Chúng ta sắp kết thúc một năm 2024 với nhiều biến động mà sự bi quan dường như hiện diện trong suy tư của nhiều người. Tâm lý lo lắng khi cuộc chiến vệ quốc của người Ukraine trước chế độ độc tài Putin Nga đã chưa thể kết thúc, những tin tức về tổn thất cho cả hai phía, sự đình trệ trong việc tiếp vận vũ khí cho Ukraine không khỏi làm nhiều người bồn chồn, thất vọng.
Biden mất uy tín về đạo đức chính trị. Nhưng giờ đây ông ấy cũng mất uy tín về mặt đạo đức cá nhân luôn
Chính trị Mỹ suy yếu : Di sản của Joe Biden
Cũng là một người ủng hộ dân chủ và còn có một giấc mộng lớn được đóng góp một phần vào công cuộc dân chủ đa nguyên cho đất nước Việt Nam, lòng tôi còn thêm trĩu nặng khi chứng kiến Donald Trump chiến thắng bà Harris để lên làm tổng thống của nước Mỹ lần 2.
Tôi không cho rằng bà Harris là một ứng cử viên phù hợp nhưng vẫn khá tự tin vào nhận định của mình ai rồi cũng phải thắng Trump thôi sau tất cả những sai lầm của ông ta về đời sống riêng tư, lẫn nhiệm kỳ tổng thống 4 năm đầy tranh cãi, hỗn loạn theo đúng nghĩa đen. Nhưng Trump đã thắng, mà lại còn thắng một cách đầy thuyết phục từ phiếu đại cử tri đoàn cho đến phổ thông đầu phiếu.
Người ta trách bà Harris một thì trách ông Joe Biden mười. Một ví dụ tiêu biểu là Brazil, đất nước Nam Mỹ vốn dĩ trước đây từng được mệnh danh là một nước Cộng hòa Chuối (Banana Republic), cũng đã để quyền lực rơi vào tay một phiên bản Trump khác tên là Jair Bolsonaro. Sau khi thất cử, ông này cũng làm loạn nhưng chính phủ dưới thời tổng thống đương nhiệm Luna da Silva và ủy ban tư pháp đã ngay lập tức có hành động luận tội và cấm cửa ông này tranh cử tổng thống cho đến năm 2030. Người dân có thể phàn nàn về chính phủ đương nhiệm, nhưng đại đa số đều thở phào nhẹ nhõm và đồng ý rằng họ đã có những sự chuẩn bị kịp thời để ngăn cản một nhân vật dân túy có cơ may nào tấn công và làm suy yếu nền dân chủ lần nữa. Nhưng Biden thì ngược lại. Ông ta không có sự chuẩn bị nào cho kịch bản ngăn chặn Donald Trump trở lại Nhà Trắng. Dù sức khỏe đã yếu mệt, nhưng Biden vẫn kiên quyết ra tranh cử và chỉ chịu rút lui khi đã bị nhóm tài phiệt ủng hộ đảng Dân Chủ tạm dừng tài trợ. (Đến đây phải mở một dấu ngoặc đơn để than phiền về nền Cộng hòa Tổng thống Mỹ. Trên thực tế, nước Mỹ đã dần trở thành một nước tài phiệt cử, dân bầu rồi !).
Người ta sẽ còn bàn nhiều về di sản thất bại của Joe Biden nhưng chắc chắn sẽ không còn ai bảo vệ cho tư cách của ông ấy sau sự kiện ký lệnh ân xá cho người con của mình, Hunter Biden gần đây nữa. Người viết bài này đã rất tức giận vì quyết định vội vã rút quân khỏi Afghanistan của Biden, chỉ để chiều lòng một số cử tri Mỹ và tăng điểm khảo sát về mức độ tín nhiệm. Số phận của 40 triệu người Afghan rơi vào tay một nhóm tàn quân Taliban vài ngàn người. Một nhóm phiến quân theo chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan và có thể sẽ kéo lùi tương lai của cả một dân tộc thêm vài thập kỷ.
Biden mất uy tín về đạo đức chính trị. Nhưng giờ đây ông ấy cũng mất uy tín về mặt đạo đức cá nhân luôn bởi vì Hunter Biden đã bị kết tội trốn thuế, trụy lạc rồi. Anh này cũng đã thừa nhận hành vi trước tòa. Thật đáng buồn nhưng những sự kiện này theo một cách nào đó phải liên hệ với nhau thôi, bởi vì chính trị chỉ là những cố gắng ứng dụng đạo đức cho xã hội. Chính trị và đạo đức, tự nó không thể tách rời nhau.
Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol bất ngờ công bố thiết quân luật, nhưng bị Quốc hội bác bỏ hai giờ sau đó
Biến cố thiết quân luật tại Hàn Quốc : 2 giờ hoảng loạn
Thất vọng với những sự kiện tại nền dân chủ Mỹ như vậy, và còn đang lo lắng với những chuyển biến khác có thể xảy ra dưới thời Donald Trump có thể làm cho bối cảnh thế giới, mà chính là cuộc chiến ở Ukraine và khủng hoảng ở Trung Đông rẽ theo một hướng hoàn toàn khác, tệ hơn thì những người yêu dân chủ lại nhận them một tin rúng động khác !
Ông tổng thống Hàn Quốc ban bố lệnh thiết quân luật, vốn dĩ lần gần nhất được thực thi là vào 4 thập niên trước. Vài trăm quân nhân với súng, ống, áo giáp tinh nhuệ tiến thẳng vào tòa nhà Quốc hội. Dù chúng tôi tin rằng sẽ không có biến cố nào lớn hơn xảy ra bởi vì ý thức dân chủ của người Hàn rất cao (một bằng chứng là ông tổng thống Yoon này chỉ nhận được 16% điểm tín nhiệm của người Hàn, đang là một tổng thống "vịt què" vì đối lập chiếm đa số trong Quốc hội), nhưng chúng tôi vẫn không khỏi lo âu khi nghe những phát ngôn khó tưởng tưởng của ông này "Lệnh thiết quân luật nhằm đối phó với các thế lực chống phá, thân Triều".
Chỉ hai giờ sau thì Quốc hội đã tập hợp được và đồng thuận bác bỏ ngay lập tức lệnh thiết quân luật của ông tổng thống. Người ta ấn tượng với hình tượng ông chủ tịch quốc hội già phải trèo tường để vào bên trong Quốc hội, thì cũng xúc động bởi hình ảnh những người dân bình thường biểu tình trước tòa nhà Quốc hội. Họ là học sinh sinh viên, công chức, nhân viên văn phòng hay bà mẹ của một quân nhân… đã tức tốc bắt chuyến tàu đến ngay trước tòa nhà Quốc hội vì cảm thấy thôi thúc cần phải làm gì đó khi nền dân chủ của đất nước hiểm nguy. Hình ảnh người quân nhân chắp tay xin lỗi người dân càng thêm đậm nét. Dù quân lệnh như sơn, nhưng họ hiểu rằng bổn phận và trách nhiệm cao nhất của họ vẫn là phụng sự đất nước. Chúng tôi cũng thở phào.
Dân chủ gỡ lại một điểm trước khi kết thúc năm 2024 chăng ? Có lẽ nếu nhìn trong ngắn hạn thì là vậy, nhưng nếu nhìn trong dài hạn thì đà thắng của dân chủ là điều phải đến.
Ông Trần Xuân Bách, một ủy viên cấp cao và cấp tiến của Đảng cộng sản Việt Nam khi đó cũng mạnh dạn tuyên bố phải dân chủ đa nguyên, đa đảng.
Trật tự thế giới mới : Trật tự nào ?
Người viết bài này xin trình bày một tóm lược ngắn gọn nhưng không đầy đủ về trật tự thế giới sau Thế chiến 2 để củng cố cho quan điểm trật tự thế giới nào mà chúng ta sẽ sống.
Sau Thế chiến 2, có thể hiểu sơ lược rằng trật tự thế giới là trật tự song cực. Một bên là đại diện cho khối cộng sản xã hội chủ nghĩa dẫn đầu bởi Liên Xô. Bên còn lại là đại diện cho khối dân chủ tư bản dẫn đầu bởi Mỹ. Cả hai khối này cạnh tranh xem mô hình nào dân chủ ưu việt hơn. Nước Mỹ và trục phương Tây đã góp phần tạo ra một định chế mới là Liên Hiệp Quốc nhằm tạo ra một cơ chế quốc tế với sứ mệnh chính yếu là ngăn ngừa Thế chiến 3 có thể nổ ra thêm một lần nữa, nhất là trong bối cảnh chiến tranh lạnh đạt cao trào.
Với thời gian, khối cộng sản đã mất hết sức quyến rũ khi những tiến bộ truyền thông dần vén lên hiện thực độc tài kìm kẹp phía sau bức màn sắt. Mô hình kinh tế, xã hội khủng hoảng nghiêm trọng đã dẫn tới sự sụp đổ của bức tường Berlin và tan rã của Liên Xô vào thập niên 90. Phương Tây toàn thắng, dân chủ là tất yếu. Francis Fukuyama, một học giả người Mỹ xuất bản quyển sách The End of History (Hồi kết của Lịch sử). Từ nay, thể chế tất yếu chỉ là thể chế dân chủ mà thôi. Ông Trần Xuân Bách, một ủy viên cấp cao và cấp tiến của đảng cộng sản Việt Nam khi đó cũng mạnh dạn tuyên bố phải dân chủ đa nguyên, đa đảng.
Tâm lý tự mãn hiện diện rõ rệt ở các nước phương Tây khi đó. Thay vì cẩn thẩn thảo luận về thăng tiến dân chủ trên thế giới, Bill Clinton, tổng thống Mỹ đắc cử khi đó với khẩu hiểu "Economy, stupid !" - "Chỉ làm kinh tế thôi, đồ ngốc !" Chủ nghĩa thực tiễn lên ngôi. Người ta dần chỉ nói về thị trường, thị trường, thị trường và cho rằng cứ để kinh tế phát triển, rồi dân chủ sẽ tự khắc đến. Các nước đổ dồn đầu tư vào chế độ cộng sản Trung Quốc, tiếp theo đầu tư vào các nước khác mà không đặt ra những điều kiện về quyền con người, môi sinh, công đoàn độc lập…
Cho đến thập niên 2000 thì chủ nghĩa thực tiễn tại khối dân chủ phương Tây tích lũy đủ những mâu thuẫn nội tại của nó. Song song với đó là các chế độ độc tài Trung Quốc, Nga, Iran, Việt Nam… dần mạnh lên nhờ hưởng lợi trong bối cảnh toàn cầu hóa xô bồ chỉ ưu tư đến lớn nhuận. Mỹ, vốn là lãnh đạo của trật tự thế giới khi đó, tiến đánh các nước Iraq, Lybia, Afghanistan… với mục tiêu ngăn trừ khủng bố bằng bạo lực hơn là thăng tiến tự do, dân chủ, nhân quyền. Các giá trị nền tảng không còn được thảo luận và bị lu mờ dần. Dân chủ bằng sức mạnh hơn là lý lẽ. Hậu quả đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 2008. Tiếp nối theo đó là phong trào Brexit tại Anh, Donald Trump – Một nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa dân túy, đắc cử tổng thống Mỹ với ngôn ngữ bài nhập cư, chống hợp tác quốc tế và không coi trọng những định chế quốc tế góp phần duy trì sự hòa bình, ổn vững cho thế giới kể từ sau Thế chiến 2.
Đọc tới đây, có thể nhiều người sẽ không khỏi thất vọng và bi quan về tương lai dân chủ. Một số học giả cho rằng chúng ta đang sống trong một thế giới đa cực, trong đó có :
- Khối các nước Tây Bắc (North West) tiêu biểu như Mỹ, EU, các nền dân chủ tại Đông Á… muốn duy trì một trật tự quốc tế ổn vững với nền tảng dân chủ và kinh tế thị trường, sự tham gia của những định chế vững chắc như Liên Hiệp Quốc, IMF…
- Khối các nước Đông Tây (East West) tiêu biểu như Trung Quốc, Nga, Iran, Syria, Bắc Hàn... muốn thúc đẩy một thế giới đa cực hơn. Dù không chia sẻ với nhau một nền tảng chung, họ có thể là đế quốc dựa trên chủ thuyết Khổng Giáo, chủ nghĩa Cộng Sản như Trung Quốc, một chế độ độc tài cá nhân như Nga Putin, một chế độ tài Hồi Giáo như Iran… nhưng họ đều có chung một đồng thuận liên minh với nhau nhằm tự vệ và giảm bớt ảnh hưởng của khối North West. BRICS là một cố gắng kết hợp trong tinh thần đó.
- Khối các nước Tây Nam (South West) tiêu biểu như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, các nền dân chủ Châu Mỹ Latinh… ở trong một tình trạng "đung đưa" hơn. Các nước này đều là những nền dân chủ, dù không đầy đủ nhưng họ ưu tiên về các giá trị ở mức vừa phải, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên miễn là có lợi cho chính quyền.
Câu hỏi đặt ra là chúng ta có quyền hy vọng rằng khối các nước dân chủ có thể duy trì trật tự quốc tế hiện tại và tiếp tục thăng tiến nó không ? Hay họ sẽ chấp nhận nhượng bộ phe trục Nga, Trung ở một mức độ đa cực hơn. Đa cực cũng có nghĩa là những giá trị chung, tuyên ngôn nhân quyền phổ cập sẽ bị hạn chế lại trước lợi ích quốc gia. Trật tự thế giới mới nào ? Thế giới đã thay đổi rất nhiều kể từ sau Thế chiến 2. Các học giả phân định thế giới thành nhiều cực mà họ quên mất một điều rằng, quyền con người phải là quyền cao nhất. Nhà nước không còn là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để bảo đảm quyền con người được tôn trọng và thăng tiến.
Ngày hôm nay, quyền con người đã trở thành phổ quát và những ưu tư, sở nguyện của con người khắp mọi nơi trên thế giới đều giống nhau. Một người Việt Nam cũng có ước muốn được sống trong môi trường lành, sạch, được tôn trọng phẩm giá và được toàn quyền tham gia đóng góp vào việc chung cho đất nước. Ngay tại chính những nền dân chủ vững mạnh, những nền dân chủ còn chưa chắc chắn hay tại chính nơi kìm kẹp bởi các chế độ độc tài còn sót lại… thì người ta vẫn sẽ tranh đấu nhằm thay đổi xã hội theo hướng tốt đẹp hơn.
Điều chúng ta có thể tin chắc chắn rằng, nếu quốc gia nào không còn được xem như là một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chúng thì nó chắc chắn sẽ tan rã. Trung Quốc đang đứng trước một cuộc khủng hoảng lớn. Trong khi đó, nước Nga đang kiệt quệ về kinh tế lẫn cuộc xâm chiếm thất nhân vào đất của người Ukraine. Các chế độ độc tài khác cũng đang chao đảo. Sự xáo trộn nhất thời ngay tại chính những nền dân chủ ổn vững nhất, trong sự bi quan vẫn có sự lạc quan. Đó là một sự tức giận cần thiết cho những vấn đề có thực như bất bình đẳng, toàn cầu hóa xô bổ, nền kinh tế bị tài chính hóa dẫn đến thâm hụt thương mại triền miên… Tất cả những vấn đề này cần phải được bình tĩnh giải quyết trước khi thế giới hiệp lực với nhau cho một vấn đề sống còn của nhân loại là chống biến đổi khí hậu. Kỷ nguyên mới cho Việt Nam !
Trần Khắc Đức nói rằng sẽ mang theo tinh thần hòa giải bước qua khỏi cánh cửa trại giam
Trần Khắc Đức, một thanh niên lương thiện, bản lĩnh và đầy nhiệt huyết với đất nước
Khi viết về đất nước, tôi không khỏi bâng khuâng khi nghĩ về Trần Khắc Đức. Đức là một thanh niên lương thiện, bản lĩnh và đầy nhiệt huyết với đất nước. Em xuất thân trong một gia đình căn bản, gốc gác nông dân, sinh tại nông thôn. Mọi gia đình Việt Nam đều thấy sự hiện diện của mình và con mình trong đó. Lớn lên trong giai đoạn Việt Nam bắt đầu tiến vào thời kỳ hội nhập với thế giới, chứng kiến giai đoạn đầy biến động 2006-2012 rồi bắt đầu trưởng thành về ý thức chính trị vào năm 2016. Đức hiểu và tin rằng con đường cho Việt Nam chỉ có thể là dân chủ đa nguyên mà thôi. Và bởi vì với gánh nặng di sản lịch sử, chúng ta là đất nước cần nhất hòa giải, để có thể hòa hợp và đồng thuận với nhau trong một cố gắng chung cho kỷ nguyên vươn mình của đất nước. Nhưng chỉ vì những suy tư đầy nghiêm túc, lập trường ôn hòa như vậy mà em lại ngồi trong trại tạm giam.
Khi đọc sự kiện về Hàn Quốc, tôi lại nhớ đến bài viết của em về nền dân chủ Hàn. Có rất nhiều sự dũng cảm tranh đấu, hy sinh mất mát và lòng yêu nước nồng nàn, sự sáng suốt của trí thức Hàn để Hàn Quốc có được sự phát triển như ngày hôm nay. Những suy nghĩ siêu thực hiện diện trong tôi khi suy tư về Đức, và tôi bình thản lại khi nhủ lại lời em nói rằng sẽ mang theo tinh thần hòa giải bước qua khỏi cánh cửa trại giam. Đức rất xứng đáng đại diện cho một thế hệ trí thức mới của đất nước.
Năm 2024, chế độ cộng sản Việt Nam cũng hiểu rằng họ phải thay đổi để tiến vào kỷ nguyên mới. Ông Tô Lâm đồng ý rằng thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn, và cả một bộ máy chính quyền thể hiện quyết tâm tinh gọn bộ máy vốn chiếm hơn 70% chi tiêu ngân sách. Nhưng người ta không thể tinh gọn bộ máy đúng đắn khi không tiến hành dân chủ hóa đất nước, cũng như không thể chống tham nhũng đầy đủ nếu như không trao quyền lực về nhân dân. Chất keo chủ nghĩa Mác Lênin đã không còn kết nối được các đảng viên với nhau. Người ta vào đảng chỉ vì quyền lợi hay muốn được yên thân. Vậy thì làm sao duy trì xã hội đang muốn cởi trói với một guồng máy chính quyền nhẹ được ?
Khi chúng tôi từng ý kiến trong một bài viết chế độ không thể dân chủ hóa một mình, chúng tôi nói trong một sự thận trọng tối đa với mong muốn đảng cộng sản đóng góp vào tiến trình này như một tác nhân chủ động, thay vì là một nạn nhân bị động của một diễn tiến lịch sử đang xảy ra.
