Từ Ất Mão 1975 đến Quý Mão 2023 là 48 năm, tròn 4 con giáp từ ngày nước Việt Nam thống nhất.
Tác phẩm của Trần Đĩnh và Trần Độ xuất bản tại Hoa Kỳ (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Sau 10 năm với chính sách bao cấp khiến kinh tế gặp khó khăn, từ dấu mốc "đổi mới" 1986 mở cửa giao thương với phương Tây, bỏ chủ trương kinh tế tập trung, ban hành những cải cách cho giới tiểu thương tự do kinh doanh, tạo ra nền kinh tế nhiều thành phần, bắt đầu từ đó Việt Nam phát triển.
Những cải cách kinh tế đã đưa Việt Nam thoát nghèo. Một thập niên sau "đổi mới", Hoa Kỳ không còn chính sách cấm vận với Hà Nội và hai nước nối lại bang giao, từ đó nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh đáng kể, đem lại nhiều cải thiện trong đời sống của dân. Hình ảnh xếp hàng mua nhu yếu phẩm được thay bằng các cửa hàng tràn ngập thực phẩm cho người tiêu dùng chọn lựa, xe đạp trên đường phố vắng dần, thay vào là xe gắn máy và ngày nay xe ôtô cũng đã có nhiều.
Trước dịch Covid-19, trong gần hai thập niên kinh tế Việt Nam tăng trung bình 7% mỗi năm. Theo số liệu của World Bank, năm 2000 GDP tính theo đầu người của Việt Nam là 395 USD, năm 2021 là 3756 USD. Ngày nay Việt Nam được xếp vào hạng những quốc gia có thu nhập bình quân theo đầu người ở mức trung.
Nhưng phát triển kinh tế đã không dẫn đến những cải cách chính trị như nhiều người từng hy vọng. Ngược lại, Việt Nam, cũng như Trung Quốc, tuy mở cửa giao thương với thế giới nhưng về chính trị nhà nước lại gia tăng kiểm soát, không cho dân quyền tự do phát biểu quan điểm, không được lập hội, không được tự do ứng cử. Những ai bất đồng quan điểm và chỉ trích nhà nước thì bị trấn áp hay bỏ tù.
Về mặt tư tưởng, qua Ban Tuyên giáo hay Bộ Thông tin và Truyền thông thường có những quyết định cấm không cho phát hành, hay thu hồi nếu đã được in, các tác phẩm gây nhức nhối cho lãnh đạo. "Chuyện kể năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn, "Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ" của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu hay việc Hội Nhà Văn cho tái bản tác phẩm "Một cơn gió bụi" của Trần Trọng Kim là những thí dụ.
Nhiều sách của tác giả trong nước đã phải in và phát hành ở hải ngoại như : "Đèn cù" của Trần Đĩnh, "Tiếng chim báo bão" của Tiêu Dao Bảo Cự, "Hồi ký của một thằng hèn" của Tô Hải, "Suy tư và ước vọng" của Nguyễn Thanh Giang, "Đổi mới, niềm vui chưa trọn" của Trần Độ.
Trên phương diện truyền thông đại chúng, báo chí thường nhận lệnh miệng không được đưa các tin "nhạy cảm", có nghĩa là không phù hợp với quan điểm của lãnh đạo.
Mới đây nhất, khi nhà văn Dương Thu Hương được trao giải Cino Del Duca ở Pháp, các báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên nhanh đưa tin, rồi nhận lệnh phải vội gỡ bài xuống, chỉ vì nhà văn là người phê bình chế độ và dùng văn chương để nói lên những hiện thực xã hội dưới chế độ cộng sản.
Khi nhà phê bình văn học Đặng Tiến qua đời bên Pháp, báo chí trong nước cũng được lệnh không loan tin, dù ông là người ủng hộ Hà Nội trong thời chiến tranh, đã về nước nhiều lần, gặp gỡ giao lưu rộng rãi với giới sinh hoạt văn học nghệ thuật và có sách được xuất bản trong nước. Những năm qua ông tham gia "Văn đoàn độc lập", thành lập năm 2014 là một tổ chức đứng ngoài sự kiểm soát của nhà nước.
Với chính sách kiểm duyệt văn hóa, những tác phẩm không phù hợp với quan điểm chính thống sẽ không có cơ hội được phát hành tại Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Phan Quế Mai với tác phẩm "The Mountains Sing" xuất bản năm 2019 tại Hoa Kỳ, được nhiều nhà phê bình văn học ca ngợi, nhưng tới nay vẫn không có bản tiếng Việt vì có nhắc đến cải cách ruộng đất trong tác phẩm.
Tiểu thuyết "The Sympathizer" của Nguyễn Thanh Việt được giải Pulitzer 2016 ở Mỹ cũng không có bản tiếng Việt phát hành trong nước. Còn tác phẩm "The Refugees" của ông, được Phạm Viêm Phương dịch ra tiếng Việt mang tên "Người tị nạn" (Nxb Hội Nhà Văn, 2017) thì bị kiểm duyệt, phải bỏ đi truyện ngắn viết về sinh hoạt chống cộng của người Việt ở California.
Trước đây, khi tác giả Nguyễn Đức Tùng từ Canada muốn tác phẩm "Thơ đến từ đâu" (Nxb Lao Động, 2009) – gồm những phỏng vấn của ông với nhiều văn thi sĩ – được in trong nước thì chính ông đã làm việc rất sát với biên tập viên của nhà xuất bản để nội dung được trung thực nhất, nhưng khi tác phẩm ra đời một số nhà thơ nhà văn như Nam Dao, Thận Nhiên đã ngạc nhiên và khi thấy nội dung phần phát biểu của họ không đúng ý như đã trả lời phỏng vấn, mà theo nhà thơ Thận Nhiên còn trái ngược với ý của ông.
Dịch giả Dương Tường qua đời hôm tháng 2 vừa qua, tiến sĩ sử học Trần Đức Anh Sơn trên Face Book ngày 25/2/2023 đã cho biết là trong bản dịch tác phẩm "Roots" của nhà văn Mỹ Alex Haley viết về một gia đình người nô lệ da đen, ông "phát hiện ra Dương Tường đã không dịch ba chương cuối của bản gốc tiếng Anh (các chương 118, 119 và 120). Ông cũng lược bỏ hai đoạn trong 117 chương mà ông đã dịch" trong bản dịch tiếng Việt "Cội rễ" đã xuất bản (Nxb Tác Phẩm Mới, 1985).
Trong nước nay đã cho in bản dịch các sách kinh điển về tư tưởng hay lý thuyết chính trị như "Cộng hòa – The Republic" của Plato, "Chính thể đại diện – Representative Government" và "Bàn về tự do – On Liberty" của John Stuart Mill, nhưng không rõ dịch chính xác như thế nào.
Hay những tác phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa, những tác phẩm viết ở hải ngoại được phép in lại trong nước tôi cũng thường tự hỏi là so với bản chính có bị sửa chữa, cắt bớt cho hợp với quan điểm nhà nước hay không. Như tập trường thiên tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác được in lại trong nước, được cả hãng phim của Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh mua bản quyền để chuyển thể thành phim bộ, hay những tác phẩm của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, của nhóm Tự lực Văn đoàn, những sách của tác giả hải ngoại như Nhật Tiến, Du Tử Lê, Bùi Vĩnh Phúc có bị kiểm duyệt hay sửa đổi gì không ?
Nhà nước kêu gọi hòa giải, nhưng tất cả những gì liên quan đến quá khứ hay lý lịch Việt Nam Cộng Hòa, thuyền nhân vượt biển thì không được hoan nghênh, tôn trọng, không cho phổ biến.
Chuyện vượt biển ít có tài liệu trong nước ghi lại. Đây là những con tầu đã đưa người vượt biển đến Galang, Indonesia (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Năm 2005 Hà Nội đã dùng áp lực ngoại giao để phá bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân do cộng đồng người Việt dựng lên trong trại tị nạn Galang ở Indonesia.
Diễn viên Quan Kế Huy khi nhận giải Oscar hồi đầu năm nay đã phát biểu mình là gốc thuyền nhân tị nạn đã làm cho Ban Tuyên giáo bực bội.
Hanni Phạm, người Úc gốc Việt là một ca sĩ K-Pop nổi tiếng trong nhóm nhạc NewJeans ở Hàn Quốc đã bị binh đoàn AK-47 sỉ vả, kêu gọi tẩy chay chỉ vì cô ca sĩ trẻ tuổi này là con, là cháu của một gia đình gốc Việt Nam Cộng hòa luôn trân quí những giúp đỡ của nước Úc cho miền Nam trong thời chiến tranh.
Ông Tô Văn Lai, giám đốc sáng lập của Thuý Nga Paris By Night, qua đời cũng bị nhà nước cấm báo chí đưa tin, cho dù rất nhiều người trong nước thích xem các chương trình ca nhạc của trung tâm này.
Ngay cả hai nhạc sĩ danh tiếng nhất của Việt Nam là Trịnh Công Sơn và Phạm Duy nhà nước cũng không muốn họ có gì liên hệ với chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Phim "Đất khổ" về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, của đạo diễn Hà Thúc Cần thực hiện năm 1973, bị cấm chiếu khi đó vì mang tiếng phản chiến. Thế nhưng 35 năm sau, trong dịp giỗ nhạc sĩ vào năm 2008, ban tổ chức muốn chiếu vài đoạn khi ca sĩ hát những "Ca khúc Da vàng", nhưng an ninh không cho phép, theo lời của thi sĩ Đỗ Trung Quân là người có tham gia tổ chức lễ giỗ. Gia đình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có bản DVD phim, nhưng không bao giờ chiếu công khai cho công chúng được xem.
Nhạc sĩ Phạm Duy, bỏ quốc tịch Mỹ trở về nước sinh sống và đã hồi tịch, được cấp chứng minh nhân dân, tuy thế phần lớn các ca khúc của ông vẫn chưa được phép phổ biến trong nước. Nhạc sĩ cùng nhà thơ Đỗ Trung Quân hoàn tất bộ phim ghi lại lịch sử trường ca "Con đường cái quan" nhưng đến nay phim vẫn còn nằm trong kho.
Khánh Ly sau nhiều lần về hát trên quê hương, bỗng một hôm giữa khung trời Đà Lạt nơi bà khởi đầu sự nghiệp văn nghệ, bà cất tiếng ca : "Một ngàn năm nô lệ giặc tầu, một trăm năm đô hộ giặc tây…" là những ca từ của Trịnh Công Sơn còn bị cấm trong nước, thế là chương trình Khánh Ly ở Hà Nội không thể diễn ra vì bị cúp điện.
Tuấn Ngọc cũng thường đi sô trong nước, mới đây ông không hát "Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi…" mà thay lời "Trời vào thu chiều nay buồn lắm em ơi…"
Năm 2004 nhà văn Phạm Thị Hoài nói chuyện tại Đại học Berkeley có đưa ra nhận xét rằng văn học Việt Nam thời sau đổi mới là "thời hoàng kim của tự kiểm duyệt".
Hai mươi năm sau tình hình sinh hoạt văn học nghệ thuật trên quê hương Việt Nam vẫn thế. Đó là kiểm duyệt và trừng phạt, như Khánh Ly, hay tự kiểm duyệt như trường hợp của Tuấn Ngọc.
Nhà văn Dương Thu Hương thì không chấp nhận sự kiểm duyệt, bà muốn sống tự do, suy nghĩ tự do, tự do viết. Từ khi theo đoàn văn công vào miền Nam ngày 30/4 bà nhận ra ngay mình đã bị lừa khi được tiếp cận với những tác phẩm văn chương của miền Nam.
Nhiều nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những "chuyến đi thực tế" mà theo bà thì không cần thiết, vì thực tế chính là những gì bà đang trải nghiệm và đã đưa vào văn chương, làm nên những tác phẩm có giá trị văn học mà hệ quả là Dương Thu Hương đã bị giam tù và giờ phải sống lưu vong bên Pháp.
Trong những ghi chép về các tiếp xúc với nhà văn mới được giải Cino Del Duca 2023, Vương Trí Nhàn qua một lần phỏng vấn có hỏi "Tại sao viết văn ?", Dương Thu Hương trả lời : "Thấy nhờ đó đấu tranh chống cái ác tốt hơn".
Sách về Việt Nam trong thư viện Đại học U.C. Berkeley (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Đó chính là sức mạnh của tự do tư tưởng. Người Việt trong nước có mấy ai dám suy nghĩ, dám viết như bà.
Một lần vào thư viện Đại học U.C. Berkeley tìm sách, tôi thấy trên kệ có những tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nằm cạnh các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Đây đúng là biểu hiện của tự do tư tưởng.
Ba mươi tháng Tư, nhà nước hay nói chuyện hòa giải với người Việt ở nước ngoài. Tôi tự hỏi bao giờ các thư viện ở Việt Nam mới có sách của Bùi Tín cạnh sách của Bùi Tùng, Dương Thu Hương sát bên Dương Tường, Nguyễn Chí Vịnh bên cạnh Nguyễn Chí Thiện.
Bùi Văn Phú
Nguồn : BBC, 29/04/2023
47 năm sau ngày 30/04/1975
Đất nước giữa một khúc quanh lớn của thế giới
Vào năm 2019 tất cả các nghiên cứu đều cho rằng Việt Nam là nước có cơ hội thuận lợi nhất không chỉ trong vùng mà trên toàn thế giới. Bây giờ cuộc chiến Ukraine khiến các nước dân chủ xét lại chính sách hợp tác và thái độ của Việt Nam đang khiến họ thất vọng. Trừ khi có một thay đổi lập trường nhanh chóng, mạnh mẽ và quả quyết Đảng Cộng Sản sẽ làm mất đi một vận hội lớn không bao giờ tìm lại được nữa của đất nước. Dân chủ hóa quả quyết và tức khắc là lối thoát cho Việt Nam. Hơn lúc nào hết đấu tranh cho dân chủ cũng là đấu tranh cứu nước.
Ngày nay, sau 47 năm thống nhất dưới chế độ cộng sản đất nước ra sao ?
Chúng ta vừa kỷ niệm 47 năm ngày 30/04/1975 giữa lúc cuộc chiến Ukraine đang thay đổi hẳn bối cảnh thế giới. Những tác nhân chính của biến cố lịch sử này dù thuộc chiến tuyến nào, dù có công hay có tội, đều đã hoặc sắp qua đời. Một số đông những người sinh ra sau ngày này đã có cháu nội cháu ngoại. Bây giờ chúng ta có thể nhìn lại biến cố lịch sử này một cách bình tĩnh trong hy vọng rút ra những bài học.
Từ đó
Trước hết hãy cùng nhìn lại đất nước từ ngày 30/04/1975.
Chiến thắng của Đảng Cộng Sản đã khiến nước ta thụt lùi vài thập niên.
Vào lúc đó miền Bắc hoàn toàn không có một hoạt động kinh tế hay văn hóa xã hội đáng kể nào. Cuộc sống cơ cực ở mức độ người ta phải tự an ủi bằng những khẩu hiệu như "ăn sắn bổ hơn ăn cơm, ăn rau muống bổ hơn ăn thịt bò". Tất cả mọi cố gắng dồn vào chiến tranh.
Miền Nam thua trận và bị tàn phá bởi chính sách cướp phá, hạ nhục và bỏ tù của kẻ chiến thắng. Như thi sĩ Bùi Giáng nói trong một bài thơ : "đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam". Hàng triệu người bỏ nước trốn chạy trong đó một phần khá lớn là những người có học thức, làm mồi ngon cho sóng gió và hải tặc. Hàng trăm nghìn người chết. Đảng và nhà nước cộng sản chủ động tổ chức những chuyến "vượt biên bán chính thức" để lấy tiền chuộc mạng của những người muốn thoát khỏi nanh vuốt của họ. Không khác một bọn khủng bố. Hàng triệu người có kiến thức khác bị đày đọa trong các trại tù cải tạo và không bao giờ phục hồi được khả năng và tâm trí dù sau này ở lại Việt Nam hay ra nước ngoài. Cải tạo có nghĩa là hủy diệt mọi ý chí chống đối.
Những năm thống nhất đầu tiên đã có tác dụng là khiến cả nước lâm vào cảnh đói kém. Năm 1979 khi ra khỏi nhà tù và trở thành chuyên viên của chế độ cộng sản, tôi đã có cơ hội theo dõi các công ty miền Nam để có thể xác nhận rằng tất cả đều ngừng trệ, trong đa số các trường hợp trồng khoai mì (sắn) trong sân xí nghiệp là hoạt động quan trọng nhất. Trong một chuyến công tác tại Cần Giờ, người ta chỉ cho tôi một căn nhà tiều tụy của một gia đình vừa chết đói cách đó hai hôm. Nạn đói tiếp tục trong nhiều năm trên nhiều miền bởi vì cho tới năm 1988, nhờ chính sách mở cửa khiến thông tin đỡ bị bưng bít, người ta được biết là vẫn có nhiều người chết đói tại miền Bắc, thí dụ như tại Thanh Hóa.
Đảng Cộng Sản ngày nay đã biến thành một đảng của người giầu để bóc lột.
Trước Thế Chiến II Việt Nam là nước phát triển nhất Đông Nam Á, Sài Gòn là "hòn ngọc Viễn Đông", rồi xuống cấp vì lâm vào chiến tranh. Tuy vậy vào năm 1975, trước ngày 30/04, miền Nam Việt Nam mặc dù chiến tranh vẫn có một mức độ phát triển tương đương với Thái Lan. Nhưng chỉ một năm sau chiến thắng cộng sản, Việt Nam đã tụt hậu so với Thái Lan khoảng 50 năm. Ngày nay, sau hơn ba thập niên mở cửa và được những điều kiện đặc biệt thuận lợi chúng ta vẫn còn chậm tiến so với Thái ít nhất 25 năm.
Đó là thành quả của cuộc nội chiến 40 năm làm chết gần 6 triệu người Việt, cuộc nội chiến mà cho tới bây giờ Đảng Cộng Sản vẫn còn coi là một thành tích vinh quang và một công ơn lớn của họ đối với dân tộc, lớn đến độ cho phép họ mãi mãi độc quyền lãnh đạo đất nước.
Ngày nay, sau 47 năm thống nhất dưới chế độ cộng sản đất nước ra sao ?
Mọi người có chút hiểu biết đều phải kinh ngạc khi nghe ông Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khoe khoang một cách đầy tự mãn và tự hào rằng "đất nước chưa bao giờ có được cơ ngơi như bây giờ". Ông mới vừa nhắc lại lời khoe khoang này vài hôm trước trong buổi tiếp tân đại sứ Mỹ Marc E. Knapper. Nhưng cơ ngơi nào ? Chúng ta đứng hàng thứ 15 trên thế giới về dân số với 100 triệu người, người Việt được đánh giá là cần mẫn trên mức trung bình, chúng ta cũng có một địa lý đặc biệt thuận lợi với 3.200km bờ biển mở ra Biển Đông, biển quan trọng nhất thế giới nơi 40% hàng hóa thế giới đi qua. Đáng lẽ chúng ta phải là một trong những nước giầu mạnh nhất trong vùng Đông Á, nhưng chúng ta tuyệt nhiên không có gì đáng được thế giới biết đến. Không một công ty tầm vóc quốc tế, không một sản phẩm công nghiệp đặc biệt nào, không một phát minh hay một công trình khoa học kỹ thuật, không một tác phẩm văn học nghệ thuật. Hầu hết hàng hóa xuất khẩu đều chỉ là gia công, lắp ráp. GDP bình quân trên mỗi đầu người của chúng ta chỉ bằng 1/5 mức trung bình thế giới. Đạo đức xuống cấp một cách bi thảm, môi trường ô nhiễm ở mức độ nguy kịch. Sau gần một nửa thế kỷ cầm quyền không phân chia mà để đất nước tiều tụy như vậy đáng lẽ Đảng Cộng Sản phải thấy mình có tội lớn, phải rất xấu hổ và ăn năn, nhưng người cầm đầu Đảng lại hãnh diện ! Còn biết nói gì với ông này và đảng của ông ?
Cũng không phải chỉ có thế. Kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, môi trường và đạo đức không phải là tất cả. Điều quan trọng nhất cho tương lai một quốc gia là lòng yêu nước và ý chí xây dựng một tương lai chung. Nhưng ngày nay còn bao nhiêu người Việt Nam thực sự yêu nước và gắn bó với đất nước ? Tôi đã có nhiều dịp tiếp xúc với các sinh viên Việt Nam đi du học nước ngoài, đặc biệt là tại Pháp. Họ đều thuộc thành phần may mắn tại Việt Nam và có ít lý do để bất mãn nhất, nhưng tuyệt đại đa số không muốn trở về nước. Lòng yêu nước và gắn bó với đất nước gần như đã chết trong lòng người Việt Nam. Sự chán nản với một chính quyền gian ác kéo dài quá lâu đã dần dần biến thành sự thất vọng đối với chính đất nước. Thất vọng đang từ từ nhường chỗ cho tuyệt vọng. Mộng ước của rất nhiều người Việt Nam hiện nay chỉ giản dị là được thôi làm người Việt Nam và trở thành công dân một nước khác. Đó là thành tích lớn nhất của Đảng Cộng Sản.
Một quốc gia chỉ có thể tồn tại và cũng chỉ xứng đáng để tồn tại nếu được quan niệm như một tình yêu, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung của những con người tự do và bình đẳng.
Được thành lập như là một đảng của người nghèo để chống bóc lột, Đảng Cộng Sản ngày nay đã biến thành một đảng của người giầu để bóc lột. Từ một đảng hô hào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản đã trở thành một lực lượng chiếm đóng hống hách và kỳ thị hơn cả một ách thống trị ngoại bang. Ngay trong những giai đoạn ngoại thuộc nhục nhằn, Bắc thuộc hay Pháp thuộc, vẫn có những người Việt Nam được lên tới những chức vu cao trong mọi địa hạt, nhưng ngày nay dưới chế độ cộng sản trong các cơ quan nhà nước và các công ty quốc doanh các chức vụ từ phó phòng trở lên đều chỉ dành cho đảng viên cộng sản, trong quân đội và công an các cấp bậc từ hạ sĩ quan trở lên đều phải là đảng viên. Các báo và đài đều do Đảng kiểm soát ; một bài viết trên mạng xã hội trái ý Đảng có thể khiến tác giả bị mười năm tù, dù là một phụ nữ yếu bệnh như trường hợp Phạm Thị Đoan Trang.
Một câu hỏi lớn cần được đạt ra là sự sống còn của đất nước Việt Nam có được bảo đảm không nếu tình trạng chiếm đóng thô bạo và xấc xược này tiếp tục ? Câu hỏi càng cần được đặt ra trong lúc mà phong trào toàn cầu hóa đang chất vấn khái niệm quốc gia. Câu trả lời là không có gì bảo đảm. Trong thế giới hiện nay một quốc gia chỉ có thể tồn tại và cũng chỉ xứng đáng để tồn tại nếu được quan niệm như một tình yêu, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung của những con người tự do và bình đẳng. Nếu đất nước Việt Nam chỉ tồn tại để làm một đối tượng thống trị và bóc lột thì sự tồn tại đó có nghĩa lý gì ? Đất nước đang lâm nguy. Giữa Đảng Cộng Sản và Tổ Quốc Việt Nam phải chọn một trong hai.
