Lần đầu tiên lên án ‘bắt cóc công dân’ !
Gần hai năm sau phút cảm xúc phát ngôn rất thật lòng ‘nợ công nếu tính đủ thì đã vượt trần’ và ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’ vào đầu năm 2017, tức sau khi đã chính thức ngồi ghế thủ tướng được nửa năm, đến tháng Mười năm 2018 Nguyễn Xuân Phúc lại có thêm hai phát ngôn được giới phân tích chính trị chú ý bởi tính bất ngờ cùng cái nội hàm có thể mang ý từ rất sâu xa của nó : ‘lên án mọi hành động bắt cóc công dân giữa các quốc gia’ (1).
Ông Phúc tại Liên Hiệp Quốc. Ảnh minh họa
Bởi Hội nghị Cấp cao Mekong - Nhật Bản lần thứ 10 mang chủ đề về các vấn đề thiên nhiên, môi trường xanh, thương mại và vai trò trung tâm của người dân mà không phải nhằm mục đích thảo luận hay thỏa thuận chính trị, bài diễn văn của tác giả Nguyễn Xuân Phúc với nội dung ‘lên án mọi hành động bắt cóc công dân giữa các quốc gia’ là một hiện tượng lạ. Hoặc rất lạ.
Vào thời điểm ông Phúc đọc diễn văn trên tại Tokyo, cuộc khủng hoảng mang tên ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ giữa Đức và Việt Nam vẫn chưa hề có biểu hiện suy giảm rõ rệt nào, cho dù một vài chuyên gia cận thần của chính thể độc đảng ở Việt Nam chủ động tiết lộ tin tức về triển vọng quan hệ giữa hai nước đang trên đà phục hồi. Lý do đơn giản nhất khiến cuộc khủng hoảng này chưa thể chấm dứt, và chưa biết đến khi nào mới chấm dứt, là kể từ tháng Bảy năm 2017 khi bùng nổ vụ người Đức phẫn nộ cáo buộc một nhóm mật vụ Việt Nam đã xông thẳng sang Berlin để bắt cóc người và ngang nhiên vi phạm pháp luật của Đức, cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ lời xin lỗi hay ‘cam kết sẽ không tái phạm’ nào được đưa ra từ giới chóp bu Việt Nam, cho dù việc chỉ cần mở miệng xin lỗi mà không thông báo cho báo chí, cùng thói đầu môi chót lưỡi nói trước quên sau là một đặc tính rất trội trong thể loại gene ‘luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người’ của ‘đảng và nhà nước ta’.
Không những không cải thiện được quan hệ đối tác chiến lược - vấn đề mà Nhà nước Đức đã phải tuyên bố tạm ngừng vào tháng Chín năm 2017, Việt Nam còn đang phải đối mặt với một nguy cơ còn nguy hiểm hơn : sau gần nửa năm không thèm tận dụng các cơ hội do Chính phủ Slovakia đưa ra và cũng chẳng thèm hồi âm bất kỳ câu trả lời thỏa đáng nào cho câu hỏi ở mức độ tối thiểu của Slovakia ‘nếu không phải Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc và bị đưa lên một chiếc máy của Slovakia để bay sang Nga, hãy giải thích làm thế nào mà ông Thanh lại từ Đức về được Việt Nam để tự nguyện đầu thú’, Chính phủ Slovakia đang trù tính một cách hết sức nghiêm túc đến khả năng ‘tạm ngừng quan hệ với Việt Nam’ trong tương lai rất gần. Mà ‘tạm ngừng quan hệ’ là một khái niệm toàn diện, không chỉ về những vấn đề chiến lược mà tính luôn cả việc ngừng ngay các mối quan hệ cụ thể về thương mại song phương, đầu tư vào Việt Nam, viện trợ cho Việt Nam, tiếp nhận lao động Việt Nam, kể cả những chương trình và dự án khác về kinh tế, xã hội và văn hóa cho Việt Nam.
Không loại trừ khả năng Thủ tướng Phúc đã có chủ ý và chủ động đưa nội dung ‘lên án mọi hành động bắt cóc công dân giữa các quốc gia’ vào bài diễn văn của ông ta tại Hội nghị Cấp cao Mekong - Nhật Bản lần thứ 10 ở Tokyo. Như một cách khéo léo để thanh minh rằng ông ta ‘vô can’ trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ? Và để nếu cuộc khủng hoảng Trịnh Xuân Thanh lan rộng hơn trong thời gian tới và sẽ phải có những quan chức Việt Nam bị quốc tế chế tài về trách nhiệm hình sự, xuất cảnh và tài sản, ông ta sẽ không bị ảnh hưởng gì ?
Còn phát ngôn ‘Chúng tôi lên án chế độ độc tài’thì sao ?
Lần đầu tiên lên án ‘chế độ độc tài’ !
Phát ngôn trên của Thủ tướng Phúc không phải là một diễn văn soạn sẵn, mà được nói miệng trong bối cảnh báo giới quốc tế đặt ra một câu hỏi về nhân quyền Việt Nam - chủ đề mà Thủ tướng Áo Sebastian Kurz sau đó đã nói rõ là ông đề cập thẳng vấn đề này với Thủ tướng Phúc chứ không phải do tiếp xúc ngoại giao mà không nói ra điều đó.
Đây là lần đầu tiên trong các chuyến công du nước ngoài, ông Phúc đề cập đến ‘chế độ độc tài’, không những thế còn xác quyết thái độ phản ứng của ông ta bằng cấp độ ‘lên án’. Và cũng là lần đầu tiên cụm từ này được Thủ tướng Phúc đề cập trong toàn bộ những phát ngôn của ông ta ở các hội nghị, hội thảo và các cuộc họp công khai tại Việt Nam.
Người ta có thể tự hỏi là vì sao khi đã trở thành thủ tướng được gần một năm rưỡi, ông Phúc lại không hề đề cập đến chủ đề ‘bắt cóc công dân’ và ‘chế độ độc tài’, mà chỉ đến tháng Mười năm 2018 mới bất ngờ bật ra hai phát ngôn nhạy cảm chính trị này chỉ cách nhau ít ngày ?
Không biết vô tình hay hữu ý, nhưng đã có một điểm trùng hợp đặc biệt : phát ngôn ‘Chúng tôi lên án chế độ độc tài’ của Thủ tướng Phúc hiện ra chỉ hai tuần sau khi Hội nghị trung ương 8 của đảng cầm quyền tại Việt Nam kết thúc với quyết nghị cho một ứng cử viên duy nhất được thừa kế cái ghế chủ tịch nước sau khi người tiền nhiệm là Trần Đại Quang đã có từ ‘cố’ phía trước chức danh của ông ta. Đó là Nguyễn Phú Trọng.
Đến lúc đó, những giả thiết ban đầu có vẻ còn mơ hồ về tham vọng quyền lực của ‘bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ (một danh xưng mà giới văn nhân cận thần dành cho ông Trọng) đã trở nên không còn hồ nghi gì nữa : một khi nắm được cả hai chức vụ tổng bí thư và chủ tịch nước, Nguyễn Phú Trọng sẽ rất giống, hoặc trở thành một phiên bản của Tập Cận Bình ở Trung Quốc - hình ảnh tập quyền cao độ và độc tài nhất kể từ thời Mao Trạch Đông những năm 60 của thế kỷ XX. Và ở Trung Quốc thời nay, rất nhiều người đã gọi là ‘Hoàng đế Tập Cận Bình’.
Bây giờ thì không ngờ hoài nghi gì nữa : đại hội 13 của đảng cầm quyền - dự định tổ chức tận năm 2021 - đã được đốt cháy giai đoạn ngay tại Hội nghị trung ương 8 vào tháng Chín năm 2018 với cái ghế chủ tịch nước dành thêm cho Tổng bí thư Trọng, để hình ảnh ‘choàng hai vai’ sáng chói của ông ta sẽ lướt qua năm 2021 mang tính thủ tục và kéo đến tận năm 2024 hoặc 2026 - tùy vào mức độ thay đổi hiến pháp.
Một khi không còn Đại hội 13 vào năm 2021 theo đúng nghĩa đen của nó, toàn bộ những quan chức đầu sỏ hiện thời, trừ Trọng, sẽ ‘ai ngồi đâu ngồi đó’. Sẽ không thể cục cựa gì nữa. Sẽ không còn màn chạy đua quyết liệt và quá nhiều cảm xúc vào chức tổng bí thư hay chủ tịch nước như những đại hội trước đây. Tất cả đều bị triệt tiêu ‘động lực cống hiến’, bởi tương lai sự nghiệp chính trị của tất cả đều đã ‘đụng trần’.
Thậm chí vào năm 2021, nếu Nguyễn Phú Trọng muốn và còn giữ được quyền lực độc tôn trước ‘đàn cừu’ của mình, ông ta hoàn toàn có thể làm như Tập Cận Bình đã làm tại đại hội 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc vào cuối năm 2019 : không biết làm cách nào mà Tập đã khiến cả Ban chấp hành trung ương lẫn Quốc hội chấp thuận bỏ thẳng điều khoản ‘chủ tịch nước làm không quá hai nhiệm kỳ’ trong hiến pháp, để từ đó hướng đến tương lai ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’.
Có lẽ nhân vật ‘đau khổ’ nhất sau vụ ‘ngồi mãi’ trên là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Giấc mơ nào ?
Có hai Nguyễn Xuân Phúc khác hẳn nhau như thể từ bóng tối ra khoảng sáng trước và sau đại hội 12 của đảng cầm quyền.
Cho đến cuối năm 2015 khi còn là cấp phó thường trực cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Phúc vẫn chỉ mang hình bóng của một nha sai mẫn cán, biết nghe lời và hoàn toàn không có gì nổi bật trên phương diện phát ngôn hay ‘kiến tạo’ - điều mà ông ta đã trở nên chói sáng với tần suất cao nhất trong Bộ Chính trị đảng sau khi trở thành thủ tướng. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào việc một người chỉ biết công việc tay hòm chìa khóa của chính phủ mà trở nên ù lì an phận thì sẽ là một sai lầm ghê gớm.
Nguyễn Xuân Phúc là người mà, sau thời kỳ đầu ngây ngất vinh danh trong cái ghế thủ tướng, đã vụt biến thành một nỗi đam mê và tham vọng quyền lực cháy bỏng, mà ngày càng hiện ra nhiều dấu hiệu và biểu hiện hơn cho thấy nỗi khao khát đó thậm chí còn to lớn hơn cả sự thèm muốn vật chất và tiền bạc.
Từ giữa năm 2017 và trùng với thời điểm Trần Đại Quang bất thần bị ‘bệnh lạ’ mà đã ‘biến mất’ lần đầu tiên trong gần hết tháng Tám năm đó, người ta nhận ra Thủ tướng Phúc đã bắt đầu chiến dịch vận động cho chức vụ tổng bí thư tại đại hội 13 vào năm 2021. Ngoài thành tích ‘GDP tăng trưởng vượt bậc’, ông Phúc đi nhiều địa phương và nơi nào cũng được ông ta xem là ‘đầu tàu’, cùng những từ ngữ đầy hoa mỹ mà đã khiến giới lãnh đạo những địa phương này ‘tự sướng’ đến mức có thể sẵn lòng bỏ phiếu cho ông Phúc trong một hội nghị trung ương ‘thăm dò uy tín tổng bí thư cho đại hội 13’ và kể cả tại đại hội 13…
Nhưng cùng thời gian trên, nhiều dư luận bắt đầu đề cập nhiều hơn đến ‘nhóm sân sau’ của Thủ tướng Phúc - một câu chuyện rất tương đồng với các nhóm lợi ích sân sau của Nguyễn Tấn Dũng trong 9 năm trời ông ta làm thủ tướng. Tuy chưa đến mức thao túng chính phủ và ‘đớp hốt’ ghê gớm như các nhóm sân sau của Nguyễn Tấn Dũng, những nhóm kinh tài được cho là sân sau của Thủ tướng Phúc lại được cho là ‘rất nhiều triển vọng’ để trở thành nhóm lợi ích có sức ảnh hưởng lớn nhất đến chính phủ và cả đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong tương lai không xa.
Nhưng cũng như các ủy viên bộ chính trị đã ‘đụng trần’ mà gần như không còn cơ hội leo lên cái ghế tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, Nguyễn Xuân Phúc rất có thể sẽ phải thúc thủ ở cái ghế thủ tướng mà không thể mơ mộng hơn cho tương lai ‘trên vạn người’ của ông ta.