Trái với bi quan của nhiều người ưu tư dân chủ cho Việt Nam khi nghĩ về hiện tình đất nước, Việt Nam đang có trong tay một thời cơ lớn. Thời gian đã có tác dụng làm dịu lại sự căng thẳng của nó. Đất nước còn rất nhiều việc cần làm để hòa giải với nhau, hãy bắt đầu bằng quyết tâm không còn ai mạt sát hay thù hằn nhau chỉ vì ý thức hệ nữa.
Điều đáng buồn là giờ đây tuyệt đại đa số người Việt Nam chỉ nghĩ về mình, chỉ vun đắp giấc mơ cá nhân cho đời mình. Còn giấc mơ chung cho Việt Nam thì ít ai quan tâm nghĩ đến.
Ở đây tôi kêu gọi trí thức trẻ Việt Nam hãy dấn thân để trưởng thành, để xây dựng giấc mơ Việt Nam chung và cùng nhau mở ra kỷ nguyên mới cho Việt Nam, kỷ nguyên của tự do dân chủ trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Việt Dân
(07/12/2024)
Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ ngày 11/3 cho biết Mỹ đang đối mặt với một "trật tự thế giới ngày càng mong manh dễ vỡ", bị căng thẳng bởi sự cạnh tranh giữa các cường quốc, những thách thức xuyên quốc gia và xung đột khu vực. Cảnh báo này được đưa ra trong một phúc trình khi các lãnh đạo tình báo điều trần tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Bà Avril Haines, giám đốc tình báo quốc gia Mỹ.
"Một Trung Quốc đầy tham vọng nhưng đầy lo lắng, một nước Nga hay đối đầu, một số cường quốc trong khu vực như Iran và các chủ thể phi nhà nước có năng lực hơn đang thách thức các quy tắc lâu đời của hệ thống quốc tế cũng như vị thế bá chủ của Mỹ trong đó", các cơ quan tình báo Mỹ cho biết trong bản Đánh giá Đe dọa Thường niên 2024 của ủy ban tình báo Hoa Kỳ.
Phúc trình chủ yếu tập trung vào các mối đe dọa từ Trung Quốc và Nga, những đối thủ lớn nhất của Mỹ, hơn hai năm sau khi Nga phát động cuộc xâm lược Ukraine.
Phúc trình cho biết, Trung Quốc đang cung cấp hỗ trợ kinh tế và an ninh cho Nga khi nước này tiến hành chiến tranh ở Ukraine, bằng cách hỗ trợ cơ sở công nghiệp của Nga.
"Thương mại giữa Trung Quốc và Nga đã gia tăng kể từ khi bắt đầu cuộc chiến ở Ukraine và xuất khẩu hàng hóa (của Trung Quốc) có tiềm năng sử dụng cho mục đích quân sự đã tăng hơn ba lần kể từ năm 2022", phúc trình cho biết.
Trong phần điều trần của mình, bà Avril Haines, giám đốc tình báo quốc gia, thúc giục các nhà lập pháp Mỹ chấp thuận thêm viện trợ quân sự cho Ukraine. Bà nói rằng "thật khó để tưởng tượng làm thế nào Ukraine" có thể giữ được lãnh thổ đã chiếm lại từ Nga mà không có thêm sự trợ giúp từ Washington.
Bà lưu ý những lo ngại rằng cuộc xung đột ở Gaza giữa Israel và Hamas có thể làm lan rộng tình trạng bất ổn toàn cầu.
Bà Haines nói : "Cuộc khủng hoảng ở Gaza là một ví dụ rõ ràng cho thấy các diễn tiến khu vực có tiềm năng tác động rộng hơn và thậm chí toàn cầu như thế nào".
Bà lưu ý các cuộc tấn công của lực lượng dân quân Houthi nhắm vào tàu thuyền và cho biết các nhóm chủ chiến al Qaeda và ISIS "lấy cảm hứng từ Hamas" đã chỉ đạo các ủng hộ viên tiến hành các cuộc tấn công chống lại lợi ích của Israel và Hoa Kỳ.
Reuters
Nguồn : VOA, 12/03/2024
Trật tự thế giới đang sụp đổ, và ai cũng có ý kiến riêng về việc giải quyết tình trạng này. Một số người cho rằng Mỹ chỉ cần tái khởi động nỗ lực lãnh đạo trật tự tự do mà nước này đã giúp thiết lập từ 75 năm trước. Số khác nói rằng các cường quốc cần chung tay hướng dẫn cộng đồng quốc tế bước vào kỷ nguyên mới của hợp tác đa cực. Lại cũng có những người vẫn kêu gọi phân chia thế giới thành những vùng ảnh hưởng nhất định. Điểm chung của tất cả các quan điểm này là giả định rằng quản trị toàn cầu là thứ có thể được thiết kế và áp chế từ trên xuống. Với kỹ năng ngoại giao khôn ngoan và hàng loạt các hội nghị thượng đỉnh, ‘khu rừng’ thế giới sẽ có thể được chuyển hóa thành đất trồng trọt. Xung đột lợi ích và những thù hằn lịch sử cũng có thể được thương lượng gạt bỏ và thay thế bằng hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Tuy nhiên, lịch sử trật tự quốc tế ghi nhận rất ít những trường hợp giải pháp hợp tác chỉ đạo từ trên xuống thành công. Những trật tự bền vững nhất trong lịch sử hiện đại – từ Hòa ước Westphalia thế kỷ 17 đến trật tự quốc tế tự do của thế kỷ 20 – đều không phải là những tổ chức quốc tế làm việc hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại. Thay vào đó, chúng là những liên minh được lập bởi các cường quốc để tiến hành cạnh tranh an ninh chống lại các đối thủ chính của họ. Nỗi sợ hãi và thù ghét một kẻ thù chung, chứ không phải những lời kêu gọi làm thế giới tốt đẹp hơn, đã giúp những trật tự này đứng vững. Các thành tựu xuyên quốc gia, nếu có thể đạt được, cũng chủ yếu là sản phẩm phụ từ hợp tác an ninh, kiểu hợp tác sẽ bền lâu miễn là mối đe dọa chung còn hiện hữu và còn có thể giải quyết được. Khi mối họa này biến mất, hoặc trở nên lớn quá sức, trật tự sẽ sụp đổ. Ngày nay, trật tự tự do đang bắt đầu lung lay vì nhiều lý do, nhưng về cơ bản là bởi vì mối đe dọa mà nó vốn dĩ được thành lập để chống lại – Liên Xô cộng sản – đã tan rã từ ba thập niên trước. Không một trật tự nào được đề xuất để thay thế trật tự hiện hành đã thực sự thành công, vì đơn giản là chưa có kẻ thù nào đủ đáng sợ, đủ nguy hiểm để khơi nguồn cho một sự cộng tác đủ dài lâu giữa các tác nhân chính trên trường quốc tế.
Cho đến nay, qua một loại các động thái đàn áp và hung hăng, Trung Quốc đã khiến nhiều quốc gia khắp nơi trên thế giới phải hoảng sợ. Nước này đã hành động hung hăng tại Đông Á, cố gắng tìm mọi cách để tạo ra một khu vực kinh tế riêng trong nền kinh tế thế giới, và xuất khẩu các hệ thống kỹ thuật số có khả năng khiến chủ nghĩa độc tài trở nên hiệu quả hơn bao giờ hết. Lần đầu tiên kể từ Chiến tranh Lạnh, một số lượng lớn các quốc gia phải đối mặt với mối đe dọa trực tiếp đến an ninh, thịnh vượng và lối sống của họ – tất cả đều xuất phát từ một nguồn duy nhất.
Sự giác ngộ đã dẫn đến một loạt phản ứng. Các nước láng giềng của Trung Quốc đang tăng cường vũ trang và liên kết với cường quốc ngoài khu vực nhằm đảm bảo an ninh cho lãnh thổ và các tuyến đường biển của mình. Nhiều trong số các nền kinh tế lớn nhất đang cùng nhau phát triển các tiêu chuẩn thương mại, đầu tư và công nghệ chung nhằm phân biệt đối xử ngầm với Trung Quốc. Các nền dân chủ đang tập hợp để lập ra những chiến lược nhằm chống lại chủ nghĩa độc tài trong và ngoài nước, đồng thời, các tổ chức quốc tế mới đang liên tục được thành lập để triển khai những chiến lược này. Có thể ở thời điểm hiện tại, những nỗ lực này trông rất lộn xộn. Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu nhìn xa khỏi những tiểu tiết, thì một bức tranh toàn cảnh sẽ dần sáng tỏ, rằng cuộc đối đầu với Trung Quốc đang định hình một trật tự thế giới mới, dù tốt hay xấu.
Trật tự mang tính loại trừ
Những người theo tư tưởng tự do hiện đại gắn trật tự quốc tế với hòa bình và sự hòa hợp. Nhưng, trong lịch sử, các trật tự quốc tế thường là nhằm cầm chân kẻ thù, chứ không phải để tập hợp mọi người lại cùng nhau. Như lập luận của nhà lý thuyết quan hệ quốc tế Kyle Lascurettes, các trật tự chính trong bốn thế kỷ vừa qua đều là các "trật tự mang tính loại trừ" (orders of exclusion) mà các cường quốc thống trị lập ra để tẩy chay và vượt mặt đối thủ. Thiết lập trật tự không phải là nhằm kiềm chế xung đột địa chính trị, mà là chính trị cường quyền dưới một lớp áo khác, một cách thức khác để ngăn chặn kẻ thù, tiết kiệm chi phí hơn mà không cần đến chiến tranh.
Nỗi sợ hãi kẻ thù, không phải niềm tin vào bằng hữu, mới là nền tảng cho trật tự của từng thời kì, và các thành viên sẽ phát triển một bộ quy ước chung bằng cách xác định mình ở phe đối đầu với kẻ thù. Qua đó, họ cũng khai thác bản năng nguyên thủy của con người khi tham gia hành động tập thể. Các nhà xã hội học gọi đây là "động lực trong nhóm/ngoài nhóm" (in-group/out-group dynamic). Các nhà triết học gọi đây là "Định lý Sallust" (Sallust’s theorem) – theo tên vị sử gia cổ đại, người đã chỉ ra rằng chính sự sợ hãi Thành Carthage đã khiến các thành viên Cộng hòa La Mã hợp tác với nhau. Trong khoa học chính trị, khái niệm tương tự là "trung thành tiêu cực" (negative partisanship), chỉ xu hướng xuất hiện ở một nhóm cử tri, những người trở nên cực kỳ trung thành với một đảng phái nào đó chỉ vì họ ghét đảng đối thủ.
Xu hướng tiêu cực này đã bao trùm xuyên suốt lịch sử trật tự thế giới. Năm 1648, các vương quốc giành chiến thắng trong Chiến tranh 30 Năm đã áp đặt quy tắc về quốc gia có chủ quyền qua Hòa ước Westphalia, nhằm làm suy yếu quyền lực của Giáo Hội Công Giáo và Đế chế La Mã Thần thánh. Vương quốc Anh và các đồng minh soạn thảo Hiệp ước Utrecht năm 1713 để kiềm chế nước Pháp, bằng cách hủy bỏ tính chính danh của những lần mở rộng lãnh thổ qua hôn nhân giữa các thành viên hoàng gia và liên minh giữa các triều đình, vốn là phương pháp gia tăng quyền lực ưa thích của vua Louis XIV. Hòa hợp Quyền lực Châu Âu, trật tự hòa bình hậu Napoleon được lập ra tại Vienna năm 1815, đã được các chế độ quân chủ bảo thủ sử dụng để ngăn chặn sự trỗi dậy của các chế độ tự do cách mạng. Các bên chiến thắng trong Thế chiến I đã duy trì một trật tự nhằm kiểm soát Đức và nước Nga Bolshevik. Sau Thế chiến II, quân Đồng Minh thiết kế một trật tự toàn cầu lấy trọng tâm là Liên Hiệp Quốc, nhằm ngăn chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa trọng thương kiểu Đức Quốc Xã quay trở lại. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Lạnh dần phá vỡ trật tự đó, phương Tây lại tạo ra một trật tự riêng biệt nhằm cô lập và đánh bại chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Trong suốt giai đoạn Chiến tranh Lạnh, thế giới đã bị phân thành hai trật tự : nửa giàu hơn do Washington lãnh đạo, và nửa nghèo hơn đi theo Moscow.
Các đặc điểm chính của trật tự tự do ngày nay có nguồn gốc từ các liên minh thời Chiến tranh Lạnh của Mỹ. Sau khi Liên Xô quyết định không tham gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT), các thể chế này đã được tái tổ chức theo hướng trở thành những hạt nhân xúc tiến sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản – mục đích thứ nhất của chúng là xây dựng lại nền kinh tế tư bản, và thứ hai là thúc đẩy toàn cầu hóa. Kế hoạch Marshall đặt ra nền tảng cho Cộng đồng Châu Âu bằng những khoản viện trợ từ Mỹ cho bất kỳ chính quyền nào đồng ý trục xuất mọi đảng viên cộng sản ra khỏi đội ngũ của mình, và hướng đến một "liên bang kinh tế" (economic federation). NATO trở thành một mặt trận thống nhất chống lại Hồng Quân. Chuỗi đồng minh tại Đông Á của Mỹ được dựng lên nhằm kiềm chế sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại khu vực này, đặc biệt là nhằm ngăn chặn Trung Quốc và Triều Tiên. Sự hợp tác của Mỹ với Trung Quốc, kéo dài từ thập niên 1970 đến tận những năm 2010, là một ván bài nhằm chia rẽ Xô-Trung.
Mỗi sáng kiến trong số này đều là một thành phần của trật tự được tạo lập trước tiên nhằm đánh bại Liên Xô. Nếu thiếu vắng những mối đe dọa Chiến tranh Lạnh, Nhật và Tây Đức hẳn đã chẳng chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài trên đất nước mình. Anh, Pháp, Đức hẳn đã chẳng cùng nhau đóng góp tài nguyên công nghiệp. Mỹ – quốc gia đã trốn tránh mọi cam kết quốc tế và dùng thuế quan để đóng cửa nền kinh tế suốt hai thế kỷ trước đó – hẳn đã chẳng dốc sức tài trợ cho các thể chế quốc tế ; cũng chẳng cung cấp các bảo đảm an ninh, các khoản viện trợ khổng lồ và mở cửa thị trường cho hàng tá nước, kể cả những cựu thù phe Trục. Chỉ có mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân và một siêu cường cộng sản mới có thể khiến đông đảo các quốc gia tạm dẹp xung đột lợi ích và thù hằn lịch sử sang một bên, để xây dựng một cộng đồng an ninh mạnh mẽ nhất và một chế độ thương mại tự do nhất trong lịch sử.
Oằn mình dưới áp lực
Suốt hàng chục năm, Mỹ và các đồng minh vẫn luôn biết rõ mình đang ‘chiến đấu’ vì điều gì và kẻ thù là ai. Nhưng khi Liên Xô sụp đổ, mối đe dọa lớn nhất đã biến mất, nhường chỗ cho một loạt những mối đe dọa nhỏ hơn. Trong môi trường hậu Chiến tranh Lạnh còn mới mẻ và bất định, các đồng minh phương Tây quyết định quay trở về với những thành công của quá khứ. Thay vì xây dựng một trật tự mới, họ lựa chọn củng cố thứ sẵn có. Kẻ thù cũ có thể tan rã, nhưng sứ mệnh thì vẫn giữ nguyên : đó là mở rộng cộng đồng dân chủ thương mại tự do. Trong vòng ba thập niên tiếp theo, họ nỗ lực biến trật tự tự do phương Tây trở thành một trật tự toàn cầu. Số lượng thành viên NATO tăng lên gần gấp đôi. Cộng đồng Châu Âu dần phát triển thành EU, một liên minh kinh tế toàn diện với số nước thành viên cũng tăng lên hơn gấp đôi. GATT được chuyển hóa thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoan nghênh hàng chục thành viên mới gia nhập, mở ra một giai đoạn siêu toàn cầu hóa (hyperglobalization) chưa từng có tiền lệ.
Tuy nhiên, mọi thứ đã chẳng thể tồn tại lâu. Trật tự tự do, giống như các trật tự quốc tế khác, cũng chỉ là một dạng ‘đạo đức giả có tổ chức’ vốn mang sẵn trong mình mầm mống tự diệt vong. Để hình thành một cộng đồng gắn kết, những người xây dựng trật tự buộc phải loại trừ những dân tộc thù địch, đưa hành vi bất hợp tác ra ngoài vòng pháp luật, và đàn áp các ý kiến ở trong nước chống đối việc thiết lập các quy tắc quốc tế. Những hành động trấn áp này sau cùng cũng phản tác dụng. Giữa thế kỷ 19, phản ứng xuất hiện dưới dạng một làn sóng cách mạng tự do, xóa bỏ sự thống nhất và sự chặt chẽ về ý thức hệ của các triều đại trong Hòa hợp Quyền lực Châu Âu. Trong thập niên 1930, các quốc gia phát xít bất mãn đã phá hủy trật tự tự do giữa hai cuộc thế chiến – vốn là thứ đang ngáng đường tham vọng đế quốc của họ. Đến cuối thập niên 1940, Liên Xô đã mạnh mẽ bác bỏ trật tự toàn cầu mà chính nước này từng giúp dàn xếp chỉ vài năm trước đó, liên tục bành trướng lãnh thổ tại Đông Âu bất chấp những điều khoản trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Đại diện Liên Xô ở tổ chức này thậm chí còn chế giễu, gọi Hệ thống Bretton Woods là "chi nhánh của Phố Wall". Xét đến bản chất loại trừ của các trật tự thế giới, việc kích động đối đầu là điều không thể tránh khỏi.
Nhiều cá nhân phương Tây từ lâu đã tin tưởng rằng trật tự tự do sẽ là một ngoại lệ của lịch sử. Cam kết cởi mở và không phân biệt đối xử của hệ thống này được cho là sẽ giúp nó "khó lật đổ, nhưng dễ gia nhập" – trích lập luận của nhà khoa học chính trị G. John Ikenberry trong một bài luận công bố năm 2008. Bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, đều có thể tham gia nền kinh tế toàn cầu hóa. Các thể chế tự do có thể phù hợp với mọi thành viên – ngay cả những thành viên phi tự do, những nước vẫn có khả năng thay đổi dần dần thành các bên liên quan có trách nhiệm. Càng có nhiều thành viên, thì ‘vòng tròn phát triển’ càng hiện rõ : thương mại tự do sẽ tạo ra thịnh vượng, thịnh vượng giúp truyền bá dân chủ, dân chủ giúp nâng cao hợp tác quốc tế, hợp tác quốc tế lại dẫn đến nhiều trao đổi thương mại. Quan trọng nhất là trật tự này không gặp phải cản trở lớn nào, bởi kẻ thù mạnh nhất đã bị đánh bại. Hồi kết của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô gửi đi một thông điệp rõ ràng, rằng chẳng gì đủ sức thay thế dân chủ tư bản chủ nghĩa.
