Chiến dịch chống tham nhũng tại Việt Nam vẫn đang được đẩy mạnh trước thềm Đại hội 13. Những kẻ vi phạm bị kỷ luật, lĩnh án, theo ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đều ‘tâm phục, khẩu phục và ăn năn’. Vậy điều gì đang cản trở ?
Phiên tòa ở Hà Nội hôm 22/1/2018 xét xử một cựu quan chức ngành dầu khí bị cáo buộc tội tham nhũng -AFP
Cuối tháng 7/2020 một loạt báo chính thống của nhà nước đưa tin việc ‘kê khai tài sản’ của cán bộ công chức lãnh đạo lại một lần nữa ‘lỡ hẹn’. Đại diện Thanh tra chính phủ - cơ quan soạn thảo Nghị định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị - nêu lý do là Đảng và chính quyền ‘chồng chéo’ kiểm soát tài sản, thu nhập của đối tượng này. Chính phủ đã ‘xin ý kiến’ Đảng nhiều lần nhưng vẫn đang phải chờ quyết định.
Kiểm soát tài sản quan chức, nghĩa là ‘động chạm’ đến chế độ, xuất phát từ thực tế, từ sự tồn vong của chế độ và sự đòi hỏi của người dân. Đó chính là điều đang cản trở chiến dịch chống tham nhũng.
Tham nhũng có căn nguyên từ quyền lực tha hóa. Kiểm soát tài sản của cán bộ lãnh đạo dựa trên cơ sở luật pháp là cơ chế điều chỉnh các hành vi tham nhũng do tha hoá quyền lực. Tuy nhiên, việc triển khai chủ trương này đang gặp ‘rắc rối’, bắt nguồn từ chế độ đảng toàn trị với quyền lực tập trung.
Tham nhũng được định nghĩa là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Nói ngắn gọn, cán bộ lãnh đạo sử dụng chức quyền như một phương tiện để trục lợi cho mình, gia đình mình hoặc cho người thân về lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần.
Tài sản tham nhũng là chứng cứ rõ ràng nhất để kết tội. Không kiểm soát được tài sản của quan chức không thể chống được tham nhũng. Dư luận chỉ có thể bàn tán, người dân ‘nhỏ to’ về sự giàu lên nhanh chóng của quan chức, những biệt thự, xe sang, con cái đi học nước ngoài, du lịch, chữa bệnh cao cấp… thách thức trước mắt họ, nhưng nếu không có bằng chứng tham nhũng, việc tố cáo là không thể, thậm chí gặp ‘nguy hiểm’ liên quan đến quy định pháp luật và cơ chế kiểm soát.
Trong giai đoạn khủng khoảng thể chế trước thềm Đại hội 12, tài sản quan chức cao cấp được tung lên mạng xã hội có chủ đích gây ảnh hưởng tới ‘lá phiếu bầu cử’ các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng. Trang ‘Chân dung quyền lực’ có nhiều bài viết chi tiết về sự giàu có của nhiều quan chức, tuy nhiên đó không thể là chứng cứ. Tài sản của quan chức tham nhũng nằm ngoài sự kiểm soát của Đảng.
Chiến dịch chống tham nhũng được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đẩy mạnh từ sau Đại hội 12 của Đảng. Hàng nghìn vụ kỷ luật và án tù được tuyên đối với nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản công, tuy nhiên rất khó khăn để chỉ ra tội tham nhũng của quan chức tha hoá. Đại án AVG là ngoại lệ hiếm hoi, trong đó các cựu lãnh đạo Bộ Thông tin Truyền thông bị kết tội ‘nhận hối lộ’, có thể coi là ‘thành tích’, nhưng không thể cung cấp biện pháp chính sách hiệu quả để chống tham nhũng.
Thực trạng tham nhũng vẫn nghiêm trọng và lan rộng. Các cán bộ, đảng viên lãnh đạo giữ chức vụ từ trưởng, phó phòng trở lên đã phải kê khai tài sản. Chính sách này mang nặng tính hình thức, kém hiệu lực do thiếu cơ sở pháp luật. Luật Phòng, chống tham nhũng chỉ được ban hành 2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019, và cần thiết một nghị định – văn bản dưới luật để thực thi.
Tuy nhiên, Nghị định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa thể được ban hành, cho nên không thể tiến hành ‘kê khai tài sản’ của cán bộ công chức lãnh đạo. Nguyên nhân, được vị đại diện Thanh tra Chính phủ thừa nhận, là Đảng và Chính quyền ‘chồng chéo’ kiểm soát tài sản, thu nhập của đối tượng này, và Nghị định không thể ban hành nếu thiếu ý kiến quyết định của Ban Bí thư, Bộ Chính trị.
Nguyên tắc ‘Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý’ vận hành gặp trục trặc ngày càng thường xuyên trong quá trình chuyển nền kinh tế sang thị trường, đặc biệt trong công tác cán bộ. Đảng lệ dựa trên các quy định nặng về định tính trong khi pháp luật nhà nước điều tiết hành vi bằng các chế tài cụ thể, định lượng. Một quan chức suy thoái có thể bị Đảng khiển trách hay cảnh cáo, tuy nhiên luật định gặp khó khi đưa ra các mức chế tài tương đương. Thậm chí, mới đây thôi, cựu thứ trưởng Bộ Công thương, từng bị Đảng cách ‘nguyên’ chức trong nhiệm kỳ khi còn công tác, tuy nhiên khi sai phạm có liên quan trong vụ án được phát hiện sau vài năm, đã kịp ‘cao chạy xa bay’ ra nước ngoài !
Thanh tra Chính phủ - cơ quan soạn thảo nghị định - cho biết, rằng Ban Bí thư ‘sẽ ban hành quy chế phối hợp kiểm soát tài sản’ của đối tượng này để giải quyết ‘chồng chéo’, nhưng đây cũng chỉ có thể là giải pháp tình huống. Kiểm soát tài sản quan chức là cơ sở chắc chắn hơn nếu dựa vào pháp luật. Nghị định trên cần được sớm ban hành và thực thi một cách thực chất như một giải pháp chính sách chống tham nhũng để đáp ứng đòi hỏi của người dân. Tham nhũng đang ‘sói mòn’ niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Niềm tin liệu có ‘quay trở lại’ tùy thuộc vào mức độ Đảng tự sửa khi ‘tự lấy đá ghè chân mình’.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 03/08/2020
Đại hội lần thứ 13 của Đảng cộng sản Việt Nam đang đến gần. Theo các nhà quan sát trong và ngoài nước thì kỳ đại hội này rất khó khăn và sóng gió. Chế độ cộng sản, một mô thức cầm quyền cải tiến của chế độ phong kiến dựa trên tư tưởng Khổng giáo đang tiến dần đến hồi kết theo đúng qui luật "thịnh - suy" trong lịch sử. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận định Đại hội 13 sẽ quyết định số phận và tương lai của Đảng cộng sản.
Sự ruỗng nát của Đảng cộng sản đã quá lớn đến mức những tiểu tiết cũng trở thành rõ ràng và cụ thể. Ông Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ điều đó : "Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội… làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự".
Đàn áp và bắt bớ trước đại hội đang gia tăng từ trong nội bộ đảng đến ngoài xã hội. Nhiều quan chức cao cấp của thành phố Hồ Chí Minh và một số cán bộ thân cận của chủ tịch Hà Nội vừa bị bắt và khởi tố. Các bloggers và dân oan cũng vậy. Đáng chú ý là tin Bộ Công an muốn tăng cường bộ máy đàn áp bằng việc nâng cấp lên chính qui 750.000 dân phòng, bảo vệ tổ dân phố, công an xã… thành "lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở". Như vậy, cộng với hơn 1,2 triệu công an chính qui, Việt Nam có khoảng 2 triệu công an trên 95 triệu dân, tức 47 người dân/1 công an. Một tỉ lệ quá lớn so với thế giới.
Ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh bị bắt và khởi tố hôm 11/7/2020
Tỉ lệ đảng viên và người dân tại Việt Nam là 1/25. Khi số lượng đảng viên và công an quá đông sẽ làm suy yếu đảng cộng sản thay vì làm cho nó mạnh lên. Số đông này sẽ biến đảng cộng sản thành một đám ô hợp. Nhiều đảng viên không biết gì về chính trị nhưng lại đòi hỏi nhiều đặc quyền, đặc lợi nhân danh cái mác đảng viên đảng cộng sản. Nhiều tội phạm nghiêm trọng là đảng viên khiến hình ảnh Đảng cộng sản ngày càng hoen ố.
Đám kiêu binh này ngày càng lộng hành và Đảng cộng sản sẽ lúng túng trong việc xử lý. Chiều chuộng quá cũng không được mà mạnh tay quá cũng không xong. Việc thượng tá, chủ nhiệm bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học Trường Sĩ quan Công binh Bùi Tiến Lợi bị xóa đảng tịch, đuổi ra khỏi lực lượng Dư luận viên 47 sau khi "có những bài viết, phát ngôn trên mạng xã hội trái với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa, để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước", là một ví dụ.
"Đội quân" bất mãn trong nội bộ đảng sẽ ngày càng gia tăng vì chính bản chất hung ác và khủng bố của Đảng cộng sản. Chế độ bất công tạo ra nhiều người bất mãn, người hài lòng với Đảng cộng sản rất ít, ngay cả trong giới lãnh đạo cao cấp. Một ví dụ là "tình đồng chí" giữa Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trong hồi ký "Làm người là khó" của Đoàn Duy Thành. Theo lời ông Thành thì trước lúc chết 4-5 tháng Lê Duẩn từng đuổi Lê Đức Thọ ra khỏi nhà, vì thế sau khi chết các con cháu Lê Duẩn đều lo sợ cả nhà bị giết. Rất may là điều đó đã không xảy ra. Mối quan hệ giữa cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đương kim Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng giống kẻ thù hơn là "đồng chí".
Không nhất thiết phải ở trong nội bộ Đảng cộng sản thì chúng ta cũng có thể biết rằng Đảng cộng sản đang rất phân hóa và chia rẽ. Chúng tôi đã phân tích nhiều lần rằng một tổ chức chính trị chỉ có thể đoàn kết và đồng thuận với nhau khi cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị. Đảng cộng sản không còn cả hai thứ đó cho nên đội quân khổng lồ của họ chỉ có thể xác và số lượng chứ không có tâm hồn và trí tuệ. Đảng cộng sản sẽ phân hóa thành 3 khuynh hướng :
1. Nhóm bỏ cuộc. Nhóm này đông nhất và cách bỏ cuộc của họ dễ thấy nhất là gom góp tiền bạc và chạy ra nước ngoài. Nhiều đại biểu quốc hội và quan chức cao cấp có hộ chiếu nước ngoài. Họ đã gửi con cái và tài sản sang các nước tư bản và sẵn sàng ra đi khi có biến. Nhóm này không còn quan tâm đến đất nước, họ không ủng hộ hay chống đối chế độ lẫn phong trào dân chủ. Họ chỉ làm "mất máu" cho đảng cộng sản và đất nước khi đem tiền của vơ vét và tham nhũng được ra nước ngoài.
2. Nhóm tranh luận và đòi thay đổi. Đây là nhóm các đảng viên trung cấp trong đảng. Nhóm này chưa đông nhưng sẽ là mạnh nhất và có khả năng tạo ra thay đổi nhất vì họ có hiểu biết, quyết tâm và ý chí. Đại diện cho nhóm này là những người tham gia viết tài liệu "Nguy cơ và giải pháp cứu nguy cho Đảng" mà chúng tôi đã đề cập (*). Họ chỉ là thành phần trung cấp trong đảng vì giới lãnh đạo chóp bu không thể phát biểu như vậy. Nếu ông Trọng hay ông Phúc mà phát biểu như vậy thì đảng cộng sản sẽ tan ngay lập tức. Đảng cộng sản càng phân hóa và rã rượi thì nhóm này càng mạnh lên và có tiếng nói.
3. Nhóm bảo thủ. Đây là những người trung thành với chế độ đến cùng, đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng. Nhóm này không đông nhưng là nhóm "cầm lái", là những người có nhiều quyền lợi và chức vụ gắn bó với sự tồn vong của đảng. Sở dĩ Đảng cộng sản không thể cải tổ vì vấp phải sự chống đối quyết liệt của nhóm bảo thủ này. Dù vậy, khi có biến nhóm này sẽ tan rã rất nhanh vì không có sự hậu thuẫn của các đảng viên và quần chúng.
Cuộc đảo chính tại Liên Xô ngày 19/8/1991 là một ví dụ. Sự cải cách mạnh mẽ của tổng thống Liên bang Xô Viết Gorbachev khiến nhóm bảo thủ trong Đảng cộng sản Liên Xô lo sợ chế độ sẽ sụp đổ, vì vậy một nhóm 8 thành viên cao cấp của đảng gồm giám đốc Ủy ban An ninh quốc gia (KGB), Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Nội vụ, Thủ tướng và Phó tổng thống… đã tiến hành đảo chính Gorbachev. Cuộc đảo chính đã không nhận được sự ủng hộ của bất cứ ai, kể cả giới quân đội cũng như người dân Nga nên Boris Yetlsin đã dễ dàng dẹp tan cuộc đảo chính chỉ sau ba ngày và dẹp luôn cả Gorbachev để trở thành tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga.
Boris Yetlsin đã dễ dàng dẹp tan cuộc đảo chính do những người cộng sản bảo thủ khởi xướng chỉ sau 3 ngày (19/8/1991)
Tình hình kinh tế của Việt Nam thời hậu Covid-19 sẽ rất khó khăn vì quá phụ thuộc vào xuất khẩu nên mọi kế hoạch có thể bị ảnh hưởng do các tác động từ bên ngoài. Muốn cứu nguy nền kinh tế và dọn đường để thu hút các công ty nước ngoài đang rút khỏi Trung Quốc thì chính quyền Việt Nam phải tiến hành cải cách rất mạnh tay như xóa bỏ độc quyền các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực then chốt như hàng không, điện lực, xăng dầu, giao thông (xóa bỏ toàn bộ các trạm BOT trên quốc lộ 1A)…
Dự án Chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đề nghị :
"Chúng ta phải chuyển đổi từ một hệ thống nhất nguyên, tập trung và chuyên quyền sang một chế độ đa nguyên, tản quyền và phân quyền.
Thay thế một nền kinh tế hoạch định đặt nền tảng trên các xí nghiệp quốc doanh bằng một kinh tế thị trường lấy các xí nghiệp tư làm sức mạnh.
Biến một guồng máy chính quyền tham nhũng, quan liêu, bàn giấy, công cụ của một đảng thành một nhà nước hữu hiệu, trách nhiệm, lành mạnh, phục vụ cho công ích.
Phải chấm dứt lối quản lý tùy tiện bằng nghị quyết và chỉ thị để thiết lập một nhà nước dân chủ pháp trị đúng nghĩa.
Phải thay thế bộ máy công an được quan niệm và tổ chức như một dụng cụ đàn áp của Đảng cộng sản bằng một bộ máy công an bảo vệ trật tự an ninh và dân quyền ; thay thế các tòa án được coi như cánh tay nối dài của công an bằng những tòa án độc lập chỉ có sứ mạng thể hiện luật pháp.
Phải thay thế một nền giáo dục tuyên truyền, nhồi sọ và thiếu phẩm chất bằng một nền giáo dục khách quan, khai phóng và phẩm chất cao. Chúng ta phải coi giáo dục và đào tạo là cuộc chiến đấu sống còn của đất nước".
