Kịch bản tồi tệ nhất là đối đầu vũ trang ?
Anh Tú, VNTB, 12/05/2020
"Kịch bản tồi tệ nhất của cuộc đối đầu vũ trang" được nêu bật trong báo cáo của Bộ an ninh Trung Quốc gửi đến ông Chủ tịch Tập Cận Bình.
Tranh cãi thời Chiến tranh Lạnh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có nguy cơ đóng băng quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn trên thế giới, gây ra nguy cơ xung đột quân sự.
Trong ba tháng qua, các tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã đóng băng bầu không khí ngoại giao hai bên trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Thậm chí còn có lo ngại trong chính quyền của Tập Cận Bình rằng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo sẽ thách thức quyền cai trị của Đảng cộng sản Trung Quốc. Một nghiên cứu nội bộ của Bộ An ninh Nhà nước, được trích dẫn bởi Reuters, cảnh báo Trung Quốc phải chuẩn bị cho "kịch bản tồi tệ nhất về cuộc đối đầu vũ trang".
"Báo cáo, được trình bày vào đầu tháng trước cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả Chủ tịch Tập Cận Bình, kết luận rằng xu hướng chống Trung Quốc toàn cầu đang ở mức cao nhất kể từ khi xóa Quảng trường Thiên An Môn năm 1989", Reuters đưa tin hôm thứ Hai (4/5).
"Do đó, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với làn sóng chống Trung Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu sau đại dịch virus corona và cần chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ nhất cho cuộc đối đầu vũ trang giữa hai nước", báo cáo cho biết.
Cho đến nay, hơn 3,6 triệu người đã bị nhiễm loại corona mới này trên toàn cầu với số người chết là 252.000. Tại Hoa Kỳ, hơn 1,2 triệu người đã bị nhiễm gần 70.000 ca tử vong.
Số liệu chính thức của Trung Quốc rất nhỏ khi so sánh với số liệu của Mỹ. Tính đến ngày 4 tháng 5, số ca mắc bệnh là 82.881 người với 4.633 người chết trong dân số 1,39 tỷ người. Ngoài tâm chấn ban đầu của Covid-19 tại thành phố Vũ Hán và tỉnh Hồ Bắc, chỉ khoảng 15.000 trường hợp nhiễm bệnh.
Trong bối cảnh đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo đã đưa ra các cáo buộc tại Trung Quốc.
Tuần trước, Trump tuyên bố ông đã nhìn thấy bằng chứng khiến ông "rất tin tưởng" rằng Covid-19 đến từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, một cáo buộc mà Trung Quốc đã kiên quyết bác bỏ.
Trước đó, ông Pompeo đã cáo buộc Trung Quốc gây ra "một số lượng tổn thất lớn" và "tử vong" vì đã che đậy sự lây lan ban đầu của virus corona.
"Tôi vẫn lo lắng rằng có những điều chúng ta không biết, "ông nói tháng trước, được trích dẫn bởi Asia Times.
"Đây là một thách thức đang diễn ra trong đó Đảng cộng sản Trung Quốc và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã không thực hiện được những việc thuộc trách nhiệm của họ khi có đại dịch", ông Pompeo nói thêm.
Một lần nữa, Trung Quốc phủ nhận tuyên bố đó.
Nhưng về mặt chính trị, đây là một cơn ác mộng trong quan hệ người dân đối với Đảng cộng sản Trung Quốc, mặc dù họ đã đưa ra cái gọi là "ngoại giao khẩu trang". Các cáo buộc về sự bất tài đã được dùng chống lại chính phủ Trung Quốc do sự chậm trễ trong phản ứng ban đầu đối với cuộc khủng hoảng. Cũng có báo cáo rằng virus đã được các quan chức ở Vũ Hán "che đậy" vào tháng 12.
"Với cái chết của Lý Văn Lượng, một bác sĩ bị chính quyền nhà nước khiển trách vì đã cảnh báo người khác về virus corona mới", Yuen Ang, từ Đại học Michigan, viết trong bài bình luận của mình cho Project Syndicate.
Vào thứ Hai (4/5), trọng tâm đã quay trở lại Hoa Kỳ khi Phó Cố vấn An ninh Quốc gia Matthew Pottinger nói rõ, những nỗ lực của Trung Quốc để đàn áp những chỉ trích nội bộ sẽ gây tác dụng ngược.