Tiếc thay, đó là những giả định sai lầm. Trật tự tự do, về bản chất, mang tính loại trừ sâu sắc. Bằng cách khuyến khích thị trường tự do, mở cửa biên giới, tăng cường dân chủ, các thể chế siêu quốc gia và sử dụng lí trí để giải quyết vấn đề, trật tự này đã thách thức các niềm tin và thể chế truyền thống, vốn là cơ sở thống nhất các cộng đồng bao thế kỷ qua : chủ quyền quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, thị tộc, gia đình. Những mối dây liên kết cục bộ này đã bị kìm nén trong Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và các đồng minh buộc phải giữ vững thành trì thống nhất nhằm ngăn chặn Liên Xô. Tuy nhiên, chúng đã nổi lên một lần nữa trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh. "Chúng tôi sẽ làm một điều tồi tệ với các anh" – quan chức Liên Xô Georgi Arbatov nói trước một cử tọa người Mỹ vào năm 1988. "Chúng tôi sẽ tước mất kẻ thù của các anh". Tiên đoán ấy quả thực chính xác. Khi không còn kẻ thù chính yếu, trật tự tự do đã chứng kiến sự trỗi dậy của hàng loạt những kẻ đối lập theo chủ nghĩa dân tộc, dân túy, tôn giáo và độc tài.
Rất nhiều trụ cột của trật tự tự do đang phải oằn mình dưới áp lực. NATO lục đục vì những tranh cãi liên quan đến chia sẻ gánh nặng. EU suýt chút nữa đã tan rã trong khủng hoảng khu vực đồng euro, và trong những năm sau đó, tổ chức này đã mất Anh, đồng thời phải đối mặt với sự trỗi dậy của các đảng cánh hữu bài ngoại trên khắp lục địa. Vòng đàm phán thương mại đa phương gần nhất của WTO cũng đã kéo dài tận 20 năm mà chẳng đi đến thỏa thuận nào, còn Mỹ thì đang làm tê liệt cốt lõi của tổ chức này – Tòa Phúc thẩm (Appellate Court), nơi mà các quốc gia giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau – vì WTO đã không chịu giải quyết vấn đề các rào cản phi thuế quan của Trung Quốc. Nhìn tổng thể, trật tự tự do dường như không được trang bị kỹ lưỡng để giải quyết những vấn đề cấp bách trên toàn cầu, như biến đổi khí hậu, khủng hoảng tài chính, dịch bệnh, thông tin sai lệch trên mạng, dòng người tị nạn và chủ nghĩa cực đoan chính trị, rất nhiều trong số này có thể được coi là hậu quả trực tiếp từ một hệ thống mở, chủ trương không có bất kỳ ràng buộc nào đối với dòng tiền, hàng hóa, thông tin và dịch chuyển nhân sự xuyên biên giới.
Các nhà hoạch định chính sách từ lâu đã thừa nhận những vấn đề này. Tuy nhiên, không có ý tưởng cải tạo hệ thống nào được ủng hộ, đơn giản bởi vì xây dựng một hệ thống mới là quá tốn kém. Việc đó đòi hỏi giới lãnh đạo, thay vì dùng thời gian và tiền bạc để theo đuổi chương trình nghị sự cá nhân, phải dùng chúng để thúc đẩy các thảo luận về quy tắc quốc tế và thuyết phục công chúng còn hoài nghi. Nó cũng đòi hỏi các quốc gia phải đưa lợi ích tập thể lên trên lợi ích quốc gia, và tin tưởng rằng những nước khác cũng sẽ làm như vậy. Những hành động này không tự nhiên mà có, và đó là lý do tại sao việc thiết lập trật tự lại cần phải có một kẻ thù chung. Ba mươi năm qua, kẻ thù duy nhất đó đã vắng bóng, và kết quả là, trật tự tự do cứ thế ngày một lung lay.
Long tranh hổ đấu
Người ta chưa bao giờ nghi ngờ ý định của Trung Quốc, bởi vì lãnh đạo nước này vẫn luôn khẳng định những mục tiêu không đổi suốt hàng thập niên : duy trì sự cầm quyền của Đảng Cộng sản (ĐCSTrung Quốc), tái thống nhất Đài Loan, kiểm soát Biển Hoa Đông và Biển Đông, và đưa Trung Quốc trở lại vị thế đích thực của mình – cường quốc thống trị Châu Á và hơn nữa là cường quốc mạnh nhất thế giới. Phần lớn trong bốn mươi năm qua, nước này đã lựa chọn tiếp cận các mục tiêu này một cách âm thầm, bền bỉ và hòa bình. Tập trung phát triển kinh tế và lo ngại sẽ bị cộng đồng quốc tế cô lập, Trung Quốc quyết định đi theo chiến lược "trỗi dậy hòa bình", chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế để thúc đẩy lợi ích quốc gia, và rộng hơn, là đi theo chủ trương "ẩn mình chờ thời" của lãnh đạo Đặng Tiểu Bình.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu bành trướng mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. "Ngoại giao Chiến Lang" đã thay thế ngoại giao hữu nghị. Bất kỳ lời khinh chê nào từ người nước ngoài, dù nhỏ bé đến đâu, cũng sẽ vấp phải sự lên án theo kiểu Bắc Triều Tiên. Thái độ hiếu chiến đã len lỏi đến mọi ngóc ngách của chính sách đối ngoại Trung Quốc, và nước này đang trở thành mối đe dọa lớn nhất của nhiều quốc gia trong những thế hệ qua.
Mối đe dọa này được thể hiện rõ ràng nhất là tại Biển Hoa Đông, nơi Trung Quốc đang trở nên cực kỳ hung hăng, nhằm bảo vệ các yêu sách chủ quyền của mình. Bắc Kinh sản xuất tàu chiến nhanh hơn bất kỳ nước nào kể từ Thế chiến II, cùng lúc đó, tàu hải cảnh và tàu đánh cá Trung Quốc chen chúc trên mọi tuyến đường biển Châu Á. Nước này đã cho xây dựng hàng loạt tiền đồn quân sự khắp Biển Đông, và gia tăng đáng kể các vụ đâm tàu cũng như ngăn chặn trên không để đẩy các nước láng giềng ra khỏi khu vực tranh chấp. Tại Eo biển Đài Loan, những đợt tuần tra quân sự của Trung Quốc – một số có sự hiện diện của hơn 10 tàu chiến và hơn 50 máy bay chiến đấu – diễn ra gần như hàng ngày, và thường xuyên giả lập các cuộc tấn công nhắm vào các mục tiêu Đài Loan hoặc Mỹ. Các quan chức Trung Quốc nói với giới phân tích phương Tây rằng lời kêu gọi xâm lược Đài Loan đang xuất hiện ngày một nhiều trong nội bộ ĐCSTrung Quốc. Lầu Năm Góc lo ngại một cuộc xâm lược như vậy có thể đã gần kề.
Song song với đó, Trung Quốc cũng đang tiến hành phản công kinh tế. Kế hoạch 5 năm gần nhất của nước này đề cập đến việc kiểm soát cái mà các quan chức Trung Quốc gọi là "điểm nghẽn" – hàng hóa và dịch vụ mà nước khác không thể sống thiếu – và sau đó dùng nó, cùng với sức hút của thị trường nội địa Trung Quốc, để ép buộc các nước khác phải nhượng bộ. Nhằm đạt được mục đích đó, Trung Quốc đã trở thành nước đi đầu trong việc cho vay nước ngoài, trở thành chủ nợ của hơn 150 quốc gia, với tổng số liền lên tới hơn 1 nghìn tỉ đô la. Họ cũng ồ ạt tăng trợ cấp cho các ngành công nghiệp chiến lược nhằm chiếm thế độc quyền đối với hàng trăm sản phẩm thiết yếu, đồng thời lắp đặt phần cứng cho mạng kỹ thuật số ở hàng chục quốc gia. Họ đã sử dụng những đòn bẩy kinh tế này để xử ép hơn một chục nước chỉ trong vài năm qua. Trong nhiều trường hợp, hình phạt không hề tương xứng với tội danh (được giả định) – chẳng hạn như việc áp thuế lên nhiều mặt hàng xuất khẩu của Australia sau khi nước này yêu cầu một cuộc điều tra quốc tế về nguồn gốc của Covid-19.
Trung Quốc cũng đã trở thành một thế lực chống dân chủ mạnh mẽ, đem bán những công cụ của chế độ chuyên chế ra khắp thế giới. Qua việc kết hợp camera giám sát với kiểm duyệt mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo, sinh trắc học, công nghệ nhận dạng giọng nói và khuôn mặt, chính quyền Trung Quốc đã ‘đi tiên phong’ tạo ra một hệ thống cho phép nhà độc tài liên tục giám sát các công dân, và trừng phạt ngay lập tức mỗi khi họ mắc lỗi, bằng cách chặn không cho họ tiếp cận tài chính, giáo dục, việc làm, viễn thông và du lịch. Một bộ máy như thế này là ước mơ của bao kẻ bạo chúa, và các công ty Trung Quốc đã và đang bán cũng như vận hành các khía cạnh của nó ở hơn 80 quốc gia
Hành động và phản ứng
Trong lúc Trung Quốc thiêu rụi những tàn dư của trật tự tự do, họ cũng đang gây ra những phản ứng dữ dội trên trường quốc tế. Các đánh giá tiêu cực về nước này bất ngờ tăng vọt lên mức cao chưa từng thấy kể từ Thảm sát Thiên An Môn 1989. Một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện vào năm 2021 chỉ ra rằng 75% những người được hỏi tại Mỹ, Châu Âu, và Châu Á đang có suy nghĩ tiêu cực về Trung Quốc, và họ cũng không tin tưởng rằng Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ hành xử có trách nhiệm trong các vấn đề quốc tế, hoặc tôn trọng nhân quyền. Một khảo sát khác – một cuộc thăm dò vào năm 2020 của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế – tiết lộ rằng 75% giới tinh hoa chính sách đối ngoại ở Mỹ, Châu Âu, Châu Á tin rằng cách tốt nhất để đối phó với Trung Quốc là thành lập các liên minh của những quốc gia có cùng chí hướng chống lại Trung Quốc. Tại Mỹ, lưỡng đảng giờ đây đều nhất trí ủng hộ một chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc. EU chính thức tuyên bố Trung Quốc là "đối thủ hệ thống" (systemic rival). Còn tại Châu Á, Bắc Kinh đang phải đối mặt với các chính phủ chống đối công khai ở khắp mọi nơi, từ Nhật Bản đến Australia, từ Việt Nam tới Ấn Độ. Ngay cả ở những nước có trao đổi thương mại lớn với Trung Quốc, người ta cũng đang chán ngán nước này. Nhiều kết quả khảo sát cho thấy người Hàn Quốc ngày nay còn ghét người Trung Quốc hơn cả người Nhật – vốn là ông chủ thực dân đã biến nước họ thành thuộc địa.
Tình cảm chống Trung Quốc đang dần được hiện thực hóa thành những đòn phản công thực sự. Kháng cự vẫn còn đang ở giai đoạn phôi thai với nhiều chắp vá, chủ yếu là vì đa phần các quốc gia vẫn đang có quan hệ thương mại với Trung Quốc. Nhưng xu hướng chung vẫn rất rõ ràng : nhiều nhân tố đang bắt đầu hợp lực để đẩy lùi Trung Quốc. Trong quá trình đó, họ cũng sẽ sắp xếp lại trật tự thế giới.
Trật tự chống Trung Quốc đang nổi lên, về cơ bản, khác với trật tự tự do, bởi vì nó nhắm đến một mối nguy hoàn toàn khác. Cụ thể, trật tự mới sẽ đảo ngược điểm nhấn trong tương quan giữa tư bản và dân chủ. Trong thời Chiến tranh Lạnh, trật tự cũ đưa tư bản lên hàng đầu và dân chủ ở hàng thứ hai. Mỹ và các đồng minh đã đưa thị trường tự do đi xa nhất có thể, và khi buộc phải lựa chọn, họ gần như luôn luôn ủng hộ cánh hữu chuyên quyền hơn là cánh tả dân chủ. Cái gọi là ‘thế giới tự do’ đơn giản chỉ là một cấu trúc kinh tế. Ngay cả sau Chiến tranh Lạnh, khi việc phổ biến dân chủ trở thành mối quan tâm của nhiều người, thì Mỹ và các đồng minh vẫn thường ngó lơ các quan ngại về nhân quyền để có thể mở rộng thị trường, bằng chứng là việc họ hối hả đưa Trung Quốc gia nhập WTO.
Nhưng giờ đây, sự cởi mở kinh tế đã trở thành gánh nặng trách nhiệm đối với Mỹ và đồng minh, vì Trung Quốc đã hiện hữu trong mọi khía cạnh của trật tự tự do. Thay vì bị toàn cầu hóa làm cho sụp đổ, hệ thống tư bản độc tài của Trung Quốc dường như đã được thiết kế hoàn hảo để khai thác triệt để thị trường tự do nhằm thu về lợi ích trọng thương. Bắc Kinh sử dụng trợ cấp và gián điệp để giúp các tập đoàn của nước mình thống trị thị trường toàn cầu, và bảo vệ thị trường trong nước thông qua các rào cản phi thuế quan. Họ cho kiểm duyệt mọi ý tưởng và công ty nước ngoài trên mạng Internet của nước mình, trong khi tự do truy cập mạng Internet toàn cầu để đánh cắp tài sản trí tuệ và tuyên truyền về ĐCSTrung Quốc. Họ đảm nhận vị trí lãnh đạo trong nhiều thể chế tự do quốc tế, như Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, nhưng lại bẻ cong chúng theo đường hướng phi tự do. Họ có thể dễ dàng vận chuyển hàng xuất khẩu đến mọi nơi trên thế giới, nhờ có sự trợ giúp từ Hải quân Mỹ, nhưng lại dùng chính quân đội của mình để chiếm quyền kiểm soát những vùng biển rộng lớn ở Biển Hoa Đông và Biển Đông.
Mỹ và các đồng minh giờ đây đã nhận thức được hiểm nguy : trật tự tự do, và cụ thể là nền kinh tế toàn cầu hóa nằm ở trung tâm của nó, đang tiếp sức cho một đối thủ nguy hiểm. Để đáp trả, họ cố gắng tạo ra một trật tự mới không có Trung Quốc, bằng cách biến dân chủ thành điều kiện tiên quyết để có được tư cách thành viên. Khi Joe Biden tổ chức buổi họp báo đầu tiên trên cương vị Tổng thống Mỹ, vào tháng 03/2021, và mô tả cạnh tranh Mỹ-Trung là một phần trong cuộc cạnh tranh lớn hơn giữa dân chủ và chuyên chế, ông không hề nói quá, mà là đang vạch ra chiến tuyến rõ ràng, dựa trên niềm tin phổ biến rằng chủ nghĩa tư bản độc tài là một mối đe dọa sống còn đối với thế giới dân chủ, mối đe dọa mà trật tự tự do không thể kiềm chế được. Thay vì cải cách những quy tắc hiện có, các nền dân chủ giàu có đang cố gắng tạo ra những quy tắc mới bằng cách liên kết với nhau, cùng thông qua các chuẩn mực và thực tiễn mới, đồng thời đe dọa sẽ loại trừ những quốc gia không đi theo họ. Các nền dân chủ không đơn thuần chỉ đang kiềm chế đối trọng với Trung Quốc – tăng chi tiêu quốc phòng và lập nhiều liên minh quân sự – họ đang thực sự tái cấu trúc lại trật tự thế giới.
Trật tự mới đang hình thành
Kiến trúc của trật tự mới vẫn còn đang thành hình. Tuy nhiên, đã có thể thấy rõ hai đặc điểm chính. Thứ nhất là một khối kinh tế lỏng lẻo, do G-7, nhóm liên minh dân chủ đang kiểm soát phân nửa tài sản thế giới, dẫn đầu. Các cường quốc lãnh đạo này, cùng với những quốc gia khác có cùng chí hướng, đang hợp tác để ngăn chặn Trung Quốc độc chiếm nền kinh tế toàn cầu. Lịch sử đã cho thấy bất cứ quốc gia nào nắm trong tay hàng hóa và dịch vụ chiến lược của một thời kỳ sẽ là quốc gia thống trị thời kỳ đó. Hồi thế kỷ 19, Vương quốc Anh đã có thể gầy dựng một đế chế ‘nơi Mặt Trời không bao giờ lặn’ bởi vì họ đã làm chủ công nghệ rèn sắt, hơi nước, và điện báo nhanh hơn các đối thủ cạnh tranh. Sang thế kỷ 20, Mỹ vươn lên dẫn đầu nhờ khai thác thành công công nghệ thép, hóa học, điện tử, hàng không vũ trụ, và công nghệ thông tin. Ngay lúc này đây, Trung Quốc hy vọng thống trị các lĩnh vực chiến lược hiện đại – bao gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, chất bán dẫn, viễn thông – và theo đó cũng hạ cấp các nền kinh tế khác. Trong một cuộc họp tại Bắc Kinh vào năm 2017, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nói với H. R. McMaster, khi đó là Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ, về hình dung của ông về vị trí của Mỹ và các nước khác trong nền kinh tế toàn cầu tương lai : McMaster hồi tưởng lại lời của Lý, vai trò của các nước này "đơn giản sẽ là cung cấp cho Trung Quốc nguyên liệu thô, nông sản, và năng lượng để nước này có thể sản xuất những sản phẩm công nghiệp và sản phẩm tiêu dùng với công nghệ tối tân nhất thế giới".
Để tránh trở thành những bánh răng nhỏ bé trong đế chế kinh tế Trung Quốc, các nền dân chủ hàng đầu đang tạo ra những mạng lưới thương mại và đầu tư được thiết kế để tăng tốc tiến bộ của họ trong các lĩnh vực quan trọng, đồng thời cản bước tiến của Trung Quốc. Một vài trong số các nỗ lực hợp tác này – chẳng hạn như Quan hệ Đối tác Mỹ-Nhật về Năng lực Cạnh tranh và Khả năng Phục hồi, được công bố vào năm 2021 – khởi động nhiều dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm giúp các nước có thể vượt qua các phát minh của Trung Quốc. Trong khi đó, những cơ chế khác lại tập trung vào việc làm giảm đòn bẩy kinh tế của Trung Quốc bằng cách phát triển những phương án thay thế cho sản phẩm và vốn từ Trung Quốc. Ví dụ, Sáng kiến Xây dựng lại Thế giới Tốt đẹp hơn (Build Back Better World) của G-7 và Cửa ngõ Toàn cầu (Global Gateway) của EU sẽ cung cấp cơ sở hạ tầng tài chính cho các nước nghèo, như một lựa chọn thay thế cho Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Australia, Ấn Độ, Nhật Bản đã cùng nhau phát động Sáng kiến Chuỗi cung ứng Bền bỉ (Supply Chain Resilience Initiative), mang lại động lực cho các công ty của họ di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Và theo lệnh của Mỹ, các quốc gia chiếm hơn 60% thị trường thiết bị di động trên thế giới đã ban hành, hoặc đang xem xét, các hạn chế đối với Huawei, nhà cung cấp thiết bị viễn thông 5G chính của Trung Quốc.
