Ngay sau khi tin tức về EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu) bị Liên Hiệp Châu Âu (EU) hoãn lại việc phê chuẩn lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội và trong dư luận (trừ mặt báo nhà nước) vào ngày 24/01/2019, một số nguồn tin từ nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận tâm trạng chung của giới lãnh đạo cao cấp là bị bất ngờ và thất vọng đến mức ‘mặt cứ thượt ra’ mà không biết phải nói gì.
Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh điều trần trước Ủy ban Nghị viện Châu Âu về Thương mại Quốc tế về Hiệp định Thương mại Tự do và Hiệp định Bảo vệ Đầu tư (IPA) giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu ngày 11/10/2018 -VNA / VNS Kim Chung - Ảnh minh họa
‘Mặt cứ thượt ra’
‘Không biết nói gì’ cũng là cách mà Bộ Ngoại giao thông qua người phát ngôn của mình thể hiện vào ngày 24/1 trong một cuộc họp báo. Trang thông tin điện tử của Chính phủ tường thuật rằng khi trả lời câu hỏi của phóng viên về thông tin một số tổ chức dân sự kêu gọi EU hoãn bỏ phiếu thông qua EVFTA, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng chỉ nói là hiện nay cả Việt Nam và EU đang tích cực các nỗ lực và thủ tục để sớm có thể chính thức phê chuẩn và đưa EVFTA đi vào thực thi. Nhưng hoàn toàn không có bất kỳ một lời lên án hay chỉ trích nào - theo não trạng và thói quen trước đây - đối với ‘một số tổ chức dân sự’ mà trong rất nhiều lần thể chế độc đảng độc trị Việt Nam đã gán ghép với ‘các thế lực thù địch’ và ‘diễn biến hòa bình’.
Vậy ‘một số tổ chức dân sự’ là những tổ chức nào ?
‘Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng’
Vào trung tuần tháng 11 năm 2019 khi Hội đồng Châu Âu chuẩn bị một cuộc họp để bỏ phiếu về khả năng có phê chuẩn EVFTA và sau đó trình cho Nghị viện Châu Âu hay không, một bản kiến nghị khẩn cấp của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch) cùng 17 tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài Việt Nam gửi đến Nghị viện Châu Âu, Hội đồng Châu Âu và các cơ quan liên quan, yêu cầu EU hoãn thông qua EVFTA vì chính quyền Việt Nam đã không làm bất cứ điều gì để cải thiện nhân quyền, và ‘nhân quyền trên hết’ - điều kiện cần của Nghị viện Châu Âu - cho tới nay đã hoàn toàn bị chính thể độc trị ở Việt Nam phớt lờ.
Nhiều cái tên tổ chức xã hội dân sự trong nước mà chính quyền Việt Nam nhẵn mặt đã hiện diện trong bản kiến nghị trên : Hội Bảo vệ quyền tự do tôn giáo, Hội Cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, Bầu Bí Tương Thân, Defend the Defenders và một số tổ chức tôn giáo khác.
Hoàn toàn có thể thông cảm với tâm trạng bị bất ngờ và thất vọng của giới chóp bu Việt Nam khi nhận được tin EVFTA bị hoãn. Bởi trước đó, ‘đảng và nhà nước ta’ vẫn tự tin với kết quả ‘EVFTA sẽ sớm được ký kết và phê chuẩn’ cùng một luồng dư luận trong nội bộ đảng về ‘Châu Âu cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Châu Âu’, đặc biệt sau cuộc điều trần EVFTA tại Brussels của Bỉ vào tháng 10 năm 2018 mà sau đó Ủy ban Châu Âu đã chuẩn thuận EVFTA và gửi tờ trình cho Hội đồng Châu Âu để xem xét phê chuẩn, khiến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng hệ thống tuyên giáo và báo đảng đồng ca về ‘thắng lợi EVFTA’.
Trạng thái tự tin của giới chóp bu Việt Nam còn kéo dài đến giữa tháng 1 năm 2019, với những tờ báo nhà nước khấp khởi tin tức ‘EVFTA sắp được phê chuẩn’ khi Hội đồng Châu Âu, do sức ép của một số nghị sĩ và doanh nghiệp Châu Âu muốn thúc đẩy nhanh thủ tục của hiệp định này mà không đếm xỉa đến tình trạng nhân quyền bị xâm phạm trầm trọng ở Việt Nam, chuẩn bị mở một cuộc họp về vấn đề này.
Nhưng thái độ tự tin thái quá đã phải trả giá. Những tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài Việt Nam - giới mà chính quyền luôn coi thường ‘chỉ có một nhúm người’ và hoàn toàn không phải là đối trọng chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, đã làm nên một chiến thắng ngoạn mục nhưng được tích lũy bởi chiều sâu hệ thống : bản kiến nghị yêu cầu hoãn EVFTA đã có tác động đáng kể đến EU.
Thắng lợi này đã dẫn ra một định đề ‘sáng mắt sáng lòng’ đối với Đảng cộng sản Việt Nam : nếu ở trong nước, đảng có thể huy động hàng trăm ngàn công an để bóp nghẹt quyền làm người của người dân, đàn áp dã man các cuộc biểu tình và đình công, bắt bớ giới đấu tranh dân chủ nhân quyền, thì khi ra sân chơi quốc tế lại là một câu chuyện khác hẳn. Dù chỉ là ‘một nhúm người’, nhưng giới tổ chức xã hội dân sự với hành động đấu tranh cho quyền lợi của người dân lại có sức ảnh hưởng quốc tế và hiệu quả quốc tế vận cao hơn rất nhiều so với Bộ Ngoại giao và các tổ chức ‘cánh tay nối dài của đảng’ chỉ biết mị dân và dối trá về nhân quyền.
Chỉ ít tháng trước chiến thắng về hoãn EVFTA, giới tổ chức xã hội dân sự cũng đã giành một thắng lợi quan trọng : vào tháng 9 năm 2018, 50 tổ chức dân sự đã đồng loạt gửi thư cho các cơ quan quốc tế về tình trạng hãng Facebook có nhiều dấu hiệu và biểu hiện ‘đi đêm’ với chính quyền Việt Nam để bóc gỡ nhiều ‘tin phản động’ - mà thực chất là bài viết mang tính phản biện chính quyền của những người đấu tranh nhân quyền. Sau đó và cùng với một cuộc điều trần của lãnh đạo Facebook trước Quốc hội Hoa Kỳ, Facebook đã phải điều chỉnh thái độ ‘bóc gỡ’, để cho đến đầu năm 2019 Facebook đã bị chính quyền Việt Nam chỉ đạo cho hệ thống tuyên giáo và báo đảng đồng loạt đấu tố về thái độ ‘bất hợp tác’ và không chịu đóng thuế.
Còn giờ đây sau vụ EVFTA bị hoãn, có lẽ giới chóp bu Việt Nam đã phải nhìn nhận Xã hội dân sự không chỉ là một thực thể, mà còn là một thực thể không hề yếu ớt trong cuộc chiến nhân quyền với chính quyền, rất tương hợp với cảnh ‘nực cười Châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng’.
Chiến thắng mang tên EVFTA của giới xã hội dân sự vào đầu năm 2019 có thể là một điềm tốt cho xu thế nhân quyền tăng tiến tại Việt Nam trong năm nay, nhưng lại là một điềm xấu cho sự tồn vong của chế độ ‘Việt Nam cùng Venezuela nắm tay nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội’.
Cơ hội còn lại cho đảng độc trị
Theo lịch trình dự kiến trước đây mà chính phủ Việt Nam đặt rất nhiều kỳ vọng và đã triển khai nhiều cuộc vận động vừa ngấm ngầm vừa công khai để hoàn thành thủ tục ký kết và phê chuẩn càng sớm càng tốt, Hiệp định EVFTA có thể sẽ được Hội đồng Liên Hiệp Châu Âu xem xét phê chuẩn vào tháng Hai năm 2019. Tiếp đó, vào tháng Ba, hiệp định này sẽ được đưa ra Nghị viện Châu Âu để thông qua.
Nhưng quyết định hoãn EVFTA của Hội đồng Châu Âu là bằng chứng rõ ràng nhất cho tới nay về việc Liên Hiệp Châu Âu không còn đáng bị xem là yếu thế và nhu nhược trong con mắt của chính quyền Hà Nội, và quyết định này là sự tuân thủ một cách triệt để và kiên định tinh thần bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu ban hành vào giữa tháng 11 năm 2018.
Giới chóp bu Hà Nội đã thất bại cay đắng : chiến thuật câu giờ nhân quyền và chỉ hứa không làm của họ đã không còn ma mị được EU theo cái cách mà họ đã qua mặt Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để được tham gia vào tổ chức này vào năm 2007. Quá nhiều ‘thành tích nhân quyền’ của chính thể Việt Nam trong một thập kỷ qua, đặc biệt vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, đã khiến cả Châu Âu được ‘sáng mắt sáng lòng’.
Quyết định hoãn EVFTA cũng là một cảnh báo gián tiếp đối với chính quyền Việt Nam : không chịu cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, thực chất và mang tính chứng minh được, sẽ chẳng có EVFTA nào tự động chui vào dạ dày của những kẻ chỉ biết ăn không biết làm.
Bernd Lange - Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Quốc hội EU và là cơ quan có thẩm quyền rất quan trọng, bên cạnh Hội đồng Châu Âu, để trình dự thảo EVFTA cho Nghị viện Châu Âu xem xét - tuy là người được xem là ôn hòa, giờ đây cũng phải quyết liệt : "Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc hội Châu Âu thông qua hết".
Chỉ còn chưa đầy 4 tháng nữa sẽ diễn ra cuộc bầu cử một quốc hội mới của Châu Âu - với những gương mặt mới và quan điểm mới mà rất có thể sẽ ưu tiên nghị trình cho những vấn đề cấp thiết khác chứ không phải là xem xét phê chuẩn EVFTA để Việt Nam được ‘ăn sẵn và ăn ngay’.
Nhưng thực tế là chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa sẽ đến phiên họp của Nghị viện Châu Âu - cơ hội cuối cùng để thể chế cộng sản Việt Nam nhận được hy vọng từ EVFTA. Chính quyền Việt Nam sẽ phải làm gì từ đây đến lúc đó để ‘còn nước còn tát’ ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 27/01/2019
"Mục đích họ sang, gặp mặt chúng ta chỉ là để câu giờ. Họ không bao giờ chốt các vấn đề, không làm việc bằng văn bản bản chất. Facebook đang kinh doanh kiếm lời tại một quốc gia và không tuân thủ luật pháp quốc gia đó".
Vợ chồng ông chủ Facebook, Mark Zuckerberg (thứ 2 từ trái) và vợ Priscilla Chan (thứ 2 từ phải) trong chuyến thăm vịnh Hạ Long của Việt Nam hồi tháng 12 năm 2011. (Hình : Getty Images)
Một quan chức của Cục Phát Thanh Truyền Hình và Thông tin Điện tử, thuộc Bộ Thông tin và truyền thông Việt Nam, đã trả lời phỏng vấn báo chí nhà nước với thái độ đầy "bức xúc" như thế.
Nhưng điều trớ trêu đối với nhà cầm quyền Việt Nam là trong khi họ tố cáo Facebook "câu giờ", đó cũng là một thủ đoạn rất quen thuộc để đối phó với rất nhiều cáo buộc của cộng đồng quốc tế về việc Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng.
Kể từ khi Việt Nam tham gia vào Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc vào cuối năm 2013 đến nay, đã chẳng hề có một cải thiện nhân quyền nào được thực hiện, nếu không muốn nói là ngược lại.
