"Fake news" – tin giả, tin dỏm, tin đồn, tin nhảm, tin ngụy tạo… - đang bùng nổ trong kỷ nguyên thông tin không biên giới. Fake news đang như một đại dịch toàn cầu. Khi có thể ảnh hưởng cả cuộc bầu cử tổng thống thì vấn đề fake news không phải là chuyện nhỏ vô hại như bề ngoài nhảm nhí của nó…
Chính quyền Việt Nam đang yêu cầu Facebook và Google kiểm soát fake news nhưng nếu chính quyền là "nguồn" của tin giả thì ai kiểm soát ?
Vượt khỏi phạm vi gây nhiễu xã hội với những tin đồn mua vui vô thưởng vô phạt, fake news còn đang được sử dụng cho mục đích chính trị. Có thể nói đây là biến tướng mang tính xu hướng của thời đại thông tin nằm dưới những ngón tay lướt chạm màn hình. Năm 2016, một phát ngôn viên của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã chia sẻ trên Facebook bức ảnh thi thể cô gái trẻ được tin là bị hiếp và giết bởi một tên buôn ma túy. Sự thật là tấm ảnh có nguồn gốc ở Brazil. Nó được dùng để "minh họa" cho tính "đúng đắn" của việc bắn giết vô tội vạ các đối tượng ma túy của Duterte. Trước đó, hàng chục ngàn người sử dụng Facebook tại Philippines cũng chia sẻ câu chuyện rằng NASA đã bầu chọn Duterte là "tổng thống giỏi nhất Hệ mặt trời" ! Nhiều người cho đó là thật !
Tại Indonesia, khi Joko Widodo tranh cử tổng thống năm 2014, bỗng xuất hiện tin đồn ông là người Công giáo gốc Hoa và còn là cộng sản chính cống. Tại quốc gia có tỷ lệ người đạo Hồi nhiều nhất thế giới như Indonesia thì điều đó không thể chấp nhận. Widodo cuối cùng phải trưng ra hôn thú để chứng minh ông không phải người Hoa và từng hành hương đến Mecca vào ngay trước thời gian bỏ phiếu. Tại Colombia, "dân mạng" cũng từng thổi lên tin đồn ca sĩ lừng danh Juanes phản đối một thương thuyết hòa bình với nhóm phiến loạn lớn nhất nước này.
Và trong chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ 2016, fake news đã thật sự trở thành công cụ được dùng để tiêu diệt đối phương. Người ta hẳn vẫn còn nhớ tin đồn về chuyện John Podesta (nhà chiến lược chiến dịch tranh cử của ứng cử viên Hillary Clinton) tham gia một "nghi lễ bí ẩn" trong đó ông "uống các chất dịch từ cơ thể" ; hay tin Hillary "trả tiền" cho các đối tượng thăm dò công chúng… Điều lạ là dù thế giới phát triển và văn minh đến đâu, tin nhảm vẫn có đất sống và vẫn được tin. Như Joshua Benton, giám đốc Nieman Journalism Lab cho biết hồi năm 2016, bản tin nhảm Giáo hoàng ủng hộ ứng cử viên Tổng thống Donald Trump đã được hơn 868.000 chia sẻ trên Facebook trong khi bài báo nói rằng tin ấy là nhảm thì chỉ được 33.000 lượt share.
Nhà báo Walter Lippmann (1889-1974), người được xem là cha đẻ của báo chí hiện đại, từng luôn hoài nghi về khả năng một công dân trung bình có thể hiểu được các vấn đề quốc gia hoặc có thể có những nhận định chính trị hợp lý. Nhiều năm sau thời Lippmann, điều này vẫn còn đúng. Một cách chính xác, fake news không phải là sản phẩm của thời đại kỷ nguyên số. Fake news tồn tại cùng lịch sử loài người. Trong khi đó, tâm lý con người dường như không thay đổi hoặc thay đổi rất ít, trong cách đón nhận và ứng xử với thông tin. Người ta vẫn thích nghe và đồn đãi những thông tin giật gân dù không thể kiểm chứng hoặc chưa được kiểm chứng. Xã hội vẫn có khuynh hướng "háo hức" rỉ tai nhau những thông tin "bí mật" và "rò rỉ". Trong kỷ nguyên số, điều này càng dễ thực hiện. Khi lan truyền, fake news "bay" với vận tốc ánh sáng, dù nó chỉ làm đen kịt thêm màn đêm thông tin.
Fake news trong kỷ nguyên công nghệ số bùng nổ dữ dội còn một phần bởi yếu tố mang tính tâm lý cố hữu : sự "tự sướng". Ai cũng thích là "người đầu tiên" "biết" câu chuyện đó. Một bản tin liên quan một vấn đề được tung ra đúng thời điểm mà cộng đồng hoặc xã hội đang quan tâm sẽ dễ dàng biến "fake news" thành "true news". Năm 2005, trong quyển Amusing Ourselves to Death, nhà phê bình truyền thông Neil Postman nói, bản chất hoàn cảnh sẽ quyết định thông điệp mà nó truyền tải. Viết trên Foreign Policy (18-11-2016), Ilya Lozovsky nói thêm : truyền thông xã hội đang "nguyên tử hóa" các ý kiến thảo luận. "Chúng ta chia sẻ những câu chuyện chứa tín hiệu và củng cố bản thể bầy đàn của chúng ta, chứ không phải những điều dẫn đến việc đòi hỏi phải suy nghĩ thấu đáo. Chúng ta đọc những gì mà bạn bè chia sẻ. Chúng ta "retweet" những gì mà những nhà báo yêu thích của chúng ta đã tweet. Và chúng ta dường như không quan tâm đến việc tìm kiếm những quan điểm thay thế".
Môi trường thông tin không minh bạch và bị bưng bít nhiều thì fake news càng dễ lan truyền. Đó là những gì xảy ra tại Việt Nam. Sự suy yếu của hệ thống báo chí "chính thống" đã cung cấp thêm "sức mạnh" cho fake news. Cái chết của Nguyễn Bá Thanh cùng vô số câu chuyện liên quan giới chức chính quyền đã được tung ra hư hư thực thực khiến chẳng biết đâu mà lần. Những bức ảnh được ngụy tạo được lan truyền với tốc độ chóng mặt khiến sự nhiễu loạn lên đến mức không thể kiểm soát. Chính quyền lại là "thủ phạm" gián tiếp cho cuộc "cách mạng thông tin" bằng fake news của cộng đồng mạng, khi chính quyền không bao giờ trung thực trong thông tin với người dân.
Trong vài trường hợp, fake news đã được các phe phái sử dụng như một công cụ để đánh đấm nhau. Người ta còn chưa quên thời tung hoành khuynh loát của "anh Lực" – cách nói phổ biến của cộng đồng mạng khi ám chỉ trang "Chân dung quyền lực". Có một thời, "anh Lực" là nguồn tin được trông chờ hơn bất kỳ tờ báo nào. Một thời, "anh Lực" "thống trị" cả thế giới mạng. Điều đáng chú ý là "anh Lực" mạnh đến mức "công an mạng" chẳng làm gì "anh" cả. "Lực" không hề hấn gì dù "Lực" phơi bày bao nhiêu chi tiết liên quan đến các đối thủ chính trị mà tất cả đều là giới chính trị chóp bu. Khó có thể kiểm chứng mức độ chính xác những gì "anh Lực" kể nhưng "anh Lực" là ví dụ điển hình nhất và có vai trò "lịch sử" nhất khi xét đến việc sử dụng biến tướng fake news cho mục đích chính trị, trên một sân khấu chính trị Việt Nam luôn rủ màn che phủ bóng đen trước mắt người dân.
Thật khó có thể ngăn chặn fake news khi mà bản thân chính quyền, không chỉ không trung thực, mà còn tạo ra fake news, hay nói chính xác hơn là "fake news hóa" cho mục đích chính trị. Những cái chết hoặc tình trạng bệnh tật của các gương mặt lãnh đạo cao cấp luôn bị bưng bít hoặc được cung cấp tin giả. Những cáo buộc người dân đi biểu tình "nhận tiền của các thế lực phản động nước ngoài" được đưa ra mà không bao giờ có bằng chứng. Những câu chuyện "lý thú" về cuộc đời thuở "ấu thơ" của những quan chức cấp cao luôn có các chi tiết đáng ngờ mà không bao giờ người dân có cơ hội kiểm chứng. Ví dụ mới đây nhất là "trường hợp" "cậu học trò ấy (chủ tịch nước Trần Đại Quang) từng phải bắt đom đóm vào vỏ trứng làm đèn học tới đêm thâu" được đăng tên tờPhụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh (phunuonline) ngày 21/09/2018. Những câu chuyện "huyền thoại hóa" cá nhân lãnh đạo, tương tự những câu chuyện ngụy tạo "bi kịch hóa" thời chiến tranh, chẳng hạn chuyện "Mỹ-Diệm ăn thịt người", từng tồn tại dai dẳng trong lịch sử fake news của hệ thống báo chí tuyên truyền cộng sản.