Trong khi đó, khác hẳn với vẻ xởi lởi có vẻ dễ chịu khi còn làm chủ tịch quốc hội, Nguyễn Phú Trọng ngày càng giống với một lãnh đạo quyền biến và không hề ‘lú’. Tư tưởng độc tôn cùng tính cách gia trưởng, đa nghi, khe khắt và soi mói, ‘làm nhân sự’ bất ngờ và đảo lộn đến khó tin đang là những đặc tính nổi trội của ông Trọng để khiến ông ta chẳng ưa gì thói tráo trở chính trị và những kẻ mượn danh nghĩa ‘đốt lò’ của ông ta để trục lợi cá nhân.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 31/10/2018
(1) Bài ‘Thủ tướng phát biểu tại Hội nghị Cấp cao Mekong - Nhật Bản lần thứ 10’ tại Tokyo - Nhật (Tạp chí Cộng sản đăng ngày 9/10/2018) và ‘Chúng tôi lên án chế độ độc tài’ (trong cuộc họp báo ngày 15/10/2018 cùng Thủ tướng Áo Sebastian Kurz tại Áo).
Về giá trị tuyệt đối, số thu dự kiến cho ngân sách năm 2018 vẫn "năm sau cao hơn năm trước" do chế độ "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" cưỡng bức dân đóng thuế "kiến tạo" và còn phải bán vốn nhà nước trong những doanh nghiệp "bò sữa" cho tư nhân, nhưng về tỷ lệ tăng so với dự toán thì lại là một thất bại đau đớn của nhà nước cộng sản.
Người chăn vịt trên một con kênh ở ngoại ô Huế. Hình chụp tháng Giêng, 2018. (Hình : Hoàng Đình Nam / AFP/Getty Images)
"Vượt dự toán thấp nhất trong 4 năm !"
Một bản báo cáo của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam được công bố vào tháng Mười năm 2018 đã phải thừa nhận rằng phần thu cân đối ngân sách nhà nước 2018 tuy có thể đạt 1.358,4 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán đầu năm 39,2 nghìn tỷ đồng – tức tăng 3% so với dự toán – nhưng đây là số tăng thấp nhất so với kết quả thực hiện dự toán trong 4 năm trở lại đây.
Báo cáo này cũng cho biết số thu vượt dự toán chủ yếu từ các nguồn thu về nhà, đất và dầu thô, trong đó nhà, đất tăng 35,9% (38.705 tỷ đồng), dầu thô tăng 53,2% (19.100 tỷ đồng). Tuy nhiên, thu từ đất không ổn định còn thu từ dầu thô chủ yếu do giá dầu lập dự toán thấp hơn thực tế (73,5 USD/50 USD/thùng) và sản lượng ước tăng 450 nghìn tấn.
Có 22/57 địa phương dự kiến không đạt dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Đáng chú ý, Sài Gòn, Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc ước hụt thu 2 năm liên tiếp (năm 2017 đạt 80,5% và năm 2018 đạt 88,8% dự toán giao). Tỷ lệ huy động từ thuế, phí 20,7% GDP cũng thấp hơn so với mục tiêu đề ra 21% GDP.
Thu ngân sách trung ương dù đạt 100,8% so với dự toán, chiếm tỷ trọng 44,7% tổng thu ngân sách nhà nước nhưng thấp hơn so với mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2016-2018 từ 60-65%…
Nếu tiến độ "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" xảy ra theo đúng dự báo của Kiểm toán nhà nước và "Bộ Thắt Cổ" (một cách gọi của dân gian đương đại dành cho Bộ Tài chính với vô số sắc thuế "kiến tạo" đè đầu dân), mức thu vượt dự toán 3% của năm 2018 sẽ là sự tiếp nối của một năm nữa, sau năm 2017 chỉ có mức thu thực tế dự toán khoảng 2,3%, thấp hơn nhiều so với mức vượt dự toán lên tới 8-9% của những năm trước – khoảng thời gian mà doanh nghiệp và dân chúng vẫn còn một số nguồn tài chính dự trữ chứ không đến mức phát sinh nhiều dấu hiệu cạn kiệt như hiện thời.
Nhìn lại năm 2017, nếu không tính đến vụ chính phủ phải bán vốn Tổng công ty Rượu Bia-Nước Giải Khát (Sabeco), thu được chẵn 5 tỷ USD, tương đương 110.000 tỷ đồng, thì phép trừ đơn giản nhất cho thấy kết quả thu ngân sách năm 2017 chỉ là 1.173 ngàn tỷ đồng (1.283 ngàn tỷ trừ 110 ngàn tỷ), chỉ đạt 96,8% dự toán thu đầu năm 2017 (1.212 ngàn tỷ đồng).
Kết quả 96,8% thu ngân sách năm 2017 không những không được xem là thành tích mà còn bị coi là một thất bại, bởi đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, thu ngân sách quốc gia không đạt so với dự toán. Cũng là năm thứ ba liên tiếp, thu ngân sách từ khối trung ương không đạt dự toán.
Nguồn thu từ nhà đất sẽ đổ nhào vào năm 2019 ?
Nỗi lo lắng của cơ quan Kiểm toán nhà nước về nguồn thu từ nhà đất và dầu thô "không ổn định" (hay còn được xem là "cấu trúc thu không bền vững") cũng chính là tâm trạng lo sợ không nguôi của chính thể độc đảng ở Việt Nam : nếu trong năm 2019 và những năm sau đó mà hai nguồn thu này vẫn "không ổn định" theo chiều hướng suy giảm chứ không tăng vọt ồn ào như năm 2017 và 2018 – đặc biệt đối với thu thuế buôn bán nhà đất, ngân sách nhà nước và ngân sách đảng sẽ tìm đâu ra nguồn mới để bù đắp cho cái miệng rộng ngoác như hàm cá mập của quốc nạn bội chi ngân sách, chi xài lãng phí vô tội vạ cùng quốc nạn tham nhũng mà đang nhấn chìm xã hội Việt Nam xuống tầng dưới cùng của địa ngục thời hiện đại ?
Trong một cuộc báo cáo cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào trung tuần tháng Năm năm 2018, chính bộ trưởng "Bộ Thắt Cổ" – ông Đinh Tiến Dũng – đã phải thừa nhận một sự thật trần trụi và tàn nhẫn trong cơ cấu thu ngân sách của chính thể độc đảng ở Việt Nam vào năm 2017 : dù tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2017 vượt 49,16 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo của Quốc hội, vượt 76,48 nghìn tỷ so với dự toán, nhưng số tăng thu đạt được chủ yếu không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà là nhờ tăng thu từ tiền sử dụng đất (61,58 nghìn tỷ đồng so với dự toán), và một phần khác từ thu cổ tức và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước (15,19 nghìn tỷ đồng), tăng thu từ dầu thô (11,28 nghìn tỷ đồng so với dự toán).
Hãy nhớ lại, vào năm 2017 chính "Bộ Thắt Cổ" đã tham mưu cho chính quyền âm thầm, hoặc lén lút tăng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp gấp 3-4 lần mà không thông báo trước cho dân.
Trong cơ cấu thu ngân sách quốc gia, tiền thuế sử dụng đất chiếm khoảng 9%, tương đương khoảng 100 ngàn tỷ đồng. Nếu đồng loạt tăng thuế sử dụng đất ở các tỉnh thành, ngân sách sẽ có thể "móc túi" dân gấp ít ra vài ba lần con số trăm ngàn tỷ đó.
Năm 2017 lại là năm mà thị trường bất động sản ở Việt Nam được giới đầu cơ cá mập lẫn đầu cơ nhỏ lẻ "đánh lên" ở nhiều tỉnh thành. Ở miền Nam như Sài Gòn, Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu. Ở miền Trung như Đà Nẵng. Ở miền Bắc như Hà Nội, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Phòng. Đặc biệt là "đánh lên" dữ dội ở ba đặc khu kinh tế tương lai là Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang).
Từ đầu năm 2017 đến nay, mặt bằng giá đất được đẩy lên cao đến mức hoang tưởng – hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần.
Đó cũng là bối cảnh mà có đến 80-90% kẻ mua người bán đất là nhằm mục đích đầu cơ chứ không phải để ở. Hồ sơ mua bán đất chồng chất như núi ở các văn phòng đăng ký đất đai và cơ quan thuế, mà do đó đã giúp cho Tổng Cục Thuế một năm bội thu.
Nhưng niềm vui thu thuế không phải cứ kéo dài mãi mãi. Cũng như những cơn sóng bất động sản vào những năm 2000 và giai đoạn 2007-2011 đều có điểm kết thúc bi kịch của nó, phong trào đầu cơ bất động sản từ năm 2016 kéo dài đến nay đã đẩy mặt bằng giá đất quá cao so với giá trị thực và tạo nên một quả bom khổng lồ chỉ chực chờ phát nổ vào năm 2019, hoặc có thể ngay trong năm 2018.
Một dấu hỏi quá khốn quẫn đối với nền ngân sách ăn bám của nhà nước cộng sản : Nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 – 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái.
Vậy ngân sách nhà nước sẽ lấy đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức "còn đảng còn mình" mà có ít nhất 30% trong số đó ăn không ngồi rồi ?
Lại in tiền ồ ạt ?
Nhưng vào lúc này, ngay cả thao tác in tiền để "bù đắp khó khăn ngân sách" đang trở nên quá nguy hiểm trong bối cảnh lạm phát thực tế đã lên tới vài ba chục phần trăm mỗi năm chứ tuyệt đối không phải "được kềm chế dưới 5%/năm" như các báo cáo chính phủ bất cần biết dân chúng và dân sinh. Chỉ so sánh con số tổng dư nợ tín dụng cho vay vào thời điểm năm 2008 là 2,3 triệu tỷ đồng và vào năm 2017 lên đến khoảng 7 triệu tỷ đồng – tức gấp đến 3 lần, thì trong gần một chục năm qua Bộ Chính trị đảng và Ngân hàng nhà nước rất có thể đã phải cho in tiền từ 400.000 – 500.000 tỷ đồng/năm, đặc biệt vào thời Nguyễn Tấn Dũng "tiền ra như nước Sông Đà".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 28/10/2018
Trong thực tế, chưa có ai từ bỏ đảng mà bị mất sổ lương hưu, vì nếu chính quyền cắt sổ hưu của người bỏ đảng là vi phạm pháp luật.
Bỏ ? Không bỏ (Đảng Cộng sản Việt Nam) ? - Ảnh minh họa
Từ bỏ ‘phản dân hại nước’ !
Sau tuyên bố từ bỏ Đảng cộng sản Việt Nam rất mạnh mẽ "Từ nhiều năm qua, tôi nhận thấy Đảng ngày càng xa rời lý tưởng ban đầu của mình, "tự diễn biến" thành một tổ chức chuyên quyền, phản dân hại nước. Tôi không thể còn đứng trong một tổ chức như vậy" của nhà văn Nguyên Ngọc, giáo sư Chu Hảo - đương sự chính đang bị Ủy ban Kiểm tra trung ương của đảng đe dọa kỷ luật vì tội ‘suy thoái tư tưởng’ và ‘tự diễn biến’, đã thực sự làm một cuộc cách mạng đối với bản thân ông : "Càng ngày tôi càng nhận thức rõ hơn rằng tổ chức chính trị mà mình tham gia đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại" - tuyên bố từ bỏ Đảng cộng sản của Chu Hảo, ký vào ngày 26/10/2018 và được công bố 3 ngày sau đó.
Rất chia sẻ và xin chúc mừng nhà khoa học Chu Hảo, nhà văn Nguyên Ngọc và những trí thức khác đã xác quyết từ bỏ 'đường về nô lệ' và ‘phản dân hại nước’.
Đến ngày 29/10/2018, đã có ít nhất 11 người tuyên bố bỏ đảng :
1. Giáo sư Tiến sĩ Chu Hảo - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
2. Nhà giáo Mạc Văn Trang - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
3. Nhà văn Nguyên Ngọc - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
4. Tiến sĩ Trần Thanh Tuấn - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
5. Trung Tá Trần Nam - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
6. Kỹ sư Hoàng Tiến Cường - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
7. Bạn trẻ Nguyễn Việt Anh - tuyên bố bỏ đảng ngày 26/10/2018
8. Trung úy quân đội Nguyễn Hữu Hiếu - tuyên bố bỏ đảng ngày 27/10/2018
9. Nguyên phó chủ tịch quận Bình Chánh Hà Quang Vinh - tuyên bố bỏ đảng ngày 27/10/2018
10. Cô giáo Dương Bích hà - tuyên bố bỏ đảng ngày 27/10/2018
11. Luật sư Lê Văn Hòa - tuyên bố bỏ đảng ngày 28/10/2018
Vì sao quá ít đảng viên dám bỏ đảng ?
