đệ tổ" năm 1975

Trước sự xuất hiện bài báo của "Sử Đệ Tổ" trên tờ Nhân dân Nhật báo năm 1975, ông Thiệu Tuần Chính (Shao Xunzheng 邵循正)(1909-1972) đã nói trên Nhân dân Nhật báo hồi năm 1956 rằng một phần Biển Đông là lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc [13]

Ông Thiệu Tuần Chính từng là một nhà nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu Lịch sử Đệ Tam của Học viện Khoa học Trung Quốc (中国科学院第三历史研究所). Ông lý giải rằng những thực thể biển xuất hiện trong các nguồn tài liệu từ thời thời tiền hiện đại của Trung Quốc đã chỉ dẫn trực tiếp đến các nhóm đảo ở Biển Đông ; ông Thiệu Tuần Chính tập trung vào khái niệm Thất Châu dương [Qi zhouyang 七洲洋 (bảy hòn đảo ở biển)], khái niệm được tác giả dùng để biểu thị quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), và ông sử dụng thuật ngữ này ở rất nhiều tài liệu. Trong các tài liệu trước thế kỷ 20 mà ông tiến hành khảo sát gồm có Nguyên sử (Yuanshi 元史) của Sử Bật (Shibi 史弼) ; Đảo di chí lược (Daoyi zhilue 島夷志略) (1349 ; Lược thuật về những đảo hoang) ; Tinh tra thắng lãm (Xingcha shenglan 星槎胜览) (khoảng năm 1436) ; Vũ Bị chí (Wubei zhi 武备志) (1621 ; ghi chép về quân trang và quân bị) ; Hải ngữ (Haiyu 海语) (giữa thời Minh ; các cuộc đối thoại biển) ; Hải quốc văn kiến lục (Haiguo wenjian lu 海国闻见录) (nửa đầu thế kỷ 18 ; Ghi chép về những gì nghe và thấy về các quốc gia biển) ; Hải lục (Hailu 海录) (1820 ; các ghi chép về Biển). Vì vậy, ông xây dựng một nhận thức liên tục về Hoàng Sa từ năm 1292 cho đến cuối thời Thanh, và tiếp tục cho đến thời hiện đại.

Gần 20 năm sau, bài báo của "Sử Đệ tổ" đã cung cấp nhiều bằng chứng mang tính "lịch sử" hơn thể hiện chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông nhằm bác bỏ việc miền Nam Việt Nam phản đối sự hiện diện của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa. Kể từ năm 1975 khi Hoàng Sa bị coi là lãnh thổ của Trung Quốc sau chiếm đóng quân sự, bài báo mới có ảnh hưởng sâu rộng hơn về mặt lãnh thổ được yêu sách cũng như các nguồn tài liệu được trích dẫn.

Với việc sử dụng các tài liệu lịch sử, "Sử Đệ tổ" lập luận rằng Trung Quốc hiển nhiên và luôn luôn có chủ quyền đối với quần đảo này (中国对南海诸岛的主权无可争辩) [14]. Bằng cách đó, "Sử Đệ tổ" lập luận thẳng thắn hơn các tác giả của các bài báo đã xuất bản trước đó ở Hong Kong, và có lẽ là vì việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa chưa từng và sẽ không bao giờ bị thách thức quân sự [15].

Việc Trung Quốc khăng khăng lấy lịch sử làm lập luận cho quyền của mình trên Biển Đông tất nhiên nhằm hướng tới các nước Đông Nam Á xung quanh Biển Đông. Những quốc gia này không có bất cứ bằng chứng lịch sử nào để chứng minh và vì thế không thể thách thức được Trung Quốc. Ngoài ra, những luật lệ liên quan đến biển như Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) tại thời điểm đó vẫn chưa được hình thành.

"Sử Đệ tổ" là bút danh của các thành viên trong Nhóm Địa lý Lịch sử của Viện Địa lý thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (中国科学院地理研究所历史地理组) hay Sử địa tổ (shidizu 史地组) đồng tác giả của bài viết xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Quang Minh nhật báo (Guangming ribao 光明日报) vào ngày 24 tháng 11 năm 1975 và được xuất bản ngay ngày sau đó trên tờ Nhân dân Nhật báo [16]. Rất nhiều tài liệu mà "Sử Đệ tổ" phân tích đã được Diệp Hán Minh và Ngô Thụy Khanh khảo cứu trước đó.

"Sử Đệ tổ" tận dụng hàng loạt các tài liệu cho phép họ mở mang nhận thức mang tính giả định của Trung Quốc về Biển Đông và các đảo ở Biển Đông trong khoảng hơn một nghìn năm. Những tài liệu này tạo nên một kho dữ liệu để những tác giả Trung Quốc sau này có thể tận dụng thường xuyên [17].

Thay vì chỉ đơn thuần đưa ra tài liệu, "Sử Đệ tổ" phân các tài liệu thành từng loại khác nhau đưa ra bằng chứng cho việc đặt tên ban đầu các đảo, về hoạt động khai thác và canh tác trên thực tế và về cơ quan hành chính trong lịch sử qua các triều đại nối tiếp nhau của Trung Quốc. Điều này đã trở thành khuôn khổ chung cho các nỗ lực nghiên cứu quan trọng cũng như những tuyên bố chính thức cho đến thời điểm gần đây của các cơ quan chính phủ.

Các tài liệu lịch sử thỉnh thoảng được trích dẫn, nhưng nhìn chung "Sử Đệ tổ" không đưa ra bất cứ tham chiếu nào về vị trí trích dẫn chính xác. Tôi đã xác minh các trích dẫn trong tài liệu gốc và dịch lại những nguồn trên nhiều nhất có thể. Những cụm từ chính đóng vai trò quan trọng trong lập luận của Trung Quốc về Biển Đông là trướng hải (zhanghai 涨海) (biển nguy hiểm), thạch đường (shitang 石塘) (bãi đá), vạn lý thạch đường (wanli shitang 万里石塘) (bãi đá vạn dặm), vạn lý thạch đường tự (wanli shitang yu 万里石塘屿) (bãi đá nhỏ vạn dặm), trường sa (changsha 长沙) (bờ cát), vạn lý trường sa (wanli changsha 万里长沙) (bờ cát mười nghìn dặm), thất Châu dương (qizhouyang 七洲洋/七州洋) (bảy hòn đảo ngoài biển), Cửu Nhũ Loa Châu (Jiuruluozhou 九乳螺洲) (Quần đảo Cửu Nhũ Loa) [18], v.v. Vì những nơi đó có tên bằng tiếng Hoa, Trung Quốc mặc định những thực thể này là lãnh thổ của họ theo quy tắc "người đặt tên là người sở hữu". Các nguồn tài liệu mà "Sử Đệ tổ" tham khảo bao gồm các bản ghi chép chính thức và không chính thức về các triều đại, các bản ghi chép chuyến đi, công báo địa phương, sách hướng dẫn hành trình, bản đồ, các bài báo cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sách hướng dẫn hàng hải của Anh.

Nguồn tài liệu tham khảo

Sau đây tôi sẽ xử lý các nguồn trích dẫn tiền hiện đại của Trung Quốc mà "Sử Đệ tổ" đề cập đến cho đến đầu thế kỷ XIX. "Sử Đệ tổ" đã đưa ra các nguồn tham khảo dưới hai tiêu đề chính, đầu tiên là "Lịch sử lâu đời về phát kiến địa lý" (历史悠久的地理发现) và thứ hai "Sự khai phá cần mẫn, liên tục không ngừng" (持续不断的辛勤开发). Tiếp nối hai đề mục này là một mục có tên "Quản lý hành chính của các chính quyền Trung Quốc trong lịch sử đối với các đảo trên Biển Đông" (我国历代政府对南海诸岛的行政管辖) [19], mục này sử dụng nhiều tài liệu lịch sử hơn. Bài báo kết luận bằng một mục có tên "Lãnh thổ thiêng liêng bất khả xâm phạm" (神圣领土不容侵犯) tập trung chủ yếu vào các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông vào thế kỷ hai mươi.

Những tài liệu chủ yếu bao gồm các bài viết tạp chí và biểu đồ từ giai đoạn sau của thế kỷ XIX và những thập niên đầu của thế kỷ XX ở mục hai và bốn đã được Bill Hayton xử lý rồi và tôi muốn cung cấp thêm cho người đọc những phân tích chi tiết của ông về chủ đề này [20]. Ở phần sau, tôi sẽ đề cập đến các nguồn tài liệu lịch sử xuất hiện ở mục một, hai và ba.

Lịch sử lâu đời về phát kiến địa lý

Loạt bằng chứng bằng tài liệu đầu tiên dưới tên đề mục bắt đầu với Hậu hán thư (Hou Hanshu 后汉书) (Lịch sử của triều hậu Hán) của Tạ Thừa (Xie Cheng 谢承) (khoảng thế kỷ 3) là những mảng rời rạc. "Sử Đệ tổ" đề cập đến một mục trong tài liệu được lưu trữ ở bách khoa toàn thư Thái Bình ngự lãm (Taiping yulan 太平御览) thời kỳ đầu nhà Tống (938 ; Tài liệu dành cho Vua Tống đọc trong thời kỳ có niên hiệu Thái Bình) :

Trần Mậu (Chen Mao 陈茂) [21], từ Nhữ Nam (Runan), từng là người hộ tống/ tùy tùng thân cận (biệt giá - biejia) ở Giao Chỉ, nơi tương tự như Thích Sử Hành Bộ ngày trước (jiu cishi xingbu 旧刺史行部) và ông ta không thể băng qua trướng hải (zhanghai). Khi Chu Sưởng (Zhou Chang 周敞) ra khơi, gió nổi lên và có nguy cơ đánh sập thuyền, Trần Mậu rút thanh gươm trong tay, quở trách thủy thần và ngay lập tức gió lặng xuống [22].

Cách đoạn văn này kể về việc quản lý Biển Đông, như "Sử Đệ tổ" đã nói, vẫn chưa được làm sáng tỏ. Đoạn văn này kể về một hành trình khó khăn ra biển nhưng không trở thành một bằng chứng thuyết phục cho việc "tuần hành" (xunxing 巡行) trên biển [23]. Thay vào đó, cụm danh từ nguyên gốc "Thích Sử Hành Bộ" (cishi xingbu 刺史行部) đã bị chuyển thành cụm từ "tuần hành trên biển dữ" (hành bộ trướng hải) (xingbu zhanghai 行部涨海) qua việc lý giải lại từ hành bộ (xingbu 行部) như một động từ thay vì chức năng gốc của từ này là một phần của danh từ chính thức.

Những tác giả sau này như Nam Minh Tự (Nan Mingzi 南溟子) [24] đã lựa chọn một phần khác của Hậu Hán sử của bách khoa toàn thư Sơ học ký (Chuxueji 初学记) thời Đường (nửa đầu thế kỷ 18) :

Các cống nạp từ bảy trưởng đoàn của Giao Chỉ được gửi qua trướng hải [25].

Trích dẫn này cho rằng phía Bắc Việt Nam (Giao Chỉ) là lãnh thổ dưới quyền của Trung Quốc và ám chỉ rằng vùng biển giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc phải là của Trung Quốc.

Tài liệu tiếp theo, Nam Châu dị vật chí (Nanzhou yiwu zhi 南州异物志) do Vạn Chấn (Wan Zhen 万振) chủ biên trong suốt giai đoạn Tam quốc (thế kỷ thứ ba) được trích dẫn trong Thái Bình ngự lãm như sau :

Đi thuyền từ hướng Tây Nam đến Đông Bắc, sẽ thấy những ghềnh đá lớn nổi lên từ trướng hải. Ở đó nước nông và có nhiều khe đá [26].

Lời giải thích được đưa ra ở đây là cho cụm từ mô tả các bãi chìm và đá chìm mà các tàu mắc phải trong hành trình từ Đông Nam Á tới phía Nam Trung Quốc. Với "Sử Đệ tổ", cụm đó chứng minh cho "[việc Trung Quốc là nước] đầu tiên phát kiến và mô tả về các đảo ở Biển Đông". Tuy nhiên, thông tin còn mập mờ, nguồn tham khảo này từ Nam Châu dị vật chí đã được bổ sung trong các ấn phẩm sau, thậm chí là ủng hộ hoàn toàn Dị vật chí (Yiwu zhi 异物志) (Ghi chép về những chuyện lạ) của Dương Phù (Yang Fu 杨孚) từ thời Hậu Hán (25-220 CN) [27]. Lý do khả thi nhất cho sự thay đổi này là Dị vật chí đã có trước Nam Châu dị vật chí vài thập kỷ [28]. Dị vật chí cho rằng :

Có những hòn đá gồ ghề ở trướng hải, nước nông và có nhiều khe đá. Người nước ngoài (kiếu ngoại nhân) (jiaowairen 獥外人[外人 – tác giả viết nhầm Hán tự]) đi vào trên các tàu lớn có mạn tàu bằng kim loại. Khi tới các eo biển, những tàu này không thể đi qua vì các tảng đá có lực từ [29].

Đoạn này nhấn mạnh đến việc va vào các bãi cạn và đá là không thể tránh khỏi khi đi tàu vào vùng chưa được khám phá. Điều đó ám chỉ rằng giao thông trên biển từ phía tây nam đến đông bắc không phải do người Trung Quốc, mà là "người nước ngoài", có thể hầu hết là người Đông Nam Á. Những người nước ngoài này đã cảnh báo người Trung Quốc về những nguy hiểm khi thực hiện các chuyến hành trình tương tự băng qua biển bằng thuyền.

Ở bất cứ trường hợp nào, việc đề cập đến các trở ngại ở vùng biển chưa được xác định là rất khó chấp nhận như là nhận thức ban đầu của người Trung Quốc về các đảo ở Biển Đông. Trong yêu sách trên Biển Đông bằng tiếng Anh vào ngày 17 tháng 11 năm 2002, Bộ Ngoại giao đã dịch trướng hải kỳ thủ (zhanghai ritou 涨海崎头) là "các đảo, đá, bờ cát và bãi biển ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông" [30]. Yêu sách này tiếp tục cho rằng kỳ thủ là một thuật ngữ chung được Trung Quốc sử dụng nhằm đề cập đến "tất cả các đảo, đá, bãi cạn và đảo nhỏ ở Biển Đông, bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa". Lời giải thích trên cũng được sử dụng cho phiên bản tiếng Trung Quốc của yêu sách nước này ngày 22 tháng 11 năm 2002 [31]

Bản dịch tiếng Anh có phần thiên lệch nhằm thuyết phục dư luận nước ngoài rằng những yêu sách của Trung Quốc là chính đáng. Ngoài ra, bản dịch còn làm rõ thêm nghĩa của từ "kỳ thủ" là nhằm gộp tất cả các thực thể nổi khi thủy triều cao cũng như các bãi cạn lúc chìm lúc nổi ở Biển Đông. Như vậy, đó là một thuật ngữ bao trùm tất cả các đảo và bãi chìm mà Trung Quốc thèm muốn. Liệu có ai còn có thể lập luận hoặc tranh luận với "bằng chứng lịch sử" này nếu thiếu hiểu biết tiếng Trung Quốc [32] ?