Bản chất thông tin là cung cấp những gì mà người ta chưa biết và ít nhiều mang lại niềm tin. Bản chất fake news là mang đến những gì người ta "muốn tin" ; và nó, thay vì mang lại niềm tin, chỉ gieo rắc hoang mang. Chính quyền Việt Nam đang yêu cầu Facebook và Google kiểm soát fake news nhưng nếu chính quyền là "nguồn" của tin giả thì ai kiểm soát ?
Fake news đang là đại dịch của thời đại nhưng fake news tại Việt Nam không chỉ là tin đồn nhảm nhí. Nó còn là một công cụ chính trị để cai trị. Muốn xóa fake news, bản thân chính quyền phải chứng tỏ họ là những người trung thực và minh bạch trước mắt người dân. Với cộng đồng, fake news cũng không nên được sử dụng như một "giải pháp" để "đánh cộng sản".
Cộng sản không sợ fake news. Họ chỉ sợ sự thật.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 25/09/2018
Từng được xem là công cụ khuyếch trương dân chủ nhưng yếu tố dân chủ và tự do ngôn luận đang được xem là những vấn đề lớn nhất đối với Facebook. Thay vì được cổ súy, dân chủ, trong một số trường hợp, đang bị bẻ gãy. Thay vì được ủng hộ, tự do ngôn luận, trong không ít trường hợp, đang bị bịt chặn.
Facebook đã trở thành "mối đe dọa", với sức mạnh độc quyền, khi thỏa hiệp với các thể chế độc tài. Hình minh họa.
Tại Liên hoan phim Tribeca vào tháng 4/2018, đạo diễn-kịch tác gia Jonathan Nolan đã so sánh Facebook với Cuba (khi đề cập đến việc thu thập dữ liệu cá nhân cho mục đích đàn áp hoặc hỗ trợ đàn áp) ; trong khi nhà đầu tư tài chính George Soros phát biểu tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos vào đầu năm 2018 rằng, Facebook đã trở thành "mối đe dọa", với sức mạnh độc quyền, khi thỏa hiệp với các thể chế độc tài…
Nếu Facebook là một quốc gia, nó có dân số đông nhất hành tinh. Hơn 2,2 tỷ người, chiếm 1/3 dân số toàn cầu, truy cập Facebook ít nhất một lần mỗi tháng. Lịch sử doanh nghiệp Mỹ chưa từng có công ty nào có người sử dụng nhiều như vậy. Mark Zuckerberg, với tư cách chủ tịch kiêm CEO, đã kiểm soát khoảng 60% lá phiếu cổ đông. Tài sản cá nhân Zuckerberg đã tăng đến hơn 60 tỷ USD. Tuy nhiên, như Louis Brandeis (chánh án Tối cao pháp viện Hoa Kỳ từ 1916-1939) nói vào năm 1915 rằng, sự nguy hiểm của các tập đoàn khổng lồ là họ có thể đạt đến cấp độ gần như tự trị đến mức các nguồn lực xã hội lẫn công nghiệp đang tồn tại không đủ khả năng để đối phó. Tim Wu, giáo sư luật Đại học Columbia, gần đây cũng nói rằng không lĩnh vực nào minh họa rõ ràng cho sự đe dọa đối với dân chủ bằng các ông lớn công nghệ (New Yorker, 17/09/2018).
Facebook đã và tiếp tục làm thay đổi đáng kể xã hội ; tuy nhiên, ngày càng nó càng có những ảnh hưởng tiêu cực trong đó có hiện tượng kích động bạo lực và lan truyền tâm lý thù ghét, chưa kể tình trạng "fake news". Không phải tự nhiên mà Chamath Palihapitiya (cựu phó chủ tịch Facebook) phát biểu vào tháng 11/2017 rằng, Facebook "đang tiêu diệt xã hội". Tại Ấn Độ, dịch vụ WhatsApp của Facebook đã kích động các cuộc bạo loạn, treo cổ và đánh chết người. Tại Libya, người ta dùng Facebook để buôn lậu súng. Tại Sri Lanka, sau vụ Phật giáo tấn công dã man vào cộng đồng Hồi giáo xuất phát từ một tin đồn sai lệch trên Facebook, một cố vấn tổng thống đã phải thốt lên : "Vi trùng là chúng ta nhưng Facebook là cơn gió".
Chẳng nơi nào mà ảnh hưởng Facebook trở thành tác nhân gián tiếp kích động bạo động với mức độ dữ dội và nguy hiểm bằng Myanmar, nơi cộng đồng Hồi giáo thiểu số Rohingya bị giết, hiếp và tra tấn tàn bạo bởi các nhà sư Phật giáo cực đoan. Chuyện bắt đầu vào năm 2014, khi một nhà sư tên Wirathu chia sẻ một thông tin sai về một vụ hiếp dâm và sau đó cảnh báo "có một cuộc thánh chiến chống lại chúng ta". Thế là bùng lên cơn sốt điên cuồng truy lùng tiêu diệt người Rohingya. Cơn sốt này được châm dầu liên tục từ những kêu gọi kích động hàng ngày trên Facebook. Đến tháng 3/2017, khoảng một triệu người Rohingya đã phải chạy trốn khỏi Myanmar. Vụ việc hiện vẫn là một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng nhất Myanmar kể từ khi nước này bắt đầu mở cửa đón làn gió dân chủ. Nói về ảnh hưởng Facebook lên vụ Rohingya, một nhà điều tra Liên Hiệp Quốc đã phải thở dài : "Tôi e rằng Facebook đang biến mình thành quái vật".
Thật ra không chỉ ở một nước "dân chủ non trẻ" như Myanmar thì mới xảy ra ảnh hưởng tiêu cực của Facebook. Không khí gieo rắc tâm lý thù địch cũng xuất hiện ở các nước có bề dày dân chủ và văn minh. Một bài báo New York Times (21/08/2018) cho biết, ngọn lửa thù hận và chống người tỵ nạn bùng lên tại Đức thời gian qua đã được thổi mạnh thêm nhờ cơn gió lốc Facebook. Cuộc chiến ngôn ngữ đầy không khí "chém giết" và "thù địch" giữa phe "pro-Trump"và "anti-Trump" tại Mỹ cũng là một ví dụ nữa.
Một trong những vấn đề rất được quan tâm thời điểm hiện tại là có hay không việc Facebook "đi đêm" với một số chính phủ ? Facebook từ lâu được xem là công cụ hữu hiệu cho tiếng nói dân chủ, đặc biệt ở những quốc gia mà báo chí nhà nước kiểm soát tuyệt đối ngôn luận. Tuy nhiên, giá trị dân chủ mà Facebook mang lại dường như đang teo hẹp, nhường chỗ cho sự "phát triển" của khuynh hướng "chìu lòng" hoặc "kết thân" của Facebook với một số nhà nước độc tài.
Từ khi xảy ra vụ đảo chính quân sự năm 2016 tại Thổ Nhĩ Kỳ đến nay, chính quyền Tổng thống Recep Tayyip Erdogan đã nhốt tù hàng ngàn người dám lên tiếng chỉ trích. Tuy nhiên, Facebook vẫn hợp tác trong việc đàn áp tự do thông tin tại nước này. Facebook đã không chỉ không đi theo cách của Wikipedia (bị chặn hoàn toàn sau khi từ chối hiệu chỉnh hoặc xóa bài có nội dung "bất lợi" đối với chính quyền Thổ), mà còn tuân thủ yêu cầu xóa 1.823 bài vào năm sau vụ đảo chính (Washington Post 13/04/2018).
Tháng 12/2014, một trang Facebook của Alexei Navalny, đối thủ chính trị của Vladimir Putin, đã bị Facebook khóa chặn theo yêu cầu từ Chính phủ Moscow (trang này được lập để kêu gọi biểu tình chống Putin). Một lần nữa, có hay không việc Facebook bí mật hợp tác với chính quyền vài nước để xóa bài hoặc khóa các tài khoản đăng tải thông tin "bất lợi" cho nhà nước sở tại ?