Có lẽ nhiều đảng viên đảng cộng sản đã hiểu rằng chỉ có một lối thoát duy nhất là "triệt thoát dứt khoát về dân chủ" mới có thể cứu được họ. Trung Quốc đang khủng hoảng và không còn là chỗ dựa cho Đảng cộng sản Việt Nam. Việt Nam có muốn đu dây cũng không được vì cuộc li dị giữa Trung Quốc và các nước dân chủ là dứt khoát và không thể đảo ngược. Cuộc li dị này không chỉ Mỹ và các nước dân chủ mong muốn mà ngay cả Trung Quốc cũng không muốn níu kéo vì họ hiểu rằng mô hình dân chủ không thể áp dụng cho Trung Quốc. Việt Nam đã lấy quyết định "chia tay" với Trung Quốc để xích lại với các nước dân chủ. Dù vậy chuyện "thoát Trung" cũng khiến nội bộ Đảng cộng sản chia rẽ và phân hóa nặng nề. Muốn "theo Mỹ" thì Việt Nam phải bơi qua con sông ngăn cách giữa hai thể chế chính trị độc tài và dân chủ. Đảng cộng sản sẽ chết đuối vì không biết bơi.
Tương lai của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ vô cùng đen tối sau Đại hội 13. Đây là giai đoạn chuyển giao thế hệ quan trọng. Lớp con cháu của họ nếu thông minh và khôn ngoan thì phải hiểu rằng chế độ độc tài là không phù hợp với thời đại, lớp hậu sinh này sẽ đòi hỏi thay đổi. Còn nếu thế hệ kế thừa này cố tình giả ngu "nhắm mắt, bịt tai" để tiếp tục duy trì chế độ chính trị lạc hậu này thì sớm muộn cũng sẽ bị dòng chảy của lịch sử cuốn đi. Lựa chọn nào của lớp kế cận cũng gây nhức nhối cho ban lãnh đạo cộng sản hiện nay.
Di sản của Đảng cộng sản để lại cho đất nước sau 75 năm cầm quyền quả là kinh khủng và nặng nề, chỉ có một liều thuốc duy nhất để chữa lành vết thương là tinh thần hòa giải dân tộc của một chế độ dân chủ trong tương lai. Khó khăn lớn nhất là chúng ta kế thừa một đất nước chồng chất hận thù, chia rẽ và thất vọng do chiến tranh và các chính sách phân biệt đối xử để lại. Chúng ta sẽ phải hàn gắn những đổ vỡ mà không gây ra những đổ vỡ mới. Chúng ta sẽ phải hòa giải người Việt Nam với nhau và với đất nước Việt Nam để cùng bắt tay nhau xây dựng và chia sẻ một tương lai chung trong một đất nước Việt Nam đáng sống, đáng yêu và đáng tự hào. Muốn thế chúng ta phải có một chính quyền dân chủ, lương thiện và trách nhiệm để có thể nhận diện những vấn đề của đất nước và đề ra các giải pháp.
Chỉ có một chính quyền như vậy mới có thể tạo ra được sự đồng thuận và đoàn kết dân tộc để cùng nắm tay nhau tiến vào tương lai. Đảng cộng sản không có khả năng đó. Đã đến lúc người dân Việt Nam cần tìm hiểu và ủng hộ cho một lực lượng chính trị mới với các giải pháp mới.
Việt Hoàng
(25/07/2020)
(*) Việt Hoàng, "Lực lượng chính trị nào sẽ dân chủ hóa Việt Nam ?", 30/06/2020
Quyền tự do công đoàn đã được Quốc hội Việt Nam thông qua vào tháng 6-2019, với Nghị quyết về việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Một năm sau đó, tháng 6-2020, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức. Đây là một cam kết mạnh mẽ trong công cuộc đấu tranh chống lại lao động cưỡng bức dưới mọi hình thức. Bước tiến này sẽ đưa tổng số công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam phê chuẩn lên 7/8 công ước.
Ở đây xin được luận bàn về đề xuất sửa đổi luật công đoàn, và soạn thảo luật về quyền lập hội từ cách nhìn ‘tương thích’ với những công ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
Thứ nhất, tổ chức công đoàn cần thuần túy là tổ chức dân sự xã hội, không phải tổ chức chính trị, và từng thành viên trong tổ chức xã hội dân sự này đều không chịu sự giới hạn nào về quyền tự do chính trị như hiến định khi tham gia vào các tổ chức công đoàn. Do đó cần điều chỉnh nội dung ở Điều 9.2, Điều 10, Hiến pháp 2013. Đồng thời cần sửa đổi Chương 1 của Luật công đoàn 2012, và các nội dung liên quan khi sửa đổi Chương 1 này.
ĐIỀU 9.2 : Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình ; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
ĐIỀU 10 : Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động ; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội ; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động ; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, chấm dứt phân biệt đối xử giữa "công nhân – đảng viên" và "người lao động – không đảng viên.
Việc phân biệt đối xử này được thể hiện tại Hiến pháp 2013, Điều 4.1 :
Việc phân biệt đối xử này được thể hiện tại Hiến pháp 2013, Điều 4.1 : "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Nếu tiếp tục quan điểm "Đảng cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân", sẽ không thể có các tổ chức công đoàn độc lập, vì những tổ chức này có thể chấp nhận, hoặc không chấp nhận sự hiện diện của tổ chức đảng.
Tương tự, khi Việt Nam tham gia vào các Điều ước quốc tế, thì yêu cầu đảng cộng sản là "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" không có giá trị pháp lý – ngoại trừ trường hợp cơ quan đảng với cơ quan chính quyền hợp nhất thành một.
Đặt vấn đề tu chính Hiến pháp 2013 có thực tế hay không ? Lý do : Để các văn bản luật nói trên phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, cần xem xét lại một số điều ở Hiến pháp 2013 :
Đề xuất tu chính Điều 4, Hiến pháp 2013 :
+ Điều 4.1 : "Đảng cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Các nội dung nêu trên cho thấy đã phân biệt về "quyền lợi chính trị" giữa "công dân – đảng viên" và "công dân – không đảng viên" trong tất cả mọi hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
Điều này đã được xác lập tại Điều 14 : "1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".
+ Điều 4.2 : "Đảng cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình".
+ Điều 4.3 : "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Cho đến nay chưa có thể chế nào quy định rõ tổ chức đảng và đảng viên hoạt động theo khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật là gì ? Hay là chỉ có tư cách cá nhân là công dân và tổ chức thì hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật thôi.
Còn với tư cách là đảng viên, thành viên trong tổ chức Đảng thì hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là gì thì chưa được thể chế hóa ; cũng chưa thể chế hóa để cho người dân giám sát tổ chức đảng và đảng viên.
Với những điều tóm tắt kể trên, việc lựa chọn tu chính Hiến pháp 2013, có lẽ là một giải pháp khả thi, có thể tiến hành nhanh và giúp đảng cộng sản Việt Nam hoàn thiện hơn về tương lai của một dự luật về đảng chính trị ở Việt Nam.
Xuân Minh
Nguồn : VNTB, 06/07/2020
Đột tử trên ghế Chủ tịch nước, Trần Đại Quang vẫn kịp có lời nguyền cuộc chiến đoạt ghế sẽ là cuộc chiến đoạt mạng. Lời nguyền này của Quang được chứng khi trong đêm đại tang, sét bủa vây trên bầu trời Hà Nội.
Đại hội 13 ngày càng giống ngưỡng cửa tử thần.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Phú Trọng công cán Kiên Giang lại ngã bệnh đến mức giờ tay vẩy vẩy như cào cào gãy cánh. Vậy nhưng, cũng như Napoleon của nước Pháp thế kỷ 19 và Putin của nước Nga thế kỷ 21 "một khi ta đã có tột đỉnh quyền lực thì ta không thể từ bỏ, không thể cam tâm từ bỏ".
Họp Trung ương, ông ta chỉ có thể ngồi vì hai chân đã không thể đứng dù chỉ vài phút. Ngồi và dạy đời Trung ương, nào là "đừng tưởng thấy đỏ là chín", nào là "đừng nhìn gà hóa cuốc", nào là "có con mắt tinh đời", nào là "đừng chỉ thấy cái mã bên ngoài nó che đậy cái mã sơ sài bên trong".
"Con mắt tinh đời" thế nào thì không biết, chỉ biết là lũ người dưới ông giờ đồng lòng, mồm thì bảo nhau một điều Tổng bí thư, hai điều Tổng bí thư và thượng tôn nguyên tắc "giữ gìn sức khỏe cho Tổng bí thư", tay chân thì cứ thế lẳng lặng chia nhau quyền lực, chia nhau thị phần. Tóm lại, chia để trị, còn ông lên chùa thành phỗng.
Nhưng thời kỳ chia đều để trị chỉ kéo dài đến Đại hội, trong bó đũa phải có cột cờ. Nếu Đại hội này Trần, Nguyễn phân tranh không bên nào thế thượng phong, tất cả sẽ đều đồng thanh tương ứng, nhất nhất đồng lòng mời phỗng ngồi thêm nhiệm kỳ nữa cho toại ý Đảng, đẹp lòng dân.
Trước khi toại ý Đảng, đẹp lòng dân thì cứ phải quyết tử với nhau đã.
Để được lòng tất cả các bên, Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tổ chức Trung ương hô biến "lợi ích nhóm", "phe cánh" thành một khái niệm mỹ miều là "quy tụ" và bê vào Nghị quyết 214 của Bộ Chính trị như một phẩm chất không thể không có của yếu nhân.
Thế là từ đó, đơn thư tố cáo về phe cánh, lợi ích nhóm bị vô hiệu hóa vì giờ làm gì còn những thứ xấu xa đó ? Cuộc chơi trở nên sòng phẳng rõ rệt, anh nào mạnh thì anh đó "quy tụ".
Quyết tử lần này cũng đặc sắc gấp bội các nhiệm kỳ trước.
Với tiêu chuẩn hàng đầu mà Nghị quyết 214 đưa ra là giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, đố đồng chí nào dám vi phạm mà xì tin ra cho "lề trái". Thời gian qua, thông tin nhân sự toàn nhảm.
Giờ các đồng chí chiến đấu với nhau bằng lề phải, vừa đúng kỷ luật Đảng, vừa xứng mặt hảo hán.
Võ Văn Thưởng, kẻ bất mãn ngồi ghế Trưởng ban tuyên giáo trung ương, ngoài việc viết dăm bài chửi đổng những người đồng chí của mình là dân túy, thì ngày ngày ngồi uống nước nhạt "tọa sơn quan hổ đấu".
Truyền thông trong nước được dẫn dắt bởi cái gọi là chống tiêu cực, để trở thành hoặc công cụ cho phe phái, hoặc làm tiền, hoặc cả hai.
Đến người chết rồi mà cũng còn bị dựng dậy để xung trận. Vụ án Hồ Duy Hải là một ví dụ điển hình.
Con trai của Lê Minh Trí, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao vừa tử nạn ở tuổi 29, chưa kịp lập gia đình. Không biết chết con có giúp Trí hiểu được nỗi đau về những cái chết oan ở Bưu điện Cầu Voi 12 năm trước, khi mà chính Trí đột nhiên phất cờ cứu kẻ tạm gọi là đương kim hung thủ.
Trí làm vậy không phải vì chính nghĩa hay lý tưởng cao đẹp gì, mà chỉ là cố lập công với họ Trần để không phải gia nhập câu lạc bộ sĩ quan sau khi kết thúc nhiệm kỳ này. Ghế chưa nhìn thấy đâu, chỉ thấy đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Hai cô gái ở bưu điện Cầu Voi chết thảm khi mới đôi mươi, họ cũng chưa lập gia đình, họ bị cứa cổ đến chết. Không một ai quan tâm đến việc họ đã chết oan, không một ai quan tâm đến việc hung thủ phải đền mạng, mà chỉ dựng họ dậy để hạ bệ lẫn nhau. Bất công như vậy đến Trời xanh cũng phải nhỏ lệ.
Không bàn Hồ Duy Hải có phải là hung thủ hay không, chỉ thấy vụ án này là sự lão luyện của các tay bạc già trên chính trường Việt.
Truyền thông trong nước vào cuộc rất hăng, cứ như các anh hùng thời loạn tả xung hữu đột, không phải để kêu oan cho hai cô gái, mà là kêu oan cho hung thủ. Giới văn nghệ sĩ thì vào cuộc vì vẫn mang ảo tưởng thế thiên hành đạo và có cả những kẻ đầy toan tính cơ hội trong đó.
Trần Đăng Khoa là một ví dụ. Sau khi được hứa hẹn cho chiếc ghế Chủ tịch Hội Nhà văn, Khoa lập tức trở thành game thủ quyết giải cứu hung thủ trong trò chơi đoạt ghế ở thượng tầng.
Còn các đồng chí đức cao vọng trọng của chúng ta nhân danh công lý, cũng như "phe nhóm" nhân danh "quy tụ", để chiến đấu bất chấp việc "các thế lực thù địch" nhân đây là mồi ngon để chống phá Đảng ta.
Xem ra ta cũng coi Đảng ta là cái đinh gỉ một khi ta không có được ghế. Con mắt tinh đời là ở đây chứ ở đâu ?
Họ Trần và liên quân miền Bắc hiện thúc thủ. Hoàng Trung Hải, xác sống biết đi năm lần bảy lượt xin nghỉ để có hai chữ bình an, nhưng vẫn bị đóng đinh tại trận vì còn Hải là còn 1 lá phiếu trong Bộ Chính trị bỏ cho Thái Bình quê ta. Giá treo cổ đã chờ sẵn khi chiếu bạc tàn canh. Đó đây bắt đầu râm ran tin khởi tố Hải.
Hai lá phiếu khác cho Thái Bình quê ta, một là Vương Đình Huệ, ứng viên Thủ tướng, đã bắn đi thế chỗ Hải làm Bí thư Hà Nội và không hẹn ngày trở lại. Hai là Nguyễn Văn Bình, soái Nga, sẽ ngồi ghế Trưởng ban Kinh tế bền lâu.
Phạm Bình Minh mải ngụp lặn trong các cuộc viễn chinh, lúc vãn hồi mới ngỡ ngàng "ơ các anh chia ghế mà không sắp ghế cho em ?". "Ừ, thì chú có công mang chuông, cho ghế Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội an hưởng tuổi già nhé".
Lửng lơ giữa hai dòng nước, Tô Lâm, Bộ trưởng Công an phải mang bộ dạng sói đội lốt cừu nín nhịn chờ thời. Án AVG vẫn treo lơ lửng trên đầu bởi hai tướng Bình thích thả thòng lọng lúc nào là thả.
Tướng Nguyễn Hòa Bình khi được Quốc hội bầu làm Chánh án năm 2016, nói đại ý, tôi và người tiền nhiệm là Chánh án Trương Hòa Bình đều mang tên Hòa Bình, chắc cũng là ý Trời cho tòa những năm tháng không đâm chém, không gươm đao, thiên hạ thái bình.
Mà cây muốn lặng, gió chẳng đừng. Chân dung quyền lực dựng lên bởi các tướng lĩnh ăn không được thì đạp đổ trong ngành công an đập thẳng vào Hòa Bình.
Công an không phải lực lượng bảo vệ chế độ mà là lực lượng ăn tiền cực lực của chế độ. Miếng ăn lại là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Ngành này chống tham nhũng ở đâu là vì ở đó công an không thò được vào đó cái vòi bạch tuộc tham nhũng.
Bút thủ Nguyễn Như Phong, cây bút chủ lực của Chân dung quyền lực, ăn tiền của bên nào thì bên đó lụi, ăn tiền của Đinh La Thăng, Thăng vào tủ, ăn tiền của Trần Đại Quang, Quang đột tử. Phong vẫn sống, lải nhải bài ca ơn Đảng và lớn tiếng dạy đời.
"Các thế lực thù địch" hóa ra toàn là người trong Đảng, đúng như đúc kết của họ Trần, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, ứng viên số 1 cho vương vị Tổng bí thư, toàn là tự ta lật đổ ta.