Nếu lấy mốc thời gian từ đầu năm 2013 là lúc bùng nổ phong trào Kiến nghị 72 với khá nhiều nhân sĩ, trí thức xuất thân từ lòng đảng đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp để chuyển sang đa đảng, một số ít người dám công khai từ bỏ đảng từ đó đến nay đã chỉ làm nên một bức tranh ly khai phơn phớt. Con số từ bỏ quá ít ỏi so với gần 4 triệu đảng viên đăng ký trên sổ sách của đảng đã phản ánh tâm thế e ngại và e sợ vẫn bao phủ trong tâm não tuyệt đại đa số đảng viên, mặc dù nhiều người còn giữ thẻ đảng thừa nhận đã quá chán ngán chế độ chính trị và hầu như mất hẳn niềm tin vào đảng.
Do bị gò bò bởi kỷ luật đảng và sợ ảnh hưởng đến vị thế chính trị lẫn công việc nên rất hiếm trường hợp đảng viên dám ra đảng trong lúc còn làm việc, mà chỉ đến khi nghỉ hưu mới có một ít người dám "xé rào". Cho tới nay, đây vẫn là một tâm lý bao phủ lên gần 4 triệu đảng viên.
Nhưng có một thực tế là ngay cả một ít đảng viên hưu trí từ bỏ đảng lại không hẳn xuất phát từ thái độ dứt khoát chia tay ý thức hệ hoặc phản kháng với một đảng tham nhũng, mà do những người này đã có những hoạt động bị đảng quy kết là "đa nguyên", thậm chí "ủng hộ các thế lực phản động", nên cấp ủy đảng gây sức ép khai trừ họ. Để tránh bị "hạ nhục", những đảng viên này đã chủ động tuyên bố ra đảng trước khi bị khai trừ.
Vào cuối năm 2013, có một đợt đồng loạt từ bỏ đảng diễn ra với 3 đảng viên (Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên), sau đó là rời rạc từng người. Rất nhiều văn bản chỉ thị và công văn lẻ chỉ đạo lẫn "vận động" của các cấp ủy đảng từ trung ương xuống địa phương đã bó chân những đảng viên chỉ chực chờ thoát khỏi vòng kim cô.
Thậm chí còn xuất hiện một hiện tượng khó tưởng tượng nếu xảy ra cách đây mười năm : bất chấp một quy định của Điều lệ đảng về việc đảng viên sẽ bị khai trừ nếu không đóng đảng phí trong 3 tháng liên tiếp, một số chi bộ địa phương sẵn sàng "tạm ứng" hoặc đóng luôn đảng phí của đảng viên, chỉ với điều kiện là đảng viên không đòi rút tên khỏi danh sách sinh hoạt đảng nơi cư trú.
Cho tới nay, công tác "vận động" vẫn tỏ ra hiệu quả tương đối với một số đảng viên "không biết nên ra hay nên ở". Cứ thấy đảng viên nào có biểu hiện "dao động tư tưởng" cấp ủy cơ quan hoặc cấp ủy địa phương lại tổ chức một đoàn đại biểu, có thể cả với thành phần "ủy viên" là công an, đến "làm việc" theo phương châm "vừa đấm vừa xoa". Thể loại răn đe vừa kín đáo vừa lộ liễu luôn theo cách "Ông rút tên thì không sao, nhưng cũng phải biết nghĩ cho tương lai con cái mình chứ !".
Có những đảng viên chẳng mấy quan tâm đến sổ hưu (vì trong thực tế chẳng có quy định nào tước sổ hưu của những người bỏ đảng, và cũng bởi những đảng viên này đã có cuộc sống đủ sung túc sau thời làm quan), nhưng cứ nghe đến chuyện "con cái chúng ta" là lập tức từ bỏ ngay ý định từ bỏ đảng.
Hiển nhiên, một trong những lý do chính mà nhiều đảng viên không dám công khai, kể cả âm thầm từ bỏ đảng là lo sợ bị chính quyền gây áp lực hoặc trả thù. Khi thấy kết quả thuyết phục và "giáo dục tư tưởng" không ăn thua, cấp ủy đảng và cơ quan chính quyền liền gây áp lực bằng cách đe dọa cắt bớt chế độ hưu trí, gây khó khăn về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, chế độ hộ khẩu… Nhưng thường nhất là chính quyền và công an gây khó khăn đối với người thân của người bỏ đảng, đặc biệt về công ăn việc làm. Đó là nguyên do chủ yếu để những người muốn bỏ đảng phải chấp nhận bỏ đảng trong âm thầm, bị khai trừ hoặc chưa dám ra đảng.
Thoái đảng và bỏ đảng có bị mất sổ lương hưu ?
Trong khi quá ít đảng viên dám bỏ đảng, tình trạng thoái đảng lại diễn ra rất phổ biến ở Việt Nam.
Phần lớn những người thoái đảng thuộc về lớp cán bộ, công chức hưu trí. Họ âm thầm không nộp hồ sơ đảng từ nơi làm việc trước đó về nơi cư trú, và nếu sau một thời gian mà không thấy "nhắc nhở", thì coi như không sinh hoạt đảng và cũng xem như đã "ra đảng". Cũng có những đảng viên thoái đảng theo những cách khác như cố ý không sinh hoạt đảng dù có tên trong chi bộ địa phương, cố ý không đóng đảng phí, cố ý gây ra mâu thuẫn nội bộ để chi bộ bắt buộc phải khai trừ mình. Một số đảng viên khác, vì nguyện vọng đi định cư ở nước ngài cùng gia đình, đã đương nhiên đề nghị đảng xóa tên mình…
Năm 2013, một con số thống kê chính thức của một cơ quan đảng đã cho thấy có đến 40% đảng viên nằm trong những dạng thoái đảng khác nhau tại các địa phương. Cho tới nay, hẳn tỷ lệ này còn phải cao hơn – có thể lên đến 50 - 60%, trong bối cảnh chính trị và xã hội nhiễu nhương hơn nhiều trước đây và còn chưa tới đáy.
Nếu như những năm trước, có những người muốn bỏ đảng nhưng vẫn lo sợ bị chính quyền cắt sổ hưu hoặc bị sách nhiễu bản thân và thân nhân, thì với một số trường hợp bỏ đảng từ năm 2013 đến nay, đặc biệt gần đây như ông Võ Văn Thôn – cựu giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, ông Lê Văn Hòa – cựu chuyên viên Ban Nội chính Trung ương, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, nhà báo Tống Văn Công - nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động… cho thấy áp lực và thủ đoạn gây khó khăn của chính quyền và công an đối với họ và những người thân giảm hẳn. Thậm chí đã xuất hiện một số trường hợp cán bộ hưu trí, xuất thân từ lực lượng vũ trang như quân đội và công an, cũng muốn công khai bỏ đảng.
Trong thực tế, chưa có ai từ bỏ đảng mà bị mất sổ lương hưu, vì nếu chính quyền cắt sổ hưu của người bỏ đảng là vi phạm pháp luật.
Hãy từ bỏ Đảng cộng sản !
Tất cả những gì mà Đảng Cộng sản thể hiện vai trò "lãnh đạo toàn diện" trong nhiều qua đã khiến cho rất nhiều đảng viên đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tình cảm.
Kết quả của cơ chế "lãnh đạo toàn diện" của Đảng Cộng sản, mà thực chất là tư tưởng một đảng độc trị và độc tài, chính là nguồn cơn sâu xa và nguồn dẫn trực tiếp khiến cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng không thể khác hơn là thảm cảnh như ngày hôm nay.
Chưa bao giờ tham nhũng lại trở thành một quốc nạn ngập ngụa từ cấp trung ương đến tận cơ sở, từ trắng trợn đến vô liêm sỉ và dã man đến thế. Chưa bao giờ các nhóm lợi ích kinh tế và nhóm thân hữu chính trị, cũng như sự cấu kết giữa hai nhóm này lại biện chứng và sâu đậm đến mức bất chấp dân tình đến như vậy. Cũng chưa bao giờ hố phân hóa giàu nghèo trong xã hội Việt Nam lại thê thiết và tàn nhẫn như hiện thời.
Những độc đoán về chính trị đã tất yếu dẫn đến hậu quả nạn độc quyền, đặc quyền và đặc lợi, trục lợi. Hậu quả ấy đã đẩy nền kinh tế vào thế vong tồn và cạn kiệt hầu hết các nguồn tài nguyên của đất nước. Cuộc trục lợi khổng lồ không thương xót đó đã, đang và sẽ dồn ép hậu quả khủng khiếp của nó lên đầu hơn 90 triệu người dân Việt và toàn bộ lực lượng vũ trang.
Chính vào lúc này, nền kinh tế Việt Nam đang đặt một chân vào vực thẳm khủng hoảng, và chỉ cần thêm ít năm nữa thôi, cơn ung hoại sẽ lan ra toàn thân để không thể một liều thuốc đặc trị nào còn tác dụng.
Ung hoại kinh tế lại đang phá nát cơ thể đạo đức xã hội. Xã hội suy đồi toàn diện. Chưa bao giờ đạo lý và văn hóa người Việt, dân tộc Việt lại trở nên thảm thương và bĩ cực như giờ đây. Tình người và mối dây ràng buộc lỏng lẻo còn lại giữa con người với nhau luôn và sẽ phải đối mặt với nguy cơ cắn xé lẫn nhau.
Ai và cơ chế nào đã gây ra thảm cảnh không thể cứu vãn như thế ? Trong tâm trạng tuyệt vọng, nhiều đảng viên đã phải nhận chân rằng điều được xem là sự "lãnh đạo toàn diện" của Đảng cộng sản đã thất bại, thất bại một cách cố ý và quá cay đắng. Không những không hướng đến tinh thần công bằng và bác ái, làm tròn nghĩa vụ một nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Đảng cộng sản hiện thời chỉ còn là cái mà nhà văn Nguyên Ngọc đã xác quyết mạnh mẽ chưa từng có : phản dân hại nước.
Đến lúc này, lời thề trung thành với Đảng cộng sản của rất nhiều đảng viên đã bị thực tế đau đớn thẳng thừng phủ nhận. Một khi đảng đã không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số người dân, vì sao những đảng viên còn lương tâm phải tiếp tục trung thành với nó ?
Lời thế đó đương nhiên bị xóa bỏ.
Nhưng những người xác quyết xóa bỏ lời thề trung thành với Đảng cộng sản chẳng có gì phải áy náy, bởi lương tâm họ đã chọn Nhân Dân, và khi đã từ bỏ đảng, họ vẫn sống và đấu tranh theo đúng lời thề lương tâm của mình : vì Nhân Dân.
Đất nước này, xã hội này đang tràn ngập những chỉ dấu bất ổn và chuẩn bị biến động như thời chỉ vài ba năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990. Khi đó, Đảng cộng sản Liên Xô còn đến 20 triệu đảng viên và cả 5 triệu quân nhân lẫn 3 triệu công an, nhưng tất cả đều bất động trước một biến đổi mang tính quy luật của lịch sử. Việt Nam cũng đang và sẽ như vậy chỉ trong ít năm nữa, bất chấp số đảng viên được xem là "trung thành" còn tới gần 4 triệu người. Và cũng chỉ trong ít năm nữa thôi, sẽ có nhiều hơn hẳn đảng viên không vì phải chịu sức ép khai trừ mà sẽ hoàn toàn chủ động chia tay với đảng, chia tay với một chính đảng phi nhân bản để kiếm tìm một bến bờ mới hứa hẹn nhân văn hơn rất nhiều.
Công hàm trao đổi dự án viện trợ không hoàn lại "Tăng cường năng lực kiểm nghiệm cho Trung tâm Kiểm nghiệm kiểm chứng và Tư vấn chất lượng nông lâm thủy sản để đảm bảo an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản" là văn kiện duy nhất ‘có tiền’ được ký kết sau cuộc gặp tay đôi giữa Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, lồng trong đợt tham dự Hội nghị cấp cao hợp tác Mekong - Nhật Bản lần thứ 10 vào tháng Mười năm 2018 của ông Phúc.
Ông Phúc bắt tay thủ tướng Nhật, Shinzo Abe, tại văn phòng ông Abe tại Tokyo, 8 tháng 10, 2018.
Nhiều văn bản còn lại được ký giữa hai bên chỉ là dạng bản ghi nhớ - cái mà ở Việt Nam có vô số kể và rất nhiều lần đã cho thấy là chẳng có giá trị triển khai nào sau những chuyến công du phương Tây của giới chóp bu Việt Nam.
Nhưng kết quả đáng thất vọng nhất là vào lần này, Thủ tướng Shinzo Abe đã chẳng có một lời hứa hẹn, và càng không có sự cam kết nào về việc ‘Nhật Bản sẽ tăng cường hỗ trợ ODA cho Việt Nam’ hoặc ‘Nhật Bản sẽ dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA ưu đãi’, bất chấp Thủ tướng Phúc đã phải một lần nữa đề nghị "Nhật Bản tăng cường hỗ trợ vốn ODA ưu đãi hơn cho Việt Nam".