Vẫn chưa lớn lên
Năm nay chúng ta kỷ niệm 47 năm ngày 30/04/1975 giữa một khúc quanh lớn của thế giới do cuộc chiến Ukraine. Sự kiện này gợi ra nhiều suy nghĩ. Điều đầu tiên có thể nhận thấy là có những điểm giống nhau giữa hai nhân vật Vladimir Putin và Nguyễn Phú Trọng. Cả hai đều yếu bệnh và gần như đã từ giã cõi đời này để sống trong một thế giới hoang tưởng. Putin hành xử như một con thú dữ chứ không phải một con người, xua quân xâm lăng Ukraine bất chấp lẽ phải, công pháp quốc tế và hiến chương Liên Hiệp Quốc, bắn phá tan nát các thành phố, khiến hàng trăm nghìn người chết, hơn 13 triệu người trong tổng số 42 triệu dân Ukraine phải tản cư, nhân danh một lý cớ hoàn toàn bịa đặt là để giúp người Ukraine loại trừ bọn phát xít và diệt chủng, rồi tiếp tục huênh hoang trong khi quân đội Nga sa lầy và thua nặng. Nguyễn Phú Trọng cũng thế, ông lãnh đạo một đất nước chia rẽ, xuống cấp và thua kém về mọi mặt nhưng không thấy hổ thẹn mà cứ huênh hoang là có cơ ngơi đáng tự hào.
Ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị xác nhận không chỉ là sai mà còn là một tội ác
Nhận xét thứ hai là Đảng Cộng Sản vẫn chưa lớn lên được trong kiến thức và nhận thức. Năm 1975 họ tưng bừng hô "Chủ Nghĩa Mác Lênin bách chiến bách thắng muôn năm !" mà không biết rằng chủ nghĩa này đã bị vất bỏ từ 100 năm trước ngay trên chính quê hương của nó tại Đại Hội Gotha của đảng cộng sản Đức năm 1875. Ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị xác nhận không chỉ là sai mà còn là một tội ác, ca tụng nó không chỉ lố bịch mà còn mất vệ sinh nhưng các cấp lãnh đạo cộng sản vẫn đề cao Hồ Chí Minh như là người đã có công du nhập nó vào Việt Nam.
Cuộc chiến Ukraine tuy chưa kết thúc nhưng điều chắc chắn là Putin sẽ thảm bại, khiến nước Nga suy sụp và sẽ không còn một ảnh hưởng đáng kể nào trên thế giới sau đó. Nó cũng đã khiến thế giới dân chủ nhận ra là hợp tác với các chế độ độc tài chỉ giúp chúng mạnh lên và đe dọa hòa bình. Phong trào toàn cầu hóa bất chấp chế độ chính trị đã chấm dứt để từ nay chỉ còn hợp tác giữa các nước dân chủ. Sẽ không có thế chiến, ngay cả căng thẳng, nhưng trao đổi giữa các nước dân chủ giầu mạnh và các nước độc tài sẽ chỉ giới hạn ở mức tối thiểu cần thiết. Một cách cụ thể, các vốn đầu tư sẽ chỉ dồn vào các nước dân chủ và các thị trường lớn cũng sẽ chỉ mở rộng cửa cho các nước dân chủ. Trung Quốc dĩ nhiên sẽ bị cô lập vì còn nguy hiểm hơn cả Nga và sẽ khủng hoảng nghiêm trọng vì kinh tế quá phụ thuộc vào ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Không nên quên rằng trước cuộc xâm lăng vào Ukraine của Putin, mối lo chính của các nước dân chủ là Trung Quốc. Putin đã chỉ tạm thời đánh lạc hướng lo âu của thế giới. Cũng nên biết kinh tế Trung Quốc thực ra đã khủng hoảng, vấn đề chỉ là Bắc Kinh còn che giấu được tình trạng khủng hoảng tới bao giờ.
Giai đoạn đánh đu đang cáo chung. Các quốc gia từ nay sẽ phải chọn lựa giữa dân chủ và phát triển hay độc tài và bế tắc. Chọn lựa hiển nhiên bởi vì Nga sẽ suy sụp sau cuộc chiến này, chưa chắc đã giải quyết nổi các vấn đề sống còn của chính mình, nói gì giúp đỡ được ai. Trung Quốc cũng sẽ co cụm lại để tự lo cho mình bởi vì đó là phản xạ tự nhiên của một đế quốc khi gặp khó khăn và Trung Quốc là một đế quốc chứ không phải một quốc gia. Trung Quốc sẽ không còn là một chỗ dựa hay một đe dọa cho bất cứ nước nào.
Tuy vậy trong ba cuộc biểu quyết gần đây tại Liên Hiệp Quốc về cuộc chiến Ukraine, nhất là cuộc biểu quyết đuổi Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền, chính quyền cộng sản Việt Nam đã chọn lập trường theo Trung Quốc, bênh Nga và chống lại Mỹ và thế giới dân chủ. Đã thế còn chấp nhận diễn tập quân sự với Nga. Dưới mắt thế giới, Việt Nam đã chọn đứng vào phe của cái xấu và cái ác sắp thảm bại. Dĩ nhiên là có những lý do, thí dụ như vũ khí của quân đội Việt Nam phần lớn nhập khẩu từ Nga và cần những thiết bị bảo trì từ Nga, không nên chọc giận Bắc Kinh nhất là đã cam kết hỏi ý kiến họ trong các vấn đề đối ngoại, việc đuổi Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền tạo ra một tiền lệ đáng sợ cho chính quyền cộng sản Việt Nam, cũng có thể có những món nợ chưa được công khai hóa v.v. Phải thận trọng, nhưng thận trọng không đồng nghĩa với run sợ, cũng không thể vì sợ chết mà tự sát. Trong bối cảnh hiện nay, với một chút khéo léo, vẫn có thể lấy lập trường đúng mà không khiêu khích Nga và Trung Quốc. Phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chọn cái xấu, cái ác và cái gian vì chính bản chất của nó xấu, ác và gian hay chỉ vì họ vẫn chưa lớn lên được trong trí tuệ và tầm nhìn ?
Vào năm 2019 tất cả các nghiên cứu đều cho rằng Việt Nam là nước có cơ hội thuận lợi nhất không chỉ trong vùng mà trên toàn thế giới vì là điểm đến của các công ty đa quốc rút khỏi Trung Quốc và cũng là nước mà thế giới cần tranh thủ để đương đầu với tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông. Nhưng rồi dịch Covid-19 đình hoãn tất cả. Bây giờ cuộc chiến Ukraine khiến các nước dân chủ xét lại chính sách hợp tác và thái độ của Việt Nam đang khiến họ thất vọng. Trừ khi có một thay đổi lập trường nhanh chóng, mạnh mẽ và quả quyết, Đảng Cộng Sản sẽ làm mất đi một vận hội lớn không bao giờ tìm lại được nữa của đất nước. Dân chủ hóa quả quyết và tức khắc là lối thoát cho Việt Nam. Hơn lúc nào hết đấu tranh cho dân chủ cũng là đấu tranh cứu nước.
Những câu hỏi day dứt
Tình trạng đất nước hôm nay là sự tiếp nối tự nhiên của biến cố lịch sử 30/04/1975, vì thế mỗi lần kỷ niệm ngày lịch sử này một số câu hỏi quen thuộc lại được đặt ra.
Tại sao có ngày 30/4/1975 ? Tại sao miền Nam giầu có và tiến bộ gấp nhiều lần miền Bắc mà lại thảm bại ? Câu trả lời là Việt Nam Cộng Hòa đã bị đồng Minh Mỹ bỏ rơi. Rất đúng. Sự sống còn của chế độ Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ và Mỹ đã quyết định dứt khoát rút khỏi Việt Nam sau hiệp định Paris đầu năm 1973. Vào thời điểm 1975, chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn kiệt quệ. Ngân quỹ cạn hết, quân đội thiếu cả đạn lẫn xăng dầu không còn khả năng chiến đấu trong khi quân cộng sản có tất cả mọi phương tiện để chiến thắng.
Nhưng tại sao Mỹ lại bỏ Việt Nam sau khi đã chi ra hàng ngàn tỷ USD và hy sinh gần 60.000 binh sĩ ? Có nhiều lý do. Tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa không còn như trước nữa sau khi Indonesia đã tiêu diệt đảng cộng sản và trở thành đồng minh của Mỹ, Trung Quốc từ đầu thập niên 1970 cũng không còn là kẻ thù của Mỹ mà trái lại đã trở thành một đồng minh chống Liên Xô, Mỹ không bao giờ kiên nhẫn, 20 năm can thiệp đã quá dài đối với họ, v.v. Tuy nhiên với tài nguyên và hậu thuẫn áp đảo trong những năm đầu, phe quốc gia đã có thể đánh bại phe cộng sản trước đó, ngay trước năm 1954 để không có hiệp định Genève chia đôi đất nước, hoặc ít ra trước năm 1973 để không có hiệp định Paris.
Do di sản văn hóa kẻ sĩ của Không Giáo, đa số trí thức Việt Nam, kể cả những người hoạt động chính trị, vẫn tin rằng chính trị không cần phải học
Lý do nền tảng là nước ta, trong cả hai phe quốc gia và cộng sản, thiếu hẳn văn hóa chính trị và do đó không có nhân sự chính trị đúng nghĩa. Cả hai phe đều thiếu những cấp lãnh đạo có kiến thức và bản lĩnh chính trị. Họ chỉ hiểu chính trị theo nghĩa của thời xưa như một sự tranh giành quyền lực. Nếu phe quốc gia có những cấp lãnh đạo chính trị thực sự có tầm vóc thì họ đã không thua, ngược lại nếu phe cộng sản có những cấp lãnh đạo có kiến thức chính trị cao thì họ đã không thắng. Nói chung một bên thua vì dở, một bên thắng vì mê muội.
Nói như thế nhiều người có thể cho là nói quá nhưng sự thực là thế nếu ta suy nghĩ một cách bình tĩnh. Vấn đề của Việt Nam sau Thế Chiến II là phải giải quyết cùng một lúc hai vấn đề lớn đòi hỏi một kiến thức chính trị vững chắc mà chúng ta không có : xây dựng chính quyền tự chủ và thiết lập dân chủ. (Đừng quên là chủ nghĩa cộng sản đã ra đời như một công thức xây dựng dân chủ, phần lớn các chế độ cộng sản thành lập sau Thế Chiến II, kể cả tại Việt Nam, mang tên là Cộng Hòa Dân Chủ, Cộng Hòa Nhân Dân). Nhưng xây dựng một chính quyền độc lập từ sau cuộc cách mạng kỹ nghệ không dễ dàng như trước ; ai ngờ vực nhận định này có thể nhìn kinh nghiệm các nước Châu Mỹ La Tinh và Châu Phi. Xây dựng dân chủ lại càng khó hơn. Các nước Châu Âu, mặc dù có những đột phá về tư tưởng trong giai đoạn Phục Hưng (Renaissance) và Thế Kỷ Ánh Sáng (thế kỷ 18), nói chung đã chỉ xây dựng được chế độ dân chủ ổn vững sau hàng trăm năm xung đột đẫm máu. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Vậy thì, sau những thảm kịch đã trải qua, chúng ta chỉ có thể tiếc cho đất nước chứ không có lý do để đổ lỗi cho nhau và thù ghét nhau. Thái độ đúng là cùng nhau suy nghĩ và thảo luận để rút ra những kết luận đúng, hay ít ra không quá sai, cho tương lai.
Nếu ông Hồ Chí Minh có kiến thức chính trị vững chắc thì vào năm 1920 ông đã không sung sướng đến nỗi mê sảng (theo lời kể của ông) sau khi đọc Tuyên Ngôn Cộng Sản và tưởng rằng mình đã tìm được chân lý tuyệt đối rồi cố gắng du nhập nó vào Việt Nam bằng mọi giá.
Nếu các trí thức có trình độ học vấn cao như Nguyễn Manh Tường, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Nguyễn Khắc Viện, Võ Nhân Trí, v.v. cũng có kiến thức chính trị cao họ đã không theo Đảng Cộng Sản để rồi nhận ra sai lầm của mình khi đã trễ.
Phe Quốc Gia -các chính quyền Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa- không thiếu những người có bằng cấp cao, ngay cả rất cao, và bằng thực chứ không phải bằng giả hay bằng hữu nghị, nhưng đã thiếu hẳn văn hóa chính trị. Nhiều người cũng có những bằng cử nhân, tiến sĩ chính trị học nhưng họ vẫn thiếu văn hóa chính trị. Họ vẫn thuộc văn hóa kẻ sĩ coi làm chính trị là làm quan phục vụ một chế độ sẵn có chứ không phải là đấu tranh để thay đổi chế độ. Kiến thức của họ chỉ là kiến thức sách vở còn cần một cố gắng lớn để thích nghi với xã hội Việt Nam. Họ chỉ là những công chức dù đảm nhiệm những chức vụ chính trị. Mẫu người tốt trong các chính quyền quốc gia là không làm chính trị, không có tham vọng chính trị, không tham gia các tổ chức chính trị. Khác với phe cộng sản, phe quốc gia đã không có một cuộc động não tư tưởng. Các chính quyền quốc gia là sự tiếp nối của chế độ quân chủ, với vua Bảo Đại là quốc trưởng đầu tiên, và chế độ thuộc địa Pháp. Sai lầm kinh khủng của những người được hoàn cảnh đưa đẩy vào vai trò lãnh đạo phe quốc gia là ngây thơ, tưởng rằng có thể chuyển hóa bình yên cùng một lúc từ ngoại thuộc sang độc lập, từ quân chủ sang dân chủ mà không cần một xét lại toàn diện và triệt để. Họ không phải là một đội ngũ của những con người chấp nhận gian khổ để gắn bó với nhau trong một cuộc chiến đấu cho một lý tưởng chung vì cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị và những định hướng lớn cho đất nước. Trước mặt họ là Đảng Cộng Sản với những người lãnh đạo có kiến thức chính trị rất sơ sài nhưng có niềm tin cuồng nhiệt vào một lý tưởng, dù là một lý tưởng sai và độc hại, có quyết tâm giành thắng lợi, có tổ chức chặt chẽ và tranh đấu bằng phương thức khủng bố. Thất bại là chắc chắn.
Nhưng kiến thức chính trị là gì ?
Đó là toàn bộ những hiểu biết về các vấn đề đặt ra trong cách tổ chức và điều hành một quốc gia với mục tiêu là tôn trọng và phục vụ mọi người và tìm phúc lợi tối đa cho thật nhiều người. Các vấn đề đặt ra gồm đủ loại kinh tế, tài chính, khoa học, kỹ thuật, pháp luật, y tế, xã hội, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, an ninh, quốc phòng v.v. Trong một quốc gia đang chiến đấu để tồn tại còn có vấn đề tuyên truyền, thuyết phục và động viên. Các vấn đề đan xen với nhau và ảnh hưởng lên nhau. Quốc gia càng lớn thì các vấn đề càng nhiều và càng phức tạp. Kiến thức chính trị là kiến thức khó khăn nhất trong các kiến thức vì nó là tổng hợp của mọi kiến thức cùng với một sự hiểu biết thấu đáo về thực trạng của đất nước trong bối cảnh thế giới, về những thử thách và những triển vọng. Tuy vậy, do di sản văn hóa kẻ sĩ của Không Giáo, đa số trí thức Việt Nam, kể cả những người hoạt động chính trị, vẫn tin rằng chính trị không cần phải học, cứ là bác sĩ là có thể làm bộ trưởng y tế, cứ là tướng là có thể làm bộ trưởng quốc phòng.
Trách nhiệm của những người lãnh đạo chính trị là ở mỗi thời điểm tìm ra cho mỗi vấn đề một giải đáp tổng hợp tối ưu. Tổng hợp này chỉ có được nếu nắm vững các thành tố. Sau cùng các giải đáp cho từng vấn đề chỉ tránh được mâu thuẫn với nhau nếu được quyết định trong khuôn khổ của một dự án chính trị quốc gia đã được đồng ý trước. Dự án này môt cá nhân hay một nhóm nhỏ không có khả năng và cũng không có lý do để làm bởi vì nó vừa khó khăn vừa không đem lại một lợi ích cá nhân nào. Nó chỉ có thể thực hiện được bởi một chính đảng có tầm vóc sau một cố gắng bền bỉ. Những người tham gia lãnh đạo các chính quyền phe quốc gia chỉ là những cá nhân không có kiến thức chính trị và không có lý tưởng chung tình cờ gặp và làm việc với nhau một thời gian rồi chia tay. Họ chỉ có thể thất bại và gây thất vọng. Tình thế sẽ khác hẳn nếu phe quốc gia được lãnh đạo bởi một đảng dân chủ đúng nghĩa.
Trách nhiệm của những người lãnh đạo chính trị là ở mỗi thời điểm tìm ra cho mỗi vấn đề một giải đáp tổng hợp tối ưu.
Một câu hỏi cũng thường được đặt ra trong những năm gần đây trong mỗi dịp kỷ niệm ngày 30/04 là tại sao chế độ cộng sản vẫn còn đó dù đã thất bại trên mọi phương diện và trong mọi địa hạt ?
Câu trả lời là mặc dù nguyện vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam đã lên rất cao so với các dân tộc khác vào lúc họ trút bỏ được ách độc tài và hơn nữa dân chủ còn là khuynh hướng tất yếu của thế giới nhưng những người dân chủ Việt Nam vẫn chưa hình thành được một lực lượng dân chủ có tầm vóc. Chúng ta không chỉ thiếu kiến thức chính trị mà còn thiếu cả kiến thức đấu tranh chính trị. Chúng ta không chịu học hỏi dù các nghiên cứu công phu về các kinh nghiệm đấu tranh thiết lập dân chủ trên thế giới không thiếu. Di sản Khổng Giáo vẫn còn quá nặng nề dù chúng ta không ý thức được. Quá nhiều người vẫn còn đấu tranh theo kiểu nhân sĩ, nghĩa là tìm cách gây thành tích và tiếng vang cho mình bằng những cố gắng -có khi khá nguy hiểm- của riêng mình hay trong khuôn khổ một nhóm bạn bè nhỏ rồi mong đợi một thời cơ. Họ vẫn chưa hiểu được rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức, và trong trường hợp của nước ta để đánh bại sự ngoan cố của Đảng Cộng Sản chúng ta cần một tổ chức dân chủ mạnh. Một số người bây giờ đã hiểu như vậy nhưng lại không biết phải làm thế nào để xây dựng một tổ chức dân chủ mạnh. Những kinh nghiệm của các tổ chức tàn lụi dần và những nhóm nhỏ chưa lớn lên đã tan rã vẫn chưa làm nhiều người hiểu rằng một tổ chức mạnh chỉ có thể xây dựng được trên một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị đúng đắn, theo một tiến trình bắt buộc như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã trình bày nhưng tiếc là chưa thuyết phục được nhiều người. Có lẽ sau nhiều cố gắng không thành, một tâm lý bi quan đã ngự trị theo đó xây dựng một tổ chức dân chủ mạnh là điều không thể làm được. Và tỉnh ngộ chỉ để bỏ cuộc.
Tương lai tất yếu
Vậy thì thế nào là một tổ chức dân chủ mạnh ?
Sức mạnh của một tổ chức chính trị không phải là số đảng viên hay những phương tiện. Sự bốc hơi nhanh chóng của Đảng Cộng Sản Liên Xô và các đảng cộng sản Đông Âu sau khi bức tường Berlin sụp đổ đã chứng tỏ. Sức mạnh của một tổ chức chính trị chủ yếu là ở chỗ nó đại diện cho tương lai nào.
Một tổ chức dân chủ chỉ vài trăm người nhưng nếu được nhìn như là đại diện cho một tương lai bắt buộc phải đến thì sau cùng vẫn thắng, trong khi một đảng cầm quyền dù có hàng triệu đảng viên, hàng tỷ đô la và hàng triệu quân đội và công an với đầy đủ vũ khí cũng sẽ tiêu tan nếu chỉ đại diện cho một quá khứ bắt buộc phải qua đi.
Dân chủ đa nguyên là tương lai tất yếu và sẽ đến nhanh chóng trong bối cảnh thế giới mới. Đảng Cộng Sản Việt Nam đại diện cho một quá khứ bắt buộc phải qua đi.
Hiểu được như vậy là chúng ta đã đi được một đoạn đường rất dài dẫn đến thắng lợi của dân chủ và dân tộc.
Nguyễn Gia Kiểng
(03/ 05/2022)
Những ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam và bí mật về sự can thiệp của Trung Quốc
VOA, 30/04/2022
Hơn một thập kỷ tìm kiếm qua những tài liệu giải mật và các cuộc phỏng vấn với những người trong cuộc, nhà sử học George J. Veith phát hiện ra điều mà ông gọi là "bí mật lớn cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam"
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai gặp mặt Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger trong cuộc gặp được gọi là "lịch sử" tại Bắc Kinh ngày 9/7/1971.
Lần đầu tiên ông Veith, người có bằng tiến sĩ về sử học, biết về ‘bí mật’ này là qua một nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa và cũng là bạn của ông, Nguyễn Xuân Phong, người từng là Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm Paris của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước khi tới Mỹ và làm việc tại Đại học Texas Tech đầu những năm 2000.
"Ông (Phong) nói rằng ông có một ‘bí mật lớn’ mà ông chưa nói với ai", ông Veith, một cựu Đại úy Lục quân Hoa Kỳ, nói và cho biết ông Phong đã giữ kín bí mật đó trong hơn 30 năm. "Ông ấy chỉ nói rằng khi còn ở trong trại cải tạo (của Bắc Việt), những người cộng sản đã đánh đập ông để tìm ra những gì ông ấy biết nhưng ông không nói".
Qua một cuộc điện thoại cách đây nhiều năm, ông Phong cho ông Veith biết rằng "phía Trung Quốc muốn đưa hai sư đoàn nhảy dù vào Biên Hòa để chặn cuộc Nam tiến của quân Bắc Việt" trong những ngày tháng cuối của cuộc chiến tranh.
Theo phát hiện của nhà sử học từng viết 4 cuốn sách về đề tài Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc, một đồng minh lâu năm của miền Bắc Việt Nam, có thể đã tìm cách tạo ra một miền Nam trung lập vào năm 1975 nhằm ngăn cản Hà Nội giành được chiến thắng mà họ đã tìm kiếm từ lâu.
"Điều này thực sự là sốc vì Trung Quốc, cùng với Liên Xô, đã hỗ trợ Hà Nội trong suốt những năm tháng đó rồi đột nhiên thay đổi", ông Veith nói với VOA về sự phát hiện khiến ông "bàng hoàng".