Những kẻ mà truyền thông lề phải vu là chống phá chế độ, như Người Buôn Gió, xét ra ngoài tội tung tin "mua vui cũng được một vài trống canh", thì vẫn đáng quý hơn gấp vạn lần các đồng chí ta. Gió còn giữ được ở trong lòng những điều tốt đẹp "thích uống trà mạn, yêu quê hương Việt Nam".
Vẫn còn đó lời nguyền của kẻ đột tử. Ghế có được có thể phải trả bằng sinh mạng. Không có cái chết nào đến nhanh hơn cái chết đến từ lưỡi dao của những người đồng chí.
Cứ khoác áo chính nghĩa mà chiến đấu với nhau đi.
Các nhà dân chủ thời kỳ này có lẽ nên tạm nghỉ, không cần phí sức, cứ yên chí.
Tổng bí thư tương lai đã nói rồi, tự ta lật đổ ta.
Sao Băng
Nguồn : Viet-studies, 08/07/2020
‘Từ chức’ là hiện tượng các cán bộ lãnh đạo ‘tự nguyện’ rời bỏ chức vụ, quyền hạn hiện có, được cho là ‘chuyện lạ’, ‘hiếm gặp’ trong cơ chế đặc quyền đặc lợi, nhưng gần đây hiện tượng này ‘lây lan’ từ chức vụ cấp thấp đến cao, từ lĩnh vực này qua lĩnh vực khác trong nhiều địa phương phản ánh tình trạng bất ổn của chế độ.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (giữa) phát biểu trước các Uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng tại lễ bế mạc đại hội đảng ở Hà Nội hôm 28/1/2016 - AFP
Bản chất chế độ đặc quyền có nguồn gốc lịch sử từ nhà nước phong kiến tập quyền, trong đó hiện tượng ‘từ quan’ thường diễn ra trong giai đoạn suy vong của triều đại. Triều đại khác lên thay thế, điều chỉnh chính sách để rồi tiếp tục duy trì chế độ này theo chu kỳ thịnh – suy, mà không thay đổi về bản chất.
Ngày nay, mô hình Đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện cũng dựa trên chế độ đặc quyền, đặc lợi cho các lãnh đạo đảng viên. Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường sự tha hóa quyền lực ngày càng nghiêm trọng dẫn tới suy thoái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, tham nhũng… của ‘bộ phận không nhỏ’ trong giới lãnh đạo. Đảng tiến hành ‘chỉnh đốn’ nội bộ, tự kiểm soát quyền lực để duy trì chế độ, tuy nhiên bối cảnh thế giới tạo ra sự lựa chọn khác : chế độ kiểm soát quyền lực theo hướng dân chủ phù hợp với kinh tế thị trường
Hiện tượng ‘từ chức’, ‘từ quan’ về hình thức là quan chức tự nguyện rời bỏ với những lý do cá nhân, nhưng thực ra thường che giấu ‘sự bất đồng’ hoặc một động cơ có chủ đích, vụ lợi tuỳ bối cảnh.
Khoảng 20 năm trước có một vị vụ trưởng thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo từ chức do ‘bất đồng quan điểm’ trong chuyên môn được coi là 'sự kiện lịch sử', gây ‘xôn xao’ dư luận, nhưng nay trong thời kỳ bất ổn thể chế hiện tượng này đang có xu hướng ‘lây lan’, phức tạp, phản ánh tình hình suy thoái nghiêm trọng của chế độ đặc quyền, đặc biệt khi chiến dịch chống tham nhũng được thực thi quyết liệt hơn từ đầu nhiệm kỳ Đại hội 12, năm 2016 đến nay.
Ngày 23/6/2020 truyền thông nhà nước đưa tin, và được cơ quan Tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi xác nhận rằng, dàn lãnh đạo tỉnh, gồm đương kim Bí thư và Chủ tịch tỉnh, có đơn xin ‘thôi chức, nghỉ hưu theo chế độ’. Lưu ý rằng chức bí thư tỉnh, theo cơ cấu trong đảng, là ủy viên Ban chấp hành Trung ương’ – cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng. Ngoài ra, vị bí thư này sinh năm 1963, nghĩa là còn 3 năm nữa mới ‘phải’ về hưu theo quy định. Bản tin trên cũng cho biết rằng trước đó hai vị lãnh đạo cấp tỉnh này đã bị Bộ Chính trị kỷ luật với hình thức cảnh cáo vì họ đã vi phạm ‘khuyết điểm nghiêm trọng’ về các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong hai nhiệm kỳ liên tiếp 2010 – 2015, 2015 – 2020.
Bí thư tỉnh Quảng Ngãi, ông Lê Viết Chữ. Báo Chính Phủ
Việc gửi đơn xin thôi chức của các vị lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi, như truyền thông bình luận, cũng ‘na ná’ như các trường hợp xảy ra trước đó không lâu, như vụ ông Võ Kim Cự - cựu Bí thư tỉnh Hà Tĩnh, bà Phan Thị Mỹ Thanh – nguyên Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, ông Hồ Văn Năm – nguyên Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh thay bà Thanh trong thời gian ngắn... Nhiều ý kiến cho rằng các vị này ‘từ quan’ là ‘bất đắc dĩ’, không còn sự lựa chọn khác, thậm chí để lợi dụng ‘ưu thế đặc quyền’ của chế độ đảng trị hòng mong có thể được giảm nhẹ ‘sự trừng phạt’ của Đảng. Bởi vì theo một số ‘tiền lệ’ có hình thức kỷ luật ‘cảnh cáo’, chỉ bị cắt ‘nguyên’ của chức vụ trong thời gian công tác, và ‘hạ cánh an toàn’ mà không chịu chế tài của pháp luật nhà nước.
Hiện tượng ‘từ quan’ trong lịch sử chế độ phong kiến tập quyền cũng ít được ghi chép tỷ mỷ. Việt Nam đã trải qua lịch sử 13 triều đại, trong đó có hai trường hợp điển hình, được ca ngợi là Chu Văn An và Nguyễn Trãi, các vị quan có công lao với chế độ, có lòng tự trọng và bản lĩnh, ‘lui về ở ẩn’ trong bối cảnh triều đình rối ren, suy đồi. Người đời sau tôn vinh họ và phê phán các ‘nguỵ vương’.
Chu Văn An được ca ngợi là vị quan liêm trực thời nhà Trần (1225-1400), đã soạn ‘Thất trảm sớ’ dâng lên vua để đề nghị chém 7 nịnh thần. Tuy nhiên, vị vua này được lịch sử ghi lại là ‘người ăn chơi, thích tửu sắc hát xướng’, bị o bế bởi cận thần bất tài để lộng hành, không biết ‘trị vì’ để xã hội lâm cảnh nhiễu nhương, dân tình đói khổ. Do ‘Thất trảm sớ’ không được thực thi, ông đã ‘lui về ở ẩn’ tại núi Phượng Hoàng, Hải Dương, sống thanh liêm và dạy học. Ngày nay tượng của ông được đặt thờ trong Văn Miếu Quốc tử giám.
Trường hợp thứ hai là Nguyễn Trãi. Ông là công thần khai quốc nhà Hậu Lê, một văn thần với bài ‘Hịch tướng sĩ’ lưu danh, có nhiều đóng góp trong khởi nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên đến thời bình, trong chính trường ‘đấu đá phức tạp’ nhà Hậu Lê, sự nghiệp của ông lúc thăng lúc giáng vì bất đồng quan điểm với một số đại thần khác, một số kế sách không được dùng. Nguyễn Trãi ‘bất đắc chí và lui về ở ẩn’ năm 1439. Ông là nhân vật lịch sử được cho là ‘oan trái’ trong vụ án Lệ Chi viên, khi bị ‘chu di tam tộc’ (chém đầu 3 họ) vì bị ghép tội giết vua Lê Thái Tông. Sau này, năm 1464, vua Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho ông.
Fransis Fukuyama, giáo sư kinh tế chính trị quốc tế của Hoa Kỳ, trong nghiên cứu mới đây có nhận định rằng, chế độ cộng sản toàn trị Trung Quốc có nguồn gốc lịch sử từ chế độ phong kiến tập quyền. Điểm tương đồng chủ yếu của chúng là duy trì chế độ đặc quyền để cai trị và quyền lực tập trung cao độ, dưới thời phong kiến vào các vị vua, chúa hay hoàng đế, và thời nay là lãnh tụ tối cao của Đảng cộng sản. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản các vị lãnh tụ thường cai trị suốt đời, cho đến chết. Quan lại trong bộ máy cai tri đòi hỏi phải trung thành và phục tùng tuyệt đối. Bởi vậy, hiện tượng từ quan, từ bỏ ‘ân huệ, đặc quyền’ là hiếm gặp, hơn thế có thể bị nghi ngờ về động cơ và bị giám sát.
Cả hai kiểu chế độ như vậy, về cơ bản đều vận hành theo chu kỳ thịnh – suy tuỳ thuộc vào ‘sự anh minh’ của các vị vua hay ‘hồng và chuyên’ của lãnh tụ cộng sản. chế độ phong kiến tập quyền trước kia không có sự lựa chọn, bởi vậy triều đại này khi suy vong sẽ thay thế triều đại khác tạo nên chu kỳ trong lịch sử hàng ngàn năm tồn tại. Tuy nhiên, trong bối cảnh chế độ phong kiến bị thay thế bởi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tiến bộ hơn, chế độ cộng sản đã có thể có sự lựa chọn khác khi buộc phải ‘mở cửa và cải cách’, chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Mô hình Liên Xô đã sụp đổ gần 30 năm trước. Trung Quốc, Việt Nam… tiếp tục duy trì chế độ toàn trị bằng cách ‘mở cửa’ với thế giới để đón nhận vốn đầu tư nước ngoài và ‘cải cách’ thể chế kinh tế theo hướng thị trường. Thành công trong tăng trưởng kinh tế là ‘cứu cánh’ cho tính chính danh của đảng cầm quyền. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo kiểu mô hình Trung Quốc cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô là ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hoá’ của ‘quan chức’ trong chế độ đặc quyền, và Mikhail Gorbachov là tội đồ. Mỗi khi thể chế bất ổn thì sự ‘chỉnh đốn’ nội bộ được tăng cường, mà chiến dịch chống tham nhũng ‘không vùng cấm’ là giải pháp ‘cực chẳng đã’ để quyền lực được tập trung cao hơn. Ngoài ra, bất kỳ sự chống đối nào từ bên dưới hay phe phái đều bị đàn áp. Tính chất chuyên chế là ‘bùa hộ mệnh’ để kiểm soát quyền lực tha hóa và duy trì chế độ theo chu kỳ thịnh – suy.
Tuy nhiên, mâu thuẫn đã diễn ra ngày càng gay gắt giữa quá trình tập trung quyền lực như một đặc tính của chế độ đặc quyền và quá trình phân cấp, phân quyền cho các địa phương, sự tự chủ của các chủ thể kinh tế và cá nhân xuất phát từ các nguyên tắc vận hành của thị trường. Hậu quả là quyền lực bị tha hóa nghiêm trọng, trục lợi, tham nhũng lan rộng. Trong bối cảnh này chế độ Đảng cộng sản toàn trị đề cao các biện pháp ‘tự kiểm soát’ quyền lực trong khi trên thế giới, trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển có chế độ dân chủ, theo đó quyền lực được kiểm soát dựa trên thể chế tam quyền phân lập, hệ thống pháp quyền, xã hội dân sự và đề cao quyền con người.
Đại hội 13 tới đây sẽ bàn thảo về nỗ lực ‘chỉnh đốn đảng’ để ‘đảng và nhà nước cùng mạnh’, thực chất vẫn là duy trì chu kỳ thịnh – suy của mô hình toàn trị dựa vào tập trung quyền lực và trừng phạt quan chức suy thoái. Sự lựa chọn ‘cơ chế kiểm soát quyền lực’ bằng chế độ dân chủ vẫn là thách thức trong tương lai gần.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 29/06/2020
Theo giới chuyên môn, "tư duy đột phá" là tư duy ở trình độ cao, ít nhất là cao hơn tư duy thông thường bốn - năm bậc (thông thường, kinh nghiệm, logic, tổng hợp...). Đại hội 13 tới đây liệu có diễn ra bước ngoặt nào về đường lối hay nhân sự, tùy thuộc vào "tư duy đột phá" của Ban lãnh đạo hiện nay. Đại hội sẽ họp trực tuyến (như Quốc hội hay Hội nghị Cấp cao ASEAN) ? Đại hội sẽ bầu trực tiếp Tổng bí thư ? Mà lại sẽ bầu giữa hai candidate, chứ không phải chỉ bầu một người duy nhất giữa Cả Trọng hay Bí thư Vượng ? Tất cả chỉ là kỳ vọng... hay vô vọng đối với những ai quan tâm ?
Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại lễ bế mạc đại hội 12 ở Hà Nội hôm 28/1/2016 - Reuters
Đầu tháng này, Ban Tuyên giáo đã tổ chức một hội nghị báo cáo viên, nghe Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Phùng Hữu Phú báo cáo chuyên đề về những điểm mới trong dự thảo văn kiện trình Đại hội 13 của Đảng. Theo ông Phú, văn kiện lần này có ba cái mới. Cái mới thứ nhất liên quan đến chủ đề đại hội. Theo ông Phú, đó là lần này sẽ gắn "xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị" với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Cái mới thứ hai là việc đặt ra mục tiêu "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Ông Phú giải thích, đây là đổi mới về nhận thức vì trước đây ta đặt mục tiêu trở thành "nước công nghiệp, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa", còn lần này mục tiêu là "nước phát triển". Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương cũng tiết lộ thêm, lộ trình phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là "vấn đề lâu nay rất vướng, cũng chưa làm được và đang tiếp tục nghiên cứu".
Cái mới thứ ba, vẫn theo ông Phó Chủ tịch, văn kiện Đại hội 13 cũng dự báo các vấn đề hệ trọng trong giai đoạn tới, trong đó xác định vấn đề Biển Đông vẫn là một thách thức rất lớn. "Sau Covid-19, chúng ta đã thấy thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này khẳng định chắc chắn Trung Quốc không bao giờ từ bỏ ý đồ thao túng Biển Đông, cao nhất là độc chiếm theo hình lưỡi bò ; không làm được thì ít nhất là kiểm soát, thao túng, khai thác. Vậy, phải ứng phó thế nào ?", ông Phùng Hữu Phú nêu câu hỏi và tự trả lời : xử lý vấn đề Biển Đông là lâu dài, "bài toán hóc búa, thử thách nghiêm trọng" của nhiều thế hệ.
Nghe ông Phó Chủ tịch thuyết trình 3 cái mới nói trên, kể cả khi biết được những cái mới ấy trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội dày 168 trang vẫn thuộc diện tài liệu lưu hành nội bộ, "thần dân nước Việt" thở dài ngao ngán. Nếu so với cách đây mấy năm, lúc ông Nguyễn Phú Trọng từng tuyên bố xanh rờn, tình hình Biển Đông không có gì mới, thì quả thật sự thừa nhận Biển Đông là bài toán hóc búa lần này là một bước tiến bộ "vượt bậc" của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Nhưng "vô ra vẫn thằng cha lúc nãy !" Nếu so 3 điều được cho là mới nói trên với quá trình xây dựng các văn kiện từ các nhiệm kỳ năm năm của khóa 10, 11 và 12, hay lùi lại với 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung 2011, hay 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, hay 35 năm đổi mới. Tất cả là... "vũ như cận" (vẫn như cũ) !
