Ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thay mặt hệ thống chính trị và hệ thống công quyền Việt Nam khánh thành Đền Chung Sơn. Theo hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam, ngôi đền có diện tích đến 83 héc ta, với 18 hạng mục này tọa lạc ở núi Chung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An được xây dựng để "tưởng nhớ và tri ân những công lao của gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh cho quê hương, đất nước", nhân dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh của "bác".
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các đại biểu thực hiện nghi thức cắt băng khánh thành Đền Chung Sơn - Đền thờ Gia tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/5/2020. Ảnh: VGP
Vì Đền Chung Sơn có tên đầy đủ là "Đền thờ gia tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh" nên nhiều người ngỡ ngàng vì hai lẽ :
Thứ nhất, nội hàm của gia tiên là toàn bộ tổ tiên của một gia tộc, rộng hơn gia đình (vốn chỉ có cha mẹ, anh em của "bác"), thế thì người Việt chỉ "tưởng nhớ và tri ân những công lao cho quê hương, đất nước" của các thành viên trong gia đình "bác" hay phải "tưởng nhớ và tri ân những công lao cho quê hương, đất nước" cả gia tộc của "bác", bao gồm các thế hệ hậu sinh đương đại và tương lai ?
Thứ hai, khi càng ngày càng nhiều người băn khoăn về gia thế của "bác", lý do "bác" đột ngột bỏ họ Nguyễn, đổi thành họ "Hồ" rõ ràng rất đáng bận tâm nhưng không được bàn, giờ đặt ra chuyện phải thờ cả gia tiên, người Việt nên thờ gia tộc "Nguyễn Sinh" hay gia tộc "Hồ Sĩ" hoặc cả hai (2) ?
Tuy nhiên những băn khoăn vừa đề cập không phải là chuyện chính để bàn lần này. Chuyện chính nằm ở chỗ Đền Chung Sơn rất nguy nga nhưng không ai biết chi phí là bao nhiêu và tại sao không công khai ? Khi loan tin về sự kiện khánh thành Đền Chung Sơn, một số cơ quan truyền thông như tờ Tuổi Trẻ chỉ cho biết, ngôi đền này "nằm trong Dự án Bảo tồn, tôn tạo Khu Di tích Kim Liên". "Khu Di tích Kim Liên" lại gắn với kế hoạch phát triển "Khu Du lịch lịch sử, sinh thái văn hóa núi Chung".
Một số cơ quan truyền thông khác như báo Nghệ An thì tiết lộ đây là "công trình xã hội hóa một phần" và Ngân hàng Bắc Á được chính quyền tỉnh Nghệ An chọn để góp phần đó (3). Khi công trình chỉ "xã hội hóa một phần", công quỹ đã chi bao nhiêu tỉ tiền thuế cho Đền Chung Sơn ? Ngân hàng Bắc Á chi bao nhiêu và sẽ được hưởng những gì ? Vì sao không có… giá ?
***
Trên thực tế, tưởng nhớ và tri ân "bác" hết sức tốn kém. Cho dù ngân sách thâm thủng, nợ nần liên tục gia tăng, chi tiêu cho giáo dục, y tế liên tục bị cắt giảm nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam đặc biệt yêu thích loại dự án tưởng nhớ và tri ân "bác" với qui mô càng ngày càng lớn ! Phong trào tưởng nhớ và tri ân "bác" sôi nổi tới mức, tháng 5 năm 2015, Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch của Việt Nam phải tổ chức một hội thảo về "Tiêu chí nội dung, địa điểm xây dựng tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đến năm 2030". Theo "quy hoạch" được công bố tại hội thảo đó thì từ 2015 đến năm 2030, Việt Nam sẽ xuất ngân sách để xây dựng... 58 quần thể quảng trường – tượng đài tưởng nhớ và tri ân "bác". Chính quyền các tỉnh, thành phố ở Việt Nam phải xếp hàng chờ tới lượt mình (4).
Năm 2015, viện dẫn lý do "không có là một thiệt thòi" và "nguyện vọng của nhân dân", chính quyền tỉnh Sơn La quyết định xây quần thể quảng trường - tượng đài Hồ Chí Minh, trị giá 1.400 tỉ đồng (5). Đó là lần đầu tiên, kế hoạch xây dựng những quảng trường – tượng đài tưởng nhớ và tri ân "bác" bị chỉ trích kịch liệt trên diện rộng. Lúc đó, ông Ngô Bảo Châu, một trong những trí thức nổi tiếng ôn hòa cũng không kềm được giận dữ vì số tiền khổng lồ ấy đủ để xây toàn bộ trường học, các ký túc xá cho cả Sơn La lẫn các tỉnh miền núi. Ông Châu nhấn mạnh : "Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh"… Cũng vì vậy, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam phải để cho chính quyền tỉnh Sơn La gặm nhấm sự… "thiệt thòi" !
Song phong trào tưởng nhớ và tri ân "bác" chỉ… tạm lắng. Ba năm sau – 2018 - chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh lại khuấy động dư luận khi gửi cho Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch đề nghị xây dựng "Quảng trường Hồ Chí Minh" tại Thủ Thiêm. Đề nghị vừa kể không cho biết tổng chi phí xây dựng "Quảng trường Hồ Chí Minh" là bao nhiêu nhưng mô tả về quy mô của công trình này khiến người ta ước đoán con số ấy phải vài chục ngàn tỉ đồng vì : Diện tích lên tới 27 héc ta. Ngoài Quảng trường, Cột cờ tổ quốc, Công viên lưu niệm 63 tỉnh – thành phố, còn có Nhà Trưng bày về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà sàn và ao cá Bác Hồ,… Lý do xây dựng "Quảng trường Hồ Chí Minh" vẫn thế, vẫn là "bày tỏ tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu. Qua đó giáo dục nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" (6)…
Do thiên hạ lại nổi giận, từ đó đến nay chưa có thông tin nào mới về "Quảng trường Hồ Chí Minh" tại Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh. Dường như những trận bão dư luận về các công trình tưởng nhớ và tri ân "bác" đã khiến phong trào xây dựng các công trình loại này rẽ sang nhiều hướng. Ví dụ không dùng công quỹ như Quảng Bình. Năm 2017, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình bỏ phiếu thông qua Dự án xây dựng Quần thể tượng đài Hồ Chí Minh tại thành phố Đồng Hới. Theo đó, chính quyền tỉnh Quảng Bình sẽ giao cho một công ty có tên là Sơn Hải 36 héc ta đất ở thành phố Đồng Hới và công ty này sẽ bỏ ra 128 tỉ đồng để thực hiện dự án (7). Dẫu đó là đem công thổ đổi công trình nhưng công trình lại liên quan tới… "bác", không thấy ai thắc mắc 36 héc ta đất ở thành phố Đồng Hới đã được định giá thế nào, có tương xứng với 128 tỉ đồng hay không ?
***
Qua những thông tin liên quan đến Đền Chung Sơn, có thể thấy sức sáng tạo của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam để duy trì phong trào xây dựng các công trình tưởng nhớ và tri ân "bác" là… vô đối ! Nếu Quảng Bình không thèm dùng công quỹ, đem công thổ đổi "bác" thì Thành phố Hồ Chí Minh giấu… giá và Nghệ An kết hợp cả hai : Vừa giấu khoản công quỹ phải chi, vừa ém cả thỏa thuận đã trao những gì khi Ngân hàng Bắc Á tham gia "xã hội hóa một phần" để công chúng xét xem trao đổi đó có tương xứng hay không ? Sau khi làm công chúng bất bình vì quá tốn kém, việc tưởng nhớ và tri ân "bác" giờ bước vào giai đoạn không có… "giá". Dù lãnh nhiệm vụ chi trả, công chúng không còn cơ hội được lượng định giá phải trả sẽ ở mức nào ? May ra chỉ có "bác" và gia tiên mới biết phải gánh những gì cho "Khu Du lịch lịch sử, sinh thái văn hóa núi Chung" !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 20/05/2020
Chú thích
(2) https://www.bbc.com/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050808_trongcoi.shtml
(3) https://baonghean.vn/den-chung-son-nang-nghia-tuong-nho-tri-an-267685.html
(4) https://thanhnien.vn/van-hoa/quy-hoach-xay-dung-tuong-dai-chu-tich-ho-chi-minh-568164.html
Lời tòa soạn :Bài này là quan điểm cá nhân của tác giả, một doanh nhân hải ngoại trong nhiều năm đã cố gắng không đặt ra những vấn đề chính trị trong quan hệ đối với chế độ cộng sản.
Nó ít nhiều phản ánh một sự thức tỉnh của những người nghĩ rằng phát triển kinh tế là quan trọng nhất.
NVH
**********************
Nhân ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, không cần phải chờ lịch sử phán xét, với sự phát triển của Internet và Google, không cần phải là sử gia, ai cũng có thể tìm bằng cớ để phán xét Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về công hay tội.
Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông tươi cười tung tăng tay trong tay nhân một dịp viếng thăm Bắc Kinh thập niên 1960
1. Giai đoạn 1945 - 1969
Về nhân vật Hồ Chí Minh, có hai thời kỳ lịch sử đáng chú ý :
1. Giai đoạn 1945-1954 : Hồ Chí Minh đã chọn lựa con đường khuôn rập với Đảng cộng sản Trung quốc, sau khi chiếm lấy chủ quyền của nhân dân miền Bắc. Đảng cộng sản Việt Nam đã sát hại, đày ải và giết chết hàng trăm ngàn nông dân, địa chủ, phú hào.
2. Giai đoạn 1954-1969 : Năm 1941 Mỹ, Anh ký kết Hiến chương Đại Tây Dương tuyên bố xóa bỏ chính sách thuộc địa trên thế giới, trong đó điều 3 có nói : "Anh và Mỹ tôn trọng quyền của các quốc gia được sống dưới một chính thể mà họ chọn lựa. Anh và Mỹ mong muốn thấy chủ quyền và chính phủ tự trị của các dân tộc bị quốc gia khác dùng sức mạnh tước đoạt được khôi phục lại" (wikipedia).
Khi Thế chiến II vừa chấm dứt, thế giới đang đi vào giai đoạn xây dựng và kiến tạo hòa bình thì ngày 10/12/1946 ở Việt Nam ông Hồ Chí Minh kêu gọi : "Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa… Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước".
Hồ Chí minh và các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã "nói láo" để gạt hàng triệu thanh niên Nam Bắc, đẩy những thanh niên này vào hai cuộc chiến tranh phi lý làm thiệt mạng hơn một triệu thanh niên và mất 20 năm quy báu của dân tộc. Chính Lê Duẩn, nguyên cố Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đã từng công khai tuyên bố : "Ta đánh chiếm miền Nam là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa". Đây là hai tội đồ của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội nhưng quyết tâm đánh chiếm miền Nam Việt Nam bằng vũ lực của Hồ Chí Minh không những vẫn còn nguyên vẹn mà còn gia tăng vận tốc.
Tờ Polska Times, tức Thời báo Ba Lan, ngày 05/03/2013 đã đưa ra một bản xếp hạng 13 nhà độc tài đẫm máu nhất thế kỷ 20, trong đó có Hồ Chí Minh. Theo đó, Hồ Chí Minh qua 24 năm cầm quyền của mình đã gây ra cái chết của hơn 1,7 triệu người Việt qua hai cuộc chiến tranh đẫm máu.
Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông vui vẻ cùng nhau nâng chén rượu mừng trong một dịp viếng thăm Bắc Kinh thập niên 1960
2. Giai đoạn 1975 - 2020
Sự thật ngỡ ngàng
Ngày 30/04/1975 như mọi người đều biết, toàn bộ miền Nam lọt vào tay phe cộng sản miền Bắc. Từ sau ngày đó hàng triệu người đã bỏ nước ra đi và toàn bộ lãnh thổ miền Nam bị đặt dưới quyền thống trị của phe thắng cuộc cộng sản miền Bắc.
Ngược lại nhân dân miền Bắc đã bỡ ngỡ khám phá miền Nam không nghèo nàn và khổ sở như chính quyền cộng sản miền Bắc đã tuyên truyền. Trước sự huy hoàng và đời sống sung túc của nhân dân miền Nam, các chiến sĩ miền Bắc tự phát giác ra rằng chính mình đã bị Đảng cộng sản Việt Nam lừa bịp ngay từ đầu cuộc chiến.
Hãy nghe bà Dương Thu Hương, nữ ký giả đã theo chân đoàn quân chiến thắng vào tiếp thu Sài Gòn, kể lại : Bà đã "ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết, vì nhận ra rằng, kẻ thắng trận là một chế độ man rợ hơn người thua", bà có "một cảm giác vô cùng hoang mang và cay đắng", vì "cái đẹp phải tan nát và nền văn minh phải quy hàng". Dương Thu Hương nói : "Thế hệ của chúng tôi đã bị lừa".
Tội ác chồng chất thêm tội ác
Thay vì phải tự khiêm nhường sửa sai, Đảng cộng sản Việt Nam lại tiếp tục lừa dối nhân dân miền Bắc và đàn áp, cướp bóc nhân dân miền Nam.
Xuất thân từ những thành phần vô học, không có văn hóa, thiếu tầm nhìn, hung bạo và tham quyền, những cấp lãnh đạo tối cao của Đảng cộng sản Việt Nam, những tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác để trở thành những tội ác. Thay vì nhìn nhận kiến thức giới hạn của mình, những cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam như trong cơn mê tiếp tục sử dụng bạo lực để che đậy tội ác của mình và của chế độ. Có lẽ họ nghĩ rằng sau khi chết lịch sử mới vạch ra tội ác của họ hơn là phải tự sửa sai và đối diện với sự thật khi đang còn sống.
Những tội ác khó quên
1. Đốt sách và trại tù cải tạo
Sau ngày 30/04/1975, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện chiến dịch "đốt sách" ở miền Nam với chiêu bài "văn hóa đồi trụy", "tàn dư Mỹ ngụy". Ra lệnh cấm và trừng phạt những công dân nghe nhạc cũ của miền Nam. Đây là những bản nhạc Bolero rất thịnh hành hiện nay. Hơn 1 triệu quân cán chính của miền Nam đã bị chế độ cộng sản lùa vào hơn 150 trại tù khổ sai gọi là Trại học tập cải tạo. Theo tài liệu của The victims of communist Memorial Foundation năm 1994, hơn 165.000 người miền Nam đã bỏ mình trong các trại tù cải tạo.
Chiến dịch bài trừ văn hóa nhân bản tại miền Nam và cảnh đốt sách do cộng sản Việt Nam và Ban Tuyên giáo thực hiện khắp nơi trên miền Nam sau ngày 30/04/1975.
2. Triệt tiêu tư sản và lùa dân thành thị vào vùng kinh tế mới
Sau ngày 30/4/1975, Đảng cộng sản thực hiện những chính sách "triệt tiêu tư sản", bao cấp, ngăn sông cách chợ, bắt dân đi vùng kinh tế mới. Những chính sách cướp giựt vàng bạc, tài sản nhà cửa của nhân dân miền Nam của chế độ cộng sản còn tàn bạo và ác độc hơn sống dưới các chế độ thuộc địa Pháp và Nhật khiến cho nhân dân miền Nam uất ức và bỏ nước ra đi.
Cuộc trốn chạy chế độ cộng sản Việt Nam bằng đường biển trên những chiến thuyền gỗ mong manh sau ngày 30/4/1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Những đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đã làm rúng động lương tâm nhân loại, và đã phơi trần bản chất độc ác của chế độ cộng sản Việt Nam. Tổng số người rời bỏ đất nước, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng 3 triệu người (wikipedia tiếng Việt).
3. Tiếp tục che đậy nà nói dối để lừa gạt nhân dân
Đây là cách mà Ban tuyên giáo Đảng cộng sản Việt Nam nhồi nhét vào giáo trình giảng dạy cho sinh viên học sinh của Việt Nam hiện nay. Một vài thí dụ :
3.1. Đảng cộng sản Việt Nam là gì ? Đảng cộng sản Việt Nam là kim chỉ nam của toàn bộ dân tộc Việt Nam, là đảng cầm quyền… chỉ có Đảng này mới được hoạt động tại Việt Nam, được đảm bảo bằng điều 4 Hiến pháp hiện hành.
3.2. Từ bỏ vai trò cầm quyền chính là phủ định công lao của đồng bào, đồng chí và chiến sĩ đã chiến đấu vì mục tiêu cao đẹp của Đảng, từ ngày thành lập cho đến nay. Giữ cho được là một đảng cầm quyền cũng không phải chỉ để cho Đảng mà còn cho nhân dân, cho dân tộc (cf. Xây dựng đảng).
Bạn đọc tự phê phán cách họ tẩy não con cháu chúng ta để Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn là đảng cầm quyền.
3.3. Đa nguyên đa đảng ở Việt Nam : Chỉ cần bấm trên Google câu hỏi "Việt Nam có đa nguyên đa đảng hay không ?" thì câu tả lời sẽ là : "Ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chúng đa đảng" (Ban tuyên giáo).
Hiện nay trên thế giới khoảng 97% các quốc gia chọn thể chế đa nguyên đa đảng gồm Mỹ, Anh, Nhật, Hàn Quốc và Úc v.v. Trong một quốc gia dân chủ, cách duy nhất để thể hiện quyền làm chủ là quyền chọn lựa người thay mặt cho mình để lãnh đạo quốc gia. Các phân mục 3.1, 3.2, 3.3 vừa kể trên cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam triệt tiêu quyền tự do chọn lựa người lãnh đạo đất nước của nhân dân Việt Nam. Không những thế Đảng cộng sản Việt Nam còn ngăn chặn nhân dân đòi quyền làm chủ của mình như phân đoạn (3.4) dưới đây.
3.4 Tiếp tục dùng chính sách công an trị, bắt bớ giam cầm những người yêu nước, vu cáo cho tội "chống lại chính quyền nhân dân", răn đe bằng những cái chết oan uổng trong đồn công an, xử tử cụ Lê đình Kình, giết người thả sông, v.v. Tất cả những tội ác này phải để các sử gia ghi chép lại cho thế hệ đời sau.
Sự che đậy và dối trá từ Ban tuyên giáo đến Bộ Chính trị và các lãnh đạo trong Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam vẫn được tiếp tục cho đến nay.
Hãy nghe ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu nhân ngày 3/02/2020, kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam :
"Với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước (nước đâu có mất), nhất định không chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập, tự do" ; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ (Mỹ không chiếm lĩnh một quốc gia nào trên thế giới), giải phóng hoàn toàn miền Nam (Mỹ đâu chiếm miền Nam đâu mà giải phóng), thu giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975.
Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, (Trung Quốc còn yếu hơn Mỹ, sao không tiếp tục thể hiện sự anh hùng ? Lại hèn với giặc, ác với dân) một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc" (năm nay chúng ta kỷ niệm tròn 45 năm). Xin nhắc lại, cả thế giới đều biết Mỹ không chiếm đóng bất kỳ quốc gia nào sau Hiến Chương đại Tây Dương năm 1941. Năm 1975, 34 năm sau Đảng cộng sản Việt Nam vẫn dùng chữ "chiến tranh của đế quốc Mỹ".
Tại sao phải tiếp tục dối trá ? Vai trò của Đảng cộng sản ở Việt Nam là gì ?
Đất nước là của nhân dân. Cách duy nhất để nhân dân thể hiện "quyền làm chủ" là quyền tự do chọn lựa người đại diện cho mình để lãnh đạo đất nước. Khi một đất nước bị xâm lăng bởi một quốc gia khác (Pháp hay Nhật), nhân dân bị mất quyền làm chủ, nhân dân không có quyền tự do chọn lựa.
Đất nước Việt Nam yên bình và êm đẹp từ bao đời nay
Ngày nay nước Việt Nam không bị xâm lăng bởi ngoại bang, nước Việt Nam bị một đảng của người Việt Nam, tước quyền làm chủ của nhân dân, đó là Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự hỗ trợ của Bắc Kinh. Đảng này cai trị nhân dân Việt Nam từ 75 năm nay. Duy trì dân trí thấp, dối trá, bạo quyền là phương thức duy nhất để duy trì quyền lực. Trong chế độ quân chủ, vương quyền thuộc về gia tộc nhà vua. Trong chế độ cộng sản, vương quyền thuộc về đảng cộng sản. Tại sao phải trả lại cho nhân dân ?
Thay lời kết
Bên trên chúng ta vừa đi ngược lại 45 năm lịch sử để chứng kiến "cú lừa lịch sử" mà Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng để gạt nhân dân hai miền Nam Bắc vào một cuộc chiến tranh tương tàn mà kẻ đắc lợi là Đảng cộng sản Việt Nam. Sau cuộc chiến Đảng cộng sản tóm thu quyền làm chủ đất nước của nhân dân về một mối bằng mỹ từ "thống nhất đất nước". Phải nói đánh tráo khái niệm bằng từ ngữ là "tuyệt chiêu" của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi chiếm lĩnh hoàn toản chủ quyền của nhân dân hai miền, Đảng cộng sản lại mập mờ đánh lận con đen không bao giờ nhắc đến "tự do dân chủ". Chiêu bài chơi chữ, chính quyền nhân dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, kho bạc nhân dân nhưng đất nước không còn là của nhân dân.
Quyền tự do chọn lựa người lãnh đạo đất nước của người dân đã bị Đảng cộng sản đương quyền hủy bỏ, nhân dân không có tự do chọn lựa thì đảng sẽ tiếp tục và mãi mãi lãnh đạo đất nước.
Để kết luận, có thể nói Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam có Tội với đất nước nhiều hơn có Công.
Viết nhân ngày kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, 19/05/2020
Phạm Văn Thành
Nguyên Chủ tịch hội Doanh Nhân Việt Nam tại Canada (AVOBIC)
Ghi chú ngày 18/05/2020
Đảng Cộng Sản lại vừa long trọng kỷ niêm 130 năm ngày sinh ông Hồ Chí Minh, trong đó ông Nguyễn Phú Trọng ca tụng ông Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài, một tấm gương sáng ngời, mẫu mực về đạo đức, cha già của dân tộc Việt Nam và danh nhân văn hóa thế giới.
Nhân dịp này xin chia sẻ với các bạn một bài tôi viết về Hồ Chí Minh. Tuy bài đã viết cách đây 26 năm nhưng ông Hổ Chí Minh đã qua đời từ 51 năm qua, các dữ liệu về ông không thay đổi và cái nhìn của tôi về ông cũng không thay đổi.
Nguyễn Gia Kiểng
Tiết mục văn nghệ trong Lễ kỷ niệm 130 năm ngày sinh Hồ Chí Minh tại Nghệ An. (Ảnh minh họa : Nguyễn Oanh/TTXVN)
********************
Đài "Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại" phỏng vấn tôi về ông Hồ Chí Minh nhân ngày sinh thứ 104 của ông. Sau nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu, đài này muốn cho thính giả nghe quan điểm của một người hoạt động chính trị về một nhân vật chính trị.
Câu hỏi đầu tiên của ký giả Hồng Phúc làm tôi bối rối : "Xin ông cho thính giả biết những nét chính về nhân vật Hồ Chí Minh". Nét đậm đầu tiên của ông Hồ Chí Minh là ông là một người lý lịch không rõ rệt.
Ngay cả ngày sinh của ông, 19/5/1890, mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dùng làm một ngày lễ, cũng không có gì chắc chắn. Ở những dịp khác nhau, chính ông Hồ Chí Minh đã khai những ngày sinh khác nhau, mặc dầu không có nhu cầu phải giấu giếm. Thí dụ như khi nộp đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp, ông khai là sinh năm 1892 ; sau đó ít lâu, trong hồ sơ gia nhập Hội Tam Điểm (Free Mason) ông khai ngày sinh là 15/2/1895. Cho đến một ngày rất gần đây mọi người vẫn đinh ninh rằng ông họ Nguyễn, tên Nguyễn Sinh Côn, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, con ông phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Thế rồi sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một giả thuyết mới theo đó ông thực sự họ Hồ, cháu nội ông Hồ Sĩ Tạo, và đã chỉ mang họ Nguyễn sau một thảm kịch gia đình : bà nội ông đã có thai với ông Hồ Sĩ Tạo dù ông này đã có vợ con, gia đình bà đã phải đem gả bà cho một ông đồ già họ Nguyễn, vì thế thân phụ ông đã mang tên Nguyễn Sinh Huy. Trần Quốc Vượng đưa ra những chứng cứ và biện luận khó phản bác.
Hồ Chí Minh đã sống thời niên thiếu như thế nào tại Việt Nam, đã làm gì tại Pháp và tại Nga, đã có thành tích và trách nhiệm nào trước và trong thời gian làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Ngay cả những tài liệu về Hồ Chí Minh do những người cộng sản kỳ cựu gần gũi với ông viết ra cũng đã mâu thuẫn.
Chính Hồ Chí Minh cũng đóng góp tích cực vào việc gây hoang mang và lẫn lộn về tiểu sử của ông. Ông dùng những bí danh T. Lan và Trần Dân Tiên để viết về mình một cách mơ hồ. Trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", ông Trần Dân Tiên, tức Hồ Chí Minh, thuật lại cảm giác bồn chồn sung sướng khi được "Hồ chủ tịch" tiếp và được ông Hồ Chí Minh trả lời như sau khi ngỏ ý muốn viết tiểu sử của ông : "Tiểu sử ? Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ". Câu chuyện này chứng tỏ Hồ Chí Minh là một người giả dối muốn đánh bóng tiểu sử của chính mình ; đó là tâm lý của những người trong thâm tâm không hãnh diện về mình. Điều đáng ghi nhận là mặc dù đã bỏ ra rất nhiều thời giờ và công sức và dùng tới hai bút hiệu để viết về chính mình, một việc có lẽ chưa một nhà chính trị nào làm, nhưng cả hai hồi ký của ông Hồ Chí Minh đều không có một giá trị lịch sử hay chính trị nào cả, bởi vì chúng không đóng góp giải thích một sự kiện lịch sử nào mà chỉ là những mẩu chuyện nhắm mục đích ca tụng ông Hồ Chí Minh như một người tốt, tài giỏi, dũng cảm, có chí lớn, có quyết tâm, đáng ngưỡng mộ v.v. Hồ Chí Minh hoàn toàn không hiểu ý nghĩa và hậu quả của những biến cố lớn của một giai đoạn lịch sử trọng đại, trong đó ông là nhân vật chính ; ông chỉ chú trong đến những chuyện vụn vặt về cá nhân mình. Đây là một điều đáng buồn cho cả ông Hồ Chí Minh lẫn dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã phá mọi kỷ lục Việt Nam về tiểu sử. Số sách và bài viết về ông đã gấp hàng trăm lần bất cứ nhân vật lịch sử Việt Nam nào. Tuy vậy bí ẩn về ông vẫn còn nguyên vẹn. Bài này vì vậy không phải là một đóng góp thêm về tiểu sử ông Hồ Chí Minh mà chỉ có mục đích nhận diện một trong những huyền thoại nền tảng của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã phá mọi kỷ lục Việt Nam về tiểu sử. Số sách và bài viết về ông đã gấp hàng trăm lần bất cứ nhân vật lịch sử Việt Nam nào. Tuy vậy bí ẩn về ông vẫn còn nguyên vẹn. Ảnh minh họa (Ohay.tv/Nguyễn Huy Phương)
Có một số dữ kiện mà mọi người có thể đồng ý. Ông sinh vào khoảng 1890-1895 tại Nghệ An, mồ côi mẹ rất sớm, cha đậu phó bảng, làm quan đến chức tri huyện nhưng vì say rượu đánh chết người nên mất chức, bị tù, rồi lưu lạc vào Nam chết trong cô đơn và nghèo khổ. Hồ Chí Minh học hết tiểu học, đang học trường Quốc Học tại Huế thì phải bỏ học vì cha bị mất chức. Ông sống vất vưởng ở trong Nam, đặc biệt tại Sài Gòn vài năm, rồi đi làm phụ bếp trên một tàu buôn và tới Pháp năm 1911. Tại đây ông làm đơn xin vào học Trường Thuộc Địa, một trường đào tạo công chức cho chế độ thuộc địa Pháp ở Nantes, nhưng bị từ chối. Ông lên Paris sinh sống bằng nghề tô ảnh, gặp một số trí thức có tinh thần quốc gia trong đó có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và hợp tác với họ. Ông gia nhập Đệ Nhị Quốc Tế, rồi Đảng Cộng Sản Pháp, và được gửi đi Nga huấn luyện năm 1923. Cuối năm 1924 ông được cử làm thông ngôn cho phái đoàn Nga tại Trung Quốc do Borodin cầm đầu ; do biến cố này mà sự nghiệp chính trị của ông trở thành gắn bó với Việt Nam. Ông trở thành đại biểu Đông Dương tại Đệ Tam Quốc Tế, đóng vai trò then chốt trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và trở thành lãnh tụ số 1 của đảng này từ khi thế chiến II bùng nổ. Ông lãnh đạo cuộc Cách Mạng Tháng 8, rồi cuộc kháng chiến chống Pháp và chống chính quyền Bảo Đại do Pháp yểm trợ, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève. Ông mất năm 1969, giữa lúc cuộc chiến tranh Nam Bắc đạt đến mức độ gây cấn nhất.
Về đời tư ông có khá nhiều người tình và cũng đã có vợ, có con, nhưng ông giấu nhẹm những chuyện này. Một trong những người phụ nữ này là cô Nông Thị Xuân, có con với ông, đã chết trong một trường hợp bí ẩn, thân nhân quả quyết là đã bị thủ tiêu. Những sự kiện này được mọi nhà nghiên cứu nhìn nhận và cũng chưa hề bị Đảng Cộng Sản Việt Nam bác bỏ.
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam đặt nền tảng trên ba huyền thoại : chủ nghĩa cộng sản chủ trương giải phóng giai cấp vô sản và thiết lập một thế giới công bằng lý tưởng ; cuộc chiến đấu oanh liệt thắng Pháp, thắng Mỹ đem lại độc lập và thống nhất đất nước ; và thần tượng Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng lớn, một nhà chính trị lỗi lạc, một mẫu mực về đạo đức, đồng thời cũng là một người giản dị, khắc khổ chỉ sống cho đất nước.
Mỗi huyền thoại có một công dụng riêng. Chủ nghĩa cộng sản là một cứu cánh, một biện minh sau cùng cho mọi hành động. Chiến công giành độc lập, thắng ngoại bang cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một sự chính đáng lịch sử và, quan trọng hơn, tiêu biểu cho dụng cụ bạo lực sẵn sàng đập tan mọi chống đối. Thần tượng Hồ Chí Minh là đối tượng để ngưỡng mộ và kính phục và đem lại cho đảng sự chính đáng về mặt đạo đức. Ngày nay lý tưởng cộng sản không những đã sụp đổ mà còn bị lố bịch hóa. Nó chỉ được duy trì qua loa như vòng phòng thủ bên ngoài. Còn lại cặp bài trùng cố hữu và bắt buộc của mọi quyền lực : bạo lực và đạo đức. Bạo lực để đập tan mọi chống đối, đạo đức để đừng bị chống đối. Đảng Cộng Sản dùng bạo lực để áp đặt sự tôn sùng Hồ Chí Minh, ngược lại sự tôn sùng thần tượng Hồ Chí Minh, biểu tượng của đảng, có tác dụng triệt tiêu ý muốn chống đối và do đó cho phép tiết kiệm việc sử dụng bạo lực. Nếu một trong hai thành tố này không còn thì chế độ cộng sản không thể tiếp tục tồn tại.
Vậy thì Hồ Chí Minh là nhân vật như thế nào ?
Một tranh cãi quen thuộc là Hồ Chí Minh có phải là một người yêu nước và nhân bản hay không ? Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra là vì Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao ông như là chân dung của lòng yêu nước và đức hạnh, nhưng đây là một tranh cãi phiến diện. Yêu nước là tình cảm tự nhiên của mọi người và ngay cả những kẻ phản quốc cũng yêu nước. Sự quyến luyến với phần đất mà mình sinh ra và lớn lên nằm trong phản xạ của mọi động vật, không cứ gì loài người. Vậy thì ông Hồ Chí Minh chắc chắn là có yêu nước. Cũng thế, những giá trị nhân bản có sẵn trong mọi người. Ngay cả những kẻ gian ác nhất cũng ưa chuộng sự lương thiện, sự thủy chung và lòng bao dung. Con người đã được cấu tạo như thế. Vấn đề thực sự đặt ra là trong hoàn cảnh khó khăn và trước hiểm nguy, lòng yêu nước và các giá trị đạo đức như tình bạn, tình yêu có trọng lượng nào ?
Hồ Chí Minh đã thẳng tay thủ tiêu các lực lượng chính trị, dù là Cộng Sản Đệ Tứ, hay Đại Việt, hay Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông thừa biết là họ rất yêu nước, nhưng họ không thuộc đảng cộng sản của ông và do đó sự hiện hữu của họ đe dọa độc quyền lãnh đạo của ông.
Hồ Chí Minh biết bà Nguyễn Thị Năm là người vô tội, hơn thế còn là người tốt, đã giúp đỡ nhiều cho đảng cộng sản và có con trai đang là trung đoàn trưởng quân đội cộng sản. Ông quí bà Năm, nhưng khi cố vấn Trung Quốc cho biết là không thể thay đổi quyết định xử bắn bà để thị uy vì tất cả mọi nghi thức đã sắp xếp xong rồi thì ông im mồm và để cho bà Năm bị bắn. Sau này, trong các vụ Nhân Văn - Giai Phẩm và "xét lại chống đảng" ông cũng để mặc cho các cộng sự viên gần gũi bị bách hại oan ức. Ông bỏ rơi bà vợ chính thức Tăng Tuyết Minh để giữ hình ảnh một lãnh tụ thánh thiện chỉ sống cho đất nước và lấy đất nước làm gia đình. Cũng vì hình ảnh này mà ông hoặc đã ra lệnh hoặc đã chấp nhận thủ tiêu cô Nông Thị Xuân và bỏ rơi người con của ông với cô này. Có rất nhiều khả năng là chính ông đã quyết định tội ác này bởi vì ông quan tâm một cách bệnh hoạn đến hình ảnh của mình, ông đã dùng cả hai bí danh để viết sách tự đánh bóng mình. Một người không mắc bệnh tâm thần không thể làm như thế. Tóm lại, khi đứng trước khó khăn thì lòng yêu nước, những giá trị đạo đức, cũng như danh dự và an ninh của những người thân thiết với ông không có một trọng lượng nào đối với Hồ Chí Minh cả, ông có thể nhẫn tâm một cách đáng sợ.
Ông Hồ Chí Minh thiếu hẳn những kiến thức cần thiết mà mọi người lãnh đạo quốc gia, ngay cả trong thời đại của ông, phải có. Ông hoàn toàn không biết gì về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, tài chính, luật pháp, và ngay cả về nông nghiệp. Trong cuốn sách "Mấy kinh nghiệm Trung Quốc cần phải học" mà ông viết dưới bút hiệu Trần Lực (Nhà xuất bản Sự Thật, 1958, tr. 41), ông tin và kêu gọi mọi người tin là một mẫu lúa tại Trung Quốc có thể đạt được 333 tấn lúa mỗi năm. Những phát biểu của ông, dù là bài viết hay bài nói, không chứng tỏ một sự hiểu biết nào, dù sơ sài đến đâu, về lịch sử thế giới và tư tưởng chính trị. Việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao ông như một nhà tư tưởng là cả một xúc phạm đối với trí tuệ.
Không phải là Hồ Chí Minh không có tài, nhưng cái tài của ông ở chỗ khác. Ông lặn lộn và từng trải, học được nhiều bài học thực dụng. Ông sống một thời niên thiếu bi đát, một tuổi thanh niên chật vật, được hoàn cảnh đưa đẩy đến những hoạt động phiêu lưu nguy hiểm, được huấn luyện để làm gián điệp tại Nga và đã hoạt động tình báo thực sự với cả Nga, Trung Quốc lẫn Mỹ và Pháp trong bối cảnh chiến tranh và khủng bố. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên trong thế kỷ 20 có huấn luyện và kinh nghiệm trong các tổ chức quốc tế. Cuộc sống đó đã tạo cho ông một bản năng sống còn đặc biệt bén nhậy và đã khiến ông hạ được các đối thủ, trong cũng như ngoài đảng cộng sản, nhưng mặt khác cũng đã khiến ông đặt an ninh, địa vị và danh tiếng cá nhân lên trên hết, và ông trở thành nguy hiểm cho mọi người vô tình hay cố ý trở thành một đe dọa thực sự hay tưởng tượng đối với ông.