Trong khi đó, các liên minh dân chủ đang hạn chế Trung Quốc tiếp cận nhiều công nghệ tiên tiến. Ví dụ, Hà Lan, Hàn Quốc, Đài Loan và Mỹ đã phối hợp để Trung Quốc không thể tiếp cận các chất bán dẫn tiên tiến và các máy móc tạo ra chúng. Các thể chế mới đang đặt nền móng cho một cơ chế kiểm soát xuất khẩu đa phương toàn diện. Hội đồng Công nghệ và Thương mại Mỹ-EU đang thiết lập tiêu chuẩn chung xuyên Đại Tây Dương nhằm giám sát hàng xuất khẩu sang Trung Quốc và đầu tư vào nước này trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân loại và các công nghệ tiên tiến khác. Sáng kiến Kiểm soát Xuất khẩu và Nhân quyền (Export Controls and Human Rights Initiative) – một dự án chung của Australia, Canada, Đan Mạch, Pháp, Hà Lan, Na Uy, Anh và Mỹ đã được công bố vào cuối năm 2021 – cũng nhằm thực hiện điều tương tự đối với các công nghệ có thể hỗ trợ chủ nghĩa độc tài kỹ thuật số, chẳng hạn như các công cụ nhận dạng giọng nói và khuôn mặt. Mỹ và các đồng minh dân chủ cũng đang đàm phán các thỏa thuận thương mại và đầu tư để phân biệt đối xử chống lại Trung Quốc, đưa ra các tiêu chuẩn về lao động, môi trường và quản trị mà Bắc Kinh sẽ chẳng thể nào đáp ứng được. Ví dụ, vào tháng 10/2021, Mỹ và EU đã đồng ý tạo ra một thỏa thuận mới nhằm áp thuế đối với các nhà sản xuất nhôm và thép tham gia vào hoạt động bán phá giá, hoặc sản xuất thâm dụng carbon, một biện pháp sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc hơn bất kỳ ai khác.
Đặc điểm thứ hai của trật tự mới nổi là một hàng rào quân sự kép nhằm kiềm chế Trung Quốc. Lớp bên trong bao gồm các đối thủ ở khu vực giáp Biển Hoa Đông và Biển Đông. Nhiều nước trong số này – bao gồm Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Đài Loan và Việt Nam – đang trang bị các bệ phóng tên lửa và mìn di động. Mục đích của họ là biến mình thành những con nhím gai có khả năng chống lại quyền kiểm soát trên biển và trên không của Trung Quốc ở gần bờ biển của họ. Những nỗ lực đó hiện đang được hỗ trợ bởi lớp bên ngoài là các cường quốc dân chủ – chủ yếu là Australia, Ấn Độ, Anh và Mỹ – đang cung cấp viện trợ, vũ khí và thông tin tình báo cho các nước láng giềng của Trung Quốc ; tham gia tập trận cùng nhau để có thể tiến hành các cuộc tấn công bằng tên lửa tầm xa nhắm vào lực lượng Trung Quốc, phong tỏa nhập khẩu dầu của Trung Quốc ; và tổ chức các cuộc diễn tập tự do hàng hải đa quốc gia trong toàn khu vực, đặc biệt là gần các đảo đá, bãi ngầm, và các đảo do Trung Quốc chiếm giữ trong khu vực tranh chấp.
Hợp tác an ninh đang trở nên mạnh mẽ hơn và được thể chế hóa nhiều hơn. Ví dụ như sự tái trỗi dậy của Đối thoại An ninh Bốn bên, hay Quad – một liên minh bao gồm Australia, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ – vốn đã hoạt động trầm lắng ngay sau khi thành lập vào năm 2007. Hoặc sự ra đời của các hiệp ước mới, đáng chú ý nhất là AUKUS, một liên minh liên kết Australia, Anh và Mỹ. Mục tiêu bao trùm của tất cả các hoạt động này là duy trì nguyên trạng lãnh thổ ở Đông Á. Nhưng mục tiêu rõ ràng hơn là cứu Đài Loan, nền dân chủ ở tuyến đầu, nước có nguy cơ bị Trung Quốc xâm chiếm cao nhất. Nhật và Mỹ đã phát triển một kế hoạch chiến đấu chung để bảo vệ hòn đảo, và vào tháng 11/2021, Peter Dutton, Bộ trưởng Quốc phòng Australia, cho biết việc nước ông không tham gia cuộc chiến là điều "không thể tưởng tượng nổi". Về phần mình, Nghị viện Châu Âu đã thông qua một kế hoạch toàn diện nhằm thúc đẩy khả năng phục hồi kinh tế và sự công nhận quốc tế đối với Đài Loan.
Khi nhìn riêng rẽ, những nỗ lực này trông có vẻ lộn xộn và mang tính phản ứng nhất thời. Tuy nhiên, khi nhìn bao quát rộng hơn, chúng thể hiện tầm nhìn tích cực về một trật tự dân chủ, một trật tự mà về cơ bản là khác với mô hình trọng thương của Trung Quốc và cũng khác với trật tự quốc tế cũ, với cốt lõi là chủ nghĩa chính thống tân tự do. Bằng cách đưa các tiêu chuẩn lao động và nhân quyền vào các thỏa thuận kinh tế, tầm nhìn mới ưu tiên con người hơn lợi nhuận doanh nghiệp và quyền lực nhà nước. Nó cũng nâng cao môi trường toàn cầu, từ một cộng đồng trao đổi hàng hóa đơn thuần thành một cộng đồng có các nguyên tắc chung được chia sẻ và bảo vệ. Bằng cách liên kết các chính phủ dân chủ với nhau thành một mạng lưới riêng, trật tự mới cố gắng buộc các quốc gia phải đưa ra một loạt đánh giá về vấn đề giá trị, và áp đặt các hình phạt thực sự đối với hành vi phi tự do. Anh muốn sản xuất thép thâm dụng carbon bằng lao động nô lệ ? Vậy thì hãy chuẩn bị đối mặt với hàng rào thuế quan của các quốc gia giàu nhất thế giới. Anh đang toan tính sáp nhập các vùng biển quốc tế ? Vậy thì hãy mong đợi cuộc chạm trán với một hạm đội đa quốc gia.
Nếu Trung Quốc tiếp tục khiến các nền dân chủ phải hành động tập thể, thì nước này sẽ dẫn tới những thay đổi lớn đối với quản trị toàn cầu trong vòng một thế hệ tới hoặc hơn. Chẳng hạn, bằng cách kiềm chế sự bành trướng của hải quân Trung Quốc, hệ thống an ninh hàng hải ở Đông Á có thể trở thành một cơ chế thực thi luật biển mạnh mẽ. Bằng cách đưa thuế carbon vào các thỏa thuận thương mại để phân biệt đối xử với Trung Quốc, Mỹ và các đồng minh có thể buộc các nhà sản xuất giảm lượng khí thải của họ, vô tình tạo cơ sở cho việc đánh thuế carbon quốc tế trên thực tế. Thành công của Quad trong việc cung cấp một tỷ liều vắc xin Covid-19 cho Đông Nam Á – một nỗ lực nhằm thu phục trái tim lẫn khối óc, kêu gọi tránh xa Bắc Kinh – đã cung cấp một kế hoạch hành động chi tiết để chống lại đại dịch trong tương lai. Các nỗ lực chung nhằm ngăn chặn việc truyền bá chủ nghĩa độc tài kỹ thuật số có thể truyền cảm hứng cho các quy định quốc tế mới về dòng chảy kỹ thuật số và quyền riêng tư về dữ liệu, và việc bắt buộc phải cạnh tranh với Trung Quốc có thể thúc đẩy sự gia tăng chưa từng có trong chi tiêu R&D và cơ sở hạ tầng trên toàn thế giới.
Giống như các trật tự trong quá khứ, trật tự mới nổi này là một trật tự mang tính loại trừ, được duy trì bởi sự sợ hãi và được thực thi thông qua cưỡng chế. Tuy nhiên, không giống như hầu hết các trật tự trong quá khứ, nó hướng đến các mục tiêu tiến bộ hơn.
Sự va chạm giữa các hệ thống
Lịch sử xây dựng trật tự quốc tế là một lịch sử chứa đầy những cuộc cạnh tranh tàn bạo giữa các hệ thống xung đột, không thể hợp tác hài hòa với nhau. Trong thời kỳ ‘yên bình’ nhất, cuộc cạnh tranh đó diễn ra dưới hình thức chiến tranh lạnh, hai bên tranh giành lợi thế và thăm dò lẫn nhau bằng mọi biện pháp, chỉ trừ lực lượng quân sự. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đối đầu cuối cùng trở thành chiến tranh nóng, và kết thúc với việc một bên đè bẹp bên kia. Trật tự của kẻ chiến thắng sau đó sẽ thống trị, cho đến khi nó bị phá hủy bởi một đối thủ cạnh tranh mới – hoặc cho đến khi nó đơn giản là sụp đổ, vì không có mối đe dọa từ bên ngoài nào còn tồn tại để giữ nó đứng vững.
Ngày nay, ngày càng nhiều các nhà hoạch định chính sách và chuyên gia đang kêu gọi một sự hợp tác mới giữa các cường quốc để giải quyết các vấn đề toàn cầu và phân chia thế giới thành các phạm vi ảnh hưởng. Nhưng ý tưởng về một trật tự bao trùm trong đó không tầm nhìn của cường quốc nào chiếm ưu thế là điều viển vông, chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng của những người ủng hộ chính phủ toàn cầu và các nhà lý luận hàn lâm. Hiện chỉ có hai trật tự đang được xây dựng – một do Trung Quốc lãnh đạo và một do Mỹ lãnh đạo – và cuộc cạnh tranh giữa hai trật tự này đang nhanh chóng trở thành cuộc đụng độ giữa chế độ chuyên chế và chế độ dân chủ, khi mà hai nước tự xác định mình chống lại bên kia và cố gắng truyền bá cho liên minh của mình các mục đích ý thức hệ. Trung Quốc đang tự định vị mình là người bảo vệ hệ thống thứ bậc và truyền thống của thế giới, chống lại một phương Tây suy đồi và mất trật tự. Còn Mỹ đang triệu tập, trong muộn màng, một liên minh mới, đối trọng với quyền lực của Trung Quốc và nỗ lực biến thế giới trở thành nơi an toàn cho nền dân chủ.
Sự va chạm giữa các hệ thống này sẽ định hình lại thế kỷ 21 và phân chia lại thế giới. Trung Quốc sẽ coi trật tự dân chủ đang nổi lên là một chiến lược ngăn chặn được thiết kế để bóp nghẹt nền kinh tế và lật đổ chế độ của họ. Đáp lại, nước này sẽ tìm cách tự bảo vệ mình, bằng cách củng cố quyền kiểm soát quân sự trên các tuyến đường biển quan trọng, tạo ra các đặc khu kinh tế cho các tập đoàn của mình, đồng thời nâng đỡ các đồng minh chuyên chế trong lúc gieo rắc hỗn loạn nơi các nền dân chủ. Ngược lại, sự gia tăng đàn áp và gây hấn của Trung Quốc sẽ càng thúc đẩy Mỹ và các đồng minh xa lánh Bắc Kinh, và xây dựng một trật tự dân chủ. Để hiểu rõ hơn về vòng tròn luẩn quẩn này, hãy xem xét điều gì đã xảy ra vào tháng 03/2021, khi Canada, Anh, Mỹ và EU trừng phạt bốn quan chức Trung Quốc vì vi phạm nhân quyền ở Tân Cương. Dù các biện pháp trừng phạt chỉ mang tính giơ cao đánh khẽ, nhưng Bắc Kinh vẫn coi chúng là một cuộc tấn công vào chủ quyền của mình nên đã phản đối ngoại giao mạnh mẽ, đi kèm là một loạt các biện pháp trừng phạt kinh tế. EU đã đáp trả bằng cách đóng băng Thỏa thuận Toàn diện về Đầu tư EU-Trung Quốc.
Trong những năm tới, cuộc chiến thương mại và công nghệ giữa Trung Quốc và Mỹ – vốn bắt đầu từ thời chính quyền Trump – sẽ còn dữ dội hơn nữa khi cả hai bên đều cố gắng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình. Các quốc gia khác sẽ nhận thấy rằng bảo vệ lợi ích quốc gia bằng cách duy trì liên hệ với cả hai khối [Mỹ và Trung Quốc] ngày càng trở nên khó khăn. Thay vào đó, Trung Quốc và Mỹ sẽ thúc đẩy các đối tác phải chọn phe, buộc họ phải điều chỉnh lại chuỗi cung ứng của mình, và tuân theo toàn bộ hệ sinh thái công nghệ và tiêu chuẩn của một bên nhất định. Mạng Internet sẽ bị chia đôi. Khi người ta chuyển từ trật tự này sang trật tự khác – đấy là nếu họ có thể xin được "thị thực" – người ta cũng sẽ bước vào một vùng đất kỹ thuật số khác. Điện thoại của họ, cũng như các trang web yêu thích, tài khoản email, hoặc các ứng dụng truyền thông xã hội đều sẽ không hoạt động. Chiến tranh chính trị giữa hai hệ thống sẽ ngày càng gia tăng, vì mỗi bên đều cố gắng làm suy yếu tính chính danh trong nước và sức hấp dẫn quốc tế của đối thủ cạnh tranh. Các tuyến đường biển Đông Á sẽ bị tắc nghẽn bởi các tàu chiến, và các lực lượng đối đầu sẽ thường xuyên chạm trán ở cự ly gần.
Bế tắc sẽ chỉ kết thúc khi một bên đánh bại hoặc làm kiệt quệ bên kia. Hiện tại, lợi thế đang nghiêng về phía Mỹ, quốc gia có tài sản và năng lực quân sự mạnh hơn nhiều so với Trung Quốc, đồng thời có triển vọng tăng trưởng tốt hơn trong tương lai. Tính đến đầu thập niên 2030, Tập Cận Bình – một người nghiện thuốc lá, béo phì, với một công việc nhiều căng thẳng – sẽ ở tuổi 80, nếu như ông vẫn còn sống. Khủng hoảng nhân khẩu học của Trung Quốc sẽ tăng cao, dự báo quốc gia này sẽ mất khoảng 70 triệu người trưởng thành trong độ tuổi lao động, đồng thời có thêm 130 triệu người cao tuổi. Các khoản vay hàng trăm tỷ đô la của Trung Quốc ở nước ngoài sẽ đến hạn thanh toán và nhiều đối tác nước ngoài của Trung Quốc sẽ không thể hoàn trả tiền. Thật khó để tin là một quốc gia đang đối mặt với nhiều thách thức lại có thể duy trì trật tự quốc tế của mình một cách lâu dài, đặc biệt là khi đối mặt với kháng cự quyết liệt từ các quốc gia giàu có nhất thế giới.
Tuy nhiên, trật tự dân chủ do người Mỹ lãnh đạo cũng không chắc có thể tồn tại. Người Mỹ có thể phải đối mặt với khủng hoảng hiến pháp trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024 và rơi vào xung đột dân sự. Ngay cả khi điều đó không xảy ra, Mỹ và các đồng minh của họ vẫn có thể gặp rắc rối. Thế giới dân chủ đang trải qua cuộc khủng hoảng niềm tin và đoàn kết lớn nhất kể từ những năm 1930. Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy và làn sóng phản đối chủ nghĩa toàn cầu hóa đang trỗi dậy, gây khó khăn cho các hành động tập thể. Nhiều nền dân chủ Đông Á đang có tranh chấp lãnh thổ với nhau. Nhiều người Châu Âu coi Trung Quốc là một cơ hội kinh tế hơn là một mối đe dọa chiến lược, và nghiêm túc nghi ngờ độ tin cậy của Mỹ với tư cách là một đồng minh, sau khi đã phải gánh bốn năm thuế quan nặng nề và chịu đựng sự khinh miệt từ Tổng thống Donald Trump, người có thể sẽ sớm trở lại cầm quyền. Người Châu Âu cũng có quan điểm khác với người Mỹ về bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư, và các chính phủ Châu Âu lo ngại sự thống trị công nghệ của Mỹ cũng nhiều như lo ngại sự bá chủ kỹ thuật số của Trung Quốc. Ấn Độ có thể chưa sẵn sàng từ bỏ chính sách không liên kết truyền thống của mình để ủng hộ một trật tự dân chủ, đặc biệt là khi nước này đang trở nên đàn áp hơn đối với các vấn đề trong nước. Một trật tự được xây dựng xoay quanh giá trị dân chủ cũng sẽ chật vật khi hình thành quan hệ đối tác hữu ích với các chế độ chuyên chế vốn là đối tác quan trọng trong bất kỳ liên minh chống Trung Quốc nào, chẳng hạn như Singapore và Việt Nam. Nỗi sợ hãi Trung Quốc là một động lực mạnh mẽ, nhưng nó có thể không đủ mạnh để che đậy những rạn nứt tồn tại trong liên minh chống Trung Quốc đang nổi lên.
Nếu liên minh đó không củng cố được trật tự quốc tế của mình, thì thế giới sẽ dần rơi vào tình trạng vô chính phủ, một cuộc đấu tranh giữa các cường quốc bất hảo và các khối khu vực, nơi kẻ mạnh làm bất cứ những gì mình có thể, còn kẻ yếu chấp nhận những gì họ phải chấp nhận. Một số học giả giả định – hoặc hy vọng – rằng một thế giới không có trật tự sẽ tự tìm ra trật tự cho mình, rằng các cường quốc sẽ tạo ra những phạm vi ảnh hưởng ổn định và né tránh xung đột, hoặc sự lan rộng của thương mại quốc tế và những ý tưởng khai sáng sẽ tự nhiên giúp duy trì hòa bình và thịnh vượng toàn cầu. Nhưng hòa bình và thịnh vượng không tự nhiên mà có. Chúng là kết quả của sự hợp tác bền vững giữa các cường quốc – nghĩa là của một trật tự quốc tế.
Đặt niềm tin vào dân chủ
Lịch sử cho thấy rằng các thời kỳ đa cực ‘lỏng’ (fluid multipolarity) thường kết thúc trong thảm họa, bất kể ý tưởng có đột phá hay công nghệ có tiên tiến thế nào ở thời điểm đó. Giai đoạn sau của thế kỷ 18 chứng kiến đỉnh cao của thời kỳ Khai sáng ở Châu Âu, trước khi lục địa này rơi vào địa ngục của Chiến tranh Napoléon. Vào đầu thế kỷ 20, những bộ óc nhạy bén nhất của thế giới đã dự đoán về sự kết thúc của xung đột giữa các cường quốc, khi đường sắt, cáp điện báo và tàu hơi nước giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn. Thế nhưng cuộc chiến tồi tệ nhất trong lịch sử lại nhanh chóng nổ ra sau đó. Một thực tế đáng buồn và đầy nghịch lý là các trật tự quốc tế giữ vai trò tối quan trọng nhằm ngăn chặn hỗn loạn, nhưng chúng thường chỉ xuất hiện trong thời kỳ cạnh tranh giữa các cường quốc. Cạnh tranh với Trung Quốc là cuộc cạnh tranh đầy rủi ro đối với Mỹ và các đồng minh, nhưng đó có thể là cách duy nhất để tránh những mối nguy lớn hơn.
