Các chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa toàn trị v.v... tiếp tục vẫn là đề tài được nhiều giới quan sát, phân tích nghiên cứu và luận bàn.
Đang có khuynh hướng một số quốc gia 'lớn và mạnh' trên thế giới muốn đưa chủ nghĩa toàn trị trở lại, trong khi việc 'tôn vinh' chủ thuyết Marx - Lenin ở một số quốc gia với Đảng cộng sản cầm quyền thực chất chỉ là cách thức để 'tồn tại' và giữ độc quyền 'cai trị', theo ý kiến các nhà phân tích và quan sát người Việt Nam từ Pháp.
Trao đổi với BBC Tiếng Việt hôm 17/5/2018 từ Marne-la-Vallée, mạn nam Paris, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, nhà báo và nhà nghiên cứu, nêu quan điểm :
"Ngày nay, nhìn chung trên toàn thế giới, chủ nghĩa toàn trị đang phát triển khá rộng rãi, đặc biệt là ở một vài nước lớn, chẳng hạn như Nga hay Trung Quốc, nhưng tại một số các quốc gia ở lục địa Phi Châu, hay Nam Mỹ thì nó đang giảm dần.
"Nhưng có phong trào mới là ngày nay các quốc gia trong khối cộng sản cũ đang có khuynh hướng muốn trở lại chế độ toàn trị để giữ vững quyền lực và duy trì niềm tin của dân chúng vào chế độ".
Và Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy đưa ra lý giải cho góc nhìn của mình, ông nói :
"Với trào lưu toàn cầu hóa, người dân trong các quốc gia cộng sản cũ có khả năng biết được những tin tức ngoài quốc gia của họ qua hệ thống mạng Internet và từ đó thấy những sai trái của chế độ cai trị đương quyền. Để hạn chế mọi chống đối, các quốc gia lớn cộng sản cũ, như Trung Quốc và Nga, đang có khuynh hướng tập trung quyền lực vào tay một người, muốn kiểm soát mọi người và duy trì lại chính sách toàn trị".
Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy nói về Chủ nghĩa Toàn trị
Về chủ nghĩa cộng sản, trong dịp quốc tế đánh dấu 200 năm sinh của Karl Marx, nhà quan sát này nói thêm :
"Chủ nghĩa cộng sản sau Đệ nghị Thế chiến phát triển rất mạnh mẽ. Ở Châu Âu thì có thể nói là chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu tư tưởng chính trị phát triển rất mạnh trong những năm 1940-1955, nhưng từ khi khối Liên Xô ra mặt đối đầu với khối Tự Do mà do Mỹ và Tây Âu lãnh đạo, phong trào cộng sản bắt đầu giảm xuống, các chính quyền phương Tây hạn chế quyền lực và tầm vóc của những tổ chức cộng sản.
"Đến gần đây, tại Pháp chẳng hạn, đảng cộng sản đã gần như bị tan rã và suy thoái hoàn toàn và họ phải kết hợp với những tổ chức khuynh tả khác để tạo lại một thế lực cánh tả... Đảng cộng sản Pháp ngày nay không còn thực lực và không đủ khả năng quy tụ quần chúng như trước. Chủ trương và đường lối của họ ngày nay không còn hấp dẫn người Pháp nữa.
"Nhìn sang các quốc gia thứ ba, trong đó có Việt Nam, Lào, Trung Quốc, nói chung là các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ lời nói ngoài miệng mà thôi, chứ thực sự tổ chức xã hội của họ ngày nay không còn gì cộng sản hết.
"Vì lý tưởng cộng sản chủ trương xóa bỏ giai cấp bóc lột, đem công bằng và phúc lợi xã hội cho người dân, phân chia của cải đồng đều cho mọi người… Trong khi ngày nay tại các quốc gia cộng sản như Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, hoặc Trung Quốc, bất công xã hội hoàn toàn ngự trị, cái gì cũng phải trả tiền kể cả học hành và chữa bệnh.
"Trong khi những người có tiền, nhất là những cấp lãnh đạo giàu có trong Đảng cộng sản, lãnh đạo đất nước không có gì là cộng sản cả. Thành ra tôi thấy trong khối các quốc gia cộng sản, mặc dù những người lãnh đạo vẫn nói là áp dụng hay duy trì chủ nghĩa cộng sản, nhưng thực chất các xã hội này đã biến thoái nhường chỗ cho một chủ nghĩa tư bản mang dại lộng hành. Lý tưởng mà họ theo đuổi không còn có ý nghĩa gì của thời Karl Marx đưa ra, nghĩa là mọi người đều bình đẳng và được bảo vệ như nhau trước luật pháp của một xã hội dân sự tốt", Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy bình luận.
'Sai lầm lớn nhất'
Từ Paris, nhà văn Vũ Thư Hiên đưa ra quan điểm của ông về Chủ nghĩa Marx và bình luận về điều mà ông cho là hạn chế hay sai lầm của chủ thuyết này, ông nói :
"Tôi nghĩ rằng không phải vô lý mà ở nhiều Đại học trên thế giới người ta vẫn dành ra những giờ cho việc nghiên cứu Marx và Engel, các ông ấy trong phương pháp nghiên cứu và những phát biểu của mình, đặc biệt là Marx lúc trẻ có nhiều ý kiến hay, nhưng sai lầm lớn nhất của họ sau những nghiên cứu rất kỹ càng về các vấn đề của Chủ nghĩa Tư Bản, thì lại đi đến một kết luận sai lầm là tất cả sinh ra bởi tư hữu tài sản, cái đó là sai.
Nhà văn Vũ Thư Hiên (trái) bình luận về Chủ nghĩa Cộng sản nhân 200 năm sinh của Karl Marx
"Thứ hai, và là cái sai lớn nhất, là ở trong Tuyên ngôn Cộng sản, khi ông tuyên xưng sự chuyển biến từ một xã hội bình thường mà chúng ta quen gọi là xã hội Tư Bản Chủ nghĩa, sang Chủ nghĩa Xã hội và đích cuối là Chủ nghĩa Cộng Sản, thì ông cho rằng cái đó phải được tiến hành bởi giai cấp vô sản và phải áp dụng một cái gọi là chuyên chính vô sản, thì những cái đó đã tạo ra một tệ nạn kinh khủng ở trên thế giới này.
"Tất cả các Đảng Cộng sản mà đi theo con đường đó đã để lại những di họa rất lớn, số người chết thì không thể tính trăm, tính nghìn, mà tính hàng triệu rồi, thì cái đó phải nói rằng Chủ nghĩa Marx gây ra tai hại", tác giả cuốn hồi ký chính trị 'Đêm giữa ban ngày' nói.
Tác phẩm 'Tư bản' của Marx được trưng bày ở Trier
Khi được hỏi, nếu có những hạn chế hay điểm gây tranh cãi như vậy, tại sao Chủ nghĩa Marx, mở rộng hơn là Chủ nghĩa Marx - Lenin, vẫn tồn tại và được tôn vinh ở một số quốc gia, trong đó có Trung Quốc hay Việt Nam v.v..., nhà văn Vũ Thư Hiên nói :
"Tôi nghĩ rằng chuyện đó cũng bình thường, nó tùy vào tầm hiểu biết mà người ta tôn vinh cái này hoặc cái kia, thí dụ như tục vái những ông bình vôi treo ở các cây đa đầu làng, thì vẫn có những bà đến vái, vì vậy cho nên chúng ta có thể bằng trí tuệ nói chuyện về Chủ nghĩa Marx chứ không nên tấn công những cụ bà già đó làm gì, cái đó không xứng đáng với con người trí tuệ của thế kỷ này,
"Trong trường hợp phải nói là những người hiện nay cố gắng giữ Chủ nghĩa Marx và cộng thêm Lenin vào đấy, mà thực sự ra cái đó cũng khiên cưỡng, họ đưa vào đấy để tồn tại và giữ được quyền cai trị chứ không phải vì cái gì khác...
"Cái câu mà nói rằng 'cái gì tồn tài, cái đấy hợp lý', khái niệm hợp lý có thể ở trong một thời điểm, có thể trong một quãng thời gian, chúng ta thấy rằng nó đã từng hợp lý ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng sau đó người ta đã chứng minh là nó không hợp lý và người ta làm cái khác.
"Vì vậy nếu chúng ta nói là nếu nó tồn tại ở Trung Quốc, Việt Nam là hợp lý, thì tôi không thể chia sẻ cách suy nghĩ đó", nhà văn Vũ Thư Hiên nói BBC Tiếng Việt từ thủ đô của nước Pháp.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 23/05/2018
Những thông tin sai lầm về chủ nghĩa cộng sản khiến cho chủ nghĩa này vẫn còn sức thu hút một cách nguy hiểm, theo nhận xét của bà Romina Bandura, một chuyên gia của CSIS :
"Thứ nhất, 26% dân số và 32% những người trẻ trong độ tuổi 18 đến 34 (sinh trong khoảng đầu những năm 1980 đến đầu những năm 2000) cho là có nhiều người bị giết dưới thời Tổng thống Mỹ George W. Bush hơn dưới thời nhà độc tài Nga Joseph Stalin. Thứ hai, gần 70% người Mỹ và gần 60% thế hệ những người tuổi từ 16 đến 20 tin một cách sai lầm là nhiều người bị giết bởi Hitler hơn là bởi Stalin. Và thứ ba, nhiều người trẻ trong độ tuổi 18 đến 34 không biết các nhân vật lãnh đạo của cộng sản : 42% biết về Mao trạch Đông, 40% biết đến Che Guevara, 18% biết Stalin, 33% biết đến Lenin mà trong số này có 25% có quan điểm thuận lợi đối với Lenin".
Hội thảo về ảnh hưởng của chù nghĩa cộng sản đối với kinh tế, xã hội và môi trường tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS Washington DC, ngày 23/2/2018
Ngoài ra, vẫn theo chuyên gia nghiên cứu Romina Bandura, còn có một số nguyên nhân khác khiến chủ nghĩa cộng sản vẫn còn vị trí, trong đó phải kể đến thực trạng giới trẻ thiếu nhận thức về sự khủng khiếp, sự lừa gạt, dối trá của chủ nghĩa cộng sản. Lịch sử bị bóp méo cũng là điều đáng nói khi mà học sinh, sinh viên thường không được giảng dạy về sự ác độc, giết chóc và khủng bố của chủ nghĩa cộng sản. Thứ đến, vẫn còn một số người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng tốt đẹp, và theo họ, vấn đề nằm ở chỗ thực thi chủ nghĩa này chưa đúng mà thôi. Chủ nghĩa cộng sản cũng bị lầm tưởng là một lựa chọn tốt hơn trong mắt những ai không hài lòng với kinh tế thị trường.
Trong 100 triệu người chết vì cộng sản trên thế giới, chiếm phần lớn là ở Trung Quốc : 65 triệu nạn nhân. Kế đến là 20 triệu nạn nhân chết vì cộng sản Liên Xô. Tại Campuchea và Triều Tiên, mỗi nơi có 2 triệu nạn nhân. Số tử vong vì cộng sản ở Châu Phi là 1,7 triệu ; tại Afghanistan là 1,5 triệu. Số nạn nhân chết vì cộng sản Việt Nam là 1 triệu người. cộng sản Đông Âu cướp đi mạng sống của 1 triệu người. cộng sản ở Châu Mỹ Latin chịu trách nhiệm 150 ngàn sinh mạng bị bức tử.
Đáp câu hỏi con số 1 triệu nạn nhân của cộng sản Việt Nam bao gồm những ai, ông Marion Smith, giám đốc điều hành Quỹ Tưởng niệm Nạn nhân cộng sản, một diễn giả tại buổi hội thảo, đáp :
"Số này bao gồm những thiệt hại về thường dân trong chiến tranh Việt Nam, những người tù cải tạo…"
Ngoài những hậu quả tai hại đối với kinh tế và xã hội, các chuyên gia tại buổi hội thảo của CSIS cũng cho rằng chủ nghĩa cộng sản còn làm tổn hại đến môi trường nữa.
Ông Marion Smith giải thích :
"Tại Trung Âu, một trong những phong trào phản kháng sớm nhất bắt đầu với một số tổ chức môi trường biểu tình chống lại một số dự án của nhà nước làm tổn hại môi trường địa phương, như nguồn nước, đất đai, cảnh sắc thiên nhiên".
Trả lời câu hỏi có phải chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc hay Việt Nam chẳng hạn đã tiến hóa thích nghi với tình hình để sống còn hay không. Ông Smith nói :
"Đảng cộng sản đã học được những bài học của thế kỷ 20 hơn chúng ta học được về thế kỷ 20. Chúng ta phải hiểu rõ, công việc của chúng ta là làm thế nào chế ngự và hạn chế đảng cộng sản trên sân khấu thế giới. Nếu chúng ta hiểu được, chúng ta đã chế ngự được ảnh hưởng của cộng sản trong 20 năm qua tại Châu Á cũng như chúng ta hạn chế được hoạt động của Cuba tại Venezuela trong 3, 4 năm qua. Do đó chúng ta chắn chắn là phải học những bài học lịch sử. cộng sản Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Nước này đã sử dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho một chế độ độc tài, nhà nước kiểm soát. Thành thử, truyền thông xã hội và công nghệ thông tin không mang lại một xã hội cởi mở, và chủ nghĩa cộng sản hiện nay tinh khôn hơn".
Một diễn giả khác tại buổi hội thảo, cô Laura M. Nicolae, hiện là sinh viên trường đại học Havard, con gái của một người tị nạn trốn khỏi chế độ cộng sản Romania, chia sẻ sự khó khăn của việc tiếp nhận thông tin từ bên ngoài khi phải sống trong một chế độ độc tài cộng sản :
"Cha mẹ tôi trưởng thành trong chế độ cộng sản Romania với những hạn chế sách vở và các nguồn thông tin khác đến từ các nước phương Tây, nên không biết đời sống bên ngoài chế độ cộng sản như thế nào".
Cô Nicolae cho rằng đối với giới trẻ sống trong thế giới tự do, việc giáo dục nhất thiết phải vừa lý thuyết vừa thực tế để họ khỏi bị chủ nghĩa cộng sản chiêu dụ. Cô khuyến nghị :
"Khi giáo dục giới trẻ thì phải nói thật rõ về chủ nghĩa cộng sản, không làm sai lạc nhưng nhấn mạnh đến hậu quả thực tế của chủ nghĩa này, sự mất mát về sinh mạng do chủ nghĩa cộng sản gây ra".
"Điều tuyệt đối cần thiết là trong thế kỷ 21 này, Hoa Kỳ phải tiếp tục đại diện cho tự do và chúng ta phải quy tránh nhiệm cho chế độ cộng sản trong cách đối xử với người dân hay cách họ phá hoại mậu dịch quốc tế và giá trị của thế giới tự do", giám đốc điều hành Quỹ Tưởng niệm Nạn nhân cộng sản, Marion Smith, kêu gọi.
Hà Vũ
Nguồn : VOA, 28/02/2018
Tham nhũng là thủ phạm giết chết Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ thuyết Mác Lênin trên đất Việt
Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa có bài viết "Ngay lúc này, Đảng phải kiên quyết hành động" (*) công bố vào đúng ngày xét xử 2 đại án tham nhũng hôm 8/1/2018 vừa qua.
Ngay lập tức bài viết đã nhận được nhiều ý kiến, bình luận, phê phán trên nhiều phương diện khác nhau ; có người chê, kẻ khen, và tất cả các người khen hay chê đều có lập luận riêng của mình, khó ai có thể bác bỏ được.
Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Riêng người viết bài này xin có lời hoan nghênh bài viết của ông Tư Sang, vì đây là một bài viết khá tâm huyết, thể hiện nỗi lo âu của người ít ra còn có suy nghĩ về trách nhiệm với dân, với nước.
Việc ông Tư Sang lo cho sự sụp đổ của Đảng, của chế độ là có cơ sở, rất đúng và nhãn tiền. Nhưng việc ông lo cho sự tồn vong của đất nước, tôi cho là ông đã sai và nhầm lẫn. Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam không thể tiêu vong, sẽ luôn trường tồn và chắc chắn sẽ phát triển, hạnh phúc hơn khi "Đảng Cộng sản Việt Nam không còn đồng hành với dân tộc" nữa. Đây là điều hiển nhiên.
Chính ông Tư Sang đã chứng minh điều đó trong bài viết của mình bằng cách trích dẫn lịch sử nước nhà qua các Vương triều Việt Nam. Lịch sử thế giới cuối thế kỷ XX đã chứng minh hùng hồn : Dân tộc Nga cũng như các nước Đông Âu vẫn trường tồn và lớn mạnh, đất nước của họ càng phát triển và hạnh phúc hơn khi các đảng cộng sản ở đây tan rã và sụp đổ. Nguyên nhân vì sao ư ? Đơn giản, bởi thể chế toàn trị mà chế độ độc tài đảng trị đã áp đặt lên các dân tộc và quốc gia này vào nửa sau của thế kỷ XX đã bị người dân đạp đổ không thương tiếc. Đây là một thực tế lịch sử không ai có thể phủ nhận.
Ông Tư Sang là một trong số hiếm hoi các lãnh đạo Đảng và Nhà nước ít có điều tiếng xấu, và sau khi nghỉ hưu còn được ít nhiều người dân quý trọng. Nhân đây tôi cũng xin nhắc lại một câu nói của ông Tư Sang lúc còn đang chức : "Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bấy sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là "chết" cái đất nước này".
Còn đối với các ông "nguyên" khác như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Sinh Hùng… và đặc biệt là 2 ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, tôi cho là không thể và không dám viết như ông Tư Sang. Lý do vì sao ư ? Đơn giản bởi chính các ông này khi còn tại chức đã góp phần và có trách nhiệm không nhỏ làm cho đất nước lụn bại, lâm vào tình cảnh bi đát đến mức mà ông Tư Sang phải thốt lên : "Nếu tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Đảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu ?".
Người viết bài này cũng đã nhiều dip bày tỏ chính kiến về quốc nạn tham nhũng ở nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, ở đâu cũng có, song mức độ thì mỗi nước một khác. Ở nước ta, tham nhũng không chỉ là căn bệnh trầm kha mà nó đang lớn mạnh theo tỷ lệ thuận với chiến dịch chống lại nó. Đây là một nghịch lý kỳ quặc. Tham nhũng là căn bệnh ung thư không chỉ hủy hoại thể chế xã hội mà nó hủy hoại cả ngay chính đảng cầm quyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ điều này nhưng lại khoanh tay bất lực. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra tham nhũng là 1 trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng. Nhưng đến nay, đã qua 6 kỳ Đại hội Đảng và 4 đời tổng bí thư, căn bệnh ung thư tham nhũng lại càng lớn mạnh thêm. Càng ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chống nó, thì nó lại càng sống khỏe.
Nạn tham nhũng bắt đầu lớn mạnh trong 10 năm khi ông Nông Đức Mạnh làm Tổng bí thư (2001-2011), và nay nó phát triển lớn mạnh thành đại dịch sau khi ông Nguyễn Phú Trọng thay ông Mạnh làm Tổng bí thư từ 2011 đến nay. Bọn tham nhũng không chỉ là "bầy sâu" nữa mà đã trở thành "tập đoàn sâu" cả rồi. Hai đại án tham nhũng đang xét xử ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chỉ là phần nổi của tảng băng chìm của quốc nạn tham nhũng. Hai đại án trên chỉ là phần nhỏ nhô lên của tảng băng chìm tham nhũng trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Cổ nhân đã cảnh báo chúng ta : "Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục". Câu này có nghĩa là "Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử". Vâng, sư tử khỏe mạnh là chúa tể rừng xanh, một tiếng gầm vang lừng của nó làm muôn thú run sợ, nói chi đến việc dám lại gần nó, dám mó vào dái nó hay vật ngã nó. Đó là những con sư tử khỏe mạnh và như thế nó là vô địch. Nhưng một điều không thể tránh khỏi là con sư tử kia sẽ ngã quỵ một khi bầy sâu trong cơ thể nó ngày một sinh sôi và lớn mạnh.
Chúng ta đều thấy, khắp nơi nơi trên đất nước ta nhan nhản những khẩu hiệu oai phong như "Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm", "Chủ nghĩa Mác Lênin vô địch muôn năm"… làm ta liên tưởng đến sự vô địch của con sư tử. Vâng, nó vô địch thật nếu nó không bị lũ sâu bọ kia đục khoét. Nhưng tiếc thay, con sư tử oai hùng đó đang mang trong cơ thể của nó cả một "bầy sâu". Điều đương nhiên không thể tránh khỏi, con sư tử đó sẽ ngã quỵ một ngày. Đây là quy luật tất yếu.
Cách đây 6 năm, tháng 1/2012, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nhị quyết trung ương 4 (Khóa XI). Nghị quyết này nhận định "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên - trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp - suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống…". Nhưng 6 năm qua nạn tham nhũng và suy thoái trong nội bộ Đảng ngày càng trầm trọng. Bộ phận không nhỏ kia ngày một lớn mạnh.
Đầu năm 2013, trước khi bị kết án 2 năm tù giam về tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ…", nhà báo Trương Duy Nhất có viết : "Hồi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã nghe nói "nhà dột từ nóc". Đến giờ, hình như "cái nhà" ấy không những dột từ nóc mà "dột nhiều chỗ khác nữa". "Dột nhiều chỗ khác" là cách nói của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, chứ thực ra không phải dột mà nhiều chỗ đã thực sự… mục nát rồi" . Rõ ràng là cái nhà đó không chỉ dột từ nóc mà nó dột nhiều nơi, nhiều chỗ khác trong ngôi nhà này rồi. Một ngôi nhà đã dột nát và mục ruỗng khắp nơi như vậy, thử hỏi ai trong chúng ta có thể sống trong ngôi nhà như thế ?
Nay nhà báo Duy Nhất đã ra tù, song tình hình suy thoái và vấn nạn tham nhũng trong Đảng như ông đã đề cập không những không bị đẩy lùi, ngược lại nó càng trầm trọng hơn. Đề cập đến quốc nạn tham nhũng ngày nay, nhiều người cho rằng loại tham nhũng tệ hại và nguy hiểm nhất chính là tham nhũng quyền lực và tham nhũng chính trị.