Trong thực tế, từ tháng 7/2015 đến tháng 12/2015, Facebook đã chặn khoảng 55.000 bài tại chừng 20 quốc gia. Cần nhắc lại, trong một bài viết ngày 22/11/2016, New York Times cho biết, Facebook đã bí mật phát triển một phần mềm để xóa bài dựa trên khu vực địa lý (công cụ này, được thiết kế để giúp Facebook kiếm được giấy phép hoạt động tại Trung Quốc, sau đó bị bỏ).
Tại Việt Nam, hàng loạt tài khoản thời gian gần đây đã bị "án treo" (30 ngày) hoặc thậm chí bị khóa vĩnh viễn, trong đó có các "nạn nhân" Lê Nguyễn Hương Trà, Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Anh Tuấn, Nguyễn Ngọc Chu… và mới đây nhất là Trương Châu Hữu Danh. Có một điểm chung giữa các facebooker này : họ có lượng follow cao, với bài viết đề cập những vấn đề nóng bỏng và họ bị xem là cái gai trong mắt chính quyền. Facebook Việt Nam có vai trò gì trong những "sự cố kỹ thuật" trên ? Thật khó có câu trả lời chính xác nhưng hiện tượng này đã xảy ra thường xuyên và dày đặc hơn từ khi Facebook Việt Nam được điều hành bởi bà Lê Diệp Kiều Trang và từ khi chính quyền Việt Nam công bố dự luật An ninh mạng.
Facebook đã đóng góp đáng kể cho sự tái nhận thức trước nhiều vấn đề xã hội, đặc biệt tại những quốc gia mà thông tin luôn bị bưng bít, nhưng Facebook ngày nay đã không còn là một mạng xã hội giúp kết nối và tạo ra những cộng đồng lành mạnh như ban đầu. Yếu tố lợi ích cộng đồng dường như đang phải ít nhiều nhường chỗ cho lợi ích doanh thu. Trong khi đó, Facebook đang là công ty duy nhất thế giới có sức ảnh hưởng xã hội lẫn khả năng chi phối tâm lý con người mà không công ty công nghệ nào có thể địch lại. Facebook đã trở thành một thế lực khủng khiếp với mức độ phủ bóng toàn cầu có thể điều khiển trực tiếp hoặc gián tiếp không chỉ hành vi xã hội mà cả xu hướng chính trị. "Khi một sức mạnh tư nhân được tập trung mà có thể kiểm soát những gì chúng ta thấy và nghe thì quyền lực của nó đủ để cạnh tranh hoặc thậm chí vượt qua cả một nhà nước dân cử" – Tim Wu, giáo sư luật Đại học Columbia, nói.
Facebook vẫn tiếp tục trao "chìa khóa" dân chủ hay tước đoạt nó khỏi tay người dân ở các quốc gia độc tài ? Đây chưa phải là câu hỏi đáng chú ý nhất thời điểm hiện tại. Facebook có lẽ đang định dạng một hình thái dân chủ với "độ mở" mà nó muốn, theo cách ít nhiều phù hợp với yêu cầu riêng, đặc biệt đối với các nước độc tài. Đó có thể là giải pháp mà Facebook áp dụng để cân bằng giữa việc phục vụ xã hội và lợi ích doanh thu. Facebook sẽ xê dịch cán cân này ở từng thời điểm cụ thể và tùy trường hợp cụ thể. Dù chưa đến mức giết chết dân chủ từ trong trứng nước nhưng chắc chắn Facebook không còn là nơi lý tưởng để dân chủ được ươm mầm hoặc được phép khai sinh một cách tự do. Sẽ là một thảm họa đối với dân chủ và tự do ngôn luận nếu một tay độc quyền đa quốc gia bắt tay với một tên độc tài chuyên chế. Điều này dù sao cũng không thể xảy ra theo cách cả hai cùng muốn, vì tay độc quyền đa quốc gia trong trường hợp này là một công ty Mỹ chịu sự kiểm soát của luật pháp Mỹ, Quốc hội Mỹ và báo chí Mỹ.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 19/09/2018
Kofi Annan là Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thứ bảy, nhận nhiệm kỳ từ ngày 1/1/1997. Ông sinh ngày 8/4/1938 tại Kumasi (Ghana). Tốt nghiệp Đại học khoa học-kỹ thuật ở Kumasi và hoàn thành chương trình sau đại học về kinh tế tại Macalester College (Mỹ) năm 1961 rồi tiếp tục học tại Thụy Sĩ (Institut universitaire des hautes études internationales). Năm 1972, ông lấy bằng thạc sĩ khoa học quản trị tại Viện công nghệ Massachusetts. Annan bắt đầu làm việc tại Liên Hiệp Quốc năm 1962, thuộc Tổ chức y thế giới (WHO) và thăng tiến các cương vị cao dần trong Liên Hiệp Quốc.
Kofi Annan.
Con người Kofi Annan đã cho thấy nhiều điều khiến không khỏi ngạc nhiên. Con người đó sống và hành xử theo một châm ngôn của bộ tộc Fante xứ Ghana mình : "Se eye ndzeye pa enum yi a, na eye barima" (Hãy thu thập đủ năm phẩm chất đức hạnh, bạn mới trở thành người). Kofi Annan, vị tổng thư ký được mến mộ nhất lịch sử Liên Hiệp Quốc, đã từ trần sáng thứ bảy 18-8-2018.
I. Enyimnyam (Lòng tự trọng)
Một câu chuyện từng để lại dấu ấn đậm trong Kofi Annan thời niên thiếu. "Hồi còn nhỏ" – ông kể – "Tôi chứng kiến một cảnh trong văn phòng cha mình khiến tôi bị sốc. Đang kiểm tra bộ sổ kế toán và cần biết thêm gì đó, cha cho gọi một viên quản lý trẻ. Anh ta đang hút thuốc và vội vàng nhét mẩu thuốc cháy dở vào túi quần vì cha tôi không hút thuốc và cũng không thích kẻ hút thuốc. Anh ấy đứng nói chuyện, mẩu thuốc vẫn cháy, trong trạng thái lúng túng. Cuối cùng, anh ấy làm xong công việc và đi ra. Tôi thật sự sốc, giận dữ hỏi : "Tại sao cha đối xử với anh ta như vậy ?". Cha nhìn, và người đã cho tôi một bài học thật sự. Ông nói : "Cha không làm thế. Ở đây có gạt tàn, anh ta đáng lý có thể dùng. Anh ta có thể xin lỗi rồi quẳng điếu thuốc ra ngoài. Hoặc anh ta cứ tiếp tục hút. Nhưng anh ta lại bỏ vào túi quần. Anh ta đáng ra không cần làm như vậy". Cha nhìn tôi : "Hôm nay, con thấy một chuyện mà con không bao giờ nên làm. Đừng luồn cúi quỵ lụy".
Những người tiền nhiệm ở ghế tổng thư ký Liên Hiệp Quốc – Kurt Waldheim, Javier Perez de Cuellar, Boutros Boutros-Ghali – đều bị đánh giá là một nhóm già nua chấp nhận trôi nổi theo tình thế. Tuy nhiên, Annan tỏ ra là người đem lại hy vọng, ý tưởng và nhiệt huyết. Ông là con người của thế giới quốc tế hóa : sinh tại Ghana, học ở Mỹ và Châu Âu, từng làm việc hàng chục năm tại Liên Hiệp Quốc trước khi nhậm chức Tổng thư ký năm 1997. Ở vai trò trên, Annan đã đưa Liên Hiệp Quốc vào những địa hạt mới của đời sống toàn cầu.
Thế giới trong mắt Kofi Annan không gì hơn là thế giới của những người có lòng tự trọng. Một thế giới mà thành phần bạo động Sierra Leone có đủ lòng tự trọng để không chặt tay bé gái mới chào đời. Một hành tinh mà Ấn Độ và Pakistan có đủ lòng tự trọng để không tiêu diệt nhau, nơi vũ khí hóa học trở thành chuyện của quá khứ, nơi người giàu đủ lòng tự trọng để cảm thấy ái ngại cho hàng triệu người Châu Phi sẽ chết vì AIDS trong hai thập niên nữa. Đó là cái thế giới mà Annan mường tượng. Trong vài năm đầu ngồi ghế tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông đã chỉnh đốn chính sách kêu gọi các nước cùng bước vào bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào mà mạng sống con người đang bị thiêu cháy bởi thù hận, bệnh tật và nghèo đói.