Hết thời "nhà chồng" và "nàng dâu"
"Chúng tôi có một quy trình rõ ràng để các chính phủ báo cáo nội dung bất hợp pháp và chúng tôi xem xét tất cả các yêu cầu đó, đối chiếu các điều khoản và điều kiện cung cấp dịch vụ của chúng tôi với luật pháp địa phương", Facebook viết trong một tuyên bố để phản ứng những cáo buộc của nhà cầm quyền Việt Nam vào tháng Giêng, 2019 về việc doanh nghiệp này "vu khống, bôi nhọ cá nhân, tổ chức ; cho phép quảng cáo bất hợp pháp ; và trốn thuế".
Lần đầu tiên từ lúc vào Việt Nam, Facebook đã biết phản ứng như thế nào trước sự can thiệp ngày càng thô bạo của chính thể độc đảng ở đất nước này.
Việc Facebook cho bà Lê Diệp Kiều Trang – con gái của một cựu quan chức cộng sản, đã nhiều lần thẳng tay cắt bỏ nhiều nội dung phản biện xã hội và tố cáo giới quan chức của những Facebooker, nghỉ việc vào ngày 1 tháng Giêng, 2019, đúng vào ngày Luật An Ninh Mạng của Việt Nam có hiệu lực, có thể là một phản ứng mang hàm ý phản ứng đối với Luật An Ninh Mạng mà đang tạo ra nguy cơ siết bóp đối với Facebook.
Sau một thời gian "vận động thuyết phục" phần nào thành công đối với Facebook và khiến doanh nghiệp này phải xiêu lòng thỏa hiệp để cắt gỡ nhiều nội dung "phản động" trên Facebook cá nhân của nhiều người hoạt động nhân quyền, cuộc đấu tố hằn học và cay cú của nhà cầm quyền Việt Nam đối với Facebook đã cung cấp một bằng chứng trực tiếp về thất bại của họ trong việc cố gắng áp đặt Facebook phải tuân theo luật chơi độc trị và bóp nghẹt tự do ngôn luận trên mạng xã hội.
Thất bại của nhà cầm quyền lại là một thắng lợi đầu tiên của Facebook ở Việt Nam trong việc duy trì tiêu chí của tổ chức này là bảo đảm các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền.
Một cách chính thức, "mối tình" tạm thời giữa Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam với Facebook đã rơi vào dang dở. Lúc này thì không còn có khái niệm "nhà chồng" hay "nàng dâu" mà tân Bộ Trưởng Thông Tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn nhá với phó chủ tịch Châu Á-Thái Bình Dương của Facebook là Simon Milner trong một cuộc gặp tại Hà Nội vào tháng Chín, 2018. Một cách chính thức, Facebook đã chấp nhận cuộc chiến kéo dài và đầy tiểu xảo thủ đoạn của nhà cầm quyền Việt Nam.
Vậy cuộc chiến giữa nhà cầm quyền Việt Nam với Facebook sẽ tiếp diễn ra sao ?
Tiền, tiền, tiền !
"Để chấn chỉnh, cơ quan quản lý sẽ có nhiều hướng xử lý đối với những vi phạm của Facebook tại Việt Nam. Theo đó, các cơ quan quản lý sẽ tiếp tục tập hợp các bằng chứng vi phạm, đấu tranh yêu cầu Facebook tuân thủ pháp luật. Yêu cầu bổ sung các cam kết tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam trong thỏa thuận giữa các nhà cung cấp dịch vụ và Facebook. Ngoài ra, Facebook phải phối hợp với các cơ quan có liên quan để quản lý các hoạt động thanh toán, thuế đối với các giao dịch thương mại, quảng cáo tại Việt Nam. Và nếu Facebook không có những động thái tích cực, các cơ quan quản lý Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp kinh tế-kỹ thuật cần thiết nhằm đảo bảo một môi trường mạng trong sạch, lành mạnh" – theo một bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam, lồng trong bầu không khí "cả hệ thống chính trị vào cuộc" để đấu tố Facebook vào tháng Giêng, 2019.
Cũng theo bản tin trên, thống kê sơ bộ cho thấy hiện có 8 doanh nghiệp viễn thông cho Facebook kết nối trực tiếp và đặt khoảng 900 máy chủ tại Việt Nam… Nhưng điều quan trọng rằng mạng xã hội này lại không có văn phòng đại diện tại Việt Nam và khi đặt máy chủ thông qua các doanh nghiệp viễn thông lại không chặt chẽ về mặt pháp lý. Trong các hợp đồng ký với doanh nghiệp viễn thông không có điều khoản cam kết tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam. Đây cũng chính là kẽ hở để mạng xã hội như Facebook liên tục vi phạm về luật pháp tại nước sở tại.
Hoàn toàn có thể cho rằng với não trạng và thói quen đối phó với giới đấu tranh nhân quyền trong nước, hành động đầu tiên mà các cơ quan chức năng Việt Nam tiến hành sẽ là "trấn áp thuế" đối với Facebook, đồng thời đe dọa đẩy đuổi doanh nghiệp này khỏi lãnh thổ Việt Nam nếu không chịu nộp thuế.
Vào năm 2017, vài ước tính của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã nhắm đến số thuế phải thu đối Facebook vào khoảng 3,000 – 5,000 tỷ đồng. Nếu tiến hành thành công chiến dịch thu thuế đối với Facebook và cả Google, bức chân dung ngân sách Việt Nam – vốn đang xám xịt, đói ăn đến mức phải tìm cách thu thuế với cả những người bán hàng rong và xe ôm, có thể đen đúa thậm tệ trong cảnh vỡ nợ nước ngoài trong tương lai không xa – sẽ vét được khoảng một chục ngàn tỷ đồng, tương đương 0.8% mức thu ngân sách năm 2018, để đỡ tiều tụy hơn.
Phương châm đánh vào nguồn thu từ quảng cáo và những khoản thu khác của Facebook đang lộ hẳn ra. Tám doanh nghiệp viễn thông cho Facebook kết nối trực tiếp và đặt khoảng 900 máy chủ tại Việt Nam sẽ phải chịu áp lực từ Bộ Thông Tin và Truyền Thông và Bộ Công An để chấm dứt hợp đồng hợp tác với Facebook, đồng nghĩa Facebook không còn đất dung thân ở Việt Nam.
Tuy nhiên, từ đe dọa đến thực hiện luôn là một khoảng cách…
Việt Nam có dám kiện hay đẩy đuổi Facebook ?
Khoảng cách đó càng lớn khi giới chuyên gia kinh tế đã có những ước tính nếu Facebook và Google phải rút khỏi Việt Nam, môi trường đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ bị tổn thương trầm trọng khiến GDP của Việt Nam có thể giảm sút đến 1.5%-2%.
Việt Nam lại không phải là Trung Quốc. Và lúc này đang là năm 2019 chứ không phải năm 2010 khi Google bị Bắc Kinh gây áp lực buộc phải dời đi. Tiềm lực quá yếu ớt về kinh tế và sự phụ thuộc quá lớn vào khối đầu tư nước ngoài sẽ không cho phép chính quyền Việt Nam hành xử thô bạo và bất cần như chính quyền Trung Quốc.
Thậm chí ngay cả việc Việt Nam có manh nha ý đồ kiện Facebook ra một tòa án quốc tế nào đó cũng chỉ là không tưởng. Bất kỳ tòa án quốc tế có uy tín và có giá trị phán quyết nào đều đậm dấu ấn của quan điểm tự do ngôn luận trên mạng xã hội, bao gồm quyền tự do thể hiện bất đồng chính kiến. Nếu vụ kiện này xảy ra, trong khi phía nguyên đơn Việt Nam còn chưa có gì bảo đảm là sẽ giành phần thắng, rất có thể nguyên đơn này bị kiện ngược lại vì vi phạm nghiêm trọng quyền tự do ngôn luận – được quy định trong Công Ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết vào năm 1982.
Cơ hội giành phần thắng của nhà cầm quyền Việt Nam trước Facebook tại những tòa án như thế là quá thấp, hoặc chỉ là con số 0.
Cuộc chiến giữa Bộ Thông Tin và Truyền Thông, hay cao hơn nữa là "siêu bộ" – Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam – với hãng Facebook cũng bởi thế sẽ chỉ mang dáng dấp một màn tấu hài với kết quả cuối cùng chẳng đi đến đâu.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 18/01/2019
Ngày 22/01/2019 sắp tới tại Genève (Thụy Sĩ), Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc sẽ tiến hành kỳ họp thứ 2 kiểm điểm phổ quát tinh hình nhân quyền ở Viêt Nam
5 năm qua, theo báo cáo của giơi cầm quyền cộng sản Việt Nam đã thưc hiện đươc hơn 97% khuyến nghi của Hội đồng. Nhưng trên thực tế riêng trong 2 nam 2017, 2018, giới bạo quyền đã gia tăng đàn áp, khủng bố dã man nhứng tổ chức, những người đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ, bảo vê môi trương và an sinh xã hội với hàng trăm người bị bắt giam, nhiều người bi đưa ra xét xử với những bản án hết sức hà khắc 15, 20 năm tù.
Về chỉ số dân chủ năm 2018, Việt Nam được xếp vào hạng quốc gia độc tài và đứng thứ 139 trên gổng số 167 quôc gia được xếp hạng.
Vượt lên gian nan, thử thách năm 2018 phong trào đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam vẫn có những dấu ấn đáng khích lệ mà đỉnh cao là cuộc
Tổng biểu tình ngày Chủ nhật 10/6/2018 trên diện rộng gần như cả nước phản đối luật Đặc khu và luật An ninh mạng. Kết quả buộc giới bạo quyền cộng sản phải đình hoãn vô thời hạn viêc thông qua dự luật Đặc khu.
Năm 2018 cũng đánh dấu thành quả quan trọng trong cuộc vận động quốc tế ủng hộ phong trào đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ cho Việt Nam.
Các tổ chức xã hội dân sự ở trong nước đã có sự phối hơp với các tổ chức của người Việt ở hải ngoại, các tổ chức quốc tế đẩy mạnh các chiến dịch đòi trả tự do cho các tù nhân lương tâm, chấm dứt khủng bố đàn áp tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tôn giáo, tự do thành lập nghiệp đoàn, phản đối việc bắt giam và xét xử với những bản án khắc nghiẹt đối với những những người bất đồng chính kiến.
Từ Sài Gòn, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng đã có cuộc trò chuyện với nhà báo Trần Quang Thành qua chủ đề "Đẩy mạnh hoat động quốc tể trong đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam", nội dung như sau mời quí vị cùng nghe :
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành
Trần Quang Thành thực hiện
Nguồn : Tiếng Dân Việt Media, 16/01/2019
Cảnh nạn Metro số 1
Vụ "Bộ Chính trị đồng ý chủ trương điều chỉnh tổng mức đầu tư Metro số 1 và 2 ở Sài Gòn lên 95.000 tỷ đồng" xảy ra ngay vào những ngày đầu năm dương lịch 2019 xứng đáng không chỉ như một chứng cứ trắng trợn và thô bạo cho đúc kết dân gian "Đảng ngồi xổm trên pháp luật", mà còn có thể khiến bật ra một âm mưu gài nhau trong nội bộ : thấy "nuốt" không trôi núi tiền cao ngất, một số cá nhân liền đẩy trách nhiệm và hậu quả phát sinh cho tập thể theo truyền thống vốn có của một đảng vô trách nhiệm với dân tộc.