Cấu trúc quyền lực ở Việt Nam là cái nôi sản sinh ra tham nhũng, trong khi ta lại chưa có thiết chế kiểm soát quyền lực. Chính bọn sâu bọ tham nhũng lại là những kẻ to mồm nhất trong việc hô hào chống tham nhũng và ra sức bảo vệ cái cơ chế đã sản sinh ra chúng. Nói một cách nôm na, bọn chuột bọ tham nhũng sinh ra và ẩn nấp trong cái BÌNH nào thì chúng tìm mọi cách bảo vệ cái BÌNH ấy, không để bất cứ ai ném vỡ nơi trú ẩn của chúng. Nói như tác giả Xuân Dương của báo GDVN là bọn tham nhũng hiện đã liên kết với nhau và đã trở thành các "nhóm lợi ích bán nước, hại dân", ngang nhiên tồn tại trong nội bộ Đảng và hệ thống chính quyền.
Không thể chống tham nhũng bằng cơ chế độc quyền, độc đảng. Càng không thể tiêu diệt nạn tham nhũng chỉ bằng những văn bản suông như quyết định, nghị quyết, chỉ thị được. Chỉ có thể chống lại nó, ngăn chặn và tiêu diệt được tệ nạn này bằng cơ chế pháp luật nghiêm khắc. Đặc biệt bộ máy nhà nước phải được thiết kế và tổ chức sao cho 3 nhánh quyền lực (gồm tư pháp, hành pháp và tư pháp) phải độc lập thật sự với nhau, phải đối trọng với nhau và có thể kiểm soát và giám sát lẫn nhau, đồng thời phải thiết lập sự kiểm soát từ phía xã hội, nghĩa là phải có xã hội dân sự. Một cơ chế như vậy mới có thể kiềm chế được quyền lực, và mới đủ sức ngăn chặn các hành vi lạm quyền, lộng quyền, vượt quyền, chuyên quyền và độc quyền như hiện nay. Đó chính là cơ chế tam quyền phân lập của nhà nước pháp quyền thật sự, chứ không thể là cơ chế tam quyền nhất lập xã hội chủ nghĩa dưới sự chỉ đạo của một thiết chế siêu quyền lực là Đảng Cộng sản Việt Nam như hiện nay.
Ngay lúc này, Đảng phải kiên quyết hành động
Trương Tấn Sang, VoV.vn, 08/01/2018
Lịch sử không chỉ là những cái đã qua mà còn là người thầy dạy cho chúng ta hiểu hiện tại và giúp chúng ta dự báo cả tương lai.
Trải qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, dân tộc ta đã viết nên những trang sử hào hùng. Nhưng cũng trên chặng đường dài hàng chục thế kỷ ấy, dân tộc ta cũng từng nếm trải biết bao nỗi cay đắng, gian truân. Lịch sử không chỉ là những cái đã qua mà còn là người thầy dạy cho chúng ta hiểu hiện tại và giúp chúng ta dự báo cả tương lai. Những bài học từ lịch sử còn giúp chúng ta tự nhận thức chính mình...
Ông Trương Tấn Sang - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ảnh : TTXVN
Nhiều năm công tác tại đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, tôi thường đi ngang qua Hoàng Thành, qua Hồ Tây, khi sáng sớm tinh sương hay lúc chiều nắng tắt. Có lúc tôi dừng lại bên những dấu tích của thời đại vàng son Lý - Trần, hoặc ngắm nhìn Hồ Tây sương khói, ngẫm nghĩ về những thời kỳ thịnh, suy của đất nước, về những lẽ hưng vong của thời cuộc.
Cứ mỗi lần như vậy, trong đầu tôi lại thoáng hiện lên câu thơ "Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong" (Bạch đầu quân sĩ tại, vãng vãng thuyết Nguyên Phong) trong bài thơ Xuân nhật yết Chiêu Lăng (Ngày xuân thăm Chiêu Lăng) của Vua Trần Nhân Tông. Câu chuyện thời Nguyên Phong phá giặc Mông Cổ, trận đánh của người Việt làm kinh động cả thế giới, vẫn luôn được các lão chiến binh kể lại cho con cháu và trở thành điểm tựa sức mạnh để quân dân Ðại Việt tiếp tục thắng cường địch Nguyên - Mông lần hai, lần ba.
Lịch sử luôn có một sức mạnh như thế ! Những giây phút thả mình vào lịch sử cũng đã hình thành trong tôi nhiều suy nghĩ và hành động.
Vừa may, khi có anh bạn vong niên tặng bộ tiểu thuyết lịch sử Bão táp triều Trần của nhà văn Hoàng Quốc Hải, tôi đọc và thấy nhiều điều tâm đắc. Tiểu thuyết là sáng tạo của nhà văn nhưng nó phản ánh thực tại đời sống và mang lại những chiêm nghiệm quý giá.
Nhân vật Hoàng tiên sinh trong Bão táp triều Trần nói với Ðức ông Trần Thủ Ðộ : trì quốc chứ không phải trị quốc ; trì quốc khó hơn nhiều, làm được điều đó mới đảm bảo được sự lâu bền, mới là sáng nghiệp tổ tông. Giữ nước là công việc của trăm họ, của muôn dân còn trị nước chỉ là công việc của một số ít người.
Triều đình nào cũng thế, vua nào cũng vậy, lập thân, lập quốc bằng nhiều con đường khác nhau nhưng khi đã nắm quyền tất thảy đều phải xây dựng tính chính Danh : khi nhà Trần soán ngôi nhà Lý ấy là bởi nhà Lý lúc ấy đã mạt, không còn điều khiển, kiến thiết được quốc gia, giặc dã nổi lên khắp nơi, ngoại bang nhòm ngó. Nhà Trần lên ngôi định đoạt, cơ đồ vững như bàn thạch ấy là bởi xã hội lấy lại được thế quân bình, dân chúng an cư, lạc nghiệp, triều đình tựa được vào lòng dân. Cứ đem lòng dân mà đo vận nước thì luôn chính xác.
Năm 1258, sau hơn 30 năm xác lập vương triều, Trần Thái Tông, Hoàng đế đầu tiên của nhà Trần đã cùng với tôn thất vực dậy được một dân tộc vốn ốm yếu, loạn lạc giai đoạn cuối đời Lý Huệ Tông, trở thành một cường quốc được lân bang nể trọng, đủ sức lãnh đạo toàn dân đánh bại đạo quân Mông Cổ hùng mạnh. Kỳ tích đánh bại đế quốc Nguyên - Mông dưới triều Trần không dừng lại ở đó. Năm 1285 và 1288, đội quân bách chiến bách thắng, vó ngựa giẫm nát khắp Á-Âu Nguyên - Mông đã phải dừng lại và thảm bại trước quân và dân nhà Trần.
Thắng lợi của Ðại Việt trước đại quân của một đế chế hùng mạnh vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ đã cho thấy sức mạnh vô địch của nhân dân ta và chỉ ra một chân lý của lịch sử dân tộc là một khi đã trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức (lời Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn) thì không kẻ thù nào có thể khuất phục được dân tộc ta.
Dù là nhân vật lịch sử đem đến nhiều tranh cãi, nhưng Trần Thủ Ðộ cũng nổi tiếng đức độ, công tư phân minh, biết nghe lời phải trái, cương trực. Khi là Thái sư thống quốc, trụ cột triều đình, ông đã lệnh chặt ngón chân để phân biệt cháu của vợ mình là Linh Từ Quốc mẫu với những tiểu quan nhỏ khác, vì kẻ này nhờ Quốc mẫu xin một chân Câu đương, một chức dịch nhỏ ở làng xã, khiến kẻ này kêu van mãi mới được tha. Ðây là người đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, không đan xen tình riêng vào việc công. Cũng vẫn nhân vật Hoàng tiên sinh trong Bão táp triều Trần đã khuyên Trần Thủ Ðộ trước khi chia tay rằng việc tối kỵ là chỉ san định những điều có lợi riêng cho các người cầm quyền, mà thiệt hại cho dân chúng, thì đấy sẽ là đầu mối của sự loạn.
Tránh được việc tối kỵ đó đã giúp cho nhà Trần kéo dài 175 năm, nhưng hỡi ôi, cũng vì không làm được điều răn dạy đó mà Trần triều rốt cục cũng bị sụp đổ... Âu cũng là bài học cho hậu thế.
Hơn 100 năm kể từ vị Hoàng đế đầu tiên của Trần triều, vào buổi sáng sớm cái ngày mà quan Tư nghiệp Quốc tử giám Chu An (Chu Văn An), bậc quốc sư dạy dỗ cho hai Hoàng đế Hiến Tông và Dụ Tông, phải chấm tay áo gạt nước mắt, treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi về quê dạy học, kinh thành Thăng Long vẫn vắng lặng. Tờ sớ mà ông liều thân xin chém đầu 7 tên gian thần đầu triều vẫn nằm im đâu đó trong mật viện hay trên long án... Ðó cũng là cái ngày báo hiệu cho sự lung lay và sụp đổ của vương triều Trần từng một thời rực rỡ.
Ðại Việt sử ký toàn thư chép : Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can Dụ Tông không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là Thất trảm sớ. Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê.
Ðại Việt sử ký cũng ghi nhận dù không làm quan nữa nhưng Chu Văn An vẫn nặng lòng với vận nước, mỗi khi có triều hội lớn ông lại về kinh sư ; những dịp ấy vua thường muốn trao cho ông tham gia chính sự song ông nhất quyết không nhận, vật phẩm ban tặng thì thường đem cho lại người khác. Tiền nhân đã dạy qua câu đối Tết : Tri túc tâm thường lạc, vô cầu phẩm tự cao (biết là đủ, không tham lam thì tâm lúc nào cũng tĩnh tại, không xin xỏ thì phẩm giá tự nó đã cao trọng) là vậy.
Cơ đồ mà Thái sư Trần Thủ Ðộ đã dày công khai môn dựng nghiệp, trải các đời vua Trần thống lĩnh toàn dân đoàn kết 3 lần đánh bại Nguyên - Mông, tiếc thay, lại rơi vào tay Dụ Tông, bậc quân vương mà hoang dâm xa xỉ. Dẫu cho tôi có làm đúng phận tôi trung, nhưng vua không còn thực hiện phận làm vua sáng, ghét bỏ người hiền, không ưa lời nói thẳng, trọng dụng kẻ bất tài, để gian thần lộng hành, tham nhũng tràn lan... thì cái Danh đã không còn Chính nữa. Mạt lộ không còn xa.
Nhìn lại lịch sử, các triều đại trị quốc tuy có khác nhau nhưng sự suy vong nói như Chu An, đều có nguyên nhân giống nhau như khuôn đúc, từ chỗ "không ưa lời nói thẳng, ghét người hiền, bỏ người tài, khinh dân, nghi ngờ kẻ sĩ, trọng dụng kẻ bất tài, vô đạo". Dụ Tông chết (năm 1369) để lại di họa, nhà Trần còn tồn tại thêm 31 năm với 5 đời vua, đến năm 1400 mất vào tay nhà Hồ. Nhà Hồ sau khi giành ngôi báu đã làm được không ít việc, nhưng được Nước mà không được Dân nên cũng chẳng giữ được bao lâu, chỉ vỏn vẹn 7 năm rồi lại để đất nước rơi vào tay giặc Minh.
Ở giai đoạn lịch sử đất nước tiếp theo, không giống với nhà Trần và nhà Hồ, nhà Lê bước lên vũ đài chính trị trên cơ sở thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Các lãnh tụ nghĩa quân được xem như những vị cứu tinh đưa dân tộc thoát khỏi họa làm nô lệ cho ngoại bang.
Như một lẽ đương nhiên, triều đại do những người anh hùng lập ra được nhân dân tôn thờ như những giá trị thiêng liêng. Triều Lê với những vị hoàng đế anh minh như Lê Thánh Tông, người lệnh cho danh sĩ Thân Nhân Trung soạn văn bia với câu "hiền tài là nguyên khí quốc gia", đã dựa vào các nhân tài để tạo dựng hàng loạt những giá trị văn hiến truyền lại cho đời sau, đưa Ðại Việt lên hàng cường quốc trong khu vực.
Vậy nhưng chính triều đại ấy rồi cũng sụp đổ hoàn toàn vào cuối thế kỷ XVIII. Con đường đi tới quyền lực và đưa đất nước lên tới đỉnh cao hưng thịnh của các triều đại rất khác nhau, nhưng nguyên nhân suy vong thì chẳng khác nhau là mấy. Ðó là do tài năng yếu kém và đạo đức suy đồi của những người cầm quyền.
Vào thời Lê Trung Hưng, nhà bác học Lê Quý Ðôn (1726 - 1784) có tổng kết 5 nguy cơ dẫn đến quốc gia suy vong là : Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt. Cả năm điều ấy đều là những yếu tố bên trong. Dân tộc Việt Nam không bao giờ sợ giặc ngoại xâm, chỉ sợ những người cầm quyền không đủ dũng khí để tự sửa mình, để thực hành nghiêm khắc nội bộ.
Tìm hiểu lịch sử là con đường đưa chúng ta đến với kho tàng những kinh nghiệm vô giá mà cha ông ta đã đúc kết bằng cả mồ hôi và xương máu.
Hôm nay chúng ta bước sang một năm mới với một tâm trạng tươi tắn, niềm tin trong nhân dân đã trở lại, sức khỏe nền kinh tế có phần hồi phục, vị thế đất nước được lan tỏa rộng rãi. Nhìn lại năm ngoái, phải khẳng định một điều, những gì Ðảng ta đã làm trong công tác cán bộ và xây dựng Ðảng là đúng với mong muốn và nguyện vọng của toàn dân.
Cũng cần khẳng định rằng việc phanh phui, gột rửa những nhem nhuốc, tiêu cực sẽ không dừng lại, mà từ đây, với niềm tin đã được xốc dậy, cả đất nước sẽ đồng lòng, chung sức diệt trừ giặc nội xâm. Chẳng phải trong nhân dân, trong mỗi đảng viên đã luôn bất bình và phẫn nộ trước nạn tham nhũng, suy thoái ? Chẳng phải chúng ta đã chứng kiến những kẻ có lòng tham vô đáy lợi dụng kẽ hở của chính sách, lạm dụng quyền lực để móc túi nhân dân, rồi chính những kẻ đó và bè cánh lại tìm mọi cách để "chui sâu, leo cao" hơn nhằm bảo đảm cho khối tài sản ăn cắp đó tiếp tục sinh sôi, nảy nở ?
Nếu tình hình tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Ðảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu ? Người chép sử không bao giờ viết chữ "nếu". Chính vì vậy mà ngay lúc này, Ðảng và những người nắm giữ vai trò chèo lái đất nước phải kiên quyết hành động.
Nhân dân luôn đứng bên cạnh Ðảng, đồng lòng đi theo Ðảng bằng cả lý trí và trái tim để thực hiện đến cùng cuộc đấu tranh này. Mỗi chúng ta rồi đây đều phải đứng trước sự phán xét công bằng của lịch sử, của dân tộc. Với niềm tin đó chúng ta cùng phấn khởi bước sang năm Mậu Tuất 2018./.
Viết tại Thành phố Hồ Chí Minh, cuối năm 2017
Trương Tấn Sang
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Tiêu đề do VOV.VN đặt)
"Chết tiệt cộng sản" là cụm từ nguyền rủa mọi người đểu biết, không cần phải ba điều bốn chuyện, giải thích dài giòng, lê thê văn tự, thế nhưng "chết tiệt tương lại" thì có thể gây hiểu lầm nên cần phải nói cho rõ, bởi hai chữ "tương lai", cho dù không hề viết hoa, ngó bộ "hơi bị" giống bút hiệu hay nick name của một ông giáo sư xã hội học trong nước. Hai chữ tương lai ở đây, người viết chỉ muốn nói đến những chuyện chưa, nhưng có thể xẩy ra trong thời gian sắp tới, nôm na theo tiếng nước ngoài là phiu-chơ-rờ (future). Không hề có ý ám chỉ ai hay vật thể, sự việc nào hết.
Ảnh minh họa : Tượng Lenin bị đập đổ. Nguồn : internet
Theo sự hiểu biết hạn hẹp, đựng không đầy chai dầu xanh Con Ó (đâm), kiến văn ít ỏi như vài hạt cát trong sa mạc Sahara, chữ nghĩa viết ra không đầy cái lá mít (đặc) của người viết thì lịch sử chưa bao giờ có chữ "nếu". Mja ! Thuở còn mài đủng quần ở trung học, ông thầy Ng, dậy triết và Việt văn, mỗi khi vào lớp, bắt đầu giảng bài thường hỏi lớn : Triết học là gì ?
Lần đầu tiên hỏi, cả lớp ngồi im thin thít, mấy thằng con nít mặt búng ra sữa ngó nhau, đếch có thằng nào dám lên tiếng. Sau vài phút yên lặng, thấy không có thằng nào dám trả lời, ông thầy cầm phấn trắng viết lên bảng (đen) xì mấy chữ to đùng như voi – Triết là Biết, Triết học là Học Để Biết.
Cả lớp khoảng 40 thằng nhóc, 15-16 tuổi gật gù, rù rì trao đổi với nhau, ra điều đã thấm nhuần "Con đường Kách Mệnh". Ông thầy dùng giẻ xóa mấy chữ vừa viết, tương lên mấy chữ mới – Nhưng Biết Cái Gì mới được ? Một cái dấu hỏi to chần dần theo sau.
Đúng là tra tấn học trò không gươm, không giáo, hỏi chi mà ác đạn vậy trời ? Biết mẹ gì ? Bài vở toán, lý hóa, vạn vật, sinh ngữ Anh, Pháp, … bù đầu, bù cổ, thì giờ đâu suy nghĩ để biết cái gì là cái gì ?
Tuổi 15-16 là tuổi hồng, mới lớn, tuổi sau giờ học ựa cơm, xin (hoặc chôm) tiền ông bà già đi ăn chơi, tập tành uống cà phê, hút thuốc lá, hẹn hò, ci-nê-ma… làm sao có suy nghĩ để biết và cần biết cái gì ? Cả lớp lại ngồi im như ngậm hột thị.
Thế là thầy Ng thao thao giảng bài… Triết là biết ? Biết gì ? Biết cư xử nhân hậu, biết giữ gìn văn hóa, biết yêu nước, thương dân, biết phân biệt bạn thù, biết vận dụng lý trí, nhận định, tổng hợp sự kiện để hiểu đâu là chính, đâu là tà…
Ấy thế mà, những lời giảng sau đó của thầy Ng cũng dần dần thấm vào những cái đầu, đa số chân chất, ngây thơ, trở thành hành trang ứng xử với xã hội, với đời sau này của đám học trò. Nói là đa số vì trong đám trẻ mới lớn đó cũng có những cái đầu ngồi nghe nhưng không chịu hoặc không thể tiếp thu những lời giảng của thầy Ng. Nhưng thôi, đó là chuyện sẽ nói trong dịp khác.
Bước chân vào đời chỉ được vài năm thì miền Nam rơi vào tay cộng sản. Triết học nhân bản bị xóa xổ bởi một nền tảng triết học hoang tưởng mà căn bản lý luận ngược với thực tế xã hội và sự tiến hóa của nhân loại.
Xã hội bị đảo lộn, nền giáo dục nhân bản, văn hóa dân tộc bị xóa bỏ để thay thế bằng một loại văn hóa cuồng tín, man rợ. Chỉ cần quan sát vài sự kiện, dễ dàng nhận thấy sự tiến hóa ngược chiều trong xã hội Việt Nam hiện nay. Thế nhưng đa số người Việt Nam, dường như rất ít đọc sách, không thích triết học, nên thường không có suy nghĩ, tìm hiểu về sự kiện, dẫn tới việc không chịu suy luận để tìm ra nguyên nhân, gốc rễ của vấn đề, cho nên thường hay hành xử tự cao, tự đại hoang tưởng hay theo tâm lý bầy đàn.
Người ta dễ dàng ồn ào, xúm xít vào chửi bới Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền về đề xuất thay đổi cách viết tiếng Việt với công trình nghiên cứu có tính "hàn the", xin lỗi nói lộn "hàn lâm", nhưng lại không hề quan tâm bàn bạc, có ý kiến để đưa tới hành động phản đối vụ bộ Tài-Môi chính thức cho công ty Formosa xả thải quá mức quy định. Nếu hỏi những người đã nhao nhao phản đối, sỉ nhục ca sĩ Mai Khôi vì cô cầm tấm biểu ngữ "Piss (Peace) on you Trump" – có biết ngày nào xử phúc thẩm Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh không ? Số người trả lời được chắc không nhiều.
Hơn 72 năm ở miền Bắc, 42 năm trên cả nước, chế độ cộng sản đã thuần hóa dân tộc Việt Nam thành một giống dân bạc nhược, hèn hạ. Hãy quan sát những người lái xe "tham gia giao thông" đúng luật lệ, khi bị cảnh sát giao thông chận lại vòi tiền phạt không có lý do, bao nhiêu người sẵn sàng nộp phạt một nửa số tiền quy định để được thoát đi nhanh chóng, bao nhiêu người dám phản đối ?
Tương tự như vậy, bao nhiêu người dân dám công khai phổ biến trên mạng xã hội như facebook, chuyện các cán bộ viên chức ở công an, phường, xã đòi nguyên tắc "đầu tiên" khi cấp hay thị thực một giấy tờ, văn bản hành chánh như khai sinh, khai tử, sang nhượng, buôn bán… ? Chỉ cần 5-70 người trong một phường, xã cương quyết không đút lót viên chức, cán bộ chính quyền cấp văn bản thị thực hành chánh lên tiếng thì liệu những viên chức đó có dám tiếp tục mèo nheo, đòi hỏi quà cáp, tiền bạc lót tay ?