Jianming Shen đã đưa ra một bản dịch thậm chí còn mập mờ hơn về đoạn văn trong bản Nam Châu dị vật chí ở Thái Bình ngự lãm [33] :

Có các đảo nhỏ, bãi ngầm và đá ở Biển Đông và vùng nước ở đó thì nông và đầy các đá có từ trường. Các thủy quân khi đi tuần tra dùng thuyền lớn có vỏ sắt ; khi đến khu vực này, do những bãi đá từ trường họ không thể tiến xa hơn [34].

Jianming Shen đã chuyển từ cách gọi các đá thành "các đảo nhỏ, bãi cạn, đá và bờ cát" [35] ; "trướng hải" thành Biển Đông ; và người nước ngoài thành "các thủy quân khi đi tuần tra" [36]. Bằng việc thay đổi thứ tự của các ký tự kiếu ngoại nhân (jiaowairen) thành ngoại kiếu nhân (waijiaoren), ông đã chuyển cách gọi người nước ngoài từ "người ngoài biên giới" (kiếu ngoại - jiaowai 獥外) thành các thủy quân "tuần hành ở biên giới" (ngoại kiếu - waijiao 外徼). Ông cũng thay đổi từ bạc (bo ) vốn có nghĩa là một loại tàu có nguồn gốc từ Đông Nam Á [37] thành từ thuyền (chuan ). Qua đó, ông chuyển từ tàu nước ngoài thành tàu Trung Quốc, thay sự quan sát của các thủy thủ nước ngoài thành quan sát của thủy thủ Trung Quốc. Vì thế, Jianming Shen đã biến tài liệu trên phục vụ việc mô tả bối cảnh mà trong đó các thủy quân Trung Quốc đang ở một vùng biển do Trung Quốc kiểm soát, bỏ đi nghĩa gốc vốn thể hiện việc các thủy thủ của Đông Nam Á đã đi qua một vùng biển mở. Các tàu này có các lớp vỏ sắt bảo vệ nếu bị va vào đá. Từ trường của đá phản ánh việc va chạm với đá là không thể tránh khỏi và các tàu được tăng cường với vỏ kim loại không phải bị dừng lại do từ trường mà bởi không có cách nào vượt qua các vật cản [38].

Phù Nam truyện (Funan zhuan 扶南传) (Ghi chép về Phù Nam ; hay còn gọi là : Ngô thời ngoại quốc truyện Wu shi waiguo zhuan 吴时外国传) là bản ghi chép của Khang Thái (Kang Tai 康泰) và Châu Ứng (Zhu Ying 朱应) về hành trình tới Phù Nam của họ (phía Nam Việt Nam ngày nay) vào thế kỷ thứ ba. Chỉ có những mảnh ghi chép rời rạc còn giữ trong các nguồn trích dẫn ở bách khoa toàn thư ở giai đoạn Đường và Tống. Những ghi chép này được Trần Giai Vinh (Chen Jiarong 陈佳荣) biên tập và xuất bản [39]. Đoạn văn ngắn có liên quan được trích dẫn từ bản gốc ở Thái Bình ngự lãm có nội dung như sau :

Ở vùng trướng hải, người ta sẽ gặp các san hô Châu (shanhuzhou 珊瑚洲) [40] nơi mà san hô mọc trên đá [41].

Theo "Sử Đệ tổ", đoạn văn này cho thấy rằng thủy thủ Trung Quốc thời xưa có "nhận thức khá chính xác" (相当精确的认识) về hình dạng và cấu trúc của các đảo ở Biển Đông. Vị trí của các đảo san hô này chỉ là thứ yếu, vì trướng hải ở đoạn trích trong "Sử Đệ tổ" là Biển Đông. Là một trong những thuật ngữ quan trọng trong lập luận của Trung Quốc, các học giả Trung Quốc đã liên tiếp và nhấn mạnh rằng trướng hải chính là Biển Đông.

Roderich Ptak đã chỉ ra rằng trước đó, nghĩa cuối cùng trong việc giải thích thuật ngữ trướng hải chưa được tìm ra, và tranh luận vẫn đang tiếp tục [42]. Trong các nghiên cứu ban đầu của Ptak về thuật ngữ này, ông đã giải thích rằng trướng hải - một thuật ngữ mà ông không dịch ra nghĩa nào khác ngoài "biển Trướng" ("Zhang Meer") - là thuật ngữ dùng để mô tả vùng biển ngoài Quảng Đông, bao quanh Đảo Hải Nam, và Vịnh Bắc Bộ [43]. Cuối cùng, thuật ngữ này bao gồm hầu hết vùng biển từ Quảng Đông đến Ấn Độ Dương. Như vậy, trướng hải không nhất thiết là đề cập tới một vùng biển đã xác định chắc chắn mà là một thuật ngữ mập mờ cho một vùng biển không xác định.

"Sử Đệ tổ" không đưa ra bất cứ một nguồn trích dẫn nào để giải thích cho việc đặt tên của Trung Quốc cho Biển Đông hoặc bất cứ thực thể nào khác ở đó giai đoạn giữa thời Tam Quốc và thời Đường (từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 10) ; thiếu tài liệu cho giai đoạn này, "Sử Đệ tổ" chuyển sang thời đại nhà Tống [44]. Lý do chính khi đề cập đến Bình Châu khả đàm (Pingzhou ketan 萍洲可談) (đầu thế kỷ 12) của Chu Úc (Zhu Yu 朱彧) là do đây là một trong những tài liệu đầu tiên mô tả việc đi thuyền có sử dụng la bàn. Mặc dù việc sử dụng la bàn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hướng trên biển, nhưng "Sử Đệ tổ" giải thích rằng các thủy thủ không xác định được các vị trí đó. Vì không có đảo, rạn san hô hay đá nào được đề cập ở Bình Châu khả đàm, "Sử Đệ tổ" đã liên hệ đến Lĩnh ngoại đại đáp (Lingwai daida 岭外代答) (1178) của Châu Khứ Phi (Zhou Qufei 周去) (?-sau 1178).

Đọc toàn bộ bản dịch tại đây :

Johannes_l._Kurz_:_Biển_Đông_và_quá_trình__biến_thành_lãnh_thổ_lịch_sử_của_Trung Quốc nam_1975.pdf

Johannes L. Kurz

Nguyên tác : The South China Sea and how It Turned into "Historically" Chinese Territory in 1975, in China and the World – the World and China, Vol. 3, trong 133-160, © 2019. OSTASIEN Verlag, Gossenberg

Trần Thị Kim Nguyên, Nguyễn Phương Hoài dịch

Trần Quang hiệu đính

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 19/04/2020

--------------------------

Johannes L. Kurz, Tiến sĩ khoa Khoa học Xã hội và Mỹ thuật (FASS), đại học Vương quốc Brunei, chuyên nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc.

Bài viết được đăng trên China and the World – the World and China, Vol. 3, tiểu đề : The South China Sea and how It Turned into "Historically" Chinese Territory in 1975, tr.133-160.

 

--------------------------
Chú thích :

[1] Tôi sử dụng thuật ngữ này nhằm thể hiện các đá, đảo, bãi cạn và đảo san hô mà Trung Quốc vẫn thường đề cập đến là Nam Hải chư đảo (Nanhai zhudao 南海诸岛). Thuật ngữ chư đảo đề cập đến Tây Sa 西沙 (Hoàng Sa), Đông Sa 东沙 (Pratas Islands) ; Trung Sa 中沙 (Bãi Macclesfield) and Nam Sa 南沙 (Trường Sa). Hiện Đông Sa đang do Trung Quốc quản lý, các đảo khác vẫn đang trong tranh chấp với các nước ở Biển Đông. Chỉ khi Trung Quốc bắt đầu dự án xây đảo trên các thực thế này, một số thực thể đã biến thành "đảo", ví dụ như đá Xu Bi (Zhubi jiao渚碧礁, ở quần đảo Trường Sa). Đá Xu Bi chỉ nổi khi ở thủy triều thấp, còn khi thủy triều lên cao, thực thể này biến mất, Đá Xu Bi bị biến thành đảo nhân tạo qua quá trình cải tạo kể từ năm 2014. Về quá trình phát triển của Đá Xu Bi, xem Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á 2019. Về mặt pháp lý, các đảo có thể tạo ra một vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế, ngược lại các bãi cạn lúc chìm lúc nổi không thể tạo ra các vùng này. Xem Freund 2017.

[2] Một trong những hoạt động Tự do hàng hải (FONOP) gần đây nhất được tiến hành vào tháng 1 năm 2019. Xem Storey 2019. Hải quân Hoàng gia Anh gần đây đã tham gia cùng Hải quân Mỹ. Xem Hải quân Hoàng gia 2019.

[3] Vào năm 2016, hoạt đông thương mại có giá trị tương đương gần 3.4 nghìn tỉ USD đi qua Biển Đông, chiếm khoảng 1/5 thương mại toàn cầu tại thời điểm đó. Xem China Power Team 2017.

[4] Về phán quyết (có bản PDF) xem Tòa Trọng tài Thường trực 2016. Về công hàm có bản đồ của Trung Quốc đệ trình lên Liên Hợp Quốc xem Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 2009. Cũng có thể xem phản ứng của Bộ Ngoại giao Mỹ 2014. Các học giả phương Tây trước đó cũng đã bác bỏ khái niệm "quyền lịch sử" của Trung Quốc vì những yêu sách này không đáp ứng "các chuẩn mực của luật pháp quốc tế". Xem Dupuy và Dupuy 2013. Xem thêm Kopela 2017.

[5] Xem Bộ Ngoại giao Trung Quốc, 2016. Xem thêm sự bác bỏ của Hội Luật quốc tế Trung Quốc với phán quyết, đề cập nhiều nguồn có trong bài báo của "Sử Đệ tổ" dưới tiêu đề "Thực tiễn của Trung Quốc trên Biển Đông trước Thế kỷ 20. Xem Hội Luật quốc tế Trung Quốc 2018, 455-457.

[6] Về báo cáo của miền Nam Việt Nam về cuộc chiến, xem Ho 2014. Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chỉ trích sự hiện diện của quân miền Nam Việt Nam ở Nhóm đảo Lưỡi Liềm (Yongle qundao 永乐群岛,
nhóm đảo phía Tây) ở Hoàng Sa là "xâm phạm" lãnh thổ của Trung Quốc và lấy cớ sử dụng vũ lực. Xem Zhonghua renmin gongheguo waijiaobu
中华人民共和国外交部 1974.

[7] Về Thủy lộ ba và Canh lộ bạ (genglubu 更路簿) xem Kurz. Tài liệu của Tô Đức Liễu được coi là nguồn tham chiếu quan trọng với các hoạt động liên tục của ngư dân Trung Quốc tại các đảo trong bài báo xuất bản trên tờ Nhân dân Nhật báo năm 1976. Xem Nhân dân Nhật báo năm 1976.

[8] Quảng Đông tỉnh vật quán (Guangdong sheng bowuguan 广东省博物馆) năm 1974. Các thành viên của cùng viện nghiên cứu cũng đã tiến hành cuộc điều tra khác năm 1975 và có kết quả được xuất bản là Quảng Đông tỉnh vật quán (Guangdong sheng bowuguan 广东省博物馆) 1976.

[9] Vương Căng Kiệt (Wang Hengjie 王恒杰) (1932–1996) hỗ trợ các lập trường chính thức bằng việc biên soạn hai báo cáo về nghiên cứu khảo cổ tuyên bố sự hiện diện của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa trong khoảng hơn 2500 năm (Wang Hengjie 1992, 776-777) và hơn 2,000 năm (Wang Hengjie 1997, 68-69). Bài báo sau xuất hiện ngay sau đó. Năm 2012, Xu Yongjie và Fan Yiran đã đưa ra một bản tóm tắt về các cuộc nghiên cứu khảo cổ học ở các đảo ở phía Nam Trung Quốc Biển Đông. Về các bằng chứng khảo cổ học chưa chắc chắn ở các đảo phía Nam Trung Quốc, xem Lassere 1999. Một trong những vấn đề lớn đó là không có cách nào cụ thể xác định phương thức các đồ gốm, đồng xu và các di vật khảo cổ khác được đưa đến các đảo.

[10] Deng Siyu 1974.

[11] Ye Hanming and Wu Ruiqing 1974.

[12] Qi Xin 1974

[13] Shao Xunzheng 1956. Ju Jiwu 鞠继武 1954 có một mục (từ 44-46) tập trung chủ yếu vào tài liệu ở thế kỷ mười chín và hai mươi.

[14] "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông". Đây là tuyên bố được lặp đi lặp lại như thần chú trong các tuyên bố chính thức liên tiếp của Trung Quốc. Ví dụ, xem Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 1980 ; 1988 ; 2011 ; 2015 ; 2016

[15] Trong khi Việt Nam là bên thách thức chính của Trung Quốc ở Biển Đông và Philippines đang quanh co trong quan hệ với Trung Quốc đặc biệt là dưới thời Tổng thống Duterte, các nước ASEAN vẫn giữ im lặng về vấn đề này. Như đã đề cập trước đó, Mỹ sử dụng hoạt động tự do hàng hải (FONOP) thách thức Trung Quốc, một số FONOP được tiến hành ở Hoàng Sa. Về FONOP của Mỹ cho đến năm 2017 xem thêm Standifer 2017.

[16] Một bản dịch tiếng Anh xuất hiện vào ngày 12/12 như Shi 1975. Danh tính của ba tác giả được tiết lộ là : Li Baotian 李宝田, Song Lifu 宋力夫 and Zhu Dexiang 朱德祥. Zhu Zhenhai朱振海, người đã đồng hành cùng ba tác giả trên, làm việc ở Phòng Địa Mạo (dimaoshi 地貌室) trong Viện Hàn lâm Khoa học. Các nhà chức trách có liên quan đã tặng thưởng cho những tác giả này vì những nỗ lực với cơ hội tiến hành nghiên cứu nhiều hơn về Hoàng Sa năm 1976. Năm 1977, "Sử Đệ tổ" đã có một bài báo cáo về chuyến đi này, Tây Sa hành 西沙行 ở Địa lí tri thức (Dili zhishi 理知识) số 2 và 3. Tôi chưa tiếp cận tới các ấn phẩm này. Họ đã xuất bản các hồi ký liên quan đén vụ việc này vào năm 2010. Xem Sử Đệ tổ 2010. Li Baotian đã xuất bản một bài viết về việc kỷ niệm chuyến đi năm 1976 tới Hoàng Sa. Xem Li Baotian 2016.

[17] Nơi đầu tiên trong số đó có lẽ là Nam sử tổ, Nghiên cứu sở của Đại học Hạ Môn (厦门大学南洋研究所南史组) 1975. Bài báo đầu tiên của họ, được lưu ở Nam sử tổ (Nanshizu 南史组), ngày 1/12, 1975.