Phát hiện này được ông Veith tiết lộ trong cuốn "Drawn Swords in a Distant Land : South Vietnam’s Shattered Dreams", (Tuốt gươm ở miền đất xa lạ : Những giấc mơ tan vỡ của miền Nam Việt Nam) trong đó cung cấp nhiều chuyện hậu trường chưa được biết tới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, tập trung vào sự nghiệp chính trị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng như thăng trầm của chính quyền dưới thời ông. Đây là cuốn sách mới nhất và cũng là cuốn sách thứ 4 của ông Veith về Chiến tranh Việt Nam, ra mắt vào năm ngoái. Trước đó, ông cho ra mắt cuốn "Black Friday : The Fall of South Vietnam 1973-75" (Tháng Tư đen : Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam 1973-75) sau hai cuốn về việc tìm kiếm binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam.
‘Người đưa thư’
Trong thời gian đàm phán ở Paris về Việt Nam từ 1968 đến 1975, ông Phong – từ địa vị thành viên đến trưởng phái đoàn rồi Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm – cho ông Veith biết rằng ông đã tiếp xúc với phía Trung Quốc nhằm để cứu vãn miền Nam Việt Nam.
Không lâu sau khi Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger có chuyến thăm lịch sử tới Bắc Kinh năm 1971, ông Phong được mời tới tham dự một tiệc chiêu đãi ở Sứ quán Miến Điện ở Paris. Tại đó, theo ông Veith kể trong chương cuối cùng của cuốn sách, ông Phong được giới thiệu với một quan chức Trung Quốc từ Văn phòng Thủ tướng Chu Ân Lai. Người này kết thúc cuộc thảo luận bằng câu hỏi : "Liệu Tổng thống Thiệu có biết ai là bạn ai là thù của ông ấy không ?"
Theo ông Phong, phía Trung Quốc đã qua ông gửi nhiều thông điệp tới ông Thiệu để tìm cách có được một cuộc hội thoại trực tiếp nhưng vị tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đã không đáp lời.
Ông Phong nói rằng khi trở lại Sài Gòn vào năm 1975, ông mang theo một thông điệp bí mật từ phía Trung Quốc. Ông ngay lập tức đi gặp Tổng thống Trần Văn Hương, người lên nắm quyền từ 21/4/1975 sau khi ông Thiệu từ chức, để thông báo rằng không có hy vọng cho các cuộc đàm phán khi ông còn đương nhiệm. Ông Phong không nhắc tới thông điệp từ phía Trung Quốc. Ngày hôm sau, ông Hương triệu tập cuộc họp để bắt đầu quá trình chuyển giao quyền lực cho Tướng Dương Văn Minh.
Sau đó vài ngày, ông Phong gặp mặt với người bạn thân của Tướng Minh, Tướng Trần Văn Đôn, và một đại diện của Chính phủ Giải phóng Lâm thời (PRG) để bàn thảo về việc thành lập một chính phủ liên minh. Tại cuộc gặp, có cả sự hiện diện của một quan chức PRG – do Bắc Việt hậu thuẫn – ông Phong nói rằng Pháp và các nước khác sẽ giúp đỡ chính phủ mới nhưng cố tình mơ hồ về ý nghĩa của điều này.
Trung Quốc, theo ông Phong, rất muốn PRG nắm quyền thông qua công thức liên minh của Pháp với Tướng Minh để ngăn chặn sự tiếp quản của Bắc Việt. Sau khi một liên minh được thành lập, ông Minh sẽ gửi lời kêu gọi trợ giúp và người Pháp sẽ trả lời rằng một lực lượng quốc tế sẽ vào Nam Việt Nam để bảo vệ chính phủ mới. Ban đầu, như ông Phong cho biết, sẽ là "hai sư đoàn nhảy dù của Trung Quốc vào Biên Hòa" và Bắc Kinh yêu cầu có 4 ngày để điều động quân của họ đưa đến căn cứ không quân này.
"Bắc Kinh không thể ra mặt và làm việc này một cách trực tiếp nhưng họ để mọi người thấy rằng họ… để cho người Pháp làm việc này !", ông Phong giải thích về ý định của Bắc Kinh – được nhà sử học Veith ghi lại trong cuốn sách. "Bắc Kinh không thể ngang nhiên can thiệp quân sự vào miền Nam Việt Nam. Pháp cần phải kêu gọi một số quốc gia tham gia vào một ‘lực lượng quốc tế’ (với Pháp là mũi nhọn) để cho phép Bắc Kinh can thiệp".
Vì sao Trung Quốc muốn can thiệp bằng quân sự để ngăn cản chiến thắng của quân Bắc Việt sau nhiều năm ủng hộ Hà Nội ?
Theo giải thích của nhà sử học Mỹ, Trung Quốc muốn một miền Nam Việt Nam trung lập để không bị bao vây bởi một hiệp ước tiềm tàng giữa Moscow và Hà Nội. Điều này được Nayan Chanda của Far Eastern Economic Review khẳng định khi cho rằng Bắc Kinh đã "nhất quán tuân thủ chính sách duy trì bằng mọi cách theo ý của mình một Đông Dương bị chia cắt không có các cường quốc lớn".
Thông điệp từ Trung Quốc
Ông Phong, qua đời năm 2017, không phải là người duy nhất mang thông điệp của Trung Quốc tới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Theo ông Veith, một tướng hồi hưu người Pháp có tên Paul Vanuxem, người quen biết ông Thiệu và các sĩ quan cao cấp khác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa từ sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, cũng mang một thông điệp tương tự như ông Phong. Ông Vanuxem đã thỉnh thoảng đến thăm ông Thiệu và trở lại Việt Nam vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh với tư cách là phóng viên tuần báp Carrefour của Pháp.
Trong cuốn sách phát hành năm 1976 về những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, ông Vanuxem, người mất năm 1997, nói rằng ông đã tới Dinh Độc Lập vào ngày 30/4/1975 để nói chuyện với Tướng Minh, lúc đó là tổng thống. Theo sử gia Veith, ông Lý Quí Chung, bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại hai ngày của Tổng thống Minh, khẳng định điều này khi cho biết rằng "ông Vanuxem nói rằng ông ấy muốn đưa ra một kế hoạch cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng mà chính thể Sài Gòn đang đối mặt". Ông Vanuxem nói với ông Minh, ngay sau khi ông Minh ghi âm lời tuyên bố đầu hàng sáng ngày 30/4, rằng : "Tôi đã sắp đặt việc này ở Paris. Tôi yêu cầu ông công khai xin trợ giúp từ Nước C (China – tức Trung Quốc) để bảo vệ ông".
Ông Vanuxem yêu cầu ông Minh cầm cự trong 3 ngày nhưng ông Minh từ chối, theo ghi nhận của sử gia Veith. Ông Minh đã cười một cách cay đắng trước lời đề nghị của ông Vanuxem và nói rằng : "Theo Tây, theo Mỹ mãi chưa đủ sao mà bây giờ lại theo Tàu ?"
"Tôi tiếp tục đào sâu và sau đó tôi tìm thêm ra nhiều thông tin được chính những người cộng sản công bố, trong đó cũng nói về những điều tương tự", ông Veith cho biết và nói rằng Hà Nội cũng biết được lời đề nghị của ông Vanuxem và cuối cùng thừa nhận về ý định can thiệp của Trung Quốc. "Sách Trắng Quốc phòng (của Việt Nam) xuất bản 10 năm sau khi chiến tranh kết thúc, trong đó thừa nhận rằng ông Vanexum đã tới Dinh (Thống Nhất) và tìm cách thực hiện âm mưu nhằm ngăn chặn bước tiến của họ để giành chiến thắng trong cuộc chiến đó".
Phía Trung Quốc cũng được cho là đã tiếp cận cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn với William Buckley trênFiring Line tháng 9/1975, ông Kỳ nói rằng các đặc vụ Trung Quốc đã tới nhà ông ở Sài Gòn vào năm 1972 và yêu cầu ông lật đổ Tổng thống Thiệu cũng như "tuyên bố miền Nam Việt Nam trung lập, không theo Nga hay Mỹ". Ông Kỳ, người đã đưa gia đình di tản sang Mỹ sau khi Sài Gòn sụp đổ, nói rằng nếu ông làm điều đó, "thì phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ ông" bởi vì Bắc Kinh "đã gặp khó khăn ở biên giới phía bắc với người Nga" và "không muốn sườn phía nam của mình bị vệ tinh của Nga (tức Bắc Việt Nam) chiếm đóng".
Với những khẳng định từ nhiều nguồn khác nhau, sử gia Veith tin rằng những nỗ lực của Trung Quốc nhằm ngăn cản chiến thắng của quân Bắc Việt bằng cách hậu thuẫn một chính phủ trung lập ở miền Nam Việt Nam, là có thật. Tuy nhiên điều này không thể được khẳng định hoàn toàn khi không có bằng chứng tài liệu hay sự chấp nhận chính thức từ chính phủ Trung Quốc hoặc Pháp.
Liệu Trung Quốc hay Pháp, mỗi nước vì lợi ích quốc gia, có thông đồng để tìm cách làm cho miền Nam Việt Nam trung lập cũng như ngăn chặn chiến thắng của Hà Nội hay không, sẽ vẫn là một khả năng bỏ ngỏ và sử gia Veith gọi đó là "bí mật lớn cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam".
Nguồn : VOA, 30/04/2022
***********************
Khánh An, VOA, 30/04/2022
Như một công trình xây dựng, sau gần nửa thế kỷ, người ta bắt đầu nhìn thấy giá trị thực và chất lượng kết cấu của nó sau khi lớp sơn màu đẹp đẽ trôi dần đi. Việt Nam sau 47 năm miền Bắc cộng sản chiến thắng và "thống nhất" với miền Nam, những mảng vỡ nứt từ cốt lõi nền giáo dục đang lộ dần lên bề mặt cấu trúc xã hội và mọi mặt đời sống…
Những câu chuyện nhỏ "rất quen" dưới đây của cô Nguyên Thiện, giáo viên từng đau đớn tận trong tim khi trải qua những năm tháng trên bục giảng, từ một "giáo sư đệ nhị cấp" thời Việt Nam Cộng Hòa trở thành một giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, cho thấy phần nào những "đứt gãy" ấy...
Mời quý vị nghe cuộc trò chuyện của Khánh An với cô giáo đã trải qua cuộc chuyển đổi giáo dục này.
VOA : Xin chào cô. Tr ước tiên xin cô giới thiệt một chút về cô nhé. Cô làm gì trước năm 1975 ?
Nguyên Thiện : Trước tiên, xin chào Khánh An và xin chào tất cả quý vị thính giả của đài VOA. Xin cho tôi tự giới thiệu với pháp danh, là vì tôi đã nương vào Phật pháp để giữ được thân mạng của mình được tồn tại đến ngày hôm nay. Tôi là Nguyễn Thiện. Tôi tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Sài Gòn năm 1973, ngành huấn luyện giáo sư đệ nhị cấp. Những trường mà tôi đã đi dạy qua là trường Lương Văn Can ở quận 8 Sài Gòn, trường Lê Quý Đôn ở quận 3, và gần cuối là trường Hai Bà Trưng. Nó mang tên Hai Bà Trưng bây giờ nhưng trước đây nó là trường Thiên Phước Học Đường, sát bên nhà thờ Tân Định.
VOA : Đ ược biết cô đã đi dạy từ trước năm 1975, sau năm 1975 cô có tiếp tục làm nghề giáo viên hay không ?
Nguyên Thiện : Trước năm 1975, đời sống của một giáo sư đệ nhị cấp tuy không giàu nhưng mà nó đủ để cho mình tươm tất và tự tin khi bước lên bục giảng, là hình tượng mẫu mực cho học sinh nhìn vào. Nhưng sau năm 1975 thì thầy cô giáo hầu hết bị sàng lọc, đuổi việc, đi vùng kinh tế mới, ra đạp xích lô hoặc là đi bán chợ trời, hay làm bất cứ việc gì để có đồng tiền đặng tồn tại. Tôi thì được cái may mắn là vì họ thiếu giáo viên ngoại ngữ cho nên được giữ lại với cái đồng lương gọi là lương chết đói, mà người ta thường ví von với câu vè dân gian là "Muốn sang thì lấy thợ tiện, muốn diện thì lấy thợ may, muốn ăn mày thì lấy thầy giáo".
VOA : Vâng, nghe r ất chua xót. Sau năm 1975, cô tiếp tục được giữ lại làm giáo viên thì cô thấy có những thay đổi nào so với thời trước năm 1975 ? Có những thay đổi nào đáng nhớ và đáng lưu ý ?
Nguyên Thiện : So sánh với trước năm 1975 thì học sinh có điểm số là do tự lực cá nhân của mỗi em. Nhưng sau năm 1975 thì giáo viên chủ nhiệm cho điểm học sinh bằng lý lịch từ ban giám hiệu gửi xuống. Hễ con cán bộ thì được cho lên thắng. Lúc đó, họ dùng những từ như "cho lên thẳng" và ở lại lớp thì gọi là "lưu ban". Nhưng đã có lý lịch là con cán bộ thì được lên thẳng, giáo viên chủ nhiệm không được phép cho con cán bộ lưu ban. Còn có lý lịch là con của nguyên quân, nguỵ quyền là bị đánh rớt. Rất rõ ràng.
Tôi lấy ví dụ là có một lớp 12 do tôi làm chủ nhiệm lúc đó, học sinh của lớp năm đó rất giỏi. Nó học ban toán và nó rất xuất sắc, nhưng mà cái lớp năm đó bị đánh rớt gần hết cả lớp, chỉ vì cái tội là có cha đang ở trong tù cải tạo. Và còn một điểm nữa là cô giáo dạy môn toán năm đó, cô ấy là cán bộ miền Bắc vào. Lớp này là học sinh ban toán lúc đó, nó rất giỏi, nên khi cô cho bài toán trên bảng mà cô chứng minh không ra đáp số. Thế là có một em nó dám lên nó giải bài toán thay cho cô giáo, thì bà ta hơi bị quê. Từ đó, bà đì mấy đứa trong lớp. Em đó bị bà đì hỏng luôn, không được lên lớp ngay trong năm đó, mà bị loại ra khỏi trường luôn, với lý do là lý lịch em đó không trong sạch, có cha đi tù cải tạo.
VOA : Khi cô ch ứng kiến những trường hợp như vậy, mà bản thân cô là một giáo viên chủ nhiệm phải đánh rớt những học trò như vậy, cảm giác của cô lúc đó như thế nào ?
Nguyên Thiện : Tôi hơi cứng đầu. Tôi hơi bướng bỉnh, ở chỗ là cứ mỗi lần lên lớp là phải có soạn giáo án đàng hoàng, mà giáo án thì phải soạn luôn luôn phải đúng tiêu chuẩn là phải có ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ. Cho nên, nhiều khi soạn giáo án thì mình soạn một đường cho nó duyệt, nhưng mà khi lên lớp thì mình giảng theo trái tim của mình, theo kiến thức trung thực của mình, thì dễ bị Ban Giám hiệu nó khó dễ lắm.
VOA : Cô đã b ị khó dễ như thế nào ?
Nguyên Thiện : Có một đứa học trò tên là Nguyễn Ái Quốc. Nó học dốt vô cùng, mà khi họp để xét cho học trò lên lớp thì chỉ vì nó có tên Nguyễn Ái Quốc nên phải xét cho nó lên lớp. Chứ nếu mà giữ nó lại thì coi như bôi nhọ Bác Hồ, tại vì nó cùng tên với Bác Hồ. Có chi tiết rất buồn cười như vậy đó. Mà hầu hết con cán bộ lúc đó học dốt mà cứ phải cho lên lớp… Rồi thi đua lúc nào cũng ép học sinh, đưa vô khuôn mẫu là tụi nó phải phấn đấu để thành "cháu ngoan Bác Hồ". Mà muốn thành cháu ngoan Bác Hồ là phải lao động tốt, học tập tốt, chữ gì cũng mang cái chữ tốt tốt… nhưng nó không cụ thể, chỉ lẩn quẩn ca ngợi Đảng với ca ngợi Bác Hồ, thì tôi làm cái đó không được. Cho nên, lớp của tôi lúc đó luôn luôn là hạng chót.
Nếu tham gia tiết mục văn nghệ, thì làm cô giáo, tôi chỉ biết dạy tụi nó đóng kịch thí dụ như "Ngao Sò Ốc Hến" hoặc những cái bài hát như "Bạch Đằng Giang", hoặc bài hát "Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến…" thì nó không có tính Đảng, không những vậy còn bị ghép cho là "phản động" bởi vì hầu hết học trò trong lớp nghe lời cô giáo. Học trò của mình hầu hết cha mẹ của nó đi cải tạo. Cho nên, ai có lâm vào cảnh thì mới hiểu được người trong cảnh. Mình thấy là mình dạy học trò lúc đó bằng cái tâm của một người thông cảm với nỗi đau của đồng loại. Có vậy thôi, nên không làm được cái việc là cho học trò thi đua để ca ngợi Bác, để được "cháu ngoan Bác Hồ", nên hầu hết học trò trong lớp của tôi không có danh hiệu "cháu ngoan Bác Hồ".
Mấy anh trong trong trường thì nói "thứ nhất là ngồi lì, thứ nhì là đồng ý", chớ đừng nên nói ngược lại mà bị khó khăn rắc rối. Nhưng mà tôi không làm được những cái ngược lại lương tâm của mình. Thành ra không bao giờ có được danh hiệu "Giáo viên tiên tiến". Không những vậy còn bị ban hiệu mời lên thường xuyên để nhắc nhở. Có cái may là không bị đuổi. Nhưng sự thật, họ không đuổi không biết là may hay rủi. Bởi vì người ta bung ra chợ trời người ta bán buôn, người ta còn giúp được con cái ăn học, tồn tại được. Còn mình với cái đồng lương chết đói mà mà cứ ráng chịu đựng, vừa nuôi con vừa đi làm trong hoàn cảnh đồng lương chết đói, thì cô Khánh An có biết là lúc đó tôi nuôi con bằng cách là, với đồng lương lãnh ra không đủ để nuôi con trong một tuần lễ chứ đừng nói chi một tháng, thành ra tôi cho tụi nó ăn gạo lứt muối mè. Cháo cũng muối mè, cơm cũng muối mè. Rồi nó đi học. Rồi trời cũng thương, lúc đó tụi nó khỏe mạnh, cũng học giỏi, cũng tròn trịa. Nhờ gạo lứt muối mè mà tụi nó sống. Ban Giám hiệu thì nói bà này có chồng đi nước ngoài mà bả nói bả cho con ăn g ạo lứt muối mè để bả qua mặt mình thôi. Chứ họ không tin.
VOA : Cô đã gi ảng dạy ở mái trường xã chủ nghĩa. So với mái của thời Việt Nam Cộng Hòa, cô thấy có những điểm gì mà cô là cô cho là đáng tiếc, hoặc ngược lại, cô cảm thấy nó tốt hơn ?
Nguyên Thiện : Bây giờ nói không phải mình chê hay mình vạch lá tìm sâu đâu. Mà những cái tệ hại của nhà trường sau năm 1975 đến bây giờ, mình nhìn thấy nó đau lòng hơn là các điểm tốt. Không thấy điểm tốt. Chưa có bao giờ mà thầy cô giáo lại có thể làm những việc như phải có tiền đút lót thì mới được đi vào trường, rồi đút lót thì con mới được tốt nghiệp, nhiều thứ…
Rồi học trò hồi xưa thì tình thầy trò thương yêu quý trọng lẫn nhau. Học trò rất kính trọng thầy giáo không phải vì có hay không có tiền, mà nó kính trọng vì phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Bởi vì nhà giáo lúc đó được huấn luyện là mình làm việc dạy học không phải là vì đồng tiền, mà dạy học là vì thích "thiên chức". Hồi xưa gọi là "thiên chức của nhà giáo", phải có lương tâm nghề nghiệp. Còn bây giờ, học trò trong lớp, chưa bao giờ có hình ảnh mà học trò xăn quần xăn áo lên, con gái mà nắm đầu nắm cổ rồi quần thảo nhau như là bề hội đồng. Thấy mà thương tâm ! Mà không phải một chỗ, mà gần như khắp nơi, rồi cách dùng từ ngữ bây giờ nó hoàn toàn khác với từ ngữ mà mình dùng cho học trò dạy ở học đường trước 1975…
Trong bài giảng, trong giáo án lúc nào cũng không thể thiếu hai cái tính là ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác. Cho đến những cái bài Toán của học trò học ở trong trường, mà sách giáo khoa nhà trường cũng soạn là hôm nay diệt được bao nhiêu lính Mỹ, hôm qua diệt được bao nhiêu lính Mỹ, như vậy trong tuần lễ này diệt được bao nhiêu lính Mỹ. Chỉ như vậy thôi thì mình thấy tính nhân bản, lòng nhân đạo đã không có, nó đã bị giết chết từ trong trứng rồi…
Từ trong môi trường giáo dục như vậy thì con người ta chỉ biết là ganh đua. Ganh đua chứ không phải thi đua. Người ta ganh nhau, rồi lòng đố kỵ… Bây giờ thì ai cũng muốn làm giàu học. Học trò nó học với mục đích làm sao ra trường là để nó chiếm được vị trí, nhất là làm sao phấn đấu để nó vô đảng. Vô Đoàn, vô Đảng là để nó ngồi trên, ngồi trước, đặng nó làm giàu. Chứ còn cái lương tri của con người thì bây giờ hiếm có…
VOA : Vâng, cám ơn cô đã dành thời gian cho VOA.
Nguyên Thiện : Rất cảm ơn Khánh An đã tạo cho tôi cơ hội mà trong nước chưa bao giờ tôi có được điều kiện để nói như thế này. Cảm ơn quý vị thính giả đã lắng nghe. Xin chân thành cảm ơn quý đài.
Khánh An thực hiện
Nguồn : VOA, 30/04/2022
Cô Nguyên Thiện đã giảng dạy tại Việt Nam cho tới năm 1988, khi cô được bảo lãnh sang Hoa Kỳ định cư. Hiện cô đang sống tại bang Florida.
JB Nguyễn Hữu Vinh, RFA, 30/04/2022
Nửa thế kỷ để kiểm nghiệm
30/04/1975. Ngày ấy đến hôm nay, đã 47 năm chẵn.
Đã 47 năm kể từ ngày ấy, ngày mà Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kết thúc thành công cuộc xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, để "đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa Xã hội".
Từ cuối tháng 4/2022, những băng rôn, khẩu hiệu, pano, áp phích khổ lớn được treo trên khắp các tuyến phố chính ở Hà Nội
47 năm, gần 1/2 thể kỷ, quãng thời gian đủ để đất nước, dân tộc này sản sinh và nuôi nấng trưởng thành 2 thế hệ người Việt Nam.
47 năm qua, trong lịch sử dân tộc, cũng là quãng thời gian đất nước này, dân tộc này nghiệ lại được những điều tưởng như là chân lý, tưởng như là sự thật có thể sờ được tận tay, nắm bắt được tường tận… Nhưng, cuối cùng, mới vỡ lẽ ra rằng : Cả đất nước, cả dân tộc và thậm chí, cả một bộ phận lớn trên thế giới đã mơ hồ, đã đi theo một cái bóng, một chiếc bánh vẽ khổng lồ sau khi bị bịt mắt suốt cả quãng đường dài "Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội".