Để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, Mỹ và các đồng minh sẽ cần phải có một cái nhìn sáng suốt hơn về lợi ích của mình, so với những gì họ làm từ hồi Chiến tranh Lạnh. Khi ấy, lợi ích kinh tế của họ kết hợp chặt chẽ với lợi ích địa chính trị. Đơn giản thì lòng tham, chứ không phải thứ gì khác, có thể buộc các quốc gia tư bản liên kết với nhau để bảo vệ tài sản tư nhân trước sự tấn công dữ dội của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, giờ đây, sự lựa chọn không còn đơn giản như vậy nữa, bởi vì ngáng đường Trung Quốc sẽ dẫn đến những hệ lụy kinh tế đáng kể, đặc biệt là trong ngắn hạn. Nhưng cái giá đó có thể thấp hơn nhiều so với việc duy trì hoạt động kinh tế dài hạn với Bắc Kinh – ước tính, gián điệp Trung Quốc đã tước đoạt của chỉ riêng nước Mỹ khoảng 200 tỷ đến 600 tỷ USD mỗi năm – chưa nói đến vấn đề đạo đức và rủi ro địa chính trị khi hợp tác với một chế độ toàn trị tàn bạo với tham vọng của chủ nghĩa phục thù. Tuy nhiên, khả năng tính toán sáng suốt khi đối đầu với Trung Quốc dường như vượt quá khả năng của riêng bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là những nước phân cực như Mỹ và nhiều đồng minh dân chủ của họ.
Hy vọng, nếu có, đang nằm trong một cam kết mới đối với các giá trị dân chủ. Mỹ và các đồng minh có chung nguyện vọng về một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc dân chủ, và được ghi nhận trong các hiệp định và luật pháp quốc tế. Cốt lõi của một trật tự như vậy đang được rèn giũa trong ‘lò lửa’ cạnh tranh với Trung Quốc và có thể được uốn nắn thành một trật tự khai sáng nhất mà thế giới từng chứng kiến – một thế giới tự do đích thực. Nhưng để đạt được điều đó, Mỹ và các đồng minh sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc, và cùng nhau tiến về phía trước, trong một cuộc đấu tranh dài đằng đẵng.
Michael Beckley
Nguyên tác : Enemies of My Enemy – How Fear of China Is Forging a New World Order, Foreign Affairs, 14/02/2022
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 06/05/2022
Michael Beckley là Phó Giáo sư chuyên ngành Khoa học chính trị tại Đại học Tufts, và là tác giả của cuốn Unrivaled : Why America Will Remain the World’s Sole Superpower.
Ngày 25/03/2022 Nga tuyên bố hoàn thành giai đoạn một của 'chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine' và sẽ tập trung lực lượng để 'giải phóng vùng Donbass'. Đây là sự thú nhận thất bại của Putin sau hơn một tháng xâm lược Ukraine. Tuy nhiên tiến thì dễ nhưng rút thì rất khó, liệu quân đội Ukraine có để Putin rút lui trong trật tự và suôn sẻ hay không lại là một chuyện khác. Có thể Ukraine sẽ nhân cơ hội này giải phóng luôn vùng Donbass đang bị phe ly khai chiếm giữ. 'Cục xương' cho một hiệp ước hòa bình giữa Putin và Ukraine là bán đảo Crimea bị Nga sát nhập vào lãnh thổ hồi năm 2014. Zelensky không thể đồng ý nhường cho Nga hòn đảo này vì như thế sẽ là tội đồ của dân tộc nhưng cũng không thể tấn công chiếm lại hòn đảo này vì như thế là tuyên chiến với Nga.
'Cục xương' cho một hiệp ước hòa bình giữa Putin và Ukraine là bán đảo Crimea bị Nga sát nhập vào lãnh thổ hồi năm 2014.
Tương lai của Putin rất đen tối, tiến không được, lùi cũng không xong. Càng chậm rút quân khỏi Ukraine chừng nào thì càng sa lầy nặng chừng ấy. Rút lui cũng không dễ, Ukraine sẽ thừa thắng xông lên. Các biện pháp cấm vận của Mỹ và các nước dân chủ cũng không thể tháo gỡ một sớm một chiều. EU đã lên kế hoạch để chấm dứt phụ thuộc vào năng lượng của Nga một cách dứt khoát và rõ ràng. Đức sẽ giảm nhập khẩu dầu mỏ, khí đốt của Nga 1/3 trong mùa hè này, 2/3 đến cuối năm và sẽ chấm dứt hoàn toàn muộn nhất là năm 2030. Mỗi ngày EU trả cho Nga 600 triệu Euro (khoảng 700 triệu USD). Đây là một khoản tiền rất lớn và quan trọng đối với nước Nga.
Trước khi nổ ra cuộc chiến Putin-Ukraine, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nhận định rằng thế giới sẽ phải xét lại tiến trình Toàn cầu hóa và chủ nghĩa Tân phóng khoáng, là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự trỗi dậy của hai cường quốc độc tài Nga và Trung Quốc. Chúng cũng là nguyên nhân gây ra làn sóng dân túy và cuộc chiến của Putin. Thế giới đang phải trả giá cho những sai lầm chết người đó.
Mỹ và các nước dân chủ đã tìm mọi cách để tránh né chiến tranh với Nga và Trung Quốc nhưng rồi chiến tranh vẫn xảy ra và không ai biết được nó sẽ kết thúc như thế nào. Putin phần nào 'có lý' khi cho rằng 'nước Nga đang bị đe dọa'. Tuy nhiên mối đe dọa đó không phải đến từ Mỹ, NATO hay Ukraine mà là từ làn sóng dân chủ đang trào dâng trên khắp thế giới.
Cuộc chiến của Putin là nỗ lực 'tự vệ' cuối cùng của các chế độ độc tài trước làn sóng dân chủ. Trung Quốc, một đồng minh ý thức hệ của Nga, đáng ra phải tham chiến và chia lửa cho Putin như Nhật và Ý đã làm với Đức quốc xã trong thế chiến Hai. Tuy nhiên Trung Quốc gần như bỏ rơi Putin mặc dù không công khai thừa nhận. Các chế độ độc tài không hùng mạnh như nhiều người lo sợ. Cuộc xâm lăng Ukraine của Putin đã cho cả thế giới thấy được sự yếu kém của một cường quốc quân sự.
Số phận của Trung Quốc và Tập Cận Bình cũng không khá hơn Nga và Putin bao nhiêu.
Cuộc chiến của Putin cũng đã đặt dấu chấm hết cho phong trào Toàn cầu hóa (không kiểm soát) và chủ nghĩa Tân phóng khoáng. Thế giới đang sửa chữa sai lầm bằng cách ủng hộ tối đa và toàn diện cho Ukraine để đánh gục chế độ toàn trị của Putin. Phong trào toàn cầu hóa sẽ được thay thế bằng phong trào dân chủ hóa. Số phận của Trung Quốc và Tập Cận Bình cũng không khá hơn Nga và Putin bao nhiêu. Các nước dân chủ sẽ không thách thức và đe dọa Trung Quốc nhưng họ sẽ dần dần chấm dứt làm ăn và giao thương với Trung Quốc. Một luật chơi mới, một trật tự thế giới mới sẽ được thiết lập đó là các nước dân chủ chỉ hợp tác và giao thương với nhau hoặc với các nước đồng minh đang chuyển đổi thành tâm về dân chủ. Mọi hợp tác với các nước độc tài sẽ chấm dứt hoặc chỉ ở mức tối thiểu.
Đức là một trong những nước hưởng lợi rất lớn trong giao thương với Nga. Nguồn cung cấp năng lượng từ Nga vừa dồi dào, vừa gần, vừa rẻ. Thế nhưng Đức đã cùng EU lên kế hoạch chấm dứt nhập khẩu năng lượng từ Nga. Họ sẽ mua của Mỹ hoặc các nước Ả Rập, dù giá cao nhưng ổn định và không phụ thuộc hay bị bắt chẹt. Sẽ không còn chuyện cứ đâu bán rẻ là mua như trước đây. Các nhà máy thiết yếu sẽ được chuyển về chính quốc để tránh phụ thuộc vào các biến động trên thế giới. Với trọng lượng kinh tế chiếm gần 85% của thế giới các nước dân chủ hoàn toàn có thể làm được điều đó.
Trung Quốc và các nước độc tài sẽ rất khốn đốn khi kinh tế xuống dốc không phanh. Bất cứ cuộc khủng hoảng kinh tế nào cũng có thể dẫn đến bất ổn về chính trị. Trung Quốc đang co cụm lại trước khi tan vỡ và không còn khả năng đe dọa bất cứ ai. Thái độ 'hiền lành' của Trung Quốc trong cuộc chiến của Putin với Ukraine cho thấy rõ sự co cụm đó.
Trung Quốc và các nước độc tài sẽ rất khốn đốn khi kinh tế xuống dốc không phanh.
Đảng cộng sản Việt Nam sẽ rất bi đát khi giao thương với các nước dân chủ giảm sút. Như chúng tôi đã nhiều lần phân tích, sở dĩ Việt Nam được Mỹ và phương Tây ưu ái vì họ muốn kéo Việt Nam ra khỏi quĩ đạo của Trung Quốc và để chống lại âm mưu xâm chiếm biển Đông của Trung Quốc. Khi mối đe dọa từ Trung Quốc không còn nữa thì thế giới không còn lý do gì để o bế Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam quá thiển cận nên đã không nhận ra điều đó, họ vẫn cứ tiếp tục đu dây, lắc lư theo chiều gió với đường lối 'ngoại giao cây tre'. Nga và Trung Quốc không còn là chỗ dựa cho Việt Nam vì họ còn không thể lo cho chính họ. Sẽ đến lúc Đảng cộng sản Việt Nam phải năn nỉ để được đứng về phe dân chủ. Muốn thế thì họ phải dân chủ hóa đất nước. Đây là việc nằm ngoài khả năng của họ.
Sức ép của xã hội Việt Nam lên Đảng cộng sản sẽ rất lớn. Việt Nam không thể đóng cửa và quay lại thời bao cấp. Dù vậy nhiệm vụ dân chủ hóa Việt Nam phải do chính người Việt Nam đảm nhận. Sẽ không có ai giúp Việt Nam làm điều đó. Những người Việt Nam giàu có cũng như các đảng viên Đảng cộng sản có nhiều tài sản sẽ bị ảnh hưởng và mất mát rất lớn nếu xảy ra một cuộc khủng hoảng hay một cuộc cách mạng đường phố tại Việt Nam. Quyền lợi càng nhiều thì trách nhiệm càng lớn. Muốn hạ cánh an toàn và đảm bảo được tương lai thì họ phải ủng hộ cho một tổ chức chính trị dân chủ đứng đắn và có trách nhiệm để có thể chuyển hóa Việt Nam về dân chủ một cách êm thấm trong hòa bình.
Việt Hoàng
(30/03/2022)
Khác với Chiến tranh Lạnh, ít có khả năng kịch bản "hai chọi một" sẽ tái diễn trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc hiện nay.
Hai nhà nghiên cứu Vũ Lê Thái Hoàng và Nguyễn Huy tại Hà Nội vừa có bài viết trên The Diplomat phân tích quan hệ tam giác Mỹ, Nga, Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay. Zing trích dịch bài phân tích của hai tác giả.
Quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đang rất nồng ấm. Ảnh : Reuters.
Từ khi Chiến tranh Lạnh nổ ra giữa thế kỷ 20, cục diện giữa ba nước lớn là Mỹ, Trung Quốc, Nga (Liên Xô trước đây) luôn đóng vai trò chi phối trật tự quan hệ quốc tế. Từ những năm Xô - Trung hòa thuận, cho tới thời khắc lịch sử Nixon tới Trung Quốc, quan hệ tay ba ấy luôn là hai nước này đi với nhau để chống nước kia.
Quan hệ ngày càng nồng ấm giữa Moscow và Bắc Kinh lúc này, như một cách ứng phó lại chính sách cạnh tranh chiến lược của Washington, cho thấy xu hướng cũ trong cục diện tay ba đang tiếp tục hiện hữu. Tuy nhiên, những đặc điểm mới ngày càng phức tạp đòi hỏi cần có thêm những đánh giá trước khi có thể đưa ra nhận định về quan hệ Mỹ - Trung - Nga.
Quan hệ Mỹ - Trung dường như đã rơi vào vòng xoáy cạnh tranh chiến lược không thể đảo ngược, "Chiến tranh Lạnh 2.0" đã trở thành khái niệm ngày càng phổ biến khi nhắc tới sự đối đầu giữa hai nước.
Tuy nhiên, trong khi một số đặc điểm của cạnh tranh chiến lược hiện đại khá tương đồng với Chiến tranh Lạnh của thế kỷ 20, kỷ nguyên toàn cầu hóa của thế kỷ 21 đồng nghĩa đối đầu Washington - Bắc Kinh không diễn ra trong trật tự hai cực, mà là trật tự thế giới đa cực. Trong bối cảnh ấy, lợi ích đan xen phức tạp giữa các nước sẽ ảnh hưởng tới gần như mọi khía cạnh của cuộc đối đầu.
Trong trật tự đa cực hiện nay, dù có sự nổi lên của Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản hay một số nước khác, quyền lực chủ yếu vẫn tập trung vào bộ ba cũ, trong đó Mỹ và Trung Quốc ở hai cực. Cực còn lại thuộc về Nga.
Dù mô hình nhân khẩu học và sức mạnh kinh tế cho thấy Moscow không còn đủ sức duy trì vị thế siêu cường toàn cầu, kho vũ khí hạt nhân và sức mạnh quân sự của Nga, cùng chính sách ngoại giao quyết liệt và hiện diện ở nhiều điểm nóng toàn cầu vẫn giúp Điện Kremlin ngồi chung mâm với hai cực còn lại của bộ ba.
Những năm gần đây, khi Mỹ gia tăng áp lực lên các đối thủ chiến lược, Nga và Trung Quốc cũng mở rộng hợp tác song phương giữa hai nước tại các cơ chế đa phương.
Bằng cách phối hợp chặt chẽ, Bắc Kinh và Moscow cùng nhau đối trọng lại ảnh hưởng của Washington tại các diễn đàn đa phương, cản trở một trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt.
Tuần trước, trong cuộc điện đàm với ông Dương Khiết Trì - Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Đối ngoại Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thốt lên rằng quan hệ song phương hai nước đang ở giai đoạn "tốt đẹp nhất trong lịch sử".
Xu hướng này dĩ nhiên không bị các học giả cũng như giới hoạch định chính sách bỏ qua, đặc biệt ở Washington. Giới chức Mỹ, bất kể dưới thời Trump trước đây hay thời Biden hiện nay, thường xuyên báo động về mối liên kết ngày càng mật thiết giữa Nga và Trung Quốc.
Mới nhất, trong bản báo cáo có tên "Các xu hướng toàn cầu 2040", cộng đồng tình báo Mỹ đánh giá Moscow và Bắc Kinh "nhiều khả năng tiếp tục liên kết" trong tương lai. Câu hỏi là liên kết này sẽ được duy trì theo cách nào ?
Một mặt, liên kết Nga – Trung không nên bị coi chỉ có tính tạm thời, bất kể hai nước tồn tại những vấn đề chưa thể giải quyết. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Nga và Trung Quốc dựa trên khuôn khổ hợp tác lâu đời, với một mục tiêu chiến lược rõ ràng đã tồn tại thông qua hai văn kiện có từ 1997 và 2001.
Chừng nào hai nước vẫn tiếp tục mâu thuẫn với Mỹ và phương Tây, họ sẽ vẫn có động lực vượt qua những tồn tại trong quá khứ, phối hợp thúc đẩy một trật tự quốc tế có lợi hơn.
Mặt khác, quan hệ đối tác này vẫn tồn tại những giới hạn. Dù chung mục tiêu chống lại Mỹ và trật tự quốc tế do phương Tây dẫn dắt, Nga và Trung Quốc không chia sẻ những lợi ích tương đồng để duy trì hợp tác tự nhiên, bền vững.
Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, sự khác biệt ngày càng thể hiện rõ giữa một bên là nền kinh tế đơn sơ, phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của Nga, với bên kia là nền kinh tế đa dạng, hiện đại của Trung Quốc.
Một trong những lợi ích kinh tế song trùng lớn giữa hai nước là năng lượng. Nga cần một thị trường xuất khẩu ổn định để bù đắp thiệt hại vì bị phương Tây cấm vận. Trong khi đó, Bắc Kinh cần đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, tránh rủi ro trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ.
Công bằng mà nói, dù Nga và Trung Quốc đang duy trì quan hệ bền vững và sâu rộng, độ bền liên kết giữa hai nước vẫn phụ thuộc vào chính sách của Mỹ.
Tờ báo nhà nước Trung Quốc Global Times mới đây thậm chí đánh giá quan hệ gần gũi giữa Nga và Trung Quốc là hệ quả từ hành vi chèn ép từ "Mỹ và các nước đồng minh chủ chốt".
Vậy điều gì sẽ xảy ra khi "hành vi chèn ép" nói trên biến mất ?
Điều đáng lưu ý là, dù Nga và Trung Quốc đều có mâu thuẫn với Mỹ, không nước nào sẵn sàng đánh liều với nguy cơ đổ vỡ hoàn toàn quan hệ với nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào những thời điểm quan trọng, hợp tác với Mỹ luôn được ưu tiên.
Bằng chứng là những sự kiện như Mỹ mở đường cho Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, hay khi chính quyền Barack Obama – Dmitry Medvedev thúc đẩy tái khởi động quan hệ giai đoạn 2009-2011, những lúc ấy, quan hệ song phương Moscow – Bắc Kinh dường như trở thành thứ yếu.
Cho đến tận ngày nay, tâm lý bài Hoa, bài Nga, cùng nhận thức về mối đe dọa từ hai nước này nhắm vào vị thế siêu cường của Mỹ, đã dẫn đến chính sách cạnh tranh chiến lược của Washington với cả Moscow và Bắc Kinh.
Nhưng cạnh tranh chiến lược trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay có những khác biệt cơ bản với cuộc đối đầu mang tính một mất một còn trong Chiến tranh Lạnh, nơi các liên kết gần như đồng nghĩa với quan hệ liên minh.