[18] Tôi vẫn chưa tìm được một bản dịch phù hợp với thuật ngữ này. "Cửu Nhũ Loa Châu" là một lựa chọn có xem xét đến giả định của "Sử Đệ tổ" về các rặng san hô ngầm. Một lựa chọn khác là xem xét Cửu Nhũ Loa như cụm từ thông thường chỉ đá và các bãi đá.

[19] Đề mục này có thể được lấy cảm hứng từ một bài báo có tiêu đề và lập luận tương tự. Xem Lin Ronggui
1990.

[20] Xem Hayton 2014, đặc biệt từ trang 29-60, và gần đây nhất Hayton 2018a và 2018b.

[21] Chen Mao giúp đỡ Zhou Chang, hoàn thiện Yuzhou ở Trung Quốc người đã bổ nhiệm ông làm tùy tùng. Xem Thái Bình ngự lãm 263.1b (tr. 1230).

[22] Thái Bình ngự lãm 60.1b (tr. 287).

[23] Tuy nhiên Jianming Shen tuyên bố chính xác như vậy bằng việc thay đổi sơ qua văn bản gốc để đọc là hành bộ trướng hải (xingbu zhanghai 行部涨海) và dịch cụm này là "cuộc khảo sát và tuần hành của thủy quân đến các đảo ở Biển Đông". Xem Shen 1997, 18.

[24] Nan Mingzi là bút danh của nhà sử học Chen Jiarong 陈佳荣. Bài báo trong câu hỏi là Nan Mingzi n. d.
Ở trong phiên bản gốc của bài báo – Chen Jiarong 1982 – Chen đã không đề cập tới Hậu hán thư.

[25] Sơ học ký 6.115.

[26] Thái Bình ngự lãm 790.7b (tr. 3501).

[27] Xem, ví dụ, Hàn Chấn Hoa 1988, 23 ; Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2000 ; Trung Hoa Dân quốc năm 2016.

[28] Ye/Wu năm 1974, 10, cũng đề cập đến Yiwu zhi. Nếu "Sử Đệ tổ" tiếp cận đến bài báo này, có lẽ họ đã khai thác bài báo này do tính lâu đời của bài này với Nanzhou yiwuzhi.

[29] Yiwu zhi, 3. Chú thích cụm từ liên quan từ Yiwu zhi, được trích dẫn trong Zhengde Qiongtai zhi 正德琼台志 42.14b, khác một chút so với cụm từ trong bài đã chỉnh sửa của Yiwu zhi.

[30] Bộ Ngoại giao Trung Quốc năm 2000.

[31] Zhonghua renmin gongheguo waijiaobu 2000.

[32] Ấn bản đầu tiên bằng tiếng Anh kể từ nửa sau những năm 1970 đã chấp nhận yêu sách lịch sử của Trung Quốc và trở thành tài liệu được trích dẫn trong các nghiên cứu sau này. Xem Hayton 2018b, 4.

[33] Taiping yulan 988.3a (tr. 4372).

[34] Shen Jianming 2002, 113-114.

[35] Trong Shen Jianming năm 1997, 18, thuật ngữ kỳ thủ giải thích tất cả các nghĩa này.

[36] Trong bài báo đầu tiên Shen đã dịch không càng sai lệch đoạn : "các quan chức làm nhiệm vụ tuần tra đi thuyền lớn đã đổi sang đi thuyền nhỏ để đến được vùng này […]". Xem Shen 1997, 19.

[37] Manguin 1980, 274.

[38] Các thủy thủ chỉ cuối thế kỷ 19 mới có nhiều thông tin cụ thể hơn về vị trí các bãi cạn, đảo san hô, bãi đá ngầm. Cho đến lúc đó, các thuyền theo sau một lộ trình biển đã được thiết lập trước đó dọc theo các bở Biển Đông Nam Á. Xem Minh Hà Pham 2016.

[39] Chen Jiarong 2006.

[40] San Hô Châu là một thuật ngữ mập mờ khác dù chưa được xác định vẫn được các tác giả Trung Quốc thời hiện đại dùng để đề cập tới các đảo ở Biển Đông. Xem tham khảo Liu Nanwei 1996, 13-14.

[41] Thái Bình ngự lãm 69.3b (327). Cũng có thể xem Hàn Chấn Hoa năm 1988, 25. Về các rặng san hô xem Ptak 1990.

[42] Ptak 2007, 236.

[43] Xem thảo luận chi tiết về thuật ngữ trướng hải tại Ptak 2004.

[44] Ye and Wang năm 1974 đã thể hiện Guangzhou tonghai yidao 广州通海夷道 (Các tuyến đường biển từ Quảng Châu tới nước ngoài), biên soạn bởi Jia Dan 贾耽 (730–805) là nguồn tham khảo chính thức từ thời nhà Đường. Mô tả tuyến đường từ Quảng Đông tới các nước Đông Nam Á, có trong Tân Đường Thư (1060) 43A.1153. Hàn Chấn Hoa đã cố bổ sung cho thiếu sót của thời Tùy-Đường. Trong số các tác phẩm mà ông đề xuất là Tùy Thư Suishu 隋书 (656 ; Lịch sử chính thức về nhà Tùy), bao gồm bản ghi chép về việc đi lại thường xuyên đến Hoàng Sa mà ông nghĩ có tên là Jiaoshishan 礁石山, rằng Tongdian 通典 (801) đã ghi nhận các giới chức đi thuyền qua Hoàng Sa (Jiaoshishan), và các tuyến đường hàng hải từ Quảng Châu ra bên ngoài (Guangzhou tonghai yidao) đã đánh dấu Hoàng Sa với tên gọi Xiangshi 象石. Xem thêm Hàn Chấn Hoa 1988, 29-31.

Additional Info

  • Author Johannes L. Kurz
Published in Diễn đàn

Biển Đông : Chiến lược giữ chủ quyền bằng tầu hải cảnh của Việt Nam và các nước láng giềng

Cơn khát tài nguyên biển đã khiến Trung Quốc ngày càng hung hăng hơn. Trung Quốc liên tiếp gây sức ép với các nước láng giềng cũng đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông và hăm dọa đối thủ bằng đội tầu chấp pháp (tầu "vỏ trắng"), lực lượng dân quân biển và ngư dân, được quân đội đào tạo bài bản.

haicanh01

Một tầu hải cảnh Trung Quốc bắn vòi rồng vào tầu tuần tra Việt Nam ở Biển Đông, ngày 02/05/2019. Reuters/Vietnam Marine Guard/Handout via Reuters

Đây là nhận định của ông Martin A. Sebastian, giám đốc Trung tâm vì An ninh và Ngoại giao Hàng hải, thuộc Viện Hàng hải Malaysia, trong bài tham luận đăng trong Nghiên cứu số 73 "Ngoại giao tầu hải cảnh ở Đông Nam Á" (Etude n°73 : La Diplomatie des gardes-côtes en Asie du Sud-Est), do Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM) phát hành tháng 03/2020.

Tầu hải cảnh, cùng với lực lượng dân quân biển và ngư dân đóng vai trò gì, có công dụng như thế nào trong chiến lược bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông của Việt Nam, cũng như của các nước khác trong khu vực ? Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, một trong hai giám đốc phụ trách tập Nghiên cứu số 73, lần lượt giải thích một số câu hỏi của RFI tiếng Việt.

*****

RFI : Thưa ông Benoît de Tréglodé, Nghiên cứu số 73 - "Ngoại giao tầu hải cảnh ở Đông Nam Á" - của Viện IRSEM nhấn mạnh đến sự hiện diện ngày càng thường xuyên của các đội tầu hải cảnh, còn được gọi là tầu "vỏ trắng" ở các vùng Biển Đông Nam Á. Xu hướng này được giải thích như thế nào ?

Benoît de Tréglodé Chị có lý khi nhấn mạnh đến "tầu vỏ trắng". Về mặt ngữ nghĩa, người ta xếp tầu "vỏ trắng", có nghĩa là tầu tuần duyên, bên cạnh tầu "vỏ xám", tức là tầu của các lực lượng hải quân các nước trong vùng.

Đúng là từ ba thập niên nay, Biển Đông là một khu vực có nhiều nhập nhằng chiến lược sâu sắc khiến các nước láng giềng phải tính đến những phương tiện khác để xây dựng khả năng phản ứng ngoài khơi của họ và thoát khỏi những phương pháp truyền thống, mà vào lúc đó họ không có biện pháp nào hơn, như kiểu tầu hải quân có nguy cơ dẫn đến xung đột liên quốc gia. Vì thế, cần phải xây dựng những phương tiện khác để có thể khẳng định chủ quyền trong một vùng đặc trưng bởi tính mập mờ chiến lược, bởi những vùng xám và thiếu rõ ràng về chủ quyền.

Vì vậy, phải tìm ra được một công cụ mới, một nhân tố mới để có thể hành động trên thực địa. Và tầu hải cảnh được sử dụng vào mục đích đó. Nhưng cũng cần phải đặt lại hiện tượng này vào bối cảnh lịch sử : Quyết định dùng tầu hải cảnh được Trung Quốc đưa ra vào nửa sau thập niên 1990. Sau đó, toàn bộ các nước trong vùng có tranh chấp theo đuổi ý tưởng này. Việt Nam cũng làm tương tự, tương đối muộn, bằng cách thông qua luật về lực lượng Cảnh sát biển vào cuối những năm 2000.

RFI : Trung Quốc có chiến lược gì khi sử dụng tầu hải cảnh trong vùng ? Đâu là khả năng của Việt Nam, cũng như các nước trong vùng, hiện có tranh chấp với Trung Quốc ?

Benoît de Tréglodé : Phải trở lại sự khác biệt về các loại tầu. Ban đầu, các tầu hải cảnh làm đúng nhiệm vụ cảnh sát biển. Chúng xuất hiện ở đó để buộc tuân thủ trật tự, quy định trong vùng biển của một nước, cũng như làm nhiều nhiệm vụ khác như bảo vệ môi trường, cứu hộ ngoài khơi… Còn các tầu "vỏ xám" của lực lượng hải quân là một công cụ cho chính sách đối ngoại, làm nhiệm vụ hoàn toàn khác.

Có một điều thú vị cần nhắc đến, nếu chú ý đến sự thay đổi hoạt động trong khu vực này từ cuối những năm 2010, đó là, từ giờ, chính đội tầu hải cảnh lại đảm nhiệm thêm nhiệm vụ tối cao, có nghĩa là bảo vệ chủ quyền. Nhiệm vụ này không hề được dự kiến ban đầu. Như vậy, có một sự thay đổi hợp lý, như trông đợi, nhưng quan trọng để hiểu được hành động của tầu hải cảnh trong khu vực. Lực lượng này đang từng bước trở thành công cụ bảo vệ quốc gia và điều này hoàn toàn thay đổi so với nhiệm vụ ban đầu.

Tiếc là có khá ít nghiên cứu về lực lượng hải cảnh ở Biển Đông. Nhưng đội ngũ này lại trở thành lực lượng trung tâm trong việc tái triển khai các hoạt động ở Biển Đông từ 30 năm nay, dù lực lượng này được phát hiện hơi muộn.

Tôi xin nhắc lại một trong những hành động mang tính biểu tượng, đó là Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, được ký năm 2000, nhấn mạnh đến hợp tác song phương về an ninh giữa hai nước. Đó chính là một thỏa thuận về cảnh sát biển.

Điều thú vị hiện nay, dường như cả một bộ máy hành chính được triển khai ở Việt Nam, cũng như ở Philippines, Malaysia và dĩ nhiên là cả Trung Quốc, để triển khai và hiện đại hóa lực lượng ngư dân để có thể năng động hơn trên thực địa nhằm giúp Nhà nước truyền thông điệp mà không cần gây xung đột vũ trang, quá trực diện và quá nghiêm trọng. Đây là lực lượng ở cấp thấp hơn nhưng phục vụ cùng mục đích.

Rõ ràng vụ tầu cá Việt Nam bị đâm chìm vào đầu tháng 04/2020 là một bằng chứng cho việc sử dụng những tác nhân mới nhằm phát đi tín hiệu chính trị đối với một Nhà nước. Và hình thức này sẽ tiếp tục được sử dụng trong tương lai. Tại vì, cứ thử hình dung rằng nếu xảy ra một sự cố giữa tầu tuần tra thì sẽ gây ra những hậu quả chính trị nặng nề. Còn nếu xảy ra với đội dân quân biển, thì thiệt hại ít hơn, ít tốn kém hơn, trong khi cả hai kiểu đều cùng hướng đến một mục tiêu.

RFI : Tầu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 hoạt động ở Biển Đông và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng 04/2020. Đi kèm con tầu này là đội tầu hải cảnh và dân quân biển. Lực lượng này có nhiệm vụ gì ?

Benoît de Tréglodé : Một lần nữa, phải nhắc lại là tham vọng hành động của các nước quanh Biển Đông là sử dụng mọi mặt, từ lực lượng hải quân, để tái khẳng định những đòi hỏi chủ quyền của họ. Đây là hành động mà tất cả các nước trong vùng đang tiến hành. Đúng là hiện nay, tầu "vỏ xám" được sử dụng ít hơn, trong khi tầu "vỏ trắng" lại hoạt động thường xuyên hơn từ khoảng 20 năm.

Giờ xuất hiện thêm nhiều yếu tố khác, như lực lượng dân quân biển và lực lượng ngư dân. Toàn bộ các lực lượng trên biển chủ chốt này đều được các nước sử dụng để khẳng định sự hiện diện trên thực địa.

Trong một vùng có tranh chấp giữa hai nước, lấy ví dụ Trung Quốc và Việt Nam, song song với những tranh chấp, hai nước lại có chính sách hợp tác kinh tế quan trọng và mạnh mẽ, nên khó sử dụng được những nhân tố công kích như Hải quân Quốc gia. Vì thế họ sử dụng những phương tiện "trung lập" hơn, như lực lượng hải cảnh. Nhưng hiện tại, lực lượng này không đủ, nên họ sử dụng cả những lực lượng còn "trung lập" hơn nữa, đó là đội dân quân biển và ngư dân. Có nghĩa là sử dụng cả ba cấp độ khác nhau để khẳng định chung một điều : Hiện diện trên thực địa đang có tranh chấp.

RFI : Liệu Trung Quốc có tranh thủ thời cơ đại dịch Covid-19 đang tác động nghiêm trọng đến nhiều nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, để tăng cường hoạt động ở Biển Đông không ?

Benoît de Tréglodé : Tôi nghĩ rằng sự kiện hôm 02/04/2020 một tầu cá Việt Nam bị tầu Trung Quốc đâm chìm ở quần đảo Hoàng Sa không được xem là đánh dấu một bước ngoặt trong chiến lược hàng hải Trung Quốc trong giai đoạn dịch Covid-19.