Ông từng chứng kiến ở những nơi như Rwanda hay Bosnia có hàng ngàn người chết khi họ chờ giúp đỡ. Bị gương mặt họ ám ảnh, ông quyết tâm hoàn thiện tổ chức mình để những sai lầm như vậy không bao giờ xảy ra. Ông cũng quyết tâm đánh động thế giới, để các nhà lãnh đạo ý thức trách nhiệm, không chỉ vì công dân tại chính nước mình mà cho cả linh hồn toàn cầu. Ông tin rằng không có nguyên cớ gì – đặc biệt là biên giới lãnh thổ – có thể biện minh cho đường lối can thiệp. Lập luận lỗi thời rằng các nước có quyền làm bất cứ gì trong phạm vi lãnh thổ họ, theo Annan, là vô nghĩa trong một thế giới không có biên giới về thông tin, giao thông và liên lạc.
II. Awerehyemu (Tự tin)
Người chị Essie của Annan nhớ lại cảnh ngày xưa hồi cả nhà sau bữa ăn tối thường tụ tập trong "phiên tòa" mà cha bà xét xử hành vi sai trái của đám trẻ. Bố Henry Reginald Annan không quan tâm những lời thú nhận mà chỉ để ý đến cách ứng xử của các con. Chúng có bịa chuyện không ? Có lỗ thủng nào trong lập luận chúng không ? Chúng có lập cập hay lưỡng lự khi kể không ? Riêng Annan, Essie nói, không bao giờ lúng túng hay ngập ngừng.
21 tuổi, năm 1959, Annan sang Mỹ học kinh tế tại Đại học Macalester (St. Paul, Minnesota). Một tấm ảnh ở giai đoạn này cho thấy cảnh hai cô gái đang choàng tấm vải lên vai Annan. Cuộc đời Annan luôn dành cho ông tấm choàng như vậy, để bảo vệ ông, vì nó là "tấm vải awerehyemu" (lòng tự tin). Ở đại học, sinh viên nào cũng biết Annan. Không chỉ bởi ông là thanh niên da đen đẹp trai đứng giữa đám hoa trắng miền Midwest mà bởi ông luôn tạo cho mình sự tự tin hoàn hảo. Sự xuất hiện của ông với nét đặc thù bằng giọng nói êm nhẹ và từ ngữ vần điệu như thơ càng khiến cái awerehyemu của ông hiện rõ. "Thật tinh tế" – một nhà báo Pháp đã thốt lên, sau khi gặp Annan – "Từ ý tưởng, quan điểm chính trị đến cả cách ăn mặc". Cao, thẳng người, đường bệ, Annan đem lại cái nhìn thiện cảm và đáng kính trọng, như một "giáo hoàng thế tục" – cách nói của nhà báo William Shawcross. "Khi ông ấy đến gần, không có cách gì duy trì rào cản nữa" – cựu thủ tướng Đức Helmut Kohl nhận xét.
III. Akokodur (Can đảm)
Trong nhiều tình huống nguy hiểm, Annan lại tỉnh táo hơn bình thường – các tùy viên kể. Những câu đùa nghe vui hơn và giọng ông hòa nhã hơn. Những người từng làm việc chung hồi ông còn ở bộ phận gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cho biết, dù thời tiết xấu như thế nào, đường đi nguy hiểm như thế nào và trại trú trống trải dễ bị bắn tỉa như thế nào, Annan cũng luôn có mặt. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh đã mang lại những gánh nặng chết người mà Liên Hiệp Quốc không giải quyết nổi. Lính mũ nồi xanh thường xuyên được yêu cầu lao vào hỗn loạn : Sierra Leone, Cộng hòa dân chủ Congo, Đông Timor. Ông muốn Liên Hiệp Quốc có mặt bất cứ nơi nào đang cần, để tránh các thảm kịch như tại Rwanda (nơi 800.000 người Tutsi bị dân Hutu giết), Srebrenica ở Bosnia (nơi 8.000 người Hồi giáo bị thảm sát).
IV. Ehumbobor (Lòng trắc ẩn)
Trong một chuyến kinh lý đến Đông Timor, Annan bị một người lao tới, khóc ròng và kể lại những gì xảy ra. Tuy trễ giờ, ông vẫn nán lại với nạn nhân kia hơn một giờ. Tại Kosovo, ông ngồi cầm tay một cụ bà 100 tuổi, nghe mỗi một câu lập đi lập lại : "Tại sao chuyện như vậy lại xảy đến cho tôi ở ngần tuổi này ?"… Luật sư Nane Annan – phụ nữ mảnh mai tuyệt đẹp gốc Thụy Điển – đã yêu Annan chỉ sau vài tháng, từ một lần chứng kiến lòng trắc ẩn của ông. "Chúng tôi đang dạo tại Roosevelt Island (New York City) vào một đêm" – bà Nane Annan kể – "Kofi bỗng thấy một bóng người quị xuống trong buồng điện thoại công cộng. Không trong tầm mắt nên có thể với người khác thì họ đã không chú ý. Đó là một thanh niên đang khóc. Kofi đến, hỏi và chăm chú nghe nỗi buồn của anh ta. Sau đó, chúng tôi tiếp anh bạn trẻ này ở nhà một lần, rồi hai lần mỗi tuần, đến chỉ để tâm sự với Kofi"… Nane (cháu nhà ngoại giao Thụy Điển Raoul Wallenberg, người từng cứu hàng ngàn người Do Thái thời Thế chiến thứ hai) quen Kofi tại Geneva. Tiếng sét đã nổ khi bà gặp Kofi tại buổi tiệc nhà người bạn. Cuộc hôn nhân của họ là lần kết hôn thứ hai, với cả hai người (ông có một con trai và một con gái với vợ trước). Cuộc sống hôn nhân lãng mạn của Nane và Kofi từng lan khắp New York.
V. Gyedzi (Niềm tin)
Buổi sáng, Annan dậy sớm. Ánh nắng bắt đầu rọi vào phòng ngủ. Còn nằm trên giường, Annan đã cầu nguyện, và tự hỏi : Làm thế nào con người trở nên ác độc và người ta phải làm gì ? Bất ngờ, bản năng đạo đức tự thân nó không thể trả lời những câu như thế. Bạn phải tự chủ, tìm hướng đi trong một thế giới không có lối vạch sẵn. Bạn ngồi ngang cái ác hiểm độc. Bạn làm gì bây giờ ? Nếu như không có niềm tin !
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 20/08/2018
Ngày 18/05/2017, tại một hội nghị trực tuyến toàn quốc, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng nói : "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý".
Các thành viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông Võ Văn Thưởng đứng thứ hai từ trái sang.
Nói thế thôi chứ "chúng ta" của Võ Văn Thưởng sợ đối thoại hơn tất cả thứ gì khác. Suốt chiều dài lịch sử đảng cộng sản lẫn nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, chẳng bao giờ tồn tại cái gọi là "đối thoại" và "lắng nghe ý kiến". Ngày 30-10-1956, chỉ với bài diễn văn ngắn đọc tại một phiên họp Mặt trận Tổ quốc, về sai lầm của cuộc Cải cách ruộng đất, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, một học giả tài năng xuất chúng, đã lãnh một hậu quả khủng khiếp là bị trù dập suốt đời. Ngay cả những người trong hệ thống chính quyền cộng sản, từ Hoàng Minh Chính, Trần Bách, Nguyễn Hộ, Nguyên Ngọc, Trần Độ, đến thậm chí Võ Nguyên Giáp, còn bị "đập" tơi tả khi "bày đặt có ý kiến" thì huống hồ "nhân dân" của một chính quyền "do dân, vì dân" !
Tại sao "chúng ta" của Võ Văn Thưởng không dám "đối thoại" với người dân ? Không dám bởi vì không thể, không có khả năng, không đủ trình độ, và đặc biệt không đủ lý lẽ để giải thích hoặc biện minh cho những sai lầm chính sách, nhất là những gì liên quan cơ cấu bộ máy thể chế, từ "tam quyền phân lập" giả hiệu đến thậm chí cả Hiến pháp, trong đó luôn khẳng định "Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát". "Chúng ta" của Võ Văn Thưởng không muốn tự sát, như những cái chết oan khuất của những người đấu tranh bị bắt vào đồn và tử vong vì "tự ngã" hoặc "tự tử". Cái chết bởi bạo lực nhân dân trong ngày cuối của một chế độ độc tài là nỗi ám ảnh đáng sợ. Tiếng kinh chiều tàn cầu hồn cho một cái chết đang đến gần cứ vọng bên tai, thường trực. U tối, rùng rợn, và ám ảnh. Cho nên làm sao họ đủ dũng cảm để đối mặt những "câu hỏi thời đại" của nhân dân, trong đó có câu hỏi "Việt Nam có chấp nhận mất nước khi nấp dưới cái bóng Trung Quốc ?".