Cũng 47 năm qua, người dân Việt Nam đủ nhận thức sẽ nhìn thấy được cái Đảng mà họ luôn thấy ngự trên đầu, trên cổ họ, nghiễm nhiên tự xưng là cha mẹ, là lãnh đạo họ với muôn vàn từ ngữ đẹp nhất, tử tế nhất, hay ho nhất, sang sảng và hào nhoáng nhất để cả ngợi, thực chất chỉ một đám cướp, là gông cùm, là tủi nhục và là nỗi bất hạnh của dân tộc.
47 năm qua, cũng là 47 năm trong lịch sử dân tộc Việt Nam chứng kiến sự thăng trầm của lịch sử phát triển thế giới, để hiểu được cái chân lý : "Đừng nghe lời cộng sản nói, mà hãy xem việc cộng sản làm" của Cố tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu không chỉ có giá trị trong tầm vóc dân tộc, mà là chân lý có tầm vóc quốc tế, tầm vóc thời đại.
Lời nói và hành động của người cộng sản
Cũng đã một nửa thế kỷ đã trôi qua, và môi miệng người cộng sản Việt Nam chưa khi nào ngớt những lời kêu gọi "Hòa hợp, hòa giải dân tộc". Những tiếng kêu đã vang lên từ xưa và vẫn còn vang lên đến hôm nay.
Quan sát những hoạt động của nhà nước Việt Nam những ngày này, chúng ta thấy điều gì ?
Báo chí, truyền thông Việt Nam cho biết : Ngày 30/4, Sài Gòn sẽ bắn pháo hoa mừng chiến thắng tại hai điểm gồm khu vực đầu đường hầm sông Sài Gòn (thành phố Thủ Đức) và Công viên văn hóa Đầm Sen (quận 11).
Không chỉ có vậy, những đoàn diễu hành, các hoạt động tập thể vẫn cứ tổ chức rôm ra bất chấp dịch bệnh, bất chấp mọi ý kiến.
Cũng dịp này, tại Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang "được sự nhất trí của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng", ngày 29/4/2022, đã tổ chức khởi công tượng đài Hồ Chí Minh với số tiền dự toán ban đầu là 353 tỷ đồng, hẳn nhiên là con số cuối cùng sẽ không chỉ có vậy.
Ai cũng biết rằng, sau hai năm dịch bệnh, người dân Việt Nam kiệt quệ mọi mặt từ tinh thần đến vật chất, lo lắng kiếm từng bữa ăn cho người già, từng hộp sữa cho con trẻ còn chưa xong. Biết bao gia đình bị mất người thân, bị ốm đau bệnh tật do dịch bệnh đến nay vẫn còn mang hậu quả chưa thể xử lý, vậy tiền đâu để chính phủ vén tay đốt nhà táng nhiều thế.
Hẳn nhiên, là Bộ Chính trị và Trung ương đảng nhất trí, nhưng tiền bạc đổ vào xây tượng đài Hồ Chí Minh là tiền dân, là tiền của những bà mẹ lao công vất vả "mồ hôi trên lẫn mồ hôi dưới" để tạo ra, là tiền của những cô gái đi bán dâm ở Đài Loan, ở Singapore, Thái Lan, hoặc những em bé đi phục vụ ấu dâm ở Campuchia, hay từ những thanh niên trong các container lạnh vượt biên sang Anh Quốc làm nô lệ rồi gửi về cho đảng mặc sức phá và xây tượng đài của "bác".
Còn Bộ Chính trị và Trung ương ư, không cẩn thận thì các "đồng chí" lại vơ vét bằng sạch chứ có xu cắc nào bỏ ra. Và nếu tiền của các đồng chí, thì đoan chắc là các đồng chí không bao giờ làm những việc tào lao đó. Bởi việc gửi con cái sang các nước đế quốc, tư bản và mua tài sản, quốc tịch bên đó còn quan trọng và cần thiết hơn nhiều.
Như vậy, sau hai năm dịch bệnh hoành hành, hàng triệu người dân đói rách, hoảng loạn và đua nhau bỏ chạy về quê bằng mọi cách, mọi loại phương tiện trong sự thờ ơ, ghẻ lạnh của đảng và nhà nước, thậm chí tiền bạc chi trả cứu trợ cho dân nghèo cho đến nay vẫn chưa xong, thành phố đang tìm mọi cách để vay, để xin thêm cứu trợ, ngân sách. Thế nhưng tiền mua pháo hoa, tiền đễ tổ chức diễu hành mừng kỷ niệm ngày chiến thắng thì không bao giờ thiếu.
Điều đó không có gì khó lý giải, bởi cứ có dự án, có hoạt động thì cán bộ đảng lại có tiền. Mà những hoạt động này lại "có tính chất chính trị" cho nên việc kiểm tra, kiểm soát là rất hiếm hoi. Có chết, có đói, chỉ là thằng dân. Vậy thì tại sao lại không làm.
Quang cảnh Lễ thượng cờ thống nhất non sông trên cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải . Ảnh : NDĐT
Trên phương diện lãnh đạo đất nước, Nguyễn Xuân Phúc, chủ tịch nước cùng với bộ sâu gồm Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến ; Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội ; nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình ; lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương ; các Mẹ Việt Nam Anh hùng, đông đảo tướng lĩnh, cựu chiến binh, người dân và du khách lôi nhau vào Sông Bến Hải, Cầu Hiền Lương để làm cái gọi là "Thượng cờ thống nhất non sông".
Báo chí Việt Nam cũng tung hô sự kiện này với những câu chữ loảng xoảng tiếng súng đạn, sự tự hào và tự sướng của hệ thống chính trị Việt Nam.
Báo chí Việt Nam đề cập đến Hiệp định Geneve được ký kết ngày 21/7/1954 đã chia Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc, lấy Vĩ tuyến 17, dòng sông Bến Hải làm biên giới ngăn cách mà không giải thích là cái Hiệp định đó quy định những gì, nội dung ra sao. Rồi sau đó, ai đã phá cái Hiệp định ấy cũng như cái Hiệp đinh Paris sau này. Ai đã xâm lược, ai đã gây chiến và kết cục 1,5 triệu mạng người dân Việt Nam đã chết, hàng chục triệu người dân Việt Nam, cả đất nước lao đao vì suy sụp, vì nợ nần bởi cuộc chiến này do ai tổ chức và mục đích là gì ?
Báo chí không giải thích vì sao cuộc chiến nồi da xáo thịt giữa hai bên Bắc – Nam, nghĩa là cuộc chiến "Củi đậu nấu hạt đậu" trôi qua gần nửa thế kỷ, mà hàng năm được tổ chức tưng bừng đến thế, dù phần đất thuộc Việt Nam Cộng Hòa, thì đã bị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếm giữ từ đó.
Vậy mà có một cuộc chiến khác, cuộc chiến của kẻ thù dân tộc từ ngàn đời nay, xua quân xâm lược đất nước chúng ta. Giết hại đồng bào, chiến sĩ Việt Nam, chiếm đóng đất đai, lãnh thổ Việt Nam đến nay, và vẫn còn hàng ngày, hàng giờ đe dọa cả đất nước, cả dân tộc thì đảng và nhà nước lại câm như hến, không dám hé răng nửa lời ?
Thậm chí, còn trắng trợn đàn áp và bắt bớ những người có tấm lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc.
Phải chăng, chỉ vì với đồng bào Miền Nam, nửa đất nước bại trận khi mà người đứng đầu đất nước, lãnh đạo chính phủ đã bỏ chạy hoặc đầu hàng, thì phe thắng cuộc mặc sức chà đạp, sỉ nhục và hà hiếp mà không sợ bị vả cho sưng mồm. Còn kẻ thù dân tộc kia, không chỉ là bạn vàng của đảng, mà còn có nguy cơ vỡ cho đảng sưng mồm, vỡ mặt nếu ăn nói không giữ mồm giữ miệng ?
Nếu vậy, thì đâu phải những cuộc kỷ niệm, những lễ "Thượng Cờ" hay diễu binh, diễu hành hoặc pháo hoa là để tự hào dân tộc hoặc vui mừng cho đất nước, kêu gọi lòng yêu nước như đảng vẫn ba hoa.
Và lễ "Thượng cờ Thống Nhất" hôm nay, cũng tương tự như một bản Tuyên cáo rằng : Lãnh thổ, đất nước Việt Nam hôm nay đã thống nhất và chỉ có vậy. Nghĩa là cái Quần Đảo Hoàng Sa, và một số lãnh thổ Trường Sa đã giao bạn vàng quản lý và vĩnh viễn không còn là lãnh thổ Việt Nam ?
Thỏa mãn cơn tự sướng của đảng
Những ngày này, trên các phương tiện tuyên truyền của đảng, Đế Quốc Mỹ lại hiện nguyên hình là kẻ thù độc ác và thâm hiểm, là nguy hiểm và đủ mọi từ ngữ khủng khiếp.
Cũng những ngày này, các công cụ tuyên tuyền, báo đài của đảng lại ra rả điệp khúc "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" mà quên rằng mới có mấy tháng vừa qua thôi, đối tượng của cuộc "Ngoại giao vacxin" bằng những cuộc gọi điện, những bức thư, những lời kêu xin từ mũi vacxin đến cái khẩu trang, cái tủ lạnh… thì đối tượng là Mỹ và bọn tư bản giãy chết.
Và chính cái bọn đế quốc Mỹ ấy, đã là nơi hào phóng nhất với việc cấp hàng chục triệu liều vacxin covid cùng với hàng tỷ đô la cho nền y tế Việt Nam.
Thế nhưng, tiền thì cứ nhận, chửi thì vẫn chửi, mặc dù nhân vật Chí Phèo đã được Nam Cao cho biết là chết từ đời tám hoánh nào rồi.
Người ta không hiểu vì sao, nhu cầu tự sướng của đảng lớn lao đến vậy ?
Điều mà người ta dễ thấy nhất, dễ hiểu nhất là nếu không có những dịp như vậy, để đảng tự sướng, tự ca ngợi sự tài tình, để ba hoa, để ăn mày quá khứ… thì thử hỏi ngày nay, đảng lấy gì để tự hào ?
Chẳng lẽ đảng sẽ tự hào rằng : Sau gần 1 thế kỷ rèn luyện và trưởng thành, trau dồi lý tưởng, đạo đức cách mạng và học tập Hồ Chí Minh, đảng ta nay đã có một đội ngũ đông đảo.
Đội ngũ đó, không chỉ có một con sâu, mà đó là "một bầy sâu" – Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước.
Bầy sâu đó, đã không làm gì cho đất nước và dân tộc ngoài việc "ăn của dân không chừa một thứ gì" – Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch nước.
Không chỉ ăn, mà bầy sâu đó còn phá, "Phá tàn canh nền kinh tế đất nước" – Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương.
Thế nhưng, cho đến nay, đảng ta không thể có cách nào để khác được. Bởi "Chống tham nhũng chính là ta đánh ta" mà "Đánh chuột không được để vỡ bình" – Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư.
Thế nên, cái gọi là Chống tham nhũng, chỉ vì "ăn quá dày nên phải xử" – Nguyễn Thị Kim Ngân.
Mà tự hào, tự tôn, tự sướng là nhu cầu không thể thiếu của đảng xưa nay.
Bởi vậy, đảng vẫn phải khoét thêm nỗi đau của người dân nửa đất nước - thậm chí không chỉ là nửa đất nước - nhằm thỏa mãn nhu cầu tự sướng của mình.
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn : RFA, 30/04/2022 (nguyenhuuvinh's blog)
***********************
Cựu thứ trưởng ngoại giao Việt Nam nói về 'nội chiến' và 'Đảng trị lạc lõng'
BBC, 30/04/2022
Đúng ngày 30/4/2022, một cựu thứ trưởng ngoại giao, đảng viên cộng sản Việt Nam, công bố bài viết, trong đó ông nói Đảng cộng sản phải "đổi mới thật sự về chính trị".
Ông Nguyễn Đình Bin, 78 tuổi, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Nhà nước cộng sản Việt Nam, đề nghị xây tượng đài binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu chống quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa hồi tháng 1/1974. Photo courtesy of Bao Quoc Te
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Đình Bin nói cuộc chiến 30 năm tại Việt Nam (1946-1975) vừa là 'chiến tranh vệ quốc vĩ đại' nhưng đồng thời cũng là 'cuộc chiến huynh đệ tương tàn'.
Đây là quan điểm đi ngược lại quan điểm chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn nói về 'kháng chiến chống Pháp' và 'kháng chiến chống Mỹ cứu nước'.
Chẳng hạn bài của báo Quân đội Nhân dân năm 2020 nói chiến thắng 30/4/1975 "hoàn toàn không phải là cuộc "nội chiến" hai miền hay "chiến tranh mang tính ý thức hệ" như luận điệu xuyên tạc lịch sử".
Tương tự, các nhà lý luận của Đảng vẫn nói chiến thắng năm 1975 "không phải là cuộc "nội chiến", "huynh đệ tương tàn" như có người từng lầm tưởng hoặc cố tình xuyên tạc".
Nhưng viết trên Facebook cá nhân đúng ngày 30/4/2022, ông Nguyễn Đình Bin nói "lồng vào cuộc chiến tranh ái quốc của dân tộc ta chống ngoại xâm là cuộc nội chiến".
Ngày 30/4/1975 'chấm dứt thế kỷ đau thương'
Nói về sự kiện lịch sử 30/4/1975, ông Nguyễn Đình Bin viết :
"Đó là ngày chấm dứt vĩnh viễn trên một thế kỷ đau thương, đất nước và dân tộc ta là nạn nhân của ách thống trị và chiến tranh xâm lược của ngoại bang. Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập. Nguyên nhân thứ nhất tạo ra cuộc chiến nồi da nấu thịt đã bị xóa bỏ !
Đó là ngày thống nhất Tổ quốc, sau hơn hai thập kỷ bị chia ly xé lòng !
Đó cũng là ngày kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn !"
Ông nói tiếp : "Chỉ có bên thắng cuộc duy nhất là dân tộc Việt Nam ; là đại nghĩa "Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do" ; là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam ; là hòa bình.
Bên thua cuộc duy nhất là các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược nói trên ; là phi nghĩa ; là chiến tranh !"
Chủ nghĩa Marx-Lenin 'lỗi thời'
Trong bài viết, ông Nguyễn Đình Bin tiếp tục bày tỏ quan điểm trái với lập trường chính thống của Đảng khi nói về chủ nghĩa Marx-Lenin.
"Mặt khác, sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng như cải cách mở cửa của Trung Quốc từ 1978 và đổi mới về kinh tế ở Việt Nam từ 1986 đã chứng minh hùng hồn là mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Marx - Lenin đã thực sự lỗi thời, đã bị lịch sử đào thải".
"Trong khi đó, tất cả các quốc gia phát triển nhất, giầu có nhất, văn minh nhất trên thế giới mà nước ta đang ra sức phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn đầu tư, khoa học, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý, chẳng có một nước nào theo con đường Marx - Lenin và chủ nghĩa xã hội cả".
Nhưng bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được công bố ngày 16/5/2021, được xem là văn bản thuộc hàng quan trọng nhất gần đây về nền tảng lý luận của Đảng.
Trong đó, ông Nguyễn Phú Trọng nói : "Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Marx - Lenin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Marx-Lenin và con đường xã hội chủ nghĩa ! Thực tế có phải như vậy không ?".
Ông Nguyễn Phú Trọng khẳng định : "Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Marx- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản".
Nhưng bài của ông Nguyễn Đình Bin nói : "Nước ta đã thực hiện đa dạng, đa phương hóa quan hệ, làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt lập trường tư tưởng, chế độ chính trị ; bình thường hóa và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện với tất cả các nước đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, như đã nói trên. Tức là, trên thực tế, Đảng đã từ bỏ các quan điểm Marx-Lenin, xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và đối ngoại rồi".
'Đảng trị, độc quyền'
Trong bài viết dài ngày 30/4/2022, ông Nguyễn Đình Bin nói : "Thế mà, dù đã có nghị quyết về đổi mới toàn diện và đồng bộ, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn chưa thực hiện đổi mới thật sự về chính trị, vẫn kiên trì níu giữ mô hình quản lý đất nước cũ - hệ thống chính trị hiện hành - theo quan điểm Mác - Lênin, xã hội chủ nghĩa, thực chất là Đảng trị, độc quyền, không dân chủ, đã quá lẻ loi, lạc lõng, lỗi thời trên thế giới.
Đây chính là điều đã và đang ngăn cản dân tộc ta hàn gắn vết thương nội chiến, thực hiện hòa giải, hòa hợp, đại đoàn kết".
Năm kiến nghị
Ông Nguyễn Đình Bin nêu ra năm kiến nghị :
1. Khẩn trương chuẩn bị và tổ chức các "Hội nghị Diên Hồng" rộng mở, tập hợp tất cả chuyên gia, trí thức tâm huyết và tài năng ở trong và ngoài nước
2. Trả lại tự do cho những người đang bị giam giữ chỉ vì bất đồng chính kiến, phê phán các chủ trương, chính sách cũng như lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ; thực sự tôn trọng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí
3. Truy phong Liệt sĩ và khen thưởng xứng đáng các sĩ quan, binh lính, viên chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa, tháng 1/1974
4. Chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và thân nhân
5. Xây dựng một Tượng đài xứng đáng, đặt tại Thủ đô Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, để tưởng niệm tất cả con dân Việt đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua
Vào năm 2017, ông Nguyễn Đình Bin, sinh năm 1944, đã nhận huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.
Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII (1996-2001).
Nguồn : BBC, 30/04/2022
**********************
RFA, 29/04/2022
Trước ngày 30/4 năm nay, như thường lệ, báo chí Nhà nước Việt Nam lại đăng hàng loạt bài viết ca ngợi sự kiên được gọi với cái tên "Đại thắng mùa xuân". Cùng lúc, các quan chức trong các bài phát biểu của mình cũng không quên nhắc đi nhắc lại chủ trương xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam từ hàng chục năm qua đó là chính sách "hòa hợp, hòa giải" dân tộc.
Tránh và "dẹp" biểu tượng Việt Nam Cộng Hòa
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều nhà quan sát, bình luận tình hình kinh tế, chính trị Việt Nam cho rằng, sau 47 năm, ngay đến những biểu tượng của chính thể Việt Nam Cộng Hòa như cờ vàng ba sọc, trang phục Quân lực Việt Nam Cộng Hòa hay những tác phẩm nghệ thuật của miền Nam ngày xưa, tưởng chừng như vô hại, nhưng đến nay vẫn bị Chính quyền Hà Nội cấm đoán, tìm cách "triệt tiêu", thì nói gì tới chuyện thật lòng hòa giải.
Điển hình một vài sự kiện xảy ra gần đây đã phần nào minh chứng cho lập luận trên. Cụ thể, Đài truyền hình VTV đã phát trễ đến 10 phút trận bóng đá giữa đội tuyển bóng đá Việt Nam và Úc hôm 27/1/2022, vì lý do được truyền thông nhà nước đưa ra là do lo ngại về an ninh quốc gia.
Trên thực tế, việc tiếp sóng trễ 10 phút được một người Úc gốc Việt nói với RFA rằng là do VTV phải xử lý, không để hình ảnh cờ vàng xuất hiện trên sóng.
Một vụ việc tương tự cũng đã xảy ra tại hiệp hai trận bóng đá nam giữa hai đội tuyển Việt Nam - Nhật Bản ở vòng loại cuối của World Cup 2022 khu vực Châu Á diễn ra vào tối 29/3/2022 chỉ vì trên khán đài xuất hiện lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Một quán cà phê tên Army, ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã bị cơ quan chức năng đóng cửa hồi tháng 4/2021 do cách bài trí có nhiều hình ảnh, vật dụng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Nguyễn Vũ Bình, từng làm việc hơn 10 năm tại Tạp chí cộng sản cho rằng những sự việc như vừa nêu, thể hiện rằng lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa thật lòng trong câu chuyện "hòa giải dân tộc" :
"Đối với những biểu tượng có tính chất là thiêng liêng, ví dụ như lá cờ thì có những thời kỳ người ta cũng không gắt gao lắm. Ví dụ như biểu tình cá chết hồi năm 2016 ở miền Trung, người ta còn mang cờ vàng ba sọc đỏ đi. Nhưng sau đó thì bị siết lại, bây giờ họ (Nhà nước Việt Nam - PV) đối xử rất là khắc nghiệt đối với những biểu tượng thiêng liêng như là lá cờ.
Còn lại những biểu tượng khác của Việt Nam Cộng Hòa như nghĩa trang Biên Hòa thì lúc mở lúc thắt, nhưng mà không có chuyện là bình thường hóa. Người ta vẫn phân biệt đối xử những người thương phế binh. Mồm thì nói là "hòa giải hòa hợp" nhưng vẫn phân biệt đối xử.
Đáng ra, đó là những cái đã thuộc về quá khứ, thuộc về kỷ niệm thì cái chuyện mà người ta phục dựng lại, trang trí lại có vấn đề gì đâu.
Còn việc lá cờ ở các trận bóng đá thì là họ sợ đến cái mức độ như thế. Họ sợ lan truyền ảnh hưởng, trên nền tinh thần là đàn áp trong những năm vừa rồi rất khốc liệt".
Ông Hoàng Ngọc Diêu, từ nước Úc cho rằng, các hành động của Chính phủ Hà Nội cho thấy một chính thể yếu ớt, không tự tin và muốn khoả lấp quá khứ :
"Tôi cho rằng đó là hành động ngây ngô và con nít của một chính phủ không trưởng thành và không tự tin. Nếu một chế độ mạnh mẽ, vững vàng và được người dân tin yêu một lòng đứng dưới cờ Đảng như cách mấy ông lãnh đạo thường nói thì mắc mớ gì phải sợ lá cờ vàng.
Cái đó là biểu hiện không những của sự yếu ớt của chế độ, mà đó là sự cố tình muốn khỏa lấp quá khứ, che đậy quá khứ".
"Hòa hợp hòa giải - một chính sách giả tạo"
Ông Vũ Quang Hiển, Giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội trả lời mạng báo VOV nhân 47 năm ngày kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam, rằng (xin trích lại nguyên văn) :
"Vẫn còn những thái độ hằn học, thù địch, hiểu không đúng về sự kiện lịch sử này… Đó chỉ là một bộ phận rất nhỏ. Đã là người Việt Nam thì dù họ ở phía nào, nhưng khi đất nước đã thống nhất, đã hòa bình thì nên có thái độ cầu thị.
Rất nhiều đồng bào Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau đã ra đi sau chiến thắng 30/4, nhưng nay đã có cái nhìn khác về đất nước trong một tiến trình đổi mới và hội nhập. Tôi tin rằng, nếu kiên trì thì chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc của chúng ta sẽ thành công".
Bình luận về phát ngôn trên của ông Hiển, ông Nguyễn Vũ Bình cho rằng : "Cho nên "hòa hợp, hòa giải" đối với họ (Nhà nước Việt Nam - PV) là tuyên truyền, giải thích, vận động cho những người đã hiểu sai như thế hiểu đúng lại theo quan điểm của họ, thì đó là cái cách mà họ triển khai chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc. Từ trước đến giờ họ luôn luôn làm như vậy.