Chính yếu tố này, cùng thực tế Mỹ không đủ nguồn lực cần thiết để xung đột toàn diện với đồng thời cả Nga và Trung Quốc, là lý do Washington không loại bỏ hoàn toàn hợp tác với hai đối thủ.
Tổng thống Mỹ Joe Biden. Ảnh : AP.
Tuy nhiên, bởi Trung Quốc ngày càng vươn lên trở thành đối thủ về hệ thống chính trị - xã hội với Mỹ, chính quyền Tổng thống Joe Biden hiện ưu tiên hợp tác với Moscow trong lĩnh vực mà hai bên có lợi ích chung.
Những chính sách cứng rắn với Nga vẫn còn đó, nhưng phần lớn chỉ còn mang tính biểu tượng, chủ yếu để thỏa mãn những lực lượng chống Moscow trong nội bộ Mỹ.
Hai bên đã đạt được những kết quả thực sự trong hợp tác song phương, như việc gia hạn hiệp định kiểm soát vũ khí New START, hay cuộc điện đàm sớm được tổ chức giữa lãnh đạo hai nước sau khi ông Biden nhậm chức, cũng như việc Mỹ không trừng phạt đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 2 từ Nga sang Châu Âu.
Tất cả những thành tựu ấy cho thấy một mục tiêu bao quát Washington theo đuổi, như Ngoại trưởng Antony Blinken miêu tả, là "mối quan hệ ổn định và dễ đoán hơn" với Nga.
Lúc này, động lực trong quan hệ tay ba đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng chú ý. Trong khi cạnh tranh Mỹ - Trung là cục diện dường như không thể thay đổi, cả hai đều tìm cách lôi kéo Nga.
Mỹ tiếp tục tập hợp các đồng minh và đối tác quanh một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, với Trung Quốc và Nga đóng vai "phản diện". Trong cục diện ấy, Bắc Kinh có nhiều lợi thế hơn để lôi kéo Moscow.
Dù vậy, Mỹ vẫn nắm trong tay những con bài có thể sử dụng trong quan hệ với Nga, mà đáng chú ý nhất là ảnh hưởng của Washington ở Châu Âu - vũ đài có lẽ là quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Điện Kremlin.
Nói cách khác, động lực quan hệ giữa ba nước lúc này không phải là "hai chọi một", thế trận dường như thiên về hướng "một chọi một" giữa Mỹ và Trung Quốc, cộng với sự hiện diện của Nga song hành cùng đối đầu ấy.
Không giống như những liên minh bền chặt của Chiến tranh Lạnh, những liên kết trong thời hiện đại cho phép các quốc gia linh hoạt hơn.
Vì thế Nga lúc này có quyền lựa chọn vị trí phù hợp, đồng thời làm việc với cả Mỹ và Trung Quốc, thay vì bị bó buộc đứng hẳn về một phe như Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh.
Trong xu thế toàn cầu hóa ổn định, cùng chênh lệch sức mạnh ngày càng gia tăng giữa Mỹ - Trung so với Nga, hình hài hiện tại của quan hệ ba bên sẽ tiếp tục tồn tại trong những năm tới.
Mỹ và Trung Quốc, những siêu cường về sức mạnh tổng hợp mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh chiến lược dài hạn, sẽ là "hằng số" của trật tự thế giới hiện đại. Trong khi đó, Nga chính là một "biến số".
Moscow sẽ không tìm cách đối đầu với Washington hay Bắc Kinh. Thay vào đó, Nga sẽ tận dụng tối đa những đòn bẩy mà nước này có, khai thác cuộc đối đầu giữa hai siêu cường để thu được lợi ích cho mình.
Về phần mình, trong khi tập trung các nguồn lực cho cạnh tranh với Trung Quốc, Mỹ sẽ tìm cách ổn định quan hệ với Nga, giữ cho liên kết Moscow - Bắc Kinh ở mức có thể kiểm soát, đảm bảo Điện Kremlin không làm đảo lộn cân bằng quyền lực giữa bộ ba, cũng như tránh thay đổi trật tự thế giới.
Sức mạnh quân sự giúp Nga vẫn ngồi ngang hàng với Mỹ và Trung Quốc. Ảnh : AP.
Hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng thống Biden và người đồng cấp Putin tới đây sẽ là cơ hội để Washington đặt ra những điều kiện rõ ràng cho quan hệ hợp tác với Nga, vừa không khiến các đồng minh Châu Âu bối rối, vừa giữ nguyên các thông điệp tổng thể từ trước đến nay của Washington trong quan hệ với Moscow.
Tương tự, Trung Quốc sẽ tiếp tục tập trung vào cạnh tranh với Mỹ, đồng thời làm sâu sắc thêm quan hệ với Nga.
Bắc Kinh có thể thúc đẩy quan hệ gần gũi giữa hai nhà lãnh đạo, biến chúng thành những liên kết lợi ích mới, cũng như những nỗ lực chung chống lại Mỹ tại các diễn đàn đa phương. Thậm chí, Trung Quốc có thể đưa ra những sáng kiến kinh tế hấp dẫn để dần lôi kéo Nga vào quỹ đạo của mình.
Mặt khác, Bắc Kinh sẽ không tìm cách đối đầu trực diện với Washington, thay vào đó là theo đuổi hợp tác trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, Covid-19, hay chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Với Nga, điều then chốt là tiếp tục duy trì vị trí của nước này trong thế cục giữa bộ ba, bất chấp ngày càng bị bỏ xa về kinh tế. Điều này đồng nghĩa Moscow phải tận dụng vị thế "biến số" của mình trong tương tác với hai cực còn lại, khiến Bắc Kinh và Washington phải nhượng bộ.
Nhưng, lòng tự hào dân tộc vốn có, cùng sự thiếu vắng lòng tin chiến lược với Trung Quốc và Mỹ, sẽ hạn chế phạm vi hợp tác đặc biệt trong các không gian mà Nga coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của nước này như Đông Âu hay Trung Á.
Về tổng thể, động lực trong cạnh tranh giữa ba cường quốc mang tới cả cơ hội và thách thức cho các quốc gia nhỏ và tầm trung.
Nếu quan hệ bộ ba được kiểm soát phù hợp, phát triển theo hướng dễ đoán định và hạn chế đối đầu, ba cường quốc sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi để các nước bên ngoài đồng thời hợp tác với mỗi cực của bộ ba mà không phải luôn lo lắng quan sát thái độ của hai cực còn lại.
Mặt khác, nếu căng thẳng leo thang, đối đầu tiếp diễn, phá vỡ sự cân bằng của quan hệ bộ ba và đẩy cạnh tranh chiến lược thành cuộc chiến ý thức hệ, các quốc gia bên ngoài cuối cùng sẽ buộc phải chọn phe. Toàn cầu hóa nhiều khả năng sẽ không để kết quả này xảy ra, nhưng nguy cơ thì luôn hiện hữu và không thể bị xem nhẹ.
Trong khi Châu Âu và Trung Đông sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng nổi bật với cả Trung Quốc, Mỹ và Nga, thì Ấn Độ - Thái Bình Dương đang nổi lên là vũ đài cho cạnh tranh giữa các cường quốc, đặc biệt khi xu thế xoay trục kinh tế và quân sự từ phương Tây sang phương Đông ngày càng rõ nét.
Ấn Độ - Thái Bình Dương sẽ là vũ đài cạnh tranh chính giữa các cường quốc. Ảnh : CNN.
Đa phần các quốc gia trong khu vực từng là một phần trong các cuộc xung đột vũ trang giữa các cường quốc, một số nước thậm chí phải chống lại các cường quốc.
Dù mỗi nước có lợi ích riêng biệt, tất cả đều coi duy trì hòa bình là ưu tiên an ninh quốc gia. Vì thế, trong khi các nước hoan nghênh cạnh tranh nước lớn giúp Ấn Độ - Thái Bình Dương phát triển thịnh vượng hơn, không quốc gia nào muốn đánh đổi lại bằng an ninh và ổn định khu vực.
Bởi vậy, các quốc gia đều mong đợi quan hệ bộ ba phù hợp với lợi ích của khu vực. Điều này đồng nghĩa với tôn trọng các cơ chế khu vực như ASEAN, coi các quốc gia trong khu vực là những đối tác thực sự có chung lợi ích, thay vì con tốt địa chính trị, cũng như kiến tạo hơn nữa cho hòa bình, an ninh và thịnh vượng của khu vực.
Nếu bộ ba có thể kiềm chế cạnh tranh, đối đầu nhau trong khi chấp nhận lợi ích hợp pháp của các nước khác, tranh giành ảnh hưởng nhưng tạo điều kiện cho hợp tác vì lợi ích chung, khi đó cạnh tranh giữa các cường quốc sẽ là điều được khu vực đón nhận.
Vu Le Thai Hoang và Huy Nguyễn
Nguyên tác : The Modern China-Russia-US Triangle, The Diplomat, 04/06/2021
Duy Anh dịch
Nguồn : Zing, 07/06/2021
Trọng Thành, RFI, 20/04/2021
Lần đầu tiên Liên Hiệp Châu Âu đưa ra một chiến lược chung về khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương trong bối cảnh căng thẳng địa - chính trị ngày càng gia tăng tại khu vực, đặc biệt với thế đối đầu Mỹ - Trung.
Khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, trải dài từ bờ đông Châu Phi đến các quốc đảo Thái Bình Dương, chính thức trở thành địa bàn trọng yếu, mà Liên Hiệp Châu Âu muốn khẳng định vai trò của một tác nhân chủ chốt.
Theo AFP, thông cáo chung được công bố sau cuộc họp của ngoại trưởng 27 thành viên Liên Âu hôm 19/04/2021, nhấn mạnh đến mục tiêu thúc đẩy môi trường thuận lợi cho kinh tế "một trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc, các điều kiện cạnh tranh công bằng và một môi trường mở và công bằng đối với thương mại và đầu tư". Các nước Liên Âu muốn bảo đảm là tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, các tuyến giao thông hàng hải phải là các tuyến đường "tự do và mở, nơi luật pháp quốc tế triệt để được tôn trọng".
Tên gọi chính thức của chiến lược mới của Liên Âu là "Chiến lược hợp tác của Liên Hiệp Châu Âu tại vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương".
Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Liên Âu không trực tiếp chỉ trích Trung Quốc, quốc gia mà Bruxelles đã xác định là cùng lúc vừa là "đối tác thương mại, thế lực cạnh tranh kinh tế và đối thủ mang tính hệ thống". Tuy nhiên, chiến lược của Liên Âu cũng khẳng định rõ: "xu thế hiện nay là cạnh tranh địa - chính trị ngày càng dữ dội, làm gia tăng căng thẳng trong lĩnh vực thương mại và chuỗi cung ứng, cũng như các các lĩnh vực công nghệ, chính trị và an ninh".
Thông cáo chung đặc biệt ghi nhận tình trạng nhân quyền tồi tệ đi cùng với các căng thẳng địa chính trị ngày càng đe dọa "ổn định và an ninh của khu vực, và rộng hơn, với hệ quả là tác động trực tiếp đến các lợi ích của Liên Hiệp Châu Âu". Liên Âu khẳng định chiến lược dài hạn với khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương phải dựa trên việc bảo vệ "dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp quyền và sự tôn trọng luật pháp quốc tế".
Tăng cường các quan hệ đối tác với khu vực là giải pháp hàng đầu của Liên Hiệp Châu Âu. Cụ thể, Châu Âu muốn phát triển quan hệ với "các đối tác cùng chia sẻ các giá trị chung", trong các lĩnh vực an ninh và quốc phòng. Liên Âu ủng hộ "vai trò trung tâm của khối ASEAN" trong "kiến trúc khu vực", cũng như tầm quan trọng của cơ chế đối thoại Á – Âu (ASEM), có sự tham gia của Trung Quốc.
Tăng cường hợp tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, phối hợp với các đối tác khu vực để bảo đảm một tiến trình chấn hưng kinh tế - xã hội hậu Covid-19 hướng đến sự phát triển bền vững, công bằng là các trọng tâm khác trong chiến lược nói trên.
Từ nay đến 09/2021, Ủy Ban Châu Âu và lãnh đạo ngoại giao Liên Âu có trách nhiệm thảo ra một lộ trình hành động đối với khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Trọng Thành
Nguồn : RFI, 2004/2021
**************************
VOA, 19/04/2021
Trung Quốc đang tăng cường quan hệ với các đối tác chuyên quyền như Nga và Iran, cũng như các nước khu vực phụ thuộc kinh tế, đồng thời sử dụng các biện pháp trừng phạt và đe dọa để cố gắng phá vỡ các liên minh mà Hoa Kỳ đang xây dựng để chống lại họ, theo Reuters.
Các nhà ngoại giao và phân tích gia cho rằng điều đáng lo ngại cho Bắc Kinh là chính quyền của Tổng thống Joe Biden đã bắt tay cùng các nền dân chủ khác để tăng cường đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy, quyết đoán hơn trên toàn cầu về nhân quyền và các vấn đề an ninh khu vực như như tranh chấp Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết trong một tuyên bố gửi cho Reuters : "Trung Quốc luôn kiên quyết phản đối việc phía Hoa Kỳ tham gia vào khối chính trị có chung đường lối tư tưởng, và kết hợp để hình thành các bè phái chống Trung Quốc".
"Chúng tôi hy vọng các nước có liên quan thấy rõ lợi ích của chính họ... và không bị biến thành công cụ của Mỹ chống Trung Quốc", Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết thêm.
Sau các cuộc đàm phán đầy sóng gió vào tháng trước giữa các nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc tại Anchorage, Bắc Kinh dường như cũng gấp rút trao đổi với các quốc gia như Nga, Iran và Triều Tiên, những nước cũng đang chịu các lệnh trừng phạt do Mỹ dẫn đầu.
"Trung Quốc rất lo lắng về chính sách ngoại giao liên minh của Hoa Kỳ", ông Li Mingjiang, phó giáo sư thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, chỉ ra điều mà ông gọi là nỗ lực "túm tụm tìm hơi ấm" với các chính phủ bị phương Tây xa lánh.
Vài ngày sau cuộc họp ở Alaska, nhà ngoại giao hàng đầu của chính phủ Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ Vương Nghị, đã tiếp Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov, người kêu gọi Moscow và Bắc Kinh đẩy lùi điều mà ông gọi là chương trình ý thức hệ của phương Tây.
Trong khi đó, Chủ tịch Tập Cận Bình đã trao đổi thông điệp với nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un, kêu gọi quan hệ đối tác sâu rộng hơn với một quốc gia khác mà tham vọng vũ khí hạt nhân đã dẫn tới các lệnh trừng phạt.
Tại cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga hôm 16/4, hai nước đã trình bày một mặt trận thống nhất chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc, về các vấn đề từ đảo tranh chấp ở Biển Hoa Đông mà Nhật gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, đến các vấn đề nhân quyền ở khu vực Hong Kong và Tân Cương của Trung Quốc.
Theo Reuters
**********************
Lãnh đạo Mỹ, Nhật Bản thống nhất chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc
VOA, 17/04/2021
Tổng thống Joe Biden ngày thứ Sáu thể hiện sự thống nhất với Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga chống lại một nước Trung Quốc ngày càng quyết đoán khi nhà lãnh đạo Mỹ tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tiếp đầu tiên tại Nhà Trắng kể từ khi nhậm chức.
Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga đi từ Phòng Bầu Dục ra phát biểu trong một cuộc họp báp tại Vườn Hồng của Nhà Trắng, ngày 16 tháng 4, 2021, ở Washington.
Cuộc hội đàm cho tổng thống Đảng Dân chủ cơ hội để tiến xa hơn với cam kết của ông hồi sinh các liên minh của Mỹ vốn đã bị rạn nứt dưới thời người tiền nhiệm Đảng Cộng hòa Donald Trump.
Trung Quốc đứng đầu chương trình nghị sự, nêu bật vai trò trung tâm của Nhật Bản trong các nỗ lực của Mỹ nhằm đối đầu với Bắc Kinh. Hai nhà lãnh đạo đề cập đến một loạt các vấn đề địa chính trị trong một tuyên bố chung, bao gồm "tầm quan trọng của hòa bình và ổn định ở Eo biển Đài Loan", một sự chỉ trích nhắm vào áp lực quân sự ngày càng tăng của Bắc Kinh đối với hòn đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
"Hôm nay Thủ tướng Suga và tôi tái khẳng định sự ủng hộ vững như bàn thạch của chúng tôi đối với liên minh Hoa Kỳ-Nhật Bản và đối với nền an ninh chung của chúng ta", ông Biden nói trong một cuộc họp báo chung tại Vườn Hồng của Nhà Trắng, gọi các cuộc thảo luận là "mang lại kết quả".
"Chúng tôi cam kết hợp tác cùng nhau đối mặt với những thách thức từ Trung Quốc và các vấn đề như Biển Đông Trung Hoa, Biển Nam Trung Hoa, cũng như Triều Tiên, để bảo đảm tương lai của một vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở".
Các mối quan tâm cấp bách khác tại cuộc hội đàm bao gồm việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động quân sự gần Đài Loan, thắt chặt kiểm soát Hong Kong và đàn áp người Uighur theo Hồi giáo ở Tân Cương.
Ông Suga nói ông và ông Biden đã đồng ý về sự cần thiết của các cuộc thảo luận thẳng thắn với Trung Quốc trong bối cảnh các hoạt động của Bắc Kinh ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trong một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn đưa ra vào ngày thứ Bảy, đại sứ quán Trung Quốc tại Washington nói Bắc Kinh "kiên quyết phản đối" tuyên bố chung, và rằng Đài Loan, Hong Kong và Tân Cương là chuyện nội bộ của Trung Quốc.
Tuyên bố chung đã "hoàn toàn vượt ra ngoài phạm vi phát triển bình thường của quan hệ song phương", gây tổn hại đến các lợi ích của các bên thứ ba cũng như hòa bình và ổn định ở Châu Á - Thái Bình Dương, đại sứ quán nói.
Phát biểu này là một nỗ lực nhằm chia rẽ khu vực mà "chắc chắn sẽ xúc tiến với mục đích phương hại những nước khác và cuối cùng là phương hại chính họ", đại sứ quán nói thêm.
Hội nghị thượng đỉnh - là cuộc họp trực tiếp đầu tiên của ông Biden với một nhà lãnh đạo nước ngoài trên cương vị tổng thống - diễn ra chỉ vài ngày sau khi Trung Quốc điều 25 máy bay, bao gồm cả máy bay chiến đấu và máy bay ném bom có năng lực hạt nhân, đến gần Đài Loan, nơi mà Bắc Kinh coi là một tỉnh ly khai.
"Tôi tránh đề cập đến chi tiết, vì nó liên quan đến những trao đổi ngoại giao, nhưng đôi bên đều công nhận tầm quan trọng của hòa bình và ổn định ở Eo biển Đài Loan giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, điều này đã được tái khẳng định nhân dịp này", ông Suga nói.