Quãng đời đấu tranh chống chế độ thuộc địa của ông ngay trên đất Pháp trong thời gian 1915-1923, thường được Đảng Cộng Sản Việt Nam nhắc tới như một thiên anh hùng ca. Hai sự kiện nói lên con người Hồ Chí Minh. Ông rất ít nhắc tới những đồng chí của ông trong giai đoạn này, như các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Truờng, Nguyễn Thế Truyền đã hướng dẫn ông, nhất là Nguyễn Thế Truyền, người bạn thân đã đem ông vào Đảng Cộng Sản Pháp. Ông giành mọi thành tích của nhóm này cho riêng mình. Một sự kiện khác là ông đã tham gia hội Tam Điểm. Đây là một hội kín mà theo một số tài liệu đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 và có thế lực lớn tại các nước phương Tây, kể cả tại Pháp. Hội này có đặc tính nổi bật là các hội viên che chở cho nhau, mặt khác nó cũng chống chính sách thực dân. Tam Điểm có vô số nhân vật đầy quyền lực cho nên khi ra mặt đả kích chế độ thực dân tại Pháp Hồ Chí Minh đã được bảo vệ. Nhưng Tam Điểm mâu thuẫn với Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản nên từ 1920 các đảng viên cộng sản bị cấm gia nhập hội này. Hồ Chí Minh đã chọn Đệ Tam Quốc Tế vì phong trào này cho ông một triển vọng thăng tiến lớn. Ông lặng lẽ bỏ hội Tam Điểm như một thành viên bị mất tích và cũng không khai báo gì với Đệ Tam Quốc Tế. Hồ Chí Minh đi hai hàng, Tam Điểm không biết ông là cộng sản, ngược lại Đệ Tam Quốc Tế cũng không biết ông là hội viên Tam Điểm. Sau Cách Mạng Tháng 8, những người hoạt động chính trị tại Việt Nam và thuộc hội Tam Điểm, do đó có khả năng biết Hồ Chí Minh cũng thuộc hội này, như Tạ Thu Thâu, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, v.v. đều bị thủ tiêu nhanh chóng. Ngoài ra còn có một đợt tàn sát khó hiểu đối với chức sắc Cao Đài, một biến thể của hội Tam Điểm tại Việt Nam, mà Nguyễn Hộ có kể lại trong hồi ký của ông. Sự tàn sát này phải chăng có mục đích khiến không ai ngờ rằng Hồ Chí Minh có một liên hệ nào với Tam Điểm ? Điều chắc chắn là cho tới khi ông qua đời không ai biết Hồ Chí Minh đã thuộc hội này. Sự thực mới chỉ được phơi bày gần đây.
Cái gì đã khiến Hồ Chí Minh thành công ? Có lẽ lý do chính là ông đã được huấn luyện tại Nga trong bối cảnh khủng bố của các thập niên 1920 và 1930 nên đã hiểu được bí quyết thành công của Đảng Cộng Sản Nga và hiệu lực của khủng bố. Đừng nên quên rằng cuộc cách mạng lật đổ Nga hoàng đã xảy ra vào tháng 2/1917, trong đó đảng cộng sản chỉ có một vai trò không đáng kể. Cách Mạng Tháng 10 Nga chỉ là cuộc đảo chính của đảng cộng sản sau khi đã nắm được thế thượng phong nhờ khủng bố. Hồ Chí Minh đã được huấn luyện về khủng bố và đã áp dụng khủng bố một cách thẳng tay. Cách Mạng Tháng 8 đã khởi đầu với sự thủ tiêu hàng loạt các "phần tử phản động". Cuộc chiến tranh 1946-1954 đã là một giai đoạn khủng bố kinh hoàng. Đặc tính lãnh tụ khủng bố của Hồ Chí Minh cho đến nay chưa được nhấn mạnh đúng mức. Hồ Chí Minh sử dụng khủng bố ngay cả khi không cần thiết như trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm và nhất là trong đợt Cải Cách Ruộng Đất năm 1955, trong đó hàng trăm ngàn người đã bị sát hại. Không thể đổ lỗi cho Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hồ Viết Thắng vì lúc đó Hồ Chí Minh còn nắm mọi quyền hành. Cũng nên nhớ là mãi tới năm 1958, ba năm sau khi Cải Cách Ruộng Đất đã được nhìn nhận là một sai lầm đẫm máu, Hồ Chí Minh vẫn còn cho xuất bản cuốn sách mà ông viết dưới bút hiệu Trần Lực ca tụng cải cách ruộng đất tại Trung Quốc, khuôn mẫu của đợt cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
Hồ Chí Minh chắc chắn là có tài, nhưng là cái tài của một chuyên viên sách động, khủng bố, lật đổ và cướp chính quyền, chứ không phải là cái tài của một người lãnh đạo quốc gia.
Còn về con người Hồ Chí Minh ? Có thể tóm tắt ông đã là một đứa trẻ không may, không được nuôi nấng và dạy dỗ trong tình yêu và hạnh phúc, mất mẹ sớm lại phải chịu đựng một ông bố nghiện ngập và hung dữ. Gia đình ông đã là một thảm kịch và ông đã phải bỏ học và lăn lộn với đời rất sớm. Mỗi thảm kịch trong tuổi thơ đều để lại một thương tích trong con người và Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngoại lệ. Ông đã bị chấn thương về tâm thần. Có lẽ chính thảm kịch gia đình, mà theo Trần Quốc Vượng đã bắt đầu ngay từ bà nội ông nhưng chắc chắn là đã trầm trọng từ đời thân phụ ông, đã khiến Hồ Chí Minh không có tình cảm gia đình. Tất cả những tài liệu do những người gần gũi với ông viết ra đều không bao giờ thuật lại một lần nào Hồ Chí Minh nhắc đến cha mẹ, anh em, ngày giỗ v.v. Đặc biệt là ông không coi trọng phụ nữ, dù là bà Tăng Tuyết Minh hay cô Nông Thị Xuân hay những người đàn bà khác. Trong cuộc đời Hồ Chí Minh không có những người đàn bà sung sướng và được quí trọng. Chị ông, mẹ ông và có lẽ cả bà nội ông, đã chỉ là những người sinh ra để làm nạn nhân. Thảm kịch cá nhân của Hồ Chí Minh đã biến ông thành một người mưu lược, khéo léo, nhưng vô nguyên tắc và không bị trói buộc bởi một giá trị nào.
Lực lượng trông coi lăng ông Hồ Chí Minh dọn cỏ trước lăng hôm 7/8/2000. (Ảnh minh họa - AFP/RFA)
Hồ Chí Minh có công hay có tội ? Đó là một vấn đề sẽ còn tranh cãi rất nhiều và rất lâu. Nhưng nếu ta đặt câu hỏi một cách khác : "Nếu không có Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thì Việt Nam sẽ khá hơn hay sẽ kém hơn hiện nay ?" thì chắc chắn tuyệt đại đa số người Việt sẽ có cùng một câu trả lời. Nói chung Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã là những sự kiện đáng tiếc. Trong cuốn "Thời Dựng Đảng" do Đảng Cộng Sản Việt Nam xuất bản, ông Thép Mới viết : "Các thế hệ Việt Nam sau này sẽ nhớ đến Hồ chủ tịch như là người đã có công đem chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam". Nhận định này đúng, và giải thích lý do tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn cố gượng gạo duy trì trên đầu môi chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề là việc đem chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam có lợi gì ?
Nhưng dù Hồ Chí Minh có thế nào đi nữa, dù ông có công hay có tội, thì ông cũng vẫn là một con người và vẫn phải được hưởng quyền tối thiểu của một người chết, nghĩa là được yên nghỉ. Việc đem xác một người đã chết trưng bày ở giữa một công trường, dù là trong một lăng đồ sộ và trong một lồng kiếng, là một hành động dã man theo văn hóa Việt Nam. Không một người Việt Nam nào có thể bị đối xử như thế. Hồ Chí Minh đã bị sử dụng như một dụng cụ tuyên truyền. Đã đến lúc ông có quyền được an táng một cách văn minh.
Nguyễn Gia Kiểng
(5/2004)
Đứa con bất hiếu
Trần Liễu (1211-1251) là cha của Trần Quốc Tuấn (tức Đức Thánh Trần), có vợ là Thuận Thiên Công Chúa.
Để né tránh tội đại bất hiếu, Hồ Chí Minh và hậu bối vẽ vời ra hình ảnh "anh hùng cứu nước", một trong số đó là cuốn "Vừa đi đường vừa kể chuyện".
Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ mình cho vua Trần Thái Tông - vốn là em ruột của Trần Liễu, dù bà Thuận Thiên đang mang thai ba tháng với Trần Liễu. Đứa bé sinh ra tức là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Vì thân phận đặc biệt, Quốc Khang được vua Trần Thái Tông nhận làm con trưởng song không có quyền kế thừa ngôi vị.
Phẫn uất vì bị cướp vợ, Trần Liễu dấy quân làm loạn, cuối cùng thất bại. Dù được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Ngoài việc được sống, vua còn cấp cho Trần Liễu đất thái ấp ở Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
Điều đó vẫn không làm Trần Liễu nguôi ngoai, ông quyết tìm những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn sao cho văn võ song toàn.
Lúc sắp mất, Trần Liễu trăn trối với Trần Quốc Tuấn : Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.
Trần Hưng Đạo không vì thế mà khắc cốt ghi tâm món nợ không nhắm mắt nổi của cha, bởi đối với Ngài, Tổ quốc trên hết. Sử sách Việt Nam còn ghi rành rành.
Hưng Đạo Đại Vương - nói theo ngôn ngữ xưa - là một "bất hiếu tử".
Không biết có phải vì thế mà chi tiết lịch sử vô cùng quan trọng như vậy, lại không được đưa vào giảng dạy rộng rãi cho học trò cấp 2 hoặc cấp 3 ngày nay (?).
Dù sao đi nữa, không có "bất hiếu tử" Trần Hưng Đạo ngày xưa, chắc chắn không có Việt Nam sau này.
Những đứa con sinh ra trong thời cộng sản
Giờ nói qua về tính hiếu để của người cộng sản Việt Nam.
Truyền thuyết dối lừa về "cha già dân tộc" Hồ Chí Minh được rao giảng ắp lẵm đến tận ngày nay, vẫn không xóa nổi lai lịch bất minh và ám muội của ông ta.
Về mặt chính thức từ truyền thông của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh không có con nối dõi. Theo văn hóa phương Đông, đó là tội bất hiếu của Hồ Chí Minh vào lúc bấy giờ.
Wikipedia cho biết Mạnh Tử nói : "Bất thú vô tử, tuyệt tổ tiên tự,tam bất hiếu dã", nghĩa là "Không lấy vợ sinh con, để dòng họ tuyệt tự là 1 trong 3 điều đại bất hiếu của nam nhi".
Để né tránh tội đại bất hiếu, Hồ Chí Minh và hậu bối vẽ vời ra hình ảnh "anh hùng cứu nước", một trong số đó là cuốn "Vừa đi đường vừa kể chuyện".
Hồ Chí Minh và các đại biểu nữ tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9/1960 - Ảnh tư liệu
Tính ngoa ngôn không dừng tại đó, báo Tuổi Trẻ [1] trình bày cách dạy hiếu thảo của Hồ Chí Minh, thông qua hồi ký của Nông Thị Trưng :
"Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm, người giữ trạm đầu nguồn đưa chúng tôi đến gặp ông Ké. Đến nơi, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Bên bờ suối có một cái lán, trong lán, một ông cụ đang ngồi đọc sách. Tôi chắp tay : Cháu chào cụ ạ.
Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo : Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên : "Từ nay cháu đã có gia đình lớn là cách mạng, đừng nên luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu có cặm cụi làm ăn cũng không đủ nộp sưu thuế. Mình lấy lại được nước rồi sẽ khác".
Trong đêm khuya, giữa hang tối, tính từ "rất sáng" dành cho cặp mắt con người, lại có vẻ phù hợp với "top 10 loài động vật có đôi mắt độc đáo nhất thế giới" như báo Tiền Phong cho hay [2] vào ngày 17/11/2019. Trong top 10 này, loài Cú đứng hạng 3 và loài Dê đứng hạng 6 - đây là hai loài động vật rất quen thuộc với loài người.
Tuy nhiên, điều để lại băn khoăn rất lớn lại chính là việc Tổ quốc bị mang ra "thế chấp" một cách tàn nhẫn và trần trụi như Hồ Chí Minh trong câu chuyện trên, tức là "công cha nghĩa mẹ" đã bị vứt vào một xó xỉnh nào đó của hang Pắc Bó - nơi ông cụ có "hai mắt rất sáng" đang ở.
Phải chăng, từ cách dạy của Hồ Chí Minh mà dẫn đến đại thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất sau này, với cảnh tượng hãi hùng, con cái sẵn sàng đấu cha tố mẹ để chứng tỏ lời dạy của gã phu quét tuyết trở nên trường cửu ?
Từ đó, cái ác lên ngôi không có gì khó hiểu, song nỗi hãi hùng chưa bao giờ chấm dứt khi luân thường đạo lý đảo lộn hoàn toàn từ dạo ấy !
Thật vậy, không còn gì để ngạc nhiên, khi con người ngày càng trở thành con-vật-người suốt hàng chục năm qua, như báo Tuổi Trẻ cho biết [3] : "thật nao lòng khi thử gõ cụm từ "con giết cha, mẹ" trên mạng tìm kiếm, hàng loạt trường hợp sẽ hiện ra đến nhức nhối. Càng nhức nhối hơn khi thấy người phạm tội ác này "rải đều" ở mọi lứa tuổi, từ thiếu niên, thanh niên cho đến trung niên, có kẻ suýt soát tuổi ngũ tuần".
Ký sinh trùng
Ký sinh trùng là một sinh vật sống trong một sinh vật khác, được gọi là vật chủ. Nó phụ thuộc vào vật chủ để tồn tại. Không có vật chủ, ký sinh trùng không thể sống, phát triển và nhân lên.
Đó có lẽ là tư tưởng xuyên suốt của bộ phim vừa đoạt giải Oscar 2020 của đạo diễn Bong Joon-ho người Hàn Quốc.
Bộ phim lên án những kẻ ăn bám và rỉa rói người khác một cách dai đẳng, không khác loài ký sinh trùng đáng nguyền rủa.
Hơn 50 năm qua, thân xác Hồ Chí Minh vẫn được bảo quản tốt như báo Tuổi Trẻ cho biết [4] vào hôm 29/08/2019, với dự toán ngân sách cho toàn bộ việc quản lý lăng do chính phủ công bố ở mức 318.730 tỷ đồng trong năm 2016 mà trang luatkhoa.org tìm thấy [5].
Trong khi đó, báo Đời Sống Pháp Luật cho biết [6] nước Nga vào năm 2016, lần đầu tiên tiết lộ chi phí bảo quản thi hài Lê Nin vào khoảng 200.000 USD, tương đương trên dưới 4,5 tỷ đồng Việt Nam.
Tại sao như vậy ?
Dù đã trên dưới 800 năm, tính từ câu chuyện bất hiếu của Hưng Đạo Đại Vương, người dân Việt Nam cho đến nay vẫn khó vượt qua lý luận của trang báo Sở Hữu Trí Tuệ [7] phát hành ngày 14/12/2019 : "vô luận cha mẹ ra sao, con cái cũng phải yêu thương, hiếu thuận và kính trọng. Một người bất trung bất hiếu, mà làm điều thiện, nói lời nhân nghĩa thì tất cả chỉ là giả dối mà thôi". Người đời cũng biết, khi Hồ Chí Minh đã đứng đầu thiên hạ, ông ta chưa bao giờ nhắc nhở ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục từ cha mẹ, dù chỉ một lời.
Tiền bạc chỉ là phù du - người đời thường nói. Do vậy, xem ra mức tiêu tốn hơn 318 tỷ/năm cũng xứng với vị "cha già" dành riêng cho "dân tộc cộng sản Việt Nam" !
Dịch Covid-19 đang cướp mất hàng ngàn tỷ đồng cùng hình ảnh thành phố Hà Nội tối đen giữa giờ trưa và ruộng khô nứt nẻ bên nhánh lúa gục chết ở đồng bằng Sông Cửu Long, như lời nhắn gởi không mấy tốt đẹp cho năm 2020, dù lăng tẩm của "cha già dân tộc" vẫn sừng sững như chướng ngại vật bất đắc dĩ mà dân tộc Việt Nam vô phước phải gánh chịu 50 năm qua...
Nguyễn Ngọc Già
Nguồn : RFA, 04/03/2020 (nguyenngocgia's blog)
[1] https://tuoitre.vn/bac-ho-voi-su-nghiep-giai-phong-phu-nu-245687.htm ?fbc...
[2] https://www.tienphong.vn/cong-nghe/top-10-loai-dong-vat-co-doi-mat-doc-d...
[3] https://tuoitre.vn/cach-nao-diet-tan-goc-toi-dai-nghich-2017121608522410...
[4] https://tuoitre.vn/50-nam-gin-giu-thi-hai-bac-ho-va-nhung-chuyen-bay-gio...
[5] https://www.luatkhoa.org/2019/06/ngan-sach-van-hanh-lang-ho-chi-minh-tuo...
[6] https://www.doisongphapluat.com/tin-the-gioi/lan-dau-tien-tiet-lo-chi-ph...
[7] https://sohuutritue.net.vn/neu-khong-the-bao-dung-duoc-cha-me-moi-long-t...
Đảng cộng sản cứu nguy cho dân tộc
An Viên, VNTB, 07/02/2020
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2020), Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tuyên bố : Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn…
Đảng cộng sản có ‘trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà chính đảng cộng sản có thể ‘bản lĩnh’ thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân để ‘thỉnh nguyện tâm ý nhân dân’ và làm căn cứ chứng tỏ các quan điểm trên là đúng đắn.
Không ai nghi ngờ về điều đó, khi mà nguyên tắc kiểm soát quyền lực của đảng luôn đặt mục tiêu, bóp nát mọi lực lượng chính trị thứ ba ngay trong lòng trứng. Gần đây, thời kỳ ông Nguyễn Phú Trọng nắm giữ nhiệm kỳ 2 Tổng bí thư (2016) và kiêm nhiệm thêm chức vụ Chủ tịch nước, yếu tố lực lượng thứ ba về mảng xã hội (xã hội dân sự) cũng đứng trước nguy cơ bị phá vỡ hoàn toàn sau một thời gian dài lăn lộn ngóc ngách trong xã hội, lịch sử Việt Nam sau 1975.
Không ai có thể nghi ngờ rằng, đảng cộng sản là duy nhất khi triệt tiêu các đảng phái chính trị thứ ba, và dồn nén – kiểm soát các lực lượng xã hội dân sự.
Thế nhưng, điều duy nhất đó không có nghĩa là bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước.
Không có bất kỳ căn cứ nào để cho thấy ‘bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà những quan điểm này xuất phát một cách hời hợt, chủ quan, trịch trượng và có phần phô trương của người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam.
Thực ra, có thể dễ dàng chứng minh đảng cộng sản có ‘trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà chính đảng cộng sản có thể ‘bản lĩnh’ thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân để ‘thỉnh nguyện tâm ý nhân dân’ và làm căn cứ chứng tỏ các quan điểm trên là đúng đắn.
