Chuyến công du của Phó Tổng thống Kamala Harris đến Việt Nam thu hút sự chú ý của nhiều người dân Việt Nam, khi nhà lãnh đạo Mỹ không chỉ gây chú ý khi bày tỏ công khai sự ủng hộ việc nâng cấp quan hệ đối tác song phương Mỹ - Việt hiện nay lên tầng nấc mới, mà còn một lần nữa lên tiếng công kích sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris phát biểu tại họp báo ở Hà Nội hôm 26/8/2021 - AFP
Những ủng hộ đặc biệt dành cho Việt Nam
Phó Tổng thống Harris đã gặp các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam ngày 25/8, tuyên bố ủng hộ nâng tầm mối quan hệ với Việt Nam từ "đối tác toàn diện" lên "đối tác chiến lược" - là sự phân hạng về mặt ngoại giao phản ánh mối quan hệ ngày càng sâu sắc giữa hai nước. Đây là minh chứng mới nhất của chính quyền Biden nhằm tăng cường các liên minh và đối tác ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong nỗ lực chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc.
Phó Tổng thống Harris cho biết Mỹ ủng hộ việc giao thêm cho Việt Nam một tàu tuần tra của Tuần duyên Mỹ để giúp Việt Nam bảo vệ các lợi ích an ninh ở Biển Đông. Những đề nghị của Phó Tổng thống Harris đã nhắm tới việc hỗ trợ "tăng cường an ninh biển" của Việt Nam và đặc biệt bao gồm các chuyến thăm của tàu và hàng không mẫu hạm Mỹ. Tùy thuộc vào sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ, bà Harris đề nghị triển khai một tàu tuần duyên của Cảnh sát biển Mỹ - thuộc hải đội gồm 24 tàu tuần tra, hỗ trợ Việt Nam thực thi pháp luật và các hoạt động chung khác giúp Việt Nam củng cố sức mạnh trên biển.
Bà cũng thông báo về việc khai trương văn phòng khu vực Đông Nam Á của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) tại Hà Nội. Đây là một trong bốn văn phòng cấp khu vực trên toàn cầu và tập trung vào việc hợp tác với các chính phủ khu vực về nghiên cứu và đào tạo để đối phó và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu. Thông báo này được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam đang phải vật lộn với số ca nhiễm COVID-19 tăng cao kỷ lục.
Phó Tổng thống Mỹ thông báo Mỹ sẽ tặng thêm một triệu liều vắc-xin của hãng Pfizer cho Việt Nam, nâng tổng số lượng vắc-xin của Washington viện trợ cho Việt Nam lên sáu triệu liều. Ngoài ra, bà cũng thông báo "sự hỗ trợ về kỹ thuật và chương trình Covid-19" của Mỹ dành cho Việt Nam trị giá 23 triệu USD, nâng tổng số tiền trợ giúp từ đầu dịch tới giờ lên tới gần 44 triệu USD.
Kêu gọi Việt Nam cùng phản đối Trung Quốc
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris kêu gọi Việt Nam tham gia cùng với Mỹ chống lại "lối hành xử bắt nạt" của Trung Quốc ở Biển Đông. Bà phát biểu khi bắt đầu cuộc gặp song phương với Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc : "Chúng ta cần tìm cách gây áp lực và tăng áp lực buộc Bắc Kinh phải tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và phản đối các tuyên bố chủ quyền trên biển quá đáng và đậm chất bắt nạt của họ".
Đây là lần thứ hai trong hai ngày, bà Harris đã trực tiếp "tấn công" Bắc Kinh. Trước đó, ngày 24/8, tại Singapore, bà Harris cáo buộc Bắc Kinh đã ép buộc và có các hành vi đe dọa để hỗ trợ các tuyên bố chủ quyền "trái pháp luật" của Trung Quốc ở các khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông.
Trong cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam, bà Harris cũng đề nghị đề nghị "chống lại ảnh hưởng" của Trung Quốc trong khi không buộc các quốc gia phải lựa chọn đứng về phía nào trong hai cường quốc.
Những thông điệp tích cực
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đã tận dụng chuyến công du Đông Nam Á để củng cố các mối quan hệ chính trị và kinh tế với khu vực. Các nước bạn bè của Washington trong khu vực hẳn sẽ cảm thấy không thoải mái khi phải sống dưới "cái bóng" của Trung Quốc, và đó là điều có thể hiểu được.
Khu vực Đông Nam Á rất quan trọng đối với Trung Quốc. Bắc Kinh luôn coi khu vực này là sân sau của mình.
Đông Nam Á là nơi sinh sống của gần 700 triệu người, nhiều hơn cả dân số của Liên minh Châu Âu (EU) và Mỹ. Nhiều người dân ở khu vực này theo đạo Hồi (Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo đông nhất trên thế giới), điều đó có nghĩa là việc tăng cường hỗ trợ cho các nền kinh tế Đông Nam Á sẽ phải đi một chặng đường dài để giành được thiện chí của người Hồi giáo trong khu vực, những người chiếm 1/4 dân số toàn cầu. Khu vực này cũng là nơi có tầng lớp trung lưu đang phát triển với mức độ thâm nhập Internet ngày càng tăng, khiến tiềm năng đầu tư - đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ - là rất lớn. Các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ ở Đông Nam Á đã vượt qua đại dịch và có thể thu hút các mức đầu tư như thời kỳ trước năm 2020 ; các khoản đầu tư từ 50-100 triệu USD đã tăng lên mức kỷ lục là 1,1 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2020. Mức tăng trưởng này không có dấu hiệu chậm lại. Các công ty trong khu vực như Dialpad - đối thủ cạnh tranh với Zoom - không chỉ đang phát triển mạnh mà còn tích cực giành thị phần từ các đối thủ nổi tiếng hơn.
Sau khi rút quân khỏi Afghanistan, dường như Mỹ và các đồng minh không còn hứng thú với việc can thiệp quân sự. Để duy trì nền tảng đạo đức cao và ảnh hưởng toàn cầu, phương Tây sẽ phải thay thế các hành động quân sự bằng các hành động tài chính, thay thế xe tăng bằng các tấm séc, và thay thế các tướng lĩnh bằng các nhà đầu tư mạo hiểm. Thay vì là "cảnh sát của thế giới", Mỹ và các đồng minh có thể trở thành các nhà đầu tư của thế giới. Điều này sẽ thách thức ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và làm dịu đi cảm giác bị phản bội ở nhiều quốc gia có đa số người Hồi giáo sinh sống thời kỳ hậu Afghanistan, đồng thời thừa nhận một thực tế, đó là thế hệ vốn đã bị vắt kiệt sức bởi cuộc chiến chống khủng bố đã không còn hào hứng tham gia các cuộc đối đầu quân sự nữa.