Còn các quan điểm mà tôi cho là đúng là đáng ra phải mở ra cho người dân được tự do dân chủ thì tự khắc là sẽ hòa giải hòa hợp được. Chỉ khi nào Đảng và Nhà nước trả lại tự do dân chủ cho người dân cho đất nước khi lúc đó mới nói đến chuyện hòa giải và hòa hợp được".
Mạng báo Quốc phòng Thủ đô trong một bài viết vào tháng 5/2021 cho biết "hòa hợp, hòa giải" dân tộc là chủ trương nhất quán của Bộ Chính trị từ nhiều năm nay, được thể hiện cụ thể qua Nghị quyết 36 về "Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", được ban hành từ năm 2004.
Ông Hoàng Ngọc Diêu, một thuyền nhân, đã từng nhiều lần vượt biên rời khỏi Việt Nam sau năm 1975 nhưng mãi đến năm 1988 mới đến được nước Úc, nói với RFA rằng Nghị quyết 36, cũng như "khúc ruột ngàn dặm", hay "hòa hợp hòa giải" chỉ là một chính sách què quặt, khiếm khuyết và không thành thật của Nhà nước Việt Nam :
"Chuyện hòa hợp hòa giải chỉ mang tính hình thức. Bản chất thì nó vẫn cần chất xám và tiền bạc của những người ở hải ngoại với danh nghĩa là đóng góp về để xây dựng đất nước.
Nhưng mà xây dựng đất nước thì nó đâu chỉ có vấn đề là chất xám và tiền bạc. Nó còn có những tiêu chuẩn đạo đức và những tiêu chuẩn cần thiết cho một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thật sự.
Những cái đó thì Đảng và Nhà nước họ hoàn toàn nghiêm cấm, không cho bất kỳ một hình thức phản đối hay phê bình nào thì làm sao để hòa hợp hòa giải.
Không bao giờ tôi đóng góp, bởi vì nó chỉ mang tính hình thức và không có trung thực. Làm sao mình có thể đóng góp cho những chuyện không trung thực, điều đó hoàn toàn đi ngược lại các nguyên tắc của tôi".
Người tỵ nạn Việt Nam trên tàu vượt biển được tàu bệnh viện của Pháp có tên L'Ile de Lumière cứu ở Biển Đông hôm 8/7/1979. AFP
Làm sao "xếp lại" câu chuyện quá khứ ?
Chia sẻ thêm về câu chuyện của mình, ông Diêu nói ông không coi ngày 30/4 là "ngày Quốc hận" hay "Tháng tư đen" mà đó là một ngày lịch sử làm thay đổi vận mệnh của toàn bộ dân tộc Việt Nam :
"Tôi bỏ nước ra đi năm 1988. Tôi sống dưới chế độ đó 13 năm. Đối với tôi, những chuyện kinh hoàng của một biến cố từ sau 30/4, có những chuyện đã ghi sâu vào ký ức mà mình không bao giờ quên được. Lúc đó là tuổi mình đang lớn nên tạo thêm những ấn tượng rất sâu đậm mà mình không bao giờ quên được.
Bản thân tôi không gọi biến cố đó là "ngày quốc hận" hay "tháng tư đen". Đối với tôi, nó đơn giản là một ngày biến chuyển định mệnh của cả một dân tộc Việt Nam, và nó tạo ra một sự chia rẽ vô cùng sâu sắc mà cho đến ngày giờ này không thể nào hàn gắn lại được. Một bên gọi là "bên thắng cuộc" và một "bên thua cuộc" nó cứ dùng dằn, kéo mãi suốt 47 năm mà không phai nhạt một chút nào hết".
Đối với ông, để xếp lại câu chuyện quá khứ thì những chuyện gì đã xảy ra, đã là lịch sử phải được đặt để lại đúng vị trí của nó. Những ai làm sai điều gì phải công nhận là mình sai và xin lỗi, chứ không phải chỉ nói bằng lý thuyết trong Nghị quyết 36 rằng phải gạt bỏ quá khứ, hướng tới tương lai là xong chuyện.
Ngoài ra, theo ông Diêu, một đất nước Việt Nam có tự do, dân chủ thực sự, không còn cảnh bắt bớ, bỏ tù những người phản biện, cũng là lý do để cộng đồng người Việt hải ngoại như ông bỏ qua mọi chuyện cũ :
"Tôi không ưa cái chế độ, cũng như không ưa Chính phủ do Đảng cộng sản cầm quyền, nhưng điều đó không có nghĩa rằng tôi không còn tình yêu quê hương đất nước. Tôi vẫn thương đất nước Việt Nam và con người Việt Nam. Tôi vẫn trăn trở cho đất nước Việt Nam.
Việt Nam là con người là quê hương chứ không phải là chế độ. Cái chế độ chỉ là một cái thực thể nó đang kiểm soát đất nước con người và nó làm cho đất nước bị lụn bại không phát triển được :
Đối với bản thân tôi, nếu như đất nước Việt Nam ngày giờ này nó thực sự dân chủ, phồn thịnh, tốt đẹp thì có lẽ mọi chuyện tôi sẽ xếp lại".
Nguồn : RFA, 29/04/2022
**********************
Vì sao tháng 4 vẫn là thời điểm làm người Việt nhức nhối ?
Trân Văn, VOA, 28/04/2022
Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra đồng tâm.
Tại một sự kiện tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Little Saigon, California.
Sắp hết tháng thứ tư của năm 2022 và dù sắp tròn 47 năm kể từ sự kiện 30/4/1975 nhưng tháng tư năm nay vẫn là thời điểm cho thấy sự kiện "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" không thống nhất được nhân tâm dù hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không ngừng đề cao "hòa hợp, hòa giải"...
Không chỉ ở hải ngoại, tại Việt Nam, nhờ Internet và thực trạng quốc gia trong 47 năm qua, đặc biệt là thời gian gần đây đã khiến nhận thức về sự kiện 30/4/1975 đang tiếp tục thay đổi cả trên diện rộng lẫn chiều sâu, ngược chiều với nỗ lực tuyên truyền về cuộc "kháng chiến chống Mỹ" nhằm "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" !
Ví dụ, Nguyễn Thiện góp ý về "Ngụy" :Cách đây nhiều năm, báo Tuổi Trẻ đề nghị tôi viết suy nghĩ về 30tháng 4. Tôi nêu ý kiến là phải chấm dứt việc gọi Việt Nam Cộng Hòa (Việt Nam Cộng Hòa) là "ngụy" và Tuổi Trẻ lúc ấy đã đăng. Theo dõi, tôi thấy thay đổi chậm, nhiều phim tài liệu chiếu trên Đài Truyền hình Quốc gia vẫn ra rả "ngụy".Tôi mong dịp 30tháng 4 này, Bộ Chính trị có văn bản chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị không được gọi Việt Nam Cộng Hòa là ngụy. Nếu điều đó được làm với sự thành tâm thì không chỉ nhằm hòa giải đoàn kết dân tộc mà còn liên quan mật thiết đến tính pháp lý khi chúng ta khẳng định với thế giới rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam(1).
Ví dụ, Nguyễn Đình Bin – cựuỦy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, cựuThứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài– nhấn mạnh "thiết tha kiến nghị" của ông :Truy phong "Liệt sĩ" và khen thưởng xứng đáng các sĩ quan, binh lính, viên chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc ởHoàng Sa. Đó là những người con đích thực của dân tộc Việt Nam. Thực hiện đầy đủ chính sách người có công hiện hành đối với họ và thân nhân, cũng như tất cả sĩ quan, binh lính, viên chức khác của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và đồng bào miền Nam đã có công tham gia phục vụ cuộc chiến đấu lịch sử này.
Ông Bin đề nghị :Xây dựng tượng đài xứng đáng về sự kiện hảichiến ở Hoàng Sa tại thành phố Đà Nẵng.Xây dựngtượng đài xứng đáng tưởng niệm các Liệt sĩ Gạc Ma và nhữngngười đã anh dũng hy sinh bảo vệ quần đảo Trường Sa tại thành phố Nha Trang. Xây dựng tượng đài xứng đáng, đặt tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh để tưởng niệm tất cả đồng bào ta, dù ở bên này hay bên kia, đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua, nói cho cùng, cũng như toàn thể dân tộc ta, đều là nạn nhân của đại họa ngoại bang đến thống trị và xâm lược nước ta và của cuộc xung đột tư tưởng Đông – Tây trực tiếp đã diễn ra trên đất nước ta.
Ông Bin còn đề nghị :Chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và thân nhân.Theo ông : Các việc làm nói trên sẽ lay động mọi trái tim Việt, khơi dậy và thổi bùng nhiệt huyết yêu nước, tình nghĩa đồng bào, góp phần hòa giải, hòa hợp, hàn gắn vết thương dân tộc sau gần nửa thế kỷ chiến tranh chấm dứt vẫn còn rỉ máu, kết nối mọi con cháu các Vua Hùng, ở trong cũng như ngoài nước, thành một khối, đồng lòng sát cánh cùng nhau chung sức đạp bằng mọi chông gai, trở ngại, đưa non sông gấm vóc bật dậy, đuổi kịp và sánh vai tiến bước cùng các quốc gia giầu mạnh, tiên tiến trên thế giới, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc đã và đang bị Trung Quốc vi phạm, xâm lấn nghiêm trọng (2)...
Giống như 47 năm qua, tháng tư năm nay, có rất nhiều người hồi tưởng về những gì họ đã trải qua trước, trong cũng như sau sự kiện 30/4/1975, chẳng hạn trên "Trang văn chương miền Nam" (3), Thanh Luu đề nghị mỗi người trong số hơn 75.000 thành viên kể lại chuyện của chính họ (4)...
30 tháng 4 năm nay, Hoang Ngoc Dieu công bố một tài liệu được lưu trữ trong kho dữ liệu của "Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh" (hình thành sau tháng 4/1975 và đã được tách ra thành Phú Yên và Khánh Hòa). Theo Hoang Ngoc Dieu thì trong quá trình lục lọc, tìm kiếm tài liệu, ông tìm được tài liệu này – bản thống kê tên chủ sở hữu và địa chỉ những bất động sản bịĐảng cộng sản Việt Nam "tịch thu" sau khi "giải phóng hoàn toàn miền Nam". Hoang Ngoc Dieu nhấn mạnh, danh sách bất động sản bị tịch thu và nay ông công bố chỉ trong phạm vi thị xã Nha Trang – nơi theo thống kê của Nha Điền địa chỉ có khoảng hơn 10.000 gia đình nhưng có tới hơn 1.000 gia đình bị "tịch thu" nhà.
Ngoài việc đề nghị mọi người tham khảo, Dieu lưu ý :Ai có tên trong danh sách hoặc ai đang cư ngụ ở những địa chỉ có trong danh sách thì nên biết rằng, năm xưa, từng căn nhà trong danh sách này đã từng là mái ấm – nơi cư trú của gia đình nào đó rồi bị cướp đoạt sau khimiền Nam "được giải phóng" (5).
Từ danh sách mà Hoang Ngoc Dieu công bố, Như Hiếu – một friend của Dieu – kể thêm câu chuyện về gia đình bác gái. Vợ chồng bà có bốn người con ngụ ở Nha Trang. Họ có nhà và một dãy phòng trọ cho thuê. Sau khi miền Nam "được giải phóng", gia đình này không chỉ tan tác mà còn mất sạch tài sản. Đầu tiên là dãy phòng trọ cho thuê bị tịch thu, kế đó là họ bị "tịch biên tài sản" vì là "tư sản". Trắng tay, họ bỏ Nha Trang vào Thành phố Hồ Chí Minh ở trọ nhà sui gia rồi mất Con cái họ đã bỏ xứ đi ngoại quốc. Như Hiếu cho biết :Anh chị họ của tôi giờ đang ở bên Mỹ. Tuy không tiện để hỏi cho tường tận nhưng tôi biết chắc toàn bộ tài sản của họ đều lọt vào tay "tộc cối" !..
***
Cho dù vẫn đề cao "hòa hợp, hòa giải" nhưng những diễn biến về mặt nhận thức trong tất cả các giới ở Việt Nam như vừa kề đã khiến hệ thống chính trị, hệ thống công quyền buộc phải tự lột mặt nạ, một số cơ quan truyền thông trong hệ thống truyền thông chính thức như Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, trước nay luôn sắm vai "xung kích" để bảo vệ "sự đúng đắn" củaĐảng cộng sản Việt Nam, giờ bị đẩy vào thế phải sổ toẹt "hòa hợp, hòa giải" hay "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" Theo Quân Đội Nhân Dân thì "Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa" (6).
Bất kể các tư liệu lịch sử đã được bạch hóa cả ở trong lẫn ngoài Việt Nam, chứng minhĐảng cộng sản Việt Nam đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam suốt 20 năm, chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam đã vi phạm các cam kết với cộng đồng quốc tế trong những hiệp định như Geneve (1954), Paris (1973), vừa xin, vừa vay đủ thứ từ các quốc gia trong khối cộng sản, vừa đón ngoại nhân vào lãnh thổ để gia tăng nguồn lực xâm chiếm miền Nam, thì "hòa hợp dân tộc" vẫn là phải cúi đầu thừa nhận sự kháng cự của miền Nam Việt Nam là "phi nghĩa" và "chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới".
Với quan điểm như thế, Công An Nhân Dân xếp những người không chấp nhận "hòa hợp, hòa giải" bằng cách cúi đầu thừa nhận "chính nghĩa" của cuộc chiến 21 năm doĐảng cộng sản Việt Nam khởi xuống để "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" là "chống đối", xếp việc có chính kiến khác với quan điểm của đảng về cuộc chiến này là "giữ cách nhìn thù hận về đất nước, quê hương". Lên án họ "không có khái niệm hòa hợp", thiếu thiện chí, "chứng tỏ sự bảo thủ, định kiến trước sự đổi mới, mở cửa của đất nước cũng như truyền thống bao dung, chung lòng đất mẹ, ân nghĩa một nhà…". Khuyên họ "hướng về nguồn cội bằng sự chân thành chứ không phải là đặt điều kiện" (7).
***
Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra đồng tâm. Tại sao "hòa hợp, hợp giải" thất bại, thậm chí càng ngày càng nhiều người Việt nhận thức lại về cuộc chiến "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", về sự kiện 30/4/1975 ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 28/04/2022
Chú thích :
(1) https://www.facebook.com/nguyenthien.haihuoctutrao/posts/10221809446605448
(2) https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841/posts/5106092716119686
(3) https://www.facebook.com/groups/395853348109312
(4) https://www.facebook.com/groups/395853348109312/posts/735055564189087/
(5) https://www.facebook.com/HND.Activist/posts/5242213912467540
(7) https://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/dat-me-bao-dung-i651611/
[1] Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, In lần thứ ba, 2001.
[2] Tuyển tập Lý Đông A, Chu Trí Lục, Hội học Thắng Nghĩa, 2016 - 4895 T.V.
Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975
Nguyễn Quang Duy, 29/04/2020
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt.
Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản.
Xuân Lộc: Tường thuật của BBC tháng 4/1975
Bao vây Sài Gòn
Quân Bắc Việt bị cầm chân tại Xuân Lộc hơn 10 ngày nên tẽ sang các ngã khác tiến về Sài Gòn.
Tối ngày 21/4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Đài truyền hình tuyên bố từ chức, Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay, phía Cộng sản tuyên bố chỉ nói chuyện với Đại tướng Dương Văn Minh, phía miền Nam chấp nhận, Tổng thống Trần Văn Hương thu xếp từ chức.
Ngày 14/4/1975, miền Bắc ra chỉ thị mọi cánh quân phải tập trung quanh Sài Gòn vào ngày 26/
4, khởi sự tấn công ngày 28/4/1975, cũng đúng ngày đó Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố nhậm chức Tổng Thống.
Sáng ngày 29/4/1975, Đại Tướng Dương Văn Minh gởi Tối Hậu Thư buộc người Mỹ phải rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Người Mỹ di tản
Ngay từ đầu tháng 4/1975, công dân Mỹ, những người lập gia đình với Mỹ, những người làm việc cho Mỹ và thân nhân được đưa vào Tân Sơn Nhất để rời khỏi Việt Nam.
Ngày 23/4, phát biểu tại Đại học Tulane tiểu bang Louisiana, Tổng thống Gerald Ford cho biết Bắc Việt sẽ chiến thắng và chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
Ngày 25/4, Dân biểu Đảng Cộng hòa tiểu bang Michigan, ông William Broomfield cho biết phía Hoa Kỳ đã có một thỏa thuận ngầm, Bắc Việt sẽ không tấn công Sài Gòn trước ngày thứ hai 28/4/1975 để Mỹ có đủ thời gian di tản khỏi Việt Nam, Ngoại trưởng Kissinger phủ nhận nguồn tin.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 28/04/1975, Bắc Việt sử dụng 5 phi cơ A37 từ phi trường Phan Rang tấn công Tân Sơn Nhất và đêm hôm đó pháo binh cộng sản từ Cát Lái đã pháo kích vào phi trường.
Đặc công cộng sản cũng đã vào sát phi trường nên các phi cơ chở người di tản không thể cất cánh.
Hoa Kỳ cấp tốc mở chiến dịch di tản bằng trực thăng tại hai địa điểm chính là Trụ sở cơ quan DAO (Defense Attache Office) bên trong phi trường Tân Sơn Nhất và trên nóc Tòa Đại sứ Mỹ.
Đến 7 giờ 30 tối ngày 29/4/1975, Mỹ đã di tản tất cả nhân viên DAO mang theo những tài liệu quan trọng, rồi đặt mìn giật sập trụ sở DAO phá hủy máy móc và hồ sơ sót còn lại.
Đêm hôm đó, phi trường Tân Sơn Nhất bị cộng sản liên tục pháo kích, nhiều người di tản kẹt trong phi trường bị chết hay bị thương, phi trường phải ngừng hoạt động.
Nguyên đêm 29/4/1975, các trực thăng Mỹ di tản liên tục bay qua các vùng cộng sản đóng quân nhưng không hề bị tấn công.
3 giờ 30 sáng 30/4/1975, Đại sứ Mỹ Graham Martin lên trực thăng ra đi, đến 8 giờ 30 sáng cuộc di tản chấm dứt với chừng 5.500 người được Mỹ đưa đi.
Vẫn còn 70 công dân Mỹ không được di tản, 2 xác Thủy quân lục chiến Mỹ còn quàn tại nhà xác bệnh viện Chúa Cứu Thế, nhiều nhân viên Việt làm cho Tòa Đại sứ và hầu hết những người có tên trong danh sách 140 ngàn người được Bộ ngoại giao Mỹ cho di tản đều bị kẹt lại ở Việt Nam.
Phi vụ cuối cùng…
Theo nhà văn Quân đội Phan Nhật Nam, vào sáng 29/4/1975, từ Tân Sơn Nhất Trung úy phi công Trang Văn Thành lái chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời.
Từ trên cao, anh thấy rõ những vị trí của pháo binh cộng sản, anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh phi cơ, phòng không cộng sản phản pháo, nhưng phi cơ thoát được lưới đạn.
Phi công Thành quay trở lại phi trường, nạp đạn vào phi cơ, tiếp tục bay thẳng đến phía pháo binh cộng sản nhả đạn, máy bay trúng đạn phòng không, ngang cánh trái, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.
Anh Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân thoát ra, nhưng chốt kẹt cứng, anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh, vướng vào khung cửa phi cơ.
Phi Công Trang Văn Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa, chiếc C119 Hỏa Long chìm trong lửa, anh gục chết giữa không gian, trên quê hương, hoàn tất phi vụ cuối cùng.
Giờ Sài Gòn giờ Hà Nội…
Ngày 30/4/1975, miền Bắc và miền Nam có 2 cách tính giờ khác nhau, giờ Sài Gòn đi trước giờ Hà Nội 1 tiếng đồng hồ.
Đọc các bài viết về ngày 30/4/1975 có người dùng giờ Sài Gòn có người dùng giờ Hà Nội, có bài viết chỗ dùng giờ Hà Nội chỗ dùng giờ Sài Gòn, bài này tôi cố gắng chuyển sang giờ Sài Gòn cho bạn đọc dễ theo dõi.
Hai chiếc xe tăng…
9 giờ 30 sáng 30/4/1975, quân Bắc Việt vượt cầu Sài Gòn, binh sĩ miền Nam kháng cự dữ dội, có ít nhất 4 xe tăng và hằng trăm bộ đội chết trong trận này.
Đoàn xe bọc thép gồm 22 chiếc M113 từ Hậu Nghĩa theo quốc lộ 8 về Sài Gòn lập chốt tại chân Cầu Bông
Khoảng 10 giờ 30 sáng, máy phát thanh liên tục phát lời Đại Tướng Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ ngừng bắn sửa soạn bàn giao cho phía bên kia.
Cầu Sài Gòn là mũi tiến chính của quân Bắc Việt, trước hỏa lực quá hùng hậu của đối phương, súng hết đạn binh sĩ miền Nam rút dần.
3 xe tăng Bắc Việt vượt cầu Sài Gòn, tìm đường đến Dinh Độc Lập, một chiếc bị bắn cháy ở cầu Thị Nghè, hai chiếc còn lại chạy lạc đường phải nhờ người hướng dẫn.
Chừng 11 giờ 45 chiếc xe tăng mang số 843 chạy tới Dinh Độc Lập húc vào cổng phụ bị đứt bánh xích nên kẹt không vào được.
Chiếc tăng số 390 đến sau ít phút húc đổ cổng chính chạy vào trước tiên, nhưng vì là T59 sản xuất tại Trung Quốc, nên trong một thời gian dài phải nhường công chạy vào Dinh trước cho chiếc T54 mang số 843 sản xuất tại Liên Xô.
Chuyện hai lá cờ…
Lá cờ xanh đỏ sao vàng của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam đầu tiên được cắm trên nóc dinh Độc Lập là lá cờ treo trước mũi xe tăng mang số 843 do Trung úy đại đội trưởng Bùi Quang Thận lấy xuống và mang lên nóc Dinh treo.
Số phận lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa một thời gian dài được Hà Nội đưa tin là từ nóc Dinh được ném xuống đất, sau này mới biết được Trung Úy Bùi Quang Thận cẩn thận giữ riêng làm kỷ niệm.
Trong bộ phim tài liệu về ngày 30/4/1975, đóng vào đầu tháng 5/1975, ông Bùi Quang Thận mang một lá cờ xanh đỏ sao vàng rất to, không phải là lá cờ cắm trên chiếc xe tăng mang số 843.
Số phận lá cờ xanh đỏ sao vàng được ông Thận đầu tiên cắm trên nóc Dinh Độc Lập không rõ ra sao, vì nó vừa cũ vừa nhỏ nên ngay trưa hôm đó được thay thế bằng một lá cờ mới và lớn hơn.
Ai bắt đầu hàng…
Nhà báo Bùi Tín dựa theo các bài ông viết đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân vào đầu tháng 5/1975, tự nhận ông là sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam có mặt sớm nhất tại Dinh Độc Lập, là người đi cùng đơn vị xe tăng đầu tiên đâm đổ cổng Dinh Độc Lập, và là người trực tiếp chấp nhận tuyên bố đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh.