Metro Sài Gòn còn trong quá trình xây dựng. (Hình : datchinhchu.org)
Vụ scandal trên xảy ra trong cảnh nạn của một bức tranh nhuốm màu chết chóc đã được khởi sự vào đầu tháng Mười Một, 2018 : ông Võ Phi Anh, mới có 54 tuổi và là phó tổng giám đốc Cienco 6 đơn vị thi công một số hạng mục thuộc công trình tuyến metro số 1 tại Thành phố Hồ Chí Minh, chết trong tư thế treo cổ ở cầu thang văn phòng làm việc. Cái chết bằng dây thừng này bị nghi vấn cao về tiêu cực của những quan chức phụ trách dự án này.
Không bao lâu sau cái chết trên, phía Việt Nam đã bị Nhật Bản kéo áo đòi số tiền 100 triệu USD còn thiếu nhà thầu Nhật trong thi công dự án Metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên ở Sài Gòn.
Chi tiết ngoại giao rất đáng chú ý là cú đòi nợ của Nhật đã từ nhà thầu tới cấp đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam rồi lên đến cấp bộ trưởng ngoại giao Nhật. Có thể cho rằng là lần đầu tiên Nhật Bản – quốc gia mà Việt Nam được hưởng lợi nhiều nhất từ nguồn vốn phát triển chính thức ODA và luôn mơn trớn người Nhật để được vay mượn và nhận viện trợ không hoàn lại nhiều hơn thế, đã công khai phi vụ đòi nợ cho quốc tế biết, bất chấp phía Việt Nam kiên định giữ kín câu chuyện đáng xấu hổ này.
Dự án Metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên đã trở nên nổi tiếng không chỉ bởi cái chết chấn động của quan chức Võ Phi Anh mà còn do nạn đội vốn đến hơn 30.000 tỷ đồng, từ hơn 17 ngàn tỷ lên đến 47 ngàn tỷ, lập kỷ lục đội vốn trong số các công trình xây dựng giao thông thuộc loại "đơn giá đắt nhất hành tinh" và tỷ lệ "ăn chia" lên đến 50-70% giá trị công trình mà chỉ có ở dải đất chữ S thời độc đảng và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vụ scandal trên xảy ra trong bối cảnh phó trưởng ban quản lý đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh Hoàng Như Cương đang hội tụ nhiều dấu hiệu "ra đi tìm đường cứu nước" khi quan chức này bị cơ quan kiểm toán nhà nước yêu cầu xử lý tài chính gần 3 ngàn tỷ đồng. Địa chỉ "cứu nước" vẫn là Hoa Kỳ – một trong những quốc gia hội tụ đông đảo nhất giới quan tham nước Việt.
Và cận kề nhất, bản tin "Bộ Chính trị đồng ý chủ trương điều chỉnh tổng mức đầu tư metro số 1 và 2 lên 95.000 tỷ đồng" đã bị Ban Tuyên giáo trung ương và có thể còn ở cấp cao hơn thế chỉ đạo xóa sạch khỏi mặt báo quốc doanh sau khi bị mạng xã hội lên án "đảng ngồi xổm trên pháp luật".
Nhưng từ lâu trước đó, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã "ngồi xổm trên pháp luật".
Hành vi bất hợp pháp !
Theo quy định tại Luật Đầu Tư Công 2014, dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở lên thuộc dự án trọng điểm quốc gia, phải trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư và thủ tướng chính phủ ra quyết định đầu tư. Nhưng Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tự phê duyệt điều chỉnh dự án đường sắt đô thị tuyến số 1 – một biểu hiện quá rõ ràng về tội "cố ý làm trái".
Trách nhiệm "cố ý làm trái" trên thuộc về thời của những Lê Thanh Hải – bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Hoàng Quân – chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Tín – phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh, Tất Thành Cang – giám đốc Sở Giao thông và vận tải và sau đó là phó bí thư thường trực thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh… – cũng đều là những quan chức gây ra tội ác vô bờ bến tại cái gọi là "khu đô thị mới Thủ Thiêm đẹp nhất khu vực Đông Nam Á" mà đã cưỡng bức hàng chục ngàn gia đình người dân nơi đây phải gia nhập đội ngũ dân oan đất đai lên đến hàng triệu người, trong một Việt Nam khốn khổ điêu linh bởi nạn cường hào ác bá hoành hành khắp nơi từ trung ương xuống tất cả các địa phương.
Còn giờ đây, những kẻ nào, hoặc nhóm lợi ích tham nhũng nào phải chịu trách nhiệm về núi vốn đội lên hơn 30 ngàn tỷ đồng và quá nhiều sai phạm cố ý tại Dự án Metro số 1 ?
Hành vi Bộ Chính trị bất chấp Luật Đầu Tư Công 2014, vội vã "ngồi xổm trên pháp luật" để chấp thuận điều chỉnh tổng mức đầu tư Metro số 1 và 2 lên đến 95.000 tỷ đồng phải chăng là một động tác nhằm hợp thức hóa số tiền khổng lồ đã chui gọn vào túi giới quan tham trong dự án này ? Và nếu đúng là như thế, những kẻ nào hay nhóm lợi ích nào đã "lobby" để "tập thể Bộ Chính trị" qua mặt Quốc hội khi thực hiện sự thông qua – chỉ có thể gọi đúng nghĩa là bất hợp pháp – như thế ?
Nguyễn Phú Trọng – quan chức mà giờ đây đã nắm trọn quyền trong Bộ Chính trị và chỉ còn thiếu cái ghế thủ tướng, đã bị ai đó "dùi", hay chính ông ta là người đưa ra chủ trương Bộ Chính trị họp gấp để hợp pháp hóa mức điều chỉnh dự toán cho dự án Metro số 1 như sự đã rồi, hợp thức hóa cho một núi tiền từ nguồn ODA và tiền đóng thuế của dân Việt mà rất có thể đã bị một nhóm lợi ích nuốt sống, và bắt Quốc hội cùng báo chí quốc doanh phải câm miệng – đúng theo cái cái cách "cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp" mà Trọng đã sống sượng tuyên bố và năm 2013 ?
Bức tranh xám ngoét năm 2019
Rất tương hợp với xu hướng và chiến dịch nhất thể hóa, vụ "Bộ Chính trị đồng ý chủ trương điều chỉnh tổng mức đầu tư metro số 1 và 2 ở Sài Gòn lên 95.000 tỷ đồng" càng khiến hiện rõ bức tranh xung sát quyền lực vào thời "đảng không làm thay mà làm luôn".
Nhưng còn các ủy viên bộ chính trị khác thì sao ? Chắc chắn có những vị không "xơ múi" và cũng chẳng liên đới gì với núi tiền trong Dự Án Metro số 1, song chẳng lẽ họ vẫn chấp nhận cúi đầu bỏ phiếu thuận để lịch sử thời hậu thế sẽ phải truy xét họ ?
Lịch sử cận đại Đảng cộng sản Việt Nam lại đã chứng kiến không ít vụ việc đẩy hậu quả phát sinh trầm trọng cho "tập thể Bộ Chính trị" : vụ dự án Boxit Tây Nguyên đội vốn cao, ô nhiễm môi trường trầm trọng và liên quan đến nguồn gốc đầu tư từ Trung Quốc, đặc biệt là địa thế quân sự của Việt Nam bị khống chế ; dự luật Đặc Khu bị nghi ngờ "bán đất cho Trung Quốc" và gây ra cuộc biểu tình phản đối của hàng trăm ngàn người dân ở Sài Gòn… Tất cả hậu quả phát sinh đó đều được những bàn tay và thế lực đen tối nào đó đẩy cho "tập thể Bộ Chính trị" và như một cách bán đứng Quốc hội "của dân, do dân và vì dân".
Lịch sử thu gọn cho thể chế chính trị độc đảng ở Việt Nam đã được tóm gọn bởi sự khởi đầu mang nặng "điềm xấu" trong hai năm gần nhất : nếu vào đầu năm dương lịch 2018, vụ nhà chức trách Chi-lê phát hiện hàng trăm vây cá mập được phơi phóng công khai ngay trên mái nhà của Đại sứ quán Việt Nam tại Chi-lê đã khiến ngành ngoại giao Việt Nam "rông" nguyên năm với cơn địa chấn mang tên "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" lan từ Đức sang Slovakia, Pháp, Ba Lan và khiến giới quan chức cao cấp của Việt Nam khốn đốn, thì ngay đầu năm 2019 lại nổ ra một scandal, nhưng không còn phải ở phạm vi ngoại giao, mà đã lên đến cấp Bộ Chính trị với cái tên "Metro số 1".
Năm 2019 vừa mở màn bức tranh xám ngoét của nó.
Phạm Chí Dũng
Người Việt, 13/01/2019
Khác hẳn với lối nhanh nhảu công bố kết quả phiếu bầu ‘tôi bất ngờ’ 100% cho ghế tổng bí thư của Nguyễn Phú Trọng đại hội 12 vào đầu năm 2016 và ’99,79%’ cho ghế chủ tịch nước của cùng chủ thể tại hội nghị trung ương 8 vào tháng 10 năm 2018, cho tới nay vẫn chẳng hiện ra bất kỳ một dấu hiệu nào đảng sẽ công bố kết quả ‘phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư’, đặc biệt là kết quả phiếu tín nhiệm dành cho ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng, sau khi Hội nghị trung ương 9 vào tháng 12 năm 2018 đã lặng trôi qua khá lâu.
Nếu không đạt được số phiếu tín nhiệm đủ cao để đủ thuyết phục quần thần, Nguyễn Phú Trọng đã không thể ‘rửa mặt’ trọn vẹn cho scandal Hội nghị trung ương 10 vào đầu năm 2015.
‘Tốt khoe xấu che’
Theo một cơ chế đặc thù riêng có của đảng Cộng sản Việt Nam và rất ăn nhập với ‘đảng anh’ ở Trung Quốc, toàn bộ hệ thống tuyên giáo, báo đảng lẫn hơn 800 tờ báo nhà nước đều không ngoài vòng kiểm soát của Ban Tuyên giáo trung ương, Ban Bí thư và đứng trên tất cả là tổng bí thư. Ứng với truyền thống ‘tốt khoe xấu che’ đã tồn tại quá dai dẳng trong nội bộ đảng từ nhiều năm qua, kết quả các cuộc bỏ phiếu hoặc lấy phiếu tín nhiệm quan trọng được tính toán có ‘giải mật’ hay không không chỉ nhắm đến mục tiêu ‘khai sáng’ cho dân chúng và cho cả ‘các thế lực thù địch trong và ngoài nước’, mà còn phụ thuộc vào những tính toán lợi ích của cán cân quyền lực trong đảng nghiêng về ai hoặc bị chi phối bởi thế lực chính trị nào vào từng thời điểm.
Bầu không khí lặng ngắt không chịu công bố phiếu tín nhiệm của Hội nghị trung ương 8 năm 2018 lại giống hệt cái tâm thế ngậm hột thị sau Hội nghị trung ương 10 vào đầu năm 2015.
Hội nghị trung ương 10 ấy đã chỉ được tổ chức vào tháng Giêng năm 2015, tức trễ đến gần hai tháng so với kế hoạch, với nội dung quan trọng nhất là lấy phiếu tín nhiệm cho cuộc đua ‘thăm dò uy tín tổng bí thư cho đại hội 12’. Không biết vô tình, hữu ý hay do một sự sắp xếp thiên linh của trời đất, ngay trước Hội nghị trung ương 10 đã xảy ra cái chết của Nguyễn Bá Thanh - cựu bí thư Đà Nẵng và khi đó là trưởng ban Nội chính trung ương, cũng là một quan chức được Nguyễn Phú Trọng sủng ái và muốn đưa vào Bộ Chính trị nhưng đã thất bại.