Mặc dù thực tế là có gần 42.000 công ty của Mỹ xuất khẩu sang Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhưng Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN trong năm 2020. Trung Quốc cũng là một bên tham gia của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), trong đó bao gồm cả Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand, kết nối 30% dân số thế giới. Trong khi đó, nước Mỹ dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump đã rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hiện TPP vẫn được duy trì dưới tên gọi khác là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nhưng không có sự tham gia của Mỹ.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris và Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long tại một họp báo ở Singapore hôm 23/8/2021. AFP
Khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc, các mức thuế quan thường có tác dụng làm giảm xuất khẩu vì các quốc gia bị áp thuế cũng sẽ "ăn miếng trả miếng". Thâm hụt thương mại của Mỹ gần đây đã đạt mức kỷ lục. Các biện pháp của Mỹ chống lại các công ty như Huawei đã khuyến khích mối quan hệ Đài Loan-Trung Quốc gia tăng.
Điều quan trọng nhất là bằng cách đầu tư vào khu vực, Mỹ có thể tách chuỗi cung ứng của mình khỏi Trung Quốc. Sự phụ thuộc vào Trung Quốc đang khiến các công ty của Mỹ phải tranh giành nguồn chất bán dẫn, đồng thời khiến họ phải hứng chịu các cuộc tấn công mạng ngày càng gia tăng. Không có gì ngăn cản Indonesia, Việt Nam hoặc Thái Lan sản xuất theo tiêu chuẩn giống như các nhà sản xuất ở Đài Loan hoặc Thâm Quyến. Trên thực tế, họ có thể làm điều đó với chi phí hiệu quả hơn. Việt Nam là nền kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN trước đại dịch, với chi phí nhân công chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc. Những nhà đầu tư nào ủng hộ các nền kinh tế như thế này trong hành trình của họ thì chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều "phần thưởng" - không chỉ về mặt tài chính mà còn về mặt chính trị.
Chúng ta biết rằng đầu tư và thương mại có thể có tác động chính trị mạnh mẽ hơn hành động quân sự. Kế hoạch Marshall của Mỹ sau Chiến tranh Thế giới II đã tránh khỏi lực hút của Liên Xô. Đầu tư vào Đông Nam Á có thể tạo ra một vùng đệm tương tự chống lại hai mối nguy song hành là chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Cả hai mối nguy này sẽ được kích động bởi cuộc rút quân của Tổng thống Mỹ Joe Biden khỏi Afghanistan.
Bình Nguyên
Nguồn : RFA, 26/08/2021
Đại sứ quan Mỹ tại Hà Nội ngày 27/5 vừa qua đã tổ chức buổi thảo luận trực tuyến cùng diễn giả đặc biệt Bonnie Glaser, Cố vấn Cao cấp về Châu Á và Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Washington DC. Chủ đề của buổi thảo luận là "An ninh khu vực và Biển Đông trong thời đại Covid-19".
Poster giới thiệu buổi thảo luận trên facebook của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội
Trong buổi thảo luận, bà Glaser khẳng định Covid-19 không làm Trung Quốc thay đổi chính sách trên Biển Đông.
Chuyên gia Mỹ nhận định Trung Quốc hiện tại không hành động khác thường, chỉ đơn giản là họ thấy thời cơ để đẩy mạnh hoạt động nhằm tìm kiếm lợi ích riêng và đây không phải là lần đầu. Trong quá khứ, nước này từng nhiều lần ngang ngược đưa ra yêu sách lãnh thổ khi thấy các điều kiện trong khu vực và quốc tế thuận lợi cho mình.
Bà Glaser giải thích : "Khi thấy điều kiện thuận lợi, Trung Quốc sẽ tiến tới. Ngược lại, họ sẽ tạm ngừng và củng cố lại vị trí. Sau đó, họ sẽ lại lần tới khi nhận thấy thời cơ".
Cũng theo bà Glaser, hoạt động xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp giúp Trung Quốc duy trì hiện diện quân sự liên tục trên biển Đông để từ đó, hỗ trợ chiến dịch dọa nạt, can thiệp vào các hoạt động khác nhau của các nước trong khu vực, từ đánh bắt thủy sản đến thăm dò khai thác năng lượng.
Bà cũng lưu ý việc Trung Quốc gần đây đặt tên cho 25 đảo, đá, rạn san hô và 55 thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông bởi đây là lần đầu tiên kể từ năm 1983, Trung Quốc đặt tên cho các thực thể địa lý như vậy.
Bà Glaser nhận định : "Trung Quốc từng đặt tên cho các cấu trúc vào năm 1983 và bây giờ mới đặt lại, đây là điều khá bất thường. Họ đã chuẩn bị từ trước và đến bây giờ công bố thêm".
Bà Glaser cho biết thêm là Bắc Kinh có hai mục tiêu lớn, do Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra ở Đại hội Đảng lần thứ 19 năm 2017, với hai cột mốc thời gian là năm 2035 và năm 2049.
Theo đó, tới năm 2035, Trung Quốc muốn đạt mục tiêu trở thành nhà nước xã hội chủ nghĩa, trở thành quốc gia hàng đầu thế giới trong lãnh vực đổi mới, gia tăng quyền lực "mềm", và hoàn tất hiện đại hóa quân đội.
Tới năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tên chính thức của Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới muốn trở thành "một quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại và mạnh mẽ", có ảnh hưởng rất lớn trên trường quốc tế, và có quân đội hùng mạnh nhất thế giới.
Trả lời câu hỏi của nhật báo Người Việt là "Liệu Trung Quốc và Mỹ sẽ đối đầu trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông, cùng lúc có những sự kiện liên quan đến Đài Loan và Hồng Kông ?". Bà Glaser đã khẳng định : "Trung Quốc muốn thắng Mỹ trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông, nhưng lại không muốn đối đầu quân sự. Tôi tin là như vậy".
Bà phân tích : "Nếu xảy ra xung đột với Mỹ, Trung Quốc sẽ bị thiệt hại nhiều và không thể đạt được các mục tiêu quốc gia đề ra, cũng như xây dựng một sự đoàn kết dân tộc. Thành ra, Trung Quốc muốn thắng và không muốn đối đầu. Theo tôi nghĩ, Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục sử dụng lực lượng tàu bè bán quân sự hoạt động trên Biển Đông để không khiêu khích Hoa Kỳ làm cho Washington phải sử dụng đến vũ lực".
Tức là Trung Quốc sẽ cố gắng không đụng độ với Hoa Kỳ, mà "từ từ" thực hiện các ý đồ của họ.