Hãy mơ đi ! Đó là chuyện không bao giờ xảy ra. Một câu chuyện huyền hoặc, đầy viển vông, bởi đảng sẽ chẳng bao giờ đủ ‘bản lĩnh’ làm một thủ tục đơn giản đó, dù rằng, đảng sở hữu nhà tù, cảnh sát, và toà án, cộng với hơn 5 triệu đảng viên.
Thế nhưng, chính vì đảng cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất tồn tại trên mảnh đất này, và khi lực lượng xã hội dân sự bị kiềm soát đến mức vai trò của nó chỉ là hình thức thì một vấn đề khó tin lại diễn ra.
Đảng cộng sản trở thành nhân tố quan trọng trong thay đổi vận mạng của một dân tộc, một quốc gia.
Trong ‘Nhật Bản Duy Tân 30 năm, của Đào Trinh Nhất, (1936)’ có đề cập đến ba yếu tố mà theo tác giả là ‘đổi thay vận mạng của một dân tộc.’
Trước hết là nhờ ‘có bọn đương quyền khôn ngoan sáng suốt và bọn chí sĩ thức thời làm hướng đạo tiên phong, nhưng cũng phải nhờ nơi dân tâm dân khí có biết hăm hở tấn hóa tự cường mới được.’
Trường hợp, ‘nếu chí sĩ có, dân tâm có, nhưng vô phước mà bị đám cầm quyền là lũ đầu óc ngu dại, cứ ngồi lỳ trên cao, lấy quyền to sức mạnh của chúng để đè ép cản trở ý muốn tấn hóa của dân, thì việc quốc gia đại kế cũng không trông mong gì làm nổi.’
Và khi gặp ‘cảnh ngộ’ như thế, thì ‘kết quả đố khỏi hoặc là trong nước nổi lên một phen cách mạng đổ máu gớm ghê, hoặc là bị mất nước với người ta ; nếu không cũng bị lợi dụng và yếu hèn mãi.’
Đó là tương lai của dân tộc này, và bản thân những nhân sự trong đại hội 13 lần này phải tự ‘soi mình vào’. Thoát khoei những luận điệu ‘quan liêu, lỗi thời’ để tự cứu nguy cho chính mình và chính bản thân đảng của mình, đồng thời tạo điều kiện thay đổi vận mạng dân tộc.
Cụ thể hơn, nếu ai kế vị chức vụ Tổng bí thư, thì nên kế tục tinh thần dân quyền từ thời ông Hồ Chí Minh, thay vì ‘người đốt lò’. Bởi chỉ khi kế tục ‘tinh thần dân quyền’ thì đầu óc mới không còn ngu dại (quan liêu), không còn ngồi lì trên cao (tham quyền, cố vị), chỉ ưa dùng hạ sách để trị quốc gia (lấy quyền to sức mạnh của chúng để đè ép cản trở ý muốn tấn hóa của dân), đè nén quyền dân, o ép không gian dân sự – chính trị của người dân. Chỉ khi kế tục và thực thi ‘tinh thần dân quyền’ thì khi đó giáo hoá người dân mới được mở ra, bản lĩnh và trí tuệ của chính đảng mới được ghi nhận, và khả năng lãnh đạo của đảng mới thực sự được kiểm chứng và có khả năng được kiểm chứng.
Nhưng quan trọng hơn, khi kế tục ‘tinh thần dân quyền’, chính đảng sẽ đưa dân tộc gần hơn với các quốc gia văn minh, mở cửa cho bền vững trong phát triển và chế ngự được nạn lạm quyền, thụ quyền đời đời trong đảng. Ngăn được nguy cơ của một cuộc cách mạng ‘soán ngôi’ khiến chính đảng có thể bị đặt ra ngoài vĩnh viễn vòng pháp luật và lịch sử phát triển của quốc gia.
Và chỉ khi kế tục tinh thần dân quyền thì chính đảng mới dám tự đổi mới mình, hình thành đội ngũ nhân sự theo đúng Quy định 214, trong đó ‘có quan điểm khách quan, toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ thể, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược.’
An Viên
Nguồn : VNTB, 07/02/2020
*******************
90 năm gắn bó máu thịt ?
Nguyên Khang, VNTB, 06/02/2020
Đảng cộng sản Việt Nam có quan hệ xác thịt với nhân dân, nhưng nó phải là xác thịt thực sự chứ không phải máu thịt trong báo cáo. Hãy là một phần của đất nước, không cố tách rời và tìm cách cai trị nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục quấy rối và giam giữ những người bất đồng chính kiến, gọi họ là "tội phạm", buộc tội họ trong nhà tù khắc nghiệt hoặc nói xấu họ trên phương tiện truyền thông. Vậy đó có phải là gắn bó máu thịt ?
Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập vào ngày 3/2. Nhưng trong thập kỷ tới, liệu vẫn có thể tiếp tục tổ chức kỷ niệm trong thực tế ?
Hà Nội, trung tâm chính trị quốc gia, có thời tiết rất khác vào đêm giao thừa.
Sự bất thường của thời tiết thậm chí còn khiến người vô thần co rúm người lại, lắng nghe sự giận dữ của trời và đất.
Trong triều đại lịch sử, bất cứ khi nào thời tiết bất thường, đều cho thấy vì chính sách của triều đại quá độc đoán và bất nhân tâm. Do đó, giận dữ của trời và đất là không thể tránh khỏi, để lại nhiều bài học về sự trỗi dậy từ người dân, giữ gìn chính quyền cho người dân và xóa bỏ đau khổ.
Đảng cộng sản Việt Nam có lịch sử 90 năm tại đất nước này và đã đạt được nhiều thành tựu cho đất nước này. Tuy nhiên, với sự tham nhũng đảng, những thành tựu này ngày càng trở nên vô giá trị, và ngày càng rõ ràng rằng Đảng cộng sản Việt Nam đã giành được một số chiến thắng trong việc điều chỉnh đảng, nhưng đã rơi vào các cuộc chiến tranh đảng phái. Chính phủ. Trong ngắn hạn, điều này sẽ làm cho đảng mạnh hơn, nhưng về lâu dài, nó tước quyền của chính phủ trong việc lắng nghe người dân, do đó đặt ra tiêu chuẩn cho căn bệnh "kiêu ngạo cộng sản".
Trong một bài phát biểu vào ngày 3 tháng 3, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng Đảng cộng sản là máu thịt của nhân dân và Đảng cộng sản có sức mạnh vô địch. Nhưng câu hỏi là, Đảng cộng sản có thực sự gắn bó máu thịt không ? Hay tất cả những suy nghĩ này được viết và nghĩ ra từ trên tháp vàng, nơi những lời khen ngợi vây quanh nó, nhưng những tiếng nói của mọi người không thể chạm tới.
Nếu đảng gắn bó máu thịt với nhân dân cho nhân dân, không ai có thể nghi ngờ về câu chuyện về Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bách chiến, bách thắng trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, ngay cả tiếng nói xã hội đóng góp cho đảng thông qua các kỳ đại hội cũng bị đảng bác bỏ hoàn toàn với quy chụp, đó là một hệ tư tưởng phản động, chống Đảng và chống nhà nước, thế thì gắn bó máu thịt làm sao ?
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục quấy rối và giam giữ những người bất đồng chính kiến, gọi họ là "tội phạm", buộc tội họ trong nhà tù khắc nghiệt hoặc nói xấu họ trên phương tiện truyền thông. Vậy đó có phải là gắn bó máu thịt ?
Nếu chính sách hoặc chính sách của bên Đảng cộng sản Việt Nam sai, đảng coi đó là "bài học quý giá", nghĩa là Đảng cộng sản Việt Nam luôn tự coi mình là đúng. Không ai sẽ đổ lỗi cho một đảng chính trị không phạm sai lầm, nhưng những lỗi gây ra bởi việc từ bỏ những lời phê bình trực tiếp, trung thực đến mức rất khó nghe, thì đảng cần phải nhìn lại chính mình.
Định mệnh có liên quan, chúng ta hãy nhìn vào Trung Quốc. Những gì đã xảy ra ở Trung Quốc là một bài học đắt giá cho Việt Nam, và đây chính xác là những gì mà chính Đảng cộng sản Việt Nam nên làm để điều chỉnh quyền lực của mình.
Gần đây, "Báo sạch" đã đăng tải một bài phát biểu của ông Xu Zhangrun, cựu giáo sư của Đại học Thanh Hoa (Trường đào tạo chính trị ưu tú Trung Quốc). Ông là một nhà phê bình thường xuyên đối với lãnh đạo Tập Cận Bình, người đã khẳng định trong một bài báo ngày 4 tháng 4 : "nhân dân phẫn nộ không còn sợ hãi nữa".
Bài viết của ông đề cập rằng "dịch bệnh lan tràn là vì một chế độ vô năng, đặc biệt là bại hoại về đạo đức, sẵn sàng hy sinh hàng triệu người dân để bảo vệ quyền lực của mình".
Ý thứ nhất, Chính trị bại hoại, đạo đức chính thể khánh tận. Bảo vệ gia nghiệp và quyền lực là tư duy cốt lõi của chính thể hiện nay.
Ý thứ hai, Chính trị nội đình lên ngôi vì sự tập trung hóa quyền lực, đảng làm thay chính phủ.
Ý thứ ba, Cai trị đất nước và khống chế người dân thông qua chủ nghĩa toàn trị dữ liệu lớn và chủ nghĩa khủng bố Wechat.
Những ý chính này dường như mô tả có phần chính xác vào những gì đang xảy ra ở Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Đồng Tâm vào ngày 9 tháng 1 và cách "chỉnh đốn đảng" thông qua quan điểm và chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn. Nó mô tả đầy đủ và chính xác bản chất và những thay đổi bên trong của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam vẫn có cơ hội vẫn kỷ niệm 100 năm thành lập nếu giới tinh hoa chính trị chú ý đến bản chất lâu dài của các quy định hiện hành của đảng, và xây dựng mô hình đạo đức và nhân văn của đảng. Phần lớn nguyên liệu để xây dựng đến từ cách các chính trị gia cấp cao đối thoại với những người bất đồng chính kiến, không khoan dung với tham nhũng và sửa sai với những sai lầm trong quá khứ.
Đảng cộng sản Việt Nam có quan hệ xác thịt với nhân dân, nhưng nó phải là xác thịt thực sự chứ không phải máu thịt trong báo cáo. Hãy là một phần của đất nước, không cố tách rời và tìm cách cai trị nhân dân.
Nguyên Khang
Nguồn : VNTB, 06/02/2020
******************
Đảng 90 xuân – Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng
Nguyễn Hùng, VOA, 06/02/2020
Vậy là chú Đảng đã 90 xuân. Gọi là chú vì ‘Bác Hồ’ sinh trước cả Đảng bốn thập niên mà cũng vẫn chỉ là hàng bác thôi.
Bảng so sánh thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và của quốc gia ASEAN nawm (thua cả Campuchia, chỉ hơn Lào và Myanmar).
Chú Đảng mới 15 tuổi đã đi cướp chính quyền lần một. Lúc lên 45 tuổi lại cướp thêm lần hai khi đánh chiếm Sài Gòn. Kể từ đó tới nay chú vẫn khư khư ôm của cướp được mà chưa trả lại cho người dân. Khi chú Đảng đi cướp lần một vào năm 1945, đất nước mới có trên 23 triệu dân. Vào lần cướp thứ hai hồi năm 1975 dân số tăng gấp đôi lên 46 triệu và giờ đã đạt gần 97 triệu. Gần 100 triệu người nay đứng nhìn đất nước chạy mướt mải mồ hôi mà còn phải nhiều năm nữa mới đuổi kịp các quốc gia ít dân số hơn như Thái Lan (70 triệu) hay Malaysia (32 triệu).
Theo các số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới mà số liệu chỉ có tới năm 2015, khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam với Thái Lan và Malaysia chưa bao giờ được thu hẹp mà ngày càng bị hai nước trong cùng khối ASEAN bỏ xa.
Vào năm 2005, thu nhập bình quân đầu người tính theo đô la Mỹ của Việt Nam, Thái Lan và Malaysia tương ứng là xấp xỉ 700, 2.900 và 5.600. Mười năm sau các con số tương ứng là xấp xỉ 2.000, 5.800 và 10.000.
Như vậy từ mức chỉ kém Thái Lan 2.200 đô la Mỹ hồi năm 2005, 10 năm sau thu nhập của dân Việt Nam đã thua Thái Lan 3.800 đô.
So với dân Malaysia, khoảng cách về thu nhập đã tăng từ mức 4.900 đô la hồi năm 2005 lên 7.000 đô la hồi năm 2015. Vậy mà chú Đảng tuyên truyền cứ như dân ta sắp vượt dân Thái Lan và Malaysia tới nơi.
Thật tình cờ là ở cả Malaysia và Thái Lan, dân chúng đều có hơn một đảng để lựa chọn dù họ cũng không phải là tấm gương sáng về dân chủ. Người dân Malaysia và Thái Lan liên tục có thể đổi đảng cầm quyền nếu họ thấy cuộc sống không được cải thiện theo ý nguyện của họ. Nếu như ở Việt Nam lập ra một đảng mới sẽ bị tù mọt gông như xưa kia các đảng viên cộng sản từng bị đày ra Côn Đảo, dân hai nước ASEAN đang khấm khá hơn Việt Nam có thể thoái mái lập đảng để cạnh tranh với đảng cầm quyền.
Vậy mới nói chú Đảng ở Việt Nam chỉ thích ngồi chơi xơi nước. Bạn hãy hình dung giải bóng đá thế giới chỉ có duy nhất một đội bóng tham gia và giải nào đội đó cũng vô địch. Nếu có hai đội, khả năng thắng cũng vẫn là 50/50. Nhưng nếu có 24 hay 32 đội thì mọi chuyện khác đi. Vậy nên nếu có lựa chọn tội gì họ phải thi đấu. Cứ làm màu thế thôi rồi mình vẫn vô địch.
Chú Đảng chỉ thích những việc nhẹ nhàng, gian khó chú đổ hết lên đầu dân. Mới đây có mỗi việc giải quyết một mảnh đất với dân Đồng Tâm mà chú kéo đến cả mấy ngàn quân mang theo đủ loại vũ khí vào để giết một đảng viên theo đảng gần 60 năm. Lúc kéo quân vào chú chưa có bất kỳ lệnh nào của Viện Kiểm sát để khám nhà, bắt người. Ừ thì đêm tối chú dựng chuyện người ta khiêu khích rồi chú xông vào. Người chú giết, tài liệu đất đai chú mang đi, ô tô chú cũng cho cẩu đi nốt. Nếu người ta tấn công chú thật thì họ mang tài liệu ra ném và ô tô ra đâm vào chú sao ? Vậy là đủ hiểu chú làm càn rồi.
Còn cái việc mà đáng ra chú phải làm cho tốt thì chú lại làm như mèo mửa. VụThượng uý Tuấn "khỉ" dùng AK bắn chết năm người, chú cũng cho cả trăm quân đem theo xe bọc thép vây bắt mà từ 29/1 tới nay vẫn chưa tìm được tay súng.
Trước những sự việc tày trời vừa xảy ra, các đảng viên dĩ nhiên là im lặng. Có ai dám mở miệng đòi điều tra làm sao để xảy ra cái chết của bốn người ở Đồng Tâm ? Đã có ai lên tiếng đòi điều tra xem trong lực lượng công an còn có bao nhiêu Tuấn "khỉ" tiềm năng ? Nếu có một đảng đối lập, chắc chắn họ sẽ tận dụng tối đa những yếu kém như vừa rồi của chính quyền để có thêm cơ hội thắng cử vào lần tới. Cũng có khả năng nho nhỏ là những vụ như Đồng Tâm sẽ làm giảm tính chính danh của một số uỷ viên Bộ Chính trị và họ có thể gặp bất lợi trong năm trước đại hội đảng. Người ta cũng hy vọng con số bốn uỷ viên gốc công an trong mười uỷ viên Bộ Chính trị hàng đầu sẽ không lặp lại tại đại hội vào năm sau. Nhưng gần như không có hy vọng đại hội 13 của chú Đảng sẽ trả lại ít nhất là một phần những gì cướp được trong 90 năm qua trong đó có quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền ra báo, lập đài phát thanh và truyền hình cũng như quyền bình đẳng trước hiến pháp và pháp luật. Nếu ai trong hàng ngũ chú Đảng cũng chọn việc nhẹ nhàng cho mình và gia đình mình thì gian khổ hiển nhiên là dành cho người dân Việt Nam rồi.
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 06/02/2020
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh có mối quan hệ nhân quả như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này, bài viết lần lượt trình bày :
- Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam.
- Hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh
Ông Hồ Chí Minh.
I. Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam
1. Bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc vào những thập niên đầu Thế kỷ 20 đã là bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khởi sự và tiếp nối kể từ sau khi thực dân Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng vào năm 1858 mở đầu cuộc xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Như chúng tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây trên diễn đàn này nhan đề "Bối cảnh lịch sử đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam". Theo đó, cho đến lúc Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, đã có các cuộc chống Pháp dưới sự lãnh đạo các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng "Thần quyền Thiên Mệnh" Đông phương làm nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế, đã phát động và tiến hành qua các phong trào Cân Vương, Văn Thân, Đông Du… Tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây làm nến tảng cho mục tiêu giành độc lập để thiết lập chế độ dân chủ lập hiến, tiêu biểu là sự ra đời của một chính đảng quốc gia đầu tiên "Việt nam Quốc Dân Đảng" (1924) với lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Yên Báy do Viện Nam Quốc Dân Đảng thực hiện thất bại vào năm 1930, cùng năm với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thế là từ đó và sau đó, công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ngoài các nhà ái quốc, các chính đảng quốc gia thành lập sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Nhân xã Đảng… lãnh đạo kháng chiến theo ý thức hệ quốc gia truyền thống trước đó, có thêm vai trò lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, một người theo chủ nghĩa yêu nước trước khi trở thành người cộng sản Việt nam đầu tiên, đứng ra thành Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, trước những thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó do các nhà ái quốc lãnh đạo theo hệ tư tưởng quân chủ Phương Đông hay dân chủ tư sản Phương Tây (gọi chung là ý thức hệ quốc gia) đều thất bại ; năm 1911 Nguyễn Tất Thành, một người yêu nước, không học vị(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí minh là một) đã xuất dương ra đi tìm đường cứu nước. Sự ra đi này xuất phát từ nhận định cho rằng các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vì vậy nhà ái quốc Nguyễn Tất Thành thấy cần ra đi tìm đường cứu nước.