Trong bài phát biểu bằng tiếng Quan thoại, ông đã nói chuyện trực tiếp với người dân Trung Quốc bằng cách gợi lên những ký ức về phong trào khởi nghĩa dân túy vào ngày 4 tháng 5 năm 1919 do sinh viên lãnh đạo sau Thế chiến 1.
"Khi những hành động nhỏ của lòng can đảm bị chính phủ loại bỏ, những hành động dũng cảm lớn hơn sẽ xuất hiện. Trung Quốc sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ chủ nghĩa dân túy hơn là chủ nghĩa dân tộc" ông nói, theo bài viết của Asia Times.
"Với một số người, họ cần sự chấp thuận của nhiều người để cai trị. Khi một số người đặc quyền quá mức và trở nên ích kỷ, chủ nghĩa dân túy sẽ kéo họ trở lại hoặc ném họ xuống biển", ông nói thêm, những bình luận dường như được nhắm vào Đảng cộng sản Trung Quốc.
Bonnie Glaser, giám đốc Dự án quyền lực Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, gọi đó là "bài phát biểu lạ thường nhất mà chúng tôi từng thấy" từ chính quyền Trump.
"Nếu là thành viên của Đảng cộng sản Trung Quốc, sẽ coi (tái hiện phong trào ngày 4 tháng 5) như một sự khích lệ để mọi người thách thức các bộ phận trong hệ thống chính trị của mình. Điều đó không phải lúc nào cũng có nghĩa là lật đổ các nhà lãnh đạo, nhưng nó chắc chắn khuyến khích sự phát triển của quần chúng", ông nói với The Guardian.
Bạn đã có thể cảm thấy gió chiến tranh lạnh quét qua các hành lang quyền lực ở Trung Quốc và Hoa Kỳ vào mùa hè này chưa ?
Anh Tú
Nguồn : VNTB, 12/05/2020
*******************
Trung Quốc cùng lúc gây gổ với Ấn Độ và Nhật Bản
Hải Yến, Thoibao.de, 12/05/2020
Không chỉ hung hăng trên Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục gây sự với hai quốc gia láng giềng khác là Ấn Độ và Nhật Bản.
Quân đội Ấn Độ hôm 10/5 cho biết một số binh sĩ Ấn Độ và Trung Quốc đã ẩu đả và ném đá vào nhau tại khu vực biên giới hẻo lánh giữa 2 nước gần Tây Tạng.
Theo AFP, quân đội Ấn Độ tiết lộ một số binh sĩ nước này đã có các vụ ẩu đả trong hai ngày 09-10/5 với các binh sĩ Trung Quốc ở khu vực hẻo lánh trên biên giới hai nước, tại vị trí chiến lược gần Tây Tạng.
Người phát ngôn Bộ Tư lệnh phía Đông của Ấn Độ, ông Mandeep Hooda nói : "Hành động hung hăng của cả hai bên khiến cho các binh sĩ bị thương nhẹ. Đó là tranh cãi từ việc ném đá dẫn tới ẩu đả".
Sự kiện diễn ra hôm 09/5 tại khu vực Naku La, gần cửa khẩu Nathu La, cao 4.572 mét ở bang Sikkim phía đông bắc Ấn Độ, khu vực tiếp giáp với cả Bhutan, Nepal và Trung Quốc.
Hơn 100 binh sĩ của Trung Quốc và Ấn Độ đã tham gia vụ đụng độ dọc biên giới hai nước và một số binh sĩ ở cả hai bên bị thương. Một sĩ quan quân đội Ấn Độ cho hay bảy lính Trung Quốc và bốn lính Ấn Độ bị thương.
Sự việc sau đó đã được giải quyết bằng "đối thoại và tương tác" ở cấp địa phương, theo ông Hooda.
Ông Hooda nói thêm : "Cuộc đụng độ ngắn và bộc phát giữa các binh sĩ biên phòng diễn ra do ranh giới chưa được xác định".
Một vụ đụng độ khác giữa binh sĩ hai bên diễn ra sáng 10/5 tại Ladakh
New Indian Express đưa tin : "Người Trung Quốc đã động chạm với người Ấn Độ và các binh sĩ Ấn Độ đã can thiệp, dẫn tới ẩu đả".
Vụ việc diễn ra bên phía Ấn Độ gần thị trấn Nallah. Vụ việc đã được giải quyết nhưng binh lính cả hai bên vẫn đang hiện diện ở khu vực này.
Các nguồn tin khác cho biết binh sĩ Trung Quốc đã hung hăng hơn kể từ cuối tháng 4, và từng đỗ xe bên phía đường kiểm soát thực tế (LAC) của Ấn Độ hôm 27/4. Binh sĩ Ấn Độ đã trao đổi với lính biên phòng Trung Quốc và sự việc đã được giải quyết.