Bà Glaser nói rằng, nếu có một vụ đụng độ xảy ra, chắc chắn sẽ có một cuộc khủng hoảng chính trị, nhưng bà "không tin căng thẳng giữa hai bên sẽ tăng" và "hai bên sẽ không để tình hình căng thẳng thêm".
Học giả Bonnie Glaser trong buổi hội thảo do Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tổ chức
Về phía Hoa Kỳ, bà Glaser nhận định Washington cũng không muốn có cuộc đối đầu với Bắc Kinh. Hoa Kỳ muốn giải quyết các tranh chấp và bất đồng với Trung Quốc một cách hòa bình, qua đối thoại và thương thuyết.
Theo chuyên gia Glaser, trong nhiều năm, chính quyền Tổng thống Barack Obama và bây giờ là chính quyền Tổng thống Donald Trump đã thể hiện rất rõ chính sách của Mỹ với Biển Đông, đó là cần "đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực theo luật pháp quốc tế". Theo đó, các lực lượng của Mỹ sẽ "đi vào các vùng biển và vùng trời với quyền tự do được luật pháp quốc tế cho phép".
Bà Glaser nói thêm : "Chính sách của Mỹ chú trọng nhiều hơn đến việc bảo vệ cũng như củng cố các quyền hàng hải ở trong khu vực này, quyền hợp pháp để phát triển năng lượng, đánh bắt hải sản tại những vùng biển được luật pháp quốc tế cho phép, đồng thời cho phép các quốc gia thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, thể hiện tiếng nói và các quyền của mình".
Chuyên gia Glaser khẳng định nhiều tàu và máy bay Mỹ đã đến Biển Đông để thể hiện với Trung Quốc rằng, "Mỹ quan tâm đến khu vực này và đảm bảo các quốc gia được thực thi các quyền hợp pháp trong khu vực". Bà Glaser lấy ví dụ về việc tàu Mỹ đã đi qua khu vực tàu khoan dầu của Malaysia hoạt động tại Biển Đông – nơi bị tàu Trung Quốc quấy rối. Điều đó là tín hiệu thể hiện Mỹ bày tỏ quan ngại và Mỹ không muốn chứng kiến những hoạt động quấy rối như vậy.
Trong buổi thảo luận, chuyên gia Mỹ đã trả lời rất rõ ràng câu hỏi Việt Nam có nên và có thể nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ thành quan hệ đối tác chiến lược, trong khi luôn tuyên bố trung thành với chính sách ‘4 không’.
Bà cho hay : "Việt Nam không phải là nước duy nhất có chính sách ‘không liên lết với nước này để chống nước kia’. Nhiều nước trên thế giới cũng có chính sách tương tự. Mỗi nước phải tự xác định đi theo lập trường nào. Bạn có thể thiết lập quan hệ quân sự với nước này, và thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với nước kia, chẳng hạn với Mỹ, đó là một ví dụ, mà không phải chống lại Trung Quốc".
"Việt Nam có thể cho phép lực lượng cứu trợ của Mỹ hoạt động tại nước mình khi có thảm họa thiên nhiên, hoặc tham gia diễn tập quân sự với Mỹ. Những hoạt động này cũng gửi tín hiện tới Trung Quốc về các lo ngại chung mà các nước chia sẻ, như về sự bắt nạt của Trung Quốc với Việt Nam và các nước khác trong việc khai thác năng lượng ở vùng đặc quyền kinh tế trên Biển Đông".
"Mỗi nước cần tìm ra cho mình một ‘khu vực an toàn’ để ra tín hiệu rằng không liên kết với nước này để chống nước kia, nhưng vẫn có thể hợp tác cùng các nước khác để bảo vệ lợi ích của mình. Tôi cho rằng điều này cũng đã được nhìn thấy trên thực tế, qua việc Mỹ gửi tàu sân bay thăm cảng ít nhất hai lần tới Việt Nam vừa qua. Việt Nam có thể xem xét mở rộng hoạt động này với Mỹ. Vì đó là tín hiệu gửi tới Trung Quốc rằng Việt Nam vẫn có lựa chọn khác, nếu Việt Nam thực sự muốn tác động và thay đổi thái độ của Trung Quốc".
Tại buổi hội thảo, một câu hỏi khác được đặt ra là "bao giờ Trung Quốc và ASEAN hoàn tất bộ quy tắc ứng xử Biển Đông".
Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN – Trung Quốc về thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) lần thứ 18 diễn ra ngày 15/10/2019 tại Thành phố Đà Lạt (Tỉnh Lâm Đồng)
Bà Glaser giải thích : "Tôi không tin là Trung Quốc muốn mau chóng hoàn tất việc này trong năm 2021, mà vấn đề có thể kéo sang tới năm 2022. Một lý do khách quan nữa là Việt Nam hiện đang là chủ tịch luân phiên ASEAN, và nhiều nước hy vọng Hà Nội sẽ đẩy mạnh việc này, nhưng vì Covid-19 xảy ra, rất khó cho Việt Nam tổ chức hội nghị thượng đỉnh ASEAN và vì thế rất khó để vận dụng về mặt ngoại giao để hoàn tất bộ quy tắc này".
"Trong khi đó, các nước trong khối ASEAN vẫn chưa đồng thuận về việc này, cộng với sự trở ngại của Covid-19. Về phía Trung Quốc, chắc chắn họ sẽ không đồng ý để nước khác ngoài khu vực vào khai thác tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa, nếu các quốc gia ASEAN cảm thấy chủ quyền của họ không được bảo đảm, chưa chắc họ đồng ý", diễn giả Bonnie Glaser nói thêm. "Thành ra, nếu không có một bộ quy tắc ứng xử xứng đáng, được cả mọi bên hài lòng, vậy thì, thà không có còn hơn".
Bà Bonnie Glaser đánh giá rằng việc Việt Nam trở thành Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc năm 2020 là cơ hội tốt để đương đầu với Trung Quốc trên Biển Đông. Tuy nhiên có một số bất lợi mà Việt Nam cần vượt qua để phát huy tốt vai trò của mình do đây là thời điểm dịch Covid-19 đang hoành hành.
Bà nói : "Tôi hi vọng Việt Nam sẽ đóng vai trò của mình để củng cố một ASEAN mạnh mẽ hơn, để thúc đẩy một số quan điểm, và đưa đối thoại COC quay trở lại, để đảm bảo rằng có một số phản ứng chống lại một số đòi hỏi của Trung Quốc, chống lại một số ngôn ngữ mà Trung Quốc cố gắng đưa vào COC có thể gây bất lợi cho lợi ích của các quốc gia ASEAN thành viên".
Một câu hỏi khác thu hút sự quan tâm của dư luận đã được đặt ra cho học giả Mỹ là : Bắc Kinh muốn gây ảnh hưởng tới Việt Nam trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 13 ?
Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng họp phiên đầu tiên, dưới sự chủ trì của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện ngày 07/01/2019
Bà Bonnie Glaser cho hay bà không phân tích nội bộ chính trị của Việt Nam, nhưng bà tin rằng "Trung Quốc luôn muốn, và ngày càng cố gắng gây ảnh hưởng đến nội bộ chính trị của các nước khác".
"Ví dụ tốt nhất là Úc. Chúng ta có thể thấy Trung Quốc đã rất kiên quyết trong việc can thiệp vào xã hội và chính trị nước này. Trong đó vài năm trước, Trung Quốc đã dùng tiền để xây đắp quan hệ với các chính trị gia trong Quốc hội Úc. Từ đó, Úc đã thông qua Đạo luật cấm các khoản đóng góp tài trợ chính trị từ nước ngoài có hiệu lực từ đầu tháng 01/2019. Đó chỉ là một ví dụ. Chúng ta có thể nhìn thấy vô vàn các ví dụ như vậy".
"Covid-19 đã thực sự cho thấy một sự quyết tâm mới của Trung Quốc trong việc dùng tin giả và chính sách ngoại giao ‘chiến binh sói’ để buộc tội các quốc gia khác. Điều này thực sự đáng kinh ngạc, nó vốn không phải là điều chúng ta thường thấy trong quá khứ. Trung Quốc đã rất nỗ lực truyền bá các tin giả như ai tạo ra virus, ai là người khởi xướng, thậm chí tới mức họ còn truyền tin rằng Pháp bỏ mặc cho người dân chết trong nhà thương. Bằng cách nào đó họ nghĩ rằng những thông tin này phục vụ cho lợi ích của họ".
"Do đó, chúng ta đang thấy các cách sáng tạo hơn của Trung Quốc trong nỗ lực can thiệp vào nội bộ chính trị Việt Nam, có thể qua truyền thông, qua can thiệp vào Facebook, Twitter… Việt Nam nên dự đoán trước những gì Trung Quóc có thể làm, và cố gắng xây dựng các rào chắn ở bất cứ lĩnh vực nào có thể để đảm bảo hệ thống chính trị đủ sức bền, đủ sức chịu đựng, và không dễ bị tổn thương từ các hoạt động can thiệp chính trị của Trung Quốc".
Trung Kiên
Nguồn : Thoibao.de, 31/05/2020
Giới chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế dự báo trong năm 2020, Việt Nam sẽ ngả về Mỹ nhiều nhất trong số các nước Châu Á, đồng thời, đây cũng là năm mà Biển Đông là nơi có nguy cơ cao nhất sẽ xảy ra "sự cố" ở Châu lục.
Ban diễn giả về chính trị-giới lãnh đạo tại hội thảo Dự báo về Châu Á 2020 của CSIS, 22/1/2020
Hai dự báo nêu trên được đưa ra tại hội thảo "Dự báo về Châu Á 2020" do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tổ chức ở thủ đô Washington, Mỹ, hôm 22/1.
Bà Amy Searight, Cố vấn cấp cao kiêm Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc CSIS, điểm lại thực tế trong những năm qua cho thấy Việt Nam liên tục có hướng đi tích cực trong hợp tác và đối thoại với Mỹ, cả về ngoại giao và quốc phòng.
Trên cơ sở đó, Việt Nam "nổi lên là đối tác chiến lược mới" của Mỹ ở Châu Á, dù hai nước có xuất phát điểm thấp do những di sản chiến tranh xảy ra giữa hai nước cách đây nửa thế kỷ, tiến sĩ Searight nói.
Điều đáng chú ý, theo nữ tiến sĩ, người cũng từng là cố vấn cấp cao tại Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ, là năm nay Mỹ và Việt Nam sẽ kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ, một dịp thích hợp để lãnh đạo hàng đầu của 2 nước thăm lẫn nhau, có thể đưa quan hệ 2 nước lên một tầm mức cao hơn "nếu Việt Nam sẵn sàng".
Đối tác chiến lược Mỹ-Việt tùy vào Hà Nội
Một điều trùng hợp là năm nay Việt Nam nắm chức chủ tịch Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và là chủ nhà của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào mùa thu, bà Searight lưu ý.
"Sẽ rất đáng chú ý là liệu Tổng thống Mỹ có đến dự hội nghị hay không. Hội nghị sẽ diễn ra sau bầu cử tổng thống ở Mỹ khoảng 10 ngày đến 2 tuần. Như vậy, có sự chủ ý về thời gian với hy vọng Tổng thống Trump sẽ đến", bà Searight nói.
Năm 2020 cũng là thời điểm bản lề trước Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam nên quốc gia này đang "tích cực làm việc", cân nhắc cách thức "đa dạng hóa" quan hệ đối ngoại, theo nữ tiến sĩ.
Tiến sĩ Amy Searight thuộc CSIS tại hội thảo hôm 22/1/2020 ở Washington, Mỹ
"Vì vậy, nhiều khả năng là Hà Nội quan tâm đến việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, trùng hợp với một chuyến thăm của tổng thống Mỹ đến Việt Nam, hoặc một chuyến thăm của nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam đến Mỹ. Nếu không phải là Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, nhân vật quyền lực nhất, thì có thể là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ thăm Washington năm nay",Cố vấn cấp cao kiêm Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc CSIS nói.
Trả lời câu hỏi đến từ cử tọa về khả năng hai nước sẽ nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược trong năm 2020, nữ chuyên gia CSIS, người từng là Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng chuyên trách Nam và Đông Nam Á, nói quyết định chủ yếu nằm ở phía Việt Nam.
"Tôi nghĩ Mỹ sẽ hoan nghênh ý tưởng nâng cấp quan hệ từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược", tiến sĩ Searight nói, "Hà Nội phải cân nhắc các lựa chọn. Hà Nội rất thận trọng trong việc cân bằng các mối quan hệ với các đối tác, đặc biệt là Trung Quốc. Vì vậy, họ phải cân đong đo đếm phản ứng bực bội của Trung Quốc".
Ngoài ra, bà Searight lưu ý đến một vấn đề "tế nhị" trong quan hệ Mỹ-Việt, đó là sự mất cân bằng trong kim ngạch thương mại song phương.
"Tổng thống Trump đã đưa Việt Nam vào tầm ngắm, do Việt Nam rất thành công khi buôn bán với Mỹ và do ảnh hưởng từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Như vậy, tôi nghĩ, Hà Nội phải cân đối xem có mạo hiểm không khi nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt đúng lúc chính quyền ông Trump có thể đang ‘truy đuổi’ Việt Nam về mặt thương mại", nữ tiến sĩ phát biểu.