Như một điềm xấu với Trọng…
Theo rất nhiều nguồn tin không chính thức và cả báo chí quốc tế mà cho tới nay vẫn không bị phản ứng hay cải chính nào của bất kỳ cơ quan có trách nhiệm nào của đảng hay chính phủ Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành kẻ vượt mặt Nguyễn Phú Trọng trong diễn ra tại Hội nghị trung ương 10 vào đầu năm 2015, với kết quả Dũng xếp đầu bảng trong khi Trọng chỉ lót chót thứ 8.
Đó là thất bại chấn động thứ hai của Nguyễn Phú Trọng kể từ lúc nước mắt nhòe cặp kính lão tại Hội nghị trung ương 6 vào năm 2012 vì không cách nào kỷ luật được ‘đồng chí X’ bởi có đến 3/4 Ban chấp hành trung ương khi đó vẫn còn lao theo tâm thế ‘còn bạc còn tiền còn đệ tử’ để dồn phiếu cho một kẻ được biết như ‘trùm tham nhũng’. Hai thất bại đó có lẽ đã để lại một nỗi đau lớn lao và thầm kín không thốt nên lời mà một người nặng về sĩ diện và thể diện như ông Trọng quá khó để tự giải tỏa, nếu không tìm được cơ hội phục hồi và lấy lại những gì đã mất.
Cơ hội đó đã đến vào năm 2018, khi Nguyễn Tấn Dũng đã phải nghậm ngùi ‘trở về làm người tử tế’, còn một quan chức được đồn đoán có mối quan hệ thân tình và móc xích với ‘Anh Ba X’ là Trần Đại Quang thì đã thình lình hóa thân thành người thiên cổ vào tháng 9 năm 2018, để lại cái ghế chủ tịch nước trống hơ hoác mà việc ngồi vào đấy trở thành cơ hội hiếm có.
‘36% phản trắc’ ?
Có thể hình dung ra một ẩn ý của Nguyễn Phú Trọng khi ông ta muốn tổ chức Hội nghị trung ương 9 chỉ hai tháng sau Hội nghị trung ương 8 : sau khi được ‘nhất thể hóa’ một cách thần tốc để ngồi luôn vào cái ghế của kẻ mới chết là Trần Đại Quang, ông Trọng muốn tái hiện thành tích ‘100% nhất trí’ mà các đại biểu của đại hội 12 đã dành cho ông ta - ứng cử viên duy nhất cho chức tổng bí thư - tại đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016, sau khi một ứng cử viên thuộc vị thế ‘có tôi không có anh’ là Nguyễn Tấn Dũng đã không thể ngờ được là bị mất đi cơ hội ‘tiếp tục cống hiến cho cách mạng’ sớm đến thế.
Trước khi Hội nghị trung ương 9 diễn ra, một số cựu thần trong đảng đã lên tiếng yêu cầu cần công khai kết quả lấy phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư - một điệu bộ khá tương đồng với phong trào ‘ủng hộ tổng bí thư’ ồn ào trước đại hội 12, trong quá trình ‘đốt lò’ từ năm 2016 đến nay và khi Nguyễn Phú Trọng sắp bước vào cuộc bỏ phiếu lịch sử tại quốc hội để trở thành ‘tổng chủ’. Cùng lúc, khẩu khí của Nguyễn Phú Trọng cho thấy dường như ông ta tự tin và nghiêng về khả năng sẽ cho công khai kết quả này. Hơn nữa từ đầu năm 2018 đến nay, ‘công khai’ có vẻ là một phương châm cũng như một thủ thuật chính trị được ông Trọng ưa chuộng sử dụng nhiều hơn.
Đã có nhiều dự đoán của giới thạo tin chính trị cho rằng sẽ không ngạc nhiên nếu ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng về đầu trong cuộc lấy phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư, trong khi những ‘con ngựa’ về đích tiếp theo sẽ không ngoài những nhân vật như Nguyễn Thị Kim Ngân, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc… Sau khi cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đã trôi qua, phản ánh của một ít nguồn tin trên mạng xã hội dường như đã xác nhận thứ tự về đích này.
Tuy nhiên, lại chẳng có bất kỳ thông tin nào về kết quả cụ thể bao nhiêu phiếu tín nhiệm dành cho từng chóp bu. Hiện tượng trống vắng thông tin này là khác hẳn với một bật mí từ trong nội bộ về việc có đến 36% ủy viên trung ương bỏ phiếu không đồng ý cách chức quan chức Tất Thành Cang tại Hội nghị trung ương 9.
Trong khi vẫn mất biệt những con số cụ thể về kết quả phiếu tín nhiệm, hiện tượng ‘36%’ trên đã khiến một số dư luận không thể không nghi ngờ về khả năng Nguyễn Phú Trọng - cho dù có cán đích đầu tiên chăng nữa - nhưng có thể đã phải nhận một tỷ lệ phiếu thuận không mấy vẻ vang, thậm chí kết quả phiếu tín nhiệm của ông ta còn có thể giảm sút trầm trọng so với kết quả ’99,79%’ mà ông ta nhận được tại Quốc hội vào tháng 10 năm 2018 khi sắp đặt để ngồi ngay vào cái ghế của kẻ vừa ‘không may qua đời’ là Trần Đại Quang.
Mà nếu không đạt được số phiếu tín nhiệm đủ cao để đủ thuyết phục quần thần, Nguyễn Phú Trọng đã không thể ‘rửa mặt’ trọn vẹn cho scandal Hội nghị trung ương 10 vào đầu năm 2015.
Và nếu quả thực đã không xảy ra cái ‘100% nhất trí’ cho Nguyễn Phú Trọng đứng đầu bảng thăm dò tín nhiệm tại Hội nghị trung ương 9, đó chính là một thất bại đáng mất ngủ của ông Trọng. Khi đó, hẳn ông ta phải đau đầu nghĩ ngợi về liệu có một mối liên hệ bền chắc giữa sự biến mất của một số đông phiếu tín nhiệm mà lẽ ra phải dành cho ông ta, với cái tỷ lệ 36% của Ban chấp hành trung ương, tức vào khoảng hơn 70 người - không đồng ý cách chức Tất Thành Cang ?
Và một giả thiết kinh khủng hơn nhiều nhưng không phải là không thể : liệu đã bắt đầu hiện ra một lực lượng ‘chống Trọng’ ngay trong nội bộ cao cấp của đảng cầm quyền ? Liệu cái tỷ lệ ‘36% phản trắc’ kia có bỏ phiếu nghịch dành cho Nguyễn Phú Trọng mà đã khiến thành tích phiếu tín nhiệm của ông ta rớt thảm hại ?
Cuối cùng và theo một thông lệ bất thành văn, toàn bộ hệ thống tuyên giáo và báo đảng im như hến về kết quả phiếu tín nhiệm tại Hội nghị trung ương 9. Chẳng dại gì tự rước vào thân cơn lôi đình của ‘Tổng chủ’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 10/01/2019
Hành động cuối cùng của Liên Hiệp Châu Âu (EU) vào cuối năm 2018 nhằm cố gắng thuyết phục chính thể độc đảng ở Việt Nam cải thiện nhân quyền là một cuộc làm việc của tổ hợp đại sứ nhiều nước phương Tây, được dẫn đầu bởi Đại sứ của EU, với chính phủ Việt Nam về sự cần thiết hoãn hoặc hủy bỏ bộ luật quá gây tai tiếng và nguy hiểm cho quyền con người là Luật An ninh mạng.
EVFTA đã không được ký vào cuối năm 2018.
Vì sao Phúc không nói về ‘thắng lợi EVFTA’ ?
Nhưng đã không có một quan chức chính phủ có trọng lượng nào ra tiếp phái đoàn trên. Thay vào đó chỉ là Mai Tiến Dũng - Chủ nhiệm văn phòng chính phủ, một chức vụ thường được xem là ‘đầu sai’ hơn là có ý nghĩa quyết định những vấn đề lớn.
Và quả thực sau đó, ngày 1 tháng 1 năm 2019, Luật An ninh mạng vẫn chính thức giương nanh múa vuốt theo lịch trình mà ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng đã sắp xếp, bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế và chính phủ nhiều nước phương Tây.
Yêu cầu hoãn hoặc hủy bỏ Luật An ninh mạng lại nằm trong một bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị viện Châu Âu ban hành vào giữa tháng 11 năm 2018 và như một điều kiện để chính thể Việt Nam đánh đổi lấy EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu).
Nhưng rốt cuộc, trong vài tháng cuối năm 2018 đã chẳng có bất kỳ thứ gì thay đổi trên nhân dạng xấu xí của ‘Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người’.
Rút cục, khi năm 2018 đã chính thức lết trôi cái thân hình rã rượi của nó qua ngày cuối cùng, trong lúc Thủ tướng Phúc vẫn say sưa nghiêng ngoẹo bản thành tích về các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đã đạt được và đặc biệt là GDP tăng tới 7%, một dấu ấn không hề mờ nhạt và không thể trốn tránh là việc ông Phúc đã cố tình không nhắc chút nào đến ‘EVFTA được ký kết’ - điều mà ông ta cùng hệ thống tuyên giáo của đảng cầm quyền đã ra sức khoa trương trong hai tháng 10 và 11 năm 2018.
Nhân quyền - điều kiện trên tất cả
Cho đến đầu tháng 12 năm 2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội còn mơ màng tổ chức Hội thảo "Cam kết lao động trong Hiệp định CPTPP và FTA với EU". Đã rõ là chủ đề hội thảo này phản ánh tư thế ăn chắc về ‘EU cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần EU’, ‘EVFTA trước sau gì cũng sẽ được ký kết’ và ‘Việt Nam thành công với EVFTA’, tức hiệp định này sẽ được Cộng đồng Châu Âu cho phép Ủy ban thương mại Châu Âu ký kết với Việt Nam vào tháng Mười Hai năm 2018, để sau đó đến tháng Ba năm 2019 sẽ được Nghị viện Châu Âu chính thức phê chuẩn, mang lại một nguồn máu quý báu giúp cho chân đứng kinh tế của chính thể độc trị ở Việt Nam - vốn đang suy nhược toàn thân - thêm một thời gian cầm cự nữa.
Nhưng Chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có thể đã không cập nhật tình hình thời sự, hoặc quá chủ quan trước một yếu tố mà có thể khiến EVFTA tưởng như nằm trong túi Việt Nam vẫn có thể tuột ra : nhân quyền trong EVFTA.
Bởi khác rất nhiều với quan hệ EU - Việt Nam cách đây vài năm, tình thế hiện thời đã chuyển biến lớn : nhân quyền và công đoàn độc lập mới là số một trong những điều kiện cần trong quan điểm của EU và thể hiện ngay trong của EVFTA.
Ngày 15/11/2018, gần một tháng sau khi Việt Nam đã tưởng như chắc ăn khi Ủy ban Châu Âu đồng thuận làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu để xem xét việc ký kết EVFTA với Việt Nam, Nghị viện Châu Âu bất ngờ tung ra nghị quyết 2018/2925(RSP) về nhân quyền mà đã nhấn kỳ vọng ‘EVFTA được ký kết’ từ xác suất cao hoặc rất cao xuống mốc 50/50.
Khác nhiều với quan điểm không mấy rõ ràng và dứt khoát của Ủy ban Châu Âu, ngay phần đầu của nghị quyết 2018/2925(RSP) đã khẳng định : "Quan hệ giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam phải căn cứ trước hết trên nền tảng tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp quyền ; và trên cơ sở bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế về lĩnh vực này".
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925(RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về các quyền tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do báo chí và Internet, bắt bớ người hoạt động nhân quyền, đàn áp người biểu tình, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…
Động thái tung ra bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu vào ngày 15/11/2018 đã hàm ý như một thông điệp trực tiếp cho Cộng đồng Châu Âu về quan điểm ‘nhân quyền trước hết’, trước khi cơ quan này họp để quyết định có cho phép Ủy ban Châu Âu ký EVFTA với Việt Nam hay không.