Những ‘chính khách đang lên’
Không hiểu sao, Nguyễn Xuân Phúc không có nhiều ‘duyên’ với Nhật, nhất là về chuyện ‘xin tiền’.
Đây là lần thứ hai Thủ tướng Phúc đi Nhật trong hai năm qua và cũng là lần thứ hai liên tiếp ông ta không mang về được hình hài ODA nào.
Vào tháng Sáu năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc - khi đó vừa nhận chức vụ thủ tướng Việt Nam, được xem là ‘chính khách đang lên’ và hẳn rất muốn chứng tỏ vai trò đối ngoại của mình trước con mắt giới chính khách và giới quan sát quốc tế, cũng như trước bộ sậu không kém thua ông ta về tham vọng chính trị và mang đặc tính bỉ bôi kèn cựa trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam - đã đi Nhật để dự Hội nghị G7 mở rộng. Nhưng kết quả của chuyến đi này thật đáng thất vọng đối với ông Phúc và với cả giới chóp bu Việt Nam : đã không có bất kỳ một hứa hẹn hay cam kết nào từ phía Nhật về viện trợ cho Việt Nam.
Thậm chí, Nguyễn Xuân Phúc còn ‘kém duyên’ hơn cả Trần Đại Quang - quan chức được xem là ‘nguyên thủ quốc gia’ vừa phải về với tổ tiên và ngay lập tức đã được Tổng bí thư Trọng ‘tiếp quản’ cái ghế chủ tịch nước - trong hoạt động xin viện trợ ở Nhật.
Vào cuối tháng Năm năm 2018 - nghĩa là 4 tháng trước khi chết, mặc dù trong tình trạng bệnh tật trầm trọng nhưng Trần Đại Quang vẫn có một chuyến công du đến Nhật và đạt được một kết quả nhỏ nhoi về xin viện trợ : phía Nhật cung cấp thêm khoản viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam trị giá 16 tỉ yên, tương đương 142 triệu USD, cho dự án nâng cao năng lực đào tạo nghề. Dù rằng con số 16 tỷ yên trên chỉ bằng 10% số 160 tỷ yên mà Nhật Bản hỗ trợ ODA cho Việt Nam hàng năm, trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản 2012-2016, trung bình mỗi năm.
Phương án "ăn sẵn"
Nhật Bản là quốc gia tỏ ra hào phóng nhất trong chính sách cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam. Từ năm 1992 khi cơ chế ODA được Nhật nối lại với Việt Nam, cho tới nay Nhật đã cung cấp cho Hà Nội khoảng 25 tỷ USD. Trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản 2012-2016, trung bình mỗi năm, Nhật Bản hỗ trợ ODA cho Việt Nam là 160 tỷ yên (32.500 tỷ đồng) theo hình thức vốn vay, 2,3 tỷ yên (467 tỷ đồng) theo hình thức viện trợ không hoàn lại và 8,7 tỷ yên (1.760 tỷ đồng) theo hình thức hợp tác kỹ thuật.
Ngay vào thời gian những năm 2015 và 2016 khi các chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Châu Á đồng loạt tuyên bố Việt Nam không còn được vay tín dụng với lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn kể từ tháng Bảy, 2017, Nhật Bản vẫn "trung thành" với Việt Nam khi tiếp tục đều đặn rót vào nước này từ 1 – 1,5 tỷ USD hàng năm cho các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở.
Nhưng từ đầu năm 2017, viện trợ ODA của Nhật cho Việt Nam đã giảm dần.
2018, sau vài chục năm "vay mượn, vay mượn ồ ạt cho đến khi sụp đổ", ngân sách Việt Nam đã biến thành một tổ mối đúng nghĩa : tỉ lệ nợ công/GDP vượt xa giới hạn nguy hiểm, còn cộng đồng tài chính quốc tế đang thẳng tay "cấm cửa" vay mượn ODA đối với chính thể mà ngay giới chuyên gia quốc tế còn rành rẽ một giai thoại dân gian : một chương trình an sinh xã hội của chính phủ Việt Nam nhận nguồn ODA có tên là ‘Chương trình 135’, nhưng khi tiền được phân bổ từ cấp cơ quan trung ương xuống cơ quan địa phương rồi đến tay người dân thì đã biến thành công thức ‘5 - 3 - 1’, tức những người khốn khổ nhất trong xã hội lầm than này chỉ nhận một phần quá nhỏ nhưng vẫn phải tự nguyện ‘cám ơn đảng và nhà nước ta’, cũng tự nguyện làm bình phong để giới quan chức có cớ ‘xóa đói giảm nghèo’ để xin ODA.
Từ nhiều năm qua, ODA đã trở thành một trong những quốc nạn về tham nhũng ở Việt Nam. Tỷ lệ thất thoát bình quân tại nhiều dự án ODA được đồn đoán khoảng 20 – 25%.
2018, sau vài chục năm nhận ‘lộc trời’, ODA đã trở thành một trong những bi kịch ‘vĩ đại’ nhất của chính thể Việt Nam.
Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải "đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay" - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá chú tâm về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm ‘đổ vỏ’ cho đời thủ tướng trước bị xem là ‘phá chưa từng có’ là Nguyễn Tấn Dũng…
Dường như giới quan chức chính phủ đang tính đến phương án "ăn sẵn" : thay vì phải đi vay mượn nhưng sẽ cột chặt thêm trách nhiệm phải trả nợ, cần cố gắng xin được viện trợ không hoàn lại mà sẽ không gắn với bất kỳ trách nhiệm thanh toán nào.
Và bi kịch đến mức mà vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một ‘bí mật quốc gia’ mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm : ông Huệ đề nghị Mỹ "mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam".
Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0.
Nhưng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể ‘không hẹn mà gặp’ đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà ‘đảng và nhà nước ta’ đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua : từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0.
Lại ‘tiết lộ bí mật quốc gia’
Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn ‘xin tiền’ không biết mệt mỏi.
Nhưng cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động : những chuyến công du của người vừa chết là Trần Đại Quang và người còn sống là Nguyễn Xuân Phúc đến Nhật Bản diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh "ngoại viện" gần như đóng lại. Ngay cả Hiệp Định TPP mà giới lãnh đạo Việt Nam từng cố công trông đợi để được "tăng 25% GDP" cũng gần như chẳng có hy vọng gì để Việt Nam hưởng lợi lớn. Trong khi đó, một hiệp định khác – hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu – cũng chưa đi tới đâu, cho dù đã được ký kết từ cuối năm 2015. Nghị Viện Châu Âu còn đang cân nhắc có nên thông qua việc triển khai hiệp định này hay không khi chính quyền Việt Nam vẫn thẳng tay đàn áp nhân quyền.
Sau vụ ‘tiết lộ bí mật quốc gia’ của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ ở Mỹ, đề nghị "Nhật Bản tăng cường hỗ trợ vốn ODA ưu đãi hơn cho Việt Nam" của Thủ tướng Phúc đã khiến lộ thêm một sự thật trần trụi khác : sau khi hàng loạt tổ chức tín dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á… đã ‘cấm cửa’ ODA ưu đãi (lãi suất thấp và thời gian ân hạn) đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam, đến lúc này ngay cả quốc gia mà Hà Nội luôn vuốt ve ‘làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nhật’ không chỉ hạn chế cung cấp lượng ODA mà còn hạn chế cả tính chất ưu đãi của nó.
Nếu từ năm 2014, Việt Nam đã gần như trắng tay ODA, thì vào năm 2018 này, có thể xem là không còn ‘ODA ưu đãi’ nữa.
Ở Việt Nam, người ta có thể nhìn ra rõ ràng là không chỉ ‘tân chủ tịch nước’ Nguyễn Phú Trọng - với phát ngôn bất hủ ‘đất nước có bao giờ được như thế này !’ - là chóp bu tham vọng quyền lực duy nhất, mà bên cạnh đó và rất có thể đang mong ngóng được kế thừa cái ghế ‘hoàng đế’ là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Ông Nguyễn Xuân Phúc trong một lần biểu dương ngành công an. Photo Báo Công an nhân dân
Sản xuất xuống, doanh nghiệp ‘chết’ nhưng GDP vẫn tăng mạnh !
Tại kỳ họp quốc hội khai mạc tháng Mười năm 2018, một lần nữa trong nhiều lần, thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ và ‘mỗi tỉnh là một đầu tàu kinh tế’ lại tiếp tục tung ra nhưng thành tích quá đỗi ấn tượng cho ‘chính phủ kiến tạo’ của ông ta : dự kiến chỉ số tăng trưởng tổng sản quốc nội (GDP) trong năm 2018 sẽ tiếp tục 6,7%, tương đương với thành tích đã lập được vào năm 2017.
Đã thành một thói ‘gật’ ăn sâu vào não trạng, cả nghị trường lặng thinh ngơ ngáo trước bài diễn văn hùng hồn, đầy số liệu và thành tích của đại biểu Nguyễn Xuân Phúc. Không một cánh tay nào giơ lên phản bác thành tích đó.
Và cũng đã thành một thói quen chiến thuật, ‘vũ khí’ chủ yếu của ông Phúc để tác chiến trên chính trường Việt Nam luôn là tỷ lệ tăng trưởng GDP cao ngất cùng toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà chính phủ không thể không đạt được.
Nhưng về thực chất, GDP của Thủ tướng Phúc là ‘tăng trưởng ổn định’ hay rơi vào suy thoái ?
GDP được cấu thành chủ yếu từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của ba thành phần kinh tế tại Việt Nam (khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh).
Một sự thể trớ trêu và phản dội là trùng với thời điểm Thủ tướng Phúc say sưa nghiêng ngoẹo với những con số thành tích của mình trước gần 500 mái đầu ngoan ngoãn trong quốc hội, một bản báo cáo vào tháng Mười năm 2018 của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được công bố đã phải thừa nhận rằng nguồn thu từ 3 khu vực kinh tế không đạt dự toán (thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,9%, đạt 4.908 tỷ đồng ; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,1%, đạt 33.646 tỷ đồng ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm 2,2% đạt 4.855 tỷ đồng).
Trước đó khi năm 2017 trôi qua, chính Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã phải đánh giá rằng thu từ sản xuất kinh doanh của 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh trong khoảng 3 năm liền kề đều thấp hơn so với dự toán với mức khá lớn và đều thấp hơn số ước thực hiện đã báo cáo Quốc hội.
Mặc dù Uỷ ban Tài chính - Ngân sách không nêu cụ thể thực trạng ‘thấp hơn’ là bao nhiêu, nhưng một số chuyên gia đã ước tính tỷ lệ thu từ khối doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh chỉ đạt khoảng 80 -85% so với dự toán – tức thấp hơn rất nhiều so với kết quả của những năm trước.
Mà khi thu thuế từ 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh bị giảm mạnh, lấy đâu ra ‘Kinh tế Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng 7,31% GDP’ - gấp gần 3 lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ và EU - như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên rao đầy tự hào vào cuối năm 2017 và được các bộ ngành, giới chuyên gia cận thần và báo đảng đồng ca đầy sống sượng lẫn trơ tráo ?
Chưa hết. Cũng vào tháng Mười năm 2018, những số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố cho thấy số doanh nghiệp thành lập mới trong quý III/2018 là 96.611, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lại nhiều bất thường, với 24.501 doanh nghiệp, tăng 76%. Tính chung 9 tháng kể từ đầu năm, có 73.103 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, so với cùng kỳ năm 2017 tăng 48,1%. Có nghĩa là tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp được thành lập mới.
Tình trạng tham nhũng trong hệ thống thủ tục ‘hành là chính’, thiếu đầu ra và quá dễ phá sản là những nguồn cơn khiến nhiều doanh nghiệp không còn mặn mà với các chương trình khuyến mãi cho vay vốn của ngân hàng, trong tình trạng ngân hàng đang thừa mứa tiền không tiêu thụ được - hệ lụy của nạn in tiền quá nhiều từ Nhà máy In tiền quốc gia của Ngân hàng nhà nước và hình ảnh cơ suy thoái kinh tế Việt Nam đã kéo sang năm thứ 10 kể từ năm 2008. Nhiều doanh nghiệp vẫn không thể quên được vào năm 2011 họ đã phải vay ngân hàng với lãi suất cắt cổ lên đến 25 - 30%/năm (chưa kể phí ‘bôi trơn’), để sau đó không ít doanh nghiệp đã coi đó là thuốc độc mà ngân hàng bắt họ phải uống.
Thật rõ ràng, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng liên tục và tăng trưởng mạnh đến gần 7%/năm của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ (1) mà tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ lại cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp mới ra đời !