Thay vì các diễn giả đọc các tham luận, hội thảo của CSIS diễn ra theo hình thức là ban tổ chức đưa ra một loạt câu hỏi trắc nghiệm về từng chuyên đề gồm chính trị-giới lãnh đạo, an ninh, và kinh tế-thương mại. Cả nhóm diễn giả lẫn cử tọa ngay lập tức bình chọn các phương án trả lời qua thiết bị không dây, sau đó, các diễn giả phát biểu để phân tích hoặc phản biện sâu hơn.
Quan hệ Mỹ-Việt được nêu ra trong phần thảo luận sau khi ban tổ chức đặt câu hỏi "Nước nào sẽ có quan hệ xấu đi với Mỹ trong năm 2020" và đa số người tham gia hội thảo bình chọn "Trung Quốc".
Việt Nam ngả về Mỹ nhiều nhất
Câu hỏi "Nước nào sẽ liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ trong năm 2020" có đáp án được bình chọn cao nhất là "Việt Nam", với 55% số người dự hội thảo. Nước đứng thứ 2 là Úc với 29% và Singapore thứ 3, 10%.
Trong số các nước Châu Á, Việt Nam được dự báo sẻ ngả về Mỹ nhiều nhất trong năm 2020
Nhà nghiên cứu Greg Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á thuộc CSIS, nói đáp án được đa số bình chọn không có gì gây ngạc nhiên nếu xét đến những hành xử của Trung Quốc trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông kéo dài tổng cộng 4 tháng trong năm 2019, và nếu Trung Quốc tiếp tục "đối xử" với Việt Nam như vậy.
Tuy nhiên, ông Poling, tác giả một số cuốn sách về Biển Đông, quan hệ Mỹ-Việt và an ninh Châu Á, nhận định rằng Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ vẫn cố gắng duy trì quan hệ "êm ả" với Trung Quốc khi Việt Nam tiến tới có sự chuyển giao lãnh đạo vào năm 2021, năm có đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Biển Đông không chỉ là tác nhân đưa Việt Nam xích lại với Mỹ hơn nữa mà cũng là nơi dễ xảy ra "sự cố" nhất ở Châu Á trong năm 2020, theo kết quả bình chọn của đa số khi trả lời câu hỏi "Sự cố an ninh lớn nhiều khả năng sẽ xảy ra ở đâu ?"
Biển Đông có nguy cơ lớn nhất
Trung Quốc liên tiếp có những hành động gây bất bình với các nước có tranh chấp ở Biển Đông và "sự cố" có thể xảy ra "ngay ngày mai", chuyên gia Poling nói.
Sau 3 năm xây đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo đó, Trung Quốc nay có khả năng triển khai đều đặn các tàu tuần duyên và hải quân, liên tục tiến hành "quấy nhiễu" hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam và Malaysia, cũng như ngăn cản hoạt động đánh bắt cá của các nước, trong khi bảo vệ các tàu cá Trung Quốc, ông Poling điểm lại tình hình thực tế.
Chuyên gia Greg Poling, CSIS, theo dõi bình chọn của cử tọa về khả năng xảy ra sự cố ở Biển Đông tại hội thảo hôm 22/1
Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á thuộc CSIS cho rằng, tình hình đó có sự tham gia của "hàng trăm" cá nhân và tàu thuyền, đổ thêm dầu vào lửa là tinh thần dân tộc, cho nên bất cứai trong số đó cũng có thể là "tia lửa" làm bùng lên đụng độ.
Cũng liên quan đến Biển Đông, một câu hỏi khác được ban tổ chức đặt ra là trong năm 2020, sự việc gì nhiều khả năng sẽ diễn ra nhất. Đa số người có mặt tại hội thảo của CSIS, chiếm 50%, chọn đáp án là Trung Quốc "ngăn chặn thành công" hoạt động thăm dò dầu khí của các bên tuyên bố chủ quyền khác.
Nhà nghiên cứu Poling đồng ý với quan điểm của đa số cử tọa. Trung Quốc trong hàng chục năm qua luôn phản đối các nước khác thăm dò dầu khí ở Biển Đông, trong những năm gần đây, họ ngăn chặn các nước trong vùng tiến hành hoạt động thăm dò mới, ông nói.
Tuy nhiên, đáng chú ý là trong 18 tháng gần đây, Trung Quốc có sự thay đổi hoàn toàn về cách tiếp cận của họ, đó là đẩy mạnh việc "quấy rối" hoạt động thăm dò tại các lô đã có từ trước, như các dự án của Shell và Rosneft liên doanh với Việt Nam, và cũng có bằng chứng cho thấy Trung Quốc làm điều tương tự với các dự án của Malaysia, theo lời ông Poling.
"Trong năm ngoái, Việt Nam đã đối đầu với Trung Quốc ở vùng biển, đổ nguồn lực và nỗ lực vào để phô diễn sức mạnh. Việt Nam có thể thắng trong một vài lần chạm trán, nhưng không thể thắng trong ‘cuộc chiến’ này, nếu xét đến lực lượng của Trung Quốc. Việt Nam không thể huy động lực lượng để đối phó với Trung Quốc trong mọi lần Trung Quốc ra tay hành động. Trừ khi có sự thay đổi lớn nào đó, sẽ không ai ngoài Trung Quốc có thể khoan thăm dò ở vùng có tranh chấp trên Biển Đông", ông Poling đưa ra nhận định.
Trung Quốc được dự báo sẽ ngăn chặn thành công dự án mới của nước khác thăm dò dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020
Mỹ bị lôi kéo vào "sự cố" ở Biển Đông ?
Trả lời câu hỏi của phóng viên VOA liệu Mỹ sẽ có hành động gì nếu "sự cố" xảy ra ở Biển Đông, chuyên gia Poling cho rằng nếu là đụng độ giữa Trung Quốc với Việt Nam, "Mỹ sẽ lên án ồn ào song sẽ không có gì khác nhiều hơn như vậy".
Nhưng nếu "sự cố" xảy ra giữa Trung Quốc và Philippines, nước đồng minh có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ, Washington sẽ có nhiều động lực hơn để giúp đỡ, "có thể là tăng cường các trang thiết bị trên chiến trường, dẫn đến việc Trung Quốc phải rút lui", ông Poling nói.
Đến nay, Mỹ và Việt Nam đã làm sâu sắc hơn mối quan hệ về quốc phòng với việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương năm 2016, viện trợ cho Việt Nam một số tàu tuần duyên cỡ lớn, và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm Việt Nam lần gần đây nhất là vào tháng 11/2019. Nhưng giữa hai nước mới chỉ có Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng ký hồi năm 2011.