Bối cảnh Việt Nam hiện nay không giống giai đoạn khối xã hội chủ nghĩa tan rã bởi "bọn xét lại" khiến Nguyễn Văn Linh phải hộc tốc sang Đông Âu kêu gọi "cứu nguy sự tan rã của khối anh em đoàn kết xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên, nguy cơ sụp đổ bởi sự nổi dậy nhân dân ngày càng lớn hơn bao giờ. Bài học sức mạnh nhân dân trong các cuộc cách mạng Cam hoặc cách mạng Hoa nhài đã làm lạnh sống lưng những kẻ cai trị Việt Nam. Bằng mọi giá phải giữ thể chế - họ hoảng hốt lo sợ, khi mà sự mục ruỗng chế độ đã đến mức trầm trọng mà nguyên nhân của nó xuất phát từ chính những sai lầm căn bản mang tính nội tại hơn là từ "thế lực thù địch bên ngoài". Bằng mọi giá phải siết lại tự do, đưa dân chủ vào khái niệm "dân chủ tập trung" do Đảng và Nhà nước giám sát chứ không thể thả lỏng tự do để tự do hình thành dòng chảy như là một xu hướng tất yếu. Bạo lực là giải pháp duy nhất cho sự bảo vệ chế độ ở thời điểm này.
Nếu thật sự lắng nghe ý kiến người dân thì họ đã nghe và đã sửa. Ngày 22/01/1990, lá Tâm thư với chữ ký của hàng trăm trí thức kiều bào do giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Giao đại diện, gửi về Việt Nam từ Pháp, đã cảnh báo :
"Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thể dùng đàn áp hay bạo động để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm được những phương pháp chính trị thích nghi. Hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách : Thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước ; Thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng…".
Tâm thư đã được "đón nhận" và được "phản hồi" : Những trí thức kiều bào ký tên vào Tâm thư không được cấp visa về nước ; có người thậm chí được "đăng tên" ở "Bảo tàng tội ác Mỹ-Ngụy" trong suốt 14 năm ; danh sách 34 người ký tên đầu tiên được niêm yết ở trụ sở công an địa phương cũng như sứ quán một số nước ! Từ năm 1990 đến nay, có bao nhiêu "tâm thư" của đồng bào trong nước lẫn hải ngoại ? Có ý kiến nào được lắng nghe ? Những người dân can đảm dám hành động và lên tiếng vì yêu nước đã luôn nhận lãnh một kết cục bi thảm : điểm dừng của họ là nhà tù, như Trần Huỳnh Duy Thức.
Khó có thể tưởng tượng một "lý thuyết gia" về "tư tưởng" như Võ Văn Thưởng sẽ "ăn nói" như thế nào khi đối mặt với Phạm Đoan Trang, với Trịnh Hữu Long, với Nguyễn Anh Tuấn… Khó có thể hình dung một nhân vật trong Bộ chính trị, kể cả "tiến sĩ Xây dựng Đảng" Nguyễn Phú Trọng, đủ khả năng và lý lẽ để "nói chuyện phải quấy" với những gương mặt trẻ đại diện cho "bọn phản động". Ngày đó, ngày mà nhà cầm quyền chịu ngồi xuống, để bắt tay và nói chuyện với sinh viên, với công nhân, với những người đấu tranh, có thể chẳng bao giờ xảy ra. Thay vào đó là bạo lực đàn áp, là những bản án tù nghiệt ngã và những cái chết vì "tự sát" trong đồn công an. Hãy dừng lại đi ! Dân tộc này đã đổ quá nhiều máu và đã gánh chịu quá nhiều đau thương. Hãy dừng lại những nắm đấm và chìa ra những bàn tay. Không dân tộc nào có thể đi lên phía trước, khi để lại sau lưng những gương mặt người dân bầm tím và những ánh mắt oán thù, bởi sự xuống tay của bạo lực cường quyền.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 17/08/2018
Trong hơn 120 ngày làm thủ tướng tính đến thời điểm hiện tại, ông Nguyễn Xuân Phúc đã đóng dấu ấn với những "chỉ đạo" và "đề nghị" độc đáo cho từng địa phương mà ông "đến và làm việc". Với Tây Nguyên, vì là "vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước" ; với Nghệ An, đây phải là "vùng đất khởi nghiệp và thu hút nhân tài" ; với Bắc Ninh, đây phải là "thủ phủ của sản xuất điện tử sáng tạo của Châu Á và thế giới" ; với Bình Phước, nơi này phải là "thủ phủ của nông nghiệp công nghiệp cao" ; với Ninh Bình, đây phải là "trung tâm du lịch tầm cỡ quốc tế"…
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại lễ công bố "Sách Vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2017", Hà Nội, 28/8/2017
Trong các cuộc làm việc gần đây, ông Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục "chỉ đạo" bằng những "viễn kiến" và "tầm nhìn" tương tự. Ngày 10/08/2018, khi đến Cần Thơ, ông "đề nghị Đại học Cần Thơ cần mạnh dạn thay đổi sứ mệnh phụng sự xã hội và có tầm nhìn phát triển" để trở thành "một trong 20 trường đại học hàng đầu về nghiên cứu ở Đông Nam Á vào năm 2030, là mô hình đại học kiểu mẫu của Việt Nam thông qua sự kết hợp các tri thức cơ bản với giáo dục thực tế…, (để rồi) trong tương lai không xa, Đại học Cần Thơ sẽ là một trong top 1.000 trường đại học thế giới". Riêng về địa phương Cần Thơ, ông nói : "Ở nước ta đã có những thành phố đáng sống thì Cần Thơ có tiềm năng trở thành một thành phố sông nước, một đô thị sinh thái đáng sống" (VOV, 10/08/2018).
Trước đó, khi đến "thăm và làm việc" tại tỉnh Lâm Đồng ngày 30/07/2018, ông đã "gợi ý" mô hình "tam giác ba góc nhọn" để tỉnh này có thể theo đó mà phát triển : "Góc nhọn thứ nhất là mô hình phát triển nông nghiệp sạch, công nghệ cao ; góc nhọn thứ hai là công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp ; góc nhọn thứ ba là du lịch gắn với nông nghiệp công nghệ cao. Theo cách này mới có thể phát triển bền vững tốc độ cao được" (VietnamNet, 30/07/2018). Và trước đó không lâu nữa, khi đến Sóc Trăng ngày 19/06/2018, công thức "ba góc nhọn" đã được thể hiện bằng "ba trụ cột" (nông nghiệp công nghệ cao thích ứng với biến đổi khí hậu ; thủy sản sạch liên kết với ngành công nghiệp chế biến được định vị ở phân khúc cấp cao ; và du lịch sinh thái gắn với phát triển các mô hình nông nghiệp sạch, thông minh). Cũng tại Sóc Trăng, ngoài "ba trụ cột", ông thủ tướng còn đưa ra mô hình "sáu nhà" (nhà nông, nhà nước, nhà đầu tư, nhà băng, nhà khoa học và nhà phân phối), với đề nghị Sóc Trăng cần "xây dựng chuỗi giá trị và quy trình sản xuất các mặt hàng nông sản theo mô hình này" (TTXVN, 19/06/2018).
Không chỉ trong các buổi làm việc tại các địa phương, ở những cuộc họp ban ngành với những chủ đề khác nhau, ông Nguyễn Xuân Phúc cũng thường gây "hoang mang" với những nhận xét hoặc chỉ đạo bằng sự diễn đạt tối nghĩa. Ngày 27/07/2018, khi dự Hội nghị về di sản quốc gia, ông đã "phát biểu kết luận hội nghị" bằng việc nhấn mạnh : "Di sản về bản chất là thuộc về quá khứ và dễ bị ngủ yên. Vì vậy phải luôn "sáng tạo, năng động" để di sản có giá trị trong cuộc sống của thế hệ hiện tại hoặc phải giáo dục về di sản để tạo nguồn cảm hứng nuôi dưỡng lòng tự hào và tự tôn dân tộc hoặc phải tìm các biện pháp phù hợp như cập nhật chính sách, luật pháp, phân cấp quản lý, đào tạo cán bộ, coi trọng chuyên gia để phát huy giá trị di sản tạo thương hiệu du lịch quốc gia, góp phần xóa đói giảm nghèo" (chinhphu.vn, 27/07/2018).