Theo phóng viên người Đức Von Boric Gallasch (lấy bút hiệu Tiziano Terzani), tờ Der Spiegel, thì Đại Úy Phạm Xuân Thệ là người đã theo hai chiếc xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Còn Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, đến sau nhưng chính là người soạn Tuyên Bố đầu hàng cho Tướng Dương Văn Minh và ông Tùng đọc Tuyên Bố chấp thuận đầu hàng.
Xém đụng trận ngay trước Dinh
Phóng viên Boric Gallasch chứng kiến một số binh sĩ miền Nam rời khỏi Dinh Độc Lập, có thể ông không biết các binh sĩ này do 1 thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ phụ trách phòng thủ sân bay Tân Sơn Nhứt đến Dinh để hỏi rõ về lời kêu gọi ngừng bắn và bàn giao của Đại tướng Dương Văn Minh.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho biết cánh quân này không chấp nhận đầu hàng, họ chỉ rời đi ít phút trước khi hai xe tăng 843 và 390 ủi sập cổng Dinh Độc Lập.
Tại Tân Sơn Nhất cánh quân này vừa bắn cháy 3 xe tăng Bắc Việt, nếu hai xe tăng 843 và 390 biết đường chạy thẳng đến Dinh đã đụng độ với cánh quân nói trên và lịch sử có thể đã khác đi.
Ở một số địa điểm như Tân Sơn Nhất, trại Hoàng Hoa Thám, Bộ Tổng tham mưu,… một số binh sĩ miền Nam vẫn kháng cự cho đến khi Đại tướng Dương Văn Minh đọc Tuyên bố đầu hàng.
Còn ở các nơi khác vì lực lượng cộng sản quá hùng hậu, binh lính miền Nam rút về phía trung tâm Sài Gòn, đến khi nghe tướng Minh kêu gọi ngừng bắn thì tự động buông súng tan hàng hay buông súng khi thấy sự xuất hiện của quân miền Bắc.
Không máy ghi âm…
Phóng viên Boric Gallasch cho biết Đại tướng Dương Văn Minh định thu băng lời Tuyên Bố Đầu Hàng nhưng vì không tìm thấy chiếc máy ghi âm nên mới phải sang Đài phát thanh.
Ông Terzani viết : "nhân viên (Dinh Độc Lập) bỏ trốn mang đi tất cả những gì họ có thể cuỗm".
Sang Đài Phát Thanh cũng không tìm thấy máy ghi âm nào, ông viết : "Tòa nhà cũng vừa trải qua những trận hôi của" nên cuối cùng phải dùng chiếc máy ghi âm nhỏ của ông để thu lời Tuyên Bố đầu hàng.
Nhận xét của ông Boric Gallasch thiếu công bình cho những người miền Nam, vì đa số các nhân viên Dinh Độc Lập hay Đài phát thành khi ấy đều muốn bỏ của họ gầy dựng bao năm để chạy thoát cộng sản.
Những chiếc máy ghi âm vừa gọn, vừa nhỏ, vừa lạ, vừa quý, là kỷ niệm tiếp thu Sài Gòn, người bộ đội có thể mang về miền Bắc khoe với gia đình.
Xin đừng nghĩ xấu cho họ, đó là việc làm bình thường của những người chiến thắng cần có chút gì làm kỷ niệm, nhờ thế Trung úy Bùi Quang Thận mới giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong suốt 20 năm.
Đạn lạc…
Xe tăng, xe thiết giáp, quân xa chở lính miền Bắc đổ về dinh Độc Lập mỗi lúc một đông, những tràng súng chỉ thiên mừng chiến thắng nổ vang trời, khói súng mịt mù.
Người lính Bắc Việt thuộc tiểu đoàn 7 bộ binh tên Tô Văn Thành đang ngồi trên thành xe tăng bị trúng đạn rớt xuống đường, chết ngay trước dinh Độc Lập.
Báo chí đưa tin ông Thành bị Biệt kích dù 81 từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao bắn chết, nhưng đạn lạc thì đúng là nguyên nhân dẫn đến cái chết kết thúc trận chiến kéo dài trên 20 năm.
Vị Quốc vong thân…
Nhắc đến 30/4/1975, không nhắc đến 5 vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú và Lê Nguyên Vỹ và hàng ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoàn tuẫn tiết quả là điều thiếu sót.
Những anh hùng Vị quốc vong thân…
Tại thành phố Melbourne, nơi gia đình tôi đang sống, những anh hùng vị quốc vong thân được thờ trong Đền thờ Quốc tổ và có Tượng đài để ghi nhận ân đức những người đã chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do trong hơn 20 năm.
Đoàn quân cuối cùng…
Nhà tôi ở Bàn Cờ chỉ cách Dinh Độc lập chừng 4 cây số, khoảng 12 giờ trưa những tiếng súng mừng chiến thắng làm mọi người tưởng lầm là cộng sản đang đánh chiếm Dinh.
Đến 1 giờ trưa, Đại tướng Dương Văn Minh lên Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng, bà con lối xóm đều vui vì chiến tranh chấm dứt, nhưng lại lo âu khi nghĩ đến tương lai.
Chừng 1 giờ 30, chính mắt tôi chứng kiến một đội lính Việt Nam Cộng Hòa chừng 20 người đủ mọi binh chủng đi đầu là một sĩ quan Dù rất trẻ mang súng lục, những người đi sau súng ống đầy đủ, hàng ngũ chỉnh tề, tiếp tục bảo vệ người dân khu phố.
Những người lính cộng hòa chỉ tan hàng khi thấy bóng dáng của bộ đội cộng sản, chính nhờ họ Sài Gòn mới được chuyển giao một cách bình yên cho Quân đội Bắc Việt.
Những người cộng sản đầu tiên…
Chừng 2 giờ trưa, tôi đi bộ ra đường Phan Đình Phùng, súng ống và quần áo quân nhân rải rác hai bên đường, dân chúng đã bắt đầu đổ ra đường, vẫn chưa thấy bóng dáng của những người cộng sản vào tiếp thu khu vực.
Tôi chuyển sang đường Hồng Thập Tự, hướng về Dinh Độc Lập, đã thấy một số bộ đội cộng sản trên những xe Jeep với lá cờ xanh đỏ sao vàng.
Một số biệt thự chủ nhân đã di tản bị hôi của, bộ đội bắn chỉ thiên giải tán, nhưng không dám đến gần đám đông để tịch thu đồ vật.
Tôi đến Dinh Độc Lập sau 3 giờ chiều, bộ đội miền Bắc đã đóng quân trong và ngoài Dinh, dân Sài Gòn đến xem bộ đội miền Bắc khá đông.
Những bộ đội với nón cối và dép râu những thứ mà tôi chưa hề gặp, họ đều rất trẻ, vui vẻ trả lời những câu hỏi với cùng một giọng điệu, cùng một bài bản được học tập trước ngày tiếp thu Sài Gòn.
Tôi đi thẳng ra Chợ Sài Gòn chứng kiến cảnh sinh hoạt bắt đầu trở lại, quanh Dinh Độc Lập và Chợ Sài Gòn đã bắt đầu có những trao đổi bằng tiền Hồ Chí Minh, Sài Gòn là vậy, vừa thoát chết là có người nghĩ ngay đến bán buôn.
Tôi nghe những tiếng nổ lớn, như đạn súng cối, từ phía Dinh Độc Lập, tiếp theo là những tiếng súng đủ loại. Sau này mới biết là hai cánh quân cộng sản không biết vì lý do gì bắn lẫn nhau.
Tôi vội quay về nhà, trên đường về tôi chứng kiến những xe tăng và quân xa bộ đội, có thể, đang trên đường chuyển quân về miền Tây.
Ngay cuối đường Hồng Thập Tự gần ngã sáu Cộng Hòa, một chiếc xe tăng bị bắn cháy, tôi không nhớ xe tăng phía bên nào.
Tối xem truyền hình, người xướng ngôn viên nói tiếng Nam khuôn mặt đằng đằng sát khí, hùng hổ đưa tin về Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.
Ngày hôm sau, xướng ngôn viên khác xuất hiện trên truyền hình với khuôn mặt và giọng nói ít cộng sản hơn, nhưng tin tức thì cũng vẫn một giọng tuyên truyền, khác hẳn với tin tức thời Việt Nam Cộng Hòa.
45 năm nhìn lại…
Chỉ sau 2 ngày Sài Gòn thất thủ, chỉ sau 2 tháng miền Bắc tiếp thu miền Nam, Việt Nam bước sang một trang sử mới.
Cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội chưa ai hình dung được hình dáng của nó, không tiến được thì lùi, cộng sản đã lùi về cách quản lý kinh tế thời Việt Nam Cộng Hòa.
Giá trị vật chất có thể phục hồi, nhưng giá trị tinh thần như niềm tin, giáo dục, văn hóa, thể chế, tự do, dân chủ và nhân quyền của người miền Nam đã mất khó có thể phục hồi.
Ngày 30/4/1975, Đại úy Phạm Xuân Thệ tay lăm le khẩu súng lục, cùng Trung tá Bùi Văn Tùng không nói chuyện bàn giao với Ngụy quyền bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Người cộng sản ngày nay phải công nhận thế chính danh của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vì từ chối bàn giao nên mất đi sự nối tiếp, sự thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông trên Công pháp quốc tế.
Ngày 30/4/1975, quả là ngày đen tối nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi, 29/4/2020
****************
Hãy thôi gọi 30/4 là ngày giải phóng
Nguyễn Trang Nhung, RFA, 29/04/2020
Ngày giải phóng là tên gọi mà chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc dùng để chỉ 30/4, khi giành được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam và thống nhất hai miền đất nước.
Quân đội Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tràn ngập Dinh Độc Lập hôm 30/4/1975 - AFP
Từ góc nhìn của Việt Nam Cộng hòa, 30/4 không những không là ngày giải phóng mà là ngày quốc hận hay ngày tháng Tư đen.
Giải phóng – từ này có nghĩa là làm cho được tự do, làm cho thoát khỏi địa vị nô lệ hay tình trạng bị áp bức.
Theo đó, để miền Nam được giải phóng, miền này phải ở trong địa vị hay tình trạng ấy.
Nhưng, trong 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng hòa, miền Nam chưa bao giờ là một miền như vậy.
Miền Nam đã là một miền tự do, và Việt Nam Cộng Hòa đã là một quốc gia có chủ quyền, và có khả năng tự quyết.
Do hoàn cảnh đặc thù, Việt Nam Cộng hòa là đồng minh của Hoa Kỳ, còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đồng minh của Liên Xô và Trung Quốc, đã đối đầu trong một cuộc chiến đầy cam go.
Đó là cuộc chiến ý thức hệ, giữa một bên theo chủ nghĩa cộng sản và một bên theo chủ nghĩa tư bản.
Bên thắng cuộc, sau 'giải phóng' đã áp đặt chủ nghĩa cộng sản cho toàn bộ đất nước.
Dù chủ nghĩa nào thắng thế, cuộc 'giải phóng' đã dẫn đến cái chết của hàng trăm ngàn người ở cả hai bên chiến tuyến.
Một lối đi khác, hòa bình hơn, thống nhất mà không đổ máu, vì nhiều lý do, đã không được lựa chọn.
Đó là lịch sử mất mát mà chúng ta không thể thay đổi. Song điều mà chúng ta có thể thay đổi là thái độ đối với hai ý thức hệ và cuộc chiến.
Chủ nghĩa cộng sản, theo thời gian, đã được thấy rõ là một ảo tưởng, một giấc mơ không thành của loài người. Việt Nam ngày nay đã không còn theo đuổi cộng sản nữa.
Với thực tế đó, chúng ta cần thừa nhận sai lầm khi đã lựa chọn chủ nghĩa cộng sản cũng như sai lầm khi đã gây ra cuộc chiến ý thức hệ, và vì vậy cần chấm dứt niềm vui chiến thắng kéo dài suốt 45 năm qua.
Cùng với đó, chúng ta hãy thôi gọi đây là ngày giải phóng. Thay vì thế, chúng ta chỉ nên gọi đây là ngày thống nhất mà thôi.
Ngày thống nhất phải là ngày mà chúng ta nhìn lại quá khứ để thấy sai lầm của mình và tự nhủ không lặp lại. Đây cũng nên là ngày hàn gắn các vết thương và nối liền những đứt gãy.
Lý tưởng mà miền Bắc đã theo đuổi hầu như đã bị bỏ lại, và Việt Nam hiện nay đang đi theo chủ nghĩa tư bản mà miền Bắc một thời đã quyết liệt chống đối.
Song, trong khi thừa nhận chủ nghĩa cộng sản là một sai lầm và giờ đây đi theo chủ nghĩa tư bản, chúng ta cũng cần nhận chân rằng chủ nghĩa tư bản mà hầu như toàn bộ thế giới đang đi theo cũng có những vấn đề nghiêm trọng.
Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã có sự biến đổi về chất để phù hợp với thời đại song đang đứng trước sự xét lại trước các khủng hoảng ngày càng dồn dập, nhất là về môi trường, trong hiện tại và cả tương lai.
Nhận chân được điều đó sẽ giúp chúng ta điều chỉnh hay tìm ra con đường phù hợp để Việt Nam có thể vượt qua các khủng hoảng một cách ngoạn mục, đồng thời có thể phát triển một cách bền vững, hài hòa và trở thành một quốc gia đáng sống.
Nguyễn Trang Nhung
Nguồn : RFA, 29/04/2020
*********************
Ba tôi, Bùi Văn Tùng: Chuyện chưa kể sau ngày 30/4/1975
Quỳnh Hoa, BBC, 28/04/2020
Câu chuyện về những việc ba tôi làm trưa ngày 30/4 tại Dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn, đã được báo đài đưa tin, làm phim tài liệu và ngay cả viết thành sách (ủng hộ và phủ nhận) cứ mỗi dịp tháng Tư về, ròng rã suốt 45 năm qua.
Nhà báo Borries Gallasch (người Tây Đức), phóng viên của báo Der Spiegel chụp hình chung với ông Tùng trước thềm Dinh Độc Lập
Nhưng ở đây tôi muốn kể những câu chuyện bên ngoài của cuộc đời ba, chưa bao giờ được kể, có liên quan đến những người trong cuộc.
Năm 2001, khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đại tướng Dương Văn Minh qua đời tại Mỹ, thì ba tôi nhận được cuộc gọi của phóng viên một đài tiếng Việt ở nước ngoài. Chi tiết đài nào ba kể lâu quá, tôi không còn nhớ rõ.
Họ gọi cho ba báo tin : "Ông Dương Văn Minh, cựu thù của ông đã qua đời hôm nay tại Mỹ, ông cho biết cảm tưởng của mình ?".
Ba trả lời : "Ông tướng Dương Văn Minh chỉ là đối thủ của tôi trước năm 75, sau 75 ông cũng là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là đồng bào của tôi. Nay ông mất đi, cho tôi xin được thay mặt gia đình chia buồn với toàn thể gia quyến của ông Minh".
Nhà báo, đại tá Bùi Tín (báo Quân đội nhân dân) ngay sau 30/4/1975 đã tìm gặp ba tôi để nghe kể lại toàn bộ sự việc xảy ra trong buổi trưa lịch sử đó.
Cũng trong năm đó ông xuất bản cuốn sách "Sài Gòn trong ánh chớp chói lọi của lịch sử " với bút danh Thành Tín.
Cũng chính ông tặng ba tôi bức hình chụp ba được thay mặt cho Quân đội nhân dân Việt Nam để chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ôm hôn trong buổi họp báo cáo thành tích của năm cánh quân tiến vào Sài Gòn tại Dinh Độc Lập, với lời bình luận : "Đôi dép cao su của bộ đội cụ Hồ đã đạp lên thảm đỏ của Phủ đầu rồng". Quả là ba là người to cao, chân quá khổ vào loại nhất toàn quân, nên giày vải Trung Quốc cung cấp cho quân đội, ba không mặc vừa, đành phải đi vội đôi dép râu quen thuộc của suốt chiến dịch đến Dinh Độc Lập dự lễ báo cáo chiến công.
Sau này sang tị nạn chính trị tại Pháp, có dịp gặp gỡ với giới báo chí nước ngoài, ông Bùi Tín đem hết câu chuyện ba tôi đã kể cho ông nghe, thành việc làm của chính ông để đem nói chuyện cho báo chí thế giới.
Biết chuyện này, ba tôi chỉ phẩy tay, chắc họ lầm Bùi Tùng thành Bùi Tín, chứ ông Bùi Tín con nhà danh giá, rất quí ba, không thể làm vậy được đâu.
Sau này sang Mỹ, đọc sách "Vietnam : A history" của Stanley Karnow tôi mới thấy chắc rằng ông Bùi Tín đã kể như vậy cho nhà sử học, nhà báo Karnow nghe. Kể ra ông Stanley Karnow cũng ngây thơ khi tin rằng một nhà báo quân đội lại có thể buộc một ông Tổng thống, đại tướng quân đội Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận đầu hàng, chứ không phải là một vị chỉ huy của chiến dịch.
Ông Phạm Xuân Thệ, đại úy, trung đoàn phó trung đoàn 66 bộ binh, cũng có mặt trong dinh "bắt nội các tổng thống". Sau một thời gian dài im lặng, bỗng ông ấy tự nhận hết những việc ba tôi làm trưa ngày 30/4/1975 về làm thành tích cho ông. Ông Thệ sau lên hàm trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chính ủy Tùng cùng các ông Dương Văn Minh trên đường từ sân Dinh Độc Lập ra hai chiếc xe jeep để đến đài phát thanh
Năm 2006, khi biết Phạm Xuân Thệ phủ nhận việc ba- chính ủy lữ đoàn tăng thiết giáp 203 có mặt tại dinh- mà bỗng đột ngột xuất hiện tại đài phát thanh Sài Gòn, và cho rằng ông ta, một đại uý bộ binh đã giao lại nội các Dương Văn Minh, rồi cùng ngồi soạn thảo văn kiện đầu hàng với trung tá chính ủy Bùi Văn Tùng, ba chỉ nói nhẹ nhàng, tay này tầm bậy.
Ba hiểu rằng cuộc chiến đấu này có biết bao nhiêu chiến sĩ quên mình ngã xuống cho đất nước hòa bình, thống nhất.
Tôi muốn đi kiện, viết báo đính chính, thì ba bảo để ba viết đơn báo cáo cho cấp trên của ba khiển trách Phạm Xuân Thệ chứ không nên vạch áo cho người xem lưng. Ba tin rằng những con người xấu trong quân ngũ, tranh công, đổ lỗi chỉ là thiểu số, còn quân đội ta là quân đội anh hùng, chiến sĩ ta rất dũng cảm và trung thực.
Lúc còn ở trong quân ngũ, ba đã góp ý với cấp trên là quân đội không được làm kinh tế mà chỉ nên học tập hiểu biết khí tài, vũ khí, rèn luyện thể lực thật tốt để luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Ngoài ra 90% chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam xuất thân từ nhà nông nên tổ chức cho làm nông, thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp cho bằng các nước tiên tiến, cho người dân được nhờ, vì đất nước ta là nước mạnh về nông nghiệp.
Với sĩ quan và lính Việt Nam Cộng Hòa thì chỉ cần tập trung học tập chính sách của nhà nước mới, rồi cho về ai làm việc nấy.
Nếu ai có nhiều khả năng kiến thức quân sự thì sẽ cho phục vụ quân đội vì hòa bình rồi ai cũng là con dân nước Việt, chịu đau khổ vì chiến tranh quá nhiều, đều được quyền làm việc góp phần tái thiết lại đất nước. Bản thân ba lúc đó cũng thấy vũ khí, khí tài của Mỹ để lại trong tổng kho Long bình là rất hiện đại, rất hay để nghiên cứu, học hỏi sử dụng.
Chính ủy Bùi Văn Tùng (phải) cùng bạn chiến đấu Lữ trưởng lữ thiết giáp 203 Nguyễn Tất Tài, Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975
Và kết quả của những lần đóng góp ý kiến rất thẳng thắn của ba đã không hợp với ý kiến của một số cấp trên, nên ba được cho về nghỉ hưu, khi tuổi đời là 53.
Ba không những nghiêm khắc với bản thân trong học tập hiểu biết quân sự, chính trị, ba còn là người rất gương mẫu trong cuộc sống cá nhân, trong từng lời ăn tiếng nói để làm gương cho chiến sĩ.
Ba nói sao thì ba làm vậy. Sau ngày thống nhất, ông nội về lại quê Đà Nẵng, mang theo bản chứng thực từ thời thực dân cho mảnh đất căn nhà của ông bà lúc đi tản cư, sau đó ông đi tập kết luôn, quên không để lại cho bà, nên đã có nhiều hộ gia đình dọn đến sinh sống trên đó nhiều năm rồi.
Ông nội muốn đòi lại - lúc đó mà đòi là được ngay- phe chiến thắng mà.
Nhưng ba bảo : "Mình đi làm cách mạng để cho nhân dân có cơm ăn, áo mặc, nhà cửa ở, nay cách mạng thành công rồi mình không thể đuổi họ ra khỏi căn nhà họ đang sống được ; con là con trai trưởng, con không cần, nên cậu đừng đòi".
Thế là ông nội về ở nhà cô Ba với bà nội, ba thì về doanh trại quân đội, mẹ và các con thì có ông bà ngoại cưu mang ở Sài Gòn.
Ba tôi còn đã từng bị sập hầm, bị đất vùi ở Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, may mà anh em chiến sĩ moi được lên. Bốn người mới khiêng nổi ba.
Vết thương phạt ngang gan bàn chân giờ vẫn còn sẹo, sau này có người bảo ba khai thương binh để lấy tiêu chuẩn, ba bảo, mình còn sống, đi lại được là may mắn lắm rồi, để tiêu chuẩn dành cho những gia đình có người đã hy sinh, hoặc tàn tật, đất nước mình còn nhiều hoàn cảnh như thế lắm.
Lời nói và việc làm
Ba tôi là người có lời nói và việc làm đi đôi với lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản. Chính vì thế mà năm 2013, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi đưa được ba tôi về thăm quê Đà Nẵng sau hơn chục năm nằm liệt giường do tai biến mạch máu não. Những tai biến nhỏ có lẽ do những nỗi đau lòng hậu chiến tranh không nói ra được, đã khiến ba từ từ mất đi khả năng vận động và nói lưu loát.
Họ hàng chở chiếc xe lăn của ba và cả đại gia đình đi xung quanh hết thành phố Đà Nẵng cho ba thăm lại những con đường tuổi thơ êm đềm xưa kia. Ba giải thích cho tôi cái tên Tourane ngày xưa của thành phố là ghép từ hai từ Tour và Âne (ý nói thành phố hẹp, quan thuộc điạ chỉ đi một vòng (tour) trên lưng con lừa (âne) là hết thành phố).
Họ hàng nhà tôi bảo đây là biệt thự của ông Bá Thanh, khách sạn, siêu thị này của bà nọ ông kia, chị em của ổng, ba đã rất tỉnh táo phát biểu : "Nếu tay Bá Thanh thấy phát triển tư bản tốt cho dân cho nước thì phải tuyên bố Đảng cộng sản đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đi, để đưa đất nước ta phát triển theo tư bản với luật lệ của nó, chứ để tư hữu kiểu như thế này mang tiếng những người vô sản, suốt đời vì dân vì nước như tau".