Cũng với tinh thần "xưa như Diễm" ấy, văn kiện còn đưa ra những định hướng, đầu tiên là cho năm năm tới của nhiệm kỳ khóa 13, gắn với tầm nhìn 2030 (100 năm thành lập Đảng), tiếp theo là 100 năm thành lập nước (năm 2045). Nghe phân khúc các cột mốc này nó cứ hao hao như sự phân chia các giai đoạn của mấy ông bên Tàu, cũng kỷ niệm ngày lập quốc, lập đảng. Mặc dầu ông Phú nói "chưa có đại hội nào mà văn kiện có tầm đánh giá, bao quát rộng như vậy", nhưng ấy là ông nói lấy được, nói cho ông và các "bò đỏ" nghe, chứ còn người dân thì nghĩ khác lắm ông ơi !
Người dân biết rất rõ rằng, nói như ông Phú trình bày chỉ là một cách diễn ngôn cũ rích, sáo mòn. Tất cả những thông tin ông đưa ra về cái gọi là "điều mới" thực ra chỉ là một trò "nhảy múa của từ ngữ". Chính ông Phú thừa nhận, trước đây Việt Nam dùng khái niệm "bước đi ban đầu", "chặng đường đầu", "giai đoạn đầu". Có lần nào Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri, có người hỏi : bao giờ chúng ta có chủ nghĩa xã hội ? Tổng bí thư trả lời chúng ta chưa nghiên cứu tường minh vấn đề này, có khi trăm năm nữa cũng chưa có chủ nghĩa xã hội. Thế thì thời kỳ quá độ là bao lâu, có mấy chặng đường thì chưa rõ. Ông Phú cho biết, đây là vấn đề sẽ cố gắng tập trung làm rõ trong thời gian tới.
Đúng như đánh giá của đại biểu hàng đầu từ xã hội dân sự, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Quang A, chưa có hy vọng vào sự thay đổi thực chất nào. Ông Phùng Hữu Phú nói là mới, đến 2050 là nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng đó thật ra là một sự thừa nhận thất bại về nỗ lực đưa Việt Nam thành nước công nghiệp hiện đại vào 2020. Nay đổi thành phát triển nhưng lại kèm cái đuôi xã hội chủ nghĩa thì đến 2050 họ rất dễ bảo là thành công vì cái đuôi xã hội chủ nghĩa rất tù mù, không thể lượng hóa. Tất cả chỉ là một trò "rhetoric" hay lối nói để bám giữ quyền lực mà thôi.
Người lính hải quân Việt Nam đứng canh ở đảo Thuyền Chài thuộc quần đảo Trường Sa hôm 17/1/2013 Reuters
Trở lại "vấn đề Biển Đông", một chủ đề được truyền thông nhà nước xiển dương như là một trong ba "điểm mới" của Dự thảo Báo cáo chính trị thì các chuyên gia từ đầu đã không mấy tin tưởng. Tiến sĩ Phạm Quý Thọ cho rằng, thiếu chiến lược toàn diện về biển khiến đất nước đã không thể ‘mạnh về biển’. Trong lịch sử là tư duy ‘ứng phó’ về chống xâm lược từ biển và trong thời bình là ‘tư duy kinh tế’ bị níu kéo bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là nguyên nhân quan trọng dẫn đến bế tắc. Nay trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy, tham vọng địa chính trị, hung hăng tại Biển Đông và một ‘trật tự thế giới mới’ đang hình thành, Việt Nam vẫn không có "tư duy đột phá" để xây dựng chiến lược biển xứng tầm. Đặc biệt trong bối cảnh bàn tay Trung Quốc thọc khá sâu và công việc nhân sự Đại hội, các quan chức cho dù ở các địa phương hay trên trung ương, đều "ngậm miệng ăn tiền" trước các hoạt động theo kiểu "múa gậy vườn hoang" của Trung Quốc. Họ "kiên định" trong việc giành ghế và giữ ghế hơn là việc đưa ra bất cứ "giải pháp đột phá" nào để giải tỏa các bế tắc.
Cuối cùng, vấn đề dân chủ hóa trong đảng và trong xã hội hầu như hoàn toàn thiếu vắng trong các văn kiện trình Đại hội càng khiến cho dư luận công khai bày tỏ nỗi thất vọng sâu sắc và toàn diện của ngay những chuyên gia trong lòng chế độ. Tiến sĩ Mai Thanh Sơn (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) phát biểu với truyền thông quốc tế : "Khi mà ngay cả những nhà lý luận của đảng cũng trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận sự khủng hoảng về lý luận, tôi thực sự không kỳ vọng gì ở sự đổi mới của Đcộng sản Việt Nam trong đại hội 13 tới đây".
Để thực sự đổi mới toàn diện và sâu rộng, theo Tiến sĩ Sơn, có rất nhiều việc cần làm trong giai đoạn chuẩn bị, nhưng có 3 nhiệm vụ ưu tiên. Thứ nhất là thay đổi nhận thức/lý luận, lấy lợi ích quốc gia/dân tộc/nhân dân làm nền tảng cơ bản. Thứ hai là điều chỉnh những khuôn mẫu trong phát triển cũng như huy động sự tham gia hiện nay, nhằm có thể phát huy tối đa sự đóng góp của tất cả các thành phần kinh tế, các giai tầng xã hội, kể cả các nhà phản biện. Và thứ ba là đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực cho phát triển (ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, xã hội và văn hoá), trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược mới, chính sách và giải pháp khả thi mới…
Nhưng facebooker Bùi Văn Thuận thì bình luận một cách chua chát hơn : Mỗi kỳ đại hội đảng toàn quốc, đều được tô vẽ là những "sự kiện vĩ đại", "quang vinh muôn năm", "đỉnh cao muôn trượng" trên các phương tiện tuyên truyền của đảng. Chúng đối lập hoàn toàn với thực tế cướp bóc, khủng bố và hằng hà những trò bẩn thỉu, lưu manh mà chế độ cai trị đổ lên đầu dân đen. Bắt những dân oan điển hình, kiên cường chống cướp đất, chống khủng bố, cũng là một cách giúp đại hội đảng và bộ mặt đảng thêm "rực rỡ, thành công tốt đẹp" trong khâu tuyên truyền.
Việc sáng 24/6, bà Cấn Thị Thêu và 2 con trai bà là Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư cùng chị Nguyễn Thị Tâm bị chính quyền bắt khẩn cấp lại là một vụ khủng bố mới. Hiện chưa rõ họ bị bắt hay chỉ bị câu lưu giam giữ trái pháp luật dưới danh nghĩa triệu tập làm việc. Và nếu bị bắt, cũng chưa rõ chế độ sẽ vu cho họ tội danh gì. Chỉ biết rằng, các vụ bắt bớ hàng loạt ở Việt Nam hiện nay đều nằm trong chiến dịch "làm sạch địa bàn" trước sự kiện Đại hội 13./.
Chiến Sỹ
Nguồn : RFA, 25/06/2020
Các đường link tham khảo :
http://xuandienhannom.blogspot.com/2020/06/gia-dinh-nha-hoat-ong-trinh-ba-phuong-3.html
https://www.bbc.com/vietnamese/world-53038847
http://www.tintuchangngay.org/2020/06/ts-pham-quy-tho-ai-hoi-13-van-e-bien.html
http://www.tintuchangngay.org/2020/06/bui-van-thuan-tai-sao-bac-kinh-yeu-cau.html
Đại hội 13 : Đảng buộc phải chọn con đường nào để chuyển sang thể chế dân chủ ?
Đảng cộng sản Việt Nam đang trong giai đoạn nước rút chuẩn bị cho Đại hội 13 dự kiến được tổ chức vào đầu năm 2021. Trước thềm mỗi kỳ đại hội, người dân không khỏi hy vọng một sự đổi mới từ chính trong Đảng, tổ chức tự cho mình quyền độc tôn lãnh đạo đất nước trên mọi phương diện. Nhưng căn cứ trên nhưng phát ngôn và động thái từ phía Đảng đến thời điểm này thì những tia hy vọng nhỏ nhoi về sự tự chuyển biến của Đảng sẽ chỉ còn là sự thất vọng tràn trề như bao năm qua.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 12 chiều ngày 14/5/2020
Trong các văn kiện của đại hội thì Báo cáo chính trị được coi là báo cáo quan trọng nhất.
Ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Trung ương 11 ngày 07/10/2019 rằng Báo cáo chính trị là báo cáo trung tâm của đại hội, là căn cứ lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng các báo cáo khác. Đến nay, dự thảo báo cáo đã cơ bản hoàn thành.
Ngày 10/6/2020, Hội nghị báo cáo viên Trung ương khu vực phía Bắc được tổ chức tại Hà Nội. Theo truyền thông nhà nước, tại hội nghị này ông Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương báo cáo về những điểm được cho là ‘mới’ của bản dự thảo gồm :
i) gắn "xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị" với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ;
ii) đặt ra mục tiêu "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa" ;
iii) xác định vấn đề Biển Đông vẫn là một thách thức rất lớn ; và
iv) giữ vừng nền tảng tư tưởng có ý nghĩa sống còn.
Các nhà quan sát và dư luận cho rằng chỉ có một trong bốn nội dung trên tạm có thể coi là mới với Đảng nhưng đã là một chủ đề gắn bó trong nhân dân trong nhiều năm qua - đó là vấn đề Biển Đông. Trong những kỳ đại hội qua, chưa bao giờ tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông được đưa ra thảo luận như một nội dung trọng tâm của chương trình nghị sự.
Trả lời BBC, Nhà nghiên cứu sử học Lê Văn Sinh (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định : "chúng ta chưa thấy có triệu chứng gì của đổi mới".
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) : Khi mà ngay cả những nhà lý luận của đảng cũng trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận sự khủng hoảng về lý luận, tôi thực sự không kỳ vọng gì ở sự đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong đại hội XIII tới đây.
Câu hỏi đặt ra là nhân tố nào có thể dẫn đến sự đổi mới của Đảng.
Ông Sinh cho rằng có hai nhân tố tác động tới sự thay đổi Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ nhất Đảng bị đẩy vào tình thế không thể không thay đổi, như hồi thập niên những năm 80 của thế kỷ trước. Nghĩa là ‘Thay đổi hay là chết’. Và thứ hai, khi nước Trung Hoa cộng sản trở thành nhà nước dân chủ đúng nghĩa.
Còn Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phản biện chính sách độc lập IDS) thì khẳng định :
"Để thay đổi theo hướng dân chủ, văn minh, phồn vinh thì chỉ dựa vào sức dân Việt Nam là chính, tận dụng mọi cơ hội quốc tế (các hiệp định CPTPP, EVFTA, khối Asean…) để phát triển kinh tế (đây phải là việc hàng đầu) và từ từ mở cửa chính trị và quá trình này cũng tự mình là chính và tận dụng hoàn cảnh quốc tế (đáng tiếc hiện nay không thuận lợi lắm). Cái nói về tự mình là dân Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam (chứ không phải Đảng cộng sản Việt Nam) cũng như các tổ chức xã hội dân sự (chứ không mong đợi ở sự chuyển biến từ trên xuống của Đảng cộng sản Việt Nam chít ít trong 5 năm tới)".
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn thì cho rằng :
"Lịch sử cho thấy, tất cả các quốc gia đang phát triển đều phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh quốc tế cũng như khu vực. Và để có thể trở thành một đất nước dân chủ, văn minh và phồn thịnh, tất cả các quốc gia đó đều dựa vào 3 điểm tựa cơ bản : (i) nội lực, bao gồm tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, truyền thống lịch sử-văn hoá ; (ii) hệ thống công pháp quốc tế ; và (iii) các đối tác chiến lược. Trong 3 điểm tựa đó, nội lực là quan trọng nhất. Bài học đó thể hiện rất rõ qua thực tiễn lịch sử của các nước phát triển ở Châu Á hiện nay như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Hoa dân quốc hay Singapore".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986 tại Thủ đô Hà Nội đã thảo luận và thông qua đường lối đổi mới theo định hướng XHCN, đánh dấu bước ngoặt trong sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
Vậy đâu là cơ hội và thách thức cho tiến trình dân chủ ở Việt Nam ?
Về thách thức đặt ra cho Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định :
"Thách thức là rất lớn : các mối quan hệ Mỹ - Trung ; Mỹ - EU ; Mỹ - Nhật ; Mỹ - Ấn Độ, Mỹ - ASEAN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam ; chiến tranh lạnh mới nếu nổ ra ; nếu chiến tranh nóng nổ ra v.v… và liệu Việt Nam có bị kéo vào không".
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn thì cho rằng trong bối cảnh quốc tế cũng như khu vực, tham vọng của Trung Quốc có lẽ là thách thức lớn nhất. Ông phân tích :
"Trong những năm gần đây, bối cảnh thế giới cũng như khu vực đã và đang có những thay đổi chóng mặt. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và tham vọng toàn cầu của Trung Nam Hải đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm đối với trật tự thế giới. Tư tưởng "Đại Trung Hoa" chưa bao giờ bộc lộ rõ ràng như hiện nay. Thời cổ đại, tư tưởng Đại Trung Hoa dựa trên 3 trụ cột cơ bản : (i) chính sách ngoại giao linh hoạt ; (ii) sự vượt trội về văn hóa, kỹ nghệ, và thương mại ; và (iii) khuôn mẫu nhà nước quan liêu.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng bằng tốc độ kỷ lục trong hơn 40 năm qua, tư tưởng "Đại Trung Hoa" đã có những thay đổi và dựa trên 3 trụ cột mới : (i) sức mạnh tổng hợp, bao gồm cả kinh tế, quân sự, khoa học-kỹ thuật, và văn hóa ; (ii) một nhà nước kiểm soát/toàn trị dựa trên chế độ độc đảng ; và (iii) chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đặc biệt, có lẽ ngày nay Trung Quốc là một trong số không nhiều quốc gia còn có tham vọng về lãnh thổ.
Cách thức mà Bắc Kinh đang đối xử với Việt Nam thể hiện rất rõ điều đó. Để đạt được các mục tiêu của mình, chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã được kích hoạt và thể hiện mọi lúc, mọi nơi".
Ông khẳng định :
"Mối quan hệ đối với Trung Quốc cũng đặt riêng Đảng cộng sản Việt Nam trước một thách thức không dễ vượt qua : làm thế nào để vừa tạo nên sự hài hoà trong quan hệ giữa hai đảng có chung ý thức hệ, vừa giữ được độc lập dân tộc để phát triển trong hoà bình ? Không ai có thể trả lời được câu hỏi này, ngoài chính các nhà lý luận của Đảng. Đối với phần còn lại của thế giới, ý thức hệ mà Đảng cộng sản Việt Nam đang coi là nền tảng tư tưởng cũng như mô hình nhà nước hiện nay đang là một trong những rào cản lớn nhất để có thể tận dụng sự ủng hộ tích cực hơn nữa".
Lễ ký kết Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU gồm Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA) chiều 30/6/2019 tại Hà Nội sau 9 năm đàm phán
Các nhà quan sát nhận định thách thức tuy lớn nhưng cơ hội của Việt Nam đạt được tiến trình dân chủ thực sự cũng không phải là nhỏ.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng mặt khác của thách thức lại chính là cơ hội và chỉ có lãnh đạo khôn ngoan mới phát hiện ra và tận dụng để làm ba việc cần phải làm ngay - đó là thứ nhất là bảo vệ Tổ quốc, thứ hai là phát triển kinh tế bền vững (tức là phải đi đôi với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội) và thứ ba là đổi mới chính trị từng bước theo hướng dân chủ. Ông A nghi ngại đặt câu hỏi :
"Không biết Đảng cộng sản Việt Nam có nắm bắt được cơ hội hay lại biến cơ hội thành thách thức và làm trầm trọng hơn các thách thức".