Các tầu của lực lượng dân quân biển hoặc ngư dân Việt Nam và Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp luôn chơi trò "mèo đuổi chuột". Đây là điều thường xuyên xảy ra, mà sự kiện gần nhất là vào đầu tháng 04/2020. Tiếp theo là việc tầu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tôi không biết là có nên xem đó là chính sách tổng thể của Bắc Kinh hay không, trong một năm được cho là rất quan trọng đối với các lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông.

Tôi xin nhắc lại là Trung Quốc muốn các cuộc đàm phán gay go về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông mang lại kết quả. Vì thế, phải hỏi ngược lại : Bắc Kinh có lợi gì khi đổ thêm dầu vào lửa trong khu vực này vào năm 2020 và tranh thủ sự lơ là của nhiều nước đang phải chật vật xử lý khủng hoảng Covid-19 ? Thực sự, tôi không tin đây là món quà trời ban cho chính sách ngoại giao hàng hải của Trung Quốc trong năm nay.

RFI : Đầu năm 2020, Trung Quốc tập trận chống tầu ngầm ở phía bắc Biển Đông. Tầu sân bay Liêu Ninh cũng có kế hoạch tập trận trong khu vực. Phải hiểu những sự kiện này như thế nào ?

Benoît de Tréglodé : Từ đầu năm đến tháng Tư này, hải quân Trung Quốc có hai sự kiện khá quan trọng. Đầu tiên là cuộc tập trận chống tầu ngầm diễn ra ở phía bắc Biển Đông. Thứ hai là các bài tập cất cánh và hạ cánh trên tầu sân bay Liêu Ninh, ở cùng khu vực. Hai sự kiện này cho thấy điều gì ? Chúng chứng minh rằng Bắc Kinh muốn cải thiện khả năng hoạt động của lực lượng hải quân trong khu vực. Điều này không cho thấy có một bước ngoặt hoặc ý định khẩn trương chiếm thêm đảo mà chỉ chứng minh Trung Quốc muốn khẳng định chính sách hàng hải xứng tầm một cường quốc.

Việt Nam cũng đang chứng minh tương tự, khi muốn trở thành cường quốc hàng hải từ nay đến năm 2030. Luật Cảnh sát biển, tăng cường trang thiết bị hàng hải, rồi tầu cá của ngư dân, hiện đại hóa chương trình tầu "vỏ xám" của Hải Quân Việt Nam đều nằm trong chiến lược này. Và đây cũng là chiến lược chung của rất nhiều nước trong khu vực.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Thu Hằng thực hiện

Nguồn : RFI, 20/04/2020

Additional Info

  • Author Benoît de Tréglodé
Published in Diễn đàn

Hai nhà nghiên cứu bị cắt tên khỏi phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ !

RFA, 20/04/2020

Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh - HTV công chiếu năm 2015, là một bộ phim tài liệu do Nghệ sĩ Lâm Thành Quý là đạo diễn, dài 5 tập, mỗi tập 30 phút, được xây dựng một cách công phu, triển khai từ năm 2012. Trong đó, đặc biệt có phần đóng góp của ba nhà khoa học nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thứ hai là Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn là cố vấn, thứ ba là Thạc sĩ Đinh Kim Phúc...

phim1

Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh - HTV công chiếu năm 2015, có phần đóng góp của ba nhà khoa học là Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn và Thạc sĩ Đinh Kim Phúc... Courtesy HTV / RFA edited

Tuy nhiên, mới đây, đài truyền hình VTV9 khi cho chiếu lại bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ lại tự ý chỉnh sửa, cắt xén bỏ tên và hình ảnh hai nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc và Trần Đức Anh Sơn.

Trả lời RFA hôm 20 tháng 4 năm 2020, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc, nói :

"Trong ba tháng đầu năm 2020, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh chiến dịch khiêu khích của họ trên Biển Đông. Đầu tiên họ tố cáo Việt Nam đưa tàu đánh cá uy hiếp đảo Hải Nam, uy hiếp căn cứ quân sự của họ, thứ hai họ cho tàu hải cảnh đụng chìm tàu cá Việt Nam...

Hành động khiêu khích của Trung Quốc không mới, đã diễn ra suốt mấy mươi năm nay, nhưng thái độ ngông cuồng khiêu khích của Trung Quốc ngày càng trắng trợn, bị các nước trên thế giới lên án. Chính vì vậy, chúng tôi mong muốn Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ tiếp tục được công chiếu trên các kênh truyền hình trong nước. Nhưng tôi rất tiếc, trong thời gian vừa qua, đài truyền hình VTV9 phát lại bộ phim này, nhưng không biết vì lý do gì, họ đã cắt bỏ một số đoạn có mặt của anh Trần Đức Anh Sơn, là một trong những người đã góp phần cho thành công của bộ phim này, và họ cắt tên tôi ra khỏi Hội đồng biên tập...

Có lẽ do tôi và anh Trần Đức Anh Sơn hay phản biện những vấn đề của quốc gia hay không ? Hay vì chúng tôi có tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc khiêu khích, xâm lược trên Biển Đông hay không thì điều đó chúng tôi không nắm rõ".

Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho biết thêm, Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ mà ông có góp phần làm cố vấn, do Hãng truyền hình TPHCM (HTV) thực hiện từ năm 2013. Trong thời gian đó, nhóm làm phim đã đi qua 9 quốc gia và vùng lãnh thổ để thu thập tư liệu, phỏng vấn các nhà nghiên cứu trên thế giới như Mỹ, Châu Âu, Úc, Nhật...

Khi Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ bắt đầu công chiếu trên HTV, đã được công chúng đón nhận một cách hết sức hồ hởi, vì tính chất khoa học của nó, cũng như mức độ công phu của tư liệu mà bộ phim đem lại. Chính vì vậy, Bộ phim ‘Biển đảo Việt Nam nguồn cội tự bao đời’ đã đoạt giải phim tài liệu xuất sắc nhất năm 2015, và 4 giải báo chí ở Trung ương lẫn địa phương. Và mỗi lần Trung Quốc gây hấn, ông Phúc và các cộng sự vẫn mong các đài truyền hình phát bộ phim này, để nhân dân Việt Nam biết rõ cội nguồn lịch sử chủ quyền của đất nước trên Biển Đông cũng như thấy rõ thủ đoạn và âm mưu của Trung Quốc như thế nào trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Nhà nghiên cứu Biển Đông, Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn, nguyên phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, khi trao đổi với RFA hôm 20/4, nói về cơ duyên ông được mời tham gia là phim này :

"Quá trình làm phim này do một cơ duyên, tôi làm việc Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, tôi đã chủ trì một nghiên cứu xây dựng tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đề tài này tôi làm từ 2009 đến 2012 thì nghiệm thu. Sau đó chúng tôi có xin phép mở một triển lãm có tên Tư liệu chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi làm thành công thì HTV có cử một nhóm ra mời tôi tham gia vào một team làm phim của họ. Tôi đồng ý và từ đó tôi tổ chức các chuyến đi tìm tài liệu và quay phim, từ năm 2013 đến 2014 để hoàn thành bộ phim này".

Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn cho biết, bộ phim sau đó được dịch sang tiếng Anh và xong đó in hàng ngàn đĩa phụ đề tiếng Trung. Khi tham gia chương trình trao đổi học giả Fulbright ở Đại học Yale, ông Sơn đã tặng cho Thư viện Sterling của truờng Đại học Yale, đồng thời tặng cho Thư viện Quốc hội Mỹ, Thư viện Harvard Yenching của Đại học Harvard... Hiện những bản gốc đều có tại các thư viện đó.

phim2

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (bìa phải) khi tham gia thực hiện bộ phim Biển đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời. Courtesy HTV

Đây không phải là lần đầu tiên VTV tự ý cắt xén tên và hình ảnh hai nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc và Trần Đức Anh Sơn. Trước đây, vào năm 2019 VTV1 cũng đã một lần cắt xén tên và hình ảnh hai nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc và Trần Đức Anh Sơn. Tuy nhiên, theo ông Trần Đức Anh Sơn, hình ảnh ông xuất hiện trong phim không thể xóa được hết, bởi vì ông đã xuất hiện quá nhiều trong bộ phim đó, ông Sơn cũng là người dắt đoàn làm phim đi khắp nơi. Ông nói tiếp :

"Vào tháng 3 năm 2019 tôi bị khai trừ ra khỏi đảng vì viết FB đụng chạm đến chuyện của họ. Sau đó truyền thông trong nước mở chiến dịch coi tôi như một tên phản động, họ bêu xấu tôi trên VTV1, nhưng tôi không tranh cãi, rút lui đi làm việc tư nhân. Ngay lúc đó thì Trung Quốc kéo tàu Hải dương địa chất 8 vào Biển Đông và ở đó 3 tháng. Lúc bấy giờ VTV mới xin bộ phim này của HTV để chiếu, nhưng khi chiếu thì lại xóa hết tên tôi cũng như những hình ảnh có tôi. Ngay cả những link của HTV đã chiếu đưa lên mạng cũng bị xóa luôn".

Theo thông tin mà Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn có được từ bạn bè, VTV đã có một chỉ đạo rất rõ ràng, những gì có tên Trần Đức Anh Sơn thì phải xóa. Ông cho rằng, làm như vậy coi như phủ nhận hết công lao của ông và các cộng sự đã làm bộ phim này và đã lưu trữ dữ liệu cho quốc gia.

Hôm 7/3/2019, Nhà nghiên cứu Biển Đông, Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn, nguyên phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, bị Thành ủy Đà Nẵng khai trừ khỏi Đảng. Ông Trần Đức Anh Sơn bị kỷ luật khai trừ đảng, do viết, đăng tin, bài trên Facebook, mà chính quyền cáo buộc là sai sự thật… không đúng với quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Việt Nam trên mạng xã hội.

Tin cho biết chính quyền cáo buộc những vi phạm của ông Trần Đức Anh Sơn là rất nghiêm trọng. Ông cũng bị buộc tội "phỉ báng uy tín của... tổ chức đảng. Tuy nhiên tin không nêu rõ về nội dung những cáo buộc sai trái của ông, mặc dù trước đó, ông đã chỉ trích chính phủ Việt Nam đã không đứng lên công khai chống Bắc Kinh trong cuộc tranh chấp kéo dài về chủ quyền trên biển.

Khi đó, ông Trần Đức Anh Sơn đã không có bình luận nào, tuy nhiên ông đã trích lời nhà sư Thích Nhất Hạnh để đăng trên trang cá nhân của mình : "Đây là một khoảnh khắc hạnh phúc".

Hôm 19/4/2020, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đã gởi một thư ngỏ đến ông Trần Bình Minh, Ủy viên Trung ương đảng, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam VTV. Trong thư ông cho biết, bộ phim ‘Biển Đảo Việt Nam - nguồn cội tự bao đời’ là phim tài liệu của quốc gia. Không còn là của tổ chức hay cá nhân nào nữa. Vì các tư liệu sưu tầm đã được đánh giá - thẩm định tầm quốc gia mang cả ý nghĩa đối ngoại quốc tế. Vì vậy, mọi sự tùy tiện thay đổi nội dung truyền thông của VTV đều không thể chấp nhận được.

Trong thư, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đã yêu cầu Trần Bình Minh giải thích cho công luận được rõ vì sao ông ra lệnh cắt tên ông và tên Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn ra khỏi bộ phim. Bởi vì theo ông Phúc, VTV là đài truyền hình quốc gia chứ không phải là chợ trời !

Đài Á Châu Tự Do hôm 20/4/2020 đã nhiều lần liên lạc ông Trần Bình Minh, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, qua số điện thoại di động 0913 xxx 673, tuy nhiên mọi cố gắng đều không thành công.

Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn cho biết lý do vì sao mình không khiếu kiện :

"Đáng ra người đi kiện là đạo diễn Lâm Thành Quý và giám đốc đài HTV, nhưng hai người này không kiện thì tôi cũng không kiện làm gì, tôi chi là một người được mời với tư cách là cố vấn, xuất hiện trên phim và có tên trên Generic. Trên Generic có cám ơn rất nhiều người, đặc biệt là 3 người, thứ nhất là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thứ hai là Tiến sĩ Sử học Trần Đức Anh Sơn là cố vấn, thứ ba là Thạc sĩ Đinh Kim Phúc... thì họ xóa tên tôi và tên anh Phúc".

Theo cách làm việc của VTV, Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn cho rằng, khi dùng được thì VTV tung hô... thậm chí còn khen thưởng. Nhưng đến khi họ thấy ông có những suy nghĩ trái chiều, tuyên giáo khoanh vùng, thì họ hành xử theo kiểu vắt chanh bỏ vỏ. Theo ông, đó là sự tráo trở... Ông cho rằng cách thức như vậy sẽ khiến những trí thức trong và ngoài nước sẽ cảm thấy e ngại khi tham gia góp sức cho nước nhà. Theo ông, cách ứng xử của VTV sẽ gây tác hại rất lớn.

Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho biết, việc đóng góp tiếng nói của mình, đóng góp một phần sức lực của mình để góp phần bảo vệ chủ quyền, là trách nhiệm công dân, trách nhiệm người Việt Nam của ông. Theo ông, dù không có mặt trong bộ phim, hay không trả lời VTV, HTV... thì tiếng nói của ông vẫn tiếp tục trên các đài phát thanh trong và và ngoài nước, để tiếp tục bảo vệ chủ quyền đất nước. Chứ không cần phải cứ VTV thì ông mới cất được tiếng nói bảo vệ tổ quốc của mình.

Nguồn : RFA, 20/04/2020

Additional Info

  • Author RFA tiếng Việt
Published in Diễn đàn

Cảnh giác trước lời đe dọa của Trung Quốc

Đại Phong, RFA, 20/04/2020

Biển Đông đang "nóng" hơn

Tình hình biển Đông vẫn đang "sôi sục" bởi các hành động hung hăng liên tiếp của Trung Quốc.

bd1

Hình minh họa. Các tàu nạo vét của Trung Quốc xung quanh bãi Mischief ở quần đảo Trường Sa hồi tháng 5 năm 2015 - Reuters

Sau khi tuyên bố thành lập chính quyền "khu Tây Sa" và "khu Nam Sa"ngày 18/4/2020, Trung Quốc tiếp tục lấn thêm những bước đi mạnh bạo. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi tiếp Công hàm để đáp trả Công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam với những lời lẽ mang hàm ý đe dọa.

Ngoài ra, Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 19.4 còn thực hiện một động thái ngang nhiên nữa là công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông. 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể được đặt tên này tập trung ở phần phía tây Biển Đông. Một số nằm dọc theo "đường lưỡi bò" và rất sát Việt Nam.

Chẳng hạn, Nhàn Đàm Hải Đài (Xiantan Haitai) ở vị trí 11 28'.7 N/110 14' E, cách Cam Ranh khoảng 60 hải lý ; Vạn An Hải Để Hạp Cốc Quần (Wan'an Haidixiaguqun) ở vị trí 10°30'N/109°50'E, cách đảo Phú Quý khoảng 50 hải lý ; Tiêu Tương Hải Khâu (Xiaoxiang Haiqiu) ở vị trí 9°32'1"N/109°44'1" cách Hòn Hải khoảng 45 hải lý.