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước thuộc địa cũng như đế quốc tư bản ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Nguyển Tất Thành đã phát hiện ra chân lý : Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới của ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc, khi đứng tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (trong Luận Cương chính trị Tháng 4) của Lênin và từ tư tưởng đó, đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã hét to một mình trong phòng trọ ở Paris Pháp Quốc, rằng "Đây rồi, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản…".
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) (*) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.Ông nhấn mạnh : cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo ; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Trong thời gian này, ông Hồ cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Ông lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng minh hội (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cộng sản quốc tế, chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Vẫn theo tài liệu của Đảng cộng sản Việt Nam Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức đảng (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) thành Đảng cộng sản Việt Nam (**). Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện : Chánh cương và Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Hệ quả con đường cứu nước của lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh
Con đường cứu nước mà ông Hồ Chí Minh tìm được là "con đường cách mạng vô sản" mà Đảng cộng sản Việt Nam do ông thành lập đã là công cụ để thực hiên con đường này. Chính cương và sách lược tóm tắt được công bố trong Đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận rõ hai giai đoạn cách mạng nhằm thành đạt hai mục tiêu :
1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải quyết mâu thuẫn dân tộc với thực dân pháp, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trên thực thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện bằng chiêu bài ngụy dân tộc để khai thác triệt để "Chủ nghĩa yêu nước" hầu khơi động tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã thành công, trong vai trò chủ đạo kháng chiến, đã đánh đưổi được thực dân Pháp sau cuộc kháng chiến 9 năm sau cùng (1945-1954). Thế nhưng không phải giành độc lập cho dân tộc, mà chỉ cướp được chính quyền trên một nữa nước Miền Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt mình trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế (vì ông Hồ đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thề tách rời của cách mạng vô sản hay cộng sản quốc tế mà !). Đồng thời "Đảng ta" củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn, vẫn dưới ngọn cờ "ngụy dân tộc" phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa nửa nước miền Nam thuộc chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại, sau là Việt Nam Cộng Hòa, đưa đất nước vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là đưa cả nước vào một cuộc "chiến tranh cốt nhục tương tàn", đất nước tan hoang, vì bom đạn ngoại bang thuộc cả hai phe cầy nát, giết hại hàng triệu dân Việt trên cả hai chiến tuyến đối đầu, nhân dân đói khổ lầm than vì chiến tranh, gây hận thù trong lòng dân tộc, di hại nghiêm trọng toàn diện, lâu dài cho đất nước và dân tộc… Vậy hệ quả con đường ông Hồ đã chọn và được Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện như thế là "con đường cứu nước" hay là "con đường phá nước" ?
2. Cách mạnh xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp thực hiện xã hội "xã hội chủ nghĩa" và xác định cuộc cách mạng này là một bộ phận của cách mạng vô sản tức cộng sản quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Thực hiện thế nào, hệ quả ra sao ?
Chẳng cần viết ra thì những người Việt Nam từng sống và là nạn nhân trong cuộc chiến tranh "Nồi da sáo thịt" nay còn sống đều đã biết. Sau khi cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước miền Nam, thực hiện chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã gây khốn khổ, kinh hoàng một thời cho nhân dân thế nào rồi (1975-1995)… Nhất là 10 năm đầu (1975-1986) thực hiện triệt để các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, độc tài toàn trị về chính trị, quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất, kinh doanh, tập thể hóa mọi lực lương lao động trên mọi lãnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ… Hậu quả là mọi quyền dân chủ dân sinh, nhân quyền bị bóp nghẹt, kinh tế bị đình đốn, dẫn đến thảm trạng nhân dân cả nước không đủ lương thực, thực phẩm với chế độ tem phiếu (trừ giai cấp cán bộ đảng viên có chức, có quyền có tiêu chuẩn riêng…). Tất cả đã phải sống trong cảnh thiếu thốn, đói khổ lầm than, ; cả nước phải ăn độn ngô, khoai, sắn và cả bobo, một thực phẩm vốn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ lúc đó để cứu nguy. Đảng cộng sản Việt Nam vội thi hành "Chính sách đổi mới" (1985-1995) theo gương Liên Xô. Thế nhưng "Đổi mới" cũng không cứu vãn được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết" vào năm 1991 sau hơn 70 năm xây dựng ; còn "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thì tồn tại thêm thời gian đến hôm nay nhờ kịp thời theo gương Trung Quốc "mèo trắng (tư bản) hay mèo đen (cộng sản) không quan trọng, miễn là mèo ấy bắt được chuột". Cộng đảng Việt Nam bắt đầu thực hiện "Chính sách mở cửa" làm ăn với các nước "tư bản không rãy chết" trong đó mở đầu với cựu thù "đế quốc Mỹ" bãi bỏ cấm vận, thiết hệ quan hệ ngoại giao và trở thành "đối tác" thay vì "đối phương" với Việt Nam.
Từ đó và nhờ đó Việt Nam đã phát triển toàn diện (1) về kinh tế nhờ"con đường kinh tế thị trường, định hướng tư bản chủ nghĩa" (chứ không phải định hướng xã hội chủ nghĩa như "Đảng ta" tuyên truyền lừa mị để che đậy sự thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội) mà trình đô phát triển ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện để sau 25 năm (1995-2020) Việt Nam đã có bộ mặt phồn vinh như hôm nay. (2) về chính trị, Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trong "Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường" (thuật ngữ người viết thường dùng) các diễn biến sau đây tịnh tiễn xẩy ra :
Một là, các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hóa từng bước để trở thành các nhà tư sản hay "tư bản đỏ" ;
Hai là, nhà nước Việt Nam đã và đang được tư bản hóa bằng chính sách "giải tư" từng bước làm tiêu vong cơ cấu kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa còn sót lại, tiến đến cơ cấu kính tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngày một hoàn chỉnh, với các quyền sở hữu tư nhân về vốn, công cụ, phương tiện sản xuất…
Ba là, dân chủ hóa từng bước, nhờ đó người dân ngày một được nhà cầm quyền trả lại các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tuy còn nhiều hạn chế…Cả ba tiến trình này ai cũng có thể kiểm chứng được qua thực tế diễn ra 25 năm qua (1995-2020).
III. Thay lời kết
Vậy thì, đến dây có thể khẳng đinh qua hệ quả thực tiễn, con đường mà lãnh tụ Cộng đảng Hồ Chí Minh chọn vào năm 1920, rồi đứng ra thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 như công cụ thực hiện 90 năm qua (1930-2020) có đúng như sự vui mừng sau khi đọc được "Luận cương chính trị Tháng 4" (****) của lãnh tụ Cộng đảng Bolsevik Nga Vladimir Lenin không, rằng "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (hay cộng sản cũng thế)" ?
Hay thực tế phải nói là, vì ông Hồ đã chọn lầm "con đường cách mạng vô sản" nên đã là "con đường phá nước". Vì con đường ấy đã không giải phóng được dân tộc mà đã xích hóa dân tộc vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc đỏ Liên Xô" (với sự cạnh tranh của đế tân quốc đỏ Trung Quốc) và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc Trắng Hoa Kỳ". Vì nếu ông Hồ không chọn lựa con đường này và không thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, thì chắc chắng tình hình Việt Nam sẽ biến chuyển theo một chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước.
Một cách cụ thể là Việt Nam đã có độc lập rất sớm (Khi Nhật trao trả độc lập cho vua Bảo Đại với chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 3/1945) và nhân dân Việt Nam đã không phải hy sinh quá nhiều xương máu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp sau cùng (1945-1954).Vì nhiều nước thuộc địa trong vùng cũng như trên thế giới đều lần lượt được độc lập sau Thế Chiến II không cần kháng chiến (do chủ nghĩa thực dân cũ bước vào thời kỳ suy tàn). Sau đó, cũng đã không xẩy ra cuộc chiến tranh Quốc-Cộng "cốt nhục tương tàn" khốc liệt kéo dài 21 năm sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước (7/1954) do Đảng cộng sản Việt Nam phát động, tiến hành, đã làm tan hoang đất nước, giết hại nhiều sinh linh dân Việt.
Và, sau cùng, nhân dân Việt Nam đã không phải trải qua thời kỳ khổ nạn hơn 20 năm làm vật tế thần cho công cuộc thử nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng trên cả nước, vốn là "con đường cứu nước" mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn. Thế nhưng thực tế đã trở thành "con đường phá nước" gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước và dân tộc thế nào, chẳng cần kể ra, thì chắc quốc dân Việt Nam ai cũng biết, nhất là những ai từng là nạn nhân của "con đường phá nước" này.
Houston, ngày 30/2/2020
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/02/2020
(*) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ởMoskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độtư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế (tiếng Anh : The International Workingmen's Association - IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ởLuân Đôn vào ngày 28/9/1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.
Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại Châu Âu, được thành lập ngày 14/7/1889 ởParis, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.. Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Phong trào công nhân bị tổn thất nặng. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Tuy rằng vẫn có nhiều thành viên tiếp tục đi theo con đường của Engels, do không được tiến hành triệt để nên không thu được kết quả. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ.
(**) Theo lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam thì lúc đầu lấy tên Đảng cộng sản Việt Nam một thời gian ngắn thì đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương để đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến trên cả 3 nước Đông Dương thuộc Pháp là Việt-Miên-Lào. Sau lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam cho đến thời kỳ kháng chiến 9 năm thì muốn dấu mặt, đã tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam, lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, như mặt nạ của Đảng cộng sản Việt Nam để chủ đạo kháng chiến dưới ngọn cở "Giải phóng dân tộc". Sự giấu mặt này là do tình hình lúc đó thế giới coi cộng sản là một hiểm họa cần ngăn chặn tiêu diệt, hình thành cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa các nước tư bản đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước cộng sản đứng đầu là Liên Xô, một chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).
Đối với nhân dân trong nước chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ và là nỗi kinh hoàng vì được nghe nói cộng sản là "chủ nghĩa Tam vô" (vô tổ quốc, vô gia đình và vô tống giáo), rất tàn ác, nên sợ và tìm cách xa lánh cộng sản. Năm 1952 đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và dùng tên này trong suốt thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) để tiếp tục "ngụy dân tộc" tiến hành "Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam (30/4/1975), mới lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam, đưa cả nước "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc… đến sự sụp đổ hoàn toàn" sau 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng thất bại hoàn toàn (1975- 1995).
(***) Luận cương chính trị tháng Tư tên nguyên thủy là "Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay’, là một văn kiện có tính cương lĩnh do V. I. Lenin soạn thảo và trình bày vào Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lenin đã đến Petrograd trình bày trước Trung ương Đảng Bolshevik một bản báo cáo. Bản luận cương được xuất bản trên báo Sự Thật (Pravda) số 26 ngày 7/4/1917.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng được ‘yên nghỉ’ thực sự
An Viên, VNTB, 06/10/2019
Ông Nguyễn Đình Bin, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam, hôm 04/10 công khai đề nghị các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam thực hiện đúng di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Di chúc, cố Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn được chôn cất đàng hoàng chứ không muốn bị bêu xác cho người bàng quang đến xem
"Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. […] Tro thì chia làm ba phần, bỏ vào ba hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. […] Trên mả, không nên bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi" – Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Blogger Trương Huy San thông tin thêm, ngoài ông Nguyễn Đình Bin, thì nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, ông Phạm Quang Nghị cũng có đề xuất liên quan đến ‘hỏa táng thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh’ nhằm thực hiện đúng ‘di chúc của Người’ trong một cuộc hội thảo văn hóa diễn ra tại Hà Nội trong năm nay.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được cho là phản ánh một ý chí chủ quan và cá nhân của một tập thể người, hoàn toàn không tôn trọng ý chí – nguyện vọng người đã mất. Sự tồn tại của Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho toàn bộ những quan điểm ‘cần – kiệm – liêm – chính – chí – công – vô – tư’ của ông bị biến dạng. Lãnh tụ một thời của người Cộng sản hoàn toàn bất lực trước những người từng coi ông là ‘Bác, Cha già’.
Lăng Chủ tịch vẫn nằm trong diện cung cấp của vốn đầu tư công, và tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng ngân sách quốc gia.
Ông Nguyễn Đình Bin và ông Phạm Quang Nghị có lý khi đề nghị/ yêu cầu các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam thực hiện đúng yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn sống, trong bối cảnh mà nguồn tiền ngân sách đầu tư cho các hạng mục công khác đang ‘cần – kiệm’. Và sự tồn tại một thi hài trong hệ tín ngưỡng, phong tục tập quán Việt Nam ‘sống ở, thác về’ là điều không cần cần thiết.
Trường hợp thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục bị giữ trong lăng theo ý chí lãnh đạo, thì vô hình chung, chính những nhà lãnh đạo hiện thời đã biến Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành một Stalin – một người từng cai trị Liên Xô bằng quả đấm sắt và hình thành chủ nghĩa cá nhân đặc sệch.
‘Chủ nghĩa cá nhân’ từng bị Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án trong suốt quãng đời của mình. Nổi tiếng nhất là di huấn và là tác phẩm "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân".
Stalin qua đời vào năm 1953, và ông nằm cạnh Lenin trong khu lăng mộ ở Quảng trường Đỏ.
Trong tang lễ của ‘lãnh tụ vĩ đại’, Chính quyền Xô Viết đã vinh danh ông bằng ngôn ngữ thống-thiết-cộng-sản. "Người là trái tim của đồng đội và là người kế tục thiên tài của Lenin, nhà lãnh đạo và nhà giáo khôn ngoan của Đảng Cộng sản và Liên Xô".
Tuy nhiên, trong vài năm sau cái chết của Stalin, nhà cầm quyền Liên Xô đã thống nhất lên án nhà lãnh đạo tàn bạo. Và vào tháng 10/1961, thi thể của ông đã được đưa ra khỏi Quảng trường Đỏ và được an táng ở một ngôi mộ gần đó.
Đưa thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏa táng, chính là thực hiện cam kết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và giữ gìn đạo đức cách mạng của ông. Và thực tế, những nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải nhìn nhận sâu sắc điều này, thực thi điều này trong thực tiễn, thay vì qua sự rao giảng không hồi kết.
Hãy để cái chết của một lãnh tụ bình dị như vốn có trong di chúc của ông.
Hãy đến với nước Mỹ, nơi có nghĩa trang quốc gia Arlington, một ngôi mộ màu trắng ngoài trời và được canh gác bởi người lính với 21 bước và 21 giây chờ đợi trước khi trở súng. Ngôi mộ màu trắng đơn sơ tượng trưng cho 2.111 chiến sĩ vô danh trong nội chiến Nam-Bắc ở Mỹ.
Và tại đài tưởng niệm có khắc dòng chữ : "Sau khi chiến tranh kết thúc, hài cốt của họ không thể xác định được. Nhưng tên và cái chết của họ được ghi nhận trong văn khố nước Mỹ, và đồng bào của họ vinh danh họ với lòng biết ơn như đối với các liệt sĩ. Cầu mong cho họ yên nghĩ trong sự bình an".
Vào năm 2016, Giáo sư Ngô Bảo Châu trong dịp 126 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ trên Facebook cá nhân của mình.
"Có quý mến ai thì mong họ sớm thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta".
Quả thực, ‘vinh danh và biết ơn’ không phải vì lăng mộ to và đẹp, mà bởi ‘tên và cái chết đã được ghi nhận’ trong tâm thức và sách vở của thế hệ về sau này. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng được hưởng điều đó, ít nhất là ‘yên nghĩ trong sự bình an và toại tâm (nguyện’.
Tôn trọng di chúc, đó là sự tôn vinh không ngừng đối với nhà lãnh đạo, những người với lòng khiêm tốn về cái chết của chính mình trong lời nhắc cuối cùng.
An Viên
Nguồn : VNTB, 06/10/2019
*****************
Cựu ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị cho rằng : hỏa táng thi hài "Bác" là thực hiện di chúc và "Người"
Huy Đức, Osinhuyduc, 05/10/2019
Hôm qua, sau khi đăng đề nghị hỏa táng thi hài Hồ Chí Minh của thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Đình Bin, tôi mới biết là trước đó, một nhà lãnh đạo cao cấp hơn của Đảng, Ủy viên Bộ chính trị 2 khóa (X & XI), Phạm Quang Nghị cũng đã công khai đề nghị hỏa táng thi hài "Bác" trong "Hội thảo 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019)".
Từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa, ông Phạm Quang Nghị đặt vấn đề rất chính trị. Ông cho rằng : "Phần cuối Di chúc Người viết 'Về việc riêng'. Nói về việc riêng nhưng cũng là những mong muốn đem lại lợi ích cho dân, cho nước".
Ông viết tiếp : "Người dùng từ 'yêu cầu' để nhấn mạnh mong muốn của Người : Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hỏa táng". Tôi mong rằng cách "hỏa táng" sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh lai không tốn đất ruộng". Người còn gạch dưới hai từ"đốt đi" như để con cháu không phải phân vân, lo ngại khi thực hiện những lời Người dặn".
Ủy viên Bộ chính trị Phạm Quang Nghị cho rằng, đây là thời điểm chín muồi để thực hiện tiếp phần cuối cùng trong Di Chúc, phần nói về "việc riêng". Ông cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cân nhắc rất kỹ khi di chúc điều này. Ý kiến của ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị không chỉ được đọc công khai trong Hội thảo mà vừa mới đây, còn được đăng lại trên tạp chí khoa học lịch sử Xưa & Nay. Chắc chắn trong Đảng hẳn đã có rất nhiều người suy nghĩ như ông Phạm Quang Nghị.
Các giải pháp này trên mạng xã hội đã từng nói tới, nhưng lần đầu tiên được đề nghị chính thức bởi một nhà ngoại giao khả kính, một chính trị gia cao cấp - nguyên ủy viên trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao - ông Nguyễn Đình Bin : Hỏa táng thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh ; Làm tượng sáp Chủ tịch đang nằm ngủ thay thế thi hài Người hiện tại trong Lăng ; Giữ gìn Lăng như hiện tại (sẽ là Đền thờ, Tượng đài, Di tích lịch sử quốc gia).
Huy Đức
Nguồn : Osinhuyduc, 05/10/2019
*******************
Kiến nghị về thực hiện đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nguyễn Đình Bin, 30/07/2019
Thưa các bạn làng Phây,
Vừa qua, tôi có trình lên Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng & Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam và Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiến nghị với nội dung nói trên.
Kiến nghị trình Quốc hội tôi đã gửi tới bà Chủ tịch và tất cả các vị Lãnh đạo quốc hội, cũng như tới các vị Trưởng đoàn hoặc Phó Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội chuyên trách 63 tỉnh, thành trong cả nước, với lời đề nghị làm ơn giúp cho sao và gửi tới tất cả các vị Đại biểu quốc hội trong Đoàn.