Bản nghị quyết trên cũng chính thức xác lập quan điểm rất rõ ràng của Nghị viện Châu Âu về EVFTA. Điều đó có nghĩa là cho dù EVFTA có được Cộng đồng Châu Âu cho phép ký kết, nhưng tại cuộc họp vào tháng Ba năm 2019, rất có thể Nghị viện Châu Âu sẽ bỏ phiếu phản bác hiệp định này, đưa mối quan hệ giữa Châu Âu và Việt Nam về cái thời mà bản hiệp định này mới chỉ là ý tưởng.
Những thời khắc cuối năm 2018 và sang đầu năm 2019 đã chứng minh rất rõ ràng về hiệu ứng từ bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu : không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy EVFTA được Cộng đồng Châu Âu cho phép Ủy ban Châu Âu ký với chính quyền Việt Nam.
Chỉ còn 4 tháng nữa !
Đúng vào ngày ‘Nhân quyền quốc tế’ 10 tháng 12 năm 2018, tức chỉ ít ngày sau khi bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu ra đời, 21 đại sứ và phó đại sứ nước ngoài tại Việt Nam đã lần đầu tiên đồng loạt việc đọc tuyên ngôn nhân quyền Liên hiệp quốc ở Hà Nội diễn ra ngay sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam ‘tự sướng’ rằng bản báo cáo về nhân quyền của Việt Nam "được xây dựng rất công phu với sự tham gia của 18 bộ, ngành liên quan và các tổ chức xã hội, phía Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người"…
Từ trước khi hồ sơ EVFTA được Ủy ban Châu Âu tổ chức điều trần tại Brussels vào tháng Mười năm 2018, đã xuất hiện nhiều cảnh báo từ giới quan chức Châu Âu về việc nếu EVFTA không kịp được phê chuẩn trước khi Nghị viện Châu Âu tổ chức bầu cử, sẽ không có gì chắc chắn là nghị viện mới của Châu Âu - với nhiều gương mặt nghị sĩ mới và quan điểm cũng khác biệt - sẽ dễ dàng thông qua EVFTA. Thậm chí trong trường hợp ‘xấu nhất’, bản hiệp định này sẽ bị một nghị viện mới bộn bề công việc, trong đó bao gồm cả quan điểm chiếm số đông về không thể chấp nhận cho một nhà nước Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng được hưởng lợi từ thị trường chung Châu Âu, gạt phắt sang một bên để số phận của EVFTA cũng hẩm hiu tương tự như Hiệp định TPP vào đầu năm 2017 khi bị Mỹ rút ra.
Thực tế đang ứng nghiệm với kịch bản trên.
Chỉ còn khoảng 4 tháng nữa là đến kỳ bầu lại Nghị viện Châu Âu. Ngay trước đó là cuộc họp tháng 3 năm 2019 của tổ chức này. Nhưng một khi EVFTA vẫn không được ký, lấy đâu ra cơ sở để Nghị viện Châu Âu họp phê chuẩn ?
Đã quá rõ là từ cuộc điều trần ở Bỉ vào tháng 10 năm 2018 cho đến cuối năm đó, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng chịu làm một điều gì để cải thiện nhân quyền. Cũng đã quá rõ là chính vì nguyên do rất chính yếu ấy mà Cộng đồng Châu Âu đã không cho phép Ủy ban Châu Âu ký EVFTA với Việt Nam, cho dù bản thảo của hiệp định này đã khá đầy đủ và nằm sẵn trên bàn chỉ chờ ký.
Ngay cả chuyến công du của nữ phó Chủ tịch Nghị viện Châu Âu - bà Heidi Hautala - đến Hà Nội vào tuần đầu tiên của năm 2019 cũng chẳng hé ra chút hy vọng nào cho chính thể Việt Nam : trong lúc Chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân lại một lần nữa "mong muốn trên cương vị của mình, Phó Chủ tịch sẽ ủng hộ và thúc đẩy EP sớm phê chuẩn EVFTA khi được ký kết", bà Heidi Hautala đã chẳng hé môi bất cứ từ nào về bản hiệp định phải được đánh đổi bằng quyền con người này.
Dự báo rất sáng sủa về kinh tế Việt Nam năm 2019 của Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã hầu như phản ngược với thực tế tối đen của nền kinh tế này trong 10 năm qua và một năm sắp đến chẳng đỡ đen tối hơn chút nào.
"Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng" về thực chất là gì ? Hay chỉ là một thứ công cụ chính trị, được lập ra để đánh bóng và mị dân
Bên trong và bên ngoài phòng họp
"Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng nhận định tiềm năng của nền kinh tế còn rất lớn và xuất hiện thêm không ít cơ hội mới. Nếu có giải pháp thực thi tốt, tận dụng được cơ hội mới, khai thác tốt hơn tiềm năng của nền kinh tế, trong hai năm tới vẫn có thể tiếp tục đà tăng trưởng.
Dự báo kinh tế năm 2019, Tổ Tư vấn đưa ra 3 kịch bản. Theo đó, kịch bản 1 (dựa trên giả thuyết điều kiện bình thường của nền kinh tế), GDP tăng trưởng trung bình 6,86%/năm cho giai đoạn 2018 – 2020. Kịch bản 2, con số này là 6,91% và kịch bản 3 là 7,06%.
Tổ Tư Vấn cho rằng, năm 2019, có thể phấn đấu đạt mức tăng trưởng 6,9-7% và lạm phát dưới 4%…".
Những dự báo quá hồng hào trên xuất hiện trong cuộc họp của Thủ tướng "Cờ Lờ Mờ Vờ" – ông Nguyễn Xuân Phúc – với các thành viên của Tổ Tư Vấn Kinh Tế vào những ngày cuối tháng Mười Hai, 2018.
Nhưng bên ngoài phòng họp sang trọng của Thủ tướng Phúc với Tổ Tư vấn Kinh tế, giá nhiều mặt hàng ở các chợ đầu mối cứ tăng đều vài ba chục phần trăm mỗi năm, còn được dịp tăng giá xăng dầu, giá điện và giá dịch vụ chữa bệnh thì khỏi nói, có lúc hàng hóa tăng gấp rưỡi hoặc gấp đôi.
Trong khi đó, bộ ba "binh chủng hợp thành" nợ công, nợ xấu và ngân sách đều ngày càng tồi tệ : nợ công vọt đến 210% GDP tức hơn 400 tỷ USD, nợ xấu vẫn tròm trèm hàng triệu tỷ đồng, còn ngân sách đang hất thu nghiêm trọng từ ba thành phần kinh tế.
GDP nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo
Tròn một năm trước, vào tháng Mười Hai, 2017, vào lúc chính phủ của Thủ tướng Phúc hào hứng báo cáo với Bộ Chính trị về "đạt toàn bộ 13 chỉ tiêu đề ra" và "GDP tăng trưởng chưa từng có" ở mức gần 7%, một chuyên gia kinh tế là Tiến sĩ Bùi Trinh đã cho rằng bằng một phép tính đơn giản, có thể tính ra GDP của Việt Nam năm 2017 chỉ khoảng hơn 3%.
Tuy nhiên, cách tính của ông Bùi Trinh vẫn còn dựa vào những số liệu thống kê của Tổng Cục Thống Kê mà chưa có được những số liệu điều tra độc lập. Bởi nếu có số liệu điều tra độc lập không phản ánh chủ nghĩa thành tích thì chắc chắn mức tăng trưởng GDP còn tệ hại hơn nhiều.
Về thực chất, GDP của Thủ tướng Phúc là "tăng trưởng ổn định" hay rơi vào suy thoái?
GDP được cấu thành chủ yếu từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của ba thành phần kinh tế tại Việt Nam (khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh).
Một sự thể trớ trêu và phản dội là trùng với thời điểm Thủ tướng Phúc say sưa nghiêng ngoẹo với những con số thành tích của mình trước gần 500 mái đầu ngoan ngoãn trong quốc hội, một bản báo cáo vào tháng Mười năm 2018 của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam được công bố đã phải thừa nhận rằng nguồn thu từ 3 khu vực kinh tế không đạt dự toán (thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,9%, thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,1%, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm 2,2%).
Mà khi thu thuế từ 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh bị giảm mạnh, lấy đâu ra "Kinh tế Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng 7% GDP" – gấp gần 3 lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ và EU – như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên rao đầy tự hào vào cuối năm 2018 và được các bộ ngành, giới chuyên gia cận thần và báo đảng đồng ca đầy sống sượng lẫn trơ tráo?
Cũng bản báo cáo của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam vào tháng Mười 2018 đã phải thừa nhận rằng phần thu cân đối ngân sách nhà nước 2018 tuy có thể đạt 1.358,4 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán đầu năm 39.2 nghìn tỷ đồng – tức tăng 3% so với dự toán – nhưng đây là số tăng thấp nhất so với kết quả thực hiện dự toán trong 4 năm trở lại đây.
Chưa hết. Cũng vào tháng Mười, 2018, những số liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam công bố cho thấy số doanh nghiệp thành lập mới trong quý III/2018 là 96.611, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lại nhiều bất thường, với 24.501 doanh nghiệp, tăng 76%. Tính chung 9 tháng kể từ đầu năm, có 73.103 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, so với cùng kỳ năm 2017 tăng 48,1%. Có nghĩa là tỷ lệ doanh nghiệp "chết" cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp được thành lập mới.
Những nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp phải "chết" là tình trạng tham nhũng trong hệ thống thủ tục "hành là chính," thiếu đầu ra và quá dễ phá sản là những nguồn cơn khiến nhiều doanh nghiệp không còn mặn mà với các chương trình khuyến mãi cho vay vốn của ngân hàng, trong tình trạng ngân hàng đang thừa mứa tiền không tiêu thụ được – hệ lụy của nạn in tiền quá nhiều từ nhà máy in tiền quốc gia của ngân hàng nhà nước và hình ảnh cơ suy thoái kinh tế Việt Nam đã kéo sang năm thứ 10 kể từ năm 2008. Nhiều doanh nghiệp vẫn không thể quên được vào năm 2011 họ đã phải vay ngân hàng với lãi suất cắt cổ lên đến 25 – 30%/năm (chưa kể phí "bôi trơn"), để sau đó không ít doanh nghiệp đã coi đó là thuốc độc mà ngân hàng bắt họ phải uống.
Thật rõ ràng, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng liên tục và tăng trưởng mạnh đến gần 7%/năm của Thủ tướng "Cờ Lờ Mờ Vờ" mà tỷ lệ doanh nghiệp "chết" lại cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp mới ra đời!
Đó là chưa kể một nguy cơ mà rất có thể sẽ trở thành nỗi nguy biến cho chính thể độc đảng ở Việt Nam: "deadline" thực sự cho trữ lượng dầu khai thác ở Việt Nam chỉ còn khoảng 3 năm nữa, tức đến năm 2021 – trùng với kỳ đại hội đảng lần thứ 13, nếu còn có đại hội này.
Vậy ngân sách nhà nước sẽ lấy đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức "còn đảng còn mình" mà có ít nhất 30% trong số đó ăn không ngồi rồi?
Bóp cổ dân nghèo !
"Xe ôm, quán vỉa hè sẽ vào diện quản lý thuế" – một lần nữa trong không ít lần, "Bộ Thắt Cổ" – một hỗn danh mà dân gian dùng để gọi Bộ Tài chính – cùng với Tổng Cục Thống Kê chuẩn bị cái phần việc "chôn sống" những gia cảnh còn thoi thóp trên mặt đất mà chưa chịu chết.