Một sĩ quan quân đội Ấn Độ cho biết hàng năm các hoạt động quân sự dọc theo đường LAC đều sẽ ngừng lại do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, và các tần suất va chạm giữa hai bên cũng giảm xuống trong vòng từ 6 đến 7 tháng.
Người này cũng nói rằng số lần phía Trung Quốc vượt qua đường LAC sang phần do Ấn Độ kiểm soát đã tăng lên trong thời gian gần đây, và có nhiều địa điểm diễn ra va chạm giữa hai bên.
Trung Quốc và Ấn Độ có những tranh cãi về đường biên giới chung kéo dài 3.400 km
Biên giới tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc
Căng thẳng biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã kéo dài và đôi khi vẫn có các cuộc đụng độ nhỏ giữa binh sĩ hai nước. Hai quốc gia láng giềng đều sở hữu vũ khí hạt nhân và từng có cuộc chiến tranh ngắn vào năm 1962 để tranh giành lãnh thổ ở khu vực dãy Himalaya tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ.
Sự kiện hôm 09/5 là lần đầu tiên binh sĩ hai nước đụng độ kể từ năm 2017, khi lính biên phòng hai bên cãi lộn ở khu vực tây bắc Ladakh.
Cùng năm đó, có một cuộc chạm trán khác diễn ra khi Ấn Độ gửi quân tới vùng Doklam của Bhutan để ngăn chặn Trung Quốc xây dựng một con đường ở đó.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với khoảng 90.000 km vuông ở khu vực – vốn đang nằm dưới sự kiểm soát của New Delhi.
Tuy cả hai nước đều gửi quân tới tuần tra và các nhóm này thường xảy ra các đụng độ ở hình thức xô đẩy, va chạm thân thể, nhưng chưa có viên đạn nào được khai hỏa ở đường biên trong suốt bốn thập niên qua.
Trong đại dịch Covid-19, mối quan hệ của hai nước cũng có không ít sóng gió. Ngày 18/4, Ấn Độ đã thực hiện một thay đổi lớn trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của nước này, bằng việc áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt hơn để hạn chế các nước có chung đường biên giới thừa cơ thâu tóm các doanh nghiệp Ấn Độ trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Đây được coi là động thái nhằm ngăn chặn các công ty Trung Quốc tận dụng cơ hội trong dịch Covid-19.
Tiếp đó, Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Ấn Độ, cơ quan hàng đầu đối phó với dịch Covid-19, hôm 27/4 cho biết đã lên kế hoạch trả lại bộ dụng cụ xét nghiệm được mua từ hai công ty Trung Quốc vì độ chính xác kém, theo Reuters.
Đại sứ quán Trung Quốc lập tức chỉ trích Ấn Độ về việc ngừng sử dụng bộ dụng cụ xét nghiệm Covid-19 được sản xuất bởi hai công ty là Guangzhou Wondfo Biotech và công ty Zhuhai Livzon Diagnostics của Trung Quốc vì vấn đề chất lượng, cho rằng điều này là không công bằng và vô trách nhiệm.
Trong một diễn biến khác, truyền thông Nhật Bản hôm 09/5/2020 cho biết : Lực lượng Tuần Duyên Nhật Bản đã triển khai tàu tuần tra để cảnh cáo một nhóm tàu Hải cảnh Trung Quốc bị phát hiện đang truy đuổi một tàu đánh cá Nhật Bản ở vùng Biển Hoa Đông.
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post, Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết là bốn chiếc tàu Hải cảnh Trung Quốc đã xâm nhập vào vùng biển gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vào khoảng 16 giờ ngày 08/5.
Trích tin từ hãng thông tấn Nhật Jiji Press, tờ báo Hồng Kông cho biết là khoảng 50 phút sau đó, hai chiếc tàu Trung Quốc bắt đầu đuổi theo một tàu cá Nhật Bản tại khu vực cách Uotsuri, đảo lớn nhất thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, khoảng 12 km về phía tây nam.
Sau khi JCG điều động tàu tuần tra đến hiện trường, cảnh báo qua bộ đàm, các tàu Trung Quốc mới rời khỏi khu vực.
Theo hãng tin Nhật Bản Kyodo, bốn chiếc tàu Trung Quốc đã ở trong khu vực này khoảng hai giờ đồng hồ.