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn cũng cho rằng cơ hội nằm ở trong chính thách thứ lớn nhất mà ông nêu - đó là tham vọng của Trung Quốc. Ông nói :
"Ngay cả trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam cũng có những cơ hội về thị trường, về những bài học phát triển… Dưới góc độ nào đó, tham vọng của Trung Nam Hải cũng giúp cho những người cộng sản Việt Nam hiểu rõ hơn, sâu hơn bản chất của "những người đồng chí" bên kia biên giới. Với phần còn lại của thế giới, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao cũng như kinh tế đối với hầu hết các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Mối quan hệ đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực giúp Việt Nam có được phần nào đó sự chia sẻ trong công cuộc giữ gìn độc lập, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, có thể tận dụng được tất cả các cơ hội để vượt qua thách thức hay không, phụ thuộc rất lớn vào tiến trình đổi mới nền tảng lý luận cũng như cải tổ mô hình nhà nước theo hướng dân chủ hơn".
Ngày 07/6/2019, với số phiếu bầu kỷ lục 192/193 phiếu, Việt Nam chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021
Còn nhà báo, cựu Đạo diễn Song Chi thì cho rằng Việt Nam cần tận dụng thời cơ lịch sử khi uy tín của Trung Quốc trên trường quốc tế đang bị suy giảm nghiêm trọng sau đại dịch Covid-19 và chủ nghĩa ‘thoát Trung’ trên toàn thế giới đang bùng lên mạnh mẽ để có chính sách thu hút đầu tư, phát triển kinh tế của riêng mình.
Bà phân tích :
"Như chúng ta thấy, hiện nay Mỹ và các nước phương Tây đã nhận ra Trung Quốc sẽ không thay đổi theo hướng dân chủ hóa, ngược lại từ khi Tập Cận Bình lên thì họ Tập đã thay đổi chính sách "Thao quang dưỡng hối ! (giấu mình chờ thời), tránh những đụng chạm, tránh can thiệp vào những vấn đề chung của thế giới của Đặng Tiểu Bình và hướng tới một chính sách đối ngoại thách thức sự thống trị của Mỹ trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Thậm chí đến nhiệm kỳ thứ hai từ năm 2017, khi phát biểu tại đại hội đảng Trung Quốc tháng 10/2017 thì Tập Cận Bình đã công khai nói về việc Trung Quốc muốn vươn lên thành siêu cường, muốn tham dự sâu hơn vào những vấn đề quốc tế, thậm chí cạnh tranh với siêu cường Mỹ, và Tập Cận Bình còn đưa ra "Giấc mơ Trung Hoa" để thay cho "American Dream", được thể hiện bằng các tham vọng lãnh thổ và chiến lược.
Đại dịch Covid-19 vừa qua càng khiến cho Mỹ và các nước phương Tây nhận ra bản chất dối trá, không đáng tin cậy cũng như những thiệt hại khi làm ăn với Trung Quốc, phụ thuộc vào "công xưởng xản xuất" từ Trung Quốc. Chính sách của các nước với Trung Quốc từ kinh tế cho tới chính trị chắc chắn sẽ thay đổi, mặc dù chiến tranh quân sự thì chắc sẽ không xảy ra, ít nhất trong tương lai gần.
Việt Nam cần phải tận dụng thời cơ này, về kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật… để đón nhận xu hướng từ bỏ công xưởng Trung Quốc chuyển sang đầu tư ở nước khác của các nước. Việt Nam cũng cần phải có thái độ rõ ràng để thế giới thấy Việt Nam không phải là sân sau của Trung Quốc, không là đồng chí anh em gắn bó làm một với Trung Quốc. Về độc lập chủ quyền, Việt Nam nên nhân tính đến chuyện kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vụ Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vì thời hạn 50 năm sắp hết. Và tích cực nâng cấp quân sự đề phòng cho tình huống xấu nhất".
Suy cho cùng thì đổi mới thể chế là một vấn đề tất yêu mà dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang cần phải đối mặt để thay đổi tình trạng hiện nay.
Quốc hội bỏ phiếu lùi thời gian thông qua dự luật về đặc khu, kêu gọi nhân dân bình tĩnh hôm 11/6/2018
Ông Lê Văn Sinh cho rằng :
"Nếu có cải cách - đổi mới - cải tổ thực chất, tôi cho rằng phải đổi mới thể chế chính trị. Lịch sử và hiện tại chỉ ra một cách không thể bác bỏ, rằng thể chế chính trị quyết định một nước trở nên cường thịnh hay nghèo đói".
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn thì cho rằng có 3 nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng đầu để đạt được sự đổi mới toàn diện và sâu rộng. Đó là : thứ nhất là thay đổi nhận thức/lý luận, lấy lợi ích quốc gia/dân tộc/nhân dân làm nền tảng cơ bản ; thứ hai là điều chỉnh những khuôn mẫu trong phát triển cũng như huy động sự tham gia hiện nay, nhằm có thể phát huy tối đa sự đóng góp của tất cả các thành phần kinh tế, các giai tầng xã hội, kể cả các nhà phản biện ; và thứ ba là đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực cho phát triển (ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, xã hội và văn hoá), trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược mới, chính sách và giải pháp khả thi mới…
Nhà báo tự do Song Chi khẳng định :
"Nếu Đảng thực sự muốn có thực chất trong cải cách, đổi mới, hay cải tổ, thì trước hết phải bỏ vai trò đảng đứng trên tất cả, bao trùm tất cả, chỉ đạo tất cả kể cả chính phủ, quốc hội, tòa án, truyền thông. Phải tìm cách giới hạn quyền lực của nhà nước bằng cách nới rộng quyền tự do báo chí, để báo chí có thể góp phần phê phán những cái sai của nhà nước và nói lên nguyện vọng của người dân, nới rộng quyền cho người dân như quyền tự do ngôn luận, quyền được biểu tình, quyền được bảo vệ mình trước tòa án…
Để cho người dân lên tiếng, đảng phải bỏ đàn áp, bắt bớ, những điều luật mơ hồ và những bản án hà khắc phi nhân dành cho những người bất đồng chính kiến, những tiếng nói phản biện ôn hòa. Thêm một cách để hạn chế quyền lực của nhà nước đó là cho phép thành lập những hội đoàn, tổ chức xã hội dân sự v.v… dần dần tiến tới con đường dân chủ hóa, mô hình đa đảng".
Hoàng Trung (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 19/06/2020
*******************
Đại hội 13 : Môi trường, ngoại lực quan trọng thế nào ?
Quốc Phương, BBC, 16/06/2020
Đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam dự kiến vào đầu năm 2021 và công cuộc đổi mới chính trị, xã hội của đất nước có thể chịu tác động ra sao từ bối cảnh bên ngoài và lực tác động từ môi trường quốc tế và khu vực là nội dung chính được các nhà quan sát chính trị, thời sự Việt Nam chia sẻ với BBC trong phần hai.
Đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam dự kiến vào đầu năm 2021 - Ảnh minh họa
Nhưng trước hết, các ý kiến bình luận câu hỏi có thể kỳ vọng gì ở sự đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam ở kỳ đại hội trên, cũng như nếu Đảng cộng sản Việt Nam thực sự muốn có thực chất trong cải cách, đổi mới, hay cải tổ, thì theo cần phải ưu tiên làm những điều gì và ra sao.
Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phản biện chính sách độc lập IDS) :
Chưa có mấy hy vọng vào sự thay đổi thực chất nào. Ông Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng nói là mới : đến 2050 là nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một sự thừa nhận thất bại về đưa Việt Nam thành nước công nghiệp hiện đại vào 2020 ; nay đổi thành phát triển nhưng lại kèm cái đuôi Xã hội Chủ nghĩa thì đến 2050 họ rất dễ bảo là thành công vì cái đuôi xã hội chủ nghĩa tù mù ấy. Tất cả chỉ là một "rhetoric" hay lối nói để giữ quyền lực mà thôi.
'Phải đổi mới thể chế'
Nhà nghiên cứu sử học Lê Văn Sinh (Đại học Quốc gia Hà Nội) :
Như đã nói ở câu trên, chúng ta chưa thấy có triệu chứng gì của đổi mới. Nếu có cải cách - đổi mới - cải tổ thực chất, tôi cho rằng phải đổi mới thể chế chính trị. Lịch sử và hiện tại chỉ ra một cách không thể bác bỏ, rằng thể chế chính trị quyết định một nước trở nên cường thịnh hay nghèo đói.
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) :
Khi mà ngay cả những nhà lý luận của đảng cũng trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận sự khủng hoảng về lý luận, tôi thực sự không kỳ vọng gì ở sự đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong đại hội XIII tới đây.
Để có được sự đổi mới toàn diện và sâu rộng, có rất nhiều việc cần làm trong giai đoạn tiếp theo, nhưng có 3 nhiệm vụ ưu tiên :
Thứ nhất là thay đổi nhận thức/lý luận, lấy lợi ích quốc gia/dân tộc/nhân dân làm nền tảng cơ bản ;
Thứ hai là điều chỉnh những khuôn mẫu trong phát triển cũng như huy động sự tham gia hiện nay, nhằm có thể phát huy tối đa sự đóng góp của tất cả các thành phần kinh tế, các giai tầng xã hội, kể cả các nhà phản biện ;
Và thứ ba là đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực cho phát triển (ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, xã hội và văn hoá), trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược mới, chính sách và giải pháp khả thi mới…
Nhà báo tự do Song Chi (cựu đạo diễn truyền hình) :
Không kỳ vọng gì. Nếu Đảng thực sự muốn có thực chất trong cải cách, đổi mới, hay cải tổ, thì trước hết phải bỏ vai trò đảng đứng trên tất cả, bao trùm tất cả, chỉ đạo tất cả kể cả chính phủ, quốc hội, tòa án, truyền thông. Phải tìm cách giới hạn quyền lực của nhà nước bằng cách nới rộng quyền tự do báo chí, để báo chí có thể góp phần phê phán những cái sai của nhà nước và nói lên nguyện vọng của người dân, nới rộng quyền cho người dân như quyền tự do ngôn luận, quyền được biểu tình, quyền được bảo vệ mình trước tòa án...
Để cho người dân lên tiếng, đảng phải bỏ đàn áp, bắt bớ, những điều luật mơ hồ và những bản án hà khắc phi nhân dành cho những người bất đồng chính kiến, những tiếng nói phản biện ôn hòa. Thêm một cách để hạn chế quyền lực của nhà nước đó là cho phép thành lập những hội đoàn, tổ chức xã hội dân sự v.v… dần dần tiến tới con đường dân chủ hóa, mô hình đa đảng.
'Thách thức là rất lớn'
BBC : Từ góc độ môi trường quốc tế, khu vực, công cuộc thay đổi để trở nên dân chủ, văn minh và phồn vinh hơn của Việt Nam trong đó có thể có thay đổi từ phía Đảng cộng sản Việt Nam có thể chịu tác động của nhân tố nào là chính trong thời gian tới đây, đâu là thách thức và đâu là cơ hội chính ?
Lê Văn Sinh : Có hai nhân tố tác động tới sự thay đổi Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ nhất Đảng bị đẩy vào tình thế không thể không thay đổi, như hồi thập niên những năm 80 của thế kỷ trước. Nghĩa là ' Thay đổi hay là chết '. Và thứ hai, khi nước Trung Hoa cộng sản trở thành nhà nước dân chủ đúng nghĩa.
Nguyễn Quang A : Để thay đổi theo hướng dân chủ, văn minh, phồn vinh thì chỉ dựa vào sức dân Việt Nam là chính, tận dụng mọi cơ hội quốc tế (các hiệp định CPTPP, EVFTA, khối Asean,..) để phát triển kinh tế (đây phải là việc hàng đầu) và từ từ mở cửa chính trị và quá trình này cũng tự mình là chính và tận dụng hoàn cảnh quốc tế (đáng tiếc hiện nay không thuận lợi lắm). Cái nói về tự mình là dân Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam (chứ không phải Đảng cộng sản Việt Nam) cũng như các tổ chức xã hội dân sự (chứ không mong đợi ở sự chuyển biến từ trên xuống của Đảng cộng sản Việt Nam chít ít trong 5 năm tới).
Thách thức là rất lớn : các mối quan hệ Mỹ-Trung ; Mỹ-EU ; Mỹ-Nhật ; Mỹ-Ấn Độ, Mỹ-Asean sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam ; chiến tranh lạnh mới nếu nổ ra ; nếu chiến tranh nóng nổ ra v.v… và liệu Việt Nam có bị kéo vào không.
Về cơ hôi thì mặt khác của các thách thức cũng chính là cơ hội và chỉ có lãnh đạo khôn ngoan mới phát hiện ra và tận dụng để làm ba việc như tôi đã nêu ở trước. Không biết Đảng cộng sản Việt Nam có nắm bắt được cơ hội hay lại biến cơ hội thành thách thức và làm trầm trọng hơn các thách thức. Chưa làm thì sao có thể biết được.
Mai Thanh Sơn : Lịch sử cho thấy, tất cả các quốc gia đang phát triển đều phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh quốc tế cũng như khu vực. Và để có thể trở thành một đất nước dân chủ, văn minh và phồn thịnh, tất cả các quốc gia đó đều dựa vào 3 điểm tựa cơ bản : (i) nội lực, bao gồm tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, truyền thống lịch sử-văn hoá ; (ii) hệ thống công pháp quốc tế ; và (iii) các đối tác chiến lược. Trong 3 điểm tựa đó, nội lực là quan trọng nhất. Bài học đó thể hiện rất rõ qua thực tiễn lịch sử của các nước phát triển ở Châu Á hiện nay như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Hoa dân quốc hay Singapore.
Trong những năm gần đây, bối cảnh thế giới cũng như khu vực đã và đang có những thay đổi chóng mặt. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và tham vọng toàn cầu của Trung Nam Hải đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm đối với trật tự thế giới. Tư tưởng "Đại Trung Hoa" chưa bao giờ bộc lộ rõ ràng như hiện nay. Thời cổ đại, tư tưởng Đại Trung Hoa dựa trên 3 trụ cột cơ bản : (i) chính sách ngoại giao linh hoạt ; (ii) sự vượt trội về văn hóa, kỹ nghệ, và thương mại ; và (iii) khuôn mẫu nhà nước quan liêu.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng bằng tốc độ kỷ lục trong hơn 40 năm qua, tư tưởng "Đại Trung Hoa" đã có những thay đổi và dựa trên 3 trụ cột mới : (i) sức mạnh tổng hợp, bao gồm cả kinh tế, quân sự, khoa học-kỹ thuật, và văn hóa ; (ii) một nhà nước kiểm soát/toàn trị dựa trên chế độ độc đảng ; và (iii) chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đặc biệt, có lẽ ngày nay Trung Quốc là một trong số không nhiều quốc gia còn có tham vọng về lãnh thổ.
Cách thức mà Bắc Kinh đang đối xử với Việt Nam thể hiện rất rõ điều đó. Để đạt được các mục tiêu của mình, chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã được kích hoạt và thể hiện mọi lúc, mọi nơi. Trong bối cảnh quốc tế cũng như khu vực, tham vọng của Trung Quốc có lẽ là thách thức lớn nhất. Giáo sư Tiến sĩ Phùng Hữu Phú đã không sai khi coi tham vọng của Trung Quốc là một trong những vấn đề trọng tâm mà đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam cần đặt lên bàn nghị sự.
'Cơ hội cũng không nhỏ'
Mai Thanh Sơn : Mối quan hệ đối với Trung Quốc cũng đặt riêng Đảng cộng sản Việt Nam trước một thách thức không dễ vượt qua : làm thế nào để vừa tạo nên sự hài hoà trong quan hệ giữa hai đảng có chung ý thức hệ, vừa giữ được độc lập dân tộc để phát triển trong hoà bình ? Không ai có thể trả lời được câu hỏi này, ngoài chính các nhà lý luận của đảng. Đối với phần còn lại của thế giới, ý thức hệ mà Đảng cộng sản Việt Nam đang coi là nền tảng tư tưởng cũng như mô hình nhà nước hiện nay đang là một trong những rào cản lớn nhất để có thể tận dụng sự ủng hộ tích cực hơn nữa.