Có đến gần 600.000 hộ gia đình buôn bán nhỏ quán cóc vỉa hè và chạy xe ôm sẽ bị các cơ quan "có trách nhiệm" của một chính quyền đang lao vào thời kỳ "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" truy lùng tróc nã.
Các mưu đồ tăng thuế và cả thu thuế quán cóc, xe ôm xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 10 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa.
Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện "bóp cổ bóp họng" và "không có tiền thì chỉ có chết," sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi…
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt.
"Chế độ này không còn chừa cho dân đường sống nào !" – người đàn bà luống tuổi bạc trắng hai thái dương thốt lên uất ức và căm phẫn như thế. Đã sáu mươi lăm tuổi nhưng bà vẫn phải hàng ngày oằn lưng bán quán nước vỉa hè ở Sài Gòn để nuôi hai đứa cháu ăn học, trong khi cha mẹ chúng phải đi làm công nhân trong một khu công nghiệp ở tận Đồng Nai.
Vậy "tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng" có đưa ra những đánh giá và dự báo khách quan, phản ánh cái thực tế của người nghèo và vô số cảnh khốn khổ trên dải đất quằn quại chữ S này, hay số chuyên gia này cũng chỉ là một công cụ mị dân, lừa dối và "làm màu" cho Thủ tướng Phúc nói riêng và cho chế độ cầm quyền nói chung ?
Những ai còn liêm sỉ ?
Khác với thời Thủ tướng đã phải "trở về làm người tử tế" là Nguyễn Tấn Dũng, vào thời Thủ tướng Phúc đã bổ sung "mác ngoại" cho "Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng" như Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Anh, đại học Indiana, Hoa Kỳ ; Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, giám đốc nghiên cứu, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright ; Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Khương, phó giám đốc, trưởng khoa Tài chính, học viện Quản lý và Quản trị Kinh doanh, Cộng hòa Pháp ; Phó Giáo sư Tiến sĩ Vũ Minh Khương, đại học quốc gia Singapore ; Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Thọ, đại học Wasada, Nhật Bản.
Còn phần lớn trong số 16 thành viên của "Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng" là các quan chức và cựu quan chức như Tiến sĩ Vũ Viết Ngoạn – nguyên chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia làm Tổ trưởng ; Tiến sĩ Vũ Bằng, nguyên chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ; Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; Tiến sĩ Trần Du Lịch, nguyên viện trưởng Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh ; Tiến sĩ Trương Văn Phước, quyền chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ; Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng, giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ; Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam ; Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Quang Thuấn, chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ; ông Bùi Quang Vinh, nguyên bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư…
Không cần ngạc nhiên với những dự báo thuần túy tô hồng của giới tư vấn quan chức, vì đó là thói quen dối trá đã ăn sâu vào cả giấc ngủ của họ. Nhưng lại thật đáng đặt dấu hỏi về thái độ cái gật đầu thỏa hiệp của những chuyên gia "ngoại" – trong đó có người còn được xem là phản biện độc lập và có phần công tâm trong đánh giá thực trạng trạng nền kinh tế Việt Nam.
Chỉ riêng việc "Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng" đồng thuận về mức lạm phát năm 2018 và 2019 chỉ khoảng 4% đã làm nên một khoảng cách mang tính bất liêm sỉ so với cái thực tế nhầy nhụa ở Việt Nam : trong nhiều năm qua, lạm phát thực tế đã lên tới vài ba chục phần trăm mỗi năm chứ tuyệt đối không phải "được kiềm chế dưới 5%/năm" như các báo cáo chính phủ bất cần biết dân chúng và dân sinh. Nếu so sánh con số tổng dư nợ tín dụng cho vay vào thời điểm năm 2008 là 2,3 triệu tỷ đồng và vào năm 2017 lên đến khoảng 7 triệu tỷ đồng – tức gấp đến 3 lần, thì trong gần một chục năm qua Bộ Chính trị đảng và Ngân Hàng Nhà Nước rất có thể đã phải cho in tiền từ 400.0000 – 500.0000 tỷ đồng/năm, kích thích nạn trượt giá tiền đồng và kích hoạt mạnh mẽ nạn tăng giá của nhiều mặt hàng, nhấn thêm hàng triệu người nghèo vào cảnh khốn quẫn hơn.
Rốt cuộc, "Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng" về thực chất là gì ? Hay chỉ là một thứ công cụ chính trị, được lập ra để đánh bóng và mị dân, nhưng kết quả "tư vấn" vẫn phải răm rắp tuân theo mục đích chính trị của đảng cầm quyền ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 06/01/2019
Quên và nhớ
Chỉ có thể là thâm ý của Nguyễn Phú Trọng - một ‘người Bắc, có lý luận’ và không thiếu chất thâm nho. Trừ ra những phát ngôn trên trời về ‘đất nước ta có bao giờ được như thế này không’ mà hầu như chẳng đoái hoài gì đến ngày càng nhiều người dân bị bần cùng hóa như thời thực dân - một sự thật chứng minh rằng ông ta đã quên hẳn dân chúng, Trọng lại chẳng hề bỏ ngoài trí nhớ những chuyện vặt vãnh, tiểu xảo và lục đục quyền lực trong nội bộ đảng của mình.
Kịch bản ‘tổng - chủ’ sẽ ‘kiêm thủ tướng’ (tổng-chủ-thủ) theo một cách nào đó trong tương lai không xa
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, người vừa trở thành ‘tổng chủ’ đã nghiễm nhiên dự hội nghị của chính phủ với các địa phương và lãnh luôn trách nhiệm ‘phát biểu chỉ đạo’, mà không phải là vai trò của Thủ tướng Phúc được nói lời cuối cùng. Đó là cách mà Nguyễn Phú Trọng đã kỷ niệm tròn một năm kể từ lần đầu tiên ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’ vào cuối năm 2017.
Hình ảnh trên cũng rất giống với thế ngồi ngay chính giữa - vị trí chủ tọa - của Ủy viên thường vụ đảng ủy công an trung ương Nguyễn Phú Trọng, trong khi bí thư cơ quan này là Bộ trưởng công an Tô Lâm thì chỉ ngồi kế bên như thể ‘chầu rìa’.
Sau khi giải pháp ‘tình huống’ liên quan đến việc Tổng bí thư Trọng ngay lập tức kế vị người vừa chết là Trần Đại Quang chính thức ập tới với một tốc độ nhanh chưa từng thấy để nghiễm nhiên nảy bật danh vọng ‘tổng - chủ’ của cơ chế ‘hai trong một’, dân gian thậm chí còn bắt đầu nghĩ đến một cách gọi khác cho thể chế ‘ba trong một’ : chẳng hạn như tổng - chủ - thủ…
Còn nhớ vào tháng Mười Hai năm 2018, người đứng đầu bên đảng - Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - đã làm được một việc mà các đời tổng bí thư trước đó hiếm khi làm được, còn các đời chủ tịch nước như Trương Tấn Sang khóa 11 đã không làm được và Trần Đại Quang khóa 12 cho đến khi chết cũng không thể làm được : ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’.
Sự kiện Tổng bí thư Trọng ‘dự và chỉ đạo họp chính phủ’ diễn ra sau Hội nghị trung ương 6 vào đầu tháng 10/2017 với một nội dung cốt tủy của hội nghị này : nhất thể hóa chức danh đảng và nhà nước.
Ông Trọng đã có ý muốn làm… tổng thống ?
Khi đó, Hội nghị trung ương 6 đã ‘định hướng’ một số giải pháp như : phải sắp xếp lại theo hướng sáp nhập những bộ phận có cùng chức năng lại với nhau. Ví dụ như Ủy ban Kiểm tra Trung ương có thể sáp nhập với Thanh tra Chính phủ ; Ban Tổ chức Trung ương có thể nhập với Bộ Nội vụ ; Bộ Kế hoạch Đầu tư có thể gắn với Bộ Tài chính. Hay các đảng ủy khối từ trung ương đến tỉnh, thành, các đảng ủy khối doanh nghiệp, khối cơ quan, khối Dân chính đảng, Đảng ủy khối doanh nhiệp tư nhân cũng là tầng nấc trung gian, nếu không có tổ chức này, hoạt động của Đảng vẫn tồn tại và phát triển. Hoặc Bí thư giữ chức Chủ tịch một địa phương ; người đứng đầu một đơn vị của Nhà nước phải là Bí thư Đảng ủy của cơ quan ấy. Nhất thể hóa như vậy, một người làm việc của hai người, quyền lực sẽ tập trung hơn và sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước…
Chủ trương nhất thể hóa trên lại được hỗ trợ đắc lực bởi một quy định về ‘luân chuyển cán bộ’ do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vào ngày 7/10/2017.
Trong khi đó, ‘đảng tràn sang chính quyền’ là một cụm từ mà dân gian ví von với chiến dịch nhất thể hóa. Theo bản phác họa này, nếu đà nhất thể hóa thuận lợi, lẽ đương nhiên bên đảng và do đó tổng bí thư sẽ ‘nắm’ hết. Mô hình ‘đảng quản lý’ thay cho ‘đảng lãnh đạo’ sẽ ứng với hai chức danh chính là tổng bí thư và thủ tướng mà không quá cần thiết vai trò chủ tịch nước.
Khó mà hiểu khác hơn, logic của phương án ‘bí thư kiêm chủ tịch tỉnh’ sẽ hầu như phải dẫn đến đến kết quả vai trò của tổng bí thư được ‘nâng lên một tầm cao mới’, cao đến mức mà hiểu theo cách nào đó có thể so sánh với mô hình "cộng hòa tổng thống" của phương Tây, tức tổng thống mới là người có quyền lực thực sự và cất tiếng nói cuối cùng để giải quyết các vấn đề quốc gia, chứ không phải thủ tướng.
Khi đó và về thực chất, nhân vật chủ tịch nước kiêm tổng bí thư ở Việt Nam có thể chỉ một bước là nhảy sang mô hình cộng hòa phương Tây, nghĩa là trở thành tổng thống.
Đó cũng có thể là cách để ông Nguyễn Phú Trọng trở thành một ‘hành pháp Obama’ như ở Hoa Kỳ, sẽ điều hành một nước Việt hỗn loạn ở độ tuổi gần tám chục mà chẳng cần đến vai trò của bất cứ thủ tướng nào.
Dù khả năng trên có thể làm hại đến sức khỏe của một người cần đến sự an dưỡng ngủ nghê hơn là nháo nhào quần quật với cái chính trường đến phát đau dạ dày với nhiều trò đâm dao sau lưng và thanh trừng nội bộ, nhưng sau vụ ‘tổng - chủ’ vào tháng Mười năm 2018 thì không có gì là không thể.
Sẽ có hai thủ tướng ở Việt Nam ?
Thể chế ‘tổng - chủ - thủ’ hay ‘đồng thủ tướng’ hoàn toàn có thể xuất phát từ lý do ông Trọng sốt ruột trước tình trạng ‘đốt lò’ bên khối chính phủ vẫn lạnh như băng, hoặc có nhúc nhích thì cũng chỉ cho có và do vậy sẽ phải khiến đảng nhúng tay vào công tác ‘làm nhân sự’ của khối chính phủ ; hoặc tiến độ thu thuế của chính phủ ngày càng trì trệ và bất lực mà khiến ảnh hưởng trầm trọng đến hàng chục ngàn miệng ăn của khối đảng và văn phòng chủ tịch nước ; hoặc một số vấn nạn kinh tế - xã hội khác mà thủ tướng đương nhiệm, không biết vì những nguyên do ẩn giấu hay đủ ‘nhạy cảm chính trị’ nào, đã không thể giải quyết hay xử lý một cách rốt ráo khiến vai trò ‘tổng - chủ’ trở nên mất uy tín trong mắt bàn dân thiên hạ ; chưa kể đến việc chính phủ thực thi những điều ước quốc tế ra sao sẽ liên đới trực tiếp đến uy tín và trách nhiệm ký kết của ‘Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng’…
Với phương châm bám sát thực tế, triển vọng ‘đảng không làm thay mà đảng làm luôn’ là rất gần gũi và hấp dẫn. Khó mà hình dung khác hơn là từ đây đến đại hội 13 vào năm 2021, chỉ cần điều kiện sức khỏe không đến nỗi tệ, Chủ tịch Trọng sẽ tăng cường ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’ một cách thường xuyên và kể cả đột xuất.