Với suy nghĩ đơn giản xuề xòa, dễ dãi lẫn ích kỷ, dĩ hòa vi quý, miễn sao cho xong việc mình là tốt… thấm dần vào máu, tạo nên tâm lý hèn hạ, việc gì cũng phải xin xỏ, năn nỉ, đút lót, bôi trơn. Cả một đất nước vận hành theo nguyên tắc đó, từ trong nội bộ đảng, chính quyền ra đến môi trường giao dịch trong xã hội trở thành văn hóa Xin-Cho. Hiến pháp trở thành trò hề khi đảng cộng sản ngồi xổm lên trên và thoải mái ỉa, đái vào văn bản pháp lý có giá trị cao nhất nước.
Từ chuyện nhỏ dẫn tới chuyện lớn. Formosa xả thải tàn phá môi trường, gây thảm họa môi sinh kéo dài trên 240 km dọc bở biển Việt Nam, hàng trăm ngàn hộ dân mất sinh kế, hàng triệu người bị ảnh hưởng, bao nhiêu người tham gia biểu tình chống lại sự tàn phá môi trường, đòi đóng cửa Formosa ? Chỉ thấy kêu gào, than khóc thay vì tập họp lại, đứng lên áp lực, đòi hỏi quyền lợi, yêu cầu chế độ, chính quyền có bổn phận, trách nhiệm giải quyết thảm họa với những kế hoạch, chính sách an dân lâu dài.
Nếu mỗi hộ dân bị mất ngư trường hành nghề chỉ cần cử một người đi biểu tình, kiên quyết đòi đóng cửa Formosa, cộng với sự tiếp sức của những người dân quan tâm ở nơi khác, con số sẽ lên đến hàng trăm ngàn hoặc hơn. Liệu chế độ mafia cộng sản Việt Nam có dám đàn áp như Thiên An Môn năm 1989 ? Câu trả lời còn bỏ ngỏ nhưng ít nhất nó biểu lộ suy nghĩ chững chạc, trưởng thành của một dân tộc, ý thức được quyền sống, quyền được làm người của mình.
Tiếc thay ! Lịch sử không có chữ "nếu" hay "giá mà". Một ông già gần đất, xa trời mang hàm giáo sư, đọc thiên kinh, vạn quyển còn chưa thấu hiều được nguồn gốc tai họa của đất nước, vẫn ngồi mơ mộng "giá mà", thì trách chi người dân chỉ rên rỉ, khóc than cho số phận hay thờ ơ trước biến động xã hội.
"Giá mà" cái gì ? Giá mà lúc này có được bản lãnh và tầm nhìn như Sáu Dân, Võ Văn Kiệt như ông giáo sư Tương Lai mơ ước. Mja ! Có thì sao, không có thì sao ? Một đất nước với 93 triệu dân u mê, trì trệ, bạc nhược, yếu đuối sau hơn 72 năm cai trị của cộng sản thì một trăm Sáu Dân cũng chẳng làm nhúc nhích, chuyển động được đất nước theo chiều ngược lại với hiện trạng hôm nay. Làm ơn (và làm phước) nhìn lại lịch sử một chút đi. Ai dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc ? Tài ba, thông minh, thao lược như Hồ Chí Minh còn phải bán đi hòn đảo chiến lược để đổi lấy vũ khí, quân lương đánh chiếm miền Nam thì cỡ như Sáu Dân làm được gì ?
Cũng đừng đơn giản cho rằng đến năm 2020 thì Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc bởi trên thực tế chế độ cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc. Không tin ư ? Hãy nhìn lại xem và nhìn cho kỹ. Từ kinh tế đến quân sự, văn hóa, thực phẩm…, từ mầu sắc tà áo dài trong cuộc thi hoa hậu, đến tấm bảng hiệu cho cửa tiệm, bộ quân phục của người lính Quân đội nhân dân… có y chang như Trung Quốc không ? Ngoài ra, nếu để ý sẽ thấy, mỗi lần họ Tập hắt hơi thì bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam co rúm lại vì sợ hãi. Đừng quên rằng, bất cứ một động thái nào để bắt tay với Mỹ đều phải được phép của Trung Nam Hải.
Hơn nữa, hãy so sánh tổng sản lượng quốc gia của hai nước năm 2016, GDP của Trung Quốc (11.200 tỉ USD) gấp hơn 55 lần GDP của Việt Nam (202,6 tỉ) , một sự chênh lệch quá sức lớn lao. Do đó, nhận định rằng Việt Nam đến năm 2020 sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc ngó bộ hơi xa xỉ. Dân số Trung Quốc đang gần 1,4 tỉ, nó cần gì cộng thêm 93 triệu nữa để nuôi cho thêm mệt ? Sát nhập Việt Nam vào thành một tỉnh của mình, Trung Quốc hoàn toàn không được lợi gì ngoài chuyện ôm thêm một cục nợ to tổ chảng cùng với một số dân chỉ giỏi khôn vặt, láu cá, đến cái bắt chước cũng chẳng ra hồn.
Có đi ăn cướp thì chẳng ai dại tấn công vào nhà thằng nghèo, khố rách, áo ôm, nợ như chúa chổm, phải quỵ lụy ăn xin khắp nơi. Quỷ quyệt, tinh ma như Tập Cận Bình chỉ cần giữ cho chế độ cộng sản Việt Nam đừng sụp đổ, thỉnh thoảng tiếp cho tí máu, mua chuộc đám lãnh đạo Việt Nam bằng một ít tiền đút lót, thế là dễ dàng điểu khiển, giật dây, biến Việt Nam thành cái bãi rác khổng lồ, tha hồ trút bỏ đồ phế thải như hóa chất độc hại, rác nguyên tử, rác bệnh viện… đồng thời là nơi tiêu thụ sản phẩm hạng hai như than đá, sắt thép, đầu máy xe điện… với giá trời ơi đất hỡi, chẳng nước nào dám mua. Ngoài ra Việt Nam còn là nhà máy đóng gói, thay đổi bao bì sản phẩm, để có thể dễ dàng chui lọt qua cửa khẩu hải quan của những nước mà hàng hóa mang nhãn hiệu Made in China bị cấm tuyệt. Vừa giản tiện, ít tốn kém, lại không phải lo lắng mà cũng không mang tiếng nước lớn "bá quyền" đánh chiếm nước nhỏ.
Vậy tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu ? Đi về đâu nữa ? Đó là tương lai chết tiệt chứ ở đó mà "nếu" với "giá mà".
Thạch Đạt Lang
Nguồn : Tiếng Dân, 30/11/2017
Thế giới đã có quá nhiều cuộc thảo luận về sự tàn ác, dối trá, bạo lực dã man suốt dài dọc lịch sử của chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng, thật không khỏi phẫn nộ trước thái độ hân hoan mừng kỉ niệm 100 năm Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 của Đảng cộng sản Việt Nam và một số "trí thức xã hội chủ nghĩa".
Đảng bộ Bệnh viện Da liễu Trung ương kỷ niệm 100 năm cách mạng tháng 10 Nga (7/11/1917 - 7/11/2017) - Bộ Y Tế
Người viết vô tình gặp lại cô Hiệu phó cũ của một học viện có tiếng tại Sài Gòn trên Facebook, với hình ảnh đại diện (profile picture) là biểu tượng kỉ niệm 100 năm Cách mạng tháng 10 Nga.
Người viết không xác minh được liệu tài khoản Facebook đó có đích thực là của cô Hiệu phó ngày nào hay không, nhưng nhận ra những hình ảnh không thể nào quên được của cô vì đã từng gắn bó với cô trong gần 3 năm học. Hiện tại, cô đã là Hiệu trưởng với bằng cấp Tiến sĩ, đang truyền tải nền giáo dục tiến bộ của quốc gia dân chủ Hoa Kỳ đến sinh viên Việt Nam. Thế mà, không hiểu sao cô vẫn mừng rỡ với dòng status : "Chào mừng 100 năm Cách mạng tháng 10". Tương tự, Đảng cộng sản Việt Nam rộn ràng và long trọng mừng kỉ niệm 100 năm Cách mạng tháng 10 với việc lãnh đạo Đảng, nhà nước đặt hoa tưởng niệm tại tượng đài Lenin, Hà Nội.
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Tất Thành Cang phát biểu trong chương trình toạ đàm về sách Nga. (Ảnh : Phương Vy/TTXVN)
Cách mạng tháng 10 Nga đã chính thức khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản khát máu và tàn ác kinh hoàng, mà không bút mực nào có thể mô tả đầy đủ được sự man rợ đó. Chủ nghĩa cộng sản đã bị quẳng vào sọt rác và cả thế giới văn minh lên án như một tội ác lịch sử. Những nước cộng sản như, Liên bang Xô Viết, Cuba, Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam đều chia sẽ những mẫu số chung : độc tài, đói nghèo, khóc than, thảm sát hàng loạt, công an trị và đầy dẫy bất công. Lẽ nào cô Tiến sĩ Hiệu trưởng, được xem như là một "trí thức xã hội chủ nghĩa" và Đảng cộng sản Việt Nam không biết được những điều cơ bản này hay sao ?
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917
Hai người đóng vai trò lãnh đạo quyết định trong chiến thắng Cách mạng tháng 10 là Lenin và Trotsky.
Tên thật của Lenin là Vladimir Ilyich Ulianov (1870-1924), là người thành lập đảng cách mạng Bolshevik (có nghĩa là phần đông). Tư tưởng của Lenin, ảnh hưởng phần lớn từ Karl Marx, dẫn dắt đảng Bolshevik cướp chính quyền thành công từ Sa Hoàng Nicholas.
Cánh tay phải hỗ trợ đắc lực Lenin trong Cách mạng tháng 10 là Trotsky, tên thật là Lev Davidovich Bronstein (1879-1940), xuất thân từ một gia đình tầng lớp trung thượng lưu. Ông đam mê theo đuổi sự nghiệp của một nhà cách mạng chuyên nghiệp khi chỉ 18 tuổi. Ông liên minh với các phong trào công nhân và trở thành một người lãnh đạo trong số họ. Chính vì những hoạt động này dẫn đến việc ông bị bắt giam ; nhưng ông đã trốn thoát và đổi tên thành Leon Trotsky, vốn là tên của người quản tù trước đó.
Trong khi bị giam cầm năm 1899, Trotsky bắt đầu đọc và viết, lấy cảm hứng từ chủ nghĩa xã hội. Ông đặc biệt hứng thú với tác phẩm của Lenin. Sau khi trốn thoát năm 1902, ông chạy trốn đến nhà của Lenin, lúc đó đang lẩn trốn ở London. Từ đó, Lenin và Trotsky chính thức kết giao và trở thành đồng minh. Trotsky có tài năng hùng biện tuyệt vời, vì thế đã thu hút được sự ủng hộ của đông đảo công nhân nhà máy vũ trang, binh lính và thủy thủ, để thành lập Hồng Vệ Binh (Red Army).
Trái ngược với Trotsky, Lenin có những ý tưởng cấp tiến hơn. Lenin tham vọng thiết lập một tổ chức cách mạng nắm toàn quyền kiểm soát dưới danh nghĩa Chủ nghĩa Cộng sản. Ý định ban đầu của Lenin là đưa các cuộc biểu tình trên đường phố vào một trò chơi quyền lực, để có thể đưa đảng Bolshevik của ông lên nắm quyền. Lenin ý thức rằng không thể đòi quyền lực dưới cái tên Đảng Bolshevik, bởi vì nó chỉ là tiểu số, không có tiếng tăm. Vì thế, Lenin đã ranh ma kêu gọi sự ủng hộ quyền lực sang cho những công nhân Soviet, nhờ đó chiếm được cảm tình của cả ba nhóm đối lập.
Đầu tháng 4/1917, Lenin trở về Nga từ Zurich, Thụy Sĩ, trên một toa xe lửa bịt kín. Sau đó, Lenin hùng hồn phát biểu trước đám đông, yêu cầm chấm dứt chiến tranh và phải trao trả tất cả quyền hành cho những công nhân Soviet. Tận dụng thế mạnh của tuyên truyền, Lenin đã cuốn hút và mê hoặc những người Soviet bằng dối trá rằng, cách mạng sẽ mang đến tự do bầu cử và tuyên bố những người công nhân Soviet nên cai trị nước Nga. Tất nhiên, điều mà Lenin thực sự muốn nói là, những người Soviet có thể thống trị nước Nga, với điều kiện phải chấp nhận sự kiểm soát toàn diện của đảng Bolshevik. Lenin tin rằng một khi đảng Bolshevik của ông giành được quyền kiểm soát chính phủ dưới danh nghĩa Soviet, thì sẽ rất dễ dàng giành lấy quyền lực từ các nhà lãnh đạo đảng Menshevik và đảng Cách mạng Xã hội (Social Revolutionary).
Mùa Đông năm 1916, sự thiếu thốn thực phẩm trở nên nghiêm trọng, dẫn đến giá bánh mì tăng cao. Ngày 23/2/1917, vì không thể mua được bánh mì, nên nhiều phụ nữ trong thành phố Petrograd đã nổi loạn. Ngày 24/2/1917, khoảng 200 ngàn công nhân tràn xuống đường biểu tình với sự ủng hộ âm thầm của đội kỵ binh Cossak, tức đội dẹp loạn của Sa Hoàng Nicolas II, bằng cách từ chối tấn công đám đông biểu tình. Ngày 14/3/1917, Chính phủ Lâm thời được thiết lập với sự thoái vị của Sa Hoàng Nicolas II.
Ngày 23/9/1917, những người công nhân Soviet đã bầu Trotsky làm Chủ tịch, đảm nhận vai trò lãnh đạo đảng Bolshevik. Với việc Lenin tạm thời đứng sau hậu trường và Trotsky lãnh đạo tiền tuyến, đảng Bolshevik nhanh chóng tiến đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 10. Việc hạ gục và chiếm giữ Chính phủ lâm thời (Provisional Government) diễn ra khá dễ dàng, gây ngạc nhiên đối với đảng Bolshevik. Khoảng một giờ chiều ngày 25/10/1917, Trotsky thông báo chính thức cho những người công nhân Soviet, sự sụp đổ của Chính phủ lâm thời và sự chiếm đóng các địa điểm chiến lược trong thành phố Petrograd.
Ngày 24/10, các đơn vị của Hồng Quân đã chiếm quyền kiểm soát thành phố. Các tòa nhà chính, nhà máy điện, ngân hàng quốc gia, trạm đường sắt và xe điện, đều nằm trong tay của đảng Bolshevik. Vào đêm 25/26 tháng 10, người của đảng Bolshevik tấn công Cung điện Mùa Đông và bắt giữ Chính phủ lâm thời. Lenin tuyên bố thành lập một chính phủ mới của Nga và toàn bộ quyền hành của nước Nga lọt vào tay của những người Soviet.
Ngay trong đêm 26/10/1917 (theo lịch Gregorian của Nga là 7/11/1917), Đại hội Soviet khai mạc và tuyên bố thành lập chính quyền Soviet, với Lenin làm Chủ tịch của Hội đồng Ủy viên Nhân dân (Council of People’s Commissars), Trotsky làm Ủy viên Ngoại vụ và Stalin làm Ủy viên các Sắc tộc (Commisionar of Nationalities).
Sau Cách mạng tháng 10 : tiếng khóc than và sọ người chất cao như núi
Chủ nghĩa cộng sản không phải là một quan điểm. Chủ nghĩa cộng sản là một tội ác
Sau Cách mạng tháng 10 năm 1917, Liên bang Xô Viết rơi vào nội chiến và cái tên Đảng cộng sản Nga cũng chính thức xuất hiện. Năm 1922, Ủy ban Trung ương bầu Joseph Stalin làm Tổng bí thư, một chức vụ không có thực quyền vào lúc đó. Tuy nhiên, Stalin rất ma mãnh, đã âm thầm thâu tóm quyền lực và sẵn sàng thanh trừng loại bỏ những kẻ chống đối. Cuối cùng, Stalin đã chiếm được quyền hành tuyệt đối và chỉ đứng sau Lenin.
Tháng 1/1925, Trotsky bị buộc phải từ chức Bộ trưởng Chiến tranh và sau đó phải trốn chạy sang Mexico để xin tị nạn, hy vọng thoát khỏi sự truy sát của Stalin. Stalin đã không nể "tình đồng chí" mà bỏ qua, mà còn sai sát thủ sang tận Mexico ám sat Trotsky. Ngày 20/8/1940, trong lúc Trotsky đang ngồi ở bàn làm việc trong một văn phòng ở Coyoacan, Mexico, thì Ramon Mercader, một điệp viên Liên Xô, giả dạng là bạn của Trotsky đến thăm và bất thình lình cầm chiếc búa sắt giấu trong người bổ mạnh vào đầu của Trotsky. Trotsky qua đời vì thương tích một ngày sau đó.
Không chỉ dã man thủ tiêu Trotsky, Stalin còn được cho là thủ phạm đứng sau cái chết của Lenin. Trong một nghiên cứu của Trung tâm y khoa thuộc Đại học Maryland, hai chuyên gia gồm tiến sĩ Harry Vinters, giáo sư khoa thần kinh tại Đại học California và một chuyên gia lịch sử Nga ở thành phố St. Petersburg, thì thuốc độc mới chính là nguyên nhân gây ra cái chết của Lenin. Và người bị tình nghi lớn nhất với nhiều bằng chứng cáo buộc chính là Joseph Stalin.
Bộ ba Lenin, Trotsky và Stalin đã từng là những đồng chí cộng sản thân thiết, cùng theo đuổi quyết tâm làm cách mạng giải phóng nước Nga. Thế nhưng, mục đích và toan tính thực sự đằng sau Cách mạng tháng 10 Nga chỉ là quyền lực và bạo lực.
Sau Cách mạng tháng 10, nước Nga Soviet chìm đắm trong nội chiến và bạo chúa Stalin đã thẳng tay tàn sát hàng chục triệu người chỉ vì bị tình nghi bất tuân hay chống lại chính quyền Soviet. Và cũng kể từ mốc thời gian đó, bạo lực của chủ nghĩa cộng sản đã lan truyền nhanh chóng sang khắp Đông Âu.
Thế kỉ đẫm máu và tang tóc của chủ nghĩa cộng sản
Một trong những nhà báo được yêu thích nhất của Anh quốc, Alistair Cooke, đã viết về Stalin trong một lá thư với tựa đề "Bạo chúa điên loạn và độc ác nhất" như sau :
"Stalin thức dậy vào đầu giờ tối, ngồi xuống, nhấp ly Vodka và bắt đầu cái mà tôi gọi là chữ ký hoàng hôn, tức là lệnh hành quyết : hôm nay một anh rê ; ngày mai đốt sáu ngôi làng ; ngày hôm sau nữa, nhờ vào chỉ điểm của một đại sứ rằng hai sĩ quan Nga có âm mưu phản loạn, Stalin ra lệnh bắn luôn hai ngàn sĩ quan cấp tá trở lên vào lúc rạng sáng.
Không lâu sau khi Thế chiến hai bắt đầu, các văn phòng nước ngoài bắt đầu tính toán xem Stalin đã giết bao nhiêu người. Không kể số thương vong vì trận mạc. Người Anh đoán chừng bảy, tám triệu. Những người theo quan điểm tự do tiến bộ ở cả Anh và Mỹ miễn cưỡng, không muốn tin rằng ông ta đã hành quyết người vô tội, mà chỉ là những phần tử chống đảng nguy hiểm thực sự. Bộ Ngoại giao Mỹ, quá lo ngại về chủ nghĩa cộng sản, đoán là có 20 triệu người. Cho mãi đến khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1991, người Nga mở kho tài liệu. Con số đúng của Kremlin là 27 triệu".
Giáo sư sử học của Đại học Princeton, Stephen Kotkin, đã có một bài phân tích "Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản" (Communism’s Bloody Century) trên tờ Wall Street Journal ngày 3/11/2017 như sau :
"Từ năm 1917, ở Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ, Đông Âu, Đông Dương, Châu Phi, Afghanistan và nhiều nước Châu Mỹ Latin, chủ nghĩa cộng sản đã làm thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số học.
Những công cụ hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất hàng loạt, các trại cưỡng bức lao động và sự khủng bố của nhà nước cảnh sát - một mô hình được lập ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục ông là Joseph Stalin. Mô hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng sản đã cố ý giết chết một lượng lớn người chống đối, trong thực tế số nạn nhân gián tiếp còn nhiều hơn nữa do chết đói - hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội".
Tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông với chính sách Đại Nhảy Vọt (Great Leap Forward) đã làm thiệt mạng ít nhất 45 triệu người từ năm 1958 đến 1962. Đây là cuộc thảm sát kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại. Chưa dừng lại ở đó, khoảng tháng 5/1966, Mao còn khởi động cuộc Cách mạng Văn Hóa (Cultural Revolution), thành lập Hồng Vệ Binh (Red Guards) và ra lệnh cho họ tiến hành hàng loạt các vụ thảm sát người bii tình nghi chống đối ở Bắc Kinh và các thành phố khác. Theo ước tính của một học giả nghiên cứu về cuộc Cách mạng Văn hóa, Song Yongyi, thì có ít nhất từ 500.000 đến 8 triệu người đã bị giết chết (2).
Nhà văn và tác giả sách, Ma Jian, cũng đã viết về sự kinh hoàng của Cách mạng Văn hóa trên tờ báo uy tín Project Syndicate như sau :
"Tại tỉnh Quảng Tây, nơi một vài vụ bạo lực tồi tệ nhất xảy ra, gần 100.000 người đã bị giết hại trong tháng Bảy và tháng Tám năm 1968. Trong văn bản chính thức "Đại sự ký Cách mạng Văn hóa ở Quảng Tây", nhiều trẻ sơ sinh xuất hiện trong danh sách những người thiệt mạng. Tác giả Zheng Yi đã tường thuật riêng ở huyện Vũ Tuyên, hơn 100 người đã bị ăn thịt, bởi việc ăn tươi nuốt sống kẻ thù là cách duy nhất để chứng minh lòng yêu mến đối với Mao. Gan, mắt và não được móc ra trong khi các nạn nhân vẫn còn sống" (3).
Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ mưu ra lệnh thủ tiêu hàng loạt những người đã từng đứng chung hàng ngũ với Việt Minh chống Pháp, để giành độc quyền lãnh đạo. Trong cuốn Vietnam 1945 : The Quest for Power (1997), David Marr ước tính rằng hàng ngàn người bị gán tội là "kẻ thù của Cách mạng" đã bị hành quyết, thủ tiêu hay bị chết trong lúc bị bắt giam trong thời gian từ cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1945. Chuyên gia về Việt Nam thuộc Đại học George Washington, Shawn McHale, cho biết rằng ít nhất 10.000 người đã bị Việt Minh hành hình hoặc ám sát trong giai đoạn cuối 1945.
Giáo sư khoa học chính trị tại trường Đại học Hawaii đã thống kê chi tiết tổng số người Việt Nam bị Việt Minh giết chỉ riêng từ 1945 đến 1956 khoảng từ 242.000 đến 922.000 người (4).
Chưa dừng lại ở đó, Hồ Chí Minh còn ra lệnh cho Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành cuộc Cải cách Ruộng đất (Land Reform) từ 1949- 1956, đã khiến cho ít nhất gần 1 triệu người bị thiệt mạng.
Nhà thơ Xuân Diệu đã ca ngợi những cuộc đấu tố tàn ác đó bằng những dòng thơ kinh tởm và khát máu :
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi
Bác sĩ người Úc, A. W. Wylie, phục vụ tại một bệnh viện ở đồng bằng sông Cửu Long trong những năm 1960 tại Việt Nam, đã kể lại những cảng tượng rùng rợn mắt thấy tai nghe như quân cộng sản đã thẳng tay tàn sát cả một thôn làng chỉ vì có thái độ trung lập, không ủng hộ ai - cộng sản hay chính quyền Sài Gòn và của lực lượng đồng minh. Bác sĩ Wylie trích dẫn một số trường hợp mà ông đã tận mắt chứng kiến (5)" :
- Lúc Việt Cộng kết liễu một người phụ nữ mang thai, cả hai chân cô chỉ còn lủng lẳng những "dải thịt" và buộc phải bị cắt bỏ. Chồng cô, là một trưởng thôn, vừa bị bóp cổ trước mắt cô, và cô cũng chứng kiến đứa con ba tuổi bị bắn chết. Bốn giờ sau khi chân bị cắt cụt, thai nhi trong bụng cô buộc phải hủy bỏ. Nhưng có lẽ điều tồi tệ nhất đã xảy ra với cô ngày hôm đó là cô đã sống sót.
- Việt Cộng đã bắt giữ một cảnh sát viên trong một ngôi làng, hai tay bị trói chặt. Một tay súng Việt Cộng đã bắn vào mũi xuyên qua xương gò má gần đôi mắt để cho chết từ từ trong đau đớn. Sau cùng người cảnh sát này đã chết vì chảy máu không ngừng.
- Một cô giáo 20 tuổi đã ẩn mình bằng cách quỳ xuống trong một góc để bảo vệ mạng sống, một tên Việt Cộng đã nhào tới bủa mạnh vào đầu cô giáo bằng con dao rựa. Nửa phần sau của đầu cô giáo đã bị chém đứt đến nổi bộ não màu đỏ ngà trong đầu của cô trào ra ngoài. Cô chết vì vỡ sọ và mất máu.
Tại Cambodia, Pol Pol và Khmer Đỏ cũng nhân danh chủ nghĩa cộng sản thảm sát hơn 2 triệu người Khmer bằng những thủ đoạn rợn người : chôn tập thể, hành quyết, đập đầu bằng cuốc, chặt đầu bằng rựa, cứa cổ bằng tre, bỏ thuốc độc vào giếng nước. Những cách đồng phủ trắng sọ người và những ao đầy thi thể thối rữa là những tội ác đáng nguyền rủa của bọn cộng sản Khmer Đỏ.
Thay lời kết
Sau Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự ra đời và bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tàn ác và đẫm máu hơn bất kì chế độ nào trong lịch sử nhân loại, với gần 100 triệu người thiệt mạng : chết vì bị hành quyết dã man, chết vì đói khát, chết vì khao khát tự do, chết vì tỏ thái độ không ưa thích chủ nghĩa cộng sản và chết vì bị thủ tiêu. Và cũng chính chủ nghĩa cộng sản đã đẻ ra những bạo chúa khát máu Joseph Stalin, Kim II Sung, Mao Trạch Đông, Pol Pot và Hồ Chí Minh, sẵn sàng thảm sát chính đồng bào của mình để nắm quyền. Những tộ ác của chủ nghĩa cộng sản sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Những bạo chúa độc ác này đã nhân danh chủ nghĩa cộng sản để tuyên truyền và làm cách mạng để giải phóng đất nước và dân tộc ra khỏi nghèo khổ. Nhưng, trong thực tế, động cơ mà những bạo chúa này nhắm tới chỉ là quyền lực và danh lợi sau khi giành được chính quyền mang lại. Tự do, hạnh phúc mà bọn chúng rêu rao chỉ là bánh vẽ. Hậu quả mà những chế độ cộng sản mang lại cho người dân là nỗi đau câm lặng trước sự phô trương của những quan chức cộng sản đương quyền. Xét cho cùng, quyền lực của những chế độ cộng sản đã được xây dựng trên xác người và tồn tại trên nỗi đau thấu trời xanh của hàng trăm triệu người dưới quyền cai trị của chúng.
Vào đầu những năm 1990, chủ nghĩa cộng sản đã chính thức bị xóa sổ ngay tại Liên Xô, nơi sinh ra nó cũng như ở các nước Đông Âu khác. Thế giới đã chứng kiến nỗi hân hoan và sự vui mừng của những dân tộc vừa trút bỏ được ác mộng cộng sản. Các tượng đài của Lenin ở Đông Âu đã lần lượt bị giật sập trong tiếng reo hò của dân chúng bị ép buộc sống dưới ách cộng sản.
100 năm sau Cáng mạng Nga 1917, chỉ có 6% người dân Nga cảm thấy tự hào về Cách mạng tháng 10 và hầu hết đều muốn quên đi (6). Thế mà, lạ thay, Đảng cộng sản Việt Nam và một số "trí thức xã hội chủ nghĩa" vẫn ngoan cố bơi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại : tiếp tục hội họp và khóc mướn cho thứ chủ nghĩa bạo ngược và độc ác.
Gõ vào ô tìm kiếm (search) của Facebook cụm từ "Chúc mừng Cách mạng tháng 10 Nga", sẽ hiện lên các bài post của những "trí thức xã hội chủ nghĩa" ca tụng Cách mạng tháng 10. Họ biết rõ gốc rễ và thủ phạm gây ra cái chết đau đớn và oan ức cho hàng trăm triệu người trên thế giới và hàng triệu người ở Việt Nam, không chừng trong đó có cả thân nhân của gia đình họ, nhưng họ mà vẫn hân hoan kỉ niệm Cách mạng tháng 10 Nga. Phải gọi những "trí thức xã hội chủ nghĩa" này là loại người gì ?
Mai V. Pham
(07/11/2017)
Chú thích :
(1) "Saddam Hussein, Hitler, Stalin, Mao, & More : 13 Deadliest Dictators", Daily Beast, 21/10/2011
(2) "China’s Cultural Revolution, Explained", Austin Ramzy, New York Times, 14/5/2016)
(3) "The Revolution Will Not Be Memorialized", Ma Jian, 31/5/2016)
(4) "Statistics of Vietnamese Democide Estimates, Calculations, and Sources", R.J. Rummel, University of Hawaii)
(5) "The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh", Reader’s Digest, 1968)
(6) "Forget Lenin. 100 Years After the Revolution", Anna Nemtsova, Daily Beast, 28/10/2017)
Tham khảo :
http://www.bbc.co.uk/programmes/articles/4dn4Zk3dr70JVNYpHlY59Cc/the-maddest-and-most-criminal-of-tyrants-20-june-2003
https://www.wsj.com/articles/the-communist-century-1509726265
http://www.paulbogdanor.com/left/vietnam/hochiminh.html
https://www.thedailybeast.com/saddam-hussein-hitler-stalin-mao-and-more-13-deadliest-dictators-photos
http://www.historytoday.com/frank-dik%C3%B6tter/looking-back-great-leap-forward
https://www.nytimes.com/2016/05/15/world/asia/china-cultural-revolution-explainer.html
https://www.project-syndicate.org/commentary/the-revolution-will-not-be-memorialized?barrier=accessreg
http://www.rfa.org/english/news/vietnam_landreform-20060608.html
http://www.bbc.com/vietnamese/culturesport/story/2006/03/printable/060301_postcolonial_culture.shtml
https://www.thedailybeast.com/rasputin-not-lenin-feels-the-love-in-russias-100-year-celebration-of-revolution
Từ đầu năm 2017 đến giờ, con số những nhà hoạt động nhân quyền bị bắt giữ do nhà cầm quyền cộng sản đã lên đến gần 30 người. Đặc biệt có hai trường hợp rất đáng quan tâm là hai người là bà mẹ đang nuôi con nhỏ. Đó là trường hợp Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ở Nha Trang và trường hợp Trần Thúy Nga ở Hà Nam.
Có hai trường hợp rất đáng quan tâm là hai người là bà mẹ đang nuôi con nhỏ, đó là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ở Nha Trang và Trần Thúy Nga ở Hà Nam.
Quỳnh và Nga là hai nhà hoạt động quen thuộc với phong trào đấu tranh nhân quyền từ nhiều năm nay. Như Quỳnh chuyên về mảng những người bị chết mờ ám trong đồn côn an hoặc trại giam. Trần Thúy Nga chuyên về mảng người lao động và nông dân bị mất đất. Điều đáng nói là từ nhiều năm trước họ đã hoạt động như vậy, dù có bị hạn chế hoặc đàn áp nhưng hoạt động của họ được nhà cầm quyền đánh giá là ôn hòa và không nguy hiểm lớn cho chế độ.
Nhưng đến Đại hội đảng 12 kết thúc, quyền lực tập trung vào nhóm Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Phú Trọng và Trương Hòa Bình, thì cuộc đàn áp khốc liệt nhất trong vòng 10 năm trở lại đây bắt đầu nổ ra trên mọi phương diện.
Các phong trào xã hội dân sự gần như tan rã hoàn toàn, ngay cả những nhóm xã hội dân sự chuyên về môi trường vốn dĩ ôn hòa và không gây tác hại lớn cho chế độ cũng bị đàn áp dã man bằng bạo lực. Các nhóm xã hội dân sự khác đều chung số phận là nhiều thành viên chủ chốt bị bắt tù với những tội danh vào điều 88 hoặc 79. Những tội danh như hoạt động lật đổ chính quyền, tuyên truyền chống phá nhà nước Việt Nam.
Ở những năm trước kia nhà cầm quyền thường áp dụng điều 254 là tội lợi dụng tự do dân chủ xâm phạm lợi ích cá nhân, tổ chức thay cho điều 88, ở điều 254 mức án thường nhẹ hơn rất nhiều so với điều 88. Hoặc tội gây rối trật tự công cộng thay cho tội hoạt động lật đổ nhà nước. Các mức án cũng tăng lên gấp 3 lần như trường hợp ông Trần Anh Kim và ông Lê Thanh Tùng trước kia từng bị tù 4 đến 5 năm thì nay một ông 13 năm tù, một ông 12 năm tù giam.
Đợt đàn áp và bắt bớ này của nhà cầm quyền cộng sản là cực kỳ khốc liệt trong nhiều năm qua. Sự khốc liệt đến mức độ những tiếng nói phản kháng hay đòi tự do cho các nhà hoạt động cũng bị chìm nghỉm. Lý do vì quá nhiều người bị bắt, các nhóm đấu tranh cho người bị bắt bị quá sức, vì trước kia một năm có hai hay ba trường hợp bị bắt, họ còn có khả nặng vận động tập trung mọi người lên án nhà cầm quyền cộng sản, vận động quốc tế... thì nay chưa đến một năm đã mấy chục người, gấp mười lần trước đó.
Hơn nữa, sự đàn áp quá khốc liệt cho nên việc đấu tranh đòi người cũng bị giảm nhiệt, những cây bút đấu tranh cho nhân quyền trong nước gần như không còn nhiều. Đa số họ chuyển sang bình luận chính trường theo chiều hướng an toàn là bênh cuộc chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng, khen ngợi Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình là những nhà cải cách kiến tạo, và hùa theo hướng tấn công của nhóm cầm quyền này vào phe phái khác trong chế độ. Làm như thế họ vẫn được tiếng là chống tham nhũng, chống cán bộ đảng với dư luận.
Một số những nhà hoạt động khác thì bỏ cuộc, hoặc quay sang chỉ trích lẫn nhau.
Những điều trên không phải là sai lầm hay né tránh của những nhà đấu tranh nhân quyền, dân chủ. Khách quan mà nói trong tình thế khủng bố nặng nề, cao độ như bây giờ thì họ không thể lớn tiếng hay tổ chức gì như những năm trước Đại hội đảng 12.
Một điều phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, những kẻ cầm quyền hiện nay đàn áp quá mạnh và phong trào dân chủ đơn độc không có chỗ dựa, dẫn đến suy yếu và nhiều tổ chức dân sự trong nước ngừng hoạt động.
Khi chế độ cộng sản Việt Nam có chiều hướng mở rộng quan hệ với phương Tây bao nhiêu thì phong trào xã hội dân sự, phong trào đấu tranh nhân quyền, tôn giáo, đất đai, môi trường càng phát triển bấy nhiêu. Khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam chuyển hướng quan hệ sâu đậm hơn với các nước độc tài như Bắc Hàn, Trung Quốc, Iran, Nga... và rời xa phương Tây thì cuộc đàn áp phong trào đấu tranh quyền con người, tự do ngôn luận, tôn giáo càng nặng nề và khủng khiếp hơn.
Như vậy có thể đánh giá rằng, nguyên nhân của đợt khủng bố đàn áp những nhà đấu tranh, hoạt động ở Việt Nam là do hướng quan hệ ngoại giao của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Khủng bố dân chủ là chính sách tương đồng với các nước độc tài khác mà cộng sản Việt Nam đang thể hiện để gắn chặt quan hệ, đặc biệt là với Trung Quốc. Càng chuyển hướng quan hệ ngoại giao gắn chặt với các chế độ độc tài khác bao nhiêu, càng xa rời các quan hệ với cường quốc văn minh tiến bộ bao nhiêu, thì cuộc đàn áp của nhà cầm quyền cộng sản đối với nền dân chủ man rợ bấy nhiêu.
Có lẽ xâu chuỗi sự đàn áp này lại, thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang muốn mang đến cho hội nghị APEC tổ chức tại Đà Nẵng sắp tới đây, khi mà các nguyên thủ quốc gia của các nước văn minh đến sự, một thông điệp kiên định rằng Việt Nam không chấp nhận thay đổi dân chủ và luôn cứng rắn theo chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản Việt Nam là đảng lãnh đạo tuyệt đối và có tất cả quyền lực trên đất nước Việt Nam hiện nay. Những chóp bu đầu não của đảng như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc là những kẻ có quyền lực nhất nhì Việt Nam. Mọi ý định bang giao hay quan hệ gì của các quốc gia khác với Việt Nam phải thông qua hai kẻ này quyết định.
Sau hội nghị APEC, chóp bu cầm quyền cộng sản Việt Nam đã cho quốc tế câu trả lời rõ ràng về bản chất ngoan cố theo đuổi chủ nghĩa độc tài cộng sản. Chính trường Việt Nam chỉ còn lại nhóm độc tài này như thời kỳ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ trước kia, nhưng có sự đổi mới hơn là những nhóm sân sau, lợi ích của nhóm cầm quyền mới này sẽ thâu tóm hết các lợi ích của các nhóm khác. Vài năm tới lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình chỉ tập trung vào việc kiểm soát quyền lực vào tay mình, trấp áp dân chủ và cướp bóc, tiêu diệt những doanh nghiệp không thuộc phe cánh của họ. Với những mục tiêu đối nội như vậy, đương nhiên nhóm chóp bu cầm quyền mới này không đoái hoài gì đến quan hệ ngoại giao với các nước văn minh phương Tây, thậm chí chúng có thể gây căng thẳng để hủy bỏ mối quan hệ tốt đẹp trước đó như đang ứng xử với nước Đức qua vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Đàn áp dân chủ và cướp bóc những doanh nghiệp trong nước, tập trung quyền lực độc tài vào tay nhóm ít người..để đạt được những mục đích này cần phải gia tăng quan hệ mật thiết với Trung Quốc là điều tất yếu, vì thế trong tháng 9 vừa qua ủy viên thường vụ bộ chính trị Trung Công đã sang Việt Nam nghe Nguyễn Phú Trọng và Trần Quốc Vượng báo cáo tình hình chính trị Việt Nam, kết quả đàn áp phong trào dân chủ và thanh trừng những nhóm lợi ích thân phương Tây.
Nhóm Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình, Trần Quốc Vượng đã đặt số phận đất nước Việt Nam vào tay ngoại bang Trung Quốc nhiều hơn bao giờ hết. Thời kỳ trước đây mặc dù gắn kết với Trung Quốc nhưng những lãnh đạo cộng sản vẫn râp rình đi lại với Liên Xô để tạo thế cân bằng, không đặt trọn số phận đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn vào tay Trung Quốc như lớp lãnh đạo thế hệ Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc như bây giờ.
Trong năm 2017 này Nguyễn Phú Trọng đã gặp nhiều ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc để báo cáo tình hình và xin hỗ trợ như gặp Vương Kỳ Sơn, Du Chính Thanh, Trương Đức Giang, Lưu Vân Sơn để bảo vệ về mặt chính trị, và gặp các doanh nghiệp, chủ tập đoàn, ngân hàng Trung Quốc như Kim Lập Quần để được hỗ trợ về chính sách tài chính. Các cuộc gặp này đã tạo nên cho Nguyễn Phú Trọng được sự sợ hãi của các đồng chí của mình trong đảng cộng sản Việt Nam, dẫn đến Nguyễn Phú Trọng có quyền lực lớn đè bẹp bất cứ sự diễn biến tư tưởng nào trong đảng.
Nên nhớ chiến dịch đàn áp khủng bố những nhà dân chủ bắt đầu gia tăng từ lúc Nguyễn Phú Trọng tham gia đảng ủy công an vào tháng 9 năm 2016. Sau đó vài ngày Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt, tiếp đến Nguyễn Vịnh Lưu và lan rộng đến nhiều người khác và các bản án nặng cho những nhà đấu tranh cũng bắt đầu từ đó.
Đã đến lúc phải nhìn lại, rõ ràng bè lũ Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc và Trương Hòa Bình ngoài lý do mượn cớ chống tham nhũng để đạt được mục đích riêng là thâu tóm quyền lực và cướp bóc các doanh nghiệp, chúng còn thực hiện một mưu đồ sâu xa và thâm hiểm hơn là bên trong nội bộ tiêu diệt những luồng tư tưởng muốn mở rông, bên ngoài xã hội diệt trừ những nhóm xã hội dân sự để biến đất nước thành một nhà tù ý thức hệ sùng bái Trung Quốc.
Những kẻ thâm hiểm ngàn đời như Trung Quốc muốn thôn tính đất nước Việt Nam theo dạng chư hầu, thuộc địa muốn thành công, chúng phải có những kẻ nội gián tay sai như bè lũ Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc. Trần Quốc Vượng, Trương Hòa Bình. Từ những kẻ này tư tưởng yếu hèn lệ thuộc Trụng Cộng sẽ lấy lan sang ủy viên Bộ chính trị, ủy viên trung ương rất nhanh và rộng.
Tương lai tới là những ngày đen tối, cái giá phải trả cho sự bán nước của bọn chóp bu bao giờ đầu tiên cũng là những người yêu nước và đất đai, lãnh hải. Sự thật đang diễn ra đúng như vâ
Người Buôn Gió
Nguồn : nguoibuongio1972.blogspot, 30/09/2017
Nền giáo dục phi nhân bản áp đặt lên hiện tại lẫn tương lai với cái gông Marx-Lenin đã cho thấy quá rõ kết quả tồi tệ, nhưng sau bao nhiêu năm, nó vẫn được "vận dụng" và "sáng tạo".
Mạnh Kim
Có dịp trò chuyện với nhiều vị đồng hương, vừa từ quê nhà sang California du lịch, tôi mới biết ra rằng mình đã "trở thành" người Sài Gòn cũ. Lý do : có những người Sài Gòn mới, mới đến sau 1975.
Vùng đất nào cũng có kẻ đi, người tới. Tôi chỉ hơi bối rối khi nghe họ nói thêm : "Ông mà về lại là đi lạc như không. Giờ thay đổi hết trơn rồi, hoành tráng lắm !"
Trong trí nhớ xa xôi và trẻ dại của riêng tôi thì Sài Gònchưa bao giờ "hoành tráng lắm", lúc nào cũng y như thế thôi. Cũng vẫn chỉ là một đoạn đường rất ngắn, nằm giữa chùa Chà và vườn Tao Đàn, được cắt ngang bởi hai con đường lớn : Nguyễn Du & Gia Long.
Nhà chị tôi số 69 Trương Công Định. Dù sinh ở Sài Gòn, phần lớn thời gian tôi sống tại Đà Lạt. Tôi chỉ có mặt ở đây vào những ngày hè, suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu.
Tôi biết hết tên tuổi, cùng tính tình, của từng đứa bé cùng lứa và cùng xóm. Chúng tôi tụ tập mỗi chiều để chơi tạt lon, tạt hình, đá kiện, nhẩy dây, rượt bắt cứu tù, và lùng kiếm tìm nhau (hằng đêm) sau khi tiếng "năm mười, mười lăm, hai mươi..." vừa chấm dứt.
Tôi cũng biết rõ độ chua ngọt của từng cây me trước nhà, và danh tính của tất cả những người thợ hớt tóc đứng hành nghề bên cạnh. Có hai ông Sáu lận nên tên gọi của họ được phân biệt bởi phương tiện đi lại hằng ngày : Sáu Vespa và Sáu Mobillette.
Tôi gần với chú Vespa nhất, giản dị chỉ vì ông là người không bao giờ lấy hết ba đồng công thợ. Chú Sáu luôn cho lại tôi năm cắc, hay hào sảng xóe toạc tờ bạc một đồng rồi đưa tôi phân nửa.