Thách thức tuy lớn, nhưng cơ hội của Việt Nam cũng không phải là nhỏ. Ngay cả trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam cũng có những cơ hội về thị trường, về những bài học phát triển… Dưới góc độ nào đó, tham vọng của Trung Nam Hải cũng giúp cho những người cộng sản Việt Nam hiểu rõ hơn, sâu hơn bản chất của "những người đồng chí" bên kia biên giới. Với phần còn lại của thế giới, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao cũng như kinh tế đối với hầu hết các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Mối quan hệ đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực giúp Việt Nam có được phần nào đó sự chia sẻ trong công cuộc giữ gìn độc lập, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, có thể tận dụng được tất cả các cơ hội để vượt qua thách thức hay không, phụ thuộc rất lớn vào tiến trình đổi mới nền tảng lý luận cũng như cải tổ mô hình nhà nước theo hướng dân chủ hơn.
Song Chi : Như chúng ta thấy, hiện nay Mỹ và các nước phương Tây đã nhận ra Trung Quốc sẽ không thay đổi theo hướng dân chủ hóa, ngược lại từ khi Tập Cận Bình lên thì họ Tập đã thay đổi chính sách "Thao quang dưỡng hối ! (giấu mình chờ thời), tránh những đụng chạm, tránh can thiệp vào những vấn đề chung của thế giới của Đặng Tiểu Bình và hướng tới một chính sách đối ngoại thách thức sự thống trị của Mỹ trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thậm chí đến nhiệm kỳ thứ hai từ năm 2017, khi phát biểu tại đại hội đảng Trung Quốc tháng 10.2017 thì Tập Cận Bình đã công khai nói về việc Trung Quốc muốn vươn lên thành siêu cường, muốn tham dự sâu hơn vào những vấn đề quốc tế, thậm chí cạnh tranh với siêu cường Mỹ, và Tập Cận Bình còn đưa ra "Giấc mơ Trung Hoa" để thay cho "American Dream", được thể hiện bằng các tham vọng lãnh thổ và chiến lược.
Đại dịch Covid-19 vừa qua càng khiến cho Mỹ và các nước phương Tây nhận ra bản chất dối trá, không đáng tin cậy cũng như những thiệt hại khi làm ăn với Trung Quốc, phụ thuộc vào "công xưởng xản xuất" từ Trung Quốc. Chính sách của các nước với Trung Quốc từ kinh tế cho tới chính trị chắc chắn sẽ thay đổi, mặc dù chiến tranh quân sự thì chắc sẽ không xảy ra, ít nhất trong tương lai gần.
Việt Nam cần phải tận dụng thời cơ này, về kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật… để đón nhận xu hướng từ bỏ công xưởng Trung Quốc chuyển sang đầu tư ở nước khác của các nước. Việt Nam cũng cần phải có thái độ rõ ràng để thế giới thấy Việt Nam không phải là sân sau của Trung Quốc, không là đồng chí anh em gắn bó làm một với Trung Quốc. Về độc lập chủ quyền, Việt Nam nên nhân tính đến chuyện kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vụ Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vì thời hạn 50 năm sắp hết. Và tích cực nâng cấp quân sự đề phòng cho tình huống xấu nhất.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 16/06/2020
*********************
Đại hội 13 : Đảng vẫn 'loay hoay, bế tắc' về đổi mới đường lối ?
Quốc Phương, BBC, 14/06/25020
Ban Tuyên giáo Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam hôm 10/6 vừa tổ chức một hội nghị báo cáo viên cấp trung ương, trong đó đại diện của Hội đồng Lý luận Trung ương đã có báo cáo chuyên đề về những điểm được cho là "mới" trong dự thảo văn kiện trình Đại hội 13 của đảng này dự kiến tổ chức vào sang năm, theo truyền thông Việt Nam.
Đại hội 13 của đảng này dự kiến tổ chức vào sang năm, theo truyền thông Việt Nam - Ảnh minh họa
Nhân dịp này, một số nhà quan sát thời sự, chính trị và nhà nghiên cứu Việt Nam bình luận với BBC News tiếng Việt qua bút đàm, trước hết là về 'tính mới' hay 'điểm mới' như được báo chí Việt Nam loan báo.
Nguyễn Quang A (Nguyên viện trưởng Viện Phản biện chính sách độc lập IDS) :
Thực ra Đảng cộng sản Việt Nam đang xây dựng Chủ nghĩa Tư bản ở Việt Nam (Trung Quốc cũng vậy) nhưng họ phải bám vào cái mà ông Hồ Chí Minh đã theo để củng cố tính chính đáng của nó, để che đậy sự tham quyền cố vị của nó mà thôi.
Nhà nghiên cứu sử học Lê Văn Sinh (Đại học Quốc gia Hà Nội) :
Hai bài báo in trên Báo Thanh Niên chỉ ra hai điểm mới, thứ nhất " gắn công tác xây dựng hệ thống chính trị với công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng" và thứ hai "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Công tác xây dựng và củng cố hệ thống chính trị Việt Nam (với một là Đảng cộng sản Việt Nam, hai là nhà nước gồm Quốc Hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, ba là Mặt trận Tổ quốc và bốn là các đoàn thể xã hội) là việc làm thường xuyên kể từ khi đảng cầm quyền. Nay coi đây là điểm mới trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII chứng tỏ mối quan ngại của các nhà lãnh đạo về vai trò và sức mạnh của đảng cộng sản.
Về "Nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa " và " Nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa " theo tôi không có gì khác nhau.
Tôi nhớ, Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam (2001) đề ra mục tiêu đến năm 2020 biến Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kết quả thế nào, chúng ta đã biết. Đại hội 13, Đảng lại đề ra mục tiêu 30 năm nữa đưa Việt Nam trở thành nước phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải chờ đợi và hy vọng khi đó đất nước trở thành con rồng Châu Á.
Không có gì mới, chỉ đang khủng hoảng ?
Tiến sĩ Mai Thanh Sơn (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) :
Theo tường thuật của báo Thanh niên, Giáo sư Tiến sĩ Phùng Hữu Phú - Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam - có liệt kê ra 4 điểm mới trong Dự thảo Văn kiện đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam so với các nhiệm kỳ trước : (i) gắn "xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị" với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ; (ii) đặt ra mục tiêu "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa" ; (iii) xác định vấn đề Biển Đông vẫn là một thách thức rất lớn ; và (iv) giữ vừng nền tảng tư tưởng có ý nghĩa sống còn.
Nếu như vậy, tôi thấy chỉ có điểm thứ 3, liên quan đến chủ trương của Đảng cộng sản trong việc ứng phó với tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông là thực sự có nội dung mới. Mấy kỳ đại hội của đảng gần đây, vấn đề Biển Đông và tham vọng của Trung cộng chưa bao giờ được đưa ra thảo luận như một nội dung trọng tâm của nghị sự. Những điểm khác không mới.
Thời ông Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư, đảng đã xác định mốc 2020 là Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp, tức là đã trở thành một quốc gia phát triển. Cương lĩnh đại hội XIII lại xác định đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam mới trở thành một nước "phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Như vậy chẳng phải là các nhà lý luận của đảng đang thừa nhận sự thất bại trong mục tiêu được đề ra trong các kỳ đại hội trước ? Việc "nhấn mạnh số 1 việc vững vàng tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh" thì mấy chục năm nay vẫn lặp đi lặp lại, có gì mới đâu ?
Ngay cả việc xây dựng, chỉnh đốn đảng cũng đâu có gì mới ? Nó luôn gắn liền với lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập cho đến nay. Nhắc lại một chút để cùng nhớ : trong hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, ông Hồ Chí Minh đã trình bày, và được hội nghị thông qua, "Chính cương vắn tắt", "Sách lược vắn tắt" của đảng. Chỉ mấy tháng sau đó, tháng 10/1930, ông Trần Phú đã đề xuất một bản luận cương chính trị mới, phản ánh sâu sắc hơn tinh thần của Quốc tế III. Tên đảng cũng được đổi lại, từ "Đảng cộng sản Việt Nam" thành "Đảng cộng sản Đông Dương". Tháng 07/1939, TBT Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn "Tự chỉ trích", xác định một số nội dung mà đảng cần chỉnh đốn. Năm 1947, ông Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", cũng là một ấn phẩm nhằm mục đích hướng dẫn chỉnh đốn tổ chức hoạt động của đảng và nhà nước. Những năm tiếp theo, liên tục có những cuộc chỉnh đốn đảng, liên quan đến việc thanh lọc cán bộ dựa trên lý lịch và Cải cách ruộng đất (1953-1956), chống chủ nghĩa "xét lại chống đảng" (1967)… Năm 1986 đánh dấu bước chuyển trong nhận thức cũng như công tác xây dựng đảng theo hướng cởi mở hơn. Rồi những năm sau đó lại có những chủ trương nhằm thắt chặt lại và thanh lọc những nhân vật bất đồng chính kiến. Rõ ràng, xây dựng và chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ thường xuyên, sao có thể coi là điểm mới của văn kiện đại hội XIII được ?
Nhưng đọc lại toàn bộ 2 bài báo được đăng trên Thanh niên, tôi nhận thấy có một điểm mới : lần đầu tiên một "nhà lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam" công khai bộc lộ là trên thực tế, những người cộng sản Việt Nam hiện nay đang khủng hoảng sâu sắc về mặt lý luận.
Mù mờ, loay hoay, còn mâu thuẫn ?
Nhà báo tự do Song Chi (cựu đạo diễn truyền hình) :
Tôi không thấy có gì đổi mới cả. Trái lại tôi nhìn thấy ở đây một sự loay hoay, bế tắc trong đường hướng, lý luận, mà thực tế thì bao nhiêu năm nay đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã loay hoay, bế tắc rồi.
Gần 30 năm qua rồi nhà nước Việt Nam vẫn loay loay. Về kinh tế thì sử dụng cụm từ phi logic và đầy mâu thuẫn "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", về lý luận thì gọi đây là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng quá độ là bao lâu, như chính ông Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương Phùng Hữu Phú cũng đặt câu hỏi.
"Một điểm mới khác trong chủ đề đại hội mà văn kiện Đại hội XIII đưa ra, ông Phú cho hay, là "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Ông Phú giải thích, đây là đổi mới về nhận thức vì trước đây ta đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn lần này mục tiêu là nước phát triển. "Một nước công nghiệp hiện đại và phát triển có mối quan hệ với nhau nhưng không phải là một", ông Phú nói". (trích).
Là người dân tôi cảm thấy rất là mù mờ sự khác nhau giữa hai cái này thưa ông. Điều mà tôi hoài nghi là dựa trên thực tế của Việt Nam hiện nay, có chắc gì đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam đã là nước phát triển chưa, lại còn "phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa", thế mặt mũi cái xã hội chủ nghĩa đó nó ra sao, các ông có thể nói rõ cho người dân chúng tôi biết không. Trên thế giới có nước nào là nước xã hội chủ nghĩa theo ý các ông nói không ? Liên Xô thì sụp rồi, hay là Cu Ba, Bắc Hàn, những nước mà kinh tế không đủ nuôi dân, người dân đói lên đói xuống ? Hay Trung Quốc là nước mà các ông đang nhất nhất học theo, có phải là nước xã hội không, nếu không thì là gì ?
Thực tế, trên thế giới hiện nay tất cả các nước phát triển, giàu mạnh, đều đi theo mô hình kinh tế thị trường, đều là những nước tư bản. Ngay cả Trung Quốc cũng thế, nhưng cái khác là họ là một nước độc tài độc đảng. Thế thì tại sao chúng ta phải đi theo một cái mô hình xã hội chủ nghĩa gì đó mà cho tới giờ này chúng ta vẫn chưa định nghĩa được và không tìm thấy cái mẫu để học theo ?
Một điểm quan trọng trong báo cáo của ông Phú "Không còn thừa nhận chủ nghĩa Mác - Lênin tức là không thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng. Các đảng phái sẽ mọc lên như nấm và quốc gia sẽ bước vào thời kỳ thập nhị sứ quân, rối loạn. Đó là lý do quan điểm chỉ đạo của báo cáo chính trị nhấn mạnh số một việc vững vàng tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh",
Tóm lại là dù biết chủ nghĩa Mác- Lênin đã bị vứt vào sọt rác lịch sử ngay tại Liên Xô, đã lạc hậu, lỗi thời nhưng các ông vẫn bám víu vào, dù biết con đường đang đi không biết chừng nào tới, không biết bao giờ thì hết thời kỳ quá độ, chủ nghĩa xã hội tròn méo ra sao nhưng các ông vẫn cứ giữ để làm cái bình phong che đậy mục tiêu duy nhất : giữ vững quyền lực của Đảng cộng sản, giữ vững mô hình độc tài độc đảng, không có gì thay đổi cả, thế thôi.
Câu hỏi, vấn đề then chốt gì ?
BBC : Theo quý vị, có những vấn đề hay câu hỏi gì then chốt, cốt yếu đang được đặt ra hiện nay đối với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo ? Các câu hỏi đó liệu có lời giải hay không ở Đại hội 13 tới đây và vì sao ?
Nguyễn Quang A : Có ba vấn đề lớn, thứ nhất là bảo vệ Tổ quốc, thứ hai là phát triển kinh tế bền vững (tức là phải đi đôi với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội) và thứ ba là đổi mới chính trị từng bước theo hướng dân chủ. Theo tôi không sợ điều mà ông Phùng Hữu Phú (mà chắc là đồng ý với Giáo sư người Nga Vladimir Kolotov, khách mời hội luận thứ Năm vừa qua của BBC) nói về loạn 12 sứ quân, đó là con ngoáo ộp mà họ vẽ ra để doạ nhau, bởi vì làm khéo thì mở cửa chính trị chỉ làm cho nhà nước mạnh hơn và có sức hơn để làm hai việc chính là thứ nhất và thứ hai kể trên.
Lê Văn Sinh : Sau hơn 30 năm đổi mới kinh tế, quan hệ sản xuất tại Việt Nam đã thay đổi tới mức không thể không đổi mới chính trị. Quan sát các động thái chuẩn bị nhân sự và dự thảo báo cáo chính trị, tôi chưa thấy có tia sáng nào, rằng Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam XIII sẽ đặt ra và giải quyết vấn đề này (đổi mới chính trị). Ai đọc thuyết hình thái xã hội của Marx cũng biết luận điểm về sự tương thích giữa quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc xã hội. Đã coi là cái tất yếu thì không ai có thể chống lại được.
Mai Thanh Sơn : Có ba câu hỏi then chốt mà thực tiễn đang đặt ra, đòi hỏi các nhà lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam cần trả lời : (i) Có hay không một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và nếu có, thì bản chất của nó là gì, nội hàm của khái niệm đó được hiểu như thế nào ? (ii) Để quản lý và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cần một mô hình nhà nước như thế nào cho phù hợp ? và (iii) Vị thế chính trị của các thành phần kinh tế trong cấu trúc chính trị - xã hội dựa trên mô hình nhà nước đó được xác định ra sao, làm thế nào để họ thực sự có tiếng nói độc lập ?
Với những nội dung như ông Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu, tôi nghĩ đại hội XIII khó có thể tìm ra được câu trả lời thoả đáng. Còn vì sao ư ? Đơn giản thôi, vì đến nay chưa có kinh tế - chính trị gia Việt Nam nào giải nghĩa được nội hàm khái niệm "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" ; bản chất của "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" vẫn là "đảng của giai cấp công nhân" lãnh đạo tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ; các khuôn mẫu chính trị được khẳng định là vẫn sẽ không có gì thay đổi ; chưa có bất kỳ biểu hiện nào cho thấy, các thành phần kinh tế - xã hội ngoài nhà nước chính thống sẽ được phép thành lập các tổ chức chính trị đại diện và có cơ quan ngôn luận của mình ; và con đường của các tổ chức xã hội dân sự vẫn rất mờ mịt.