Tôi đã nhận được công văn số 299/BDN ngày 13/08/2019 của Ban Dân nguyện của Quốc hội, do Trưởng ban Nguyễn Thanh Hải ký, thông báo "Chủ tịch Quốc hội đã nhận được thư kiến nghị" và "xin trân trọng gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khỏe của Chủ tịch Quốc hội đến ông cùng toàn thể gia đình".
Hôm nay, đúng ngày giỗ lần thứ 55 ông nội tôi, người đã luôn răn dậy tôi "Nhân bất học bất tri lý", "Đói cho sạch, rách cho thơm", "Giấy rách phải giữ lấy lề" và Trung ương Đảng và Quốc hội sắp họp, tôi xin chia sẻ toàn văn kiến nghị đã trình Quốc hội.
Xin mời bạn nào quan tâm :
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2019
Kính gửi :
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch và các vị Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ;
- Bà Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Ủy ban Thường vụ, Trưởng ban Dân nguyện ;
- Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Ủy viên Ủy ban Thường vụ, Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội ;
- Các vị đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Trước hết, tôi xin gửi tới Bà Chủ tịch và các Quý vị lời chào trân trọng.
Tôi là Nguyễn Đình Bin, cử tri, hiện cư trú tại phòng…, Nhà…, Khu Đô thị mới Mỹ Đình, Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Thủ đô Hà Nội.*
Thực hiện nghĩa vụ và quyền công dân đã được hiến định, sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc nung nấu từ rất lâu, hôm nay tôi viết kiến nghị này kính trình lên Quốc hội xem xét.
Tôi nghĩ : nay là thời điểm thích hợp để nêu lên và giải quyết vấn đề này, nhân dịp sắp tới Giỗ lần thứ 50 Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là kỷ niệm 74 năm Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở đầu Thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, và đúng nửa thế kỷ thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người.
Thưa Bà Chủ tịch và các Quý vị,
Chúng ta đều đã biết :
Về việc riêng của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc :
"Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì điện táng càng tốt hơn.
Tro thì chia làm ba phần, bỏ vào ba hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão".
Vậy mà, lời "yêu cầu" ấy của Người, 50 năm đã trôi qua, đến nay vẫn chưa được thực hiện, do "Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác" (thông báo của Bộ Chính trị khóa VI ngày 19/8/1989).
Trước tình hình thực tế đó, tôi xin trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét một giải pháp để vừa thực hiện được đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lại vẫn tôn trọng và tiếp tục thực hiện được tinh thần cốt lõi quyết định nói trên của Bộ Chính trị khóa III, mà lại thực hiện một cách tốt hơn.
Giải pháp này sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp, đồng thời khắc phục được một số khiếm khuyết của cách làm cho đến nay, và tôi tin sẽ là giải pháp vĩnh viễn.
Tôi xin phép trình bầy cụ thể giải pháp này như sau :
1. Thực hiện đúng Di chúc, tiến hành hỏa táng thi hài Chủ tịch hiện đang được gìn giữ tại Lăng, chia tro thành ba phần đều nhau, để vào ba quách và an táng đúng như Người đã "yêu cầu".
2. Làm tượng sáp Chủ tịch đang nằm ngủ để thay thế thi hài Người hiện tại trong Lăng. (Công nghệ làm tượng sáp trên thế giới nay đã đạt mức tuyệt hảo, hệt như người thật).
3. Giữ gìn Lăng như hiện tại. Lăng sẽ là Đền thờ, Tượng đài, Di tích lịch sử quốc gia rất đặc biệt, gắn với các sự kiện lịch sử oai hùng, khắc ghi công trạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam, nơi nhân dân ta và bạn bè quốc tế tiếp tục được đến thăm viếng Người, để mãi mãi tôn vinh Người.
4. Chọn ba ngọn đồi ở ba miền Bắc, Trung, Nam, tốt nhất, đẹp nhất theo phong thủy và cảnh quan, lại thuận tiện cho mọi người tới thăm viếng, để an táng ba quách đựng tro hài cốt Người và xây dựng Đền thờ Người thật tôn nghiêm, thể hiện đúng công lao to lớn, đạo đức mẫu mực, nhân cách thanh cao của Người.
Đương nhiên mọi việc nói trên sẽ được thực hiện theo đúng thủ tục tâm linh truyền thống của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân ta tôn thờ như một vị Thánh. Ở nước ta cũng như trên thế giới có cả tượng Phật nằm. Nên, tượng sáp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang nằm ngủ, được thực hiện theo đúng thủ tục tâm linh truyền thống của dân tộc như vừa nói đối với tượng Phật, tượng các vị thánh, vĩ nhân… thì cũng linh thiêng như các tượng khác của Người đang được thờ tại các Đền, Chùa, Khu di tích lịch sử, Bàn thờ… trên đất nước ta. Không có điều gì phải băn khăn cả.
Thực hiện giải pháp này sẽ đem lại các điều tốt đẹp sau :
1. Sau 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cuối cùng, lời Người " yêu cầu" về việc riêng trong Di chúc đã được thực hiện, khắc phục được khiếm khuyết cho đến nay là đã không làm như vậy. Và thế là nay Người được toại nguyện.
2. Cũng theo tín ngưỡng dân gian, từ nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu sẽ thực sự được " mồ yên, mả đẹp", thực sự được siêu thoát và yên nghỉ vĩnh hằng Nơi miền Cực lạc. Như vậy, sẽ không còn điều gì phải ưu phiền nữa. Quốc sẽ được Thái, Dân sẽ được An.
3. Sẽ tiết kiệm cho ngân sách quốc gia hàng năm (không cần chi phí để giữ gìn thi hài Người nữa, Ban quản lý Lăng sẽ gọn nhẹ hơn nhiều, chỉ cần một bộ máy đủ để bảo vệ, quản lý Lăng và hướng dẫn khách đến viếng). Như thế, cũng là làm theo lời dậy của Người về thực hành "cần, kiệm…". Dùng khoản tiết kiệm được ấy để hàng năm làm các việc thể hiện được tình cảm đặc biệt của Người ghi trong Di chúc dành cho các cụ phụ lão và các cháu thiếu niên, nhi đồng, thì lại càng có ý nghĩa cao đẹp và thiết thực biết bao.
4. Nhân dân ta và bạn bè trên thế giới đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lăng sẽ được chiêm ngưỡng Người như lúc Người sinh thời, một niềm hạnh phúc mà cho đến nay không thể có được với thi hài Người hiện tại. Hơn nữa, mọi người sẽ được đến quanh năm chứ không phải như tới nay, hàng năm Lăng phải đóng cửa một thời gian để bảo dưỡng thi hài Người.
5. Ngoài Lăng ở Thủ đô Hà Nội, nhân dân ta và bạn bè quốc tế sẽ có thêm ba Đền thờ Người nữa để đến thăm viếng ở ba miền đất nước, lại thuận tiện hơn cho người bản địa, đúng theo mong muốn và quan điểm quần chúng của Người. Hơn thế nữa, đó sẽ là ba địa danh lịch sử mới, không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh tôn vinh Người mà còn cả về văn hóa, tham quan, du lịch.
6. Việc làm này rất hợp lòng dân, thể hiện rõ tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Quốc hội, đã lắng nghe và đáp ứng đúng nguyện vọng sâu xa, chính đáng từ rất lâu rồi của nhân dân, sẽ tác động mạnh mẽ, góp phần khôi phục niềm tin, nâng cao uy tín của Quốc hội và Lãnh đạo đất nước trước quốc dân và thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh đang tiến tới Đại hội Đảng XIII, việc làm này, cùng với đẩy mạnh chống tham nhũng, sẽ tạo ra một không khí phấn khởi mới trong cả nước, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta hăng hái tham gia thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Tôi cũng hiểu Quốc hội đã có chương trình làm việc năm nay, với rất nhiều quốc gia đại sự, và việc này không nằm trong chương trình nghị sự. Song, thực tế cuộc sống cho thấy luôn luôn xuất hiện vấn đề không lường trước đòi hỏi phải được giải quyết. Tôi thiển nghĩ: nửa thế kỷ đã trôi qua, các điều kiện thực sự đã chín muồi, và nay là thời điểm thích hợp nhất, tốt nhất để giải quyết việc này, như tôi đã lý giải ở trên. Và làm việc này cũng là tiếp tục tinh thần đổi mới liên quan đến ngày qua đời và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Bộ Chính trị khóa VI đã khởi xướng, khi quyết định công bố ngày giờ thật sự Chủ tịch qua đời và toàn văn Di chúc của Người, được nhân dân ta rất hoan nghênh.
Tôi tin tưởng rằng : Nếu Quốc hội đưa ra trưng cầu dân ý thì chắc chắn sẽ được cử tri nhiệt liệt hoan nghênh, đồng tình và ủng hộ.
Thưa Bà Chủ tịch và các Quý vị,
Tôi nhận thức rõ đây là một việc hết sức hệ trọng và vô cùng nhậy cảm. Song tôi vẫn mạnh dạn trình lên Cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước kiến nghị này, là do được khích lệ và thôi thúc bởi :
- Lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của bản thân và gia đình tôi đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Những điều tốt đẹp việc làm này sẽ mang lại cho đất nước, cho nhân dân, cho Quốc hội và Lãnh đạo nước nhà, theo thiển nghĩ của tôi, như đã trình bầy ở trên.
- Tinh thần đổi mới mà Quốc hội thể hiện ngày càng mạnh mẽ.
Vậy, xin kính trình Quốc hội xem xét và quyết định theo thẩm quyền hiến định.
Tôi mong sẽ được biết ý kiến của Quốc hội về kiến nghị này.
Xin chúc sức khỏe Bà Chủ tịch, các vị Lãnh đạo và toàn thể các Quý vị Đại biểu Quốc hội.
Trân trọng,
Nguyễn Đình Bin
(đã ký)
Trân trọng đề nghị ông Nguyễn Hạnh Phúc làm ơn cho sao và chuyển giúp kiến nghị này tới tất cả các Quý vị Đại biểu Quốc hội. Xin chân thành cảm ơn.
--------------------------
*Sinh ngày 10/7/1944, tại thôn Thượng Đỗ, xã Thượng Vũ, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Cuối 1953 vào Đội thiếu niên kháng chiến chống Pháp tại quê vùng du kích. 15 tuổi vào Đoàn Thanh niên Lao Động Việt Nam. Vừa tròn 18 tuổi vào Đảng Lao động Việt Nam. Ủy viên Trung ương Đảng khóa VIII. Một trong 10 người được phong hàm Đại sứ đợt đầu tiên. Nguyên : Thứ trưởng Thường trực, Ủy viên Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ; Bí thư Đảng ủy Bộ Ngoại giao ; Phó Bí thư Đảng ủy Khối Đối ngoại trung ương (trực thuộc Ban Bí thư) ; Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam ; Ủy viên các Ban chỉ đạo trung ương về Thông tin đối ngoại và Giải quyết hậu quả chất độc da cam. Đại sứ tại Nicaragua kiêm nhiệm Ecuador và tại Pháp kiêm nhiệm Bồ Đào Nha".
Cảm ơn bạn đã quan tâm.
Nguồn : Osinhuyduc, 04/10/2019
*******************
Bất đồng về chuyện giữ xác cố Chủ tịch Hồ Chí Minh
Diễm Thi, RFA, 05/10/2019
Truyền thông Nhà nước Việt Nam vừa có những bài viết khen ngợi công tác gìn giữ thi hài của ông Hồ Chí Minh suốt 50 năm qua kể từ năm 1969. Song song đó là kêu gọi tiếp tục duy trì công tác này lâu dài và bảo vệ an toàn tuyệt đối cho thi hài người quá cố.
Lực lượng trông coi lăng ông Hồ Chí Minh dọn cỏ trước lăng hôm 7/8/2000. AFP
Lâu nay trong công luận lại có những ý kiến thắc mắc về việc ướp xác cố Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vài năm trước đây trên mạng xã hội lan truyền một phần bản di chúc của ông Hồ Chí Minh về việc hậu sự cùng một nét chữ với phần di chúc được Nhà nước công bố trước đó. Trong đó ông viết :
"Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là "hỏa táng".
Nữ nghệ sĩ Kim Chi, người từng có thời gian dài sống và làm việc ở miền Bắc, cho rằng không nên duy trì thi hài ông Hồ mà nên đem thiêu theo di chúc được công khai như thế:
"Theo tôi thì nguyện vọng của ông Hồ là muốn được thiêu chứ đâu có đòi xây lăng rồi ướp xác quá tốn kém. Mà về phong thủy người ta cũng kiêng lắm, thi hài mà cứ đưa lên đưa xuống hoài thì dân làm sao mà làm ăn được, đất nước làm sao mà phồn thịnh được. Theo những gì về tâm linh thì tôi thấy nên thiêu đi như ông mong muốn. Như vậy vừa tốt cho phong thủy dân tộc, vừa tiết kiệm".
Bà nói thêm rằng bà đồng ý với việc thiêu xác rồi rải tro vì mỗi năm phải nuôi cả binh đoàn bảo vệ, phải bảo trì cái xác rồi nuôi cả đội ngũ những người về hưu, tốn kém nhiều lắm.
Với nhà báo Nguyễn Ngọc Già thì trước hết phải làm xét nghiệm ADN. Ông không tin ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam, vì bút tích của ông Hồ có nét chữ rất xấu ‘như gà bới’ trong khi ông Hồ viết chữ Tàu rất đẹp. Ông đưa ra quan điểm ngắn gọn của mình về nhiều mặt :
"Theo tôi thì trước tiên phải xét nghiệm ADN xác ông Hồ Chí Minh rồi sau đó hãy thiêu. Về mặt tâm linh thì tôi nghĩ rằng muốn thiêu thì phải xem ngày giờ. Về mặt kinh tế thì quá rõ là việc giữ lại cái xác quá tốn kém. Hiện nay ngân sách Nhà nước coi như đã cạn queo rồi thông qua các thứ thuế, rồi xăng dầu, điện nước, phí BOT… đều leo thang. Mỗi tháng tốn hàng đống tiền cho việc bảo quản là có tội với người dân".
Dù hàng trăm đầu báo chính thống trong nước chưa bao giờ đặt ra nghi vấn việc ông Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Ái Quốc, người có thi hài đang nằm trong lăng, có phải là người Việt Nam hay không, nhưng trong những năm qua dấy lên thông tin ông Nguyễn Ái Quốc là người Trung Quốc.
Năm 2008, Đài Loan xuất bản cuốn sách "Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh" (Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử. Người dịch ra tiếng Việt Nam là Thái Văn
Cuốn sách chứng minh ông Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Sinh Cung, mà là Hồ Tập Chương người Đài Loan, Trung Hoa với lý giải ông Nguyễn Ái Quốc bị bạo bệnh, đã mất năm 1932, đảng cộng sản Trung Quốc đã chọn một sĩ quan tình báo trong cục Tình báo Hoa Nam đóng giả, thay thế Nguyễn Ái Quốc để duy trì phong trào cách mạng ở Đông Dương.
Là một người từng sống qua hai chế độ, bà Đức nêu ý kiến của mình về việc giữ thi hài ông Hồ hiện nay :
"Tôi nghĩ ngay đến điều quan trọng là ông Hồ Chí Minh, người ta đã nói nhiều rồi, đã tìm hiểu nhiều rồi, ông không phải là người Việt Nam. Như thế thì không việc gì phải giữ cái xác ở đấy. Mà nếu ông Hồ có là người Việt Nam chăng nữa thì chuyện tốn kém để bảo quản vẫn là quan trọng, tôi không thay đổi ý kiến. Ông Hồ mất bao nhiêu năm rồi, đất nước thì nghèo mà lấy tiền đóng thuế của dân ra bảo quản cái xác đó.
Hơn nữa ông là người đem chế độ cộng sản vào đưa đất nước đến nỗi như thế này thì can cớ mình gì phải giữ. Không ích lợi gì hết !".
Một phần di chúc của ông Hồ Chí Minh nói về việc hậu sự. File photo
Thầy giáo Chế Quốc Long nhận định việc ướp xác không nói lên tầm cỡ lãnh tụ, mà tầm cỡ lãnh tụ phải là những việc họ làm, di sản họ để lại cho dân cho nước. Di sản của ông Hồ Chí Minh là đem chế độ cộng sản về Việt Nam, mà những gì chế độ cộng sản đã làm thì thế giới đã chứng minh. Có thể nói đó là ung nhọt của nhân loại mà đáng tiếc là chính phủ Việt Nam vẫn cố duy trì và níu kéo cái ung nhọt đó. Ông nói thêm :
"Độc tài và tàn ác. Di sản này cần phải dẹp bỏ mà việc đầu tiên là dẹp bỏ những biểu tượng liên quan đến ông Hồ Chí Minh. Tôi thấy không cần phải giữ cái thi hài đó làm gì. Quá tốn kém vì phải duy trì cái lăng rồi phải duy trì lực lượng bảo vệ, lễ nghi mà nó chẳng đem lại một lợi ích thiết thực nào hết".
Trên thế giới hiện chỉ còn vài nước lưu xác lãnh tụ như Lãnh tụ Xô viết, Lenin mất ngày 21/04/1924 ; Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh mất ngày 2/9/1969 ; Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông mất ngày 9/9/1976 ; Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il qua đời ngày 17 tháng 12 năm 2011.
Một năm sau ngày ông Kim Jong-il mất, Bình Nhưỡng mới úp mở thi hài được bảo quản trong trang phục khaki nổi tiếng. Ông Kim nằm dưới cha ông, Kim Nhật Thành, một vài tầng nhà trong Cung kỷ niệm Kumsusan.
Truyền thông Việt Nam vào ngày 10/5 thuật lại quá trình giữ xác cố Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo đó từ khi qua đời vào sáng ngày 2/9/1969, thi hài ông Hồ Chí Minh được chuyển về Quân y viện 108 để các y bác sĩ và các chuyên gia Liên Xô thực hiện các bước bảo quản. Trong sáu năm sau đó, thi hài ông Hồ được di chuyển tổng cộng sáu lần. Lần đầu từ Hà Nội lên Ba Vì, lần cuối từ Ba Vì về lại Hà Nội và giữ trong lăng từ ngày 18 tháng 7/1975 đến nay.
Báo Hà Nội Mới dẫn lời Thiếu tướng Cao Đình Kiếm, Chính ủy Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng, trong giai đoạn sáu năm đầu, việc gìn giữ, bảo vệ thi hài rất vất vả vì cơ sở vật chất còn thiếu, đội ngũ cán bộ chuyên môn mỏng. Đến ngày 29/08/1975, khi lăng được khánh thành thì nhiệm vụ gìn giữ, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài ông Hồ chuyển sang giai đoạn mới với yêu cầu rất cao.