Mừng hết lớn luôn. Số tiền này vừa vặn cho một cuốn bò bía, một ly đá nhận, một que kem đậu xanh, một khúc mía hấp, một đĩa gỏi đu đủ bò khô, hay một ly đậu đỏ bánh lọt nước dừa.
Chỉ có điều phiền là chú Sáu hay nói hơi nhiều. Ông không chú ý gì lắm đến công việc đang làm nên đầu tui cứ bị hớt gần trọc hoài hà, ngó kỳ thấy bà luôn. Tuy tay cầm "tông đơ" nhưng mắt chú Sáu luôn ngó xuống bàn cờ tướng của hai kỳ thủ đang bầy trận gần đó, hoặc quay qua tranh luận với ông bạn đồng nghiệp (hay khách hàng) ngồi kề. Ổng nói không ngừng về những chuyện hoàn toàn xa lạ với đầu óc non nớt của một đứa trẻ như tôi.
Phải mất rất nhiều năm tôi mới lờ mờ hiểu ra là chú Sáu Vespa rất không bằng lòng về thể chế chính trị hiện hành. Ổng luôn luôn thuyết phục mọi người (kể cả luôn tôi) rằng cần phải có một chính phủ mới :
- Rồi mày coi, mấy ổng vô tới là sẽ thay đổi hết. Cách mạng mà !
Nhiệt tình cách mạng của chú Sáu Vespa, xem ra, không được tất cả mọi người chia sẻ. Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe có người gọi ổng bằng một danh hiệu khác : Sáu Việt Cộng. Thiên hạ cũng chỉ thấy mặt đặt tên (cho vui) vậy thôi, chớ ở miền Nam – xem chừng – mọi người đều sống rất lừng khừng và không mấy ai bận tâm về quan điểm hay lập trường chính trị của tha nhân.
Đâu khác thì không biết, chớ ngay xóm tôi mà đi ngang qua những bàn nhậu – kế bên, hay đối diện chùa Chà – mà nghe tiếng chửi thề ("đ... mẹ Sáu Thiệu, hay đ... mẹ Kỳ Râu) là chuyện rất bình thường, chả khiến ai buồn ngoái đầu nhìn lại cả. Nhậu vô vài ly rồi chửi chơi vài câu nào có chết ai đâu, miễn đừng đặt chất nổ hay quăng lựu đạn giữa đám đông là "o.k salem" và "ça va tout".
Miền Nam tự do mà. Có điều rõ ràng là vùng đất này tự do hơi quá nên đủ khe hở để "mấy ổng vô tới" thiệt. Trong đám đông dân chúng hân hoan phất cờ, chào mừng đoàn quân giải phóng Sài Gòn – hôm 30 tháng 4 năm 1975 – tôi đoán chắc chắn là phải có chú Sáu Vespa... của mình rồi !
Niềm hân hoan này – tiếc thay – không mấy người giữ được luôn, và cũng chả ai giữ được lâu. Năm 1978, tôi có dịp trở về xóm cũ. Chú Sáu vẫn đứng hớt tóc ngay trân dưới gốc me ngày trước nhưng cái Vespa thì không còn dựng kề bên. Thay vào đó là một cái xe đạp cũ mèm. Ổng phân trần :
- Tao bán rồi. Không bán đi thì lấy cái gì ăn. Đ... mẹ, tao đâu có dè tụi nó...
- Nói nhỏ nhỏ lại chút xíu đi chú Sáu.
- Nhỏ cái con cặc. Đ... má, tao mà biết vậy thì hồi đó...
Tôi vốn nhát, lại vừa mới tù ra [và hoàn toàn không có ý muốn trở vô (liền) lần nữa] nên không dám đứng trò chuyện với chú Sáu lâu, sợ có chuyện chẳng lành. Tôi lật đật biến liền, quên luôn cả một cái bắt tay hay một lời từ biệt. Thiệt là hèn hết sức.
Bởi nhát và hèn nên trong số mấy anh chị em, tôi là đứa vượt biên đầu tiên hết thẩy. Vài năm sau, khi gia đình đoàn tụ, trong lúc hàn huyên, tôi chợt nhớ đến chú Sáu Vespa. Chị tôi chép miệng :
- Sau này ổng uống dữ lắm, ngày nào cũng xỉn, và cũng chửi búa xua cà na nên bị bắt lâu rồi.
- Chị nghe ai nói vậy ?
- Nghe ai ? Công an còng tay ngay tại gốc me kế nhà mình, tao thấy tận mắt mà. Tội nghiệp chớ, vậy mà hồi đó có người còn nghi là ổng nằm vùng nữa đó.
- Chú Sáu có nói với em là ổng không dè chị à.
- Thì đâu có ai dè là tụi nó tệ bạc và khốn nạn dữ vậy.
Chú Sáu Vespa, và bà chị tôi, không phải là những kẻ đầu tiên "không dè" như vậy. Nhiều người thuộc thế hệ trước nữa cũng "đâu có ai dè là tụi nó tệ bạc và khốn nạn dữ vậy" – theo như lời của một chứng nhân thế giá, nhà báo Bùi Tín, trong một cuộc phỏng vấn do thông tín viên Kính Hoà (RFA) thực hiện :
"Cha tôi lúc đó không hiểu gì nhiều về chủ nghĩa cộng sản đâu. Sau này nghĩ lại thì cũng có thể nói rằng cha tôi bị ông Hồ Chí Minh lừa dối. Lừa dối theo cái nghĩa là ông Hồ Chí Minh giấu rất kỹ tung tích cộng sản của mình. Cũng được hưởng vinh danh, cũng được sử dụng lại với chính quyền mới, nhưng về cơ bản là bị tuyên truyền, bị lợi dụng, có thể nói là bị lừa dối, tưởng đâu họ là chính nghĩa lâu dài, nhưng không ngờ khi nắm chính quyền, thì họ càng tha hóa, mất cái bản chất nhân dân".
Nhân sĩ trí thức như cụ Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Trọng Khánh, Trần Duy Hưng, Hoàng Đạo Thúy, Đặng Văn Hướng mà "về cơ bản là bị tuyên truyền, bị lợi dụng, có thể nói là bị lừa dối" thì trách chi đến một ông thợ hớt tóc – như chú Sáu Vespa.
Dạ thì nẫy giờ tui cũng có trách dám trách móc ai đâu. Chuyện cũng qua rồi mà. Nói nào ngay thì tui cũng đã xém quên luôn chú Sáu Vespa, nếu bữa rồi không (tình cờ) đọc được đọc một bản tin ngắn – trên trang Vietnamnet – về bà Đàm Thị Thủy :
"Hiệu trưởng Trường Đại học Fulbright Việt Nam, bà Đàm Bích Thủy, cho biết sẽ dạy các môn Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh khác biệt so với các trường đang dạy hiện nay... Đối với môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, theo bà Thủy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một phần trong lịch sử Việt Nam, nếu là người Việt Nam, chúng ta nên tự hào về giai đoạn lịch sử đó".
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius (trái) trao quyết định tài trợ, tổng trị giá 15,5 triệu USD của chính phủ Mỹ cho bà Đàm Bích Thủy hôm 6/6. Ảnh : Kiều Oanh. Chú thích : Thanh Nien Online
Bà Thủy, tất nhiên, có quyền "tự hào về giai đoạn lịch sử" (nào đó) bất cứ. Đó là quan điểm riêng của từng người. Tuy nhiên, ở cương vị Hiệu trưởng Đại Học Fulbright – một trường đại học tư ở Việt Nam – được tài trợ bởi chính phủ Hoa Kỳ, nghĩa là bằng một phần tiền thuế mà tôi đóng hằng năm nên buộc phải có đôi lời để rộng đường dư luận.
Dù tuyệt đối tôn trọng qui chế đại học tự trị, và chủ trương giáo dục tự do, tôi vẫn băn khoăn ở điểm là làm sao có thể mở lớp giảng dậy về "môn tư tưởng Hồ Chí minh" khi chính đương sự đã tự xác nhận rằng : "Tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác –Lê". Hay : "Bác tự nhận mình chỉ nêu ra được tác phong, còn tư tưởng lý luận thì để cho Mao Chủ tịch".
Không lẽ quí vị trong ban giảng huấn của Trường Đại Học Fulbright định dùng bạc giả ? Nhân nói việc học hành, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện tiếu lâm (ngăn ngắn) vừa đọc bữa qua, trên trang Bauxite Việt Nam :
Kolia đến trường khoe với cô giáo :
- Cô ơi, tối qua mèo nhà em đẻ một bầy 7 con, con nào cũng là đảng viên cộng sản !
Bẵng đi mấy tuần, một hôm sực nhớ, cô giáo hỏi cậu bé :
- Này, Kolia, đàn mèo cộng sản nhà em thế nào rồi ?
- Thưa cô, giờ chúng không còn là cộng sản nữa ạ.
- Sao vậy ?
- Chúng mở mắt hết rồi !
Tôi có xem qua sự nghiệp của bà Đàm Bích Thủy. Bả lanh còn hơn tép nữa. Dễ gì mà bịt mắt hay lợi dụng như chú Sáu Vespa hồi thế kỷ rồi. Chỉ có chuyện là mấy ông Marx, Lenin, và Hồ Chí Minh bị bà Thủy lợi dụng để "đảm bảo" cho cái chức vụ hiệu trưởng, cùng tài sản (chìm nổi) của mình ở Việt Nam thôi – đúng không ?
Tưởng Năng Tiến
Nguồn : RFA, 23/08/2017 (tuongnangtien's blog)
Bài 4 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám
Ghi chú tháng 8/2015
Bài này được viết ra năm 1991, giữa cao điểm của làn sóng dân chủ thứ ba làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới. Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng những nhận định của nó vẫn còn rất thời sự, có lẽ còn thời sự hơn nhiều so với khi được viết ra. Kết luận vào năm 1991 của bài này là thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1945 để đất nước có lối thoát. Mong ước này đã không được toại nguyện, nhưng một thế hệ mới đã xuất hiện được thông tin đầy đủ hơn và với ý thức chính trị rõ rệt hơn. Tiến bộ tuy chậm nhưng có thực.
Đăng lại bài này tôi cũng xin ghi nhận hai thiếu sót :
Một là, tôi đã không nhấn mạnh thiệt hại lớn nhất mà Đảng Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc trong Cách Mạng Tháng 8. Đó là sự tàn sát những người yêu nước trong các đảng phái quốc gia, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Họ là những trí thức yêu nước chân chính duy nhất vào lúc đó. Những người trí thức khác hoặc chỉ học để làm quan hoặc chìm đắm trong thơ văn lãng mạn. Còn những người cộng sản ? Họ đặt lý tưởng cộng sản lên trên dân tộc, họ tranh đấu và hy sinh cho lý tưởng cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế hơn là cho dân tộc. Đó chính là lý do họ chủ trương cuộc kháng chiến võ trang. Đó cũng là lý do khiến họ tàn sát những người yêu nước để giành độc quyền kháng chiến. Những người yêu nước chân chính đã bị tiêu diệt gần hết. Ý chí và tình cảm dân tộc gần như đã bị bẻ gẫy.
Hai là, sự sợ hãi không phải là lý do duy nhất khiến chế độ toàn trị vẫn còn tiếp tục. Một nguyên nhân quan trọng khác là sai lầm phương pháp. Do quen bị áp đặt những lý luận khiên cưỡng một số đông đảo trí thức Việt Nam quay lại ức hiếp trí tuệ của chính mình. Thay vì dựa vào sự hiểu biết và lý luận để rút ra kết luận họ chọn lựa trước những giải pháp tiện lợi hoặc an toàn rồi loay hoay biện hộ cho những lập trường trái ngược với cả thực tế lẫn lý luận đúng đắn. Sự coi thường kiến thức và lý luận này đã khiến nhiều người cố bám vào ảo tưởng có thể cải tổ chế độ qua những yêu cầu và kiến nghị. Nhưng thực tế đã chứng tỏ rằng không một chế độ cộng sản nào có thể cải tổ được và giải pháp duy nhất đối với một chính quyền tham nhũng là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Chúng ta đang có một chế độ cộng sản rất tham nhũng.
NGK
-------------------------------
Trong lịch sử thế giới chưa có chủ nghĩa nào khơi dậy nhiều đam mê và gây ra nhiều xung đột đẫm máu cho nhiều dân tộc bằng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã là một trong những nạn nhân đau đớn nhất. Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất. Ba mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, hàng triệu người thiệt mạng, dân tộc bị chia rẽ trầm trọng. Thành tích của Đảng Cộng Sản Việt Nam tai hại một cách đáng sợ.
Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất.
Tôi chưa bao giờ bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ cả. Nhưng cộng sản đã chinh phục được những con người tôi rất quí mến. Càng lớn lên tôi càng khám phá ra rằng những trí thức, văn nghệ sĩ mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời niên thiếu phần lớn đã di theo cộng sản và vẫn còn tiếp tục thán phục cộng sản. Từ khi bắt đầu theo dõi hoạt động chính trị, niềm đau lớn nhất của tôi là nhiều bạn bè quí mến nhất của tôi lần lượt ngả theo cộng sản. Cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Ghê gớm đến nỗi nhiều trí thức lỗi lạc mặc dầu đã hiến trọn cuộc đời cho cộng sản để chỉ được một chỗ đứng chầu rìa bạc bẽo, mặc dầu phải chứng kiến những tội ác kinh khiếp của nó, vẫn không thể dứt bỏ nó. Sức thu hút mãnh liệt ấy bắt đầu từ một biến cố trọng đại rồi cứ trên đà đó mà tiếp tục. Biến cố trọng đại đó là Cách Mạng Tháng Tám.
"Bài học 45" là điều được những người chống cộng nhắc đi nhắc lại nhiều nhất. Trong những công kích gần đây nhắm vào chủ trương "hòa giải và hòa hợp dân tộc" của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "bài học 45" cũng được viện dẫn nhiều nhất. Người ta phê phán chúng tôi là không thuộc lịch sử, không biết "bài học 45". Có lần Trần Thanh Hiệp nhăn mặt vì giận dữ nói với tôi : "Làm sao người ta có thể tưởng tượng là mình không biết đến những sự kiện tầm thường như vậy được nhỉ ?".
Tựu trung "bài học 45" được viện dẫn và lý luận như thế này : "Vào những năm 1945-1946, phe Quốc Gia có lực lượng mạnh, có thể thắng được Cộng Sản nhưng vì đã ngây thơ, cả tin vào cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản rồi bị lường gạt và tiêu diệt. Bài học cay đắng đó chứng tỏ rằng thỏa hiệp vời cộng sản là chết. Vì vậy những kẻ còn nói chuyện thỏa hiệp, liên hiệp, hòa giải, v.v. với cộng sản chỉ có thể hoặc ngây thơ, ấu trĩ, hoặc tay sai cộng sản, hoặc cộng sản trá hình".
Cái nhìn này được rất nhiều người chia sẻ. Nó đã trở thành một phần của ký ức tập thể.
Suy nghĩ và hành động của chúng ta lệ thuộc rất nhiều ở ký ức tập thể. Khi ký ức tập thể sai thì những phân tích và kết luận khó có thể đúng. "Bài học 45" đã được ghi nhận như thế trong ký ức tập thể của chúng ta. Nhìn lại giai đoạn 1945-1946 vì vậy là điều cần thiết.
Trái với khẳng định của nhiều người, vào thời điểm 1945, phe quốc gia không mạnh, cũng không yếu, mà phải nói là không đáng kể, trong khi đảng cộng sản đã bành trướng khắp nơi và đã nắm trọn được tình hình.
Cán cân lực lượng ngay từ lúc đầu đã lệch hẳn về phía cộng sản. Nhượng Tống, sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuốn hồi ký Nguyễn Thái Học của ông, cho biết rằng khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập cuối năm 1927 thì Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền thân của đảng cộng sản, thành lập năm 1925, đã có cơ sở ở khắp nơi và Việt Nam Quốc Dân Đảng không thể nào cạnh tranh được với họ. Nhờ hoạt động táo bạo, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phát triển nhanh trong vòng hai năm, và được cả nước biết đến và hưởng ứng sau cuộc khởi nghĩa liều lĩnh tháng 2-1930. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phải trả bằng tính mạng của chính mình cho uy tín này. Toàn bộ ban lãnh đạo bị tiêu diệt, một số nhỏ trốn thoát dang Trung Hoa. Những đảng viên còn lại trong nước như rắn không đầu không liên lạc được với nhau nữa và cũng không biết phải làm gì, lại bị truy lùng ráo riết nên hoàn toàn tê liệt, cái uy tín có được đã không khai thác được. Đến năm 1931, khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên kiên cường không kém và cũng bị đàn áp dã man không kém cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì đảng cộng sản cũng chiếm được tình cảm của quần chúng ngang hàng với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ khác một điều là cơ cấu của họ vẫn còn và họ khai thác được cảm tình này để thu hút quần chúng trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng đã gục ngã.
Nhìn lại thập niên 1930, người ta phải ngỡ ngàng về sự ủy mị của trí thức Việt Nam lúc đó. Sau hai cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, bên lề những biến động lớn của thế giới, thanh niên Việt Nam tại các thành phố vẫn chỉ biết mê mải đèn sách với mộng ra làm quan hay đắm chìm trong một phong trào lãng mạn rất khó hiểu. Oái oăm thay, thập niên 1930 lại được coi như là thời đại vàng son của tiểu thuyết, thơ tình, nhạc ướt át, tranh ấn tượng. Những người cộng sản ít ra đã không trùm chăn nằm ngủ trong giai đoạn này, sự dũng cảm của họ không thể chối cãi được. Sau Cách Mạng Tháng Tám, trí thức Việt Nam ngỡ ngàng tỉnh dậy, hổ thẹn vì sự hèn nhát của mình và bị thôi miên bởi sự dũng cảm của người cộng sản, từ đó về sau nhiều người đã phục tùng họ một cách không điều kiện.
Một bước ngoặc quan trọng đã làm cho thế thắng của đảng cộng sản không thể đảo ngược được là giai đoạn 1936-1938 khi Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) lên nắm chính quyền tại Pháp. Mặt trận này là một liên hiệp giữa Đảng Xã Hội Pháp và Đảng Cộng Sản Pháp, và vì vốn chống chính sách thuộc địa nên đã dành nhiều dễ dãi cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam. Đảng cộng sản đã chụp lấy cơ hội để hoạt động và phát triển công khai trong khi những cơ sở còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn chỉ giới hạn trong một vài hoạt động bí mật. Đảng cộng sản vì vậy đã độc chiếm được cuộc đấu tranh giành độc lập. Họ đã phối hợp được hoạt động bí mật với hoạt động công khai, đã xây dựng được cơ sở ở khắp nơi, đã có cơ quan ngôn luận, đã len lỏi và khuynh đảo được nhiều tổ chức nghiệp đoàn và hiệp hội, đã chủ động được nhiều cuộc đình công và phá hoại, gây tiếng vang và phấn khởi ở khắp nơi. Khi Thế chiến II bùng nổ và Nhật vào Đông Dương, họ là tổ chức tranh đấu duy nhất thực sự có hoạt động. Thế ưu thắng áp đảo của họ cứ thế mà tiếp tục. Nạn đói 1945, trong đó hàng triệu người bị chết, đã đem lại cho khẩu hiệu xóa bỏ giàu nghèo của cộng sản một hấp lực ghê gớm. Phẩm giá và mạng sống của người nghèo lúc đó không bằng chén gạo, củ khoai. Hấp lực của cộng sản còn đi xa hơn thế nữa, nó còn buôn bán cái ảo tưởng là những người vô học cũng có thể là những cấp lãnh đạo. Chính cái ảo tưởng đó đã làm say sưa nhiều người mộc mạc đến độ họ sẵn sàng chết cho đảng. Nhưng cũng chính cái ảo tưởng đó đã khiến cho sự dốt nát ngự trị trong chính quyền cộng sản và đập phá đất nước cho đến ngày nay.
Tương quan lực lượng đã như vậy, về đường lối thì sao ?
Người ta trông đợi rất nhiều ở nhóm Phong Hóa Ngày Nay, đặc biệt là ở ông Nguyễn Tường Tam và người em xuất chúng của ông là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Họ được coi là những nhà trí thức lỗi lạc nhất lúc đó. Đảng Đại Việt Dân Chính của họ ra đời năm 1943 với một cương lĩnh mà ông Nguyễn Tường Bách, em ruột của hai ông Tam, Long và cũng là một nhân vật cốt cán của Đại Việt Dân Chính, đánh giá như sau : "đó là một sự kết hợp hỗn tạp của chủ nghĩa quốc gia trong đó có thành phần của chủ nghĩa Tam Dân, lại có cả thành phần của chủ nghĩa phát xít", ông Bách nhận định : "cái cương lĩnh hỗn tạp ấy dĩ nhiên không thể lôi kéo được quần chúng". Đó là tư tưởng của nhóm trí thức sáng giá nhất lúc đó. Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng vẫn không có đường lối nào rõ rệt cả. Sau này Đại Việt Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và các ông Tam, Long, Bách trở thành những nhân vật cốt cán của Việt Nam Quốc Dân Đảng, ta có thể hiểu rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành cái "cương lĩnh hỗn tạp" đó. Vào thời điểm này, con người đầu tư vào tư tưởng nhiều nhất là ông Lý Đông A, nhưng luận thuyết của ông không phải là một cương lĩnh chính trị, nó chỉ giới hạn ở lý thuyết và lại mang nhiều ngộ nhận về mặt triết lý và ngôn ngữ. Vả lại Đảng Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A không phát triển trong quần chúng, không đóng vai trò đáng kể nào trong những năm 1945/1946 cả.