Song Chi : Đối nội, những câu hỏi then chốt cần phải đặt ra đó là trong một chế độ độc đảng, làm thế nào giải quyết được những căn bệnh trầm kha của nó như nạn độc tài, nạn tham nhũng, lạm dụng quyền lực, tránh được bất công, oan sai, làm thế nào để người dân có được những quyền căn bản, tối thiểu của mình như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được biểu tình, quyền được thành lập các hội đoàn…
Đối ngoại, đường hướng sắp tới của Việt Nam có gì thay đổi, đặc biệt đối với Trung Cộng, và các nước dân chủ như Mỹ và phương Tây hay vẫn tiếp tục giữ quan điểm nhu nhược trước Trung Cộng còn với thế giới thì giữ nguyên chính sách "ba không" chuyển thành "bốn không" theo ông Thứ trưởng Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh nói tại lễ công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 rằng "Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Hãy thử hỏi chính sách đó thực tế trong những năm qua cho thấy có lợi hay hại đối với một nước yếu nằm kề bên một nước láng giềng to mạnh, hung hăng như Trung Quốc ?
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 14/06/2020
Tại Hội nghị Trung ương 11 ngày 7/10/2019, Ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phát biểu rằng Báo cáo chính trị là báo cáo trung tâm của đại hội, là căn cứ lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng các báo cáo khác. Ông cũng nhấn mạnh "Nhân dân, cán bộ kỳ vọng Đại hội XIII của Đảng sẽ có một báo cáo chính trị xứng tầm". Đến nay, dự thảo báo cáo đã cơ bản hoàn thành.
Hình minh hoạ. Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại lễ bế mạc đại hổi đảng 12 ở Hà Nội hôm 28/1/2016 Reuters
Ngày 10/6/2020, Hội nghị báo cáo viên Trung ương khu vực phía Bắc được tổ chức tại Hà Nội. Theo truyền thông nhà nước, tại hội nghị này ông Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương báo cáo về những điểm được cho là ‘mới’ của bản dự thảo, trong đó : "xây dựng chỉnh đốn hệ thống chính trị" gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng ; Mục tiêu : "phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa" ; Nhận định ‘vấn đề Biển Đông vẫn là một thách thức rất lớn’ ; và quan điểm chỉ đạo : ‘vững vàng tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các nhà quan sát và dư luận cho rằng bốn nội dung trên không thể gọi là ‘xứng tầm’ và người dân kỳ vọng lớn hơn vào những cải cách thể chế chính trị. Tuy nhiên, nếu phân tích từ bản chất của chế độ sẽ không thể có báo cáo chính trị ‘xứng tầm’ tại Đại hội 13. Các lý do chính : Một là,phương thức cải cách tiệm tiến vẫn là sự lựa chọn ưu tiên phù hợp với sự lãnh đạo tập thể dựa trên đồng thuận. Hai là, sau giai đoạn ‘bất ổn thể chế’ trong nhiệm kỳ Đảng đã ‘kiểm soát được tình hình’ nhờ tăng trưởng kinh tế dựa vào thị trường và chiến dịch chống tham nhũng để ‘chỉnh đốn’ đảng ; Ba là, bối cảnh quốc tế khiến Việt Nam không thể chọn ‘phe’ Mỹ hay Trung Quốc.
Hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách là công việc của đảng, của giới lãnh đạo. Bởi vậy, về nguyên tắc, tất cả phải vì lợi ích của đảng, và cụ thể trước hết là sự tồn vong của đảng. Chế độ đảng toàn trị có cội nguồn từ mô hình Liên Xô trước đây. Đó là chế độ do một đảng duy nhất lãnh đạo, với một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa bao trùm trên nền tảng tư tưởng Mác - Lênin, sử dụng chuyên quyền, tạo ra sự sợ hãi để buộc mọi người dân trong xã hội phải trung thành tuyệt đối với hệ tư tưởng chính thống, với việc ‘kiểm soát chặt chẽ mọi khía cạnh riêng tư nhất của các thành viên trong xã hội’. Chế độ này phủ nhận các định chế chính trị mang tính đối trọng, như đa đảng, tam quyền phân lập, xã hội dân sự hay trách nhiệm giải trình mang tính dân chủ, mà chủ yếu dựa vào giới lãnh đạo điều hành đất nước, đặc biệt vai trò của lãnh tụ.
Các văn kiện đại hội là công cụ cai trị, phải thể hiện quan điểm của đảng cầm quyền, từ đó ban hành các chính sách trong mỗi khoảng thời gian, dài hạn, trung hạn hoặc hàng năm bao quát mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Các văn kiện này, về nguyên tắc phải nhất quán và có tổ chức, được cụ thể hóa trong các chương trình hành động của các địa phương hoặc các bộ phận cấu thành chế độ. Đặc trưng của phương thức cai trị này là loại bỏ sự bất ngờ, không đoán định. Những thay đổi ‘đột phá’ có thể là nguy cơ làm sụp đổ chế độ và chỉ được đảng cân nhắc khi nguy cơ này hiện hữu, khi chế độ ‘bị dồn vào chân tường’. ‘Cải cách và mở cửa’ ở Trung Quốc cuối những năm 1970 và ‘Đổi mới’ ở Việt Nam sau đó khoảng một thập kỷ là những minh chứng lịch sử rõ ràng.
Ngoài ra, các nhà toàn trị đúc rút bài học sụp đổ là từ nội bộ, khi giới lãnh đạo xa rời hệ tư tưởng chính thống, tạo thành các nhóm lợi ích, thậm chí là hình thành phe nhóm. Bởi vậy, cải cách tiệm tiến, từ từ, ‘sai sửa’ luôn là sự lựa chọn của giới cầm quyền. Các biện pháp cải cách thể chế có thể hướng đến giải quyết vấn đề liệu đảng cộng sản toàn trị có thể điều khiển được kinh tế thị trường mà không làm thay đổi bản chất chế độ ? Cho đến nay chưa thể có lời giải về lý thuyết khi chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ là hình thức duy trì chế độ. Đồng thời, chỗ dựa thực tế cũng lung lay, khi Trung Quốc không còn là ‘hình mẫu’ để noi theo. Tập Cận Bình đã thâu tóm quyền lực để thay đổi chế độ toàn trị bằng chế độ độc tài.
Mặc dù vậy, quá trình cải cách thể chế từ kinh tế đến chính trị luôn được đặt ra qua nhiều kỳ đại hội đảng. Ai mà đoán trước được khi nào nó sẽ kết thúc ?
Sau giai đoạn ‘bất ổn thể chế’ chủ yếu do tăng trưởng kinh tế nóng vội dựa vào các tập đoàn nhà nước của nhiệm kỳ trước, Đảng dường như đã ‘kiểm soát được tình hình’ nhờ điều chỉnh chính sách tăng trưởng dựa vào thị trường và chiến dịch chống tham nhũng để chỉnh đốn đảng. Một chính sách mang tính thực dụng rõ nét hơn để duy trì chế độ lấy tăng trưởng kinh tế làm tính chính danh thay cho bầu cử dân chủ.
Nhiệm kỳ Đại hội 13 vẫn sẽ ‘kế thừa’ chính sách hiện nay. ‘Chính phủ kiến tạo’ là phù hợp với hiện trạng kinh tế của đất nước. Đảng vẫn nhấn mạnh sẽ tiếp tục ‘chống tham nhũng, và trong hơn 4 năm của nhiệm kỳ Đại hội 12 nhiều quan chức cấp cao bị kỷ luật, kết án tù hoặc bị loại khỏi guồng máy cai trị dưới nhiều hình thức bởi các tiêu chuẩn định tính, như nêu gương đạo đức, cá nhân chủ nghĩa, ‘tự chuyển hoá’ hay ‘tham vọng quyền lực’.
Những kết quả từ các chính sách trên bước đầu huy động được nguồn lực xã hội thông qua thị trường để tăng trưởng và cải thiện môi trường kinh doanh loại bỏ những rào cản về hành chính, thực thi công vụ và luật pháp. Tuy nhiên, hiệu ứng bất cập từ chính sách trên dần bộc lộ.
Các hiện tượng ‘trên nóng dưới lạnh’, ‘trên bảo dưới không nghe’, ‘giấu mình chờ thời’ như những căn bệnh cố hữu của hệ thống chính trị. Các giá trị xã hội đang lẫn lộn, xung đột, giữa thị trường và kế hoạch hoá, giữa chủ nghĩa cá nhân và tập thể, sự bất công và khoảng cách phân hóa giàu nghèo ngày càng nới rộng, tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực tràn lan trong nhiều lĩnh vực của một xã hội mang tính chất ‘tư bản thân hữu’ nặng nề.
Thị trường ngày càng đòi hỏi thể chế đối trọng và trách nhiệm giải trình dân chủ khi điều kiện thiếu vắng cơ chế hữu hiệu kiểm soát quyền lực. Minh chứng rõ ràng nhất là Đảng không thể kiểm soát được tài sản quan chức như giải pháp chống tham nhũng. Để tránh sụp đổ chế độ Đảng buộc vẫn phải duy trì bộ máy đặc quyền đặc lợi. Tinh giản bộ máy là nhiệm vụ dường như ‘bất khả thi’ trong qua nhiều nhiệm kỳ.
Bối cảnh quốc tế phức tạp, bất định khi cuộc thương chiến Mỹ - Trung, đang thay đổi và ‘tăng tốc’ bởi đại dịch Covid-19, có thể trở thành ‘chiến tranh lạnh 2.0’. Toàn cầu hóa đang lùi bước trước chủ nghĩa quốc gia. Trật tự mới chưa định hình khi trật tự hiện hành do Mỹ dẫn đầu bị lung lay, thách đố bởi sự ‘trỗi dậy’ hung hăng của Trung Quốc.
Các quốc gia đang lúng túng trước sự lựa chọn ‘phe’ Mỹ hay Trung trong tình thế liên kết kinh tế phức tạp bởi các chuỗi cung ứng toàn cầu và sự lệ thuộc vào Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Hơn thế, vì cuộc chiến này mang màu sắc chính trị, và ý thức hệ hiện hữu trong mọi vấn đề quan hệ giữa hai cường quốc khi Việt Nam có hệ tư tưởng của chế độ tương đồng với Trung Quốc, lệ thuộc nặng nề về kinh tế với nước này, nhưng ủng hộ chính sách ‘tự do hàng hải’ của Mỹ để bảo vệ chủ quyền biển đảo ở Biển Đông. Dư luận có thể không hài lòng về chính sách ‘đu dây’, tuy nhiên, Việt Nam không thể chọn phe.
Các nhà nghiên cứu và quan sát tình hình đang chỉ ra thời cơ ‘đổi mới’, tăng trưởng kinh tế nhanh nếu nắm bắt và thay đổi để đón nhận. Tuy nhiên, thực tế có thể dự đoán rằng cơ hội rồi sẽ trôi đi như đã từng trong suốt quá trình chuyển đổi. Báo cáo chính trị như trên đây không thể là căn cứ để thay đổi đột phá thể chế. Kỳ vọng của người dân sẽ ‘hụt hẫng’ ở kỳ Đại hội 13, tuy nhiên có thể sẽ lại được ‘nuôi dưỡng’ trong các nhiệm kỳ tiếp theo.
Chủ nghĩa xã hội vẫn chỉ là định hướng kể cả khi Việt Nam trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ 21, nhưng nội dung này lại được coi là ‘mới’ trong ‘Báo cáo chính trị’ trình Đại hội 13.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 15/06/2020
Dự luật Đặc khu - chính sách thất bại khi không dựa vào dân
Hiếm khi có chính sách thất bại khi đảng cộng sản cầm quyền với chế độ toàn trị kiểm soát mọi hoạt động của người dân và nhà nước, đặc biệt về ban hành chính sách. Thế nhưng Dự luật Đặc khu Hành chính Kinh tế ven biển là một trường hợp điển hình hy hữu về sự thất bại chính sách ngay từ khi xây dựng.
Biểu tình phản đối dự luật Đặc khu ở Thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/6/201 AFP
Hai vấn đề lớn đối với các nhà hoạch định chính sách khi phân tích nguyên nhân sâu xa của sự thất bại chính sách trên : Một là, Dự luật đã trở nên ‘lạc hậu’ về thời điểm áp dụng. Hai là, quy trình chính sách đã không dựa vào dân và hướng tới người dân.
Dự luật Đặc khu được vận dụng không đúng thời điểm, đã trở thành ‘chính sách lỗi thời’. Chính sách này đúng với Trung Quốc 30 năm trước, nhưng áp dụng cho Việt Nam 30 năm sau trong bối cảnh thế giới và trong nước đã hoàn toàn thay đổi đã không thích hợp. Đó là nguyên nhân của sự thất bại chính sách.
Tương đồng về ý thức hệ và ‘đổi mới’ sau nên Việt Nam phải học hỏi kinh nghiệm từ mô hình Trung Quốc, trong đó chính sách ‘đặc khu’ từng được đánh giá có ý nghĩa quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh.
Năm 1979, lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình đã quyết định thành lập Đặc khu kinh tế tại Thâm Quyến. Đây là đặc khu đầu tiên của Trung Quốc do lợi thế tiếp giáp với Hồng Kông (lúc đó còn là một thuộc địa của Vương quốc Anh). Việc thành lập đặc khu này được coi là sự thử nghiệm mô hình Cải cách và Mở cửa của Trung Quốc. Đặc khu Thâm Quyến đã có tỷ lệ tăng trưởng GDP rất cao, trung bình là 40% mỗi năm giữa năm 1981 và năm 1993. Từ năm 2001 đến năm 2005, tỷ lệ tăng chậm lại, còn 16,3% và giảm sút dần từ đó. Sản lượng kinh tế của Thâm Quyến với khoảng gần 340 tỷ USD hiện nay đứng thứ 3 sau Bắc Kinh, Thượng Hải.
Nhìn lại quá trình chuẩn bị dự luật này của Việt Nam, về hình thức, là khá bài bản và thận trọng. Cơ sở hình thành nên Dự luật đặc khu đã có từ đầu năm 2013, khi một số chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu Đặc khu kinh tế Trung Quốc thuộc trường Đại học Thâm Quyến được mời đến tỉnh Quảng Ninh để trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về chiến lược hình thành phát triển cho dự án đặc khu kinh tế Vân Đồn. Các cuộc hội thảo và các chuyến nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm thực tế được tổ chức. Sau đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì soạn thảo Dự luật.
Người biểu tình phản đối dự luật Đặc khu đốt phá trụ sở ở Bình Thuận hôm 10/6/2018 AFP
Sự chuẩn bị và quy trình chính sách như trên khiến Chính phủ đã ‘tự tin’ trình Dự luật Đặc khu Hành chính - Kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 14 vào tháng 6/2018. Thông thường, một số nội dung có thể có nhiều ý kiến khác biệt trong quá trình thảo luận, tuy nhiên điều khoản có ‘thời hạn cho thuê đất 99 năm’ đã là ‘vấn đề lớn’ không chỉ tại nghị trường mà, hơn thế, từ phía công chúng. Trong tuần từ ngày 6 đến 11/6/2018 làn sóng phản đối mạnh mẽ và lan rộng của người dân trong nhiều tỉnh thành khiến Dự luật đặc khu không thể được đưa ra bỏ phiếu thông qua. Và cho đến nay nó vẫn không đặt ra trong chương trình nghị sự của các kỳ họp Quốc hội.
Các nhà hoạch định chính sách đã không thể thuyết phục được dân chúng và đại biểu quốc hội về ý nghĩa, vai trò của các đặc khu kinh tế đối với tăng trưởng và phát triển, không thể nói với họ rằng đó là sự vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc hay tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đối với hình thức đặc khu trong bối cảnh hiện nay.