Ngày 28/08/2018, văn phòng Chính phủ phát đi thông báo kết luận của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo kết luận, nhiệm vụ bảo vệ lăng cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ gìn lâu dài và tuyệt đối an toàn thi hài của người nằm trong lăng là ‘nhiệm vụ chính trị vinh dự, thiêng liêng cao quý mà Đảng, Chính phủ và nhân dân giao cho Ban quản lý Lăng’.
Diễm Thi
VOA, 04/10/2019
Ông Nguyễn Đình Bin, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam, hôm 04/10 công khai đề nghị các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam nên hỏa táng thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bức thư mà ông Nguyễn Đình Bin cho biết trên Facebook là đã gửi cho Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bộ Chính trị, và Quốc hội, có đoạn : "Tôi xin trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét một giải pháp để vừa thực hiện được đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Giải pháp này sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp, đồng thời khắc phục được một số khiếm khuyết của cách làm cho đến nay, và tôi tin sẽ là giải pháp vĩnh viễn".
Cựu thứ trưởng Bộ Ngoại giao nêu 4 giải pháp :
"Thực hiện đúng Di chúc, tiến hành hỏa táng thi hài Chủ tịch hiện đang được gìn giữ tại Lăng, chia tro thành ba phần đều nhau, để vào ba quách và an táng đúng như Người đã " yêu cầu".
Làm tượng sáp Chủ tịch đang nằm ngủ để thay thế thi hài Người hiện tại trong Lăng. (Công nghệ làm tượng sáp trên thế giới nay đã đạt mức tuyệt hảo, hệt như người thật).
Giữ gìn Lăng như hiện tại. Lăng sẽ là Đền thờ, Tượng đài, Di tích lịch sử quốc gia rất đặc biệt, gắn với các sự kiện lịch sử oai hùng, khắc ghi công trạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam, nơi nhân dân ta và bạn bè quốc tế tiếp tục được đến thăm viếng Người, để mãi mãi tôn vinh Người.
Chọn ba ngọn đồi ở ba miền Bắc, Trung, Nam, tốt nhất, đẹp nhất theo phong thủy và cảnh quan, lại thuận tiện cho mọi người tới thăm viếng, để an táng ba quách đựng tro hài cốt Người và xây dựng Đền thờ Người thật tôn nghiêm, thể hiện đúng công lao to lớn, đạo đức mẫu mực, nhân cách thanh cao của Người".
Ông Nguyễn Đình Bin, 75 tuổi, viết : "nay là thờ i điểm thích hợp để nêu lên và giải quyết vấn đề này, nhân dịp sắp tới Giỗ lần thứ 50 Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là kỷ niệm 74 năm Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở đầu Thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, và đúng nửa thế kỷ thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người".
Chỉ vài tiếng sau khi đăng, thư kiến nghị trên Facebook của ông đã được hơn 1 ngàn người "thích".
Thư kiến nghị của ông đề ngày 30/07/2019 và ông đã nhận được phản hồi với làm cảm ơn và chúc sức khỏe của Ban Dân nguyện Quốc hội ngày 13/8/2019.
Vào tháng 6/2019, Việt Nam đã thành lập một nhóm chuyên gia đặc biệt gọi là Hội đồng khoa học y tế cấp nhà nước, trong đó có 4 nhà khoa học Nga, để giúp bảo quản thi hài đã ướp trong 50 năm qua của ông Hồ Chí Minh, người sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong di chúc cuối cùng, ông Hồ Chí Minh bày tỏ nguyện vọng được hỏa táng, nhưng Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam viện "nguyện vọng và tình cảm của nhân dân", nên đã quyết định ướp xác ông "để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác".
Đáp lại đề xuất của ông Bin, Facebooker Hao Tran viết : "Hoàn toàn có lý khi đưa ra một kiến nghị sau 50 năm thi hài của chủ tịch HCM đã được trải nghiệm với thời gian . Một kiến nghị nghiêm túc, tâm huyết, hợp lòng dân, đặc biệt đúng Di chúc của Người, tiết kiệm ngân sách Nhà nước, phù hợp đạo lý và tính phổ cập trên toàn thế giới. Hoan nghênh anh Bin và mong Quốc hội xem xét nghiêm túc và sớm thực hiện đúng Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh".
Ông Nguyễn Đình Bin cho biết trên Facebook rằng ông là một trong 10 viên chức ngoại giao được phong hàm Đại sứ đợt đầu tiên, từng là đại sứ tại Nicaragua và tại Pháp, ủy viên Trung ương Đảng khóa VIII, Thứ trưởng Thường trực, Ủy viên Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Bí thư Đảng ủy Bộ Ngoại giao.
*****************
Nhà ngoại giao kỳ cựu công khai đề nghị hỏa táng thi hài Hồ Chí Minh
BBC, 04/10/2019
Một cựu thứ trưởng ngoại giao Việt Nam vừa công khai đề nghị Đảng Cộng sản tiến hành hỏa táng thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hợp tác Nga - Việt đã giúp cho công tác bảo quản thi hài cố Chủ tịch Hồ Chí Minh nửa thế kỷ qua
Ông Nguyễn Đình Bin, nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng khóa VIII, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, công bố trên Facebook lá thư ông gửi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Trong thư, ông Nguyễn Đình Bin đề xuất :
"1. Thực hiện đúng Di chúc, tiến hành hỏa táng thi hài Chủ tịch hiện đang được gìn giữ tại Lăng, chia tro thành ba phần đều nhau, để vào ba quách và an táng đúng như Người đã " yêu cầu".
2. Làm tượng sáp Chủ tịch đang nằm ngủ để thay thế thi hài Người hiện tại trong Lăng. (Công nghệ làm tượng sáp trên thế giới nay đã đạt mức tuyệt hảo, hệt như người thật).
3. Giữ gìn Lăng như hiện tại. Lăng sẽ là Đền thờ, Tượng đài, Di tích lịch sử quốc gia rất đặc biệt, gắn với các sự kiện lịch sử oai hùng, khắc ghi công trạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam, nơi nhân dân ta và bạn bè quốc tế tiếp tục được đến thăm viếng Người, để mãi mãi tôn vinh Người.
4. Chọn ba ngọn đồi ở ba miền Bắc, Trung, Nam, tốt nhất, đẹp nhất theo phong thủy và cảnh quan, lại thuận tiện cho mọi người tới thăm viếng, để an táng ba quách đựng tro hài cốt Người và xây dựng Đền thờ Người thật tôn nghiêm, thể hiện đúng công lao to lớn, đạo đức mẫu mực, nhân cách thanh cao của Người".
Lá thư viết ngày 30/7, được gửi cho Chủ tịch quốc hội Việt Nam và vừa được ông Nguyễn Đình Bin công bố trên Facebook cá nhân.
Ông cho rằng : "Nửa thế kỷ đã trôi qua, các điều kiện thực sự đã chín muồi, và nay là thời điểm thích hợp nhất, tốt nhất để giải quyết việc này".
Sau khoảng 10 tiếng đăng tải, bài này đã được hơn 300 người chia sẻ trên mạng.
Hồi tháng 7 năm nay, các nhà khoa học Nga và Việt Nam đã tiến hành việc đánh giá trạng thái thi hài của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kể từ sau Lenin, các chuyên gia ướp xác của Liên Xô và Nga đã thực hiện công việc tương tự với lãnh tụ cộng sản Bulgaria, ông Giorgi Dimitrov (1949), Joseph Stalin (1953), Hồ Chí Minh (1969), hai cha con ông Kim Nhật Thành (1994) và Kim Chính Nhất (2011).
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần ngày 2/9/1969 ở Hà Nội.
Khi Di chúc của Hồ Chủ tịch lần đầu công bố năm 1969, Hà Nội bỏ đoạn mà Hồ Chí Minh viết năm 1968 :
"Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì điện táng càng tốt hơn".
"Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão".
Trước đó, năm 1965, trong bản thảo di chúc lần đầu, Hồ Chủ tịch cũng viết như vậy.
Mãi đến năm 1989, Hà Nội mới cho công bố đoạn này.
Tuy vậy, Đảng cộng sản Việt Nam nói "thể theo nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân", nên Bộ Chính trị đã quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch.
Có ý kiến nói Việt Nam không có truyền thống để thi hài người đã khuất cho đời sau xem, và đây là một mô thức du nhập về từ Liên Xô.
Nhưng ngay tại Liên bang Nga ngày này cũng đang có luồng dư luận muốn đưa Lenin ra khỏi lăng đi mai táng.
Hồi năm 2017, Viện Duma đã ra luật quy định lại cách mai táng Lenin để đưa thi hài ông đi chôn nhưng Điện Kremlin không cho thực hiện.
Cuốn "Hồ Chí Minh : Những năm chưa biết đến" (Ho Chi Minh : The Missing Years 1919 - 1941) của tiến sĩ Sophie Quinn-Judge, Đại học London School of Economics (LSE), London, chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế Cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Nga - và tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.
Hồ Chí Minh trong một ảnh chụp vào thập niên 1940s
Tập trung vào những năm hoạt động của ông Hồ Chí Minh thời kì trước 1945, cuốn sách cố gắng dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của ông Hồ trong thời kỳ này.
Hồi tháng 9/2003, khi còn làm việc tại Anh, bà Sophie Quinn-Judge, người Mỹ, đã trả lời phỏng vấn của Ban Tiếng Việt BBC.
BBC : Cuốn sách của bà mở đầu bằng hội nghị tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ Chí Minh - mà lúc này có tên Nguyễn Ái Quốc - được nhiều người biết tới. Vậy trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ông không ?
Sophie Quinn-Judge : Cha của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hy vọng sẽ có thêm tài liệu nghiên cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng rõ ràng là việc người cha bị thất sủng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp đã có tác động đến cuộc sống ông Hồ.
Bởi sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Định, con ông là Nguyễn Tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như mọi người đều biết, ông đi Pháp năm 1911.
Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tiếp tục đi học ở Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã ngả sang một hướng khác. Chúng ta không biết chắc, nhưng những hoàn cảnh bên ngoài đã buộc ông phải ra nước ngoài.
BBC : Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nước ngoài không phải với mục đích tìm đường cứu nước ?
Sophie Quinn-Judge : Không, ý tôi không phải là như thế. Dựa trên tài liệu của Pháp nói về các anh chị trong gia đình ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan Bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nước chống thực dân từ sớm.
Tôi tin là ông Hồ Chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc học, nên ông ra nước ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp.
BBC : Khi Nguyễn Ái Quốc tới hội nghị hòa bình Versailles 1919, người ta nhìn ông như thế nào ?
Sophie Quinn-Judge : Đây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của ông Hồ. Chúng ta không biết trước năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mức độ nào, chuyện chính trị có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không.
Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các đại biểu tham dự, mọi người thấy khó chấp nhận ông ấy như một nhân vật ngang hàng với những người nổi tiếng như Phan Chu Trinh hay Phan Văn Trường.
BBC : Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Đông. Trong khoảng thời gian này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản như thế nào,bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ đã được Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều ?
Sophie Quinn-Judge : Đầu tiên, ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của một đảng cộng sản Châu Á nào. Ông ấy đang là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vững chắc trong nội bộ Quốc tế Cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan trọng hơn như Mahendra Roy từ Ấn Độ hay Sen Katayama của Nhật.
Nhưng Nguyễn Ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào cộng sản có thể tham gia thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy được khuyến khích lên phát biểu tại đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản năm 1924. Nhưng lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là người phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế Cộng sản.
Việc ông Hồ là thành viên đảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí của ông trở nên phức tạp. Trotsky - đối thủ chính trị của Stalin thời bấy giờ - có một ảnh hưởng đáng kể đối với những người cộng sản Pháp. Trong một bãi mìn chính trị như vậy, ông Hồ dường như bắt đầu học cách hợp tác với bất kỳ ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình.
BBC : Một số tác giả như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ được gửi tới Quảng Đông để làm trợ lý hay thư ký cho Mikhail Borodin ?
Mikhail Borodin và Hồ Chí Minh
Sophie Quinn-Judge : Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Đông mà không mang theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một vai trò chính thức. Có vẻ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông.
Chứ còn lúc mới đến Quảng Đông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa các thanh niên Việt Nam sang Quảng ̣Đông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bươn chải, đối phó với các vấn đề khi chúng diễn ra.
BBC : Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không ?
Sophie Quinn-Judge : Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bức bối vì thiếu sự giúp đỡ cụ thể của Quốc tế Cộng sản, hay người Nga hay người cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam.
Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Quảng Đông, ông Hồ nhận được một ngân khoản. Nhưng không may là trước khi kế hoạch được thực hiện, xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch và ông Hồ phải rời khỏi Quảng Đông trước khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi động một cách toàn diện.
BBC : Trong khoảng thời gian ông Hồ ở tại Quảng Đông, có xuất hiện cái tên của bà Tăng Tuyết Minh với những lời đồn đoán khác nhau. Theo nguồn tài liệu mà bà có, thì Tăng Tuyết Minh là ai ?
Gần đây đã có một chuyên gia Trung Quốc đề cập đến người này. Còn theo tài liệu mà tôi tìm thấy tại Pháp, Tăng Tuyết Minh khi đó là một phụ nữ trẻ ở Quảng Đông. Và có lẽ bà ấy và ông Hồ đã kết hôn vào tháng Mười năm 1926. Họ ở với nhau cho đến khi ông Hồ phải rời Quảng Đông tháng Năm 1927. Như vậy thời gian kéo dài khoảng sáu tháng.
BBC : Từ mà bà dùng - "có lẽ" - ở đây nghĩa là thế nào ?
Sophie Quinn-Judge : Không chắc vào thời kỳ đó, một cuộc hôn nhân được định nghĩa như thế nào. Ta bắt gặp những ví dụ khác nhau trong các văn bản về phong trào cộng sản. Đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ.
Thí dụ, nếu họ điều hành một tòa soạn báo, sẽ an toàn hơn khi giả làm hai vợ chồng. Và tôi không biết trong các phong trào cách mạng, đâu là các yếu tố tạo nên một cuộc hôn nhân có ràng buộc. Những điều này có vẻ không chặt chẽ, chẳng hạn nếu ta nhìn sự nghiệp của Mao Trạch Đông, một người mà đã nhiều lần thay đổi người nâng khăn sửa túi cho mình.
BBC : Sau khi rời khỏi Quảng Đông, ông Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trước khi quay trở lại Châu Á. Và rồi chúng ta có sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mà sau đó có tên Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo quyển sách của bà, thì Đảng Cộng sản thành lập tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó, ông Hồ Chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng ?
Sophie Quinn-Judge : Cần nhắc là ông Hồ đã trải qua thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hong Kong vào mùa đông 1929. Hong Kong là nơi mà tháng Hai năm 1930, một đảng cộng sản thống nhất của người Việt Nam ra đời.
Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai người là Trần Phú và Ngô Đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về cách thức thành lập đảng.
Vậy là sau khi Nguyễn Ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng Hai, hai người này quay về Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra hội nghị trung ương lần thứ nhất tổ chức tại Hong Kong.
Đến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú - theo tôi - đã cố gắng ấn định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến một nỗ lực thanh trừng các thành phần yêu nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.
BBC : Cũng khoảng thời gian này, có một lá thư đề ngày 12/01/1931 của Văn phòng Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản nhắc ông Nguyễn Ái Quốc rằng ông cần thông báo cho họ về cuộc hôn nhân của mình hai tháng trước khi cuộc hôn nhân diễn ra. Đây là lúc muốn được hỏi bà, theo bà, thì có cuộc hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Minh Khai và ông Hồ Chí Minh hay không ?
Sophie Quinn-Judge : Tôi không chắc đó có phải một cuộc hôn nhân thật sự hay không. Chúng ta biết là khoảng giữa năm 1930, bà Nguyễn Thị Minh Khai được giao đến làm việc tại văn phòng của ông Hồ ở Hong Kong, rồi sau đó được giao công việc liên lạc với đảng cộng sản Trung Quốc.
Vào tháng Hai năm 1931, ông Hồ có nhắc việc vợ của ông đang bận chuẩn bị cho ngày Tết và chuẩn bị đón khách từ Việt Nam. Ông Hồ cũng viết thư cho Quốc tế Cộng sản, có vẻ như trong đó ông đề cập tới một đám cưới sắp diễn ra.
Bởi vì sau đó Quốc tế Cộng sản viết thư trả lời, nói ông cần đình hoãn đám cướI cho đến khi có chỉ thị mới. Tôi sẽ ngần ngừ khi nói liệu ông Hồ có phải đang nóI về việc làm đám cưới thật sự hay không bởI vì trong các thư từ, họ thường sử dụng nhiều loại mật mã.
Nhưng trong trường hợp này, có vẻ như lá thư nói những chuyện thật sự đang diễn ra bởi vì trong cùng một lá thư ông Hồ cũng thảo luận nhiều vấn đề khác một cách công khai. Và từ những gì ngườI ta biết vào năm 1934, Nguyễn Ái Quốc có một người vợ được cử tới đại hội của Quốc tế cộng sản ở Moscow.
Khi Minh Khai tới Moscow, bà ấy có viết trong lý lịch nói mình kết hôn với "Lin" - bí danh của ông Hồ thời bấy giờ. Vì vậy, người ta có thể ngờ rằng giữa hai người có một mối quan hệ vào năm 1931.
BBC : Bà nói mình không chắc có thể dùng chữ "hôn nhân" ở đây. Vậy nếu người ta hỏi liệu đã một mối quan hệ tình cảm giữa ông Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Minh Khai, vậy bà sẽ trả lời thế nào ?
Sophie Quinn-Judge : Tôi nghĩ câu trả lời là Có, đặc biệt nếu chúng ta dựa vào một số chứng liệu khác. Ví dụ vào năm 1945, trong cuộc nói chuyện với một phóng viên Mỹ, ông Hồ Chí Minh có nhắc ông từng có một người vợ, nhưng bà đã qua đời.
Hoặc có những đề cập nói rằng vào cuối thập niên 1930, khi Nguyễn Thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà đã chia cắt với người chồng là một nhà cách mạng lớn tuổi đang ở nước ngoài. Điều này nghe giống như một sự miêu tả ông Hồ Chí Minh.
BBC : Nhưng nếu dựa trên những nguồn tài liệu của Pháp, ta có khuynh hướng tin là bà Nguyễn Thị Minh Khai có nhiều mối quan hệ với các đồng chí khác nhau trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1940. Vậy thì đâu là thực, đâu là hư ?
Sophie Quinn-Judge : Đây chính là điểm làm câu chuyện phức tạp. Thông tin tình báo của Pháp lúc bấy giờ thường đề cập bà Minh Khai có mối quan hệ với nhiều người khác nhau. Ví dụ, năm 1932, mật thám Pháp tin rằng bà là người tình của Trần Ngọc Danh, em trai ông Trần Phú.