Động thái này một lần nữa cho thấy Trung Quốc càng ngày càng thể hiện tham vọng độc chiếm biển Đông khi đồng loạt triển khai nhiều hành động cả trên thực địa, pháp lý và hành chính.

Công hàm của Trung Quốc ngày 17/4 thể hiện điều gì ?

Sau khi Malaysia đệ trình hồ sơ về thềm lục địa mở rộng ngày 12/12/2019, các quốc gia liên quan đã lên tiếng. Trung Quốc gửi ngay một Công hàm ngày 12/12/2020 để phản đối Malaysia. Ngày 6/3/2020, Philippines đã gửi hai công hàm lên Liên Hợp Quốc để trình bày quan điểm của mình. Trong đó, một công hàm của Philippines đã thẳng thắn phản đối các yêu sách phi pháp của Trung Quốc. Để đáp lại, ngày 23/3/2020 Trung Quốc đã ra công hàm đáp trả Philippines.

Ngày 30/3/2020, Việt Nam đã gửi Công hàm để khẳng định chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa cũng như phản đối các lập luận vô lý và phi pháp của Trung Quốc trên biển Đông. Đồng thời, ngày 14/4/2020, Việt Nam cũng gửi thêm hai công hàm để đáp lại quan điểm của Malaysia và Philippines.

bd2

Hình minh họa. Lính Trung Quốc tuần tra ở đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa hôm 29/1/2016 Reuters

Ngày 17/4/2020, Trung Quốc đã gửi công hàm tới Liên Hợp Quốc để đáp trả công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam. Trong công hàm này của Trung Quốc, ngoài phần đầu lặp lại các yêu sách lộn xộn như trong các công hàm phản đối Malaysia, Philippines và Việt Nam trước đây, Trung Quốc còn nhắc lại rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa với Công thư năm 1958 của Thủ tướng Việt Nam lúc đó là ông Phạm Văn Đồng. Ngoài ra, Trung Quốc còn cho rằng, cho tới thập kỷ 70 của thế kỷ XX, phía Việt Nam đã luôn chính thức công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ lâu đời của Trung Quốc.

Thêm nữa, Trung Quốc còn cho rằng, sau năm 1975, Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc estoppel trong luật quốc tế vì đã có hành vi yêu sách trái phép đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc ngang ngược khẳng định rằng Việt Nam đã sử dụng vũ lực trái phép để chiếm đoạt các đảo và đá của Trường Sa, vốn thuộc Trung Quốc.

Đặc biệt, trong công hàm này của Trung Quốc có thêm một câu : "Trung Quốc cương quyết yêu cầu Việt Nam rút tất cả người và vật dụng trên các đảo và đá ở Trường Sa" này.

Về lập luận pháp lý của Trung Quốc trong công hàm này, người viết xin sẽ trình bày và phân tích cụ thể trong những bài sau. Còn trong bài này, xin tập trung vào ngôn ngữ với hàm ý đe dọa Việt Nam.

Trong bài viết của Nguyễn Hồng Thao - Vốn là Đại sứ Việt Nam tại Malaysia đăng ngày 19/4/2020, tác giả đặt ra khả năng đây là tín hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực đối với Việt Nam. Điều này được suy luận bởi vì trong các công hàm đáp trả Malaysia và Philippines của Trung Quốc cùng thời gian này không có câu tương tự.

Theo sự tìm kiếm của Dự án Đại Sự ký Biển Đông, thì trong một tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 22/2/1988 cũng có một câu tương tự như sau : "Phía Việt Nam phải rút khỏi các đảo và các cụm san hô này. Nếu phía Việt Nam cản trở các hành động chính đáng của Trung Quốc tại các khu vực đã nói trên, bất chấp sự nhất quán của Trung Quốc. Thì (Việt Nam) sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước các hậu quả phát sinh".

Và như chúng ta đã biết, Trung Quốc tuyên bố câu này ngày 22/2/1988 thì ngày 14/3/1988 xảy ra sự kiện Hải quân Trung Quốc thảm sát lính công binh Việt Nam tại Gạc Ma. Chính vì vậy, việc cảnh giác trước các tín hiệu đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc trong thời điểm này không phải là thừa.

Các kịch bản sử dụng vũ lực của Trung Quốc

Vậy nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực thì sẽ sử dụng vũ lực ra sao ? Sau đây xin đưa ra 2 khả năng.

1. Trung Quốc sẽ nổ súng, cướp quyền kiểm soát tại 21 cấu trúc mà Việt Nam đang nắm giữ tại Trường Sa. Kịch bản này có thể xảy ra, nhưng với khả năng rất ít, bởi vì :

i) Thực lực trên biển của Hải quân Trung Quốc đang càng ngày càng lớn mạnh, nhưng Hải quân Việt Nam cũng có những bước tiến về chất và lượng. Chúng ta nên biết, nếu chỉ đơn thuần so sánh tiềm lực của hai bên thì đó là sự khập khiễng. Nhưng Trung Quốc chỉ có thể mang một phần tiềm lực Hải quân của họ để chiến đấu với Hải quân Việt Nam tại đây.

ii) Thế và lực của Việt Nam không phải như hồi năm 1988. Với sự lên tiếng ủng hộ Việt Nam của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, cho thấy, Việt Nam hiện nay còn có sự ủng hộ của nhiều bạn bè quốc tế.

iii) Đây không phải là thời điểm thích hợp cho việc Trung Quốc phát động một cuộc chiến. Hoa Kỳ và Trung Quốc đang trong một cuộc "thư hùng" cạnh tranh chiến lược với nhau. Với các hành động vô trách nhiệm, đểu cáng nhằm thủ lợi trong dịch Covid-19 của Trung Quốc khiến nhiều quốc gia Tây phương đã ngả về phía Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc gây chiến thời gian này, sẽ là dịp để cả thế giới ngả về phía Hoa Kỳ, và Trung Quốc sẽ bị cô lập. Điều này Trung Quốc không hề muốn. Cái Trung Quốc muốn là không đánh mà vẫn đạt được mục đích độc chiếm biển Đông. Vì thế, tình huống này khó xảy ra lúc này.

2. Tuy nhiên, Trung Quốc có khả năng sử dụng các đội tàu của mình, từ tàu chiến Hải quân đến các tàu Hải cảnh, Kiểm ngư cùng tác tàu dân quân biển của mình để đe doạ, bao vây các giàn DK gần khu vực Bãi Tư Chính mà Việt Nam hiện đang kiểm soát. Kịch bản "bắp cải" mà Trung Quốc đã áp dụng thành công khi chiếm thế thượng phong, giành quyền kiểm soát tại Scarborough từ tay Philippines năm 2012 có thể được lặp lại, dưới một hình thức mới.

Chính vì vậy, Việt Nam cần có các kịch bản ứng phó trong các trường hợp xảy ra các tình huống xấu nhất như vậy.

Đại Phong

Nguồn : RFA, 20/04/2020

********************

Trung Quốc đặt tên cho các đảo và thực thể ở Biển Đông, phản đối Việt Nam trước UN

RFA, 20/04/2020

Tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm 19/4 cho biết Bắc Kinh vừa công bố "danh xưng tiêu chuẩn" cho hàng chục đảo và bãi đá ở khu vực Biển Đông, một hành động mà nước này gọi là để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở vùng biển đang tranh chấp.

bd3

Hình minh họa. Tàu hải cảnh Trung Quốc đuổi tàu cảnh sát biển Việt Nam gần giàn khoan HD 981 hồi tháng 5 năm 2014 Reuters

Theo Hoàn Cầu Thời Báo, Bộ Dân Chính và Bộ Tài Nguyên Trung Quốc đã công bố các tên, kinh độ và vĩ độ đối với 25 đảo và 55 thực thể địa lý dưới biển ở khu vực này.

Theo tờ Tuổi Trẻ, trong số những bãi cạn được đặt tên, có những bãi nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có điểm chỉ cách bờ biển Việt Nam chưa đầy 60 hải lý, hoặc đường cơ sở của Việt Nam khoảng 50 hải lý.

Trước đó ,vào ngày 18/4, Bắc Kinh cũng tuyên bố thành lập hai quận đảo Tây Sa và Nam Sa để quản lý hai quần đảo đang tranh chấp với các nước là Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngay sau khi Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận Tây Sa và Nam Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng phản đối và cho rằng đây là hành vi "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, không có giá trị và không được công nhận, không có lợi cho quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và gây thêm phức tạp tình hình Biển Đông, khu vực và thế giới".

Hành động đặt tên cho các đảo và bãi đá cũng như việc lập hai quận mới quản lý các đảo ở Biển Đông là những hành động mới nhất mà Trung Quốc thực hiện sau khi vào ngày 17/4, nước này đệ trình lên Liên Hiệp Quốc (UN) một tài liệu cáo buộc Việt Nam "đưa quân xâm lược và chiếm đảo, đá thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc hòng tạo ra tranh chấp".

Nam Sa là tên mà Trung Quốc đặt cho quần đảo Trường Sa.

Trong văn bản gửi lên UN, Bắc Kinh còn "phản đối sự xâm lược và chiếm đóng trái phép của Việt Nam" và "yêu cầu Việt Nam rút tất cả người và phương tiện, thiết bị ra khỏi các đảo, đá đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp".

Trong một diễn tiến khác, báo Người Lao Động hôm 20/4 đưa tin cho biết công ty TNHH giày Apache Việt Nam ở khu công nghiệp Long Giang thuộc tỉnh Tiền Giang đã treo 6 bản đồ lạ bằng ngôn ngữ Trung Quốc, trong đó thể hiện chi tiết Biển Đông là South China Sea.

Báo Người Lao Động cho biết vào chiều cùng ngày, đoàn kiểm tra của tỉnh Tiền Giang đã đến công ty để kiểm tra và xác minh việc treo bản đồ lạ này để xử lý theo quy định…

*******************

Trung Quốc lập quận quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam ‘phản đối mạnh mẽ’

VOA, 20/04/2020

Bộ Ngoi giao Vit Nam hôm 19/4 lên tiếng v vic Trung Quc thông báo thành lp qun Tây Sa và Nam Sa đ qun lý qun đo Hoàng Sa và Trường Sa Biển Đông.

bd4

Trung Quc thông báo thành lp qun Tây Sa và Nam Sa đ qun lý qun đo Hoàng Sa và Trường Sa Biển Đông.

"Việt Nam đã nhiu ln mnh m khng đnh Vit Nam có đy đ bng chng lch s và cơ s pháp lý đ khng đnh ch quyn đi vi hai qun đo Hoàng Sa và Trường Sa", phát ngôn viên Lê Th Thu Hng nói trong mt tuyên b, mt ngày sau thông báo của Bắc Kinh.

"Lập trường nht quán ca Vit Nam là phn đi mnh m vic thành lp cái gi là ‘thành ph Tam Sa’ và các hành vi có liên quan vì đã vi phm nghiêm trng ch quyn ca Vit Nam, không có giá tr và không được công nhn, không có li cho quan h hu ngh gia các quc gia và gây thêm phc tp tình hình Bin Đông, khu vc và thế gii".

Người phát ngôn B Ngoi giao Vit Nam lên tiếng "yêu cu Trung Quc tôn trng ch quyn ca Vit Nam, hu b các quyết đnh sai trái liên quan đến nhng vic làm đó và không có nhng vic làm tương t trong tương lai".

Trung Quốc hôm 18/4 thông báo vic thành lập qun Tây Sa có tr s đt ti đo Phú Lâm thuc qun đo Hoàng Sa. Tr s ca qun Nam Sa đt ti Đá Ch Thp thuc qun đo Trường Sa. Hai qun này thuc thm quyn ca thành ph Tam Sa tnh Hi Nam.

Tin cho hay, chính quyền Bc Kinh tuyên b rng qun Tây Sa s qun lý qun đo Hoàng Sa, Bãi Macclesfield và vùng bin xung quanh, trong khi qun Nam Sa qun lý qun đo Trường Sa và vùng bin kế cn.

Phản đi ca Vit Nam được đưa ra hơn mười ngày sau khi Hoa Kỳ cho biết "hết sc quan ngi" v các tin tc nói rng Trung Quc đâm chìm mt tàu cá Vit Nam gn qun đo Hoàng Sa trên Bin Đông.

Phát ngôn viên Bộ Ngoi giao M Morgan Ortagus nói trong mt tuyên bố hôm 6/4 rng k t khi dch Covid-19 bùng phát, Trung Quc đã khng đnh các tuyên b ch quyn Bin Đông như "công b các trm nghiên cu" mi đt trên các căn c quân s được xây dng trên Đá Ch Thp và Đá Subi, cũng như cho "máy bay quân sự đặc bit" h cánh trên Đá Ch Thp.

Additional Info

  • Author Đại Phong, RFA, VOA
Published in Diễn đàn

Biển Đông là một trong những trọng tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp (Tạp chí phát lần đầu tiên ngày 18/11/2019).

khanang0

Tàu ngầm lớp Kilo 636 của Nga được giao cho Việt Nam. Ảnh minh họa. naval-technology.com

Tránh và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam "kiên quyết" nhưng "khôn khéo"  trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận  chống Trung Quốc : tăng cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh.

Để đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm 2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên đến 228 tỉ đô la.

Ngoài ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng 482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575 xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay, tầu khu trục.

Vậy Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ, đặc biệt là ở Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon)

RFI : Xét về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung hoành ?

Laurent Gédéon : Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nếu như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh bất cân xứng với đối thủ.

Chính vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.

Quân đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam. Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.

Theo tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc, Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu quả hơn.

RFI : Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?

Laurent Gédéon : Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ chênh lệch với Trung Quốc.

Hà Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Rõ ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm 2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước Châu Âu.

Về câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy, Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách trước đó.

Ngoài ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm 2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị. Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một cách hiệu quả.

RFI : Việt Nam đề ra chính sách "Ba không"(không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có nên xem lại chính sách này không ?

Laurent Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Dù mang tính mệnh lệnh "Ba không" nhưng thực ra chính sách này không hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ "đối tác". Có ba kiểu "đối tác", đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên "liên minh quân sự".

Có thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc. Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.

Nhưng Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên , trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức địa-chính trị riêng.

Và tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng, ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là "dấu chấm hết" cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?

Có thể thấy chính sách "Ba không" không ngăn cản Việt Nam có những thỏa thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế, cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.

RFI : Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam có khả năng giải quyết như thế nào ?

Laurent Gédéon : Trường hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách "sự đã rồi", nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực đuổi tầu Trung Quốc.

Theo quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh "kiềm chế, hợp pháp" trước hành động được coi là "xâm lược" của Bắc Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).