30 năm trước, các đặc khu hành chính kinh tế đã là chính sách mang tính ‘đột phá’ đối với Trung Quốc, hấp dẫn các luồng vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ở đỉnh cao. 30 năm sau, khi Việt Nam vận dụng kinh nghiệm ‘đặc khu’ thì quá trình toàn cầu hóa đã thoái trào. Bối cảnh chính sách đã hoàn toàn thay đổi và thời cơ đã bị bỏ lỡ. Đó là chưa kể đến ‘yếu tố cạnh tranh’ khi Trung Quốc luôn có lợi thế so sánh trước Việt Nam về thị trường, nhân công, năng lực quản trị và năng suất.
Trong và ngoài nghị trường Quốc hội - cơ quan lập pháp tối cao của Việt Nam ít nhiều đều có ‘tiếng nói của dân’ phản đối Dự luật Đặc khu liên quan đến ‘yếu tố Trung Quốc’. Khi tương đồng ý thức hệ không còn là ‘bệ đỡ’ cho phát triển kinh tế thì ưu tiên được dành cho an ninh, chủ quyền quốc gia - vốn là phẩm chất từ ngàn đời tạo nên bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Ưu tiên hàng đầu của chế độ đảng cộng sản toàn trị trong việc xây dựng chính sách là lợi ích và sự tồn vong của của đảng, trong khi quy trình chính sách công trong điều kiện thị trường phải dựa vào dân, hướng tới người dân, đối tượng thụ hưởng. Bởi vậy, một trong các bước của quy trình là lấy ý kiến của nhân dân thường bỏ qua hay chỉ làm hình thức. Với Dự luật Đặc khu cũng không là ngoại lệ, và sai lầm này đã dẫn đến thất bại.
Mô hình Trung Quốc ngày càng kém thích hợp với Việt Nam. Đặc khu kinh tế từng là ‘đột phá’ thành công của chính sách cải cách và mở cửa thực dụng do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, góp phần tạo nên ‘sự kỳ diệu’ tăng trưởng kinh tế. Nay ‘dư địa’ này không còn. Các nước tư bản phát triển, các tập đoàn đa quốc gia dường như đã ngộ ra rõ ràng hơn ‘tăng trưởng kinh tế không thể làm cho chế độ trở nên ‘dân chủ’, nghĩa là không thể làm thay đổi bản chất chuyên chế.
Sự đối đầu ý thức hệ giữa Trung Quốc và Mỹ, Phương Tây ngày càng sâu sắc trong mọi quan hệ quốc tế. Đại dịch COVID-19 chính là lúc Trung Quốc bộc lộ rõ nhất bản chất chuyên chế. Ngày 28 tháng 5 năm 2020 Luật an ninh Hồng Kông đã được thông qua dường như đã phủ nhận cam kết ‘một quốc gia, hai chế độ’ tại đây.
Người biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong hôm 1/6/2020 AFP
Tham vọng thay đổi trật tự thế giới và địa chính trị của Bắc Kinh ngày càng hung hăng. Tự vẽ ‘đường chín đoạn’, quân sự hóa biển đảo, đe doạ tự do hàng hải và các nước có liên quan ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam làm gia tăng mức độ nguy cơ đối với chủ quyền biển đảo và quốc gia.
Ngoài ra, phần lớn các dự án đầu tư của Trung Quốc vào nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam như năng lượng, giao thông… kém hiệu quả, công nghệ lạc hậu, kéo dài làm tăng nợ xấu, gây ô nhiễm môi trường, thâm hụt nghiêm trọng cán cân thương mại… Dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông là ‘hình ảnh phản cảm’ trong mắt công chúng. Dự án kéo dài từ 2008 đến nay chưa hoàn thành, đội vốn lên gần gấp đôi. Mới đây, ngày 2/6/2020 nhà thầu Trung Quốc đòi chi 50 triệu USD, sai với các điều khoản trong hợp đồng, để thử vận hành.
Trong bối cảnh như trên Dự luật Đặc khu ven biển được công luận coi là ‘mắt xích’ hay ‘cánh tay nối dài’ của chiến lược ‘Một vành đai, một con đường’ của Tập Cận Bình. Sức ép dư luận dường như đã tác động đến các nhà lập pháp. Một số đại biểu Quốc hội khóa 14 trong kỳ họp thứ 9 đang diễn ra tại Hà Nội đã yêu cầu Chính phủ giải trình về tình trạng các doanh nghiệp Trung Quốc ‘núp bóng’ dưới các hình thức khác nhau để thâu tóm đất đai tại các vị trí chiến lược trên biên giới và bờ biển.
Phía sau Dự luật Đặc khu đã lộ rõ hình ảnh của các nhà đầu tư bất động sản, đặc biệt là Vân Đồn và Phú Quốc. Mới đây, Chính phủ có Quyết định số 544/QĐ-TTg về việc thí điểm thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế Vân Đồn trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. Ngày 25 tháng 5 năm 2020 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Nghị quyết số 80/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020, cho phép người nước ngoài được miễn thị thực nhập cảnh vào khu kinh tế ven biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Dư luận quan tâm đến những sự kiện có liên quan như vậy. Một số nhà quan sát đã lên tiếng cảnh báo liệu đây có phải là những hình thức lách luật để đạt được mục đích của chính quyền cố gắng ‘cứu’ một chính sách thất bại - Dự luật Đặc khu. Liệu ‘tiếng nói của người dân’ có được duy trì và nhân lên để trở thành một nền tảng chính sách hay chỉ là tia hy vọng mong manh trong chế độ toàn trị ?
Phạm Quý Thọ (Hà Nội)
Nguồn : RFA, 03/06/2020
Ngày 22/5/2020 ‘Tổ công tác đặc biệt’ và đề án thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), được quyết định thành lập với mục đích vừa nêu. Chính phủ Hà Nội đã nhận thức tầm quan trọng của vấn đề. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm đó là cơ hội để thu hút FDI, thì có lẽ chưa xứng tầm với cơ hội thay đổi để phát triển hiện nay.
Quá trình Việt Nam phục hồi sau đại dịch sẽ có sự dõi theo của thế giới. Việt Nam không nên mất cảnh giác vì cuộc chiến chống Covid-19 vẫn chưa kết thúc. Ảnh minh họa (Nguồn : AFP)
Đại dịch Covid-19 đang gây ra cuộc khủng khoảng kép nghiêm trọng về y tế và kinh tế cho thế giới. Đây là ‘một biến cố lớn’ chưa từng có từ trăm năm nay, sẽ định hình lại ‘trật tự thế giới’, trong đó sự đối đầu của các chế độ khác biệt về hệ tư tưởng là một đặc trưng quan trọng. Hiệu ứng lan toả của nó đến mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, cộng hưởng với các yếu tố trong nước trước thềm Đại hội 13 của Đảng cộng sản mở ra cơ hội phát triển.
Trong giai đoạn gần đây nước ta cũng từng có những cơ hội lớn bị bỏ lỡ, bởi vì thiếu những chính sách cải cách cần thiết vượt qua ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều.
Đặc điểm bao trùm xu hướng phát triển thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay là sự đối đầu liên tục giữa hai ý thức hệ : chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga năm 1917 là ‘biến cố’ đã sản sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, mô hình Xô – Viết, mở đầu xu hướng này. Chiến tranh thế giới II (1939 -1945) đã kết thúc sự tồn vong của chủ nghĩa phát xít, nhưng cũng là lúc khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần 50 năm giữa hai hệ thống đối nghịch về hệ tư tưởng.
Sau khi mô hình Xô-Viết sụp đổ ở Đông Âu năm 1991, mặc dù còn có những biến thể kiểu như mô hình Trung Quốc, nhưng thế giới đã chứng kiến giai đoạn toàn cầu hoá mạnh mẽ, tưởng như, làm mờ dần và có thể xoá đi sự khác biệt ý thức hệ để cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra xu hướng này vẫn tiếp diễn. Sự khác biệt chế độ chính trị không những không mất đi mà âm ỉ, và dần bùng lên thành đám cháy ngày càng dữ dội.
Điều kỳ diệu tăng trưởng nhanh của mô hình Trung Quốc dần tan biến. Chính quyền Bắc Kinh bị cáo buộc cạnh tranh kinh tế không công bằng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phát động cuộc thương chiến từ năm 2018, và nhanh chóng leo thang sang các lĩnh vực khác, từ sở hữu trí tuệ, công nghệ cao đến các vấn đề nhân quyền, tôn giáo và tham vọng địa chính trị… Sự đối đầu ý thức hệ dường như trong mọi vấn đề quan hệ song phương Mỹ - Trung.
Đại dịch Covid-19 bộc lộ bản chất chuyên quyền chế độ toàn trị ở Trung Quốc, như ‘giọt nước tràn ly, làm căng thẳng mâu thuẫn giữa hai cường quốc kinh tế, làm thay đổi bối cảnh phát triển cho các quốc gia trên thế giới.
Quá trình phát triển của Việt Nam, quốc gia có chế độ với ý thức hệ tương đồng với Trung Quốc, bị chi phối mạnh mẽ trong bối cảnh nêu trên, trong đó đã từng có các cơ hội bị bỏ lỡ.
Hai cơ hội quan trọng mà Việt Nam đã bỏ lỡ được các nhà nghiên cứu chỉ ra là thời cơ sau năm 1975 ngay sau khi đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và sau chính sách ‘đổi mới’ đất nước, lấy mốc từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6 năm 1986.
Trước hết, sau năm 1975 đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và hoà bình là cơ hội to lớn để phát triển. Dân tộc Việt Nam có một khát vọng mạnh mẽ hướng tới tương lai thịnh vượng. Mặc dù, sau chiến tranh đất nước còn nghèo và lạc hậu, nhưng có niềm tin lớn về tiềm năng con người, ý chí vượt khó của người dân, năng lực lãnh đạo của những người cầm quyền, được thử thách trong chiến tranh…
Tuy nhiên, như hệ quả của xu hướng phát triển chung, ‘Bên thắng cuộc’ đã áp đặt luật chơi. Đồng thời với việc khắc phục hậu quả của chiến tranh, ‘thể chế xã hội chủ nghĩa’ đã thiết lập trên cả nước, từ hành chính đến nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đối với miền Nam các chính sách đổi tiền, cải tạo công thương, quốc hữu hoá ruộng đất… đã xoá đi các nền tảng và các quan hệ thị trường, tuy giới hạn trong điều kiện thời chiến, nhưng đã kết nối rộng rãi với các nước tư bản tiên tiến. Hậu quả nặng nề để lại là tình trạng kiệt quệ về kinh tế trong suốt hơn hơn một thập kỷ sau.
Cơ hội quan trọng thứ hai xuất hiện vào thập niên 1990 trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hoàn toàn và quá trình toàn cầu hoá. Các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) nối lại viện trợ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Nhiều yếu tố hội tụ tạo cơ hội cho Việt Nam hội nhập với kinh tế thị trường khu vực và thế giới.
Đây là ‘cơ hội thị trường’. Nó được khởi đầu bằng việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, nới rộng quyền tự do kinh tế cho người dân và doanh nghiệp. Cơ hội này đã giúp Việt Nam đạt tốc độ tăng GDP cao trên 7% trong khoảng một thập kỷ, tạo nên hình ảnh ‘con hổ mới’ ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, ‘sự bứt phá’ bị cản lại bởi chính sách sai lầm, duy ý chí. Với mục tiêu tăng trưởng nhanh các nguồn lực đã tập trung cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, coi đó là trụ cột của nền kinh tế, kiểu cheabol của Hàn Quốc. Sự khác biệt về tính chất sở hữu, tư nhân và nhà nước, cộng với quản lý yếu kém khiến mô hình này sụp đổ.
Việc vận dụng giáo điều ý thức hệ xã hội chủ nghĩa trong chính sách kinh tế hướng thị trường là căn nguyên sai lầm. Hậu quả là tốc độ tăng trưởng giảm sút và bất ổn thể chế, khoảng cách tụt hậu kinh tế đã nới rộng so với các nước trong khu vực.
Cơ hội phát triển và cơ hội thay đổi trong bối cảnh Covid-19 là chủ đề nóng hiện nay. Do tính chất đối đầu ý thức hệ có thể gọi đây là ‘cơ hội thoát Trung’ đối với nhiều nước trên thế giới và Việt Nam.
Đại dịch này chính là lúc Việt Nam cần đánh giá lại việc áp dụng mô hình Trung Quốc trong thời gian qua. Trước hết, cần làm rõ sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc, tình trạng thâm hụt thương mại nghiệm trọng và kéo dài, các dự án đầu tư kém chất lượng, nhất là trong các lĩnh vực trọng yếu như năng lượng và giao thông… Truyền thông nhà nước dường như công khai hơn với loại tin tức này, thậm chí đưa tin trong kỳ họp đang diễn ra của Quốc Hội khoá XIV về việc doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng dưới nhiều hình thức để kiểm soát các dự án bất động sản có vị trí ‘nhạy cảm’ đối với an ninh quốc gia…
Việc đánh giá toàn diện hiệu quả và tác động của các chính sách cũng trở nên cần thiết. Chính sách với ‘sáng kiến’ Chính phủ kiến tạo, liệu có khác biệt với chính sách thực dụng do Đặng Tiểu Bình khởi xướng từ đầu những năm 1990. Nó đang thúc đẩy tăng trưởng, nhưng liệu đích đến có thể là chủ nghĩa tư bản thân hữu, như thực tế hiện nay ở Trung Quốc. Dự luật ‘Đặc khu hành chính – kinh tế’ như biện pháp đột phá, đã không được Quốc hội thông qua trước sự phản đối của dân chúng… Dư luận đang cho rằng, việc thành lập Khu kinh tế Vân Đồn, biến tướng của đặc khu, là lách luật...
Cơ hội thay đổi này đặt cơ sở cho một chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ sự di chuyển của chuỗi cung từ Trung Quốc. Giáo sư Trần Văn Thọ, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đã đề xuất một ‘Chiến lược phát triển Việt Nam sau đại dịch’, khái quát về tái cấu trúc nền kinh tế và chuẩn bị các điều kiện cơ sở hạ tầng, cải cách hành chính…
Cuối cùng, làn sóng thoát Trung hiện nay của các quốc gia khiến Việt Nam cân nhắc những đề xuất nâng cấp quan hệ với Mỹ trong chính sách đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và tham gia ‘Tứ giác kim cương mở rộng’ bao gồm bốn nước Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ với Hàn Quốc, New Zeland và Việt Nam. Nên coi đây cơ hội để tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự đe doạ của chính quyền Bắc Kinh.
Cải cách thể chế chính trị trên nền tảng ý thức hệ lạc hậu là thách thức chủ yếu đối với cơ hội phát triển. Liệu một lần nữa Việt Nam sẽ lại bỏ lỡ cơ hội thay đổi để phát triển ?
Những kết quả ‘về cơ bản khống chế’ Covid-19 được nhấn mạnh là nhờ ưu thế của chế độ, vốn được thể hiện trong trạng thái ‘thời chiến’, nhưng đó cũng chính là lực cản phát triển cho kinh tế thị trường trong điều kiện bình thường.
Chế độ đảng cộng sản toàn trị luôn đặt sự tồn vong là ưu tiên trong mọi tình huống. Từ bản chất của nó phương châm cải cách ‘tiệm tiến’ được xác định như sự đề phòng rủi ro. Thực tế cho thấy những chính sách đột phá thường chỉ xảy ra khi chế độ ‘bị dồn vào chân tường’, và hy vọng ‘mong manh’ đặt ở những ‘vị vua anh minh’.
Liệu Đại hội 13 có lựa chọn được những lãnh đạo đủ tầm để nắm bắt cơ hội thay đổi để phát triển ?
Phạm Quý Thọ, gửi từ Hà Nội
Nguồn : RFA, 23/05/2020