Ngay trước mắt, trong tương lai hết sức ngắn hạn và hết sức tranh thủ thời gian, sẽ là những chuyến công du nước ngoài, đặc biệt là tham vọng xuất hiện ngay giữa thủ đô của quốc gia đã từng bị Việt Nam coi là ‘kẻ thù số một’, Hoa Kỳ, của ‘tân chủ tịch nước’ - người mà trước đó đã chỉ bị quốc tế nhìn như một ‘đảng trưởng’ và chẳng có nội lực đáng kể nào để có thể quyết định những chương trình, dự án lớn về kinh tế.
Nếu trong những chuyến công du quốc tế từ năm 2017 đến nay ở Trung Quốc, Pháp, Nga, Hungary, Tổng bí thư Trọng chỉ mang theo bầu đoàn chủ yếu là các quan chức khối đảng, thì gần như không thể nghi ngờ rằng ông ta sẽ tái cấu trúc lại đội hình mang theo trong những chuyến công du đối ngoại trong năm 2019, bao gồm các bộ trưởng khối kinh tế như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước… Nhưng tiêu biểu hơn sẽ là hình ảnh ‘tân chủ tịch nước’ cùng với quan khách nước chủ nhà chứng kiến những buổi lễ ký kết các hợp đồng chi tiết về làm ăn kiếm tiền giữa Việt Nam và thế giới - y hệt hoạt động người thực việc thực của Nguyễn Tấn Dũng trong các chuyến đi Mỹ và châu Âu vào thời ông ta còn chưa phải ‘trở về làm người tử tế’.
Khi đó và một cách nào đó, Việt Nam sẽ tồn tại song song hai thủ tướng.
Cuối cùng khi hiện ra kịch bản ‘tổng - chủ’ sẽ ‘kiêm thủ tướng’ theo một cách nào đó trong tương lai không xa - mà cơ chế ‘dự và chỉ đạo họp chính phủ’ và hoạt động công du đối ngoại có thể là những dấu hiệu đầu tiên của ‘nhất thể hóa đảng và chính phủ’ - thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Xuân Phúc sẽ ‘về’ đâu ?
36% = 2/3 ?
Không bao lâu sau tỷ lệ có hơn 2/3 đại biểu quốc hội bỏ phiếu không tán đồng với một dự luật về truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh của quan chức tại kỳ họp quốc hội tháng 10-11 năm 2018, lại xảy đến tỷ lệ được dư luận xã hội đồn đoán là có đến 36% ủy viên trung ương bỏ phiếu không đồng ý cách chức quan chức Tất Thành Cang tại Hội nghị trung ương 9 vào tháng 12 năm 2018.
Diệt tham nhũng hay diệt lẫn nhau giữa các phe phái trong Đảng cộng sản Việt Nam ? 'Phải có dũng khí chống tiêu cực, lợi ích nhóm' (Nguyễn Phú Trọng) - Ảnh Zing (19/01/2018)
Nếu mặc định rằng dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh và việc cách chức Tất Thành Cang đều xuất phát từ ý chỉ của ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng, mà trong thực tế và logic với những gì mà ông Trọng đã chỉ đạo ‘đốt lò’ đặc biệt từ cuối năm 2017 đến nay thì rất có thể hai chỉ đạo trên chỉ có thể là của ông ta chứ chẳng phải ai khác, khoảng thời gian nửa cuối năm 2018 đã chứng kiến hai thất bại chính trị của ông Trọng : một thất bại rõ nét khi bào thai dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh đã không thể thoát thai, còn thất bại kia mang tính nửa vời khi chỉ nhận được 64% số phiếu của Ban chấp hành trung ương đồng ý cách chức Tất Thành Cang - một tỷ lệ khá thấp và thua xa thói quen ‘gật 100%’ hoặc gần như thế của khối 200 ủy viên trung ương này.
Cần lưu ý rằng kể từ khi đưa vụ Đinh La Thăng ra Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương để xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức vào tháng 5 năm 2017, từ đó đến nay Nguyễn Phú Trọng chưa phải nhận một thất bại nào, dù chỉ là thất bại một nửa như vụ Tất Thành Cang. Trong các vụ biểu quyết thời hậu Thăng như đối với Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh, cựu bộ trưởng thông tin truyền thông Nguyễn Bắc Son và đặc biệt tại sự kiện Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngồi luôn vào ghế chủ tịch nước ngay sau khi ‘đồng chí Trần Đại Quang chẳng may qua đời vì bệnh hiểm nghèo dù đã được tận tình cứu chữa’, các tỷ lệ biểu quyết của Ban chấp hành trung ương và nghị trường quốc hội luôn là ‘tập trung cao’, tức đạt tỷ lệ phiếu thuận xấp xỉ 100%.
Vậy hai tỷ lệ 36% và hơn 2/3 từ đâu ra ?
Theo truyền thống cơ cấu nhân sự và các quyền điều chuyển cán bộ do Bộ Chính trị và Ban Bí thư quản lý, cùng cơ chế chỉ định người của đảng vào các cơ quan Ban chấp hành trung ương và Quốc hội, từ nhiều năm qua đã tồn tại hiện tượng trùng lắp nhân sự đại diện giữa hai cơ quan này, tức nhiều quan chức vừa là ủy viên trung ương và theo đó đương nhiên là đại biểu quốc hội theo cách ‘vừa đá bóng vừa thổi còi’.
Vậy tỷ lệ hơn 2/3 đại biểu quốc hội - khoảng 350 người - không đồng ý dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh có liên đới gì với tỷ lệ 36% ủy viên trung ương - khoảng 70 người - không đồng ý cách chức Tất Thành Cang ?
Hai con số 350 người và 70 người trên có phải là những quan chức mang tên tuổi khác hẳn nhau, hoặc nếu có trùng lắp thì chỉ chiếm số ít, hay có độ trùng lắp cao hoặc rất cao - tức 70 người trong Ban chấp hành trung ương = 70 đại biểu quốc hội và cộng thêm khoảng 280 quan chức chỉ là đại biểu quốc hội mà không phải ủy viên trung ương ?
Nếu trong vụ bỏ phiếu bác dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh, còn có thể cho rằng đó là một phản ứng ngẫu nhiên và mang tính hội tụ của nhiều luồng ý kiến phản ứng (loại ý kiến phản ứng quyết liệt, loại ý kiến phản ứng vừa phải hoặc mang tính nước đôi, loại ý kiến hùa theo hoặc mang tính ‘bầy đàn’…), thì đến vụ bỏ phiếu kỷ luật Tất Thành Cang, có vẻ những luồng ý kiến phản ứng trên đã không còn là ngẫu nhiêm hoặc phân tán, mà trở nên ‘tập trung’ và ‘thống nhất’ hơn hẳn.
Ai là ‘ngọn cờ’ ?
Hai cuộc bỏ phiếu về dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh và kỷ luật Tất Thành Cang lại có một điểm chung rất nổi trội và rất dễ nhận ra : tính chất tham nhũng.
Hiểu một cách đơn giản và logic, chỉ có những quan chức trực tiếp tham nhũng hoặc dính dáng gián tiếp đến tham nhũng mới lo sợ dự luật truy thu tài sản có nguồn gốc bất minh và tìm cách phản ứng vụ cách chức một đồng sự đầy ăm ắp dấu hiệu tham nhũng như Tất Thành Cang.
Điểm chung trên đã dẫn tới một luận đề ngày càng hiện hình : trong cả hai cơ quan Ban chấp hành trung ương và Quốc hội đang tồn tại một nhóm, nếu không muốn nói là một thế lực chính trị, đang lo sợ ‘đốt lò’ của Nguyễn Phú Trọng và tìm cách phản ứng theo cách vừa ngấm ngầm vừa công khai đối với ông Trọng, để nếu không thể làm tắt ngấm cái lò đó thì cũng khiến nó nguội lạnh mà không còn tác dụng nữa.
Và nếu quả thực đang tồn tại một thế lực chính trị chống đối như thế, Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với một phương trình tuy ít ẩn số nhưng không dễ truy giải : ‘ngọn cờ’, hay nhân vật nào hoặc nhóm quan chức nào là đầu sỏ cho thế lực chính trị ấy là ai hoặc những ai ?
Một hiện tượng khác đáng mổ xẻ là loạt vụ việc phản ứng của thế lực chính trị trên không phải xuất hiện trước tháng 9 năm 2018 là thời điểm Trần Đại Quang chết, mà lại hiện ra sau đó.
Bởi sau cái chết của ông Quang, mức độ ‘đốt lò’ được ông Trọng đẩy tăng vọt với hàng loạt vụ hồi tố hai cựu phó chủ tịch TP.HCM là Nguyễn Hữu Tín và Nguyễn Thành Tài, vụ bắt một quan chức liên quan đến đường dây bảo kê cho Trịnh Xuân Thanh đào thoát ra nước ngoài, đặc biệt là vụ bắt đại gia ngân hàng Trần Bắc Hà… Sau những vụ này, hầu như không còn ai nói về cái thanh thế trước đây hay uy thế còn lại của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong khi cầm chắc là nhiều quan chức công an thuộc ‘cánh Quang’ sẽ bị truy xét và do đó chỉ còn cách phân rã mà không thể tập hợp lại với nhau tổ chức phản công Nguyễn Phú Trọng.
Nhưng nếu không phải được đầu sỏ bởi Nguyễn Tấn Dũng, hoặc chỉ có thể mang tính liên hệ một cách gián tiếp chứ không trực tiếp với ông Dũng, thế lực chính trị trong hai cơ quan Ban chấp hành trung ương và Quốc hội đang tìm cách phản ứng với Trọng được dẫn dắt bởi ‘sâu chúa’ nào ? ‘Sâu chúa’ đó đã nghỉ hưu nhưng vẫn duy trì quyền lực ngầm, hay đang đương chức và là một hoặc một số trong Bộ Chính trị đảng ?
Cuộc chiến ‘chống tham nhũng’ của Nguyễn Phú Trọng cũng bởi thế đang vấp phải một lực cản, hoặc một lực cản đủ lớn, đủ khiến cho bánh xe của ‘lò’ khó mà nhúc nhích nhanh được.
Thách thức !
Nhiều nhà bình luận chính trị độc lập ở Việt Nam đều có chung nhận xét và rất tương hợp với tình hình thực tế là cho dù có ‘diệt’ được những quan chức bị xem là ‘trùm tham nhũng’ như Nguyễn Tấn Dũng và Lê Thanh Hải, ‘người đốt lò vĩ đại’ Nguyễn Phú Trọng vẫn phải đối mặt với rất đông đảo quan chức tham nhũng từ cấp trung ương xuống các địa phương - những nhân sự đầu bộ ngành và đầu tỉnh thành không chỉ rơi rớt lại từ thời Nguyễn Tấn Dũng mà còn chính là nhân sự được ông Trọng và Ban Bí thư điều chuyển, chỉ định sau khi Dũng đã ‘trở về làm người tử tế’ và từ sau năm 2016 đến nay, và nói chung lớp nhân sự đó chính là con đẻ của một chế độ chính trị độc tài sinh ra đặc quyền và đặc lợi.