Tuyên bố chung của hai nhà lãnh đạo đề cập đến Đài Loan lần đầu tiên kể từ năm 1969, trước khi Tokyo bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh, sử dụng cách diễn đạt của bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng của cả hai nước sau cuộc họp vào tháng trước.
Trước đó đã có sự chú ý về câu chữ được dùng để nói về Đài Loan và các vấn đề nhạy cảm khác, do Tokyo thận trọng về sự cần thiết phải cân bằng mối quan tâm an ninh của mình với mối quan hệ kinh tế sâu sắc của Nhật Bản với Trung Quốc.
Cạnh tranh kĩ thuật số, nhân quyền
Chính phủ Đài Loan hoan nghênh hai nước thể hiện sự ủng hộ và kêu gọi Trung Quốc hành động có trách nhiệm.
"Chúng tôi hy vọng nhà chức trách Bắc Kinh sẽ hoàn thành trách nhiệm của mình với tư cách là một phần của khu vực và Eo biển Đài Loan và cùng đóng góp tích cực vào sự ổn định và hạnh phúc của khu vực", phát ngôn viên phủ tổng thống Đài Loan Xavier Chang nói trong một phát biểu.
Trong một hành động khác nhắm vào Trung Quốc, ông Biden nói trong cuộc họp báo rằng Mỹ và Nhật Bản sẽ cùng đầu tư vào các lĩnh vực như 5G, trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, nghiên cứu hệ gen và chuỗi cung ứng bán dẫn.
Tuyên bố chung nói Mỹ đã cam kết 2,5 tỉ đôla và Nhật Bản 2 tỉ đôla để tăng cường năng lực cạnh tranh kĩ thuật số bao gồm cả mạng 5G và xa hơn 5G.
"Nhật Bản và Hoa Kỳ đều dốc sức đầu tư vào việc canh tân và hướng tới tương lai", ông Biden nói. "Điều đó bao gồm việc bảo đảm rằng chúng tôi đầu tư và bảo vệ các công nghệ sẽ duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của chúng tôi".
Phát biểu sau đó tại một viện nghiên cứu chính sách ở Washington, ông Suga nói Nhật Bản sẽ nói những gì cần nói với Trung Quốc và lên tiếng về nhân quyền, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập một mối quan hệ ổn định, mang tính xây dựng với Bắc Kinh.
Tuyên bố chung của hai nhà lãnh đạo cho biết họ "có cùng những lo ngại nghiêm trọng" về tình hình nhân quyền ở Hong Kong và khu vực Tân Cương của Trung Quốc, nơi mà Washington nói Bắc Kinh đang tiến hành một cuộc diệt chủng nhắm vào người Uighur theo Hồi giáo. Trung Quốc phủ nhận những vi phạm nhân quyền.
Nhật Bản đã bị chỉ trích vì không có hành động mạnh mẽ hơn đối với cáo buộc vi phạm nhân quyền vì lo ngại phản ứng dữ dội có thể gây tổn hại cho các công ty có hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của họ.
Tại cuộc họp báo ở Nhà Trắng, ông Suga nói rằng ông đã nói với ông Biden rằng ông quyết xúc tiến Thế vận hội Mùa hè ở Nhật Bản và ông Biden đã bày tỏ sự ủng hộ. Nhật Bản đang chật vật kiểm soát những ca nhiễm virus corona đang gia tăng trong khi chưa đầy 100 ngày nữa là đến ngày khai mạc theo lịch trình.
"Tôi đã nói với tổng thống về quyết tâm của tôi trong việc hiện thực hóa Thế vận hội Olympic và Paralympic Tokyo vào mùa hè này như một biểu tượng của sự thống nhất toàn cầu", ông Suga nói.
Khi họ ngồi xuống hội đàm, ông Biden, ông Suga và phái đoàn của hai nước đều đeo khẩu trang, tuân thủ các quy định bảo vệ chống lại sự lây lan của Covid-19.
Ông Biden dường như quyết tâm khởi động một mối quan hệ suôn sẻ với ông Suga sau bốn năm ông Trump đôi khi chỉ trích các đồng minh ở Châu Á và các nước khác về điều mà ông nói là họ chi tiền không đủ cho quốc phòng hoặc tài trợ không đủ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ và đặt câu hỏi về giá trị của các liên minh quân sự nền tảng.
Với cuộc hội kiến ông Suga và một hội nghị thượng đỉnh khác đã được lên lịch với Hàn Quốc vào tháng 5, ông Biden hy vọng sẽ thúc đẩy các nỗ lực chung với Úc, Ấn Độ và Nhật Bản trong một nhóm được gọi là Bộ tứ, cũng như với Hàn Quốc, để chống lại Trung Quốc và địch thủ lâu năm của Mỹ là Triều Tiên.
Theo Reuters
**********************
BBC, 18/04/2021
Vài giờ sau khi Nhật Bản và Hoa Kỳ nêu tên Đài Loan trong tuyên bố thượng đỉnh, Trung Quốc đã phản pháo lại bằng một thông cáo.
Tổng thống Biden họp báo với Thủ tướng Suga vào 16/4 sau khi hội đàm với nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên tại Nhà Trắng kể từ khi ông nhậm chức.
Ngoài Đài Loan, tuyên bố chung Mỹ - Nhật nêu quan ngại của hai đồng minh đối với Hong Kong và các vấn đề nhân quyền ở Tân Cương.
"Những vấn đề này thuộc lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và không được phép can thiệp.
"Chúng tôi bày tỏ quan ngại mạnh mẽ và kiên quyết phản đối các bình luận có liên quan trong Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo", người phát ngôn tại Đại Sứ quán Trung Quốc tại Tokyo cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Bảy.
Đài Loan, Hong Kong và Tân Cương thuộc "công việc nội bộ của Trung Quốc", tuyên bố cho biết thêm.
"Những bình luận này đã vượt xa phạm vi phát triển bình thường của quan hệ song phương", Đại sứ quán Trung Quốc cho biết thêm.
"Kế hoạch của Hoa Kỳ và Nhật đi ngược lại xu hướng thời đại và ý chí của người dân trong khu vực. Mặc dù nó được thiết kế để làm suy yếu nước khác, nhưng cuối cùng nó sẽ chỉ làm tổn thương chính họ".
Sau hội nghị thượng đỉnh tại Washington vào thứ Sáu, Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã ra một tuyên bố đề cập đến Đài Loan, và nói rằng : "Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình và ổn định trên eo biển Đài Loan và khuyến khích giải quyết hòa bình các vấn đề giữa hai bờ eo biển".
Lần cuối cùng Nhật Bản và Hoa Kỳ đề cập đến Đài Loan trong một tuyên bố như vậy là vào năm 1969 sau cuộc gặp thượng đỉnh giữa Thủ tướng Nhật Bản khi đó là ông Sato Eisaku và Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon.
Điều này xảy ra trước khi cả Nhật và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào những năm 1970.
Tuyên bố chung lần này của hai ông Suga và Biden nói chia sẻ mối quan ngại của họ về các hoạt động của Trung Quốc không phù hợp với trật tự dựa trên luật lệ quốc tế, bao gồm việc sử dụng các hình thức cưỡng bức kinh tế và các hình thức khác.
"Chúng tôi phản đối bất kỳ nỗ lực đơn phương nào nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Hoa Đông", tuyên bố cho biết và đề cập đến quần đảo Senkaku nằm gần Đài Loan.
Các đảo nhỏ, được Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, do Nhật Bản quản lý nhưng Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, và Bắc Kinh thường xuyên đưa tàu vào vùng biển gần đó.
Tuyên bố cũng đề cập đến những tuyên bố ngày càng lấn lướt của Trung Quốc đối với lãnh thổ ở Biển Đông. "Chúng tôi nhắc lại sự phản đối của chúng tôi đối với các tuyên bố và hoạt động hàng hải trái pháp luật của Trung Quốc ở Biển Đông và tái khẳng định lợi ích chung mạnh mẽ của chúng tôi đối với một Biển Đông tự do và mở được điều chỉnh bởi luật pháp quốc tế".
Tuần qua Tổng thống Hoa Kỳ Biden đã cử một phái đoàn không chính thức, bao gồm các cựu Thứ trưởng Ngoại giao Richard Armitage và James Steinberg tới Đài Bắc, như một dấu hiệu cho thấy cam kết của ông đối với hòn đảo này.
Chuyến thăm diễn ra vài ngày sau khi 25 máy bay chiến đấu của Trung Quốc bay vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan, đây là lần mới nhất trong một loạt các cuộc xâm nhập không phận Đài Loan của Trung Quốc.
Tờ Hoàn cầu Thời báo của Đảng cộng sản Trung Quốc cũng công kích tuyên bố của Nhật-Mỹ trong một bài xã luận, nói rằng đã đến lúc hai nước phải hành xử một "cách có trách nhiệm".
"Có vẻ như mục đích duy nhất của Hoa Kỳ và Nhật Bản để củng cố liên minh hàng có nhiều thập niên của họ dưới thời chính quyền mới của Mỹ là chuyển hướng nhằm chống lại Trung Quốc, một tín hiệu mà hai nước nên tránh gửi đi khi nó mang tâm lý thiên vị và ý thức hệ Chiến tranh Lạnh", báo này viết.
"Cả Hoa Kỳ và Nhật Bản nên hành xử theo cách xây dựng và có trách nhiệm hơn", báo này nói thêm. "Sự cấu kết bài Trung của họ sẽ chỉ tạo ra kết cục cùng mất mát, chẳng mang lại lợi ích gì cho lợi ích của riêng ai, chứ chưa nói đến đóng góp cho hòa bình và ổn định khu vực".
Trong khi đó, Đài Loan hoan nghênh tuyên bố của Suga-Biden, trong đó Bộ Ngoại giao Đài Loan bày tỏ "lòng biết ơn chân thành" về việc "công nhận tầm quan trọng của hòa bình và ổn định trong khu vực hai bên eo biển Đài Loan".
"Đài Loan, nằm ở vị trí quan trọng trong chuỗi đảo thứ nhất, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định và thịnh vượng của khu vực và cũng có chung cảm nhận với các nước trong khu vực về các mối đe dọa và xâm lược bằng đường đất liền, hàng hải và hàng không", Bộ ngoại giao Đài Loan cho biết .
Bộ Ngoại giao Đài Loan cũng đã tweet : "Chúng tôi hoan nghênh tuyên bố của @POTUS & @sugawitter [Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Nhật], trong đó họ nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình và ổn định tại hai bên eo biển Đài Loan".
Nguồn : BBC, 18/04/2021
**********************
Tình báo : Trung Quốc đẩy mạnh bá chủ toàn cầu là đe dọa an ninh hàng đầu của Mỹ
VOA, 15/04/2021
Việc Trung Quốc đẩy mạnh quyền lực toàn cầu là mối đe dọa an ninh quốc gia hàng đầu của Mỹ, trong khi những nỗ lực của Nga phá hoại ảnh hưởng của Mỹ để tự khẳng định họ một quốc gia đóng vai trò chính cũng là một thách thức, theo phúc trình tình báo Mỹ công bố ngày 13/4.
GIám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ, bà Avril Haines.
Đánh giá Đe dọa Thường niên 2021 trình bày quan điểm của các cơ quan tình báo Mỹ về những vấn đề chính sách ngoại giao quan trọng mà Tổng thống Joe Biden đối mặt trong năm đầu tiên nhậm chức.
Trong khi Trung Quốc và Nga được xem là những thách thức hàng đầu, thì Iran và Triều Tiên cũng sẽ là những thử thách đối với an ninh quốc gia Mỹ, phúc trình nói.
Phúc trình, gởi đến Quốc hội, sẽ là chủ đề thảo luận trong những cuộc họp của ủy ban tình báo Thượng và Hạ viện vào ngày 14/4 và 15/4. GIám đốc Tình báo Quốc gia, Avril Haines, và Giám đốc Cục Tình báo Trung ương William Burns sẽ công khai điều trần lần đầu tiên kể từ khi được chuẩn nhận dưới thời chính quyền Biden.
Phúc trình nói Đảng cộng sản Trung Quốc cầm quyền sẽ đẩy mạnh "nỗ lực toàn chính phủ để lan truyền ảnh hưởng của Trung Quốc, phá hoại ảnh hưởng của Mỹ, chia rẽ Washington với đồng minh và đối tác" và nuôi dưỡng việc chấp nhận hệ thống độc tài của Trung Quốc.
Cùng lúc, lãnh đạo Trung Quốc sẽ "tìm những cơ hội chiến thuật" để giảm căng thẳng với Mỹ khi phù hợp với những lợi ích của họ, phúc trình nói.
Vẫn theo phúc trình, Trung Quốc có khả năng tấn công mạng đáng kể mà ở mức tối thiểu có thể gây nên những gián đọan cục bộ tạm thời cho hạ tầng cơ sở trọng yếu trong nước Mỹ.
Nga tìm cách phá hoại ảnh hưởng của Mỹ, gieo rắc bất đồng giữa các nước Tây phương và bên trong liên minh Tây phương, cũng như xây dựng khả năng "định hình các sự kiện toàn cầu như một tác nhân chính", phúc trình nói và thêm rằng Nga cũng "vẫn là mối đe dọa an ninh mạng hàng đầu".
Đánh giá của các cơ quan tình báo vừa kể về chương trình hạt nhân và ý định của Iran nói rằng Iran "hiện không từ bỏ vũ khí hạt nhân- những hoạt động phát triển mà chúng ta đoán là cần thiết cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân".
Tuy nhiên tình báo Mỹ nói, sau khi cựu Tổng thống Donald Trump rút Mỹ ra khỏi hiệp ước hạt nhân Iran 2015 với các cường quốc thế giới, Tehran "tái tục một số hoạt động" vi phạm thỏa thuận.
Iran sẽ là "mối đe dọa tiếp tục của các quyền lợi của Mỹ và đồng minh" tại Trung Đông, tiếp tục làm việc để phá hoại ảnh hưởng của Mỹ, phúc trình nói.
Triều Tiên, tình báo Mỹ nói, "sẽ là mối đe dọa ngày càng tăng của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản" vào lúc nước này nâng khả năng quân sự qui ước. Quan tâm của Bình Nhưỡng chế tạo vũ khí giết người hàng loạt sẽ vẫn là quan ngại chính, phúc trình nói.
Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un "vẫn mạnh mẽ cam kết vũ khí hạt nhân của nước này, Triều Tiên hiện đang tích cực nghiên cứu và phát triển phi đạn đạn đạo" và vẫn quan tâm đến việc phát triển vũ khí hóa học và sinh học, phúc trình nói.
Theo Reuters
Tại sao Trung Quốc phá vỡ trật tự thế giới khi có thể chiếm lĩnh trật tự đó ?
Trung Quốc đang ở giữa một trận chiến khốc liệt để vãn hồi danh tiếng của mình
Bắc Kinh bị chỉ trích trong vấn đề đại dịch và quyết định kiểm soát Hồng Kông, do đó các quan chức của nước này đang phải chữa cháy. Cách tiếp cận của họ gồm hai phần. Đầu tiên, nêu bật thành công trong việc chống lại virus corona và che giấu những sai lầm ban đầu. Thứ hai, tấn công những ai tìm cách làm hỏng hình ảnh Trung Quốc.
Tập Cận Bình trao quyền trận chiến này cho cấp dưới của mình. Khi Hoa Kỳ chùn bước và thế giới lâm vào khủng hoảng, Tập Cận Bình bận bịu với một chiến dịch lớn hơn : tiếp quản các tổ chức quốc tế như Tổ chức Y tế Thế giới và Liên Hợp Quốc,…
Kế hoạch có một tiêu đề lành tính và vô hại – "Cộng đồng với một tương lai chung cho nhân loại" lần đầu tiên được đề xuất bởi Tập Cận Bình vào năm 2013 và trình bày với Liên Hợp Quốc hai năm sau đó, khái niệm này xoay quanh tầm quan trọng của tham vấn và đối thoại, bao gồm và đồng thuận, hợp tác cùng có lợi và chia sẻ lợi ích. Tóm lại là hoàn toàn mơ hồ. Kế hoạch không chứa bất kỳ hành động cụ thể và không có cái nhìn hữu hình về trật tự thế giới mới.
Trái với suy đoán, Trung Quốc luôn nói rằng họ không tìm cách phá vỡ trật tự thế giới. Chúng ta phải lắng nghe họ. Tại sao Trung Quốc lại bận tâm phá vỡ trật tự thế giới khi họ có thể chiếm lĩnh lấy nó ?
Xét cho cùng, Trung Quốc là phía hưởng lợi lớn nhất của toàn cầu hóa. Bắc Kinh đã sử dụng một cách có hệ thống các thể chế đa phương do phương Tây lãnh đạo, như Tổ chức Thương mại Thế giới, để thúc đẩy lợi ích và ảnh hưởng của nước này. Mặc dù Trung Quốc tiếp tục nỗ lực để tăng cường kiểm soát Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nhưng Bắc Kinh có trong tay quyền lãnh đạo của bốn cơ quan chủ chốt của Liên Hợp Quốc, nơi đặt ra các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế, ví dụ cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc là Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới chẳng hạn.
Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc hiện là nhà đóng góp tài chính lớn thứ hai cho Liên Hợp Quốc : họ đã liên tục tăng cường ảnh hưởng của mình trong các tổ chức quốc tế trong nhiều năm.
Khác xa với việc mở một chiến trường mới, kế hoạch của Trung Quốc là chiến đấu trên vùng lãnh thổ quen thuộc. Thông điệp của nước này với thế giới rất đơn giản : Trung Quốc sẵn sàng tiếp quản, trong khi Hoa Kỳ đang thoái lui các trách nhiệm toàn cầu.
Đối với một thế giới kiệt quệ và nghèo nàn bởi đại dịch, đây là một đề xuất hấp dẫn. Hiếm khi ai nghĩ về tầm quan trọng của Bắc Kinh đối với trật tự thế giới. Phát triển và ổn định (không phải tham vọng lãnh đạo của Trung Quốc), là ưu tiên của hầu hết các quốc gia.
Có những lý do tốt để đánh cược trận này. Đại dịch có thể đã bộc lộ những thiếu sót trong hệ thống Trung Quốc, nhưng nó cũng đã bộc lộ nhiều thiếu sót ở phương Tây.
Hoa Kỳ và Châu Âu, từng gánh nặng với những thách thức chính trị và xã hội, đang đấu tranh để chống lại một loại virus mà họ không được chuẩn bị. Các thể chế toàn cầu mà họ tạo ra và nuôi dưỡng sau Thế chiến II không có định hướng. Phần còn lại của thế giới đã phải làm hết sức mình.
Trung Quốc vấp ngã khi bắt đầu đại dịch, đó là sự thật. Nhưng phương Tây dường như đang mất đi nền tảng đạo đức. Vào thời điểm Hoa Kỳ đang ngưỡng đầu bầu cử Tổng thống, Trung Quốc hy vọng sẽ lấy lại được niềm tin của thế giới.