Thu Hằng

Nguồn : RFI, 13/04/2020

Additional Info

  • Author Laurent Gédéon
Published in Diễn đàn

Không còn là nơi xa xôi hẻo lánh, bị cô lập, những hòn đảo trên biển đang trở thành những mảnh ghép chiến lược quan trọng được nhiều cường quốc đua nhau chiếm đoạt hay tranh giành ảnh hưởng nhằm kiểm soát những vùng lãnh hải bao la. Việc chiếm đóng và xây dựng các đảo đá ngầm ở Biển Đông là một trong số các ví dụ điển hình nhất trong cuộc đua giành đảo này.

anh0

Ảnh chụp vệ tinh ngày 08/04/2015 cho thấy các hoạt động bồi đắp một đảo nhỏ và phát triển một cảng nhân tạo tại những bãi rạn san hô của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, Biển Đông. Reuters/CSIS's Asia Maritime Transparency

Mỏm đá, đảo nhỏ, đảo ?

Thống kê của Liên Hiệp Quốc đưa ra một con số ấn tượng : 460.000 đảo trên khắp hành tinh. Từ cổ chí kim, nói đến đảo là nhắc đến nhiều chức năng của đảo : Một vị trí chủ chốt để kiểm soát một eo biển, Điểm giao thương và giao thoa văn hóa, Chốn thiên đường để quay phim giải trí, Một khu bảo tồn sinh thái…

Sự giầu có của một hòn đảo giờ không chỉ gắn liền với mảnh đất hình thành nên nó, và dưới thời thực dân, cho phép cường quốc cai trị đảo trở nên giầu có, mà còn đi liền với cả vùng biển bao bọc đảo – hay đúng hơn với cả đáy biển và những gì chúng cất trữ. Vậy trước hết, như thế nào mới được xem là đảo ? Bà Marie Redon, nhà địa chất học trường đại học Paris 13, tác giả tập sách "Vị thế địa chính trị của các đảo" (Nhà xuất bản Le Cavalier Bleu) giải thích trên đài RFI :

"Định nghĩa nghe có vẻ hiển nhiên. Nếu chúng ta bảo một ai đó "vẽ cho tôi một hòn đảo đi", một cách ngẫu nhiên, chúng ta sẽ có một mảnh đất chung quanh bao bọc nước và điều này chỉ dừng ở đó. Như vậy, một mảnh đất xung quanh toàn là nước, đương nhiên rồi, nhưng mảnh đất nào mới được ? Diện tích mảnh đất đó là bao nhiêu ? Liệu đó có là một mỏm đá, một đảo nhỏ ? Hay đó là một mảnh đất không nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống để được xem là một hòn đảo ? Phải chăng nước Anh vẫn luôn là đảo bất chấp đường hầm dưới biển Manche ? Hay như đảo Ré (phía tây nước Pháp) vẫn luôn là một hòn đảo ?

Thật tình, có điều gì đó thoáng nghĩ có vẻ rất rõ ràng trong định nghĩa về đảo, nhưng đồng thời cũng cực kỳ phức tạp khi chúng ta đi sâu hơn trong khái niệm này. Do vậy, định nghĩa đơn giản : Đó là một mảnh đất chung quanh bao bọc nước. Định nghĩa phức tạp hơn, dĩ nhiên chúng ta sẽ đề cập đến trong suốt chương trình này. Điều quan trọng đối với tôi chính là bản thân định nghĩa về đảo cũng đang trở thành một thách thức địa chính trị và kinh tế quan trọng".

Vùng đặc quyền kinh tế : 200 hay 350 hải lý ?

Thế rồi xuất hiện một ký hiệu rất dễ thương nhưng có một tầm quan trọng lớn : Đó là EEZ – vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (tương đương với 370,4 km) được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS lần III công bố năm 1982. Điều này có nghĩa là từ đường bờ biển, các quốc gia ven biển được quyền tiến ra khơi xa đến 370,4 km. Việc quốc tế công nhận vùng đặc quyền kinh tế EEZ đã mở đường cho quyết định công nhận các đảo quốc nhỏ đang phát triển như là một nhóm quốc gia đặc biệt trong lòng tổ chức quốc tế này 10 năm sau đó. Nhờ có EEZ mà vai trò những đảo quốc nhỏ này cũng tăng dần cùng với thời gian trên bàn cờ địa chính trị.

Lợi ích kinh tế và chiến lược từ biển cả mang về ngày càng lớn do vậy ngày càng có nhiều quốc gia đòi hỏi mở rộng EEZ. Hiện Tòa án Công lý Quốc tế đang xem xét khả năng mở rộng các vùng đặc quyền kinh tế từ 200 hải lý lên đến 350 hải lý. Nghĩa là các nước duyên hải có thể vươn ra khơi xa đến 600 km tính từ bờ biển. Câu hỏi đặt ra : Vì sao là 200 và 350 hải lý ? Bà Marie Redon giải thích tiếp :

"Vì sao là 200 hải lý và 350 hải lý ? Con số 200 hải lý, độ rộng này không phải được chọn một cách ngẫu nhiên. Con số này từng phù hợp và bây giờ vẫn phù hợp với dòng hải lưu Humboldt, đi dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Đòi hỏi 200 hải lý này là do các quốc gia duyên hải như Pêru, Chilê đưa ra nhằm bảo vệ các vùng ngư trường của họ. Bởi vì khi người ta đề cập đến vùng EEZ này, đây là một thuật ngữ rất quan trọng, những quốc gia đó muốn độc quyền bảo vệ các nguồn tài nguyên như thủy sản và tài nguyên dưới lòng đáy biển.

Còn 350 hải lý tương đương với việc mở rộng ranh giới thềm lục địa. Ở đây chúng ta đang bước vào lĩnh vực thuật ngữ hải dương học. Thềm lục địa chính là việc nối dài về mặt kỹ thuật từ đất liền ra biển cả, và thường thì chính sâu dưới thềm lục địa chúng ta sẽ tìm thấy các nguồn dầu khí. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của mọi yêu sách. Bởi vì, những quốc gia nào không có nước láng giềng đối mặt, có thể mở rộng và có một thềm lục địa vượt quá 200 hải lý với nguồn dầu hỏa được tìm thấy hoặc có hy vọng tìm thấy dưới thềm lục địa thì những nước đó sẽ tìm cách đẩy xa hơn nữa giới hạn này".

Cuộc đua giành đảo : Hoàng Sa, Trường Sa là ví dụ điển hình

Đây chính là trường hợp của nhiều cường quốc lớn hiện nay như Hoa Kỳ, Pháp, vốn dĩ là những quốc gia có EEZ rộng lớn nhất thế giới. Và đó cũng chính là nguyên nhân của mọi xung đột trong tương lai. Tại Bắc Băng Dương, dưới tác động của hiện tượng khí hậu ấm dần, băng tuyết tại đây tan nhanh dẫn đến sự thèm muốn sở hữu những vùng lãnh hải được cho là giầu nguồn tài nguyên chưa được khai thác và có thể sẽ là những con đường hàng hải chiến lược trong tương lai.

Hoa Kỳ, Nga, Canada… bắt đầu khởi động cuộc đua giành quyền kiểm soát nhiều đảo quan trọng. Sự kiện gây chú ý gần đây nhất là ý định mua đảo Groenland bất thành của tổng thống Mỹ Donald Trump do bị Đan Mạch bác bỏ. Vụ việc thoáng nghe có vẻ khôi hài nhưng thật chất đó là cả một ý đồ chiến lược của Mỹ, nhằm bảo vệ sân sau Bắc Cực trước thế mạnh đang lên của Nga và Trung Quốc.

Nếu như các cường quốc xưa và nay rất "chăm chút" cho việc mở rộng ảnh hưởng hàng hải của mình, thì những cường quốc mới trỗi dậy cũng tìm cách chen chân vào cuộc chơi. Trung Quốc, những năm gần đây, một mặt không ngừng mở rộng quan hệ với các đảo quốc nhỏ ở Thái Bình Dương, nhằm triệt tiêu dần nguồn lực ủng hộ của Đài Loan, hòn đảo "cứng đầu, khó trị" luôn tìm cách cưỡng lại mọi ý đồ hợp nhất Đài Loan về với Hoa Lục. Mặt khác, Bắc Kinh liên tục xâm chiếm các bãi đá ngầm ở Hoàng Sa và Trường Sa, rồi tiến hành cải tạo biến chúng thành đảo, lập các tiền đồn quân sự. Hành động này của Trung Quốc ở Biển Đông đã bị các nước có tranh chấp chủ quyền tại những bãi đá ngầm như Việt Nam, Philippines phản đối gay gắt. Năm 2013, chính quyền Manila quyết định kiện Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye về việc nước này đơn phương tuyên bố chủ quyền đường 9 đoạn đối với toàn bộ vùng Biển Đông.

Năm 2016, Tòa án quốc tế La Haye ra phán quyết bất lợi, không công nhận chủ quyền của Bắc Kinh tại những bãi đá ngầm trên. Về điểm này, bà Marie Redon cho rằng chính hồ sơ này cũng cho thấy rõ có những bất cập và một số kẽ hở pháp lý về cách định nghĩa như thế nào là đảo.

"Thời gian gần đây, tôi cho là khoảng những năm 2016 - 2017, một phán quyết của tòa án Công lý Quốc tế đã được đưa ra nêu rõ định nghĩa về đảo khi cho rằng đảo phải là một mảnh đất nổi lên mặt nước khi thủy triều lên và không phải do nhân tạo, mà phải là tự nhiên. Và yếu tố cuối cùng chính là đảo phải có thể thích hợp với điều kiện sinh sống của con người.

Thế nhưng, thuật ngữ "thích hợp với điều kiện sinh sống con người" lại không mấy rõ ràng. Liệu việc "thích hợp cho điều kiện sinh sống con người" này có được là nhờ vào nguồn cung cấp từ bên ngoài hay là tự thân, điều này chưa mấy rõ. Dẫu sao thì các luật gia, các chuyên gia về luật biển cũng đang suy nghĩ về khái niệm này.

Trong trường hợp của Hoàng Sa và Trường Sa, tôi nhớ là vào năm 2014, chúng tôi có xem những bức ảnh chụp làm cho mọi người phì cười bởi vì quý vị sẽ thấy những hòn đảo ở đây đang phình to ra, đúng hơn là những đảo nhỏ, những mỏm đá đang phình to. Bởi vì Trung Quốc hy vọng có thể biến các mỏm đá thành đảo, những bãi đá không nhô lên khỏi mặt nước lúc thủy triều lên và những bãi đá này không hề có quy chế đảo.

Biến bãi đá ngầm thành đảo khi cho xây dựng ở đó các cảng sân bay trực thăng, cảng biển … phán quyết của La Haye đưa ra là "Không". Đây không phải là những hòn đảo. Đó chỉ là những bãi đá ngầm, do vậy quý vị không được quyền có vùng đặc quyền kinh tế EEZ cùng với các mục tiêu địa chất. Quý vị chỉ có quyền một vùng lãnh hải 6 hải lý nhưng không có quyền vùng EEZ".

Mỗi một siêu cường một "bảo bối"

Không chỉ tại Biển Đông, tham vọng của Trung Quốc còn mở rộng sang cả vùng Ấn Độ Dương, cạnh tranh với Ấn Độ giành quyền kiểm soát tuyến lưu thông hàng hải thiết yếu qua việc lập các căn cứ quân sự hay xây cảng biển tại các nước đối tác trong khu vực với dự án "chuỗi ngọc" nổi tiếng. Bà Marie Redon tóm lược chính sách chinh phục đảo của Trung Quốc cũng như một số cường quốc như sau.

"Để tóm tắt, về tình hình Biển Đông, tại Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như tại Ấn Độ Dương, nếu nhìn trên bản đồ, người ta nhận thấy là không gian hàng hải ở đây thật sự bị khép kín và căng thẳng gia tăng bởi vì một cuộc đua chiếm hữu không chỉ về mặt lãnh thổ thông qua việc chiếm đảo, mà nhất là cả "đất biển" như vùng EEZ, những gì mang lại cho Trung Quốc quyền khai thác đối với các nguồn tài nguyên biển, dầu hỏa và cả với việc kiểm soát lối đi chiến lược.

Bởi vì, 90% giao thương thế giới đều được thực hiện bằng con đường hàng hải. Đương nhiên, việc có một hòn đảo nằm ngay giữa một eo biển giống như trường hợp nước Pháp tại eo biển Mozambic đối với quần đảo Eparses chẳng hạn, điều đó đồng nghĩa với việc có quyền giám sát những gì đang xảy ra và ai đi qua eo biển này !"

Tóm lại, trong cuộc đua giành đảo này, Trung Quốc không hề đơn thương độc mã. Mỗi một siêu cường đều nhắm một "bảo bối" riêng. Về việc Trung Quốc chiếm lấy toàn bộ Biển Đông, phương Tây cũng khó mà lên tiếng, nên chỉ đành chấp nhận ở việc kêu gọi "tự do lưu thông hàng hải" mà thôi !

Minh Anh

Nguồn : RFI, 09/04/2020

Additional Info

  • Author Minh Anh
Published in Diễn đàn

Tương tự như các căn cứ quân sự ở Đại lục, các tiền đồn của Trung Quốc tại Biển Đông được tích hợp vào một hệ thống các hệ thống lực lượng chung lớn hơn nhằm hỗ trợ các chiến lược đang hình thành của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (People's Liberation Army-PLA).

bd0

Hỏa lực của tàu tuần dương Type-055 (lớp Nhận Hải) với 112 ống phóng thẳng đứng (vertical launching system - VLS).

Hãy tưởng tượng bạn bước vào một căn phòng tối. Bạn không thể nhìn hay nghe thấy gì, nhưng đối thủ của bạn có thể nhìn và nghe được mọi thứ. Đối thủ của bạn ở trong phòng và biết rõ mọi ngóc ngách. Bạn chỉ biết một vài lối vào hoặc ra. Bạn có thể tin rằng bạn có lợi thế về công nghệ và huấn luyện cùng với sự hỗ trợ của các đồng minh và đối tác. Tuy nhiên, trong phạm vi căn phòng, bạn không thể xác định nơi đặt vũ khí của mình và không thể liên lạc với bạn bè. Trong bóng tối, kẻ thù theo dõi và chờ đợi, sẵn sàng tấn công từng người một trong nhóm của bạn từ những hướng bất ngờ. Nếu bạn để lộ vị trí của mình, hoặc gọi trợ giúp, những kẻ đứng trong bóng tối sẽ nghe thấy.

Đây là cơn ác mộng mà các nhà tham mưu quân sự Mỹ phải đối mặt ở Biển Đông.

Các tiền đồn của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa tạo cho Bắc Kinh ưu thế thông tin mang tính quyết định trước bất kỳ kẻ thách thức nào ở Biển Đông. Mục đích chính của chúng không phải là triển khai sức mạnh quân sự và phát triển vũ khí, mà là sức mạnh thông tin. Đóng góp chính của các căn cứ này là tạo thuận lợi cho các khả năng chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám ở Biển Đông. Bất chấp luật pháp quốc tế, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) hành xử như thể các đảo-đá được quân sự hóa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Các tiền đồn đã phát triển thành căn cứ quân sự kiên cố, cho phép Trung Quốc kiểm soát trên thực tế đối với khu vực mà Bắc Kinh xem là vùng biển của họ. Tương tự như các căn cứ quân sự ở Đại lục, các tiền đồn ở Biển Đông được tích hợp vào một hệ thống các hệ thống lực lượng chung lớn hơn của Trung Quốc nhằm hỗ trợ các chiến lược đang hình thành của PLA.