Phương pháp thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam là ‘có vấn đề’ hay về thực chất là ‘thống kê chính trị’ theo chỉ đạo của chính Thủ tướng Phúc nhằm phục vụ cho những mục đích tô hồng cá nhân của ông ta ?
Vì sao ‘nợ công giảm còn 61,4% GDP’ ?
Cũng tại kỳ họp quốc hội tháng Mười năm 2018, Nguyễn Xuân Phúc - quan chức thủ tướng bị dư luận đánh giá là còn ‘nổ’ hơn cả người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, đã khoe khoang thành tích nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP - tức chưa chạm vào ngưỡng giới hạn trên là 65% GDP.
Nhưng có thực như vậy không ?
Theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Cho đến nay và cùng với số nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân tăng vọt, nợ công quốc gia thậm chí còn tồi tệ hơn những năm trước.
Bối cảnh ngân sách cạn kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều dấu hiệu cho thấy nợ công sắp "vỡ" và Chính phủ không còn khả năng trả nợ thay cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Đó là nguồn cơn vì sao Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) - được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2017 - lại cố tình không gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, dù loại nợ này lại là một trong 5 định nghĩa về nợ công của cơ quan thống kê của Liên hiệp quốc.
Điều trớ trêu là vào đầu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thốt ra một đánh giá chưa từng có tiền lệ : "Nếu tính đủ, nợ công đã vượt trần".
Đó là lần đầu tiên ông Phúc tỏ ra cám cảnh thật sự trước tình cảnh ‘đổ vỏ’ của mình cho đời thủ tướng trước là Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí sau đó ít lâu, ông Phúc còn thốt ra một tán thán khác ấn tượng không kém : ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’.
Tuy nhiên từ đó đến nay, Thủ tướng Phúc đã im bặt mà không còn bất kỳ lời thú nhận thực nào về cảnh nạn khốn khó của ngân sách và nợ công nữa. Thay vào đó, quan chức này đi nhiều địa phương mà gần như ở đâu cũng được ban tặng là ‘đầu tàu kinh tế của cả nước’ - một thủ thuật chính trị mà dư luận chẳng khó gì để nhìn ra ngay động cơ của ông Phúc muốn vận động sớm cho cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 vào năm 2021.
Chỉ có điều, những cuộc vận động của Thủ tướng Phúc có thể chẳng nên cơm cháo gì. Cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 vừa được sáp nhập với cái ghế chủ tịch nước bởi một tác giả duy nhất : ‘Hoàng đế Nguyễn Phú Trọng’.
(1) ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ : Một đoạn clip về bài phát biểu của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại một buổi lễ kỷ niệm ở Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam hôm 2/12/2016 lan truyền nhanh trên mạng xã hội.
Ông Phúc nói : "Việt Nam luôn trân trọng và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, chống thất thoát, lãng phí trong đó có nguồn vốn của ADB và mong ADB tiếp tục hỗ trợ, đồng hành cùng chính phủ Việt Nam trong các khuôn khổ hợp tác khu vực như tiểu vùng Mekong, ACMECS, CLMV và CLV về kết nối các nền kinh tế, hạ tầng giao thông, giảm nghèo bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu".
ACMECS viết tắt của từ Ayeyawady - Chao Phraya-Mekong Economic Cooperation Strategy, tức là một khuôn khổ hợp tác giữa các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, Thủ tướng Phúc đọc là 'A Cờ Mờ E Cờ Ét'.
CLMV là từ viết tắt tiếng Anh của Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc là ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’.
Còn CLV là viết tắt của Campuchia, Lào và Việt Nam, Thủ tướng Phúc đọc là ‘Cờ Lờ Vờ’.
Từ những phát âm đó, người dân Việt Nam tặng cho Thủ tướng Phúc bí danh : Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’.
Rõ ràng là vòng quay của bánh xe lịch sử đã cố ý chơi khăm chính thể độc đảng ở Việt Nam và những kẻ bắt cóc : chẵn một năm sau thời điểm Chính phủ Đức tuyên bố tạm ngừng quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam bởi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, một quốc gia khác nằm trong khối Liên minh châu Âu là Slovakia còn trừng phạt mạnh tay hơn cả thế : tạm ngừng quan hệ với Việt Nam !
Trịnh Xuân Thanh bị áp giải tới tòa Hà Nội. Ảnh minh họa
Đóng băng quan hệ !
"Quan hệ song phương Việt Nam-Slovakia sẽ bị đóng băng cho đến khi Slovakia nhận được lời giải thích khả tín từ Hà Nội về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" - phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Slovakia Boris Gandel nói với hãng thông tấn nhà nước TASR hôm 19/10, trong một phản ứng trước lời kêu gọi của đảng Tự do và Đoàn kết đối lập (SaS) đòi phải trục xuất đại sứ Việt Nam (VOA).
Điều trớ trêu là nếu có thời Đức còn bị giới quan chức Việt Nam xem là ‘tư bản phương Tây’ và ‘theo đuôi Mỹ’, thì Slovakia lại luôn được Hà Nội khen tặng danh hiệu ‘đối tác thân thiện’ hoặc ‘đối tác tin cậy’ của Việt Nam, trong đó hàm ý nguồn gốc xuất thân của Slovakia từ ‘khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em’, tức Tiệp Khắc ở Đông Âu, trước khi Liên Xô chính thức tan rã vào năm 1990.
Nhưng bước sang thế kỷ 21 và vào lúc này đây, ngay cả quá khứ được xem là khắng khít về ý thức hệ cũng chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Bạn sẽ nghĩ sao nếu bạn bị một kẻ nào đó lợi dụng bạn để lén lút giấu một nạn nhân bị bắt cóc ngay trong nhà bạn ?
Chính phủ và cả thể diện quốc gia Slovakia đã trở thành nạn nhân thứ hai - bị lợi dụng như thế. Chính sự thật khó tưởng tượng đó - nhưng từ đầu tháng Tám năm 2018 đến nay đã được các cơ quan cảnh sát và công tố của Slovakia phối hợp với Đức tìm ra nhiều bằng chứng về vụ ‘vận chuyển Trịnh Xuân Thanh’ qua sân bay Bratislava của Slovakia vào tháng Bảy năm 2017 - đã khiến Quốc hội Slovakia thực sự công phẫn và lên án, gây áp lực đủ mạnh đối với chính phủ của Thủ tướng Peter Pellegrini để phải có những biện pháp ngoại giao đủ nghiêm khắc đối với những kẻ bắt cóc, cho dù vào tháng Năm năm 2018 ông Peter Pellegrini còn lắc đầu với báo chí quốc tế trước câu hỏi Slolvakia có dính líu đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Nhưng sau hai tháng điều tra của cảnh sát và công tố Skovakia, đến đầu tháng Mười năm 2018 Thủ tướng Peter Pellegrini đã lần đầu tiên tuyên bố "Việt Nam sẽ nhận lãnh các hậu quả về ngoại giao do vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh gây ra"(báo Pravda.sk ngày 2/10/2018).
"Quan điểm của chúng tôi rất rõ ràng. Nếu thật sự Slovakia đã bị lợi dụng và phái đoàn Việt Nam đã lạm dụng một chuyến thăm để đưa một công dân của mình từ Slovakia ra khỏi khu vực Schengen – ra ngoài khối Liên minh châu Âu, thì sẽ phải chịu hậu quả nghiêm trọng mà Bộ trưởng Ngoại giao Slovakia đã thông báo. Và chúng tôi sẽ phản ứng rất mạnh đối với Việt Nam, bởi vì không thể tưởng tượng được rằng một quốc gia ngoài Liên minh châu Âu (EU) có thể thực hiện các hoạt động như vậy tại một nước thành viên của EU, một nước thành viên của khối NATO [khối quân sự Bắc Đại Tây Dương]" - Thủ tướng Pellegrini tuyên bố.
Nhưng với hàng triệu người đang hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp là nạn nhân của một chế độ Việt Nam dung dưỡng cho nạn tham nhũng kinh hoàng từ trên xuống dưới và đàn áp hầu hết tiếng nói và hành động phản ứng về tình trạng bất công ấy, và đặc biệt là với hàng trăm người hoạt động nhân quyền mà mỗi người đã phải chịu cảnh bị công an mặc thường phục bắt cóc ít ra vài ba lần, chẳng có gì là khó tưởng tượng.
Giới hạn của sự kiên nhẫn
"Bộ trưởng Tô Lâm là người đầu tiên bước lên chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia, tiếp theo là các thành viên của phái đoàn Việt Nam, tất cả 12 người. Trịnh Xuân Thanh là người cuối cùng được đưa lên máy bay, rõ ràng là ông ta bị thương, trông có vẻ đờ đẫn và được hai mật vụ Việt Nam xốc nách hai bên dìu đi…" - tờ Frankfurter Allgemeine Zeitungn của Đức mô tả như thế trong một bài báo tường thuật vào ngày 3/8/2018. Đó là một phát giác mới : chính cựu Bộ trưởng Nội vụ Slovakia Robert Kaliňák đã giúp Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia.
Trong khi đó, vụ Tòa án Thượng thẩm Berlin ở Đức đưa ra xử vụ án Nguyễn Hải Long tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã làm dày hẳn hồ sơ chứng cứ của vụ này : để được hưởng mức án giảm nhẹ chỉ còn 3 năm 10 tháng tù giam, Nguyễn Hải Long đã khai sạch toàn bộ các ‘đạo diễn’ và ‘diễn viên’ Việt Nam đã tổ chức và thực hiện vụ bắt cóc Thanh tại Berlin vào tháng Bảy năm 2017.
Nhưng cũng như người Đức, chính phủ và Bộ Ngoại giao Slovakia đã khá kiên nhẫn để chờ câu trả lời từ Bộ Chính trị và chính phủ Việt Nam về vụ ‘Tô Lâm làm bình phong’ cho vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Song từ tháng Năm đến cuối tháng Bảy năm 2018, đại sứ Việt Nam tại Slovakia là Dương Trọng Minh đã chỉ một mực "Trịnh Xuân Thanh chưa bao giờ có mặt tại Slovakia" - lối thanh minh được quy chiếu bởi phát ngôn của Bộ Công an Việt Nam về ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’.
Đến lúc đó, Slovakia bắt đầu mất dần kiên nhẫn.
Sau khi báo chí Đức và Slovakia tung loạt bài điều tra về thực chất Trịnh Xuân Thanh đã bị ‘vận chuyển’ qua sân bay Bratislava, đến tháng chín năm 2018 Ngoại trưởng Slovakia Miroslav Lajcak đã tuyên bố không bổ nhiệm đại diện ngoại giao của Slovakia tại Hà Nội - hành động phản ứng cứng rắn đầu tiên và làm tiền đề cho hậu quả ‘tạm ngừng quan hệ với Việt Nam’ sẽ xảy ra chỉ một tháng sau đó.
Còn sau khi Ngoại trưởng Miroslav Lajcak một lần nữa hối thúc Việt Nam phải trả lời vụ Trịnh Xuân Thanh trong cuộc tiếp xúc với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại New York vào cuối tháng Chín năm 2018, cho đến nay "Bộ Ngoại giao Slovakia hiện vẫn chưa nhận được câu trả lời từ phía Việt Nam sau cuộc họp của bộ trưởng ngoại giao hai nước ở New York gần đây" - theo lời phát ngôn viên Gandel của Slovakia.
"Slovakia là một quốc gia nghiêm túc và sẽ có hành động ngoại giao nghiêm khắc đối với Việt Nam ngay khi những nghi ngờ nghiêm trọng mà Việt Nam đang đối mặt được xác nhận đầy đủ và chính thức", TASR dẫn lời ông Gandel nói.
Đã có một điểm tương đồng đặc biệt trong cơn địa chấn mang tên Trịnh Xuân Thanh : cả hai cơ quan cảnh sát Đức và Slovakia đều tạm kết thúc giai đoạn đầu tiên về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh trong vòng khoảng 2 tháng, tuy khác nhau về thời gian. Với người Đức là từ tháng Tám đến tháng Mười năm 2017, còn với Slovakia là từ tháng Tám đến tháng Mười năm 2018.
Sau 2 tháng điều tra, Viện Công tố Slovakia đã ra quyết định bắt đầu tiến hành truy tố hình sự (khởi tố) về vụ án dùng chuyên cơ chính phủ Slovakia đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen. Hai cảnh sát (hộ tống phái đoàn công an cấp cao do Bộ trưởng Tô Lâm dẫn đầu) đã khai với cơ quan điều tra Slovakia rằng họ đã nhìn thấy một người đàn ông Việt Nam, có lẽ là Trịnh Xuân Thanh, bị kéo lết lên chuyên cơ của chính phủ Slovakia.