Đáng chú ý hơn cả là "tầm nhìn xa" của ông. Thủ tướng không chỉ muốn "Thành phố Hồ Chí Minh phải là hòn ngọc chiếu sáng Viễn Đông", "Đà Nẵng phải phát triển như Singapore và Hong Kong", mà còn muốn ngành nông nghiệp phải vào "top 15 thế giới trong 10 năm nữa" (phát biểu tại Hội nghị thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp tại Đà Lạt ngày 30/07/2018, nơi ông cũng nhân tiện đề nghị "mọi người cần ăn nhiều rau hơn, nhiều chất xơ hơn để phòng chống bệnh tật và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp"). Và ông thường xuyên nói đi nói lại về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà ông cho rằng đó là "một cuộc chơi ; và mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, là một phần trong đó" (Zing, 12/07/2018).
Khó có thể biết ông thủ tướng căn cứ vào thực tế nào để đưa ra những phát biểu "chỉ đạo" một cách đầy "hình tượng hóa" cho con đường phát triển quốc gia. Ông sắp đặt một tương lai đầy tham vọng nhưng ông không hề cho thấy ông biết cách điều chỉnh hiện tại như thế nào để soạn thảo các bước phát triển nhắm đến mục tiêu tương lai. Làm thế nào để xây dựng tương lai trong khi hiện tại là những đống đổ nát liên tục chồng chất từng ngày ? Với tư cách là người đứng đầu chính phủ, hẳn nhiên ông biết rõ đất nước đang đối mặt những khó khăn nào, trong đó đặc biệt quan trọng là sự mục ruỗng thể chế và sự mất kiểm soát trong bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương. Cơ chế phát triển đất nước là một tổng thể của cơ chế quản lý vĩ mô chứ không phải gán ghép "đầu tàu" hoặc "thủ phủ" cho từng địa phương, trong khi đầu tàu quốc gia ngày càng đi chệch và đi lạc khỏi xu hướng phát triển của thời đại và của thế giới.
Thế nhưng ông thủ tướng vẫn "lạc quan" mơ đến ngày Hà Nội hoặc Sài Gòn bằng Paris hay Hong Kong. Ông chưa bao giờ e ngại việc phung phí ngôn từ cho những giấc mơ và "tầm nhìn" của ông. Ông thủ tướng cũng không tỏ ra thận trọng và dè dặt trong việc "định vị tương lai" trong "bối cảnh Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới", bất chấp việc những phát biểu của ông có thể được trích dẫn trên báo chí nước ngoài, vì rằng, thể chế chính trị mà ông đang hiện diện không hề có cơ chế kiểm soát và đánh giá năng lực điều hành lẫn phát biểu của quan chức chính phủ. Ông và chính quyền của ông không đối mặt đảng đối lập nào để có thể bị "check and balance" hành vi lẫn ngôn từ của mình. Điều đó khiến ông thủ tướng cảm thấy "tự tin" hơn cho những phác họa tương lai không có thực. Tuy nhiên, khi ông càng "tự tin", cá nhân ông và chính phủ của ông ngày càng mất niềm tin nghiêm trọng nơi người dân. Khi ông "tự tin" vào sự độc diễn của đảng cai trị cũng như sự độc diễn của cá nhân ông, ông thủ tướng đã cùng lúc làm xói lở niềm tin người dân vốn đã và đang nhìn vào chính quyền cai trị với ánh mắt bất tín hơn bao giờ hết.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 13/08/2018
Việt Nam có chiến lược phát triển nhân tài hay không ? Câu trả lời là có ! Tuy nhiên, câu chuyện xây dựng và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam luôn là một bức tranh xám xịt vô vọng…
Không đầy nửa năm sau khi ông Vũ Đăng Minh, Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ, hùng hồn phát biểu : "Chính sách thu hút người tài đã rất mạnh !", giáo sư Việt kiều Trương Nguyện Thành đã bị "loại" khỏi ghế hiệu trưởng Đại học Hoa Sen !
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, số 579/QĐ-TTg, ký ngày 19/04/2011, về việc "Phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020", có những mục tiêu cụ thể : Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 40% năm 2010 lên 70% năm 2020 ; đến năm 2020, có bốn trường đại học xuất sắc trình độ quốc tế ; số giảng viên đại học-cao đẳng từ 77.500 người năm 2010 lên 160.000 người năm 2020 ; ngành khoa học-công nghệ từ 40.000 người năm 2010 lên 100.000 người năm 2020 ; công nghệ thông tin từ 180.000 người năm 2010 lên 550.000 người năm 2020… Để thực hiện, "chiến lược" đã đưa ra "những giải pháp đột phá", gồm :
- "Quán triệt quan điểm con người là nền tảng, là yếu tố quyết định nhất trong phát triển bền vững kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước và sự hưng thịnh của mỗi đơn vị, tổ chức"…
- "Tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình bảo tồn, phát triển, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tiến bộ của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đổi mới hình thức và nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân trong trường học"…
- "Hình thành cơ chế và các chương trình phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục, ngành văn hóa, thể thao, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh trong giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên"...
Thật khó có thể tưởng tượng "giải pháp đột phá" đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho tương lai quốc gia lại được diễn dịch bằng những khái niệm mơ hồ như "quán triệt quan điểm" ; đến việc lặp đi lặp lại những hô hào sáo rỗng như "tiếp tục xây dựng và thực hiện" ; và thậm chí liên quan đến "Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh" ! Càng khó tưởng tượng hơn khi người đứng đầu "Viện Chiến lược Phát triển nguồn nhân lực nhân tài Việt Nam" là một ông tướng quân đội (trung tướng Nguyễn Đình Chiến) !
Ngoài Quyết định 579/QĐ-TTg nói trên, còn có "Nghị định số 140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ", bắt đầu chính thức có hiệu lực từ ngày 20/01/2018. Một cách tổng quát, Việt Nam có nhiều "nghị định" và "quyết định" về chính sách nhân tài nhưng vấn đề gì khiến chiến lược phát triển nhân tài Việt Nam không giúp đất nước trở nên cường thịnh ? Đó là khoảng cách giữa văn bản và thực tế, giữa những phát biểu hội nghị đến cách thức làm thế nào để biến thành hiện thực.
Sự thất bại của chính sách thu hút nhân tài tại Thành phố Hồ Chí Minh là trường hợp điển hình. Đã áp dụng một số chính sách thu hút nhân tài "đặc thù" từ năm 2014, như Quy chế thực hiện thí điểm một số chính sách thu hút chuyên gia khoa học và công nghệ (làm việc tại bốn đơn vị : Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Viện Khoa học-công nghệ tính toán và Trung tâm Công nghệ sinh học, với mức thù lao cho mỗi chuyên gia lên đến 150 triệu đồng/tháng), nhưng trong bốn năm, từ 2014 đến 2017, Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ thu hút được… 15 chuyên gia và đến nay chỉ còn 10 người tiếp tục làm việc (SGGP, 2/8/2018). Gần đây hơn, ngày 31/05/2018, chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong lại ký quyết định thực hiện "Đề án thu hút và phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học giai đoạn 2018-2022", trong đó, các chuyên gia, nhà khoa học (không "giới hạn quốc tịch") sẽ được trợ cấp (áp dụng một lần và cho lần ký hợp đồng đầu tiên) từ 80 triệu đến 100 triệu đồng, tùy trường hợp cụ thể…
Vấn đề không chỉ là lương bổng. Vấn đề là mức độ "mở" của chính sách sử dụng người tài và mức độ tôn trọng khả năng sáng tạo tự do đến đâu. Khi mà mọi "chỉ tiêu" và "đường hướng" phát triển đều đặt dưới "sự chỉ đạo của Đảng" và phải đi theo "con đường xã hội chủ nghĩa" thì mọi chính sách nguồn nhân lực đều không bao giờ có thể thực hiện thành công. Với môi trường chính trị hóa mọi kế hoạch phát triển như Việt Nam, sẽ không bao giờ có một Google, không bao giờ có một Facebook, không bao giờ có một SpaceX… Trong khi đó, thế giới đang trở nên nóng hơn bao giờ hết với cuộc chiến giành giật nhân tài. Cách đây 75 năm, trong buổi diễn thuyết tại Đại học Harvard năm 1943, Winston Churchill từng nói : "Các đế quốc trong tương lai sẽ là những đế quốc của trí tuệ". Và ông nói thêm, những cuộc chiến trong tương lai sẽ là cuộc chiến vì nhân tài. Thật vậy, các cuộc chiến trước đây là vì nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng cuộc chiến bây giờ là săn lùng và giữ chân nhân tài, ở cấp độ toàn cầu. Với Việt Nam, việc xây dựng và phát triển nhân tài quốc gia còn khó khăn huống hồ có thể "tham chiến" trong cuộc cạnh tranh giành giật nhân tài thế giới.