An Tôn
Nguồn : VOA, 23/01/2020
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo mới lên tiếng như vậy nhân dịp Hoa Kỳ và Việt Nam khởi động các hoạt động đánh dấu một phần tư thế kỷ kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao mà phía Washington nói là "dựa trên lợi ích chung, sự tôn trọng lẫn nhau và quyết tâm táo bạo để vượt qua quá khứ và hướng tới tương lai".
"Nhân dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ đối tác của chúng ta vào năm 2020, chúng tôi tái khẳng định cam kết ủng hộ một Việt Nam vững mạnh và độc lập cũng như một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng", ông Pompeo nói trong một đoạn video được công bố hôm 18/12, trong chuyến thăm Việt Nam bắt đầu từ ngày 16/12 của ông David Stilwell, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương.
Nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ còn nói thêm rằng kể từ khi hai quốc gia cựu thù chính thức bình thường hóa quan hệ năm 1995, Mỹ "tự hào đã và đang đóng góp cho sự phục hồi kinh tế phi thường của Việt Nam".
Ông Pompeo cho biết rằng các công ty Mỹ "đang tích cực hỗ trợ bằng cách đầu tư hàng tỷ đôla vào Việt Nam", và rằng "trong hai thập kỷ qua, thương mại song phương đã tăng trưởng đáng kinh ngạc ở mức 7.000%", từ mức khoảng 450 triệu đôla lên mức 60 tỷ đôla.
Thông điệp của Ngoại trưởng Pompeo được đưa ra ít lâu sau khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ thông báo áp thuế lên tới hơn 456% đối với các sản phẩm thép từ Việt Nam xuất vào Mỹ mà Washington cho là có sử dụng nguyên liệu xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan.
"Các bạn biết đấy, trong quá khứ, chúng ta từng là đối thủ trên chiến trường. Nhưng ngày nay, hợp tác là nền tảng trong mối quan hệ an ninh giữa hai nước", Ngoại trưởng Pompeo nói.
"Mặc dù vẫn còn tồn tại thách thức trong mối quan hệ của chúng ta, song việc hai nước có thể thảo luận một cách trung thực khi xảy ra bất đồng chính là sự xác nhận về tiềm năng hợp tác của chúng ta".
Trong bài phát biểu trước các quan chức hai nước tại Hà Nội nhân chuyến thăm kéo dài hai ngày, trợ lý của Ngoại trưởng Pompeo, ông Stilwell cũng nói rằng hiện Mỹ và Việt Nam "là những đối tác tin cậy với tình bạn dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau".
"Quá trình này đã không hề dễ. Nó không phải ngẫu nhiên. Đó là kết quả lao động chăm chỉ và tầm nhìn của rất nhiều người ở cả hai phía, những người tin tưởng vào triển vọng hòa bình", ông Stilwell nói, cho biết thêm rằng "thành quả của những đóng góp không mệt mỏi đã nuôi dưỡng một tình hữu nghị hiển hiện khắp Việt Nam mà nhìn đâu tôi cũng thấy".
Ông nói tiếp rằng hai bên "đã xây dựng lòng tin" giữa quân đội hai nước và lấy ví dụ về việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí cho Việt Nam và chuyến thăm đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ kể từ khi chiến tranh kết thúc.
Ông Stilwell cho rằng sự hợp tác giữa Hà Nội và Washington "góp phần tạo nên một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, với đặc điểm là tôn trọng chủ quyền và độc lập của tất cả các quốc gia, bất kể quy mô, sự hợp tác và sự tôn trọng các quy tắc, không có sự bá quyền hay chân lý thuộc về kẻ mạnh".
Hồi giữa tháng Mười, phát biểu trong cuộc điều trần trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, ông Stilwell có nhắc tới việc Trung Quốc "xách nhiễu" Việt Nam gần Bãi Tư Chính.
"Trong khi tuyên bố cam kết với chính sách ngoại giao hòa bình, thực tế là các lãnh đạo Trung Quốc, thông qua hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân, các cơ quan thực thi pháp luật và lực lượng dân quân trên biển, tiếp tục đe dọa và bắt nạt các nước khác", ông Stilwell nói, đồng thời tuyên bố rằng Mỹ sẽ "bảo đảm quyền tự do hàng hải", vốn từng khiến Trung Quốc nhiều lần phản ứng giận dữ sau khi tàu của Hoa Kỳ tiến gần tới các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh xây dựng trên Biển Đông.
Phát biểu trước các quan chức nước chủ nhà ở Hà Nội, ông Stilwell còn trực tiếp gửi thông điệp với "tất cả các bạn trẻ đang lắng nghe", nói rằng "với sự năng động, tài năng, thôi thúc và khát vọng của các bạn, Việt Nam có mọi thứ để vươn lên và thành công".
"Vận mệnh nằm trong tay các bạn. Đây là thời điểm của các bạn. Và khi theo đuổi tương lai mà các bạn muốn có, tôi muốn các bạn biết rằng nước Mỹ sẽ luôn ở bên các bạn như một đối tác và một người bạn", Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương nói.
Về phía Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn được trang tin Zing News dẫn lời nói rằng "25 năm không phải là thời gian dài", nhưng "quan hệ hai nước phát triển vượt bậc cả về tầm mức lẫn chiều sâu", "từ chỗ là cựu thù trong chiến tranh, hai nước đã trở thành bạn bè và hơn thế nữa đã trở thành đối tác toàn diện của nhau".
Đại sứ quán Mỹ hôm 18/12 cũng đã công bố mẫu logo sẽ được cả Đại sứ quán Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam sử dụng để kỉ niệm 25 năm thiết lập quan hệ song phương vào năm 2020.
Hoạ sĩ thiết kế Trần Hoài Đức, người có tác phẩm được lựa chọn từ gần 100 tác phẩm dự thi, được cơ quan ngoại giao Mỹ ở Việt Nam trích lời nói : "Logo là hình chim bồ câu đang lướt bay với tạo hình đặc biệt mang hình ảnh cờ hai Quốc gia Việt Nam – Hoa Kỳ. Hình ảnh tổng thể tượng trưng cho mối quan hệ bền vững được thiết lập trên giá trị của hòa bình mà cả hai quốc gia đang hướng tới".
Viễn Đông
Nguồn : VOA, 18/12/2019
******************
Mỹ - Việt Nam ra mắt biểu tượng kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao 1995 -2020 (RFA, 18/12/2019)
Việt Nam - Hoa Kỳ vừa tổ chức Lễ ra mắt biểu tượng kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2020), tại Hà Nội hôm 18/12.
Việt Nam - Hoa Kỳ vừa tổ chức Lễ ra mắt biểu tượng kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2020), tại Hà Nội hôm 18/12. Courtesy U.S. Embassy in Hanoi
Thông tin cho biết chủ trì lễ về phía Việt Nam là Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn và phía Hoa Kỳ là Trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell.