Tư tưởng chỉ đạo đã như vậy, chiến lược của phe quốc gia lại quá nông cạn. Đa số các tổ chức ra đời lúc đó trông đợi ở Nhật đánh đổ Pháp và trao quyền cho họ. Họ không nhận ra một số sự thật hiển nhiên là Nhật không thể đánh đổ Pháp ; Chính quyền Đông Dương của Pháp lúc đó phục tùng chính phủ Vichy, đồng minh của Đức, mà Đức lại là đồng minh của Nhật, nên Nhật không thể có ý định đánh đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Vả lại Nhật còn nhiều vấn đề cấp bách khác cần phải đối phó hơn là đuổi Pháp để trao trả độc lập cho Việt Nam. Họ còn cần Pháp giữ gìn anh ninh trật tự, bảo đảm hậu cần cho họ tại Việt Nam. Pháp đã chấp nhận như vậy và đó là tất cả những gì Nhật muốn. Kiến Quốc Quân của Việt Nam Quang Phục Hội đã phải trả cái giá vô cùng đắt cho lòng tin ở Nhật, nhưng các đảng phái quốc gia vẫn chưa vỡ mộng, hoặc vỡ mộng nhưng không nhìn thấy đường lối nào khác. Nhật chỉ đảo chính Pháp khi quốc xã Đức đã đầu hàng và chính quyền thuộc địa Pháp sắp ngả theo phe Đồng Minh, nhưng lúc đó Nhật cũng đã tuyệt vọng và không còn nhờ cậy được nữa. Đến khi Nhật đã thua rõ rệt, các nhóm quốc gia lưu vong lại ngả sang nương tựa Tưởng Giới Thạch.
Đường lối và chiến lược bao giờ cũng là căn bản khởi đầu của mọi cuộc đấu tranh chính trị. Các đảng phái quốc gia đã thiếu đường lối và không có chiến lược chung nên đã không kết hợp được. Người ta nói nhiều về khủng hoảng lãnh đạo và chê trách các lãnh tụ quốc gia lúc đó là nặng đầu óc lãnh tụ, không ai chịu ai. Nhưng đó chỉ là hiện tượng ngoài mặt, lý do căn bản là phe quốc gia đã thiếu đường lối và chiến lược. Khủng hoảng lãnh đạo là hậu quả tất nhiên của khủng hoảng về lập trường.
Tổ chức rời rạc, đường lối không có, chiến lược cũng không, các phe phái quốc gia nhỏ bé hoàn toàn rối loạn. Đầu năm 1945 cộng sản, dưới danh nghĩa Việt Minh, đã kiểm soát được tình hình.
Ông Trần Trọng Kim, thủ tướng chính phủ Nam Triều thành lập tháng 4/1945, một tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhận định trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi như sau : "Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá huyện kia, lính Bảo An ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn nhưng cũng không chống lại nữa" ; tại miền Bắc, khâm sai Phan Kế Toại "sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức". Đến gần ngày Nhật đầu hàng, ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế của chính phủ Trần Trọng Kim, đề nghị "phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi để cho họ làm việc may ra họ cứu được nước". Ông Hồ Tá Khanh không hề có cảm tình nào với Việt Minh cả.
Việt Minh không hề giấu giếm là sẽ dùng bạo lực để nắm chính quyền một mình vì lúc đó họ thấy mình là lực lượng duy nhất. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc, bí mật tiếp xúc với họ xin thỏa hiệp, họ chỉ cử một "thiếu niên" (theo lời ông Trần Trọng Kim) tới gặp. Thiếu niên này không thèm xưng cả tên tuổi, chỉ nói thẳng cho ông Trần Trọng Kim hay là họ không cần hợp tác với ai cả, họ sẽ cướp toàn bộ chính quyền bằng võ lực dù cho nhân dân có mười phần chết chín đi nữa. Ông Trần Trọng Kim gởi hai bộ trưởng Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào Nam để vận động các nhân sĩ, cả hai ông đều bị Việt Minh bắt giữ trên đường đi. Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ.
Ngay khi Nhật đầu hàng, ngày 14/8/1945, Việt Minh lập tức khởi nghĩa làm chủ tình hình khắp nơi, tới ngày 19/8/1945 họ huy động dân chúng xuống đường tràn ngập các cơ quan và nắm chính quyền tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ họ đã có kế hoạch chu đáo. Ngày 25/8, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9, ngày Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng cũng là ngày Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công bố nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Các đảng phái quốc gia hoàn toàn vắng mặt.
Tháng 10/1945, quân Trung Hoa tiến vào Việt Nam, đem theo một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách). Nhờ sự che chở của quân Trung Hoa, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách bắt đầu công khai hoạt động, đả kích Việt Minh, đòi chia quyền. Báo Việt Nam của Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu đả kích cộng sản mạnh mẽ, Việt Cách lập được một trụ sở và một loa phóng thanh ở đường Quan Thánh. Trong hồi ký Những Ngày Chưa Quên ông Đoàn Thêm thuật lại là các buổi phát thanh của Việt Cách mới đầu lôi kéo cả ngàn người, nhưng càng về sau càng thưa thớt. Trần Thanh Hiệp có mặt tại trụ sở Quan Thánh trong suốt giai đoạn này cũng nhìn nhận như vậy. Ảnh hưởng của phe quốc gia chỉ giới hạn ở trong một vài khu phố tại Hà Nội, ra ngoài các khu này họ có thể bị bắt và bị thủ tiêu dễ dàng. Ngoài Hà Nội, các cán bộ phe quốc gia bị phát hiện sẽ bị thủ tiêu ngay. Người ta nói nhiều đến các chiến khu của phe quốc gia ở phía Bắc Hà Nội, nhưng mọi nhân chứng trong thời gian đó đều xác nhận đó chỉ là những thị xã hoàn toàn bị cô lập. Quân quốc gia ở đó trong đại bộ phận là các toán lính khố xanh của Pháp trước đây bơ vơ sau ngày Nhật đảo chính và được các lãnh tụ phe quốc gia kết nạp trên đường theo quân Trung Hoa về Hà Nội. Mỗi thị xã chỉ có vài chục tay súng và bị quân du kích Việt Minh vây kín. Sau này, khi các cấp lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng theo quân Trung Hoa rút về nước thì khi họ triệt thoái khỏi nơi đâu các thị xã lọt vào tay Việt Minh tới đó. Tất cả bị xóa bỏ trong vòng vài ngày.
Một số người quốc gia mong đợi quân Trung Hoa đánh dẹp Việt Minh giùm mình. Cũng may cho họ mà sự kiện này không xảy ra, nó không đem lại cho họ chính quyền mà chỉ khiến họ trở thành những kẻ phản quốc. Dù quân Trung Hoa có ra tay đánh Việt Minh chăng nữa, họ cũng chỉ có thể đẩy quân Việt Minh ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng mà thôi, phần còn lại của cả lãnh thổ vẫn ở trong tay Việt Minh. Các tướng Trung Hoa biết như vậy nên mặc dầu họ không ưa Việt Minh và muốn bênh vực phe quốc gia, họ chỉ có thể làm áp lực để Việt Minh nhượng bộ phe quốc gia được phần nào hay phần ấy.
Chính do áp lực của quân Trung Hoa mà đầu tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã phải nhượng bộ giải tán chính phủ mà ông đã thành lập từ 6 tháng trước và chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp với sự tham dự của những bộ trưởng thuộc các đảng phái quốc gia hay không có đảng phái. Vì Việt Minh đã làm chủ tình hình nên chính phủ này hoàn toàn không có một thẩm quyền nào cả. Ông Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội Vụ) tâm sự với ông Trần Trọng Kim rằng mọi quyết định đều do địa phương, ông không làm gì cả, còn ông Nguyễn Tường Tam thì nói rằng hồ sơ Bộ Ngoại Giao của ông chỉ có ba lá đơn của người Tàu nhờ tìm nhà và tìm hộ cái ví bị mất cắp. Khi quân Trung Hoa sắp rút đi, ông Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch chính phủ, bỏ nước sang Tàu. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đó cũng theo đường Việt Trì, Yên Bái chạy sang Trung Hoa. Chính phủ liên hiệp tan rã sau bốn tháng. Từ đó Việt Minh thẳng tay tàn sát đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Chính phủ liên hiệp tháng 3/1946 dầu sao cũng đã có một tác dụng tốt cho phe quốc gia, nhờ đó mà các cán bộ phe quốc gia không bị tàn sát thẳng tay trong vài tháng. Sau này tôi có dịp nói chuyện nhiều lần với ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhân vật quan trọng nhất của phe quốc gia lúc đó. Ông Khanh nói rằng nhờ có chính phủ liên hiệp mà nhiều đồng chí của ông đã có thì giờ trốn thoát hoặc sang Trung Hoa, hoặc sang những địa phương khác nếu không thì đã có thể bị tàn sát hết. Tôi nghe rất nhiều người chê ông Vũ Hồng Khanh là dở. Ông Vũ Hồng Khanh quả nhiên không phải là người lãnh đạo xuất sắc, ông kém về nhiều mặt, nhưng ông hơn đa số những người chê ông. Mỗi lần nghĩ tới ông, tôi lại nhớ tới câu nói của ông Ngô Thời Nhiệm : "gặp thời thế thế thời phải thế".
Sức mạnh của Việt Minh so với phe quốc gia áp đảo đến nỗi cho tới mãi sau này đại đa số những người cộng sản có vai trò quan trọng vào thời điểm Cách Mạng Tháng Tám mà tôi đã được gặp, kể cả những người ngày nay đã thất vọng, chỉ coi các phe phái quốc gia lúc đó như là những bọn phá đám dựa hơi quân Trung Hoa, hay quân Pháp tại miền Nam, để gây khó khăn cho họ. Thái độ của họ, dù thiên vị, cũng phản ánh tương quan lực lượng lúc đó.
Cũng có người hiểu biết hơn, nhìn nhận rằng sau Cách Mạng Tháng Tám, phe quốc gia đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng lại chê nội các Trần Trọng Kim là hèn nhát đã đầu hàng Việt Minh và đã để cho Việt Minh chiếm cả nước, nhờ thế mới tạo được sức mạnh. Ông Trần Trọng Kim trả lời rằng những người này ở ngoài cuộc nên không biết rằng lúc đó nội các của ông không làm được gì khác hơn là đầu hàng. Trần Trọng Kim đã hỏi người chỉ huy Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến, đạo quân nòng cốt của chính phủ, và đã được người chỉ huy trả lời rằng cá nhân ông ta sẵn sàng chống lại Việt Minh, nhưng quân của ông ta thì không có gì bảo đảm. Các đội quân giữ kinh thành cũng đều đã ngả theo Việt Minh hết. Quân Nhật lúc đó có đề nghị dẹp quân Việt Minh giùm cho chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng ông Trần Trọng Kim đã từ chối vì thấy như vậy chỉ gây đổ máu vô ích. Quyết định của chính phủ Trần Trọng Kim là một quyết định sáng suốt của những người có lòng yêu nước và hiểu tình thế.
Cách Mạng Tháng Tám đã là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nước ta. Kể từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ năm 1863, nước ta đã mất chủ quyền hết thảy 82 năm. Chúng ta đã tủi nhục vì ngoại thuộc trong suốt thời gian đó. Nhưng tủi nhục nhất là năm năm sau cùng. Trước đó chúng ta bị một cường quốc đô hộ nhưng từ năm 1940 trở đi khi Pháp đã bị Đức đánh bại, chúng ta bị một nhóm người Pháp đã mất nước, đã đầu hàng chế ngự và chà đạp mà không làm gì được. Đáng tủi nhất là đám thực dân đã mất nước này chẳng đông đảo gì. Sở dĩ họ đã đứng vững được là vì đã có những người Việt Nam tiếp tay cho họ. Mỉa mai thay, những người này về sau lại là rường cột của các chính quyền được gọi là quốc gia. Chưa bao giờ nước ta nhục đến thế. Ngày 19/8/1945 đã là ngày người Việt Nam đứng dậy, xác nhận nước Việt Nam cũng là một quốc gia như các quốc gia khác và người Việt Nam cũng là những con người như những con người khác trên thế giới.
Người cộng sản đã không cướp đoạt Cách Mạng Tháng Tám của ai. Họ đã chuẩn bị nó, tổ chức thành công nó sau khi đã chấp nhận muôn ngàn thử thách cho nó. Người cộng sản đã chịu phần hy sinh chính trong suốt khoảng thời gian 1931/1945. Máu người cộng sản đã đổ ra nhiều nhất và trong các nhà tù chính trị, tù nhân cộng sản đông gấp ba bốn lần tù nhân của tất cả các đảng phái quốc gia cộng lại. Người cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo một mình cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam trong Cách Mạng Tháng Tám. Họ xứng đáng được hưởng trọn vẹn vinh quang của Cách Mạng Tháng Tám.
Nhưng những nhân chứng của Cách Mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với những phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết này tuy nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách Mạng Tháng Tám, bởi vì bạo lực đã là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lực này đã tàn sát hàng trăm ngàn người yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của tổ quốc đáng lẽ phải được tôn vinh nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản.
Tôi phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước và sau Cách Mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì được họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập, và có lẽ còn thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc gia. Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong Cải Cách Ruộng Đất, như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền Nam sau ngày 30/4/1975, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ là giành độc lập mà là giành độc lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước nhưng họ không phải chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước khi yêu nước.
Cuốn Thời Dựng Đảng của đảng cộng sản viết về ông Hồ Chí Minh như sau : "các chế độ đời đời nhớ ơn bác Hồ trước hết là người đã truyền bá chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam". Ngày nay khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiện hình trung thực dưới mắt mọi người và mọi dân tộc như một lầm lẫn tai hại thì những đam mê mà nó khơi dậy bỗng nhiên trở thành kệch cỡm một cách đáng thương và những tội ác mà người ta đã phạm nhân danh nó chỉ còn là một sự đần độn đẫm máu.
Nhưng tại sao "bài học 45" đã đi vào ký ức tập thể của những người chống cộng một cách sai lầm ?
Sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp đã theo quân Anh trở lại Việt Nam và họp lập tức nổ súng chiếm lại các tỉnh phía Nam. Ngày 19-12/1946, chiến tranh thực sự bùng nổ tại miền Bắc và quân Pháp mau chóng chiếm được các thành phố. Đánh chiếm đến đâu, người Pháp lập các cở cấu cai trị đến đó. Năm 1947, họ gộp các cơ cấu này trọng một "chính phủ quốc gia Việt Nam" do một thiếu tướng quân đội Pháp gốc Việt là Nguyễn Văn Xuân cầm đầu. Nguyễn Văn Xuân trước đó một năm đã từng được Pháp cử làm phó chủ tịch "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu trong một âm mưu tách rời miền Nam khỏi Việt Nam. Âm mưu này thất bại và đã đưa đến cái chết trong ân hận của Nguyễn Văn Thinh nhưng cũng đã giúp cho Nguyễn Văn Xuân được Pháp thăng chức lên thiếu tướng. Chính phủ này là một sản phẩm của Pháp, gồm những người đã làm việc cho Pháp và đi lính cho Pháp. Năm 1948, chính phủ này được bàn giao cho Bảo Đại sau Hiệp ước Elysée ; nó được sự tham gia của một số nhân vật thuộc phe quốc gia trước đây. Nhưng nó hoàn toàn không dính dáng gì với phe quốc gia trước đây mà chỉ là sự tiếp nối của chính quyền thuộc địa Pháp. Các đảng phái quốc gia cũ vẫn tiếp tục bị ngược đãi ngay dưới các chính quyền quốc gia sau này. Gia đình tôi quen biết hai người bị kết án tù chung thân và bị đày ra Côn Đảo sau cuộc đảo chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Họ chỉ được phóng thích năm 1955, nghĩa là 7 năm sau các chính quyền gọi là quốc gia được thành lập và sau 25 năm tù đày vì "hạnh kiểm tốt". Ông Nguyễn Viết Nguyên, trưởng ban binh bị của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, cũng ở trong một trường hợp tương tự. Ông mất cuối năm 1960. Các đồng chí của ông không được chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép làm tang lễ. Họ phải dọa nếu bị cấm sẽ bỏ quan tài ở giữa đường rồi giải tán, chính quyền Ngô Đình Diệm mới nhượng bộ. Trên đường đưa thi hài người anh hùng dân tộc đó đến nơi an nghỉ cuối cùng, cảnh sát đứng gờm gờm hai bên đường sẵn sàng can thiệp.
Tình thế đã thay đổi, độc lập đã trở thành một mục tiêu không thể chối cãi được, các ông quan lại, sĩ quan và cai đội thời Pháp thuộc bỗng dưng trở thành những người lãnh đạo cuộc tranh đấu "chống cộng để bảo vệ chính nghĩa quốc gia". Họ cần hạ uy tín của những người lãnh đạo phe quốc gia cũ, vì dầu sao đi nữa những người này cũng là những người yêu nước hơn họ, chống cộng hơn họ, và chính đáng hơn họ ngàn lần trước dân tộc và lịch sử. "Bài học 45" đã được chế tạo ra như vậy và cho mục đích đó. Dần dần vì được nhắc đi nhắc lại, nó đi vào ký ức tập thể của phe chống cộng. Nhồi sọ và xuyên tạc lịch sử không thuộc độc quyền của phe cộng sản.
Sau cùng, nếu cần rút ra bài học của Cách Mạng Tháng Tám ?
Trước hết, những gì đã xảy ra vào giai đoạn 1945-1946 không chứng tỏ rằng các lãnh tụ phe quốc gia đã dại dột khi liên hiệp với cộng sản. Chính phủ liên hiệp đã có lợi cho phe quốc gia. Nó đã cho phe quốc gia một thời gian tương đối yên ổn để hoạt động và tranh thủ quần chúng. Nhưng thời gian này quá ngắn để phe quốc gia có thể khai thác để thay đổi một tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Giai đoạn 1945-1946 cũng không chứng tỏ rằng liên hiệp với cộng sản là chết. Trước đó cũng như trong lúc đó và sau đó đã có nhiều chính phủ liên hiệp tại nhiều quốc gia nhưng không phải phe cộng sản lúc nào cũng thắng, trái lại họ đã bại nhiều hơn thắng. Một chính phủ liên hiệp giữa hai phe không thể sống chung với nhhau chỉ tạo ra một tình huống mới và phe nào có tư thế để vận dụng được tình huống đó thì phe đó sẽ thắng.
"Bài học 45" thực sự là một cơ hội chỉ là một cơ hội cho những ai đã tiên liệu nó, đã chuẩn bị cho nó, đã chờ đợi nó. Người Việt Nam nào, nhất là người Việt Nam không cộng sản, không thấy tủi hổ là sau những hy sinh cao cả của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như suốt thập niên 1930, đa số trí thức Việt Nam đã trùm chăn hưởng thụ, đã say mê những câu thơ lãng mạn, trong khi thế giới biến động mạnh và bất ổn tại châu Âu là điều có thể nhìn thấy và tiên liệu dễ dàng. Việt Nam đã không chuẩn bị cho cơ hội 1940 và đã không chuẩn bị kịp cho cơ hội 1945, vì thế Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay. Trong chiều sâu, dân tộc nào không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình.
Mười sáu năm đã trôi qua kể từ ngày cả nước qui về một mối dưới chế độ cộng sản. Nếu các lực lượng dân chủ tiến bộ thực tâm chuẩn bị nghiêm túc thì chúng ta đã có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta không nhìn thấy những cơ hội đó. Chúng ta đã lãng phí thời giờ và nghị lực vào những hành động hời hợt và giả tạo chỉ có tác dụng làm thuốc tê cho cơn đau mất nước và làm thuốc an thần cho sự tuyệt vọng ngự trị trong lòng. Chúng ta đã không hình thành được một lực lượng có tầm vóc nào mà cũng chưa đạt tới đồng thuận về một đường lối đấu tranh nào. Nếu có cơ hội cứu nước thì với thực trạng hiện nay chúng ta cũng không có khả năng để chụp lấy.
Chuẩn bị cho một cuộc đổi đời và đổi chế độ là một việc phải làm âm thầm và kiên nhẫn từ lâu trước khi cơ hội tới. Phe quốc gia không chuẩn bị trong những năm 1930 nên đã không nắm được cơ hội 1940, và vì mới bắt đầu chuẩn bị từ 1940 trở đi nên đã không đúng hẹn với cơ hội 1945. Năm 1947, Việt Minh đã mất rất nhiều uy tín, nhân dân đã vô cùng bất mãn sau hai năm chịu đựng chính sách khủng bố thô bạo và chờ đợi một giải pháp mới nhưng vì không có một lực lượng dân tộc nào cả nên đã chỉ có giải pháp Bảo Đại. Năm 1954, khi Pháp đã bại trận và người Việt Nam có thể thực sự làm chủ được vận mệnh của mình thì cũng vì không có chuẩn bị nghiêm túc nào cả lại chỉ có Ngô Đình Diệm, con người đã từng hợp tác với Pháp, với Bảo Đại, đã đi đêm với Nhật và đã tiếp tay đắc lực đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng khi đang làm quan. Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ cũng chỉ có các tướng tá mà một phần khá lớn xuất thân từ hàng ngũ quân đội Pháp. Cuối cùng Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.
Trong công tác chuẩn bị, điều quan trọng nhất là chuẩn bị về tư tưởng. Một phong trào hành động luôn luôn phải được một trào lưu tư tưởng đi trước. Bởi vậy, đối thoại và thảo luận bộc trực là điều chúng ta không thể tiết kiệm. Và có lẽ trong khi chúng ta thẳng thắn trình bày những khác biệt chúng ta sẽ nhận ra là những khác biệt ấy không quan trọng lắm. Lúc đó chúng ta có thể nghĩ đến kết hợp. Chỉ có thể có kết hợp hành động giữa những con người đồng ý với nhau về mục tiêu phải đạt tới và về con đường phải đi.
Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng là niềm tin bởi vì không thể có thắng lợi nếu không có lạc quan. Niềm tin này có ba vế : tin ở sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản để mạnh dạn vượt lên trên những lô gích cũ, những lằn ranh cũ ; tin ở thế tất thắng của dân chủ để dứt khoát từ bỏ những tâm lý và phương pháp lỗi thời và hành động như những người dân chủ chân chính ; tin ở thiện chí của nhau để đừng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và hoảng hốt coi những người khác lập trường với mình là phản bội.