Quyết định bắt đầu tiến hành truy tố hình sự (khởi tố) về vụ án ‘dùng chuyên cơ chính phủ Slovakia đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen’ của Viện Công tố Slovakia cho thấy vụ Trịnh Xuân Thanh đã không thể chìm xuồng ở Slovakia theo cách mà giới chóp bu Việt Nam hết sức mong muốn.
Một số thông tin cho biết trước đó đã có những ‘vận động’ từ phía Bộ Ngoại giao Việt Nam và cả những hứa hẹn ‘sẽ tạo môi trường thuận lợi về đầu tư và thương mại ở Việt Nam cho Slovakia’, nhưng đã không được chính phủ của Thủ tướng Peter Pellegrini hồi đáp.
Quyết định khởi tố vụ án Trịnh Xuân Thanh của Viện Công tố Slovakia cũng cho thấy quan điểm của những lãnh đạo cấp cao nước này là lạnh lẽo và cứng rắn hơn nhiều so với những gì thể hiện trước đó với giới chóp bu Việt Nam, và chiều hướng của ngành tư pháp Slovakia là rất có thể sẽ dẫn tới một phiên tòa lớn để xét xử những quan chức Slovakia dính líu đến vụ ‘tiếp tay cho bắt cóc’, theo cách mà Tòa án Thượng thẩm Berlin vào tháng Tư năm 2018 đã mở phiên tòa xử Nguyễn Hải Long.
Những giả thiết về kịch bản chế tài ngoại giao của Slovakia đối với Việt Nam - như ‘hạ cấp ngoại giao’, triệu hồi đại sứ của Slovakia về nước (hiện tại chỉ là Đại biện lâm thời), và tuyên bố trục xuất Đại sứ của Việt Nam tại Slovakia về nước - té ra là không xa sự thật. Nhưng với tuyên bố ‘tạm ngừng quan hệ với Việt Nam’, Slovakia còn trừng phạt nặng nề hơn cả thế.
Sự kiên nhẫn đã chạm vào giới hạn cuối cùng của nó.
Sự thể cay đắng và quá bỉ mặt đối với giới chóp bu Việt Nam là động tác trừng phạt của Slovakia lại xảy ra đúng vào thời gian Việt Nam đang rất kỳ vọng rằng EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- châu Âu) sẽ được Hội đồng châu Âu chấp thuận cho Ủy ban châu Âu chính thức ký kết vào cuối năm 2018.
Nhưng với tốc độ lan truyền chóng mặt của cơn địa chấn mang tên Trịnh Xuân Thanh từ Đức sang Slovakia và lan ra cả Pháp, Ba Lan, Nga…, chẳng có gì chắc chắn là Nghị viện châu Âu - mà các nghị viện Đức, Pháp, Slovakia, Ba Lan đều là những thành viên - sẽ dễ dàng phê chuẩn EVFTA cho dù hiệp định này có được ký chăng nữa.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 22/10/2018
Rốt cuộc, giới phân tích kinh tế-chính trị cùng rất nhiều người đặc biệt theo dõi sự tồn vong hàng năm của chế độ Trung Quốc cũng đã có được một bằng chứng – dù nhỏ bé nhưng có giá trị, mà từ đó có thể bổ sung cho những dự đoán về khoảng thời gian chính thể này có thể sẽ cáo chung.
Công nhân xí nghiệp may áo tắm ở Yinglin, Trung Quốc. (Hình : STR/AFP/Getty Images)
Bằng chứng
Đầu Tháng Mười năm 2018, tờ The New York Times International của Mỹ đã có được trong tay một chỉ thị của chính phủ Trung Quốc gửi cho các nhà báo ở nước này ngay tuần trước đó – quy định rõ 6 chủ đề kinh tế cần phải được "quản lý". Trong bài "Trung Quốc kiểm duyệt các tin tức thất lợi về kinh tế", The New York Times International đã công khai 6 chủ đề đó, bao gồm :
1. Các dữ liệu tồi tệ hơn dự kiến có thể cho thấy nền kinh tế đang chậm lại.
2. Các nguy cơ về các khoản nợ của các cấp chính quyền địa phương.
3. Tác động của cuộc chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ.
4. Các dấu hiệu suy giảm niềm tin của người tiêu dùng
5. Các nguy cơ lạm phát, hoặc tăng giá cùng với sự tăng trưởng kinh tế chậm lại.
6. Các vấn đề thời sự nóng bỏng cho thấy những khó khăn của cuộc sống của người dân.
Có thể cho rằng đây là một trong lần hiếm hoi mà báo chí quốc tế phát hiện được một văn bản chỉ thị của chính phủ Trung Quốc liên quan đến tính đặc biệt nhạy cảm về kinh tế. Trước đó, ngay cả vào thời nền kinh tế Trung Quốc phải chịu hệ quả không nhỏ từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới xuất phát từ tâm điểm các ngân hàng ở Mỹ vào cuối năm 2007 – đầu năm 2008, đã chẳng có mấy bằng chứng về việc chế độ Trung Quốc lo sợ đến mức phải ban hành một chỉ thị nội bộ nào đó nhằm cấm cản báo chí nước này đăng tin bài về thực chất của nền kinh tế, dù rất nhiều người tin rằng những chỉ thị như thế là luôn tồn tại dưới nhiều hình thức từ nhiều năm qua.
Vào lần này và rất đáng chú ý, bản chỉ thị của chính phủ Trung Quốc về sáu chủ đề nhạy cảm kinh tế là khá tương đồng với những dấu hiệu và biểu hiện suy trầm trong thời gian gần đây mà có thể trở thành nguy cơ lớn trong nền kinh tế quốc gia Cộng Sản đông dân nhất thế giới này.
Thực chất kinh tế Trung Quốc ?
Khách quan mà xét, Trung Quốc đã vượt qua được một thử thách rất lớn về kinh tế vào giai đoạn những năm 2012-2013. Từ năm 2011, người được giải Nobel kinh tế là Tiến sĩ Nouriel Roubini đã đưa ra dự báo rằng kinh tế Trung Quốc sẽ "hạ cánh cứng vào năm 2013". Tốc độ suy giảm GDP, nợ chính quyền địa phương và tình hình thiếu khả quan của các thị trường bất động sản và chứng khoán… là một số cơ sở cho nhận định bi quan như vậy của Roubini và cả một số tổ chức phân tích tài chính phương Tây. Tuy thế đến năm 2013, Trung Quốc lại bất ngờ vượt qua vực thẳm kinh tế và tài chính để sau đó nhịp độ tăng trưởng GDP có phần phục hồi. Cho tới gần đây, nền kinh tế quốc gia này vẫn có vẻ "ổn" và không bị quá nhiều dư luận nghi ngờ như trước đây.
Nhưng vẫn có một tử huyệt của nền tài chính Trung Quốc mà chính quyền nước này chưa bao giờ dám công bố : tỷ lệ nợ công quốc gia vọt lên đến 237% GDP, tức đến 28 ngàn tỷ USD vào năm 2016 – theo phân tích của tờ Financial Times vào tháng Tư, 2016 – vượt xa tỷ lệ nợ của các nước đang phát triển khác. Tình trạng này có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính hoặc trì trệ kinh tế kéo dài ở Trung Quốc.
Tất nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc hoàn toàn có thể tự an ủi rằng họ có một kho dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới – lên đến 4.000 tỷ USD vào năm 2016 và giảm xuống còn khoảng 3.000 tỷ USD vào năm 2018. Chỉ có điều, con số 3.000 USD – 4.000 tỷ USD này chỉ bằng 1/7 – 1/9 so với gánh nặng nợ công 28 ngàn tỷ USD.
Vào đầu năm 2017, đã có những phản biện mới nhất về thực chất nền kinh tế Trung Quốc đến từ ông Gordon G. Chang, tác giả của cuốn sách "Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc". Vị luật sư kiêm nhà bình luận người Mỹ này nhận định "kinh tế Trung Quốc sắp rơi tự do" trong một cuộc phỏng vấn mới đây với trang Đại Kỷ Nguyên, theo đó ông cho rằng Trung Quốc chỉ ổn định trên bề mặt trong năm 2017, nhưng tiềm ẩn bất ổn thực sự dưới bề mặt.
Hai thông tin đặc biệt mà ông Gordon G. Chang cho biết là : Trong năm 2015, luồng vốn chuyển ra nước ngoài là cao chưa từng thấy, từ 900 tỷ USD đến 1.000 tỷ USD ; và theo nguồn tin của ông, chỉ có 500 tỷ USD trong số 3.000 tỷ USD dự trữ ngoại hối là còn có thể sử dụng được. Cũng theo ước tính của ông, Trung Quốc chỉ còn 1,5 nghìn tỷ USD tiền khả dụng để bảo vệ đồng CNY (nhân dân tệ)…
Có ít nhất một cơ sở cho nhận định về tiền khả dụng chỉ chiếm một nửa so với con số dự trữ ngoại hối mà chính quyền Trung Quốc công bố : vào năm 2011, chính một cục trưởng Thống kê của Trung Quốc, người sau đó đã về hưu, đã phải thừa nhận rằng nhiều thống kê của quốc gia này không phản ánh đúng sự thật. Cũng vào năm đó, con số nợ của các chính quyền địa phương ở Trung Quốc được công bố chỉ khoảng 1.550 tỷ USD, nhưng đến năm 2014 thì Trung Quốc đã phải thừa nhận loại nợ này đã tăng gấp đôi, tức 3.000 tỷ USD. Còn đến Tháng Mười năm 2018, tờ Financial Times công bố nợ của chính quyền địa phương đã lên đến 6.000 tỷ USD, chiếm tới 60% GDP của Trung Quốc.
Trong khi đó, vài nhà phân tích ở Hồng Kông cũng cho rằng GDP thực sự ở Trung Quốc không thể tăng đến 7% như báo cáo, mà chỉ khoảng 4-5% hàng năm.
Một trong những gam màu xám không thể che giấu chính là bức tranh về thị trường chứng khoán Trung Quốc. Từ năm 2015 đến nay, chỉ số chứng khoán Thượng Hải đã liên tiếp lao dốc và suy giảm, mất hơn 40% giá trị so với đỉnh cao nhất của nó vào năm 2015. Tuy nhiên, vấn đề chính yếu là mặc dù có nhiều thông tin cho biết Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc đã đổ ra hơn 100 tỷ USD, hoặc gấp nhiều lần như thế để vực dậy chứng khoán nhưng lại khiến quỹ dự trữ ngoại hối nước này giảm từ 4.000 tỷ USD xuống còn 3.000 tỷ USD trùng với giai đoạn chứng khoán Thượng Hải giảm thê thảm, vẫn chẳng có dấu hiệu nào cho thấy biểu đồ các chỉ số chứng khoán Trung Quốc sẽ chứng minh được sức khỏe của nền kinh tế nước này là phục hồi và ổn định bằng cách hướng lên. Ngược lại là đằng khác, các nhà đầu tư chứng khoán lúc nào cũng như chực chờ để bán tháo cổ phiếu.
Trung Quốc sẽ thoát hay không ?
Trong hai năm 2017 và 2018, bất chấp đại hội 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc "thành công tốt đẹp" với tư tưởng Tập Cận Bình thậm chí còn được ghi vào Hiến Pháp và đưa nhân vật này trở nên độc tôn quyền lực mà có thể so sánh với thời Mao Trạch Đông, đã có những xác nhận gián tiếp trên báo chí nhà nước Trung Quốc về tốc độ phát triển kinh tế đã bị chậm lại. Cùng lúc, vấn nạn nợ của chính quyền địa phương lại được nêu ra và trở thành một lo lắng lớn, tuy cho đến nay chưa có con số thực nào về giá trị nợ là bao nhiêu – 3.000 tỷ USD như trước đây hay 6.000 tỷ USD iện thời.
Trong khi đó, tác động của cuộc chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã biến thành điểm nhấn rõ mồn một trên bức tranh kinh tế ngày càng tối đi, bất chấp Tập Cận Bình và hệ thống tuyên truyền một chiều của ông ta cố công tìm cách vùi lấp.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung mới chỉ đi vài bước khởi đầu, nhưng đã có quá nhiều dự đoán từ giới phân tích rằng Bắc Kinh hầu như không thể có được xác suất thoát hiểm trong cuộc chiến này.
Những hậu quả nào sẽ xảy đến khi Trung Quốc thua trận trước Hoa Kỳ ?