Mà quả thật, chính ông ngoại tôi đã thương yêu, dặn dò mẹ tôi lúc ông còn sống : "Ba mua nhà cho các con, giữ lấy mà cho thuê cho mướn lấy tiền nuôi con học hành, đừng nghe theo người ta mà bán đi đầu tư này nọ, tụi bay xa ba đi theo cộng sản lâu rồi, không biết buôn bán gì rồi người ta lừa cho mất hết tiền đó".
Những năm tháng ba về hưu lúc tuổi đời còn khỏe, ba chăm chỉ nuôi gia cầm, gà, vịt, ngan, thỏ cho mẹ đem ra chợ bán lấy tiền sinh sống thêm.
Rồi không muốn để ba tôi quanh quẩn trong nhà bí bức, mẹ tôi đề nghị ba ra phụ giúp phường, quận, giúp cho giáo dục thế hệ trẻ, góp ý coi sóc an ninh phường khóm.
Ba đã được anh em và nhân dân trong phường, quận, rồi thành phố yêu thương vì sự công bằng, chính trực, giúp đỡ cho những gia đình có những khúc mắc trong chính trị và kinh tế. Mọi người còn yêu quí kính trọng ba hơn khi biết ba là nhân vật đã góp phần chấm dứt sớm cuộc chiến, giảm tổn thương vong và tàn phá.
Những năm bệnh tật ngồi nhà không ra ngoài sinh hoạt được nữa, thấy mẹ hay đi sinh hoạt văn nghệ ở Nhà văn hóa lao động, có một số bạn bè đến chơi nói ra nói vào về mẹ với ba. Ba bảo bà nhà mình có năng khiếu văn nghệ từ nhỏ, những năm chiến tranh khổ quá, không thực hiện được, nay hòa bình rồi để bà ca múa cho vui. Và thế là mẹ tôi vừa làm chủ nhiệm câu lạc bộ, kiêm kế toán trưởng vừa kiêm diễn viên múa và ca sĩ cho đến năm 83 tuổi. Phát hiện ra bệnh ung thư mẹ mới nghỉ làm và ra đi thanh thản ở tuổi 85.
Tại sao Mỹ lại đánh nhau ?
Sau khi tôi đã sang sinh sống ở nước ngoài, mỗi lần về Việt Nam thăm ba, những lúc tinh thần minh mẫn ba đều hỏi thăm tôi người Việt mình sống ở bên đó thế nào, có thành công và thích nghi với nước sở tại hay không ?
Và cuối câu chuyện bao giờ ba cũng thắc mắc hỏi tôi mỗi một câu : "Tại sao Mỹ lại đánh nhau với mình thế hả con ?". Tôi nghe xong chỉ biết rơi nước mắt thương ba và thương cho cả thế hệ cha anh.
Năm nay đánh dấu 45 năm nước Việt Nam được sống trong hòa bình, nhưng đâu đó mỗi gia đình Việt Nam đều có câu chuyện đau thương để kể.
Có những nỗi niềm vẫn cứ gợn lên trong lòng, dù bạn ở phía bên nào.
Tôi may mắn được gặp gỡ và trò chuyện với các chú, các anh tham gia cuộc chiến ở cả hai bên. Tất cả những người lính đó đều có nhận định như nhau, chiến tranh là tàn khốc và chết chóc, là con người phải suy nghĩ và hành động khác với nhân tính của mình để sống còn.
Gia đình tôi cũng như hàng triệu gia đình người Việt khác chịu những hậu quả của chiến tranh và chia cắt. Tôi kể câu chuyện của gia đình mình ra đây chẳng mong mỏi điều gì hơn ngoài việc làm sáng tỏ một vài sự kiện trong lịch sử.
Mong sao cho chính phủ và cộng đồng người Việt trong và ngoài nước luôn đoàn kết, hàn gắn những đau thương mất mát, để dân tộc và đất nước Việt Nam mãi mãi trường tồn và phát triển.
Quỳnh Hoa
Nguồn : BBC, 29/04/2020
Bà Quỳnh Hoa, con gái đại tá quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Văn Tùng. Bà tốt nghiệp Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang sống ở nước ngoài.
Cuộc chiến tranh vùng Vịnh giữa Iraq và Iran kéo dài 8 năm. Bắt đầu từ ngày 22 tháng 9 năm 1980 và chấm dứt ngày 20 tháng 8 năm 1988 sau khi tổ chức Liên Hiệp Quốc đưa ra Nghị quyết 598 buộc hai nước ngừng chiến và phải trở lại vị trí ban đầu. Tổng cộng thiệt hại nhân mạng của đôi bên gần 1 triệu người chết và bị thương. Thiệt hại tài sản, dầu hỏa, vật lực non một tỷ đô la. Để rồi đi đến kết cuộc ‘ai đâu ngồi yên đấy’ ! Cả hai nước Iran và Iraq đều tuyên bố thắng trận. Chỉ người dân đi tìm xác người thân trong những giao thông hào thảm bại.
Cuộc chiến tranh vùng Vịnh giữa Iraq và Iran kéo dài 8 năm (22/9/1980 - 20/8/1988) đã làm gần một triệu người chết và bị thương… Ảnh minh họa
Các tài liệu phim ảnh về cuộc chiến vùng Vịnh cho thấy nguyên nhân gây chiến, chiến và rồi ngồi yên đấy là Thượng Đế của cả đôi bên. Thật vậy, những thước phim thời sự chiến trường ghi lại những cảnh quân đội Iraq xung phong vào chiến hào quân Iran hoặc ngược lại, đều thét lên tiếng gọi chiến trường "Allahu Akbar" (Thượng đế Cao cả) ! Người giết và bị giết đều tung hô Thượng đế. Như vậy, Thượng đế ‘tác chiến’ trong hai chiến hào thù địch phải có vấn đề ! Mà không phải ở chiến trường thôi, trong đời thường ‘Thượng đế cao cả’ cũng được réo kêu mê sảng khi những tên khủng bố Hồi giáo bấm bom tự sát giết người hàng loạt. Hậu quả đến hôm nay trong đám đông có ai đó ngẫu hứng thét lên ‘Allah Akbar’, mọi người đều nhốn nháo bỏ chạy ! Tiếng gọi Thượng đế đã trở thành tiếng gọi giết người.
Cuộc nội chiến giữa người Việt cộng sản và người Việt quốc gia kéo dài 21 năm, chấm dứt vào ngày 30/4/1975. Sự thiệt hại về nhân mạng, tài sản và đạo đức xã hội đã gấp 5 lần cao hơn vùng Vịnh. Di sản chiến tranh còn phải khắc phục lâu dài vì chưa bao giờ được nhà cầm quyền hóa giải. Nhưng nguyên nhân gây chiến, chiến và may mắn thắng vẫn y như cũ. Khác chăng những thế lực thần quyền Hồi giáo và chính trị bá đạo vùng Vịnh gọi là Thượng đế thì Đảng cộng sản Việt Nam gọi đấy là Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì tổ quốc không có hình dạng, cũng chẳng có mồm, Đảng cộng sản Việt Nam vẽ búa liềm làm gương mặt của tổ quốc. Tiếng thét chiến trường ‘đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào’ đảng báo đấy là tiếng nói của tổ quốc. Cuối cùng đảng dúi cây súng vào tay tổ quốc bắt đi giải phóng miền Nam ! Tổ quốc bị lợi dụng làm con bài che chắn của lòng tham quyền lực quỷ quyệt của đảng như thế không xứng đáng tự hào mà ngược lại, xứng đáng sự phẫn nộ của hàng triệu nạn nhân trong cuộc nội chiến.
Hàng triệu thanh niên miền Bắc được đảng dúi súng vào tay tổ quốc bắt đi giải phóng miền Nam trước tháng 4/1975 - Ảnh minh họa
45 năm đất nước chịu đựng đau thương tan vỡ tình người và tình nước đã quá đủ để đòi hỏi phe thắng trận phải ăn năn xét mình vì sao đất nước đến nông nổi hôm nay. Chỉ cần phân nửa thời gian này, các quốc gia bè bạn cũng tan vỡ vì chiến tranh đã nhanh chóng hồi phục vươn lên hàng cường quốc. Nước Đức, Nhật và cận kề địa lý Hàn Quốc đã có đủ thời gian công nghiệp hóa xứ sở mà không bị sự lãnh đạo sáng suốt anh minh của một đảng cộng sản nào.
Cựu tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã phán nước nhà sẽ công nghiệp hóa thành công vào 2020. Sự thật hiển nhiên hôm nay Việt Nam vẫn xin làm gia công cho các cường quốc mới ấy ! Tại sao đảng cộng sản không cúi mặt xấu hổ mà lại đi kích động người dân phải vênh váo tự hào sung sướng vì chiến thắng 30/4 ? Cái não trạng xơ cứng bạo lực của đảng cộng sản giải thích vì sao tập đoàn này không thể là lực lượng thích hợp trong hòa bình và xây dựng đất nước.
Cựu tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh ngồi trên ngai vàng phán nước nhà sẽ công nghiệp hóa thành công vào 2020. Ảnh minh họa
Sự thật cần phải nói lên để người dân Việt Nam có thể bắt đầu một trang sử mới. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không ai khác hơn là 181 đảng viên cuồng tín chủ nghĩa Mác-Lê nằm trong Trung ương đảng. Cơ chế thống lĩnh là 17 chóp bu trong Bộ chính trị. Cộng với 5 triệu hai trăm ngàn đảng viên (theo báo cáo của Phó trưởng ban thường trực Ban Tổ chức trung ương Nguyễn Thanh Bình về công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội 13), tập đoàn này quyết nắm giữ cái búa liềm làm hung khí trấn áp 85 triệu người Việt Nam mãi mãi. Không thể có một chính quyền của dân, vì dân và cho dân trong mọi tổ chức chính quyền các cấp của đảng cộng sản khi người dân hoàn toàn vắng mặt. Ý đảng khống chế lòng dân. Lẽ phải bị lẽ sống của đảng đè bẹp. Dân là ‘thế lực thù địch’ khi đảng say sưa chiến thắng ngày 30/4. Cơn điên của đảng cộng sản còn kéo dài trên từng cây số của thời gian.
Đảng cộng sản Việt Nam quyết nắm giữ cái búa liềm làm hung khí trấn áp 85 triệu người Việt Nam mãi mãi.
Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt đã can đảm xét mình khi nói ngày 30/4 có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn. Sự ngậm ngùi hiển nhiên bị đè bẹp sau ngày chiến thắng. Sự thật chỉ có Bộ chính trị cộng sản mới hóa rồ trong ngày 30/4 vì ‘mọi lợi quyền ắt hẳn về ta’. Nhưng người dân miền Nam sẽ không bao giờ chia sẻ niềm vui với đảng. Người ta bị bắt buộc phải vui một niềm vui giả tạo vì đảng đã phán đấy là ngày vui. Và cứ thế, đảng cộng sản cứ vui ngày chiến thắng và người miền Nam cứ buồn ngày quốc hận.
Sự phân cực tâm tình trong ngày 30/4 chỉ có cơ hội hóa giải khi phe chiến thắng khiêm tốn xét mình trả lời câu hỏi : Phải chăng hàng trăm ngàn thanh niên miền Bắc khắc lời nguyền ‘Sinh Bắc Tử Nam’ lên tay, vượt qua những trận mưa bom B52 kinh hoàng, càn lướt trên những tấm thảm bom bi tan vỡ thân xác, để đổi lấy một tập đoàn ‘tổ quốc’ như ngày hôm nay ? Sự hy sinh đã bị đáp trả bằng sự phản bội.
Thủ tướng cộng sản Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi người dân chống dịch corona như chống giặc bằng khí thế ngày 30/4. Dịch Corona đang được kiềm chế đáng nghi ngờ nhưng giặc Bắc Kinh thì không nghi ngờ gì nữa đã đóng quân trên mọi tuyến đầu phòng thủ, đang rung đập binh khí điếc tai trên Biển Đông. Khí thế ngày 30/4 là sự hoảng loạn chạy trốn tai họa cộng sản mà ông Phúc lấy làm đắc chí. Ông Phúc chứng tỏ sự vô cảm sắc lạnh của chế độ không có một chút đồng cảm với người miền Nam trong ngày chạy loạn. Mười bẩy triệu người miền Nam là giặc không được kể đến trong dân số tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ông Phúc chứng tỏ sự vô cảm sắc lạnh của chế độ không có một chút đồng cảm với người miền Nam trong ngày chạy loạn nhưng khi ông Trump hôm 26/6/2019 ho một tiếng, chỉ trích Việt Nam lạm dụng thương mại với Mỹ, thì vội vàng chạy tới rờ rẫm mơn trớn. (Ảnh chụp từ VTV1)
Mỗi năm Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức ăn mừng ngày đại thắng 30 tháng 4 chỉ có mục đích ca ngợi thành tích bạo lực hòng che giấu sự thất bại toàn tập trong hòa bình. Đảng cộng sản cần phải ăn năn để trả lại Tổ Quốc Việt Nam cho người Việt Nam. Bằng cách thực hiện lương thiện tiến trình hòa giải dân tộc, tiến tới một cuộc bầu cử tự do, dân chủ hóa nước Việt Nam, kịp thời trước khi tổ quốc cộng sản của Trung quốc vung đao chiếm đoạt.
Sơn Dương
(24/04/2020)
Ngày này năm ấy…
Những ngày tháng Tư của 45 năm trước, chúng tôi, những đứa trẻ mới lớn, cũng như bao triệu người dân miền Bắc Việt Nam, cứ vểnh tai hướng về những chiếc loa công cộng được gắn đầy trên các cột điện, các cây cao trong mọi thôn làng, xóm bản, ra rả vào sáng, trưa, chiều, tối.
Những bản tin liên tục được nhắc đến với những từ "Chiến thắng, thần tốc"… làm nức lòng hầu hết mọi người dân.
Người dân Miền Bắc vui mừng, người ta hồ hởi và náo nức chờ ngày "Chiến thắng". Đến ngày đó, đất nước sẽ được "Xây dựng lại hơn mười ngày nay" để cả nước, người dân được làm chủ, đất nước được huy hoàng "sánh vai với năm Châu" như Hồ Chí Minh đã hứa.
Không vui sao được, khi mà đã bao năm, cả miền Bắc Việt Nam duy nhất chỉ có những chiếc loa công cộng, những tờ báo đảng và những cuộc nói chuyện thời sự của cán bộ tuyên giáo đảng tổ chức. Ngoài ra, bất cứ ai, bất cứ người nào cố tình hoặc vô ý nghe những thông tin từ bên ngoài bức màn sắt như Đài BBC hoặc một đài nào khác, thì y như rằng người đó là kẻ phản bội Tổ Quốc và sau đó là những cuộc đi tù không án kéo dài chẳng có hẹn ngày về.
Khắp các hang cùng ngõ hẻm, những khẩu hiệu chi chít gắn trên những tấm ván, những liếp nhà nhắc nhở người dân :
Nghe đài, đọc báo của ta
Chớ nghe đài địch ba hoa, nói càn.
Hoặc ở những nơi công cộng rằng :
Ở đây tai vách, mạch rừng
Những điều bí mật, xin đừng ba hoa.
Những thiếu niên, nhi đồng trước mỗi buổi sáng vào lớp học, tất cả đều phải đồng thanh gào "Giải phóng Miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước"…
Cứ vậy, hệ thống tuyên truyền của Miền Bắc cộng sản đã rất thành công khi nhồi nhét vào đầu người dân những điều họ muốn, những thứ họ cần.
Qua đó, người dân Miền Bắc chỉ biết được rằng, đồng bào miền Nam đang ngày đêm rên xiết dưới ách thống trị của Đế quốc Mỹ xâm lược và Ngụy quyền bán nước.
Ở đó, Đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào để cưỡng bức, hà hiếp người dân Miền Nam với những sự man rợ nhất.
Hồ Chí Minh đã tố cáo "Đế quốc Mỹ" : "Chúng dùng những phương tiện chiến tranh cực kỳ man rợ, như chất độc hoá học, bom napan, v.v.. Chúng dùng chính sách đốt sạch, giết sạch, phá sạch".
Khi đó, Hồ Chí Minh là thánh sống, là tiên tri, là anh hùng, đã nói gì thì "chỉ có đúng".
Những người thế hệ tôi vẫn nhớ bài thơ "Lá Thư Bến Tre" của Tố Hữu :
Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh, không chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra.
Và :
Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc sau
Nó đốt, nó cười... em nhỏ hét :
"Má ơi, nóng quá, cứu con mau !"
(Lá thư Bến Tre – Tố Hữu – 1962)
Rồi chuyện Đế Quốc Mỹ đầu độc cả mấy ngàn người ở Nhà tù Phú Lợi, rằng :
Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết
Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết
Cả nghìn nguời, trong một trại giam
Của một nhà tù lớn : Miền Nam !
(Thù muôn đời muôn kiếp không tan – Tố Hữu)
Những thứ đó đã đúc kết vào đầu, vào từng tế bào người dân Miền Bắc rằng, đang có một Miền Nam đau thương, một Miền Nam đói rách, một Miền Nam khốn khổ với những trò giết người, ăn thịt, mổ bụng moi gan hết sức tàn bạo dưới chính quyền Mỹ - ngụy bán nước...
Với sự ngây thơ, cả tin và cả buộc phải tin, người dân Miền Bắc đã đem bao lớp thanh niên vào Miền Nam để rồi một số lượng rất lớn không trở lại.
Thế rồi, ngày 30/4 cũng đến.
Ngày đó, rợp cờ, hoa và tiếng loa vang suốt ngày đêm không ngớt, rằng Tổ Quốc đã sang trang sử mới, rằng là từ đây người dân sẽ làm chủ đất nước này, rằng :
"Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập, tự do !"
Và : "Không thể có độc lập, tự do thật sự cho dân tộc nếu nhân dân lao động còn bị áp bức bóc lột. Cũng không thể giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột, nếu dân tộc không được độc lập, tự do".
(Trích Diễn văn của Lê Duẩn tại Mít tinh mừng chiến thắng ngày 15 tháng Năm, 1975 tại Hà Nội)
Người ta cứ nghĩ rằng, từ đây, đất nước Việt Nam, người dân Việt Nam sẽ được yên ổn và hòa bình, sẽ nhanh chóng xây dựng Thiên đường xã hội chủ nghĩa tại trần gian.
Kể từ đó, người cộng sản Việt Nam luôn vỗ ngực tự hào đã "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".
Sau những cuộc lên đồng tự sướng với "Chiến thắng" với "Giải phóng"… người dân cả nước bắt đầu đối diện với một sự thật cay đắng.
Những lời hô hào "Hòa giải, hòa hợp dân tộc" mà Lê Duẩn đã trịnh trọng đọc trước cả nước và cả thế giới được thực thi tại Miền Nam bằng hàng loạt người bị bắt đi học tập, cải tạo – nghĩa là giam giữ không thời hạn, không án và không theo bất cứ luật lệ nào.
Những cuộc vây ráp, bắt bớ để "Cải tạo tư sản mại bản Miền Nam" – thực chất là diễn lại những cuộc cướp bóc trắng trợn theo mô hình Cải cách ruộng đất 1954 được tiến hành.
Chế độ cộng sản đã thống trị cả đất nước, bắt đầu một mô hình kinh tế tập thể với khẩu hiệu : "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội".
Thế là "cuộc bỏ phiếu bằng chân" vĩ đại lại diễn ra lần thứ 2 tại Việt Nam khi những người dân một lần nữa quyết nói "Không" với cộng sản.
Hàng loạt người bỏ mình trên biển, chấp nhận mọi chết chóc, đau thương, mất mát để chạy khỏi sự lãnh đạo thiên tài của đảng.
Ở trong nước, người dân cả nước đối diện với một sự thật : Miền Nam không như họ nghĩ, họ biết và họ được tuyên truyền và cuộc chiến kia chỉ là cuộc chiến nồi da nấu thịt vì hệ tư tưởng cộng sản.
Và cả đất nước đi theo mô hình kinh tế tập trung, đã dẫn đến nạn đói triền miên.
Và ngày ấy năm này
Đã 45 năm sau cái ngày ấy.
Những ngày ấy của năm này, người ta đã thấy gì ?
Những lời hứa của người cộng sản năm xưa đã bay theo gió. Bởi đã gần nửa thế kỷ qua, người cộng sản đã làm ngược lại tất cả những điều họ đã hứa hẹn, hò hét, kêu gọi những khi buộc người dân dốc toàn lực cho họ.
Kinh tế kiệt quệ, người dân chán nản, lòng người ly tán, đất nước, xã hội suy đồi. Người dân được đảng đưa đi làm nô lệ, bán sức lao động khắp thế giới.
Người dân bằng mọi cách đua nhau đi ra nước ngoài kiếm sống. Thậm chí chấp nhận những cái chết dọc đường theo cách chui vào container để trốn lậu sang các nước tư bản giãy chết.
Cuộc bỏ phiếu bằng chân lần thứ ba đã xuất hiện ngày càng rầm rộ.
Những điều đó, ngày nay chẳng cần nói nhiều thì ai cũng thấy hết sức rõ ràng.
Nhưng, điều quan trọng hơn, là thay vì đất nước "vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài" thì một phần lãnh thổ đất nước lại rơi vào tay quân Trung Quốc bằng những cuộc xâm lược thật sự với sự giúp đỡ đắc lực của chính đảng này.
Và "đất nước", "chủ quyền", "độc lập"… chỉ còn là sáo ngữ.
Trong khi đó, cái Đảng quang vinh kia, lại hành động ngược lại. Đảng coi nhân dân là kẻ thù.
Mới đây, ngày 3 tháng Tư năm 2020, lợi dụng khi nạn dịch xuất phát từ chính Trung Quốc đang làm cả thế giới chao đảo, Trung Quốc lại tiếp tục có những hành động ăn cướp trên Biển Đông, đâm chìm tàu của ngư dân trong lãnh hải Việt Nam.
Oái oăm thay, trong những trường hợp đó, Việt Nam chẳng có ai trong đám "Bạn bè trong phe XHCN" năm xưa lên tiếng.
Thế nhưng, khi Việt Nam cô đơn trong sự bỏ rơi, trước những trận đòn tấn công từ "người anh em xã hội chủ nghĩa", thì chính Hoa Kỳ lại lên tiếng phản đối sớm nhất và mạnh mẽ nhất.
Mới đây, ngày 6 tháng Tư, 2020, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus tuyên bố : "Đây là vụ việc mới nhất trong một loạt hành động của Trung Quốc nhằm khẳng định những tuyên bố hàng hải trái pháp luật và gây thiệt hại cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông"
Ngày 9 tháng Tư, Bộ Quốc phòng Mỹ ra tuyên bố lên án hành vi này của Trung Quốc.
Và Việt Nam như bắt được vàng trước việc Hoa Kỳ lên tiếng.
Vậy là những ngày này, khi bị xâm lược thật sự, Việt Nam chỉ còn biết bấu víu vào đất nước mà 45 năm qua, họ đã từng tự hào "Đánh cho Mỹ cút".