Tính đến quý IV 2017, có đến 215.300 cử nhân và thạc sĩ thất nghiệp (Dân Trí, 15/03/2018). Hệ thống đại học bùng nổ (412 trường, với khoảng 2,2 triệu sinh viên) đã không thật sự đóng góp cho việc xây dựng nguồn nhân lực nước nhà. Phương pháp giáo dục đại học không chỉ lạc hậu mà còn nặng tính giáo điều. Đại học vẫn chưa là môi trường để bày tỏ tự do tư duy sáng tạo. Hầu hết đại học đều không thoát ra khỏi mô hình đào tạo "học chữ". Đại học ngày nay không chỉ thuần túy cung cấp kiến thức. Nó phải là môi trường nghiên cứu và tạo cảm hứng nghiên cứu sáng tạo. Nó phải là nơi cống hiến những sản phẩm khoa học thực tế với đóng góp của thầy lẫn trò. Nó phải là nơi kích thích được nguồn năng lượng cho tri thức trẻ. Nó phải là nơi định hình cho tương lai đất nước chứ không phải là nơi những "giá trị" cũ mòn được "bảo tồn".
Thiết hụt nguồn con người, làm thế nào có thể xây dựng quê hương ? Sự thịnh vượng một quốc gia không chỉ nhờ sản xuất và giao thương. Nó còn phải đặt trên nền tảng xây dựng con người, và xây dựng con người phải đặt trên nền tảng một chính sách giáo dục đúng đắn trong đó phải nhấn mạnh đến yếu tố khai phóng, tự do tư duy và tự do sáng tạo. Với Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất khi đề cập đến nguồn nhân lực phải là tái thiết bộ máy giáo dục chứ không chỉ đưa ra những "chủ trương" thu hút nhân tài trên văn bản. Vấn đề xây dựng nguồn nhân tài cho tương lai Việt Nam bây giờ là cần thay đổi triệt để cách thức giáo dục và mô hình đào tạo chứ không chỉ tổ chức những "hội thảo" thu hút nhân tài, trong khi vẫn khư khư giữ lại những rào cản, chẳng hạn Luật Giáo dục Đại học Việt Nam năm 2012 quy định việc bổ nhiệm hiệu trưởng, trong đó có yêu cầu : "Có phẩm chất chính trị…, có năng lực quản lý và đã tham gia quản lý cấp khoa, phòng của cơ sở giáo dục đại học ít nhất 5 năm…". Không đầy nửa năm sau khi ông Vũ Đăng Minh, Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ, hùng hồn phát biểu : "Chính sách thu hút người tài đã rất mạnh !" (Tuổi Trẻ, 15/12/2017), giáo sư Việt kiều Trương Nguyện Thành đã bị "loại" khỏi ghế hiệu trưởng Đại học Hoa Sen !
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 11/08/2018
Bộ Giáo dục và đào tạo tổng kết cuộc thi trung học phổ thông 2018 với những con số sau : Kỳ thi có 925.753 thí sinh đăng ký, tổ chức tại 2.144 điểm với 39.689 phòng thi ; được giám sát bởi gần 45.000 cán bộ, giảng viên từ 216 đại học, học viện...
Bộ Giáo dục và đào tạo "báo cáo" : kỳ thi đã được tổ chức "đúng kế hoạch, đảm bảo nghiêm túc, khách quan, an toàn đúng quy chế, đáp ứng các mục tiêu đề ra, đảm bảo phù hợp với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo".
Học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi thị ở Ninh Hiệp phản đối dự án lấy đất trường học làm trung tâm thương mại.
Khoan nói về việc "đúng kế hoạch, đảm bảo nghiêm túc…". Cũng khoan nói về kết quả thi của học sinh. Những cuộc thi Trung học phổ thông cũng như thi đại học chỉ cho thấy một kết quả chung : hệ thống giáo dục-đào tạo Việt Nam gần như không đóng góp được gì cho phát triển, ở một quốc gia mà yếu tố phát triển không quan trọng bằng "ổn định chính trị". Sau mỗi cuộc thi tốn kém là những gánh nặng cộng thêm chồng chất lên vai những người đóng thuế - để tiếp tục nuôi một bộ máy giáo dục tồi tệ rệu rã và tiếp tục nuôi một tỷ lệ sinh viên thấp nghiệp tăng dần mỗi năm, với thống kê mới nhất là 200.000 người mà Bộ trưởng Giáo dục và đào tạo Phùng Xuân Nhạ vẫn "lạc quan" cho rằng con số đó là "không quá lớn" (trong báo cáo Quốc hội đầu tháng 6/2018).
Trong thực tế, có một "cuộc thi" khác khốc liệt và gay góc hơn nhiều. Nó "được tổ chức" không phải trong phòng thi mà là tại các văn phòng tư vấn du học. Đó là "cuộc thi" của người lớn, một cuộc chạy đua đưa con đi tỵ nạn giáo dục. "Thí sinh" tham gia cuộc thi này không chỉ là những phụ huynh có tiền. Không ít người đã phải cắn răng chấp nhận bán cả nhà cửa đất đai để lo cho con du học. Nó là cuộc đánh đổi phần đời còn lại của phụ huynh để lo cho tương lai lâu dài hơn của con em. Đi đâu gặp nhau bây giờ người ta cũng hỏi thăm nhau cách thức du học "an toàn" và "vừa túi tiền".
Các thành phố lớn đang nở rộ dịch vụ tư vấn du học. Dịch vụ tư vấn du học tấn công cả vào học đường đến mức hồi cuối tháng 5/2018, Sở Giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã ra văn bản cấm quảng cáo du học trong trường học. Báo Tuổi Trẻ (25/06/2018) thậm chí cho biết, ngay sau khi môn thi đầu tiên kết thúc, các công ty du học đã rải tờ rơi tư vấn tuyển sinh tại nhiều điểm thi ở miền Trung (năm nay, ngoài tờ rơi, thông tin tư vấn du học còn được in lên quạt tay và nước đóng chai !).
Cơn sốt bùng nổ tìm đường tỵ nạn giáo dục đã cho thấy rõ bi kịch thất bại chua chát của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nó cũng cho thấy nhiều đường nét nghịch lý của bức tranh giáo dục. Có hơn 8,1 triệu kết quả khi tìm kiếm cụm từ "nhà nghèo đậu đại học" từ Google nhưng báo chí gần như không có bài viết nào về chân dung con cái quan chức thi và đậu đại học từ các trường trong nước, con của quan chức trong ngành giáo dục càng không ! Hệ thống chính trị lẫn bộ máy giáo dục của hệ thống đó đã "mạnh mẽ khước từ" chính sản phẩm giáo dục của họ.
Trong gần một triệu thí sinh Trung học phổ thông hàng năm, dường như không có "sĩ tử" nào là con cái quan chức nói chung và quan chức giáo dục nói riêng. Bộ máy lãnh đạo giáo dục vẫn ra rả "tính ưu việt" của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nhưng họ chứ không ai khác đã kinh hãi và thậm chí trong thâm tâm có thể khinh bỉ chính hệ thống giáo dục quái dị của họ. Không như các phụ huynh mất ăn mất ngủ lo "chạy" cho con đi du học, quan chức đã "bí mật" cho con họ đi tỵ nạn giáo dục tại các nước tư bản, năm này sang năm kia, và con số đó chắc chắn ngày càng tăng dù không bao giờ có một thống kê chính xác và minh bạch. Nói cách khác, họ đã mặc nhiên thừa nhận sự thất bại của hệ thống giáo dục do họ tạo ra.
Điều tồi tệ nhất trong tất cả những điều tồi tệ là sự mặc nhiên thừa nhận thất bại đã không đi cùng với sự xấu hổ và liêm sỉ để có thể chỉnh đốn hệ thống giáo dục. Họ tống ra xã hội một sản phẩm nhàu nát nhưng bản thân họ tìm kiếm sản phẩm tốt đẹp hơn. Tương lai quốc gia không bằng tương lai con cái hoặc bản thân họ. Và họ cũng chẳng hề thể hiện lương tâm. Đòi hỏi yếu tố trách nhiệm đối với bộ máy lãnh đạo giáo dục cũng chẳng khác gì yêu cầu một đứa bé vô giáo dục từ căn bản phải biết xin lỗi và nhận trách nhiệm cho một hành vi phá phách có-ý-thức.