Rất dễ thấy : xuất khẩu đang giảm và sẽ còn giảm, kéo theo xuất siêu giảm, và tất yếu dẫn đến GDP giảm cùng gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở Trung Quốc, tạo thêm bất ổn xã hội tại nước này. Cũng theo đó, quỹ dự trữ ngoại hối sẽ khó cầm cự được ở ngưỡng 3.000 tỷ USD. Còn môi trường đầu tư nước ngoài sẽ còn bị thoái vốn mạnh hơn nữa mà có thể đẩy kinh tế Trung Quốc trở về thời trước khi tăng trưởng nóng cách đây vài chục năm.
Chưa kể đến vị thế chính trị của Tập Cận Bình có thể bị lung lay, dù chưa xét đến nguy cơ mất ghế của ông ta.
Một cách vô tình, bản chỉ thị hoàn toàn có chủ ý của chính phủ Trung Quốc về sáu vấn đề nhạy cảm kinh tế mà tờ The New York Times International của Mỹ vừa công bố đã gián tiếp thừa nhận kinh tế Trung Quốc về thực chất đang rơi vào giai đoạn suy thoái.
Như một thói quen suy luận ngược, gần như bất kỳ vấn đề gì mà một chính quyền độc trị cấm cản thông tin thì đó chính là thực trạng trầm trọng của chính quyền đó.
"Tăng trưởng kinh tế chậm lại" – như khái niệm trong bản chỉ thị của chính phủ Trung Quốc – hoàn toàn có thể được hiểu là nền kinh tế nước này về thực chất đã rơi vào suy thoái khi GDP giảm trong hai quý liên tiếp hoặc hai năm liên tiếp.
Còn nợ của các chính quyền địa phương thì lại gắn liền với nợ xấu và nợ công quốc gia – một quốc nạn của Trung Quốc.
Những dấu hỏi lớn tiếp theo là chế độ Trung Quốc có tìm cách tránh thoát khỏi giai đoạn suy thoái kinh tế vào lần này như nó đã thoát được vào những năm 2011 – 2012 ? Nhưng nếu không thể tránh thoát, Trung Quốc sẽ bị tổn thương hệ chính trị độc đảng đến mức nào ? Liệu từ đó có dẫn đến tương lai không quá xa về sự sụp đổ trong vô vọng của nó ?
Và nếu tất cả những dấu hỏi trên là không hề hoang tưởng, "đảng em" Việt Nam sẽ ra sao trong cái thế đổ gập không thể tránh khỏi của "đảng anh" – kẻ mà từ lâu vẫn bị xem chỉ là một con hổ giấy mà chẳng thể nào "cứu trợ" đủ nhiều cho những kẻ thân Tàu ở Việt Nam ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 21/10/2018
Đã có một sự trùng hợp kỳ lạ giữa vụ chính quyền độc đảng ở Việt Nam tống xuất tù nhân lương tâm Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sang Mỹ và việc Ủy ban Châu Âu thông qua hai thỏa thuận về thương mại và đầu tư Liên Hiệp Châu Âu - Việt Nam (EVFTA) tại Bỉ : cả hai sự kiện này đều xảy ra vào buổi trưa ngày 17 tháng Mười năm 2018.
Bà Cecilia Malmstrom, Cao ủy Thương mại của Liên minh châu Âu (EU) – Tương đương với Bộ trưởng Thương mại của cả khối EU. Ảnh: internet
Trùng hợp ngẫu nhiên hay lại đổi chác ?
Đúng giữa trưa. Trùng hợp ngẫu nhiên chăng ?
Có thể xem là ngẫu nhiên, nếu đã chưa từng tồn tại, chính sách bất thành văn ‘đổi nhân quyền lấy thương mại’ của chính quyền Việt Nam. Thậm chí, chính sách này đã tồn tại một cách dày đặc và có hệ thống từ những năm 2000 sau khi bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Hoa Kỳ và bắt đầu ký Hiệp định song phương thương mại Việt - Mỹ, cho đến năm 2006 khi Việt Nam được Mỹ chấp thuận cho tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), sau đó là giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2016 khi Việt Nam kỳ vọng được Mỹ cho tham gia vào hiệp định TPP…
Trong suốt thời gian trên, ‘bản lĩnh và trí tuệ của đảng’ đã tiến hóa đến mức luôn chọn cách thả tù nhân lương tâm - những người bất đồng chính kiến - để đổi lấy những lợi ích thương mại mà cộng đồng quốc tế dành cho chế độ này. Đặc biệt vào năm 2014, đã có đến 12 tù nhân chính trị được trả tự do để mưu tính đổi chác TPP.
Còn bây giờ, khi TPP đã trở nên nỗi thất vọng không sao hiểu nổi, chỉ còn lại EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu), mà khoảng thời gian tháng Mười và Mười Một năm 2018 sẽ quyết định số phận được ký hay không đối với nó, và nếu được ký thì khoảng thời gian trước tháng Năm năm 2019 sẽ quyết định số phận EVFTA có được Nghị viện Châu Âu phê chuẩn hay không.
Không khí điều trần ngày 10/10 ra sao ?
Từ giữa năm 2018, trùng với hoạt động của một nhóm chuyên gia của Liên Hiệp Châu Âu (EU) đến Việt Nam để kiểm tra lại tiến trình Việt Nam thực hiện những yêu cầu của EU về ‘thẻ vàng hải sản’ của EU, Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc họp quan trọng về điều trần EVFTA - nhân quyền tại Brussels, Bỉ sẽ diễn ra vào tháng Mười năm 2018. Cũng từ thời điểm đó, chính quyền Việt Nam đã khởi động một chiến dịch vận động vừa công khai vừa ngầm kín để EVFTA được Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu ký chính thức và đệ trình hiệp định này lên Nghị viện Châu Âu để phê chuẩn cuối cùng.
Đó cũng là lúc bắt đầu có tin Như Quỳnh có thể được tự do.
Ngay sau khi Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được tự do, một bản tường trình của Mạng lưới blogger Việt Nam - tổ chức xã hội dân sự độc lập mà Như Quỳnh đã tham gia ngay từ ngày đầu - cho biết chính quyền Việt Nam đã thông báo với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ tháng Bảy năm 2018 về việc sẽ trả tự do cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, nhưng chưa biết vào thời điểm nào.
Cũng theo bản tường trình trên, từ tháng Bảy đến tháng Mười năm 2018, có ít nhất vài lần phía chính quyền Việt Nam thông báo cho Mỹ là ‘sẽ thả Nguyễn Ngọc Như Quỳnh’ vào một ngày xác định, nhưng ngay sau đó đã thất hứa.
Lời hứa có giá trị duy nhất của phía Việt Nam là lần hứa cuối cùng được đưa ra vào ngày 11/10/2018 : sẽ thả Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vào ngày 17/10/2018.
Vì sao lại có thái độ ‘thiện tâm’ đến thế từ phía nhà cầm quyền Việt Nam ?
Nếu biết rõ rằng từ trước tới nay chưa từng có một trường hợp tù chính trị - bất đồng chính kiến nào được chính quyền Việt Nam giang tay phóng thích mà không có lý do đủ sâu xa ; và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - một người hoạt động nhân quyền quá nhiệt thành và bằng nhiều bài viết phản biện lẫn tố cáo của mình đã giúp cho người dân miền Trung để phản đối thảm họa xả thải của nhà máy Formosa, người mà vào đầu năm 2017 đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh tặng danh hiệu ‘Người phụ nữ can đảm thế giới’, cũng là người mà đã bị chính quyền Việt Nam thâm thù sâu sắc đến độ giáng cho cô cái án tù giam đến 10 năm trời, thì càng không thể xảy ra chuyện tự nhiên nà cầm quyền trả tự do cho cô.
Không biết vô tình hay hữu ý, ngay trước ngày 11/10 trên là ngày 10/10 - thời điểm mà Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức phiên điều trần EVFTA - nhân quyền, với sự tham gia của Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam là Thứ trưởng Bộ công thương Trần Quốc Khánh. Trong buổi điều trần này, đoàn đàm phán Việt Nam đã hoàn toàn thất bại khi không thể chứng minh được là Việt Nam đã ‘cải thiện nhân quyền’ như thế nào, càng cho thấy Việt Nam đã chẳng thèm quan tâm đến các yêu cầu về cải thiện nhân quyền do EU đòi hỏi như Việt Nam phải ký 3 công ước quốc tế về lao động liên quan đến các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), vấn đề nhân quyền và vấn đề môi trường.
Trong cuộc họp trên, điều mà những người tham gia đặt câu hỏi muốn biết là Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nhân quyền ; kế hoạch cụ thể để cải thiện nhân quyền là gì ; Việt Nam cần thể hiện bằng hành động để chứng minh sẽ và có thể thực hiện các cam kết. Ngoài ra cũng yêu cầu rằng 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA.
Một người tham dự cuộc họp là bà Granwander Hainz đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể.
Thậm chí bà Maria Arena thuộc Đảng Xã hội của Vương quốc Bỉ, là thành viên của Nghị Viện Liên Âu còn nói thẳng : "Năm nay là năm 2018, từ năm 2012-2018 chúng tôi nhận thấy các tiêu chí về quyền Nghiệp đoàn và nhân quyền của Việt Nam vẫn chưa tiến bộ một cách đầy đủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chờ thêm 6 tháng nữa để Việt Nam thực hiện lời hứa. Nhưng không chỉ là lời hứa mà là sự đảm bảo, ngay cả trước khi Nghị Viện Liên Âu phê chuẩn hiệp định này. Nghị viện Liên Âu cần Việt Nam có những chỉ dấu tích cực chứ không chỉ là lời hứa. Chúng tôi có thể cho thêm thời gian, nhưng thời gian đó phải được Việt Nam sử dụng để có những hành động cho thấy được sự nỗ lực của họ".
Vụ tống xuất Mẹ Nấm có liên quan EVFTA ?
Sau ngày 10/10, một sự kiện ‘ngoài lề’ khác đã diễn ra chuyến công du của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đến hai nước thuộc EU là Áo và Bỉ.
EVFTA là lợi ích kinh tế quá thiết thân đối với sự tồn tại của ngân sách và cũng là của chế độ độc đảng ở Việt Nam. Trên danh nghĩa là dự Hội nghi cấp cao ASEM lần thứ 12 và Hội nghị P4G, nhưng rất có thể Nguyễn Xuân Phúc nhắm đến mục tiêu lớn nhất trong chuyến đi Châu Âu lần này là thuyết phục bằng được - nếu không phải là Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu thì cũng là một số nước trong EU - để ‘sớm ký kết và triển khai EVFTA’.
Hai sự trùng khớp về thời điểm ‘sẽ thả Nguyễn Ngọc Như Quỳnh’ và ‘Nguyễn Ngọc Như Quỳnh lên máy bay’ với sự khởi đầu và sự kết thúc của cuộc họp Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu vào ngày 17/10 có thể hé lộ một bí mật : sau khi không đáp ứng được bất kỳ yêu cầu nào của EU về cải thiện nhân quyền và nhận thấy rõ là chính vì nguồn cơn đó mà sẽ khiến EVFTA không thể được ký kết lẫn thông qua, chính quyền Việt Nam đã giở ra con bài dự trữ tiềm năng là ‘thả Mẹ Nấm’ - mặc dù trường hợp của Quỳnh được xem là một ‘ca’ của người Mỹ, do chính phủ Mỹ đòi hỏi chứ không phải do yêu cầu của EU.
Câu trả lời từ Việt Nam cho EU !
Không chỉ thả Nguyễn Ngọc Như Quỳnh để lấy lòng Mỹ và EU, đặc biệt nhằm thuyết phục Ủy ban Châu Âu làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu về hai thỏa thuận trong EVFTA, rất có thể chính quyền Việt Nam đã phải giở thêm một con át chủ bài mà trước đó chẳng bao giờ họ muốn đặt lên bàn : hứa hẹn ký 3 công ước quốc tế về quyền lao động mà EU đòi hỏi.
Hẳn đó là cơ sở để "Chúng tôi đang bàn về chuyện này một công khai với những người tương nhiệm của phía Việt Nam và thỏa thuận thương mại sẽ không làm cho Việt Nam bỗng chốc trở thành một nền dân chủ. Nó là một công cụ trong hộp công cụ mà chúng tôi có trong quan hệ với Việt Nam và các nước khác" - Trưởng đặc trách thương mại EU Cecilia Malmstrom nói trong một cuộc họp báo, được đài VOA đưa tin. Theo đó, "các bên đã nhất trí về một thỏa thuận liên quan để thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, bao gồm các cam kết, đối thoại và các chế tài khả dĩ".
Đã khá rõ rằng vụ thả Nguyễn Ngọc Như Quỳnh có liên quan đến lợi ích EVFTA của chính quyền Việt Nam. Hành động này còn có thể kéo theo một chuỗi hành động khác trong thời gian tới : chính quyền Việt Nam buộc phải thả tiếp một số tù nhân lương tâm và ký 3 công ước quốc tế về quyền lao động mà EU yêu cầu.