45 năm đã qua, người Việt Nam đã thấy rõ rằng : Ngày ấy năm nay, hoàn toàn ngược lại những gì họ đã thấy, đã tin vào ngày này năm ấy.
Ngày 20/4/2020
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn : RFA, 20/04/2020 (nguyenhuuvinh's blog)
Những người chiến thắng đã gọi sự kiện 30/04/1975 là ngày thống nhất đất nước.
Tạm bằng lòng với khái niệm "thống nhất" ấy nhưng không thể không thấy rằng đó là cái giá quá đắt cho việc thống nhất quốc gia.
Bài học Tư Mã Viêm
Dù yêu hay ghét Trung Hoa, phần lớn trí thức Việt thời nào cũng đã đọc tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa. Trong đó, cả thế kỷ ly loạn của dân tộc Trung Hoa đã chấm dứt vào năm 280, khi quân Tấn "giải phóng" Đông Ngô, thống nhất đất nước (nói theo chữ của nhà nước đương thời).
Đền Bạch Mã, Lạc Dương. Thành phố này từng là kinh đô nhà Tấn và một số triều đại khác của Trung Quốc
Nội dung chính của bài viết này nói về những cảnh xảy ra ngay sau bối cảnh tác phẩm của nhà văn La Quán Trung.
Trước khi chết, Tư Mã Ý dặn dò con cháu phải biết lấy lòng người để được thiên hạ. Có lẽ vì thế mà sau khi thắng Thục rồi diệt Ngô, những nhà lãnh đạo họ Tư Mã nhìn chung đã đối xử rất tử tế với những người thua trận.
Dù ban đầu có những sự không bằng lòng nhất định, nhưng về sau nhà Tấn đã nhận được sự quy phục từ đông đảo nhân dân và các quý tộc cũ của Thục -Ngô.
Sau thống nhất, triều đình nhà Tấn không trả thù những người thua trận, tạo điều kiện ổn định đời sống nhân dân.
Không có tù cải tạo, cũng không có cảnh ồ ạt người vượt biên hay trốn tránh sự truy lùng của họ Tư Mã. Cộng với việc có công thống nhất, nhà Tấn đã giành được lòng người, họ vẫn luôn được nhân dân che chở và ủng hộ sau này khi đã thất thế.
Dẫn tới việc nhà Tấn tồn tại trên danh nghĩa đến hơn 150 năm, dù thực tế triều đại này chỉ "sống khỏe" trong không tới ba thập kỷ đầu.
Cái giá cho việc họ Tư Mã thống nhất đất nước quá đắt bởi không lâu sau khi "hoàn thành đại nghiệp", Tấn Vũ đế mắc sai lầm quan trọng nhất trong việc chọn người kế vị (chưa kể lối sống xa hoa trong triều), dẫn tới hàng loạt tai họa giáng xuống triều đình và dân chúng sau khi ông qua đời.
Hai mươi năm sau khi thống nhất, Trung Hoa bước vào cuộc nội chiến (Loạn bát vương) khiến mấy chục vạn người mất mạng. Đất nước suy kiệt, cuối cùng bị ngoại tộc thôn tính.
Khi quân Hán Triệu chiếm được Lạc Dương vào năm 310, tàn sát quân dân nhà Tấn cũng vừa đúng chẵn 30 năm sau khi Tư Mã Viêm "giành trọn vẹn non sông".
Người tỵ nạn Nam Việt Nam đi thuyền ra tàu Mỹ những giờ cuối của cuộc chiến Việt Nam
Nếu còn cục diện Tam Quốc, hẳn dân tộc Trung Hoa đã không phải chịu một trang sử đen tối khi hai vị vua Tấn bị nhà Hán Triệu làm nhục (Tấn Hoài đế và Tấn Mẫn đế bị bắt làm nô bộc, rồi giết chết).
Nếu được chọn lại, người Hoa sẽ chọn thống nhất để lại loạn lạc và mất nước vào tay ngoại bang, hay chọn giữ nguyên cục diện thế chân vạc thời Tam Quốc ?
Thống nhất, nỗi ám ảnh của người Á Đông
Việt Nam, Trung Quốc và kể cả Triều Tiên đều đã có nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử chịu cảnh chia cắt.
Theo thời gian, những nhà cầm quyền luôn tìm cách tận dụng tối đa nhu cầu thống nhất để khích lệ, thậm chí kích động dân chúng hăng say sản xuất và chiến đấu, phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Cũng vì lẽ đó, rất nhiều trong đông đảo nhân dân cũng dần bị ám ảnh bởi viễn cảnh thống nhất. Thậm chí thống nhất bằng mọi giá, bất chấp thiệt hại về sinh mạng, về kinh tế và gây ra những ảnh hưởng lâu dài tới đà thăng tiến của cả dân tộc.
Vì lẽ đó, biến cố tháng 4/1975 đã được người dân miền Bắc đón chào nhiệt liệt, họ đã được tuyên truyền một cách tinh vi trong thời gian rất dài về sứ mệnh vĩ đại đi "giải phóng", tính chính nghĩa của đội quân đi "thống nhất đất nước".
Tôi, một người lớn lên ở miền Bắc sau 1975 từng băn khoăn việc vì sao quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không đi giải phóng miền Bắc.
Và đã đi tìm câu trả lời trong nhiều năm mà không có bất kỳ ai hướng dẫn, cho tới khi đọc đủ nhiều sách để tìm ra đáp án.
Bé gái Barbara trong tay một nữ tu Việt Nam. Ảnh chụp ngày 14/04/1975 ở Sài Gòn. Em bé sau được người Mỹ, Gerard Constant (trái), cùng vợ nhận làm con nuôi trong câu chuyện "Rescued from Saigon".
Nó có thể đúng hoặc không đúng tùy vào quan điểm và tầm hiểu biết mỗi người, nhưng ít nhất cũng cho thấy không phải phía Quốc Gia không có ý định Bắc tiến.
Nước Đức không tốn máu xương, không có chiếc xe tăng nào húc đổ bức tường Berlin, giải phóng miền Tây, thống nhất đất nước. Họ đã chọn đúng thời cơ (Liên Xô tan rã) để thống nhất trong hòa bình. Đôi miền Triều Tiên vẫn còn chia cắt chưa biết tới bao giờ.
Nhưng người dân nhiều nước như Tiệp Khắc, Nam Tư đã chấp nhận sự chia cắt, quốc gia cũ của họ tan ra làm những nước khác nhau. Khi người ta không thể sống chung, tốt hơn hết hãy tách ra.
Nỗi đau khổ hậu thống nhất
Trong cuốn hồi ký Đôi Dòng Ghi Nhớ, đại tá Phạm Bá Hoa từng nói về sự hiểu lầm của thế giới tự do với phe cộng sản.
Đại thể phía tự do hiểu hòa bình là hết chiến tranh, thì khái niệm hòa bình với người cộng sản là khi họ đã thôn tính tất cả đất đai, đè bẹp sức kháng cự của những kẻ chống lại họ.
Cũng trong cùng tác phẩm, tác giả đã nói đến những đau khổ của đất nước sau khi thống nhất, mà chỉ khi rơi vào tay địch, ông mới biết thực tế thế nào là cộng sản.
Những cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các vương tôn họ Tư Mã thời hậu Tam Quốc, cũng như sự xa xỉ của triều đình trung ương (điển hình vụ viên quan Thạch Sùng khoe mẽ của cải đã trở thành chuyện ngụ ngôn truyền đời) đã khiến nhân dân thời Tấn vô cùng khốn khổ, mà giới sử gia đánh giá mức độ tàn khốc của cuộc nội chiến còn lớn hơn nhiều so với thời Ngụy - Thục - Ngô tranh hùng.
Và hãy nhìn lại những nhà lãnh đạo Việt Nam từ sau 1975 đến nay, ngoài vấn đề cách ứng xử với người đồng bào thua trận, họ có điểm gì khác và giống so với họ Tư Mã thời Tây Tấn ?
Không thể phủ nhận rằng, nhà nước đã có những nỗ lực nhất định trong việc ổn định tình hình, nâng cao đời sống nhân dân (mà chính họ đã kéo tụt xuống ngay sau biến cố 1975).
Nhưng vì sao ngay trong lúc truyền thông nhà nước ca ngợi những "thành tựu" về giáo dục và y tế, thì chính lãnh đạo và con cái họ lại bỏ ra nước ngoài du học và chữa bệnh ?
Còn ở bên ngoài, biển đảo và đất liền cứ bị ngoại bang đe dọa từng ngày ? Và ở những miền quê, người ta nỗ lực hết mình để được xuất khẩu lao động, xuất khẩu cô dâu để sang những nơi còn chưa thống nhất (bị Mỹ đô hộ ?) như Đài Loan, Nam Hàn ?
Cái giá của sự thống nhất, xin nhắc lại, thống nhất về lãnh thổ ấy quá đắt với nhân dân nhà Tây Tấn thời hậu Tam Quốc và với nhân dân Việt Nam 17 thế kỷ sau.
Lê Mai Hoa
Nguồn : BBC, 30/04/2019
Lê Mai Hoa hiện tu nghiệp tại Texas, Hoa Kỳ.
Tôi đang ngồi uống cafe một mình trong một buổi chiều 30/4 se lạnh. Những cơn mưa xối xả từ đêm qua làm Hà Nội những ngày nghỉ lễ vắng người càng buồn hơn.
Khi miền Bắc còn nghèo nàn lạc hậu, tôi mới 2 tuổi đã được bước lên chiếc máy bay C130 sơn cờ đỏ sao vàng để bay vào Sài Gòn.
Nhắc đến ngày này không ai là người Việt Nam lại không nhớ đến câu nói nổi tiếng của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt : "...một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm, sẽ "có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn...". Chính vì lẽ đó, hôm nay trong bài viết này tôi muốn trải lòng với các bạn về những suy nghĩ của mình trong ngày cuối cùng của tháng tư buồn đau.
Là thế hệ sinh năm 1975 ở miền Bắc, khi tôi lớn lên thì cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc đã hoàn toàn chấm dứt. Tôi còn nhớ như in ký ức đầu tiên về miền Nam của mình là hình ảnh chiếc máy bay C130 to lớn. Ngày đó bố tôi là lính mặt đất trong các sân bay quân sự miền Bắc. Sau năm 1975, hàng loạt các khí tài quân sự của miền Nam chưa hỏng hóc vì chiến tranh được miền Bắc đem về sử dụng. Và như để là sự tưởng thưởng công lao, hồi đó lính không quân miền Bắc được đem cha mẹ, vợ con đi chơi bằng máy bay quân sự vào miền Nam, mỗi năm một lần. Chính vì thế năm 1977, khi miền Bắc còn nghèo nàn lạc hậu, tôi mới 2 tuổi đã được bước lên chiếc máy bay C130 sơn cờ đỏ sao vàng để bay vào Sài Gòn.
Đó là một trải nghiệm cực kỳ mạnh mẽ, nên dù chỉ mới 2 tuổi nhưng tôi vẫn còn nhớ như in màu thép đen và hình dáng khổng lồ của chiếc máy bay đó. Rồi suốt trong khoảng 10 năm sau đó, hè năm nào tôi, trong niềm tự hào với bạn bè cùng trang lứa, cũng được đi máy bay vào Nam chơi ở nhiều nơi, từ Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt. Thế nên dù chưa hiểu gì về chính trị hay lịch sử, nhưng những hình ảnh trong tôi về miền Nam là những hình ảnh chân thực nhất của một miền đất mới được "giải phóng", chưa hề thay đổi gì nhiều so với ngày nay. Những chiếc xe xích lô cao vút, những góc phố chợ trời bày biện đủ thứ linh tinh, những ngôi biệt thự nguy nga cắm cờ đỏ, mùi khói của những chiếc xe lam hối hả trên đường... tất cả những điều ấy ghi sâu trong ký ức non nớt của tôi, và mãi sau này chính nó là chất xúc tác làm tôi tỉnh ra và hiểu được câu chuyện thực về Sài Gòn nhanh hơn so với rất nhiều bạn bè khác.
Khoảng những năm 1982 - 1983, gia đình tôi sống cùng ông bà nội ở khu tập thể Kim Liên.
Không chỉ hình ảnh miền Nam ở miền Nam, trong ký ức của tôi còn có cả hình ảnh của miền Nam ở Hà Nội. Khoảng những năm 1982 - 1983, gia đình tôi sống cùng ông bà nội ở khu tập thể Kim Liên. Hồi đó đây là một trong những khu chung cư đầu tiên của miền Bắc dành cho gia đình cán bộ cấp cao trong các ban ngành đoàn thể. Hàng xóm nhà tôi toàn kỹ sư, bác sỹ, giáo viên... thậm chí còn có nhiều vị bộ trưởng, thứ trưởng oai phong lắm. Trong bối cảnh đó, có một điều rất kỳ lạ là gia đình tôi lại đón tiếp những người họ hàng rất lạ lẫm từ miền Nam ra, và ở lại rất lâu. Họ có trang phục khác hẳn người miền Bắc, rất chỉn chu, kiểu cách. Nhưng thái độ của họ là sự dè chừng, thu mình, nhẫn nhịn hết sức để tránh làm phiền đến xung quanh. Mãi sau này, tôi mới biết một điều rất đau lòng là họ ra Hà Nội tá túc ở gia đình nhà tôi để làm thủ tục đi thăm chồng, thăm cha là lính Việt Nam Cộng Hòa đang đi cải tạo trong các trại tù miền Bắc. Chính vì thế, tôi đã có những trải nghiệm tiền đề rất căn bản, để thay đổi hẳn những suy nghĩ của mình so với những điều được giáo dục, được nhồi sọ về miền Nam từ rất sớm.
Thế rồi theo thời gian, khi sự thật lịch sử được phơi bày, khi những tiếng nói của "bên thua cuộc" được cất lên, rất nhiều người miền Bắc đã thay đổi. Trong bao nhiêu năm qua, cho đến tận bây giờ những ngày tháng tư đau buồn dù được hệ thống tuyên truyền nhà nước cố sức quảng bá cho cái gọi là : "giải phóng miền Nam", "Thống nhất tổ quốc", "đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai Nguỵ quyền Sài Gòn"... có ngày càng nhiều người được giải ảo, được mở mắt thông não về thực chất của sự kiện 30/4... Và người ta sụp đổ niềm tin không phải chỉ do những tài liệu, bài viết hay những lời nói của "bên thua cuộc" được cất lên. Thực trạng yếu kém, sự tụt hậu của đất nước, sự lăm le thôn tính của Trung Quốc, sự ngu dốt và ươn hèn của lãnh đạo trong các vấn đề tầm vóc quốc gia... chính là những tác động lớn nhất để người dân mất hết niềm tin, quay ra đi hỏi tại sao, và đồng thời có suy nghĩ rất khác về ngày 30/4 so với trước kia.
Tuy nhiên ý kiến bảo vệ những lập luận về ngày này của chế độ vẫn còn không phải là ít. Sự hung hăng và hiếu chiến đó bạn có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên Facebook trong những ngày cuối tháng tư. Và những lời nói đó không phải chỉ có ở dân miền Bắc mà còn từ các bạn trẻ miền Nam nói ra rất nhiều. Tôi vốn rất khó chịu với những lập luận đầy thù hận và ngu ngốc này nhưng không muốn tranh cãi nhiều, vì tôi biết những bạn trẻ đó vẫn đang bị nhồi sọ giống như tôi ngày xưa thôi.
Tôi vẫn tin là thời gian và những trải nghiệm cuộc sống sẽ cho các bạn trẻ cơ hội để tỉnh ngộ. Và điều cuối cùng tôi muốn nói là : chỉ có kẻ nào sống bằng xương máu người khác mới vui được thôi, nói triệu người vui bây giờ không còn đúng nữa rồi, ông Kiệt ạ !".
Nguyễn Lân Thắng
Nguồn : RFA, 30/04/2019n (nguyenlanthang's blog)
Có phải chính quyền cộng sản Việt Nam tránh nói từ "giải phóng" trong dịp kỷ niệm 30/4 năm nay ?
Dịp lễ 30 tháng 4, ngày kỷ niệm kết thúc cuộc chiến Việt Nam mà Hà Nội gọi là ngày giải phóng Miền Nam, thường được chính quyền Việt Nam tổ chức rầm rộ với các hoạt động tuyên truyền nhiều mặt trong cả nước. Riêng năm nay thì hoạt động này có phần im ắng hơn hẳn, theo nhận xét của một số nhà quan sát.
Hình minh họa. Lễ kỷ niệm 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam ở Sài Gòn hôm 30/4/2015 - AFP
Thay biểu ngữ, ít cờ quạt
Theo Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng - người hiện đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh, việc tổ chức kỷ niệm ngày 30 tháng 4 của Nhà nước năm nay là một hiện tượng đặc biệt và bất thường khi liều lượng và mật độ tuyên truyền cho ngày 30 tháng 4 giảm hẳn, chỉ bằng từ một phần tư đến một phần ba so với những năm trước.
"Đặc biệt là khẩu hiệu "Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước" không còn nhiều trên mặt báo mà chủ yếu chỉ còn "Thống nhất đất nước" và bỏ đi cụm từ "Giải phóng miền Nam". Các lễ hội cấp trung ương, địa phương không thấy tổ chức rình rang ở Sài Gòn, không duyệt binh, không bắn pháo hoa…liên quan đến ngày 30 tháng 4".
Theo nhận định của một số người dân trong nước thì năm nay Nhà nước không có những hoạt động mà mấy chục năm qua họ vẫn thấy như bắt treo cờ, tổ chức những chương trình tuyên truyền ca ngợi ‘lịch sử hào hùng’. Anh Hùng từ Hà Nội cho biết :
"Không biểu ngữ, không băng rôn, không loa phường tuyên truyền như mọi năm. Mọi năm rầm rộ với các khẩu hiệu treo trên cột điện dọc khu phố, chăng ngang qua các tuyến đường. Tổ dân phố họp tại các khu chung cư để ăn mừng và ôn lại "lịch sử hào hùng".
Anh cho biết, trước đây tất cả các hộ dân đều phải treo cờ tổ quốc ; loa phường hoạt động tối đa để tuyên truyền, thậm chí trong các cuộc nhậu "người ta" cũng hô khẩu hiệu ‘mừng giải phóng’... năm nay khẩu hiệu đó ít xuất hiện hẳn trong các cuộc nhậu. Ai muốn treo cờ thì treo, phía chính quyền họ chỉ đi nhắc nhở.
Anh Linh từ Sài Gòn cho biết mọi năm nhà nào cũng bị bắt phải treo cờ, thậm chí người trên phường xuống nhà dân treo rồi bắt dân phải trả tiền. Năm nay tình trạng đó không còn nữa.
"Sài Gòn chỉ khác hơn ngày thường một chút vì có vài nhà treo cờ chứ không như mọi năm. Những chương trình ăn theo lễ lạc do Nhà nước tổ chức gần như không có. TV cũng im ắng, không như mọi năm là chiếu phim lịch sử. Treo cờ cũng rất hời hợt, lác đác. Họ chỉ nhắc nhở chứ không bắt buộc phải treo".
Giáo sư Hoàng Dũng từ Huế nêu ý kiến rằng ở Việt Nam, mọi tuyên truyền đều có chỉ thị từ Ban tuyên giáo, vì vậy chuyện truyền thông mạnh hay yếu đều do một ‘đạo diễn’. Việt Nam không có báo chí tư nhân mà chỉ là tiếng nói của Nhà nước, của đảng. Ông nói :
"Năm nay có một yếu tố khách quan là không phải năm chẵn nên họ không tổ chức lễ rầm rộ, nhưng yếu tố đó cũng không đến nỗi phải tổ chức một cách lặng lẽ như năm nay".
Ảnh hưởng bởi quan hệ Việt - Mỹ
Là một người dân sống ở Sài Gòn từ trước năm 1975, chứng kiến việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày "giải phóng đất nước" mấy chục năm qua, anh Linh cho rằng năm nay Nhà nước không tổ chức rình rang như mọi năm vì nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp đi Mỹ ; thứ hai là chính quyền đã có một cách tiếp cận xã hội khác, có nghĩa là chính quyền hiểu tâm lý người dân nên đã hạn chế tuyên truyền.
Hình minh họa. Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang (trái) ở Nhà Trắng hôm 25/7/2013 AFP
Đánh giá về các nguyên nhân khiến chính quyền Việt Nam hạn chế tuyên truyền cho ngày 30/4 năm nay, nhà báo Phạm Chí Dũng cho rằng, đó là do quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đã thay đổi, và điều đặc biệt quan trọng là chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ trong thời gian tới :
"Càng về sau này tư tưởng và quan điểm ngả về Mỹ trong giới quan chức ở Việt Nam ngày càng lộ rõ, đặc biệt là dàn quan chức cấp Bộ trưởng, Thứ trưởng và cấp Bí thư, Chủ tịch tỉnh, thành. Họ có thân nhân và tài sản ở nước ngoài, chủ yếu là ở Mỹ cho nên họ cần bảo đảm sinh mạng chính trị, sinh mạng sinh học cũng như tài sản của họ. Nhưng họ cũng rất e sợ Trung Quốc cho nên họ dựa vào quan điểm gần đây của Nguyễn Phú Trọng là giãn và ngả dần về Mỹ, do đó họ không còn hào hứng với việc tuyên tuyền cho ngày 30 tháng 4".
Ông Dũng dẫn ra một so sánh về việc tuyên truyền cho ngày 30 tháng 4 năm nay và việc tuyên truyền cho ngày Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, ngày 17 tháng 2 trong cùng năm 2019 :
"Khi mật độ và liều lượng tuyên truyền cho ngày 30 tháng 4 năm nay giảm hẳn thì việc tuyên truyền cho ngày Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, ngày 17 tháng 2 lại rộ lên. Báo chí Nhà nước đồng loạt lên tiếng tố cáo giặc Trung Quốc xâm lược Việt Nam và mô tả chi tiết một số trận đánh xâm lược của Trung Quốc. Đây là điều trước đây không có.
So sánh như vậy để thấy quan điểm đối ngoại của ĐViệt Nam đang có một sự thay đổi và tôi cho rằng đây là sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt".
Từng là cựu thù trong thời gian chiến tranh Việt Nam và trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Việt Nam và Mỹ giờ đây đã trở thành các đối tác. Hai nước đã chính thức bình thường hoá quan hệ từ năm 1995 và đến năm 2013 hai nước nâng tầm quan hệ lên đối tác toàn diện.
Những căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến những tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông cũng khiến quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam thêm gần. Trong chiến lược an ninh quốc gia của Hoa Kỳ công bố hồi năm 2017, Hoa Kỳ đã xác định Việt Nam là một đối tác đang lên về an ninh và kinh tế.
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 được Nhà nước Việt Nam gọi là Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất Đất nước, nhưng cũng là ngày khiến hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Cuộc chiến cũng đã cướp đi sinh mạng của gần 3 triệu người Việt và 58.000 người Mỹ.
Cố Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt cũng đã từng thừa nhận việc nhắc lại cuộc chiến theo cách quen thuộc của chính quyền Việt Nam sẽ có "hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn".
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 30/04/2019