Logo kỷ niệm 25 năm quan hệ Việt - Mỹ của tác giả họa sĩ Trần Hoài Đức, được lựa chọn từ 100 logo gửi đến cuộc thi thiết kế logo toàn quốc do Đại sứ quán Mỹ tổ chức vào mùa xuân 2019. Logo là hình chim bồ câu đang bay, thể hiện tầm cao mới trên hành trình hòa bình, với đôi cánh là hình cờ hai nước Việt - Mỹ.
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn khi phát biểu tại buổi lễ cho biết, có thể thấy 25 năm không phải là thời gian dài, song những gì Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được thực sự rất ấn tượng.
Về phía Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ David Stilwell, khi phát biểu ở lễ khởi động kỷ niệm 25 năm quan hệ Việt-Mỹ cũng cho biết ‘Thành quả của những đóng góp không mệt mỏi đã nuôi dưỡng một tình hữu nghị hiển hiện khắp Việt Nam mà nhìn đâu tôi cũng thấy’.
Ông David Stilwell cũng khẳng định chủ trương của Hoa Kỳ trong việc duy trì an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thương mại không bị cản trở tại Biển Đông ; khẳng định Hoa Kỳ ủng hộ giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) ; tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý, thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố Ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) và sớm ký kết Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông (COC).
Trong video đăng trên tài khoản Facebook của Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam nhân sự kiện này hôm 18/12, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cam kết ủng hộ một Việt Nam vững mạnh, độc lập khi hai nước sắp kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Ông cũng ca ngợi 'bước tiến lịch sử' quan hệ Việt - Mỹ : ‘Năm 2020 đánh dấu 1/4 thế kỷ từ khi Mỹ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao. Đó là một bước tiến mang tính lịch sử. Bước đi trước hết đòi hỏi chúng ta phải đối mặt với di sản chiến tranh đen tối giữa hai nước’.
Nếu chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn "đoàn cấp cao" để công du Mỹ trong thời gian tới, trên cơ sở chuyến đi tiền trạm của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ hồi cuối tháng Sáu, 2018, nhiều khả năng ông Trọng sẽ phải trả lời Tổng thống Donald Trump về vụ công an bắt và khởi tố sinh viên Mỹ gốc Việt Will Nguyễn.
Anh Will Nguyễn khi bị an ninh chìm bắt đưa lên xe cảnh sát với khuôn mặt đầy máu. (Hình : Facebook Lê Nguyễn Hương Trà)
Bản sao của Bắc Hàn
Ba tuần sau vụ bắt giam anh Will Nguyễn tính từ ngày 10 tháng Sáu, vụ việc này vẫn còn nguyên cái gai trong quan hệ Mỹ-Việt.
Tất cả những gì mà người ta biết về anh, đó là thanh niên này đã tham dự một cách quá nhiệt tình vào cuộc biểu tình ngày 10 tháng Sáu phản đối dự luật Đặc Khu và Luật An Ninh Mạng tại Sài Gòn – hoàn toàn trái ngược với một quy chụp chính trị trên một số trang dư luận viên của đảng và công an cộng sản Việt Nam cho rằng anh Will Nguyễn là thành viên của một tổ chức chính trị và nhiệm vụ của nhân vật này là mang về Việt Nam 1,7 triệu USD để cung cấp cho 12 nhóm biểu tình (?).
Động thái công an ở Sài Gòn – mà chắc chắn phía sau đó phải có sự chỉ đạo của Bộ Công an và do đó vụ việc này mang danh nghĩa "trung ương" chứ không phải địa phương – quyết định phát lệnh khởi tố anh Will Nguyễn đã khiến dư luận ngạc nhiên vì tính chất căng thẳng bất ngờ của vụ này.
Cách đây hai năm, vào tháng Năm, 2016, một người Mỹ gốc Việt là cô Nancy Nguyễn cũng bị công an ở Sài Gòn bắt câu lưu trong khoảng một tuần, có thể do cô liên quan đến cuộc biểu tình bảo vệ môi trường và phản đối Formosa diễn ra vào tháng Năm ấy. Sau thời gian bị câu lưu, cô bị công an Việt Nam trục xuất. Nhưng không có khởi tố và tạm giam.
Còn giờ đây, cái cách công an Việt Nam khởi tố và tống giam anh Will Nguyễn lại khiến cho nhiều người hình dung ra… Bắc Hàn.
Ngay cả việc công an đạo diễn để anh Will Nguyễn "thú tội" trên đài truyền hình, rất nhiều người dân trong nước lại tin đó là một thủ đoạn rất thường có của Bắc Hàn khi bắt giữ và ép cung công dân Mỹ phải thú tội ở Bình Nhưỡng.
Liệu khi khởi tố anh Will Nguyễn, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có muốn dùng vụ việc được hình sự hóa này như một cái cớ để trả treo với chính phủ Hoa Kỳ như Bắc Hàn luôn mưu toan ?
Và nếu có thì trả treo về cái gì ?
Làm khó Mỹ và mặc cả thương mại ?
Có khá nhiều nhu cầu mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang cần đến trong mối quan hệ "tốt đẹp chưa từng có" với Hoa Kỳ – theo cách tuyên rao của Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Ngay trước mắt, việc khởi tố anh Will Nguyễn là một cách "nắn gân" Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ít nhất cũng làm khó cơ quan này và bắt buộc các viên chức ngoại giao Mỹ phải ít nhiều chịu lệ thuộc vào cung cách "lệ làng" của phía Việt Nam.
Khi anh Will Nguyễn còn chưa bị khởi tố, Đại sứ quán Mỹ đã quan tâm đến vụ sinh viên này bị bắt và đã đề nghị phía Việt Nam để được tiếp cận với anh. Đến khi anh bị khởi tố, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chính thức lên tiếng "hết sức quan ngại" và "sự an toàn của ông ấy và sự an toàn của tất cả công dân Mỹ là mối quan tâm hàng đầu đối với Hoa Kỳ", cùng lúc tổ chức tiếp cận lãnh sự với người bị bắt. Còn nhiều nghị sĩ Mỹ đã bắt đầu chiến dịch vận động đòi trả tự do cho anh Will Nguyễn.
Các cơ quan ngoại vụ và công an Việt Nam lại có chuyện để làm, có chuyện để thương thảo và cả "làm mình làm mẩy" với phía Mỹ – đối tượng mà họ luôn cần, bao gồm cả nhu cầu "ra đi tìm đường cứu nước" ở Mỹ, nhưng chưa bao giờ yêu mến.
Nhưng còn có thể có một mục đích thâm sâu và thực dụng hơn nhiều : bắt Tổng thống Trump phải nhượng bộ về thương mại.