Tuy nhiên, như bà Granwander Hainz đã đi guốc thấu cáy trong bụng chính thể cộng sản ở Việt Nam khi chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của chế độ này chỉ là lời hứa suông, cả Ủy ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu và Nghị viện Châu Âu hãy nên tỉnh giấc : chẳng có gì bảo chứng cho lời cam kết ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Bằng chứng về thái độ hai mặt đó đã tích tụ quá nhiều kể từ năm 2013 khi Việt Nam được chấp nhận là thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc : nhà cầm quyền Việt Nam vẫn liên tiếp truy bắt, bỏ tù hàng trăm nhà hoạt động nhân quyền bằng những điều luật cực kỳ mơ hồ và ngụy tạo.
Chính quyền Việt Nam thậm chí còn thoải mái ký kết Công ước quốc tế về chống tra tấn, để ngay sau đó hàng năm cứ liên tiếp xảy ra quá nhiều cảnh công an đánh đập dã man người hoạt động nhân quyền và người dân biểu tình, quá nhiều cảnh công dân phải ‘tự chết’ trong đồn công an, trong đó số trường hợp các nhân viên công an bị phát hiện đã tra tấn đến chết người dân lại quá hiếm hoi.
Chỉ một ngày sau khi Ủy ban Châu Âu làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu về EVFTA và được Thủ tướng Phúc hân hoan thông báo ‘tin mừng’ cho toàn bộ giới quan chức, một ‘tòa án nhân dân’ ở Việt Nam đã có câu trả lời cho EU khi xử phúc thẩm nhà hoạt động nhân quyền Lê Đình Lượng và y án với mức án 20 năm tù giam !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 19/01/2018
Không phải quan chức kinh tế, mà lại chính là một viên chức an ninh lần đầu tiên nói bóng gió về khả năng Mỹ và Việt Nam sẽ ‘cùng khai thác dầu khí’.
Logo Exxon Mobile trên thị trường chứng khoán New York, 2015.
Hé lộ trên được nêu bởi John Bolton - Cố vấn An ninh Mỹ - trong cuộc phỏng vấn của chương trình Hugh Hewitt có tiếng của Mỹ vào ngày 11/10/2018. Một lần nữa John Bolton đã nêu ra những phát ngôn cứng rắn đối với Trung Quốc liên quan đến một Biển Đông đang lộ dần nguy cơ xung đột quân sự Mỹ - Trung.
Mỹ hợp tác với Việt Nam và bất chấp Trung Quốc ?
"Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không" - John Bolton nói, tuy không đề cập cụ thể Mỹ sẽ hợp tác khai thác với nước nào trong số các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan.
Phát ngôn thách thức rất đáng chú ý trên của Cố vấn An ninh John Bolton xuất hiện chỉ một ngày sau khi Thượng Viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cắt đứt đường lưỡi bò của Trung Quốc trên Biển Đông, và cùng lúc với thông tin chính thức về chuyến thăm Việt Nam bất ngờ vào trung tuần tháng Mười năm 2018 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis.
Liệu có những gì logic giữa những sự kiện trên, hay cụ thể là giữa phát ngôn của John Bolton và hành động của Jim Mattis ?
Chuyến công du Việt Nam của Jim Mattis cũng là lần thứ hai liên tiếp trong vòng 10 tháng kể từ khi Jim Mattis nhận lãnh chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - một mật độ ‘thăm viếng’ khá dày đặc đối với quốc gia cách Mỹ đến nửa vòng trái đất và khiến giới quan sát chính trị quốc tế phải chú ý bởi tính chất bất thường của nó.
Nhiều giả thiết đã xuất hiện liên quan đến chuyến đi Việt Nam của Jim Mattis : tăng cường sự hiện diện của các hạm đội Mỹ ở khu vực Biển Đông, bảo đảm an ninh hàng hải cho các thương thuyền của Mỹ và các nước phương Tây tại Biển Đông, bán vũ khí cho Việt Nam, có thể đạt một thỏa thuận nào đó với Việt Nam về ‘thuê quân cảng Cam Ranh’, và ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’.
Trong khi các đợt tuần tra bằng tàu chiến và máy bay của Mỹ vẫn đều đặn gia tăng tại Biển Đông và thậm chí tàu chiến Mỹ còn áp sát đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa - nơi đang ngự trị bởi quân đội Trung Quốc, hai vấn đề khác là Cam Ranh và bán vũ khí cho Việt Nam vẫn chưa có gì rõ ràng, hay nói cách khác là trong lúc chưa có thông tin cụ thể nào về Cam Ranh thì cho tới nay, sau hơn hai năm kể từ khi Tổng thống Obama dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, Bộ Quốc phòng Việt Nam chỉ mới đặt mua một lô vũ khí giá trị khoảng 100 triệu USD từ Mỹ - chỉ bằng 1/10 giá trị các lô hàng vũ khí mà Việt Nam công bố đã mua của Nga.
Còn về dầu khí, cho tới nay không có biểu hiện rõ ràng về việc Mỹ đã hoặc sẽ hợp tác với những quốc gia như Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan để khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Nhưng hợp đồng cùng khai thác dầu giữa Tập đoàn dầu khí lớn nhất của Mỹ là ExxonMobil với PetroVietnam thì đã nằm trên các bàn giấy hai bên và được công bố cho toàn thế giới biết. Đó là mỏ dầu khí Cá voi Xanh.
Vì sao ExxonMobil không sợ Trung Quốc ?
Sau khi công ty Repsol của Tây Ban Nha bỏ chạy khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, còn Rosneft của Nga dù chưa thoái lui nhưng cũng chẳng thể nhúc nhích - đều trong cơn cám cảnh bởi nạn ‘khủng bố Trung Quốc’, Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ hiện là niềm an ủi duy nhất cho chính thể Việt Nam thuộc loại văn dốt võ dát và một ngân sách Việt Nam đang sắp lao xuống vực thẳm.
ExxonMobil từng thăm dò và hợp tác với Việt Nam để khai thác mỏ khí đốt Cá Voi Xanh ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi. Mỏ này có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối.
Vào tháng Giêng năm 2017, ExxonMobil đã trở thành nhà khai thác khí đốt lớn nhất của Việt Nam sau khi ký kết một hợp đồng trị giá 10 tỷ đô la để khai thác dầu khí trên biển Đông với PetroVietnam.
Vài tháng trước Hội nghị APEC 2017, ExxonMobil còn được Hà Nội bật đèn xanh cho việc thông báo chính thức khởi động dự án đầu tư khai thác khí đốt tại mỏ Cá Voi Xanh. Khi đó, báo chí nhà nước đã hoan hỉ như thể "sống lại" sau vụ Bãi Tư Chính tháng Bảy năm 2017 - khi Repsol, một công ty Tây Ban Nha liên doanh với PetroVietnam để khai thác dầu khí tại khu vực này, đã bị vài trăm tàu Trung Quốc bao vây và gây sức ép đến nỗi cuối cùng Repsol phải lặng lẽ rút lui khỏi Bãi Tư Chính, trong lúc toàn thể Bộ Chính trị lẫn Bộ Quốc phòng Việt Nam ngậm tăm lẫn ngậm đắng nuốt cay vì "có tiền trong túi mà không lấy được".
Kể từ khi Trung Quốc tuyên bố "đường Lưỡi Bò" 9 đoạn chiếm tới 90% diện tích Biển Đông, nhiều hãng dầu khí khác của Mỹ đã bỏ cuộc trước áp lực từ Trung Quốc. Nhưng ExxonMobil vẫn tiếp tục thăm dò và tập đoàn này đã phát hiện mỏ khí đốt lớn nhất của Việt Nam từ trước đến nay, nằm cách đất liền khoảng 100km.
Điều được giới chóp bu Việt Nam xem là ‘lợi thế lớn’ là mỏ Cá Voi Xanh hoàn toàn nằm ngoài bản vẽ "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, do đó giới chóp bu Việt Nam không phải quá lo sợ về phản ứng của Bắc Kinh nếu PetroVietnam liên doanh với Mỹ để khai thác khí đốt tại đây.
Trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang nhanh chóng cạn kiệt và đặc biệt đang quá thiếu ngoại tệ để trang trải nợ quốc tế – lên tới 10 - 12 tỷ USD/năm – và để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ các nước, đồng thời phải bảo đảm dự trữ ngoại hối, 20 tỷ USD dự kiến khai thác được từ Cá Voi Xanh - được xem là dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam - là con số rất đáng để giới lãnh đạo Việt Nam tỏ một chút can đảm trước "đồng chí tốt" Trung Quốc.
Nhưng vào ngày 7/11/2017 - trùng với thời gian Tổng thống Trump dự Hội nghị thượng đỉnh kinh tế APEC Đà Nẵng mà được báo chí đảng tung hô "thành công tốt đẹp" và "Việt Nam là nước hưởng lợi kinh tế lớn nhất trong APEC", ExxonMobil đã mang lại nỗi thất vọng lớn lao cho giới chóp bu Việt Nam : Chủ tịch Liam Mallon của Công ty Phát triển ExxonMobil đã tuyên bố sẽ hoãn dự án hợp tác với Việt Nam trên biển Đông tới năm 2019, với lời giải thích rất cô đọng : "chúng tôi cần phải đạt được một số thỏa thuận cụ thể" trước khi triển khai đầu tư chính thức.
Khi đó, một số đánh giá đã giả thiết về nguyên nhân chủ yếu và có thể là duy nhất của việc phải hoãn dự án có thể là Trung Quốc gây sức ép mà đã khiến Việt Nam có thể phải điều đình để ExxonMobil tạm ngừng khai thác mỏ Cá Voi Xanh.
Đến tháng Ba năm 2018 khi xảy ra vụ Repsol phải lần thứ hai liên tiếp rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, giả thiết đã biến thành thực tế được xác nghiệm một cách sống sượng : vẫn là "đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất của Việt Nam" là Trung Quốc đã nhảy bổ vào nhà của giới chóp bu Việt Nam để đòi không được hợp tác với Mỹ mà phải hợp tác với Trung Quốc để khai thác dầu khí.
Vào tháng Tư năm 2018, lần đầu tiên ExxonMobil đã lên tiếng liên quan đến mỏ Cá Voi Xanh. Tuy không xác nhận về một sức ép của Trung Quốc đối với mỏ dầu khí dồi dào trữ lượng này, ExxonMobil vẫn khẳng định kế hoạch và lộ trình sắp tới - một biểu hiện cho thấy tập đoàn này không mấy lo ngại cho dù Bắc Kinh sẽ làm những động tác nhằm bắt buộc ExxonMobil phải rút khỏi mỏ Cá Voi Xanh như đã khiến Repsol phải rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ.
Trước đó, tập đoàn Mỹ này từng khẳng định rằng dự án này "không nằm ở vùng có tranh chấp", và rằng "chủ quyền là vấn đề chỉ các chính phủ mới có thể quyết định".
Rất có thể, sự tự tin của ExxonMobil khi lên tiếng về mỏ Cá Voi Xanh phát xuất tự sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ cập cảng Đà Nẵng vào đầu tháng Ba năm 2018, nằm trong chiến lược tăng cường sự hiện diện của Mỹ tại Biển Đông và sẵn sàng đối đầu với hải quân Trung Quốc.
Cái áo mới
Không thể khác hơn và thật ra cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, hy vọng mỏng manh còn lại của Việt Nam chỉ còn là Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông. Để Việt Nam có thể ‘can đảm bám Mỹ’, ít nhất cho tới lúc nào mục tiêu khai thác dầu khí để bồi hoàn cho một nền ngân sách rỗng ruột của Việt Nam vẫn còn bị Trung Quốc thẳng tay cấm đoán.
Còn bây giờ đang là những tín hiệu từ Mỹ, chứ không phải Việt Nam.
Hãy kiên nhẫn chờ thêm, và có lẽ không lâu nữa. Nếu trong và sau chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis xuất hiện tin tức về ‘Mỹ cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam ở Biển Đông’ và cái tên Tập đoàn ExxonMobil của Mỹ lại hiện ra một cách sôi nổi lẫn ấn tượng, có thể hình dung rằng cuối cùng thì giới chóp bu Việt Nam cũng phải quyết định bớt thói đu dây tay ba ngả ngớn mà rất dễ té lộn nhào, để chuyển sang tư thế nghiêng ngả về phía Hoa Kỳ với một góc nhỏ nào đó trên hai trục hình học địa - chính trị quốc tế.
Một cách nào đó, cái áo mới của Bộ Chính trị Việt Nam vừa khoác vào có vẻ giống như một lời tuyên chiến không dám ra mặt với Bắc Kinh và sẽ khiến Tập Cận Bình lộn ruột.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 17/10/2018