Cho dù về sau này cái hỗn danh danh ‘Lú’ đã không còn quá gắn chặt với Nguyễn Phú Trọng trong hoạt động ‘làm nhân sự’ - được biểu hiện bởi những thủ thuật, thủ đoạn khá đủ thâm sâu của ông Trọng để loại bỏ những đối thủ chính trị và giữ cầm hơi cho hình hài chỉ chực sụm xuống của đảng, mà đã khiến dư luận xã hội và cả quốc tế phải ngạc nhiên về ‘trình độ tăng tiến vượt bậc’ của ông ta, nhưng điều mà bất kỳ một nhà chính trị chiến lược nào cũng phải lo sợ là khả năng xuất hiện một số đông quan chức trực tiếp tham nhũng cấu kết với nhau và còn có thể lôi kéo được một số đông khác quan chức gián tiếp tham nhũng, biến thành một lực lượng đủ đông và đủ tinh vi để chống lại chủ trương của một nhà nước trung ương tập quyền, đặc biệt là chủ trương ‘chống tham nhũng’.
Và bởi Nguyễn Phú Trọng xem chống tham nhũng là công việc quan trọng nhất với đảng của ông ta, đám đông cấu kết và chống đối ‘đốt lò’ của giới quan tham Việt từ nhỏ đến lớn chính là thách thức lớn nhất đối với Trọng trong năm 2019 và tiếp biến đến đại hội 13 của đảng cầm quyền, nếu còn có đại hội đó.
Sau vài năm khởi sự và đến năm 2018, kiến trúc sư của công cuộc ‘đốt lò’ – Nguyễn Phú Trọng – đã có thể tạm an tâm cho triển vọng không còn ‘trên nóng dưới lạnh’ trong sự nghiệp được xem là ‘chống tham nhũng’ của ông ta. Hiện tượng xảy ra hàng loạt và với tần suất ngày càng cao những cái chết treo cổ của cấp cán bộ ‘ruồi’ ở nhiều địa phương và trong nhiều ngành đang phản ánh cái tâm thế ‘thà chết còn hơn ở tù’ của nỗi hoảng sợ dẫn đến kinh hoàng trong huyết quản nhiều cán bộ từ cao xuống thấp.
Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Quốc hội cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. (Hình : Getty Images)
2018 là năm đã xảy ra số vụ quan chức các cấp tìm đến sợi dây thừng nhiều hơn bất kỳ năm nào trước đó, khiến bản danh sách những ‘kẻ tuẫn tiết’ đến cuối năm 2018 có thể là phép cộng gộp cho con số của nhiều năm trước đây.
Có đến hàng chục hoặc hơn những cái tên quan chức loại ‘ruồi’ đã rơi vào bản danh sách tử thần chỉ trong nửa cuối năm 2018. Những cái tên này lại ứng với phân bố địa lý khá rộng và khá đều từ vùng Tây Bắc đến miền Trung và Nam Bộ, bao gồm cả hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn.
Mới chỉ là năm đầu tiên
Sau hai vụ treo cổ của Nguyễn Hồng Lâm – Phó bí thư, Chủ tịch huyện Quốc Oai ở Hà Nội và Đại tá Võ Tuấn Dũng – Cục phó Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Sử Dụng Công Nghệ Cao (C50) của Bộ Công an, tình hình đã ‘liên tục phát triển’ với hàng loạt cái chết treo cổ khác gắn với những cái tên Võ Phi Anh, Phó Tổng giám đốc Cienco 6 đơn vị thi công một số hạng mục thuộc công trình tuyến metro số 1 tại TP HCM ; N.Q.V, 36 tuổi, là chuyên viên Hội đồng nhân dân tỉnh Điện Biên ; Đỗ Văn Thơm (SN 1973) là cán bộ Văn phòng Đảng ủy xã Nhã Nam (huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) ; Phạm Văn Dũng (35 tuổi, quê xã Ngọc Khê), kế toán xã Vân Am (huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa) ; Nguyễn Văn Hội, Phó trạm trưởng Trạm Quản lý nước và Công trình đô thị huyện Krông Chro (Gia Lai) ; Đỗ Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk) ; T.T.P. (37 tuổi, cán bộ địa chính xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm)…
2018, năm đầu tiên ló dạng của lưỡi hái tử thần rõ đến thế. Mật độ thình lình tăng lên và biểu đồ thình lình hướng lên của quan chức tự sát đang phác ra khuynh hướng mức độ bất an của quan chức tham nhũng trong nội bộ đảng đang gia tăng đột ngột – xứng đáng trở thành một chủ đề nghiên cứu lớn của ngành xã hội học – chính trị học ở Việt Nam.
Cho đến giờ phút này, không còn nghi ngờ gì nữa về việc người vừa giành thêm được chức chủ tịch nước sẽ đốt rừng rực cái lò vào thời ‘hậu Trần Đại Quang’. Không chỉ ‘cánh Quang’ và ‘cánh Dũng’, mà nhiều hoặc rất nhiều quan chức tham nhũng cấp ‘ruồi’ ở nhiều tỉnh và thành phố sẽ bị biến thành ‘củi’. Về thực chất, giai đoạn 3 ‘đốt lò’ có thể là thời kỳ sâu hiểm nhất, sắc máu nhất, kể cả tàn nhẫn nhất và cách nào đó cũng thành công nhất kể từ đầu chiến dịch ‘đốt lò’.
Một trong số những thúc ép rõ nhất để ‘trên nóng dưới phải nóng theo’ của Nguyễn Phú Trọng là trong năm 2018, ông ta đã chỉ đạo cho Ủy ban kiểm tra trung ương không chỉ tiến hành kiểm tra ở cấp bộ ngành trung ương và cấp tỉnh thành mà còn phải kiểm tra đến cấp quận huyện. Điều đó có nghĩa là Ủy ban kiểm tra trung ương Việt Nam đang và sẽ làm theo kịch bản mà Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật trung ương của Trung Quốc đã làm, mang đến tai họa cho giới quan tham ở tận những vùng sâu vùng xa theo phương châm ‘Không cho chúng nó thoát’.
Trước đây, trong giới quan tham Việt Nam luôn phổ biến thủ đoạn ‘chạy án’, cho dù có bị khép tội. ‘Chạy’ vào lúc vụ việc tham nhũng mới có dấu hiệu bị cơ quan chức năng phát hiện, ‘chạy’ vào lúc đang bị cơ quan chức năng khởi tố và điều tra, ‘chạy’ trong giai đoạn tố tụng hình sự và đưa ra tòa, và ‘chạy’ kể cả lúc đã phải lãnh án…
Song ‘Tấm gương’ Đinh La Thăng – thân là một ủy viên bộ chính trị nhưng đã bị tống giam và phải nhận hai mức án với tổng cộng 31 năm tù, hẳn đã khiến giới quan chức tham nhũng không còn mơ màng về một thời kỳ ‘án như chơi’, mà đang hoảng loạn bởi một khi đã bị bắt thì sẽ ‘đi lâu’, thậm chí còn đi thẳng ra pháp trường.
"Là những con người cứng rắn và hay chèn ép người dân, chính họ lại rất sợ những hình thức đối xử nghiêm khắc mà các cấp trên của họ thi hành" – một luật sư tỉnh Chiết Giang là ông Yuan Yulai phân tích về tâm lý chung của giới quan tham Trung Quốc trong cơn hoảng loạn tự sát của giới quan nước này từ năm 2012 đến gần đây. Nhận xét này hoàn toàn có thể tương ứng với đặc thù tâm lý của quan tham Việt.
Dù chưa có gì chứng minh được là chiến dịch chống tham nhũng của đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ bằng vai phải lứa với những gì mà ‘đảng anh’ ở Trung Quốc đã làm, nhưng cho tới nay, hàng loạt cái chết treo cổ của quan tham trong năm 2018 đã cho thấy tâm trạng hoảng loạn và bế tắc không lối thoát của một bộ phận trong giới quan chức tham nhũng ở Việt Nam.
Về mặt hình thức tự kết liễu, rõ ràng ‘sở thích’ treo cổ của quan tham Trung Quốc đã gây tác động mạnh và chi phối đến não trạng quyên sinh của quan tham Việt Nam. Cho đến nay, đa số trường hợp tự vẫn của quan tham Việt Nam đều phải dựa vào sợi dây thừng.
Thách thức lớn cho Nguyễn Phú Trọng
Bầu không khí chung trong giới quan chức ở Việt Nam vào những ngày này là im bặt. Nhiều người gặp nhau còn không dám hỏi han về những vụ việc bắt bớ tham nhũng xảy ra ngay ở địa phương mình. Một số người lúc nào cũng mắt lấm lét, mặt mày xanh xám, thậm chí lảng tránh nhìn nhau.
Nhận xét một cách khách quan, chiến dịch ‘đốt lò’ của Nguyễn Phú Trọng đang bắt đầu tạo được hiệu ứng ‘diệt quan tham’ trên một bình diện rộng hơn ở các tỉnh thành và sâu hơn xuống tận cấp quận huyện và phường xã, tuy chưa thể được coi là một chiến dịch ‘chống tham nhũng’ theo đúng nghĩa, và đặc biệt chưa thể được xem là ‘chống tham nhũng công bằng’ khi ông Trọng vẫn còn bỏ qua cho nhiều trường hợp quan chức tham nhũng – những kẻ được dư luận đánh giá là thuộc ‘phe Trọng’.
Với đà này, bầu không khí ‘diệt quan tham’ sẽ còn khiến nhiều quan chức tham nhũng ngạt thở và bế tắc trong năm 2019, để từ đó sẽ xuất hiện hiện tượng một bộ phận cán bộ đảng viên và người dân một lần nữa khơi dậy trong lòng họ niềm hy vọng mỏng manh vào một tổng bí thư kiêm chủ tịch nước – mà trong thực tế có thể là nhân tố duy nhất chủ xướng và cầm tay chỉ việc chuyện giữ nhiệt đốt lò.
Nhưng khách quan mà xét, Nguyễn Phú Trọng còn xa mới đạt tới hiệu ứng ‘tự sát quan chức’ mà Tập Cận Bình đã tạo ra trong cuộc chiến ‘đả hổ diệt ruồi’ ở Trung Quốc từ năm 2012 đến năm 2016 mà đã khiến nhiều ngàn quan chức nước này phải nhảy lầu, treo cổ và tự chết bằng những phương thức khác. Bằng chứng rõ rệt mang tính chính trị học và xã hội học là số quan chức Việt tham nhũng phải tìm cách tự vẫn trong hai năm 2016 và 2017 là quá ít so với năm 2018.
Giai đoạn 3 ‘đốt lò’ trên diện rộng của Nguyễn Phú Trọng sẽ khác biệt khá nhiều với vài chiến dịch đơn lẻ nhắm vào ‘tham nhũng thời kỳ trước’, hay có thể hiểu là chỉ nhắm vào những đối thủ chính trị của ông ta. Song muốn ‘đốt’ được như Tập Cận Bình với bản thành tích kỷ luật và xử lý hình sự 1,3 triệu đảng viên tham nhũng, Nguyễn Phú Trọng phải có được một đội ngũ cứng cựa đi cùng và trung thành với ông ta – những người công tâm và ít dính dáng tới các phi vụ tích góp tài sản cá nhân từ tiền thuế của dân. Nhưng đây lại chính là một thách thức vô cùng lớn đối với ông Trọng : làm thế nào để đãi cát tìm vàng trong bối cảnh mà người dân Việt luôn than trời ‘nhìn đâu cũng thấy quan chức tham nhũng’ ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 31/12/2018