Đảng cộng sản đã tiêu xài hết vốn liếng của họ. Vai trò lịch sử của họ đã hết. Trước những vấn đề lớn của đất nước họ không còn là giải pháp mà là chướng ngại. Hàng ngũ của họ đang tan rã. Những con người từ những quá khứ xung đột đang nhìn cùng về một hướng và hướng đó không phải là hướng Mác-Lênin.
Như một trái cây đã chín, chế độ cộng sản sắp rụng. Nó có thể rụng vì bị rung cây, nó có thể rụng vì một cơn gió nhẹ và nó cũng có thể rụng vì đã quá chín dưới trọng lượng của chính nó. Đất nước này cần một giải pháp thay đổi. Chúng ta đang có cơ hội, tiếc rằng chúng ta đã không đủ chuẩn bị. Nhưng cơ hội vẫn còn đó và vẫn chờ đợi chúng ta.
Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám trước hết là để tái lập một sự thực lịch sử và để có thể rút ra những bài học xác đáng. Nhưng cũng có một lý do khác thúc đẩy tôi viết bài này. Đó là một sự tương đồng giữa thời lỳ 1940-1945 và tình hình hiện nay. Năm 1940 Pháp đã bị bại trận, đã hoang mang và rã rượi, mà chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục một cách hung bạo bởi vì người Việt Nam, trừ người cộng sản, đã không chuẩn bị trước để nắm lấy cơ hội. Ngày nay hệ thống cộng sản đã sụp đổ, các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những đứa con côi của một sự phá sản ; không còn người Việt Nam nào, ngay cả những người trong guồng máy cộng sản, muốn chế độ này tiếp tục nữa, nhưng nó vẫn còn đó do quán lực của quá khứ. Quán lực này có một tên gọi : đó là sự sợ hãi. Sợ hãi cho tương lai mình trong một chế độ mới hay sợ hãi một bạo lực đang hấp hối. Chúng ta sẽ đánh bại được chế độ độc tài này nếu tháo gỡ được quán lực ấy. Lịch sử sẽ khai thông ngay vào lúc không còn ai sợ hãi nữa, và lịch sử sẽ thuộc về những ai tìm được giải pháp an toàn và danh dự cho tất cả mọi người.
Thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1940.
Nguyễn Gia Kiểng
(Thông Luận số 41, tháng 9/1991)
Đọc thêm :
Bài 2 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
Nghĩ về một cơn điên của thế giới
Nội chiến là sự tiếp nối, phát triển và tăng cường độ tự nhiên của đấu tranh giai cấp.
Lenin
************************
Tháng 2 này Đảng Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm lần thứ 78 ngày thành lập. Đây cũng là dịp để suy nghĩ thêm về hiện tượng cộng sản.
Cuốn Sách Đen Về Chủ Nghĩa Cộng Sản (Le Livre Noir du Communisme) xuất bản năm 1997 tại Pháp hầu như đã chấm dứt mọi tranh cãi về bản chất và thành tích của chủ nghĩa cộng sản và các chế độ cộng sản. Đó là một công trình khảo cứu đúng đắn và công phu của những học giả lương thiện, có uy tín và có thẩm quyền về phong trào cộng sản. Không một nhà bình luận đứng đắn nào phản bác những sự kiện và nhận định trong tài liệu này.
Ám ảnh đen về chủ nghĩa cộng sản
Cuốn sách đã làm một tổng kết tối thiểu về số nạn nhân của các chế độ cộng sản : khoảng 100 triệu người. Con số này thật kinh hoàng so với số nạn nhân của các chế độ bạo ngược trong lịch sử nhân loại. Quốc Xã Đúc đã làm chết 20 triệu người. Chế độ Nga Hoàng, được mô tả như một chế độ tàn ác, đã tuyên án tử hình 6360 người và hành quyết 3932 người chống đối trong 100 năm cuối cùng của nó. Theo các tác giả con số 100 triệu này, trừ trường hợp của Trung Quốc và Campuchia trong đó sự phân biệt không được rõ rệt, chỉ bao gồm những người đã bị các chế độ cộng sản cố ý và trực tiếp tàn sát để áp đặt và giữ vững quyền lực. Do đó mà số nạn nhân Việt Nam chỉ được ước lượng ở mức một triệu người.
Số nạn nhân đã thiệt mạng vì những "sai lầm khách quan" của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là những người đã chết không phải vì các chế độ cộng sản chủ ý tiêu diệt họ mà đã chết do hậu quả của việc thực hiện chủ nghĩa cộng sản còn lớn hơn nhiều. Thí dụ như tại Liên Xô cũ khoảng 20 triệu người đã chết đói, tại Bắc Triều tiên số người đã chết đói trong mười năm qua có thể lên đến vài triệu người. Tại Trung Quốc tổng số người chết vì đói và bệnh tật do sai lầm của chính sách kinh tế có thể hơn 100 triệu (mà một phần đã được ghi nhận trong Sách Đen). Những người này đã chết vì chủ nghĩa cộng sản là một phương thức tổ chức xã hội sai cho nên khi được đem áp dụng đã bẻ gẫy hệ thống sản xuất và phân phối. Những nạn nhân này đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng : tại sao một chủ nghĩa sai đến như vậy lại có thể đông viên được nhiều người như vậy và động viên họ đến mức độ có thể chấp nhận những tội ác kinh khủng ?
Tôi vẫn ngưỡng mộ hai dân tộc Anh và Mỹ vì họ chưa từng bị cám dỗ bởi chủ nghĩa cộng sản. Họ là những ngoại lệ. Phần còn lại của thế giới đã bị cuốn hút. Chủ nghĩa cộng sản đã là vấn đề lớn nhất của thế kỷ 20. Đã có một khối người rất đông đảo tại mọi quốc gia trên thế gìới, trong đó có những người rất xuất chúng thuộc mọi bộ môn văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, cổ võ cho nó. Những nhà bác hoc, những triết gia, những giải thưởng Nobel. Câu hỏi tại sao chủ nghĩa cộng sản lại có thể lôi kéo một số đông đảo những người kiệt xuất như vậy không dễ trả lời. Đây không phải là một vấn đề của lý luận. Nó là một cơn điên của nhân loại và phải tìm giải thích trong tâm lý và lịch sử.
Karl Marx không phải là một triết gia đúng nghĩa và chủ nghĩa cộng sản chẳng bao giờ có tầm vóc của một tư tưởng chính trị hay một lý thuyết quản trị quốc gia. Marx là một nhà báo và một nhà bút chiến có tài nhưng không có khả năng nào khác. Ông học triết và đậu tiến sĩ ở tuổi rất trẻ nhưng ông chưa bao giờ thực sự suy nghĩ như một triết gia. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ triết mà ông đã học được cho những khẳng định hấp tấp mà một triết gia đúng nghĩa không thể tự cho phép. Ông chỉ lấy những ý kiến của những người khác -Hegel, Darwin, Ricardo- để ứng dụng một cách khác và để kết luận một cách quả quyết và hàm hồ. Marx đã rất khổ sở khi bị yêu cầu thực hiện lời hứa là sẽ chứng minh một cách khoa học những gì ông đã khẳng định trong Tuyên Ngôn Cộng Sản năm 1847, đặc biệt là sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Sau cùng ông đã chẳng chứng minh được gì và tất cả mọi dự đoán của ông đều bị thực tế phủ nhận một cách thảm hại. Cuốn Tư Bản (Capital) của ông, mà chỉ có tập 1 được xuất bản khi ông còn sống, là một thất vọng, ít ai đủ kiên nhẫn để đọc nó. Marx không có ý kiến gì về những vấn đề lớn đặt ra cho một quốc gia, như môi trường, dân số, đạo đức, luật pháp, văn học, nghệ thuật, sáng tạo, khoa học, kỹ thuật. (Mọi chế độ cộng sản đều đã là những thảm kịch cho môi trường và đạo đức xã hội vì chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn không biết tới những vấn đề này). Marx chỉ bàn về kinh tế và cũng chỉ quan niệm hoạt động kinh tế ở mức độ thấp nhất, mức độ sản xuất hàng hóa. Ông không biết tới dịch vụ, phân phối và tiền tệ. Những khẳng định của Marx đã bị chứng tỏ là sai lầm ngay khi Marx còn sống. Đảng Xã Hội Đức, được coi như xương sống của phong trào cộng sản thế giới lúc đó, đã bác bỏ Marx ngay từ đại hội Gotha năm 1875. Marx đã sống hơn hai mươi năm cuối đời với hào quang ngày càng xuống dốc trong cảnh nghèo khổ cùng cực tại London. Trước khi chết ông để lại một câu nói không biết mỉa mai hay chua chát : "điều chắc chắn là tôi không phải là một người Mác-xít".
Tư tưởng của Marx đã chỉ được hồi sinh, và được tô vẽ và tán dương sau đó, nhờ cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga. Và lần này nó được phối hợp với lý thuyết khủng bố của Lenin thành chủ nghĩa cộng sản, được biết tới như là chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga đã dần dần được nhìn lại một cách chính xác như một cuộc đảo chính cướp chính quyền của một đảng khủng bố có tổ chức chặt chẽ. Tư tưởng của Marx đã chỉ có công dụng đem lại một biện minh và một thế giá cho một công thức khủng bố để cướp và giữ chính quyền. Nhưng chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiệu lực một cách đáng sợ. Tội ác được tôn vinh bởi vì nó được thực hiện nhân danh một lý tưởng quảng đại, người ta giết người để xây dựng một một xã hội ngàn lần đẹp hơn. Trái với bạo lực trần trụi của các vua chúa, bạo lực cộng sản được khoác cái áo đẹp và quí phái của một triết học và một lý tưởng. Sự tàn sát cũng không cần có giới hạn vì có chính nghĩa, và vì mọi giá trị đạo đức đã bị bác bỏ như là những phát minh của giai cấp tư sản.
Nhưng chủ nghĩa Mác-Lenin vẫn chỉ là chính nó, nghĩa là một chủ nghĩa khủng bố. Đảng cộng sản Nga, cũng giống như các đảng cộng sản khác, chưa bao giờ là một đảng quần chúng. Những công nhân đình công đòi quyền lợi sau Cách Mạng Tháng 10 đã bi tàn sát thẳng tay, cũng như các nông dân đòi được có ruộng đất. Sáu triệu người Ukraine bị cắt thực phẩm cho đến chết đói vì có mầm mống chống đối. Đừng nên quên rằng trong suốt lịch sử của phong trào công sản thế giới chưa hề có một đảng cộng sản nào thắng một cuộc bầu cử lương thiện nào, dù trước hay sau khi nắm chính quyền. Các đảng cộng sản đều giống nhau : chúng không phải là những đảng được thành lập để tranh thủ sự hưởng ứng của nhân dân qua những cuộc bầu cử, chúng đều là những tổ chức nhắm tạo ra và lợi dụng những cuộc khủng hoảng để cướp chính quyền và sau đó cai trị bằng bạo lực và khủng bố.
Vậy thì tại sao phong trào cộng sản đã được ủng hộ ?
Chủ nghĩa cộng sản, như là một lý tưởng được Marx mô tả, không phải là mới. Nó có gốc rễ từ một thời rất xa xưa, từ sự tìm kiếm ngoan cố một tổ chức xã hội hoàn chỉnh. Cuốn Nước Cộng Hòa của Plato đã là dự án cộng sản đầu tiên. Từ kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo các nước phương Tây sống trong một mâu thuẫn lớn giữa một giáo lý coi mọi người là anh em và một tổ chức xã hội phân biệt chủ và tớ, trong đó sự đói khổ thường trực đã khiến tài sản tư hữu được nhìn như là nguyên nhân của mọi tệ hại. Thiên Chúa Giáo xuất hiện như một triết lý giải phóng đã dần dần bị thuần hóa để trở thành một dụng cụ thống trị. Trong đáy sâu của tâm hồn con người mong đợi một hy vọng giải phóng mới. Thời đại Tái Sinh (Rennaissance), rồi Thế Kỷ Ánh Sáng (thế kỷ 18) đề ra chủ nghĩa cá nhân, coi con người phổ cập như là giá trị và đối tượng phục vụ cao nhất, dù có hay không có Thượng Đế. Trật tự tinh thần cũ lung lay và một ngày mai đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy ẩn số hiện ra trước mắt. Chủ nghĩa cá nhân quá mới, người ta chưa thể hiểu nó sẽ dẫn đến đâu vì đây là lần đầu tiên con người khám phá ra chính mình. Có những nhà tư tưởng, mà đại diện tiêu biểu nhất là John Locke, nhìn thấy ở chủ nghĩa cá nhân nền tảng của một tổ chức xã hội mới : chế độ dân chủ, nhưng tiếng nói của họ còn quá ít và họ lại không phản bác mà còn bênh vực quyền tư hữu mà đại đa số thù ghét hoặc ngờ vực. Nét độc đáo của họ là đã dám đi ngược lại với một thành kiến áp đảo đã được coi như một chân lý, họ đúng nhưng cũng vì thế mà họ khó được chấp nhận. Cần nhấn mạnh rằng thành kiến này không phải chỉ là của những người nghèo khổ, nó được chia sẻ bởi cả một số rất đông đảo những người có tâm hồn quảng đại. Chính Giê Su Kitô cũng đã từng nói người giầu không thể vào nước chúa. Marx không phải là người đầu tiên đề xướng chủ nghĩa xã hội nhưng đã là người biện luận tài ba nhất cho nó. Thiên tài trong nghệ thuật chế tạo ra những tổng hợp sai nhưng hấp dẫn, Marx đã đưa ra lý thuyết đấu tranh giai cấp, dẫn tới vô sản chuyên chính, hủy bỏ quyền tư hữu, để rồi sau cùng là một xã hội công bằng không giai cấp. Nhưng sau cùng là bao giờ ? Marx không trả lời, như ông không hề định nghĩa thế nào là một giai cấp. Lý thuyết của ông là một xào nấu nhiều yếu tố mâu thuẫn : có yếu tố dân chủ vì quyền lực được coi là thuộc về nhân dân, đáp ứng nguyện vọng lâu đời là hủy bỏ quyền tư hữu, và cũng đáp ứng mối lo âu không biết chủ nghĩa cá nhân, quá mới để đa số có thể hiểu là khác với chủ nghĩa ích kỷ, sẽ đưa tới cái gì. Khi sự cáo chung của các chế độ quân chủ chuyên chính đã là một tất yếu sau Cách Mạng Pháp 1789 -và sự ra đời của nền dân chủ Hoa Kỳ- thì chủ nghĩa Marx phải được nhìn như một khuynh hướng bảo thủ chống lại tư tưởng thực sự mới lúc đó là chủ nghĩa cá nhân tự do và cố giữ lại những gì còn giữ lại được của chủ nghĩa tập thể (collectivism), cách tổ chức xã hội duy nhất mà loài người biết được từ ngày sống thành xã hội. Dân chủ còn quá mới.
Một yếu tố quan trọng khác cũng xuất hiện lần đầu tiên và gây choáng váng. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã tạo ra một quyền lực hoàn toàn mới : quyền lực của những nhà tư bản chủ nhân những công ty lớn theo nhau ra đời. Đây là một quyền lực rất lạ vào lúc đó bởi vì nó không đặt nền tảng trên bạo lực, mà trên tài sản. Sự giầu có bao giờ cũng đi đôi với quyền lực, nhưng cho tới lúc đó quyền lực của tài sản chỉ ở một tầm vóc nhỏ. Lần này quyền lực của giới tư bản đã quá lớn, bao trùm lên rất nhiều người, gần như một quyền lực chính trị. Người ta khó có thể chấp nhận được thứ quyền lực này bởi vì nó đến từ điều từ lâu đã bị thù ghét : tài sản tư hữu. Giữa lúc đang hy vọng được giải phóng người ta lại thấy phải chịu thêm một ách thống trị mới. Hơn nữa chế độ tư bản sơ sinh lại chỉ mới biết đi những bước đi chập chững, vụng dại và vô tâm. Rất ít nhà tư tưởng dám dự đoán thế giới đi về đâu, một số dự đoán những tương lai đen tối. Marx khẳng định sẽ có tích lũy tư bản, người lao động sẽ bị bần cùng hóa. Lý luận của Marx lạnh lùng một cách ghê rợn ; Marx không coi bóc lột là một tội ác -tội ác, thiện và ác, cũng như mọi khái niệm đạo đức hoàn toàn vắng mặt trong tư tưởng của Marx- mà như qui luật tự nhiên và do đó đấu tranh giai cấp để tiêu diệt giai cấp tư sản cũng là tự nhiên. Cách lý luận của Marx là một bước lùi dứt khoát và kinh hoàng về tình trạng dã man trong đó loài người cũng như mọi động vật tự nhiên phải xâu xé nhau để sống. Quá nhiều đảo lộn vật chất cũng như tinh thần. Hy vọng, bồn chồn, hoảng sợ và phẫn nộ. Thế giới lên cơn điên ! Chủ nghĩa Marx quyến rũ ở những gì nó chống lại. Không phải là một sự tình cờ mà cuốn sách quan trọng nhất của chủ nghĩa cộng sản lại mang tên là Tư Bản (Capital), cũng không phải là một sự tình cờ cuốn sách duy nhất trình bày một cách tổng quát chủ nghĩa cộng sản có tựa là Chống Duhring (Anti-Dühring). Marx không có giải pháp đúng đắn nào cho xã hội, nhưng ông đánh phá bằng những lời lẽ rất hùng hồn những gì mà người ta thù ghét : tài sản tư hữu, bất công, bóc lột v.v.
Dần dần các nhà lý luận nghiêm chỉnh tại châu Âu đã phơi bày những sai lầm của Marx. Khi Marx qua đời tư tưởng của ông đã mất gần hết ảnh hưởng. Lenin đã hồi sinh nó tại Nga, từ Nga nó dội trở lại châu Âu nhờ những thành tích ngoạn mục của chế độ Xô Viết như là một bằng chứng rằng Marx đã đúng và những người phản bác ông đã sai. Chỉ từ thập niên 1980 trở đi những "thành tích" này mới bị phơi bày là dối trá.
Lenin là một chuyên viên khủng bố, lớn lên trong một truyền thống khủng bố quốc gia và gia đình. Tư tưởng chính trị của Nga, kể từ thập niên 1860, do sự pha trộn các học thuyết Tây Âu với truyền thống bạo lực của Nga, chủ yếu là một chủ nghĩa vô chính phủ bạo động. Ám sát và thủ tiêu được coi như một phương tiện bình thường để giải quyết các khác biệt. Anh ruột Lenin bị hành quyết về tội khủng bố. Với một căn cước như vậy Lenin dĩ nhiên biết hiệu lực ghê gớm của hoạt động khủng bố. (Để có một ý niệm về hiệu lực của khủng bố chỉ cần nhìn vào những lực lượng được sử dụng để truy lùng Bin Laden và đội quân khủng bố vài ngàn người Al Qaeda). Đương đầu với khủng bố, một lực lượng qui ước, nghĩa là không dùng phương pháp khủng bố, mạnh gấp đôi, gấp ba, thậm chí gấp mười cũng tuyệt vọng. Phải mạnh gấp trăm ngàn lần. Sở dĩ các nhóm khủng bố tại Nga trước Lênin đều không lay chuyển được chính quyền Nga hoàng là vì chúng đều quá nhỏ, vả lại chúng cũng chỉ có mục tiêu phá hoại. Lenin nhìn đã thấy ở chủ nghĩa Marx một vũ khí lý tưởng để không những chỉ phá hoại mà còn cướp chính quyền : nó có vóc dáng của một triết lý cách mạng và có thể động viên được nhiều người trong khi để cướp được chính quyền chỉ cần một đội ngũ tầm vóc vừa phải nhưng có kỷ luật và quyết tâm. Chủ nghĩa Marx cũng rất hợp với tâm lý cách mạng của người Nga lúc đó : nó bác bỏ mọi giá trị đạo đức, coi bóc lột và đấu tranh giai cấp là tự nhiên, những gì đúng là những gì có lợi cho mục tiêu theo đuổi, cứu cánh biện minh cho phương tiện, Marx cũng không quan tâm tới những ý niệm quốc gia và dân tộc. Lenin đã phát minh ra cả một lý thuyết khủng bố để bổ túc cho tư tưởng của Marx. Ông ta đã nắm được chính quyền bằng vũ lực nhờ một đội ngũ nhỏ nhưng kỷ luật và sau đó thi hành chính sách khủng bố toàn diện và tuyệt đối trong nội bộ đảng cũng như đối với xã hội. Mọi thông tin và mọi quyền tự do đều bị xóa bỏ. Phải khống chế tư tưởng để triệt tiêu mọi ý định chống đối, phải dùng bạo lực để tiêu diệt những chống đối còn lại, và bạo lực phải cực kỳ hung bạo để gây kinh hoàng. Chính quyền Mác-Lênin thực hiện đấu tranh giai cấp và Lenin quan niệm đấu tranh giai cấp là nội chiến liên tục. Chính quyền Mác- Lênin là một chính quyền lâm chiến với nhân dân của chính mình.
Phong trào cộng sản đã đứng vững được tại các nước mà nó đã nắm được chính quyền nhờ khủng bố và đã bành trướng được sang các nước khác, như tại Việt Nam, cũng nhờ chiến tranh khủng bố. Và vì nó luôn luôn đặt đối phương trong thế thụ động. Các đảng cộng sản Tây Âu có vai trò chiến lược quyết định : đánh bóng các chế độ cộng sản và gây khó khăn tối đa cho các chính quyền dân chủ. Khi các đảng cộng sản tại các nuớc Tây Âu sụp đổ và bức tường bưng bít bị chọc thủng thì chủ nghĩa Mác-Lênin cũng sụp đổ tại Liên Xô và trên thế giới vì nó hiện nguyên hình như là một chủ nghĩa khủng bố. Các chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đã phải thích nghi với thực tại thế giới để kéo dài sự tồn tại dù biết rằng về lâu về dài không thể trụ được. Hợp lý hơn với chính mình, chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên tiếp tục đóng kín, cho đến gần đây.