Thật khó để duy trì sự lạc quan khi đối mặt với một triển vọng (Trung Quốc làm ông chủ thế giới) như vậy.
Thế giới cần một sự cân bằng – vào lúc này, không có quốc gia nào ngoài Hoa Kỳ có thể cân được điều này. Ở mức độ thực tế, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ rất là cần thiết. Nhưng xa hơn nữa, thế giới cần sự lãnh đạo của Hoa Kỳ để nhắc nhở rằng tôn trọng tự do và phẩm giá con người là con đường tốt nhất cho một tương lai chung cho nhân loại.
Mô hình Bắc Kinh – nơi một nhà nước độc đảng thúc đẩy mạnh mẽ cải thiện kinh tế so với lựa chọn chính trị tự do – có vẻ hấp dẫn đối với một số người. Nhưng nó không thể được áp dụng rộng rãi. Nền văn hóa và lịch sử của Trung Quốc khiến phương pháp chỉ có thể hoạt động ở đó. Dân chủ, mặt khác, dựa trên các nguyên tắc phổ quát có thể được tuân theo ở mọi nơi, bởi mọi người.
"Ngồi tốt trong thuyền đánh cá", một câu nói nổi tiếng của Trung Quốc nói, sẽ "bất chấp gió to và sóng lớn". Chúng ta có thể yên tâm rằng Trung Quốc có ý định vượt qua cơn bão.
Và nếu phương Tây không thể lấy lại niềm tin vào sức mạnh dân chủ phổ quát – từ Ấn Độ đến Indonesia, từ Ghana đến Uruguay – thì Trung Quốc có thể chinh lĩnh cả thế giới.
Vijay Gokhale
Nguyên tác : View : China doesn’t want a new world order. It wants this one, The Economic Times, 06/06/2020
Anh Khoa dịch
Nguồn : VNTB, 11/06/2020
Vijay Gokhale là cựu đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc.
Tổng thống Pháp : Chỉ cơ chế đa phương mới giúp giải quyết khủng hoảng (RFI, 26/09/2018)
Hôm 25/09/2018, tại diễn đàn Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã có bài phát biểu khẳng định chỉ có cơ chế đa phương, thúc đổi đối thoại, tăng cường hợp tác, mới có thể giúp nhân loại giải quyết được các khủng hoảng hiện nay. Đối tượng bị nguyên thủ Pháp gián tiếp chỉ trích là tổng thống Mỹ Donald Trump, đặc biệt với việc rút khỏi thỏa thuận hạt nhân, đơn phương trừng phạt và "cô lập chế độ Iran".
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, New York, ngày 25/09/2018. Reuters/Shannon Stapleton
Đối với tổng thống Pháp, cội nguồn chủ yếu của "cuộc khủng hoảng sâu sắc" của "trật tự quốc tế" hiện nay, là "các bất bình đẳng nghiêm trọng" kéo dài hàng chục năm qua, với gần một tỉ người trên thế giới phải sống dưới mức nghèo đói, 250 triệu trẻ em không được đi học, 200 triệu phụ nữ không có phương tiện tránh thai… Các bất bình đẳng gia tăng là đất màu mỡ cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan các loại trỗi dậy ở khắp nơi trên thế giới. Với tư cách chủ tịch năm tới của khối các cường quốc kinh tế hàng đầu, tổng thống Macron hứa sẽ đưa cuộc chiến chống bất bình đẳng trở thành ưu tiên của G7.
Thông tín viên Valerie Gas tường trình từ New York :
"Emmanuel Macron tin tưởng là việc giải quyết các khủng hoảng phải thông qua cơ chế đa phương. Trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tổng thống Pháp giải thích về điều này, thông qua các ví dụ cụ thể trong hiện tại, như cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran.
Ông nói : "Thay vì khiến cho khủng hoảng trở nên gay gắt hơn, chúng ta cần phải đưa ra được một lịch trình hành động rộng lớn hơn, để giải quyết tất cả mọi lo ngại, từ hạt nhân, hỏa tiễn đạn đạo, cho đến các vấn đề khu vực, do chính sách của chính quyền Iran gây ra".
Đây là một thông điệp gửi đến tổng thống Mỹ Donald Trump, người vừa mới một lần nữa biện minh cho chính sách chống lại Iran. Đối với nguyên thủ Pháp, "quan điểm lẽ phải thuộc về kẻ mạnh không thể bảo vệ được bất cứ ai, trước mọi mối đe doa".
Về Iran, khủng hoảng Israel – Palestine, các hiệp ước thương mại, di dân, hay biến đổi khí hậu, tổng thống Pháp muốn đóng vai trò môi giới cho việc tìm ra các giải pháp chung. Ông nói : "Tôi hết sức tin tưởng quyền tự quyết của người dân, và việc gia tăng hợp tác".
Bài diễn văn tại Liên Hiệp Quốc cho phép tổng thống Pháp bày tỏ khát vọng của ông. Khát vọng ấy sẽ là nguồn cảm hứng đối với Emmanuel Macron, đặc biệt trong vai trò chủ tịch luân phiên khối G7 vào năm tới. Tổng thống Pháp muốn thay đổi G7, để tổ chức này không còn là một câu lạc bộ của các nước giàu. Mục tiêu hàng đầu mà nguyên thủ Pháp đề ra là chống lại nạn bất bình đẳng".
Tổ chức phi chính phủ Oxfam, nổi tiếng với các hoạt động chống bất công, nghèo đói, đãhoan nghênh tuyên bố mạnh mẽ của Emmanuel Macron, đồng thời kêu gọi nguyên thủ Pháp có thêm các hành động cụ thể.
Trọng Thành
*********************
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khai mạc trong căng thẳng (RFI, 25/09/2018)
Khóa họp lần thứ 73 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc mở ra trong ngày hôm nay 25/09/2018. Các bài diễn văn, phát biểu của các nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ rất được trông đợi, nhất là diễn văn của tổng thống Mỹ Donald Trump, tổng thống Pháp Emmanuel Macron và tổng thống Iran Hassan Rohani.
Trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York. Reuters/Carlo Allegri
Chủ nhân Nhà Trắng Donald Trump sẽ không bỏ lỡ dịp tấn công, chỉ trích mạnh mẽ Iran, coi Iran là thủ phạm gây ra mọi rắc rối ở khu vực Trung Đông. Theo ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo, tổng thống Trump sẽ kêu gọi tất cả các quốc gia hợp tác với Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống hàng loạt "hành động phá hoại" của Iran.
Từ New York, thông tín viên RFI Marie Bourreau cho biết thêm chi tiết về Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc năm nay :
"Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc mở ra trong một không khí căng thẳng, lo lắng, giống như thực trạng hiện nay của thế giới. Điều này giải thích tại sao có nhiều nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ đến dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc như vậy : hơn 130 lãnh đạo so với con số 114 hồi năm ngoái. Nhưng sự hiện diện đông đảo này không che khuất sự vắng mặt của những nhân vật quan trọng : tổng thống Nga Vladimir Putin và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, hai nhân vật quan trọng trong cuộc khủng hoảng Syria và Bắc Triều Tiên đều ở lại thủ đô của các nước này. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cũng vậy. Ông Modi lẽ ra phải có mặt để cùng tổng thống Pháp nhận giải thưởng "Nhà vô địch bảo vệ Trái đất".
Ngược lại, đại diện của các nước mà phong trào dân túy và dân tộc thắng thế sẽ tham dự đông đảo : từ Ba Lan cho tới Hung, Áo, Ý. Một vị đại sứ phương Tây nhìn nhận : "Chúng ta đang phải hứng những cơn gió ngược chiều thổi tới". Nhà ngoại giao này chỉ hy vọng khiêm tốn rằng giới ngoại giao sẽ tỏ ra hiệu quả trong lĩnh vực khí hậu, do không đạt được kết quả trên hồ sơ các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đang diễn ra ở Syria hay Yemen".
Bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tổng thống Pháp Emmanuel Macron và đồng nhiệm Mỹ tối hôm qua 24/09 đã có buổi trao đổi trong vòng gần một giờ đồng hồ, để tìm kiếm các đồng thuận trên các chủ đề đang gây chia rẽ Pháp và Mỹ. Theo AFP, điện Elysée cho biết hai nguyên thủ đã bàn thảo về các đề tài quốc tế quan trọng, trong đó có hồ sơ Syria và Iran, cũng như các mâu thuẫn về thương mại. Còn theo Nhà Trắng, hai nhà lãnh đạo tái đã khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ trên các hồ sơ lớn.
Thùy Dương
Tập Cận Bình thăm bảo tàng Olympic tại Lausanne, Thụy Sĩ ngày 18/01/2017. REUTERS/Denis Balibouse
Cựu ngoại trưởng Đức trong Joschka Fischer từng lãnh đạo ngành ngoại giao bảy năm, phân tích trên tuần san Le Point về tương quan lực lượng mới trên toàn cầu.
Le Point : Ai sẽ hưởng lợi trước thế trận mới trên thế giới : Nga hay Trung Quốc ?
Joschka Fisher : Chắc chắn là Trung Quốc. Nga dù là cường quốc nguyên tử, vẫn quá yếu. Trên lãnh vực kinh tế, tình hình của Nga giống như một quốc gia Tây Phi. Ngược lại, Trung Quốc đang cất cánh, đang hiện đại hóa về mọi mặt, khác hẳn với Nga. Vấn đề là sự tiến triển của Trung Quốc sẽ diễn ra qua việc hợp tác hay đối đầu.
Trong một số chủ đề chính như hiện tượng biến đổi khí hậu và tự do thương mại thế giới, Trung Quốc sẽ nhận lấy vai trò của Hoa Kỳ. Về khí hậu, Bắc Kinh sẽ duy trì chủ trương được xác định qua Hiệp định Paris, không phải vì động cơ ý thức hệ hay đạo đức, mà rõ ràng vì lợi ích vật chất. Nạn ô nhiễm môi trường ở Bắc Kinh và miền bắc Trung Quốc đã lên đến cực điểm. Ban lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng phải thay đổi mô hình tăng trưởng, họ sẽ làm điều đó và Hiệp định Paris trao cho họ cơ hội.
Về tự do thương mại, mà nước Mỹ của Donald Trump đang muốn rời xa, thì ngược lại Trung Quốc sẽ đẩy mạnh và đóng vai trò lãnh đạo, vì lợi ích và tầm vóc thị trường nước mình. Đối với Châu Âu, thử thách này là thú vị.
Le Point : Chính sách đối ngoại của ông Donald Trump với chủ trương cô lập và bảo hộ sẽ gây tác động gì lên trật tự thế giới ?
Joschka Fisher : Tôi chưa bao giờ thấy có một tiền lệ nào trong lịch sử thế giới, khi một siêu cường như Hoa Kỳ, mà quyền năng vượt hẳn lên tất cả những nước khác hiện nay, lại tuyên bố thoái vị. Hậu quả đối với phương Tây và Châu Âu sẽ rất nặng nề. Sự rút lui của Hoa Kỳ sẽ tạo ra một khoảng trống, khiến những kẻ khác tìm cách lấp đầy. Tại Châu Âu, chủ yếu là trường hợp của Nga.
Le Point : Với việc sử dụng mạng xã hội Twitter, Donald Trump đã sáng tạo ra một công cụ ngoại giao mới ?
Joschka Fisher : Đó là một công cụ, vâng, nhưng chắc chắn không phải là ngoại giao. Công cụ dân túy thì đúng hơn.
Le Point : Một chính sách ngoại giao dân túy là như thế nào ?
Joschka Fisher : Chính sách đối ngoại mà tổng thống tân cử nêu ra, đi từ nguyên tắc là việc rút lui khỏi các vấn đề quốc tế sẽ tăng cường an ninh cho Hoa Kỳ, là sai lầm hàng đầu. Một đại cường không thể dễ dàng thu mình lại như thế. Việc này sẽ dẫn đến những xung đột, và đến lượt nước Mỹ sẽ bị tác động, thông qua các đồng minh cũng như trực tiếp.
Le Point : Có nên lo ngại về một hiệp ước Yalta (1) mới giữa Donald Trump và Vladimir Putin, gây thiệt hại cho Châu Âu ?
Joschka Fisher : Điều đó còn tùy thuộc vào phản ứng trong nội bộ nước Mỹ, tại Quốc hội, trong bộ máy an ninh và trong công luận. Nhưng một Yalta 2.0 thì hoàn toàn có thể nghĩ đến. Sẽ có những hậu quả hết sức tai hại cho Châu Âu.
Le Point : Liệu Nga sẽ can thiệp vào các chiến dịch tranh cử tại Pháp và Đức trong năm nay, như đã làm với Mỹ năm 2016 ?
Joschka Fisher : Tôi không hề ngạc nhiên. Ở bên này và bên kia sông Rhin, những người có trách nhiệm sẽ khôn ngoan chuẩn bị, để nếu không ngăn cản được thì cũng dự kiến được những thiệt hại gây ra.
Le Point : NATO sẽ là nạn nhân của tổng thống Trump ?
Joschka Fisher : Hai cường quốc sáng lập NATO là Hoa Kỳ và Anh quốc đã quyết định rút lui – Anh với vụ Brexit, và Mỹ với việc Trump đắc cử. Tôi không chờ đợi điều gì tốt đẹp cho Liên minh Bắc Đại Tây Dương. NATO đã hẳn là một công cụ quân sự, nhưng trái tim của Liên minh, trước hết và trên hết là bảo đảm an ninh, mà chỉ có Hoa Kỳ là làm được vì là quốc gia duy nhất tạo được sự tin tưởng từ sức mạnh quân sự. Sự tin cậy vừa là vấn đề năng lực vừa là quyết tâm. Những tuyên bố của ứng viên Trump, khi gieo những mầm mống nghi ngờ, đã gây ảnh hưởng nặng nề cho NATO.
Le Point : Liệu ông muốn nói Donald Trump là mối nguy cho an ninh Châu Âu ?
Joschka Fisher : Rốt cuộc, điều này tùy thuộc vào chính Châu Âu. Đã đến lúc chúng ta phải đặt lá bài lên bàn. Khi tôi nói "chúng ta", trước hết là Pháp và Đức. Chúng ta phải bắt đầu làm người lớn. Thế giới đã thay đổi sâu sắc từ cuối thế kỷ 20, với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ, các cường quốc khác, sự hỗn loạn cực độ ở Cận Đông, cuộc khủng hoảng di dân, sẽ tiếp tục gây áp lực lên Châu Âu. Chúng ta cần thay đổi hẳn phản xạ chiến lược, Pháp cũng như Đức. Trong khi lệ thuộc lẫn nhau, chúng ta lại luôn xây dựng chiến lược an ninh trong khuôn khổ quốc gia. Thật là điên. An ninh của Ba Lan cũng là của Đức và Pháp. Chỉ cần liếc qua tấm bản đồ là đủ hiểu.
Le Point : Lấy ví dụ vùng Cận Đông chẳng hạn, phản xạ chiến lược được thay đổi sâu sắc như ông mong muốn sẽ như thế nào ?
Joschka Fisher : Ở Cận Đông, cần phải giải quyết qua việc tiến hành một trò chơi phòng vệ. Châu Âu hay một thế lực nào bên ngoài khu vực, kể cả Nga hay Hoa Kỳ, đều không có đủ ảnh hưởng để chống lại tình trạng hỗn loạn đang ngự trị. May thay, nguy cơ nguyên tử đã được ngăn chận – ngăn lại chứ không phải trừ khử - nhờ hiệp định với Iran. Hãy còn rất nhiều xung đột tín ngưỡng, xã hội, quốc gia giữa Iran theo hệ phái Shia và Ả Rập Xê Út theo Sunni…
Tôi cho rằng bản thân vùng Cận Đông phải tự giải quyết các vấn đề của mình, chứ bên ngoài không còn có thể. Sau một thế kỷ hiện diện, hiệp định Sykes-Picot (2) đã hoàn toàn bị chôn vùi. Tuy chưa bao giờ được áp dụng, nhưng hiệp định này cũng đã mang lại một sự ổn định nào đó, mà cuộc chiến của ông George W.Bush ở Irak đã phá hẳn. Như vậy chúng ta phải tự bảo vệ mình – bảo vệ tại Đại Tây Dương, ở các biên giới, tự vệ trước khủng bố. Muốn vậy cần phải tổ chức một cách năng nổ.
Le Point : Các ưu tiên sẽ là gì ?
Joschka Fisher : Có hai chủ đề chính yếu : khu vực đồng euro và vấn đề an ninh. Trong khu vực đồng euro, không có cách nào khác ngoài việc hội nhập nhiều hơn nếu muốn duy trì đồng tiền chung Châu Âu – nếu chối bỏ có thể trở thành thảm họa. Có thể hình dung một thỏa hiệp chiến lược : về vấn đề an ninh, Pháp vốn có nhiều kinh nghiệm và nhạy bén hơn Đức, thì Đức nên nhường cho Pháp. Ngược lại trong lãnh vực kinh tế, Pháp phải công nhận Đức là ưu việt.
Nhiều người cho là trong hai lãnh vực cụ thể trên, khác biệt văn hóa quá lớn để người Pháp và người Đức có thể bắt tay với nhau. Tôi không tin như vậy. Dưới áp lực của thực tế, của Trump, của Brexit, của Putin, của mọi sự đảo lộn đầy bi kịch mà chúng ta chứng kiến, giả thiết này không đứng vững.
Le Point : Một số người cho rằng sau khi ông Trump đắc cử, Đức sẽ phải trở thành thủ lãnh của phe dân chủ tự do…
Joschka Fisher : Một giả thiết như thế chứng tỏ tầm cỡ của cuộc khủng hoảng từ việc Donald Trump trở thành tổng thống Mỹ lớn như thế nào. Đương nhiên tôi vui vì Đức được coi là thành trì của tự do. Ai có thể tin được ? Nhưng những người thực tế cần biết rằng Đức phải hành động hài hòa với Pháp. Không phải tôi nói thế vì trả lời phỏng vấn một tờ báo Pháp, mà thực sự tôi nghĩ như vậy. Một lần nữa, hai nước cần phải quyết định tương lai Châu Âu.
Chú thích :
(1) Hội nghị Yalta năm 1945 giữa các lãnh đạo Hoa Kỳ (Franklin Roosevelt), Anh (Winston Churchill) và Liên Xô (Joseph Stalin) nhằm vạch ra chiến lược chung để kết thúc Đệ nhị Thế chiến, giải quyết số phận của Châu Âu sau khi Đức quốc xã bại trận, bảo đảm một trật tự thế giới mới.
(2) Hiệp định Skypes-Picot là thỏa thuận mật giữa Pháp và Anh năm 1916 nhằm chia Cận Đông thành nhiều vùng ảnh hưởng. Mật ước này bị tiết lộ vào cuối năm 1917.