Gần đây, Greg Poling đã lập luận trên tờ War on the Rocks rằng: "Sự hiểu biết thông thường về các căn cứ của Trung Quốc trên đảo là sai lầm đầy nguy hiểm". Ông khẳng định các tiền đồn của Trung Quốc sở hữu những khả năng quân sự làm thay đổi cuộc chơi, hỗ trợ sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông .Các khả năng này thường bị các nhà hoạch định chính sách Mỹ bác bỏ vì họ tin rằng chúng sẽ dễ dàng bị vô hiệu hóa trong một cuộc xung đột. Đáp lại, Olli Pekka Suorsa đưa ra phản biện rằng: "Hiểu biết thông thường vẫn đúng", và quả thật quân đội Mỹ có khả năng đẩy lùi các khả năng quân sự của Trung Quốc với tương đối ít nỗ lực. Mặc dù bài viết của Poling nắm bắt chính xác hơn phạm vi của các thách thức liên quan đến việc nhắm mục tiêu vào các tiền đồn của Trung Quốc, nhưng có lẽ cả hai tác giả đều đã đánh giá thấp những trở ngại về mặt tác chiến mà các căn cứ này tạo ra cho bất kỳ nước nào thách thức sự chi phối của Trung Quốc ở Biển Đông.

Đánh giá của phương Tây về các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc thường phản ánh cách tiến hành chiến tranh của Mỹ, gần như chỉ tập trung vào năng lực triển khai vũ khí động học của các tiền đồn này, như thể các khả năng tấn công là nền tảng cho các khái niệm tác chiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy. Thay vào đó, bất kỳ đánh giá thực nào về các khả năng quân sự đều phải được xác định bởi các động lực: chiến lược của PLA, những đối thủ tiềm tàng của Trung Quốc và địa lý Biển Đông ở cấp độ tác chiến. Bất kể các căn cứ trên những đảo-đá này mang đến cho PLA và lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc lợi thế gì về phương diện logistics và sự hiện diện liên tục, thì các hoạt động của Trung Quốc cũng sẽ bị giới hạn bởi phạm vi kiểm soát thông tin của PLA - khả năng nắm bắt không gian chiến đấu và chỉ huy các lực lượng quân sự.

Các khái niệm tác chiến trong chiến tranh thông tin

Không nên phóng đại sự chú trọng sâu sắc của PLA vào việc giành được ưu thế về thông tin như một yêu cầu về mặt chiến thuật, tác chiến và chiến lược. Nhìn chung, phương Tây đã hiểu sai và đánh giá thấp các khái niệm chiến tranh thông tin và tác chiến tập trung vào thông tin của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, nếu thời đại công nghiệp đánh dấu sự khởi đầu của chiến tranh cơ giới, thì Trung Quốc tin rằng thời đại thông tin đã dẫn đến chiến tranh thông tin. "Sức mạnh thông tin" là cách diễn đạt về mặt tác chiến của chiến tranh thông tin và là cụm từ đầu tiên trong số những điều PLA gọi là "các yếu tố cơ bản của sức mạnh chiến dịch". Theo Trung Quốc, sức mạnh thông tin quan trọng hơn cả những điểm nòng cốt trong các khái niệm tác chiến của quân đội Mỹ - yếu tố hỏa lực và tác chiến trong chiến tranh thời đại công nghiệp. Hỏa lực và tác chiến, đặc biệt là khả năng tấn công chính xác tầm xa, chắc chắn có vai trò quan trọng đối với ý đồ tác chiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, PLA tin rằng sức mạnh trong các lĩnh vực này đơn giản không phải là then chốt quyết định thành công trong tác chiến bằng việc đạt được ưu thế về thông tin.

Sức mạnh thông tin - khả năng một quân đội giành được và duy trì ưu thế thông tin trong không gian chiến đấu - là một khái niệm ở cấp độ tác chiến thể hiện qua những thông tin chúng ta nhìn hoặc nghe thấy trong buồng lái, phòng điều khiển tàu hoặc trong một trung tâm chỉ huy. Khả năng này không phải đạt được bằng cách tấn công tin tặc trên phương tiện truyền thông xã hội, gây ảnh hưởng đến người dân, hoặc các hoạt động thông tin cấp cao hơn tập trung vào việc xuyên tạc câu chuyện xung quanh một cuộc xung đột. Khái niệm sức mạnh thông tin là nhận thức về không gian chiến đấu và khả năng duy trì thông tin cho các hệ thống vũ khí của chính mình trong khi đồng thời ngăn chặn kẻ thù tiếp cận thông tin về không gian chiến đấu. Các khái niệm của Trung Quốc tương tự như học thuyết chiến tranh chỉ huy và kiểm soát trước đây của Mỹ hơn là học thuyết ngày nay của Washington về "tác chiến liên hợp trong môi trường thông tin".

Mặc dù thường bị các nhà nghiên cứu về Trung Quốc chỉ trích là sáo rỗng, tuy nhiên, cách ví von rằng Trung Quốc chơi cờ vây trong khi Mỹ chơi cờ vua vẫn là một so sánh thích hợp về cách cả hai bên khái niệm hóa chiến lược quân sự. Mục tiêu của cờ vây là bao vây đối thủ, dẫn đến loại bỏ quân cờ của đối thủ và cuối cùng là giành chiến thắng bằng cách chiếm được nhiều đất hơn trên bàn cờ. Suy rộng ra, điều này phản ánh cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông – kiềm chế các kẻ thù trong không gian, chiếm đóng, và đặt ra các điều kiện để loại bỏ các lực lượng của nước ngoài một cách nhanh chóng và dứt khoát nếu cần thiết.

Cách tiếp cận của quân đội Mỹ giống môn cờ vua hơn, một trò chơi hoạt động và tiêu hao nhằm tìm cách buộc đối phương phải đầu hàng bằng cách vô hiệu hóa một trung tâm chỉ huy quan trọng đằng sau phòng tuyến của địch (quân vua). Ở Biển Đông, Trung Quốc tìm cách nắm thế chủ động tác chiến ngay từ đầu, ngăn chặn Mỹ và các đồng minh của họ tiếp cận thông tin về không gian chiến đấu nhằm ngăn cản các lực lượng của Mỹ hoạt động trên quy mô rộng lớn và triển khai hỏa lực nhằm vào nơi mà PLA xem là trung tâm tác chiến của họ - hệ thống các hệ thống có nhiệm vụ chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám. Cuối cùng, điều này làm dấy lên những câu hỏi về việc liệu hỏa lực và các chiến lược hoạt động của Mỹ có chiếm ưu thế trước một chiến lược nhằm vô hiệu hóa các hệ thống thông tin chiến trường của Mỹ hay không. Trong khi đó, các khả năng phục hồi và dự phòng hỗ trợ các vũ khí tầm xa của PLA, với dòng chảy tin tức tình báo và thông tin chiến trường dường như không bị gián đoạn.

"Phòng thủ tích cực" không phải là phòng thủ

Ở Biển Đông, Trung Quốc không giữ thế thủ và chờ đợi bị tấn công. PLA thông tin hóa các chiến lược chiến tranh và khái niệm tác chiến phù hợp với khái niệm "phòng thủ tích cực" của Trung Quốc - phòng thủ về mặt chiến lược trong khi tấn công.

Các nhà tham mưu quân sự của Mỹ đã đơn phương gán mác các năng lực quân sự của Trung Quốc là các khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (Anti-Access/Area Denial - A2/AD). Tên gọi này đã tạo ra một câu chuyện thần thoại rằng trên thực tế, PLA có một chiến lược A2/AD phòng thủ hoặc chiến lược chống can thiệp. Chắc chắn, Trung Quốc có kế hoạch triển khai các khả năng quân sự đáng kể để ngăn chặn sự can thiệp của quân đội Mỹ. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc, giống như quân đội Mỹ, thích nắm thế chủ động tác chiến và thực hiện các chiến dịch tấn công hơn. PLA sẽ luôn tìm cách tránh rơi vào thế phòng thủ. Việc Mỹ tập trung khắc phục các khả năng A2/AD đã chuyển hướng chú ý ra khỏi các chiến lược của Bắc Kinh vốn được thiết kế để nhanh chóng đạt được các mục tiêu tấn công như chiếm giữ lãnh thổ, trừng phạt một kẻ thù trong khu vực hoặc bảo vệ các nguồn lực. Các chiến lược phản công của Mỹ có thể xử lý được các khả năng phòng thủ, nhưng không trực tiếp đánh trả các chiến lược tấn công của Trung Quốc và những lý do giải thích tại sao Mỹ có thể can thiệp ngay từ đầu. Hơn nữa, các chiến lược của Mỹ dường như tìm cách đánh bại các hệ thống vũ khí A2/AD của PLA nhưng không nhất thiết xử lý được điều PLA coi là trung tâm tác chiến của chính họ - sức mạnh thông tin.

Học thuyết chiến tranh thông tin của Trung Quốc được phát triển từ đầu những năm 2000 xác định rõ ràng các hệ thống liên quan đến thông tin của bạn bè và của kẻ thù là các trung tâm tác chiến mang tính then chốt. Chẳng hạn, một bài báo tiếng Trung trên tạp chí PLA Daily gần đây có tiêu đề: "Làm thế nào để phá hủy mạng lưới các điểm trọng yếu trong hệ thống các hệ thống tác chiến". Yêu cầu của PLA về thông tin liên lạc và hoạt động do thám đa dạng và dồi dào nhằm chiếm ưu thế trong một cuộc đối đầu cam go chống lại các hệ thống của kẻ thù được phản ánh rõ ràng nhưng hay bị bỏ sót qua các khả năng sức mạnh thông tin dồi dào và có khả năng khôi phục tại các tiền đồn của PLA ở Biển Đông.

Một đánh giá về nguyên liệu từ nguồn mở và hình ảnh vệ tinh thương mại cho thấy các khả năng thông tin liên lạc đáng kể trên các đảo-đá nhân tạo của Trung Quốc, bao gồm cáp quang dưới biển, thông tin vệ tinh đa băng tần, dải băng thông rộng tần số cao, thông tin liên lạc bằng phân tán tầng đối lưu... Các khả năng tình báo, giám sát và do thám (Intelligence, surveillance, and reconnaissance - ISR) cũng dồi dào và đa dạng, và bao gồm các hệ thống radar đa tần, hệ thống thông tin tình báo điện tử, và 6 radar vượt đường chân trời bằng sóng cực ngắn (tương tự như Monolit-B của Nga) mà có thể phát hiện các mục tiêu trên mặt đất cách hàng trăm dặm vượt đường chân trời. Đó là chưa đề cập đến tiềm năng của các hệ thống có thể di dời, như hệ thống tác chiến điện tử, máy bay ISR, máy bay tác chiến điện tử hoặc các hệ thống không người lái mà cuối cùng có thể hoạt động từ các đảo-đá. Tất cả các khả năng sức mạnh thông tin tại các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ phối hợp với nhau trước và trong suốt các chiến dịch quân sự để ngăn chặn đối thủ tiếp cận thông tin trong khi bảo vệ quyền truy cập thông tin của chính PLA.

Các khả năng thông tin liên lạc được kết nối thành mạng lưới có ở các tiền đồn của Trung Quốc làm gia tăng quyền kiểm soát thông tin của các lực lượng phi quân sự hoặc không chính quy ở Biển Đông. Các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc không được trang bị hệ thống thông tin liên lạc và kết nối dữ liệu quân sự tinh vi có thể được kết nối vào mạng lưới giám sát trên diện rộng bằng cách sử dụng sóng tầm nhìn thẳng. Lực lượng dân quân trên biển của PLA là các ngư dân Trung Quốc được tuyển chọn để bảo vệ an ninh khu vực phía sau, đóng vai trò canh gác các lực lượng quân sự nước ngoài, hoặc có khả năng đáng tin cậy trong việc ngăn chặn ngư dân của nước đối thủ. Giờ đây, các đảo-đá này có thể chỉ huy và kiểm soát lực lượng dân quân trên biển thông qua việc sử dụng hệ thống thông tin liên lạc bằng giọng nói thô sơ hoặc thậm chí là dịch vụ điện thoại di động 4G (và chẳng bao lâu sẽ là 5G) từ mỗi tháp viễn thông cao khoảng 48 m đặt trên các đảo này.

Về mặt quân sự, các khả năng của sức mạnh thông tin thể hiện rõ trên các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông là bộ phận đặt trên mặt đất của một hệ thống các hệ thống lực lượng chung tích hợp khả năng do thám và thông tin liên lạc trong không gian, trên không, trên biển và trên bộ. Nếu không thể ngăn chặn đối thủ bằng sự vượt trội về thông tin, thì khả năng sức mạnh thông tin có thể được tích hợp thêm các khả năng tấn công tầm xa quan trọng xuất phát từ chính các tiền đồn, Trung Quốc đại lục, tàu nổi, tàu ngầm hoặc tàu sân bay tác chiến của Trung Quốc. Chỉ riêng mối đe dọa từ việc nhắm mục tiêu và tấn công có thể khiến máy bay và tàu của kẻ thù phải bật hệ thống kiểm soát khí xả - tắt radar và các phương tiện thông tin liên lạc để tránh bị thiết bị điện tử phát hiện - tiếp tục ngăn không cho các đối thủ của PLA tiếp cận thông tin về chiến trường.

Các tiền đồn ở Biển Đông đáp ứng tất cả các yêu cầu của PLA về "chiến dịch tấn công nhằm vào các đảo-đá san hô", và nhiều khả năng chúng được xây dựng chỉ để phục vụ mục đích này. Chiến dịch này đã được phác thảo trong tài liệu Khoa học chiến dịch của Viện Hàn lâm Khoa học quân sự Trung Quốc năm 2006, khoảng 7 năm trước khi nước này bắt đầu xây dựng các đảo nhân tạo. Các mục tiêu của chiến dịch này bao gồm chiếm lại đảo-đá bị kẻ thù chiếm đóng, tăng cường chủ quyền lãnh thổ quốc gia và bảo vệ các quyền và lợi ích biển. Văn bản quan trọng này của Viện Hàn lâm Khoa học quân sự miêu tả chiến dịch đảo-đá diễn ra trong một không gian chiến đấu phức tạp cách xa Trung Quốc đại lục, làm tăng thêm thách thức cho lực lượng không quân yểm hộ, thông tin liên lạc, tình báo và logistics. Bản phác thảo chiến dịch tấn công trên đảo-đá này đề nghị PLA thiết lập một hệ thống các hệ thống tình báo và do thám toàn diện; thiết lập một mạng lưới thông tin liên lạc tích hợp duy nhất giữa các tàu, máy bay, đảo-đá và Đại lục; và đưa ra dự báo chính xác về tình hình khí tượng thủy văn. Trong khi có thể tiến hành tấn công trực tiếp vào bất kỳ hòn đảo nào do nước ngoài chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa từ tàu đổ bộ của Hải quân PLA, thì các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp mọi khả năng sức mạnh thông tin và logistics cơ bản được phác thảo trong học thuyết chiến dịch này.