Chủ nghĩa cộng sản đã được ủng hộ chủ yếu vì người ta không hiểu nó và không được thông tin về những tội ác kinh khủng của những chế độ nhân danh nó. Nhưng cũng có những lý do sâu xa khác.
Trong một bài trước đây (Tổ chức và sự hình thành cuả ý kiến, Thông Luận số 199, tháng 01/2006) tôi đã trình bày cách mà chúng ta suy nghĩ. Chỉ có một số ít người lý luận để đi đến kết luận, trong đại đa số các trường hợp người ta lý luận để bảo vệ một kết luận đã có sẵn, và kết luận này, khi không phải do tham vọng và quyền lợi, thường đến từ vô thức, từ những nguyện ước ấp ủ lâu ngày, từ những ám ảnh, kỷ niệm và thành kiến, từ những tập quán và giá trị do xã hội áp đặt. Nói chung là từ quá trình hình thành của mỗi con người. Như đã nói ở phần trên, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một giải đáp cho nhiều ước vọng đã tích lũy từ lâu, quá lâu. Người ta ủng hộ nó bởi vì người ta chờ đợi nó và người ta không muốn nghe những lập luận phản bác, ngay cả khi dựa trên những bằng chứng xác thực, bởi vì người ta đã kết luận rồi và không muốn đổi ý kiến. Phong trào cộng sản, với những tác hại kinh khủng của nó, nhắc nhở một kinh nghiệm lịch sử : những thay đổi cần thiết bị trì hoãn quá lâu đến khi bắt buộc phải tới thì thường tới một cách rất tàn khốc.
Lý do thứ hai là sự mê hoặc của bạo lực. Bạo lực không phải là đặc tính riêng của phong trào công sản. Nó xuất hiện ở khắp nơi, Balkan, Nigeria, Sudan, Rwanda, Iraq, Afganistan... Bản năng bạo lực có trong mỗi người và nằm trong bản chất của con người. Cho đến môt ngày gần đây, khi dân chủ xuất hiện như là một phương thức tổ chức xã hội cho phép giải quyết những mâu thuẫn một cách văn minh, mọi chính quyền đều đã thành lập nhờ bạo lực và được duy trì bằng bạo lực. Con người sống dưới bạo lực và chịu đựng bạo lực trong suốt quá trình tiến hóa. Người ta vừa ghê sợ vừa ham muốn nó. Bạo lực cũng có tính lãng mạn của nó. Trong mỗi con người đều vẫn còn một tên sát nhân phải kiềm chế. Chủ nghĩa cộng sản đã thả lỏng tên sát nhân này và thỏa mãn một bản năng. Cũng nên biết rằng khủng bố mới chỉ bị lên án gần đây thôi, trước đây nó được coi là dũng cảm, anh hùng. Che Guevara đã là một thần tượng của tuổi trẻ trong thập niên 1960.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lan rộng trên thế giới không phải vì giá trị lý luận của nó mà vì nó là một dụng cụ rất hiệu lực để cướp và giữ chính quyền. Nó phù hợp với những tham vọng quyền lực. Mao Trạch Đông không cần biết tới triết lý của Marx, ông chỉ đọc những sách cổ Trung Hoa. Hồ Chí Minh, theo chính lời ông thuật lại, đã chọn chủ nghĩa Mác-Lênin khi vừa mới nghe nói tới nó và trong suốt cuộc đời chưa hề có một đóng góp lý luận nào cho chủ nghĩa này. Cũng như Đảng Cộng Sản Liên Xô, cả hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đều đã là những đảng khủng bố và thành công nhờ khủng bố. Không có gì đáng ngạc nhiên là khi nắm được chính quyền họ đã đập phá, và khi đã ngừng đập phá để xây dựng thì họ bối rối. Xây dựng không phải là chức năng cũa chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vấn đề của chúng ta là ra khỏi chủ nghĩa này. Đúng hơn là chấm dứt giai đoạn hậu cộng sản đã bắt đầu từ nhiều năm nay. Nghĩa là đoạn tuyệt với văn hóa Mác-Lênin và giải quyết những di sản của nó, một di sản đầy máu và nước mắt, đầy tội ác, ức hiếp và thù hận. Sức sống hiện nay của chế độ cộng sản chủ yếu là sự lo sợ trước viễn ảnh phải trả lời về những tội ác và phải sòng phẳng với quá khứ. Chúng ta sẽ chỉ có giải đáp nếu hiểu bằng cả lý trí và tấm lòng hiện tượng cộng sản và tìm ra được một cách đúng để nhìn nó và nghĩ về nó.
Chúng ta đã thảo luận nhiều về tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một cách để chấp nhận tinh thần này là nhìn giai đoạn cộng sản như một cơn điên của dân tộc Việt Nam trong một cơn điên chung của cả thế giới. Không thể tìm kiếm sự hợp lý trong một cơn điên và cũng không nên đặt vấn đề trách nhiệm trong một cơn điên. Vấn đề chỉ là hàn gắn những đổ vỡ.
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 02/2008)
Đọc thêm :
Ông Bá Ngọc có công bố một tài liệu lịch sử đặc biệt trên Tạp chí Xưa & Nay, số 438, tháng 10/2013, trong bài viết có nhan đề là "Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế cộng sản".
Nguyễn Ái Quốc và Đại hội V của Quốc tế cộng sản
Tạm để sang một bên lối viết sử kiểu cộng sản chủ nghĩa để tập trung vào một số chi tiết và sự việc được trình bày trong bài này, ta có thể thấy rõ hơn về một vài điểm ở nhân vật Hồ Chí Minh và lịch sử đảng cộng sản Việt Nam.
Tài liệu mà Bá Ngọc tìm được trình bày một sự kiện xảy ra với Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ ông đến Liên Xô lần thứ ba trong đời hoạt động của mình, sau khi bị bắt giam ở Hồng Kông, từ 1934 - 1938. Sự kiện đó là Nguyễn Ái Quốc trở thành đối tượng điều tra của Quốc tế cộng sản. Tháng 2/1936, Quốc tế cộng sản thành lập một Ban thẩm tra để xem xét trường hợp Nguyễn Ái Quốc, vì các lý do :
- Ban lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế cộng sản một lá thư viết ngày 20/4/1935 trong đó kết tội Nguyễn Ái Quốc đã phạm những sai lầm trong hoạt động cách mạng (1).
- Vì sao Nguyễn Ái Quốc chỉ bị kết án nhẹ nhàng có hai năm tù giam, vì sao sau hạn tù có thể trốn khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng, và bằng cách nào sang được Nga ?
Ban thẩm tra đã làm việc và dẫn tới hai kết luận :
1. Nguyễn Ái Quốc đã phạm một số sai lầm trong hoạt động bí mật và cần khắc phục.
2. Không tìm ra chứng cứ về sự thiếu trung thành chính trị ở Nguyễn Ái Quốc. Vì thế hồ sơ Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ.
Ông Bá Ngọc có các phân tích và kết luận của riêng ông, như ông đã trình bày trong bài. Đối với cá nhân tôi, tài liệu này giúp tôi trả lời phần nào một vài trong số rất nhiều câu hỏi về nhân vật được xem là phức tạp vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại :
- Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản là một con đường giải phóng dân tộc (nghĩa là một phương tiện giúp giải phóng dân tộc) hay là một mục tiêu tối hậu mà cả dân tộc phải hướng tới ?
- Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa yêu nước/ chủ nghĩa dân tộc, hay là một người cộng sản đúng nghĩa, hay là trong Hồ Chí Minh kết hợp cả hai con người đó, và còn kết hợp thêm cả con người nho giáo kiểu Khổng Tử ?
Câu hỏi này thoạt nghe có vẻ như thừa, sau tất cả các nghiên cứu đã công bố về Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau vô số công trình của các nhà nghiên cứu quốc tế. Thế nhưng thực tế hiện nay đòi hỏi phải đặt lại câu hỏi đó, bởi vì một bộ phận người Việt dường như chỉ muốn nhìn Hồ Chí Minh như một người cộng sản, và duy nhất ở khía cạnh cộng sản. Ngược lại, không phải là không có người nghĩ rằng Hồ Chí Minh "phi cộng sản", và cho rằng cộng sản, đối với Hồ Chí Minh, chỉ như là cái áo che giấu cái thực chất là cách mạng dân tộc. Lại có những người cho rằng Hồ Chí Minh bất đắc dĩ mà trở thành cộng sản. Mỗi bên đều tìm thấy trong lịch sử những yếu tố làm căn cứ cho suy diễn của mình.
Chưa lúc nào mà Hồ Chí Minh và di sản Hồ Chí Minh lại gây tranh cãi như hiện nay. Điều này là bình thường, và có thể nói là đáng mừng. Bởi vì ít ra chúng ta cũng tự cho phép mình không đồng ý với nhau, tức là cho phép tồn tại tình trạng đa nguyên trong suy nghĩ. Chúng ta cũng hiểu rằng không thể tự cho phép mình áp đặt nhận định chủ quan của mình lên người khác, càng không thể bắt người khác phải tin theo mình một cách vô điều kiện.
Nhân đây cũng xin một lần giải thích rằng đối với những người làm nghiên cứu như tôi, những người lấy việc tìm hiểu sự thật làm mục đích, lấy sự công bằng làm phương châm trong đánh giá, thì chỉ có sử liệu, sự kiện, căn cứ, bằng chứng, nhân chứng, và phân tích dựa trên các căn cứ và bằng chứng ấy, mới có khả năng thuyết phục. Và sẽ không chấp nhận bị chi phối bởi bất kỳ một áp lực nào (dù là áp lực của bạo lực chính trị hay là áp lực của tin đồn, của dư luận, của bình luận…).
Vụ thẩm tra năm 1936 cho phép phần nào nhận diện sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc vào thời điểm ấy, xin nhắc lại, vào thời điểm các thập kỷ 1920 và 1930. Ở đây các phân tích của tôi chỉ dựa vào bản báo cáo của Vera Vasilievna, đoạn trích được dịch ở trong bài, chứ không dựa vào phần phân tích và bình luận của Bá Ngọc.
Dưới đây là trích đoạn từ bản giải trình của Vera Vasilievna, theo bản dịch của Bá Ngọc :
"Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người rất có uy tín giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng sản đầu tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc tế cộng sản, mặc dầu Quốc tế cộng sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản... Do đó, uy tín của đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội ngũ những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị tháng 10/1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng chí. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban lãnh đạo Đảng phản ánh tâm trạng không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên lạc viên bình thường mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo ; đã đưa ra những ý kiến, ghi chú, nhận xét của mình trong các chỉ thị, thông báo của Quốc tế cộng sản và cản trở những thông tin từ đất nước gửi Quốc tế cộng sản.
Ngày 6/6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng Công và bị kết án 2 năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vaxiliepna) liên hệ với luật sư bào chữa thông qua Tổ chức cứu trợ những người cộng sản bị nạn của Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức cho Nguyễn trốn thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi chúng tôi. Một thời gian sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết mà được thả tự do và biến mất.
Vào tháng 7/1934, Nguyễn Ái Quốc đến Matxcơva. Theo lời kể của Nguyễn Ái Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn bản về các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và trở về với chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở về, theo Nguyễn Ái Quốc kể thì do Vaillant-Couturier trong thời gian ở Trung Quốc đã tổ chức giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi học tại Trường Marx-Lenin cho đến ngày nay. Thống nhất với các đồng chí Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, mặc dầu chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn đấu. Nguyễn đã nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng, đặc biệt, rất quan tâm tới các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc họ đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về việc không được tham gia những nhiệm vụ bí mật. Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thứ đó có thể chống lại ý nguyện của mình.
Trên đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc khi tự phê bình tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó.
Điểm lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định vị trí đại diện trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể tham gia Đại hội (Quốc tế cộng sản) như một đại biểu chính thức".
(trích báo cáo của Vaxiliepna)
Với câu đầu tiên trong trích đoạn này, Vasilievna khẳng định một điều mà chúng ta đều đã biết : Hồ Chí Minh là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người có uy tín quốc tế và là người đã thành lập những tổ chức cộng sản đầu tiên ở Đông Dương. Tuy nhiên, điều này chưa đủ để thỏa mãn những người đặt câu hỏi về việc chủ nghĩa cộng sản đối với Nguyễn Ái Quốc là mục đích hay phương tiện.
Trong bản báo cáo, một số chi tiết cho thấy Nguyễn Ái Quốc không hoàn toàn tôn trọng quy định và kỷ luật của Quốc tế cộng sản. Chẳng hạn, ông tự nhận mình là đại diện của Quốc tế cộng sản trong khi chưa được Quốc tế cộng sản ủy quyền. Điều này cho thấy đối với Hồ Chí Minh, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quan trọng hơn tất cả, và để có thể thực hiện điều đó ông đã nhân danh là đại diện Quốc tế cộng sản dù chưa được phép. Và ông cũng không để cho Quốc tế cộng sản nắm được hết các hoạt động của mình. Đáng chú ý hơn là nhận định này của Vasilievna : "Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản".
Xét theo các nguyên tắc của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã phạm sai lầm. Nhưng trong thực tế, chính là nhờ "sai lầm" trong việc kết hợp với các tầng lớp địa chủ và tư sản mà Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể thu hút được quần chúng và những người yêu nước, cho dù những người đó thuộc tầng lớp địa chủ hay tư sản. Dĩ nhiên, kết hợp với giai cấp địa chủ và tư sản là đi ngược hoàn toàn với tư tưởng của Lê-nin. Điều mà Quốc tế cộng sản (đại diện là Vasilievna) cho là "máy móc", thì chính lại là "sáng tạo" của Nguyễn Ái Quốc, nó cho phép hợp nhất các tổ chức cộng sản manh mún lúc đó để tạo ra một đảng có thực lực lớn hơn, có điều kiện để phát triển mạnh hơn. "Những người muốn giải phóng đất nước, cần phải thành lập một đảng mạnh", câu này chính là bài học mà Phan Bội Châu truyền lại cho Nguyễn Tất Thành từ những ngày đầu tiên đi tìm đường giải phóng quê hương.
Một chi tiết cần lưu ý trong tài liệu này là, mặc dầu Nguyễn Ái Quốc là người thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên, ông không giữ chức vụ lãnh đạo trong tổ chức đảng. Nguyễn Ái Quốc không giữ vai trò nào trong cấu trúc quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1930. Trong danh sách thành viên của Ủy ban lâm thời không có tên ông, và người được chỉ định giữ chức vụ Tổng bí thư là Trịnh Đình Cửu. Tại sao ? Điều này, trong số các tài liệu mà tôi đã đọc, tôi vẫn chưa tìm thấy một lý giải nào thỏa đáng, hơn nữa các tài liệu đều không đặt câu hỏi về việc này, trong khi điều đó phản ánh một lô-gic không bình thường đối với người sáng lập đảng. Sau khi đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, do bị chỉ trích vì các sai lầm, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn giữ vai trò là một liên lạc viên bình thường, đảm nhiệm công viêc liên lạc giữa Quốc tế cộng sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á.
Tài liệu về vụ thẩm tra cho thấy rằng Nguyễn Ái Quốc, vào lúc đó, không lệ thuộc vào các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản kiểu Lenin, và đối với ông, đó chỉ là một phương tiện phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc "không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản", bởi vì ông hiểu rằng muốn tạo sức mạnh để giải phóng đất nước cần đoàn kết các giai cấp khác nhau trong xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản được đúc khuôn từ lò Liên-Xô, được đào luyện bài bản trong môi trường Xô-Viết và tuân thủ trung thành tư tưởng Stalin.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours (nước Pháp), tháng 12/1920 (Ảnh tư liệu)
Có thể nhớ lại rằng ở đại hội Tour, 1920, Nguyễn Ái Quốc đã gióng lên tiếng kêu trước đảng Xã hội Pháp : "Camarades, sauvez-nous !" (Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi !). Tuy nhiên, rất nhanh chóng Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng các đồng chí cánh tả ở Pháp không cứu được Việt Nam thoát khỏi ách thuộc địa, rằng các phong trào chính trị ở Pháp, kể cả Đảng Cộng sản Pháp, không quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn tham gia Đảng Cộng sản Pháp, ông đã rời Paris để sang Nga năm 1923, nơi mà theo ông vấn đề thuộc địa được coi là quan trọng.
Nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ lưu lại Nga chừng 2 năm, cuối 1924 ông rời Nga sang Trung Quốc. Tại sao ? Tại vì ở Nga, dù đó là cái nôi của chủ nghĩa cộng sản thì ông cũng không thể thành lập các tổ chức chính trị của Việt Nam. Thực tế cho thấy, chỉ mấy tháng sau, vào tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại Quảng Châu, Trung Quốc, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ra đời 5 năm sau.
Những gì mà Quốc tế cộng sản vào năm 1936 xem là "sai sót" ở Nguyễn Ái Quốc thì có thể không hẳn như vậy. Đối với Quốc tế cộng sản là sai sót, nhưng đối với Nguyễn Ái Quốc đó là những gì cần phải làm. Vasilievna nhận định : "Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ". Điều này hoàn toàn đúng. Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ là điều mà Nguyễn Ái Quốc lúc đó và Hồ Chí Minh sau này không bao giờ từ bỏ.
Nguyễn Ái Quốc không quan tâm nhiều đến vấn đề lý luận, không giành thời gian cho lý luận về chủ nghĩa cộng sản, về cơ bản ông là người hành động. Đấy là lý do khiến Vasilievna nêu nhận xét này : "Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi". Sự yếu kém về lý luận của Nguyễn Ái Quốc là sự thật, chứ không phải do ông giả vờ yếu kém. Có nhiều lý do cho sự yếu kém này, trong đó có một lý do căn bản : ông chọn hoạt động thực tiễn và coi lý luận Marx-Lenin chỉ là một công cụ, một vũ khí, một con đường để thực hiện giải phóng dân tộc. Ít ra là ở thời điểm 1920-1930 là như vậy. Sự phát triển về sau của chủ nghĩa Marx-Lenin trong tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, vấn đề này sẽ được đề cập tới một dịp khác. Dù sao, Võ Nguyên Giáp có thuật lại trong cuốn "Đường tới Điện Biên Phủ" lời của Hồ Chí Minh : "Chủ nghĩa Marx-Lenin là cái gì lợi cho cách mạng thì làm !". Câu này của Hồ Chí Minh cho thấy tính chất "phương tiện" của chủ nghĩa Marx-Lenin trong quan niệm của ông. Tuy nhiên, có vô số dẫn chứng khác cho thấy Hồ Chí Minh tôn chủ nghĩa Marx-Lenin lên thành kinh thánh, thành kim chỉ nam cho hành động. Vấn đề rất phức tạp và không thể đơn giản hóa trong một câu trả lời mang tính chất một chiều.
Xin dẫn ra đây thêm một ví dụ về phía những người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản, thậm chí đảng cộng sản, với Hồ Chí Minh, là một phương tiện. Jean Lacouture, trong cuốn sách xuất bản năm 1967 viết về Hồ Chí Minh, khi bình luận về những quyết định của Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951 [thành lập Việt Minh, giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập Đảng Lao động Việt Nam – theo Lacouture Đảng Lao động Việt Nam là "thuần túy Việt Nam" -, thành lập Mặt trận Liên Việt…], đã viết : "Tất cả diễn ra cứ như thể Hồ Chí Minh không xem đảng như là một mục đích, mà như là một phương tiện, như là một công cụ cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ mà chủ nghĩa thực dụng của ông lại xuất hiện một cách can đảm như thế, sống động như thế" (Ho Chi Minh, Jean Lacouture, Seuil, 1967, tr.196). Lacouture không phải là không có lý khi nêu nhận xét này. Cái lý đó là : nếu mục đích của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, thì không có gì khó hiểu khi đảng cộng sản đối với ông chỉ là phương tiện, là công cụ để giúp ông đạt mục đích đó.
Cũng đừng quên rằng cho đến khi Hồ Chí Minh chết, đảng vẫn mang tên "Đảng Lao động Việt Nam". Phải chăng, đối với Hồ Chí Minh, tên gì cũng được, không nhất thiết phải là "đảng cộng sản", miễn là nó phục vụ công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ? Ngoài ra, dưới thời kỳ lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Hiến pháp Việt Nam không có điều khoản quy định sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí cũng không có điều khoản quy định sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đảng đang cầm quyền lúc đó. Việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, và đưa quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào Hiến pháp chỉ xảy ra dưới thời Lê Duẩn toàn quyền.
Điều này có ý nghĩa đối với những người đang ra sức "học tập và làm theo lời Bác", nhất là những người phát động phong trào này. Lãnh đạo Việt Nam chỉ phát động phong trào "học tập tư tưởng Hồ Chí Minh", chứ không phát động phong trào "học tập tư tưởng Lê Duẩn". Vậy Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang học tập Hồ Chí Minh, hay đang học tập Lê Duẩn ? Và lãnh đạo đảng cũng không nên tiếp tục lảng tránh và nguỵ biện về việc Lê Duẩn và đảng đã phản bội di chúc của Hồ Chí Minh. Đã đến lúc phải thực hiện di chúc của ông ấy. Làm sao có thể vừa phản bội Hồ Chí Minh vừa học tập Hồ Chí Minh ?
Chủ nghĩa cộng sản là mục đích hay phương tiện ?
Câu hỏi này, những đảng viên đảng cộng sản ngày nay cần đặt ra cho mình. Vì sao ?
Nếu chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện để đạt tới mục đích giải phóng dân tộc, thì sau khi đạt được mục đích, có thể loại bỏ phương tiện, nhất là khi mà phương tiện đó không còn hữu ích nữa. Càng cần phải vứt bỏ phương tiện đó, khi mà ngày nay nó đang trở thành lực cản, cản trở việc thực hiện các mục đích : độc lập dân tộc, sự hùng cường của quốc gia, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Paris, 21/2/2017
Nguyễn Thị Từ Huy
Nguồn : RFA, 30/03/2017 (nguyenthituhuy's blog)
(1) https://www.diendan.org/tai-lieu/ban-tham-tra-vu-viec-nguyen-ai-quoc-o-quoc-te-cong-san