Giáo dục Việt Nam đến mức này đã không còn là một vấn đề. Nó là vấn nạn quốc gia. Nó là cuộc lao dốc không có điểm dừng. Nó không còn mang lại chút niềm tin nào. Ngược hướng với đà tuột dốc giáo dục là cuộc chạy đua quyết liệt của những phụ huynh dáo dác tìm đường đưa con du học - chạy đua kiếm tiền hoặc vay tiền, chạy đua tìm dịch vụ tư vấn, chạy đua tìm trường nước ngoài có chi phí rẻ… Một cuộc chạy thi và chạy đua tìm kiếm tương lai, không phải ở Việt Nam. Trong "cuộc thi" khốc liệt này, bài toán mà một số phụ huynh phải giải cho bằng được luôn khó gấp vạn lần phương trình số học trong phòng thi mà con em họ làm. Trong "cuộc thi" này, thật mỉa mai, có những trường hợp được "đặc cách" : dành cho người "có công với cách mạng", những kẻ thuộc hệ thống cai trị, những kẻ bây giờ cần phải nêu chính xác là những tay tư bản đỏ, đã và đang vơ vét cạn kiệt ngân khố quốc gia, để lại những đổ nát hoang tàn, trong đó có vũng lầy giáo dục. Họ thừa tiền và dư điều kiện để trải thảm cho con mình du học. Họ còn có thể có thừa nhiều thứ khác. Họ chỉ thiếu vài thứ : lòng liêm sỉ và sự dũng cảm giẫm lên "bãi phân giáo dục" mà chính họ tạo thành.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 28/06/2018
Dự luật thành lập ba đặc khu kinh tế (Vân Đồn-Quảng Ninh, Bắc Vân Phong-Khánh Hòa, Phú Quốc-Kiên Giang) đang gây chú ý không chỉ bởi yếu tố thời hạn cho thuê đất có thể lên đến 99 năm mà là sự lo lắng về một cuộc đổ bộ của Trung Quốc, cát cứ ba vị trí ảnh hưởng an ninh quốc gia. Mở rộng ảnh hưởng và bành trướng chủ nghĩa thực dân kiểu mới bằng lá bài "đặc khu kinh tế" là chủ trương Bắc Kinh. Thử xem Trung Quốc đang làm gì với những "đặc khu" ở các nước khu vực…
Trung Quốc Và Những "Tiểu quốc" mang tên "Đặc khu"
Năm 2007, Chính phủ Lào cấp phép cho thuê đất 99 năm cho tập đoàn Kings Romans có trụ sở tại Hong Kong, lập "Đặc khu kinh tế Tam Giác Vàng" tại tỉnh Bokeo. Lào đồng ý cho Kings Romans thuê 10.000 hecta đất trong đó 3.000 hecta được dành cho "đặc khu", với nhiều chính sách ưu đãi chẳng hạn miễn thuế. Kings Romans dự kiến đầu tư tổng cộng 2,25 tỷ USD vào trước năm 2020, trong đó có một sân golf, khu massage, karaoke… Nói chung là ăn chơi chứ không phải hạ tầng hi-tech. Trong video clip 15 phút quảng bá phát trên nhiều website Trung Quốc năm 2013, Kings Romans tự hào việc xây dựng một khu du lịch và thương mại cùng với khu nghỉ dưỡng cao cấp, sân golf, câu lạc bộ du thuyền… Hầu hết 4.500 nhân viên-công nhân tại đặc khu là người Trung Quốc. Người điều hành Kings Romans là Zhao Wei 67 tuổi, mà theo Los Angeles Times, vốn là một y sĩ làng quê xuất thân từ Hắc Long Giang. Nói với South China Morning Post, Zhao Wei cho biết ông ta toàn quyền kiểm soát Đặc khu Tam Giác Vàng ; và đặc khu là "một thế giới riêng của người Trung Quốc". "Thế giới riêng" đó chiếm 102 km2, với 7 km dọc bờ Mekong nhìn sang Myanmar và Thái Lan.
Hơn 10 năm sau khi "cam kết mang lại lợi ích kinh tế cho tỉnh Bokeo nói riêng và Lào nói chung", Kings Romans đã biến Đặc khu Tam Giác Vàng thành một ổ tội phạm khổng lồ. Tháng 1/2018, Bộ tài chính Hoa Kỳ đã đưa công ty này vào danh sách các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia bị Mỹ cấm vận, bởi liên quan "ma túy, buôn người, buôn lậu động vật hoang dã và mại dâm trẻ em" (Reuters 31/1/2018). Cơ quan phòng chống ma túy (DEA) và Bộ Tài chính Mỹ thậm chí cấm vận một người mang quốc tịch Úc (Abbas Eberahim) làm việc cho Kings Romans, vì tội "chịu trách nhiệm an ninh cho Kings Romans Casino cũng như hối lộ giúp Zhao Wei". Việc bị Mỹ cấm vận dĩ nhiên không ảnh hưởng hoạt động Kings Romans tại Lào. Vientiane không vì thế mà đóng cửa Kings Romans. Hang ổ ma túy đĩ điếm này còn mặc sức tung hoành với cái hợp đồng 99 năm.
Có nước lớn nào đầu tư mạnh vào mô hình đặc khu tại nhiều quốc gia như Trung Quốc? Gần như là không. Mô hình đặc khu đã lỗi thời. Tại sao Trung Quốc thích xây dựng đặc khu? Kế hoạch này, trước hết, nằm trong bản thiết kế vừa mang lại lợi ích kinh tế lẫn lợi ích chính trị: "Một vành đai-Một con đường". Theo Caixinglobal (12/5/2017), tính đến tháng 4-2017, Trung Quốc có tổng cộng 77 đặc khu đang được xây tại 36 quốc gia, với 56 đặc khu nằm tại 20 quốc gia dọc theo tuyến "Một vành đai". Hơn 1.000 công ty Trung Quốc đã đầu tư 18,55 tỷ USD tại các đặc khu dọc tuyến "Một vành đai". Không như mô hình công viên công nghiệp mà Mỹ, Nhật hoặc Hàn Quốc xây dựng, nơi nguồn nhân lực chủ yếu là người bản địa, "đặc khu" Trung Quốc, tại bất kỳ quốc gia nào, chỉ ưu tiên cho người Trung Quốc. Đặc khu là một thành phố Trung Quốc được dựng ngay trong lòng một quốc gia khác, khai thác chính nền kinh tế quốc gia đó và mang lợi nhuận về bản quốc.
Nhìn lại, có thể thấy Trung Quốc chỉ nhắm vào các nước nghèo để lập đặc khu. Sức mạnh kim tiền của Trung Quốc dù ghê gớm thế nào cũng không thể lập một đặc khu như Kings Romans hay Sihanoukville tại Mỹ hoặc thậm chí Hàn Quốc, nơi Trung Quốc không thể mua chuộc đám quan chức tham lam sẵn sàng vỗ béo mình bằng cách "kinh doanh" tương lai quốc gia khi bán đất đai cho nước ngoài với giá rẻ mạt; nơi Trung Quốc không thể hối lộ bọn quan quyền vô liêm sỉ sẵn sàng đưa quốc gia đến nguy cơ diệt vong chủ quyền.
Tháng 2-2018, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron mời 1.000 nông dân vào Điện Elysée với lời hứa, Chính phủ Pháp sẽ chặn đứng các thương vụ mua đất từ người nước ngoài sau khi dư luận Pháp phản ứng trước vụ một nhà đầu tư Trung Quốc mua 2.700 hecta đất tại vùng Allier và Indre. Câu chuyện của nước Pháp xa xôi và nước Pháp văn minh không giống với câu chuyện Việt Nam với một "đảng cai trị và nhân dân làm chủ". Trong Dự thảo luật đặc khu, Điều 11 ghi : "Cơ quan lập quy hoạch đặc khu có trách nhiệm lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan, chuyên gia, nhà khoa học, nhà đầu tư chiến lược, cộng đồng dân cư sinh sống tại đặc khu về quy hoạch đặc khu". Tuy nhiên, ngày 16-4-2018, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân "nhấn mạnh" tại phiên thảo luận về dự thảo Luật đặc khu Vân Đồn-Bắc Vân Phong-Phú Quốc rằng, "Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật"…
Mạnh Kim
Nguồn : nviet.net, 01/06/2018