Chúng ta không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân cách mạng hay không, khi mà hai người cùng chí hướng đã giả trang làm người yêu để dễ đánh lạc hướng chính quyền đương thời. Hay còn điều gì hơn thế ! Thật khó để biết rõ cách thức hoạt động của những người hoạt động cách mạng bởi vì họ có thể xem mình thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường.
BBC : Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị trung ương đảng cộng sản Đông Dương họp tại Sài Gòn ngày 12/03/1931, mối quan hệ giữa Ban chấp hành Trung ương với ông Hồ Chí Minh đã xuống dốc rất nhiều. Vì sao lại như vậy ?
Sophie Quinn-Judge : Thật sự thì Ban chấp hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có một sự khó chịu về nhau từ cả hai phía - ông Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong và các ông Trần Phú, Ngô Đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn.
Than phiền chính của họ là những khó khăn trong việc liên lạc với Quốc tế Cộng sản, mà đại diện là Văn phòng Phương Đông tại Thượng Hải. Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh đảng cộng sản Trung Quốc tại Hng Kong đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên không còn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây.
Và dĩ nhiên lúc đó đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồ không nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà Nội. Điều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hong Kong.
BBC : Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung đột trong hệ tư tưởng giữa các bên, phải không ?
Sophie Quinn-Judge : Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
BBC : Vấn đề ông là người quốc gia hay cộng sản đã được bàn đến nhiều khi nói tới Hồ Chí Minh. Có người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải lý thuyết của chính ông ? Bà nghĩ sao ?
Sophie Quinn-Judge : Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo chính sách của Quốc tế Cộng sản thời kỳ thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồ lúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế cộng sản lúc 1920.
Theo đó, những người cộng sản nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay đảng cộng sản còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Còn ông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không, thì tôi không rõ.
BBC : Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí của ông trong Quốc tế Cộng sản lúc này bị lung lay ?
Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thăm Đông Đức năm 1957
Sophie Quinn-Judge : Stalin lúc đó đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác kẻ thù ở mọi nơi. Đặc biệt những người như ông Hồ Chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống nhất tại miền nam Trung Hoa.
Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người cộng sản tại Hong Kong, Thượng Hải năm 1931. Cơ sở của quốc tế cộng sản tại Thượng Hải sụp đổ. Và những người lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điều tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.
BBC : Sau những vụ thanh trừng tại Nga 1937 - 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ Chí Minh có thể tồn tại sau những ngày như thế ?
Sophie Quinn-Judge : Đó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 30, đã trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin dùng.
Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những người thân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov cũng là nạn nhân của Stalin (vợ của họ bị bắt và đây có thể xem là một cách để khống chế những người này).
Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều không có thật. Và ngoài ra, ông Hồ Chí Minh đã bị cảnh gần như bị giáng chức vào năm 1935 vì cáo buộc ông chịu trách nhiệm cho những vụ bắt giữ năm 1931. Nên không thể nói ông ấy lúc đó là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Cộng sản.
Kết luận lại, tôi nghĩ lý do chính là vì ông đã sống kín đáo, lặng lẽ. Mà thực sự Việt Nam cũng không phải nằm trong danh sách những nước làm Stalin lo âu. Ông ta quan tâm hơn đến việc thanh trừng đảng cộng sản ở các nước láng giềng.
BBC : Theo tường thuật của bà trong sách, đường cách mạng của ông Hồ Chí Minh vẫn còn rất gian nan trong thập niên 1930. Vậy ông Hồ đã làm thế nào để có được quyền lực trong đảng cộng sản để rồi sau này dẫn tới cách mạng năm 1945 ?
Sophie Quinn-Judge : Quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu. Một trong những điểm tôi cố gắng làm rõ trong quyển sách là quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu.
Năm 1938, khi ông Hồ quay lại Trung Quốc, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập là thuộc trong số những lãnh đạo đảng tại Sài Gòn. Sau đó thì lần lượt từng lãnh đạo tại Sài Gòn bị Pháp bắt sau khi Mặt trận Bình dân tại Pháp sụp đổ và chính quyền Pháp một lần nữa ra chính sách trừ diệt đảng cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong đảng.
Lúc này, ông Hồ đang ở Trung Quốc xây dựng một nhóm những người yêu nước Việt Nam theo đuổi chính sách thống nhất - một chính sách mà vào lúc này quốc tế cộng sản quay lại sử dụng. Tôi nghĩ đến đầu thập niên 40, ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam cần lúc đó, có mặt và sẵn sàng hành động.
BBC : Như bà viết trong sách, nhiều tác giả - cả cộng sản và không cộng sản - đã phần nào phóng đại vai trò của ông Hồ Chí Minh. Vì sao ?
Sophie Quinn-Judge : Tôi nghĩ đó là điều mà trong giới sử học gọi là tạo câu chuyện bằng cách viết ngược (back formation). Bởi vì ông Hồ trở thành chủ tịch nước năm 1945, người ta đặt ra những tiền đề không có căn cứ về sự nghiệp của ông.
Và thật dễ dàng để cho rằng ông đã luôn là một trong những nhân vật hàng đầu trong quốc tế cộng sản. Dĩ nhiên Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng chấp nhận suy nghĩ này vì nó cho họ một uy tín trong phong trào cộng sản quốc tế.
BBC : Nhưng vì sao ngay cả những người không cộng sản cũng có thiên hướng chấp nhận điều này ?
Sophie Quinn-Judge : Theo tôi, đó là vì một chân dung như thế cũng hợp với những nghị trình của họ. Họ muốn tin rằng ông Hồ đã luôn là một người cộng sản ẩn đằng sau cái vỏ dân tộc chủ nghĩa.
Tôi nghĩ những nhà chỉ trích ông Hồ Chí Minh - thuộc cả hai phía cộng sản và không cộng sản - duy trì chân dung về ông như một nhà cộng sản đầy quyền lực bởi vì ông ấy là biểu tượng nổi tiếng nhất của phong trào cộng sản Việt Nam.
BBC : Khi đọc về những bước đường đầu tiên trong sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh, nó có giúp gì cho người ta hiểu về phần đời sau này của ông hay không ?
Sophie Quinn-Judge : Vâng, tôi nghĩ phần nào đó, những gì diễn ra trong thập niên 1930 cũng tái lặp trong cuối thập niên 40, đầu 50. Mâu thuẫn trong phong trào cộng sản tại Việt Nam và quốc tế không bao giờ vụt tắt. Một bên muốn đi tới thật nhanh, xây dựng điều mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội bằng cách loại trừ tầng lớp trung lưu.
Một bên lại cho rằng chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng từ từ, trải qua giai đoạn của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ người ta cần hiểu hai quan điểm này cứ thay nhau được chấp nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy.
Đó là một trong những lý do - tôi nghĩ - vì sao ông Hồ Chí Minh không phải bao giờ cũng duy trì được vị trí là một nhà lãnh đạo có thực quyền.
Nguồn : BBC, 07/07/2019
Bài đã đăng trên giao diện cũ của BBC Tiếng Việt hồi tháng 9/2003.
"Sự khắc khổ và thanh thản toát ra từ nơi làm việc của ông Hồ Chí Minh cho thấy tinh thần lao động, sự bình tĩnh, kiên trì, quyết tâm phục vụ các kế hoạch của Nhà nước". Trên đây là những dòng cảm tưởng được thủ tướng Pháp Édouard Philippe ghi vào sổ lưu niệm ở Khu di tích Phủ chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chuyến công du Việt Nam tháng 11/2018.
Ông Hồ Chí Minh tại Paris năm 1946.Flickr
Nhận xét này đã làm dấy lên một số ý kiến chỉ trích tại Pháp. Trả lời phỏng vấn báo Le Figaro, nhà sử học Stéphane Courtois nhắc nhở về tính cách nhân vật Hồ Chí Minh (tất nhiên là dưới góc nhìn của phía Pháp - ND).
Là nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), ông Stéphane Courtois giảng dạy tại Viện đại học Công giáo (ICES) và phụ trách tạp chí mang tên Chủ nghĩa cộng sản. Gần đây ông đã xuất bản tác phẩm "Lênin, người sáng tạo ra chủ nghĩa toàn trị" (Nhà xuất bản Perrin, 2017) và chủ biên công trình biên khảo "Chủ nghĩa cộng sản : 1917, cuộc cách mạng bôn-sê-vích" (Vendémiaire, 2017).
Le Figaro : Ông Hồ Chí Minh là người như thế nào ?
Stéphane Courtois : Huyền thoại về các nhà cách mạng, đặc biệt từ năm 1968, coi nhân vật được gọi là "Bác Hồ" như một nhà lãnh đạo chống chính sách thuộc địa, của một dân tộc nhỏ bé đã đánh bại thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ. Đành rằng chống thực dân, nhưng Hồ Chí Minh trước hết là một người cộng sản thuần túy và cứng rắn theo kiểu Stalin ; và là người đã lập nên một chế độ toàn trị, gây ra cái chết cho hàng trăm ngàn người Việt Nam.
Le Figaro : Các giai đoạn chính yếu trong sự nghiệp của ông Hồ là gì ?
Stéphane Courtois : Hồ Chí Minh đã tham gia Đại hội Tours năm 1920, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời từ đây. Sau đó ông đến Moskva, rồi trở thành một cán bộ quan trọng của Quốc Dân Đảng ở Đông Dương. Trong cuộc sống hoạt động bí mật, ông thường sang Trung Quốc.
Hồ Chí Minh là một trong những người sáng lập ra Đảng cộng sản Đông Dương năm 1930, và tổ chức chính trị quân sự mang tên Việt Minh năm 1941. Ông Hồ đã truy lùng và thanh toán tất cả những ai bị nghi ngờ là chống lại ông : từ các trí thức trốt-kít người Việt cho đến những người quốc gia không cộng sản, cả người Công giáo lẫn Phật giáo.
Trong chiến tranh Đông Dương, sau khi bí mật tiếp xúc tại Moskva với Stalin và Mao Trạch Đông vào cuối năm 1949, Hồ Chí Minh có được sự ủng hộ tích cực của hai nhà độc tài này. Sau thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954 và Hiệp định Genève, chỉ trong vài tháng đã có gần một triệu người dân miền Bắc phải chạy trốn vào phía Nam vĩ tuyến 17. Hồ Chí Minh trở thành người lãnh đạo Bắc Việt cho đến khi qua đời năm 1969.
Le Figaro : Tù binh Pháp được Việt Minh đối xử ra sao ?
Stéphane Courtois : Đa số bị chết vì đối xử tệ hại và vì tra tấn. Những người cai quản bỏ đói họ, buộc họ phải dự những buổi học tập nhằm tẩy não. Việt Minh có hai mục tiêu. Một mặt, bắt tù binh tham gia các chương trình tuyên truyền, trong đó họ phải thú tội. Mặt khác, lôi kéo họ quay lại tham gia hàng ngũ cộng sản (Ở Nga, Beria đã áp dụng phương pháp này từ 1930 đến 1940 đối với các sĩ quan Ba Lan bị Hồng quân bắt, nhưng thất bại). Đừng quên rằng Georges Boudarel, nhà hoạt động cộng sản Pháp, cũng từng là một trong những người đã tra tấn tù binh Pháp tại trại tù nối tiếng 113 tại Láng Kiều (Hà Giang, gần biên giới Trung Quốc).
Le Figaro : Chế độ mà ông Hồ Chí Minh thành lập có những đặc tính gì ?
Stéphane Courtois : Thủ tướng Édouard Philippe đã sử dụng từ "Nhà nước" để chỉ chế độ do Hồ Chí Minh thiết lập. Từ này không chính xác. Đó là một Nhà nước Đảng trị, và như vậy là khác hoàn toàn. Đảng chiếm lấy độc quyền về chính trị, ý thức hệ và kinh tế. Đảng nô lệ hóa dân tộc mình. Tuyên truyền, tập hợp vào đội ngũ là cơ sở của chế độ. Đối với ông ấy, trấn áp hàng loạt là một phương thức để cai trị.
Người cộng sản Bắc Việt đặc biệt cứng nhắc và giáo điều. Một cuộc thanh trừng nghiêm khắc đã diễn ra trong Đảng vào đầu thập niên 50. Ông Hồ Chí Minh từ chối việc "phi Stalin hóa" từ năm 1956. Ông ta chưa bao giờ tuân thủ Hiệp định Genève mà ông đã ký kết, trong đó quy định tổ chức bầu cử tự do tại Bắc Việt và tôn trọng sự độc lập của miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra Hà Nội còn đào tạo một số cán bộ cộng sản Cam Bốt, mà sau đó trở thành Khmer Đỏ. Vào cuối những năm 70, sự tuyệt vọng của những người Việt Nam bị cầm tù trong đất nước của chính mình dâng cao cho tới nỗi, nhiều người bất chấp mọi hiểm nguy, đã vượt biển bằng những chiếc thuyền mong manh. Dư luận phương Tây ngỡ ngàng phát hiện những "boat people" (thuyền nhân).
Le Figaro : Nếu vậy, ông nghĩ gì về câu mà thủ tướng Édouard Philippe đã viết trong sổ lưu niệm ở Khu di tích Hồ Chí Minh ?
Stéphane Courtois : Đó là một cách nhìn không hay đối với 47.000 lính Pháp tử trận ở Đông Dương. Cũng tương tự như thế đối với việc Việt Minh giam hãm những đồng bào của mình. Có một sự tương phản nổi bật giữa những từ ngữ êm ái của ông Édouard Philippe, và thực tế bạo lực toàn trị của chính quyền do Hồ Chí Minh thành lập.
Để giải thích những từ của thủ tướng Pháp, chúng ta có sự chọn lựa giữa ý muốn làm vui lòng chủ nhà, hoặc không hiểu biết lịch sử, hoặc cả hai. Chúng ta đang được lãnh đạo bởi một thế hệ đứng ngoài lịch sử, nếu có thể nói như thế. Những nhà lãnh đạo trẻ tuổi này hầu như không biết đến thế giới trước thời bức tường Berlin sụp đổ như thế nào, và dường như không cảm thấy thực sự có liên quan đến những thảm kịch lịch sử, trong đó nước Pháp có tham gia.
Sau nhiều năm có nhiều tranh luận, trang web dangcongsan.vn hồi năm 2015 đã có bài 'Sưu tầm tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ' nói Trần Dân Tiên là một trong nhiều bút danh của Hồ Chí Minh.
Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh và Tổng thống Indonesia, Sukarno
Trước đây, các nguồn chính thống ở Việt Nam không nói rõ Trần Dân Tiên là ai mà lại viết được ra cuốn 'Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'.
Bài báo cũng xác nhận thiếu tá Hồ Quang trong Bát Lộ Quân của Trung Quốc là một trong nhiều tên mà nhà cách mạng Việt Nam đã sử dụng chính thức khi hoạt động ở nước láng giềng cuối thập niên 1930.
Nhiều khiến một số bạn đọc có thể ngạc nhiên là ông Hồ Chí Minh từng dùng khác nhiều bút danh Châu Âu như Jean Fort, Victor Lebon, Nilopsky, Albert de Pouvourville, Linov.
Ông cũng nhiều lần ký tên Pháp là Paul Tất Thành, Paul Thanh khi ở Pháp.
"Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư ký tên Paul Tất Thành".
Ông còn có mật danh tiếng Anh do người Mỹ đặt cho là Lucius khi Hồ Chí Minh giúp nhóm OSS chống Nhật ở vùng biên giới Việt - Trung trong Thế Chiến 2.
Ông cũng dùng nhiều tên Trung Quốc mà nổi tiếng nhất là Hồ Quang, Trương Nhược Trừng, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lý Thụy, Tống Văn Sơ, Tống Thiệu Tổ.
Có vẻ như bí danh Hồ Quang gắn liền với giai đoạn ông ở trong quân đội và có quân hàm thiếu tá của lực lượng cộng sản Trung Quốc.
Đây cũng là quân hàm duy nhất được biết đến của Hồ Chí Minh.
Đoạn trong bài về hoạt động của thiếu tá Hồ Quang được trang dangcongsan viết như sau :
"Hồ Quang - Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang".
Hồ Chí Minh chơi billard
Tuy nhiên, nguồn tư liệu này chưa ghi hết rằng sang năm 1940, ông Hồ Chí Minh vẫn tiếp dục bí danh Hồ Quang.
Trang ditichphuchutich.gov.vn hồi 2011 có bài của Đặng Quang Huy cho viết :
"Đầu năm 1940, Hồ Quang từ Quý Dương đi Trùng Khánh, đồng chí Chu Ân Lai đã tiếp Người và bố trí Người ở tại văn phòng Bát Lộ Quân tại thôn Hồng Nham (Cục Phương Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đặt tại đây).
Tháng 2/1940, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Côn Minh, chắp liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Không lâu sau, Người đã gặp đồng chí Vũ Anh (lãnh đạo Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương).
Đồng chí Vũ Anh đã đưa Người đến cơ quan bí mật của Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương để gặp đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Hoàng Văn Hoan.
Sau mấy tháng Người công tác ở Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Côn Minh, khoảng tháng 10/1940, Người lại qua Quý Dương (lần thứ tư) để trở về Quế Lâm và vẫn ở văn phòng Bát Lộ Quân Quế Lâm".
Như vậy, trong cả năm 1940, Hồ Chí Minh vẫn dùng bí danh Hồ Quang.
Nhiều bút danh khác nhau
Bài báo cũng cho rằng Hồ Chí Minh viết rất nhiều bài báo, dùng nhiều bút danh khác nhau để phục vụ cho công tác tuyên truyền cách mạng.
Ông cũng là tác giả nhiều sách và tư liệu về bản thân :
Năm 1949, ông ký T.T. dưới bài viết "Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ".
Năm 1959, ông ký bút danh Thu Giang trong bài "Bác Đến Thăm Côn Minh" trên báo Nhân Dân (12/04).
Năm 1960, ông dùng bút hiệu Tuyết Lan để viết bài "Ba Chai Rượu Sâm Banh" đăng trên báo Nhân Dân (27/04).
Cùng năm, dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Jean Fort, ở Algeria, ông viết về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ở Paris và sau này.
Cùng năm, ông dùng bút danh Trần Lam viết bài "Chuyện Giả Mà Có Thật" đăng trên báo Nhân Dân về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.
Năm 1961, ông ký T. Lan, viết "Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Mình", đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân trong năm, và bài "Bác Ăn Tết Với Chúng Tôi" đăng trên Nhân Dân (14/02 năm 1961).
Nguồn : BBC, 25/11/2018