Một cách nào đó, ông Trump là một "sát thủ" đối với nền kinh tế và hệ tư tưởng của chế độ cộng sản Việt Nam. Chỉ vài tháng sau khi nhậm chức, ông đã liệt Việt Nam vào danh sách 16 nước "gây hại" cho nền kinh tế Mỹ do Mỹ phải nhập siêu của Việt Nam từ 25 tỷ USD đến 30 tỷ USD mỗi năm.
Đến tháng Mười Một, 2017, ngay vào thời điểm tham dự Hội nghị APEC Đà Nẵng (Hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương), ông Trump đã thẳng thừng tuyên bố nguyên tắc "công bằng và đối ứng" trong quan hệ thương mại giữa Mỹ với các nước, trong đó có Việt Nam.
Chẳng bao lâu sau đó, không chỉ cá ba sa, tôm, mà cả nhôm và thép Việt Nam – mà một phần không nhỏ trong đó mang nguồn gốc Trung Quốc – đã bị Mỹ áp thuế tăng vọt, gấp từ 2 đến 4 lần mức trước đây, khiến cho những mặt hàng này trở nên cực kỳ khó khăn trong việc tìm đường thâm nhập vào thị trường Mỹ. Điều này khiến cho giá trị xuất cảng và xuất siêu của hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm đáng kể, càng khiến tương lai sụp đổ ngân sách của Việt Nam gần hơn bao giờ hết.
Ông Trump sẽ phản ứng ra sao ?
Vụ khởi tố anh Will Nguyễn xảy ra chỉ khoảng một tháng sau sự kiện lần đầu tiên chính phủ Mỹ – được Tổng thống Trump yêu cầu trực tiếp – đã đàm phán thành công với Bình Nhưỡng để Bắc Hàn trả tự do cho ba công dân Mỹ mà trước đó bị bắt vì tội "làm gián điệp". Chi tiết cần chú ý là những công dân này không phải là người Mỹ thuần chủng, mà là người Mỹ gốc Hàn. Điều đó cho thấy nước Mỹ quan tâm một cách khá công bằng đến mọi trường hợp công dân Mỹ, và do đó trường hợp của anh Will Nguyễn cũng nằm trong số đó.
Đó cũng là lý do vì sao mà sau khi anh Will Nguyễn bị công an Việt Nam bắt, ba dân biểu liên bang Hoa Kỳ gồm Alan Lowenthal, Jimmy Gomez và Lou Correa đã điện đàm với Đại sứ Mỹ tại Việt Nam là ông Daniel Kritenbrink để yêu cầu can thiệp cho anh Will Nguyễn được phóng thích. Các nghị sĩ cũng cho biết thêm rằng bước kế tiếp sẽ là "liên lạc với Tổng thống Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo để bày tỏ sự cần thiết phải hành động ngay lập tức ở cấp chính quyền cao nhất để William Nguyễn được trả tự do".
Theo quan điểm của các nghị sĩ này, "việc trả tự do cho anh William Nguyễn là chọn lựa tốt nhất cho chính quyền Việt Nam và để tiếp tục mối quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ".
Chỉ có điều, nếu quả động thái khởi tố anh Will Nguyễn là nhắm đến mục đích mặc cả thương mại với Mỹ, giới chóp bu Việt Nam rất có thể đã bê nguyên não trạng của thời trả treo với Tổng thống Barack Obama để hành xử một cách sai lầm với Tổng thống Donald Trump.
Bởi khác hẳn với thời ông Obama mềm mỏng và nhẫn nhịn mà đã mang lại một kết quả đàm phán nhân quyền không mấy khả quan với Việt Nam trong suốt hai nhiệm kỳ, ông Trump tuy không phải là chính khách có mối quan tâm đặc biệt đến chủ đề nhân quyền, nhưng lại là một nhân vật rất sĩ diện, đề cao thể diện cá nhân và thể diện chính phủ, cứng rắn và hết sức bất thường.
Nói cách khác, nếu giới chóp bu Việt Nam có thể dự đoán được tính cách và phản ứng của Tổng thống Obama và họ đã từng hy vọng có thể dự đoán được một tổng thống tương lai dễ chơi như bà Hillary Clinton, việc ông Trump trở thành tổng thống đã mang lại khá nhiều bất ngờ, phiền toái và khó xử đối với Hà Nội từ đầu năm 2017 đến nay.
Có thêm vụ "Trịnh Xuân Thanh ?"
Vụ khởi tố anh Will Nguyễn lại xảy ra trong bối cảnh nhà nước Đức đang gia tăng sức ép với Việt Nam bằng phiên tòa xử Nguyễn Hải Long – nghi can tham gia vào đường dây "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh". Vụ bắt cóc mà bị Đức tố cáo là do mật vụ Việt Nam thực hiện ngang nhiên ngay tại Berlin vào tháng Bảy, 2017, lại đã trở thành một đầu đề nóng hổi trên mặt báo quốc tế và khiến phần lớn Châu Âu đang cực kỳ cảnh giác với từng động tác "ngoại giao" và "muốn làm bạn với tất cả các nước" của Việt Nam.
Nước Đức lại là đầu tàu của Châu Âu không chỉ về kinh tế mà còn cả chính trị. Mới đây, báo chí Đức cho biết Liên Hiệp Châu Âu (EU) đã cho rằng tương lai của EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Châu Âu) phụ thuộc chủ yếu vào thái độ và hành động của người Đức.
Will Nguyễn bị công an Việt Nam đánh đập đổ máu đầu và bị kéo lê trên mặt đường
Trong bối cảnh đó, người Mỹ chắc chắn không thể bỏ qua những hệ quả đã phát sinh và còn có thể phát sinh thêm từ vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh".
Không thể chắc chắn rằng Tổng thống Trump sẽ không nổi giận về việc chính thể Việt Nam bắt giữ một công dân Mỹ, để vụ việc này sẽ khiến cho quan hệ Mỹ-Việt có thể xấu đi, hoặc xấu nghiêm trọng thời gian tới.
Việc so sánh giữa lời của bà Lê Thị Thu Hằng, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao cộng sản Việt Nam, về "không dùng vũ lực đối với Will Nguyễn" với một clip anh Will Nguyễn bị công an Việt Nam đánh đập đổ máu đầu và bị kéo lê trên mặt đường trước khi bị tống giam được dẫn lại hình ảnh trên các hãng truyền thông lớn của Mỹ như Foxnews, New York Times và báo chí các nước khác, hẳn đã trở thành thuyết minh rõ rệt nhất về một "chế độ xảo trá" được định nghĩa ra sao.
Thậm chí trong tình huống tệ nhất, còn có thể nổ ra một vụ khủng hoảng ngoại giao Mỹ-Việt qua vụ anh Will Nguyễn, gần tương tự cái cách đã nổ ra khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt qua vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 01/07/2018