Ngoài tiềm năng của các máy bay chiến đấu hoặc máy bay trực thăng tấn công hoạt động từ các sân bay ở tiền đồn, đáng lưu ý rằng hỏa lực của tất cả đảo-đá lớn kết hợp lại – đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn – dường như không bằng tiềm năng hỏa lực của một chiếc tàu tuần dương Type-055 (lớp Nhận Hải), với 112 ống phóng thẳng đứng (vertical launching system - VLS). Người ta có thể kết luận rằng các tên lửa đất đối không và chống hạm đặt trên tiền đồn chỉ đơn giản là để phòng thủ cho khu vực quần đảo Trường Sa, xét rằng có thể triển khai bất kỳ số lượng tàu tuần dương Type-055, tàu khu trục Type-052D hoặc các phương tiện chiến đấu trên khắp Biển Đông để tiến hành các cuộc tấn công. Về phần mình, đội tàu đặc nhiệm nổi trên mặt nước của Hải quân PLA có khả năng tuần tra tương đối kín đáo, khiến đối thủ khó có thể nhắm mục tiêu vì họ có thể nhận được thông tin về không gian chiến đấu do các thiết bị lắp đặt trên các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp.

Các tiền đồn ở Biển Đông không nhất thiết nằm ở tuyến đầu trong hệ thống phòng thủ nhiều lớp của Trung Quốc khi xem xét chiến dịch "phòng thủ tích cực" của PLA, và một chiến dịch tấn công nhằm vào các đối thủ đang tiến công như Hải quân hoặc Không quân Mỹ. Một số người suy đoán rằng những đường băng dài trên các tiền đồn ở Biển Đông có thể được sử dụng để mở rộng phạm vi hoạt động của máy bay ném bom của Trung Quốc. Nhiều khả năng hơn là khu vực đỗ máy bay hạn chế trên các đảo-đá sẽ dành cho máy bay ISR và các phương tiện bay không người lái. Máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-500, máy bay tình báo điện tử Y-9JB hoặc máy bay tuần tra tác chiến/trên biển chống ngầm Y-9Q có thể phóng từ các đảo-đá và ngay lập tức nằm trong khu vực phòng không do các máy bay chiến đấu phòng thủ và tên lửa đất đối không của các tiền đồn này tạo ra. Máy bay tại tiền đồn ở Biển Đông có thời gian chờ chuẩn bị cất cánh lâu hơn vài giờ so với máy bay ở Đại lục. Những máy bay này sẽ tạo ra vùng phủ sóng radar và một lớp thông tin liên lạc trên không sử dụng các kết nối dữ liệu, sóng tầm nhìn thẳng, cung cấp tin tức tình báo trong thời gian thực cách hàng trăm dặm vượt đường chân trời trên mặt nước cho các phương tiện chiến đấu được triển khai ở vị trí tiền tuyến của Hải quân PLA.

Việc sử dụng các đảo-đá làm sân bay, nơi máy bay cất cánh từ tàu sân bay có thể chuyển hướng trong trường hợp khẩn cấp cũng có thể quan trọng trong những năm tới. Ngay cả trong thời gian chuẩn bị trước khi tham chiến, thì việc máy bay cất cánh từ tàu đã là một nỗ lực đầy thách thức. Có nhiều lý do dẫn đến việc máy bay không thể quay trở lại tàu sân bay, từ thời tiết xấu, những hỏng hóc về mặt cơ học, cho đến tổn thất trong chiến đấu. Ngay cả các cánh không quân tinh nhuệ của Hải quân Mỹ cũng hiểu rằng việc vận hành ngoài phạm vi một sân bay thuận tiện trên mặt đất là một nhiệm vụ rất rủi ro. Giả sử khoảng cách từ một tàu sân bay đến sân bay chuyển hướng là 400 hải lý, các tiền đồn của Trung Quốc có thể cho phép tàu sân bay của Hải quân PLA hoạt động trên khắp phần lớn Biển Đông trong tương lai gần. Đường băng mới do Trung Quốc xây dựng tại Dara Sakor, Campuchia có khả năng chứng tỏ rằng máy bay chiến đấu ở nước ngoài của PLA là không cần thiết nếu một tàu sân bay có thể tạo ra vùng phủ máy bay chiến đấu tấn công dưới sự bảo vệ của một quốc gia bè bạn cùng một sân bay chuyển hướng phù hợp. Ngoài ra, cho đến khi các tàu sân bay của Trung Quốc được trang bị máy phóng để hỗ trợ các máy bay điều khiển trên không phóng từ tàu sân bay và máy bay do thám lớn như KJ-600, thì hoạt động của các tàu sân bay Trung Quốc nhất định sẽ phải dựa vào máy bay trên đất liền. Ngoài việc hiện nay các căn cứ của PLA đang ảnh hưởng như thế nào đến các nước láng giềng của Trung Quốc ở Biển Đông, thì các nhà hoạch định chính sách nên xem xét những tác động địa chính trị khi một tàu sân bay Trung Quốc tiến hành tuần tra ở phía cực Nam của "đường 9 đoạn" hay trong Vịnh Thái Lan.

Khả năng phòng thủ của PLA ở Biển Đông

Một lực lượng tấn công tinh nhuệ như quân đội Mỹ có quan điểm rằng mục đích của hành động phòng thủ về cơ bản là tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho hành động tấn công, và điều này cũng là châm ngôn mà PLA nhất trí. Các vũ khí và khả năng A2/AD của Trung Quốc là có thật, nhưng một lần nữa, PLA không có chiến lược phòng thủ cũng như các khả năng phòng thủ mà cuối cùng sẽ tạo điều kiện cho hành động tấn công. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có một số khả năng phòng thủ đáng được đề cập khi chúng có liên quan đến sức mạnh thông tin và các hoạt động tấn công của PLA ở Biển Đông.

Các khả năng tàng hình của Mỹ có thể không tạo được lớp bảo vệ trước các biện pháp phòng thủ của Trung Quốc ở Biển Đông như một số người nhận định. Sau vụ tấn công B-2 sai lầm nhằm vào đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, Nam Tư vào năm 1999, Trung Quốc đã dành 20 năm tiếp theo để tập trung vào việc đánh bại công nghệ tàng hình của Mỹ. Chống tàng hình là một trong những khả năng cần thiết trong khái niệm "ba tấn công, ba phòng thủ" của PLA xuất hiện vào đầu những năm 2000. Trung Quốc đã phát triển một số radar chống tàng hình sử dụng tần số thấp hơn khiến công nghệ tàng hình thông thường mất hiệu quả. Liệu các radar như vậy có thể tạo ra phương án tấn công máy bay tàng hình hay không vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ, nhưng đáng chú ý là Trung Quốc tuyên bố rằng công nghệ radar chống máy bay tàng hình của họ hoạt động hiệu quả và có thể thách thức điều được cho là lợi thế công nghệ đáng kể của Mỹ .

Lầu Năm Góc cũng không nên xem sự chi phối về các khả năng ngầm dưới biển là điều hiển nhiên, đặc biệt là ở Biển Đông. Hiện nay, ngay cả Trung Quốc cũng nhất trí rằng Hải quân Mỹ có lợi thế đáng kể trong công nghệ tàu ngầm. Tuy nhiên, trong môi trường hoạt động bị hạn chế ở Biển Đông và các vùng biển xung quanh, PLA có khả năng bù đắp cho những thiếu sót của họ bằng việc có nhiều thời gian và không gian tiến hành các hoạt động tác chiến chống ngầm hơn. Các tiền đồn của Trung Quốc, ngoài các tàu và máy bay đã được triển khai của PLA, về cơ bản mang đến cho Trung Quốc ưu thế trên không và trên mặt nước trên thực tế, ít nhất là trong giai đoạn đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào ở Biển Đông. Những ưu thế đó sẽ giúp hoạt động của tàu trên mặt nước và các chuyến bay của máy bay chiến đấu chống ngầm cánh cố định của Hải quân PLA như Y-9Q không bị cản trở. Khi phải đối mặt với hệ thống dò tìm tàu trên mặt nước, hệ thống dò tìm dưới nước thả từ máy bay trực thăng và các cuộc dò tìm trên khu vực rộng lớn của các thợ săn ngầm Y-9Q của Hải quân PLA, thì tàu ngầm của Mỹ có thể tránh bị phát hiện mà vẫn tạo ra hiệu ứng động học trong phạm vi Biển Đông trong thời gian bao lâu ?

Không nên đánh giá 7 đảo-đá do Trung Quốc chiếm đóng là các căn cứ riêng lẻ, độc lập, mà chúng là một hệ thống các hệ thống tích hợp ở Biển Đông. Do đó, ý kiến cho rằng các tiền đồn trên đảo-đá của Trung Quốc dễ bị tổn thương vì thiếu hệ thống có khả năng tồn tại và dự phòng là sai lầm. Như Poling đã nêu một cách rất chính xác trong bài viết của ông, các căn cứ của Trung Quốc cùng nhau tạo thành một mục tiêu "khó nhằn".

Hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông dường như phản ánh câu châm ngôn rằng số lượng chắc chắn quyết định chất lượng. Theo hình ảnh vệ tinh thương mại, trên 7 đảo-đá của Trung Quốc, có 33 đĩa vệ tinh lớn, hàng chục đĩa có khẩu độ nhỏ hơn, hơn 50 ăng-ten tần số cao và hơn 30 radar phục vụ tìm kiếm trên không và trên mặt nước. Đây là còn chưa đề cập đến ISR di động hoặc có khả năng di dời, các hệ thống thông tin liên lạc hoặc vũ khí có thể được triển khai gần như bất kỳ nơi nào trên khắp tổng cộng 13 km2 diện tích của các hòn đảo nhân tạo. Kho dự trữ dưới lòng đất có diện tích khoảng 23.225 m2 trên mỗi tiền đồn lớn có mục đích bảo vệ các hệ thống vũ khí và đạn dược. Những phép đo qua loa cho thấy mỗi đảo-đá lớn có thể dự trữ hơn 65 triệu gallon nhiên liệu trong các bể chứa dưới lòng đất để hỗ trợ các chiến dịch không được tiếp nhiên liệu trong thời gian kéo dài hàng tuần. Đối với tất cả những cuộc thảo luận về việc xây dựng đường băng trên các tiền đồn ở Biển Đông, dường như không ai xét đến những yêu cầu tác chiến ở mức độ tương đối nhỏ. Tức là, nếu PLA yêu cầu phải có một đường băng dài 1.500 m sẵn sàng chiến đấu ở Biển Đông, thì họ đã xây dựng 3 đường băng dài 3.000 m có khả năng phục hồi tác chiến cần thiết khi phải đối mặt với các cuộc tấn công.

Lập khung phân tích tương lai

Trong bất kỳ cuộc xung đột cấp độ tác chiến nào, PLA đều có ý định lôi kéo các đối thủ của mình vào một cuộc chiến khó khăn để giành được ưu thế về thông tin chiến trường. Trong khi khả năng tấn công là không thể thiếu đối với chiến tranh thông tin của PLA, thì các tiền đồn ở Biển Đông chứng tỏ sự chú trọng vào vấn đề kiểm soát thông tin của chiến lược này. Các đảo-đá chủ yếu hoạt động như "các điểm cứng thông tin", che giấu và tạo thuận lợi cho các khả năng thông tin liên lạc và do thám quan trọng cũng như ngăn chặn kẻ địch kiểm soát thông tin. Phân tích về Biển Đông trong tương lai cần xem xét nhiều điều hơn là chỉ khả năng tồn tại của các cuộc tấn công của Mỹ nhằm vào hệ thống phòng thủ tĩnh của Trung Quốc. Việc đếm số lượng vũ khí và mục tiêu là một cách làm tắt thuận tiện để đánh giá sức mạnh về vật chất, nhưng cách tiếp cận như vậy không đánh giá được điểm mạnh của chiến lược tập trung vào thông tin của Trung Quốc.

Phân tích trong bài viết này không đưa ra đánh giá thực toàn diện về các khả năng tấn công và phòng thủ của Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông. Không nên bỏ qua bất kỳ lời khẳng định nào cho rằng các khả năng của PLA ở Biển Đông là không thể vượt qua, hoặc mối đe dọa của Trung Quốc là đáng gờm. Cả quân đội Trung Quốc lẫn Mỹ đều có những thế mạnh nổi bật cũng như những lỗ hổng nghiêm trọng. Liệu các khái niệm tác chiến tập trung vào thông tin của PLA có thể vượt trội hơn các khái niệm tập trung vào hỏa lực và tác chiến của Mỹ hay không là điều đáng tranh luận.

Các khả năng mà PLA đang phát triển ở Biển Đông cho thấy chiến lược thông tin và các khái niệm tác chiến tấn công của Trung Quốc. Chiến lược quốc phòng năm 2018 yêu cầu quân đội Mỹ phải hiểu và chống lại các khái niệm này bằng cách phát triển các khái niệm tác chiến của riêng mình. Chiến lược phòng thủ "Chiến tranh nhân dân" của Mao Trạch Đông là một dấu tích trong quá khứ. Nên xem xét cẩn thận những nguyên lý căn bản của chiến tranh thông tin, các khái niệm tác chiến tấn công của quân đội Trung Quốc, và cách thức áp dụng các khả năng ngày càng phát triển của PLA vào bối cảnh khi Trung Quốc bắt đầu mở rộng tầm với quân sự của họ ra ngoài khu vực Biển Đông.

J. Michael Dahm

Nguyên tác : Beyond "Conventional Wisdom" : Evaluating the PLA'S South China Sea Bases in Operational Context, War on the Rocks, 17/03/2020

Minh Anh giới thiệu

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 03/04/2020

J. Michael Dahm là nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng (APL) thuộc Đại học Johns Hopkins và là sĩ quan tình báo đã nghỉ hưu của Hải quân Hoa Kỳ. Bài viết được đăng trên War on the Rocks

(vertical launching system - VLS). Người ta có thể kết luận rằng các tên lửa đất đối không và chống hạm đặt trên tiền đồn chỉ đơn giản là để phòng thủ cho khu vực quần đảo Trường Sa, xét rằng có thể triển khai bất kỳ số lượng tàu tuần dương Type-055, tàu khu trục Type-052D hoặc các phương tiện chiến đấu trên khắp Biển Đông để tiến hành các cuộc tấn công. Về phần mình, đội tàu đặc nhiệm nổi trên mặt nước của Hải quân PLA có khả năng tuần tra tương đối kín đáo, khiến đối thủ khó có thể nhắm mục tiêu vì họ có thể nhận được thông tin về không gian chiến đấu do các thiết bị lắp đặt trên các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp.

Additional Info

  • Author J. Michael Dahm
Published in Diễn đàn