Vào thời điểm xảy ra vụ truy đuổi, có ba thuyền viên trên tàu cá Nhật Bản và không ai bị thương, JCG xác nhận.
Một quan chức của JCG cho biết : "Chúng tôi không thể nghĩ rằng một vụ việc nguy hiểm đã xảy ra".
Trước đó, vào sáng 08/5, trên mạng xã hội Weibo, Cảnh sát biển Trung Quốc thông báo một đội tàu hải cảnh tuần tra quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vốn là điểm nóng trong tranh chấp lãnh thổ Nhật Bản – Trung Quốc kéo dài nhiều thập niên qua
Hôm 17/4, các tàu hải cảnh Trung Quốc cũng đã xuất hiện quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư.
Chính quyền Trung Quốc còn tìm cách khẳng định chủ quyền tại Senkaku/Điếu Ngư bằng cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè hàng năm ở biển Hoa Đông, bao gồm cả vùng biển quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư. Năm nay, lệnh cấm đánh bắt đơn phương của Trung Quốc bắt đầu từ ngày 1/5 đến 16/8.
Quần đảo trên biển Hoa Đông mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, do Nhật Bản kiểm soát trên thực tế với tên gọi Senkaku. Các hòn đảo không có người ở nhưng giàu tài nguyên cùng rạn san hô ở Biển Hoa Đông trở thành điểm nóng trong tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Nhật Bản kéo dài nhiều thập niên qua, bất chấp mối quan hệ giữa hai bên dần được cải thiện trong những năm gần đây.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có hai chuyến thăm Trung Quốc kể từ năm 2018. Các quan chức hai bên đang chuẩn bị cho chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Nhật Bản đã được lên kế hoạch vào tháng trước nhưng phải hoãn lại vì đại dịch Covid-19.
Sự việc hôm 08/5 đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 2008, tàu hải cảnh của Trung Quốc đã tiến vào vùng lãnh hải xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư để truy bắt tàu cá Nhật Bản.
Động thái này được cho là diễn ra ngay sau khi Trung Quốc đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Hoa Đông, Biển Đông, Bột Hải và Hoàng Hải.
Năm 2012, sau khi Chính phủ Nhật Bản mua lại quần đảo này từ tư nhân, tần suất các vụ xâm nhập của tàu công vụ Trung Quốc tăng liên tục.
Chỉ tính riêng trong năm 2019, Nhật đã ghi nhận tổng cộng 1.097 vụ xâm nhập vùng nước xung quanh Senkaku của tàu Trung Quốc, trong đó có 126 lần các tàu này tiến vào vùng nước 12 hải lý xung quanh Senkaku. Theo báo Asahi của Nhật Bản, đây là tần suất cao thứ hai chỉ sau năm 2013.
Chưa dừng lại đó, Bắc Kinh cũng điều thêm các tàu hải cảnh cỡ lớn, thế hệ mới và một số tàu được hoán cải từ tàu chiến cũ đến Senkaku. Điểm đáng chú ý là lượng giãn nước của những tàu này luôn lớn hơn tàu Nhật Bản gấp đôi, có khi gấp ba.
Liên tục xâm nhập, Trung Quốc chỉ sử dụng tàu hải cảnh. Hải quân Trung Quốc hầu như không can dự các hoạt động ở Senkaku, cá biệt chỉ có năm 2016 một tàu chiến Trung Quốc đã đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải.
Giới quan sát nhận xét mục đích của Trung Quốc chủ yếu để quấy rối, tạo sự bình thường mới và tuyên bố Nhật Bản không có năng lực quản lý nếu không cử tàu ra ngăn cản.
Theo nhà nghiên cứu Adam P. Liff thuộc Đại học Indiana (Mỹ), Bắc Kinh đã cố gắng tránh tạo cớ để Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản can thiệp bởi họ hiểu đằng sau đó có thể là hải quân Mỹ.
Sự thận trọng này được nâng lên vào năm 2014, sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama rằng Washington sẽ đứng về phía Tokyo và bảo vệ Senkaku là một nghĩa vụ trong Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật.
Về phía Nhật Bản, theo Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Mỹ, Nhật Bản đã hoàn tất việc bố phòng cho Senkaku với các căn cứ của tuần duyên và Lực lượng phòng vệ biển trải dài từ đảo Yonaguni tới Amamioshima.
Các hòn đảo nằm trong chuỗi này vừa là căn cứ hậu cần cho các tàu tuần duyên chuyên tuần tra Senkaku vừa là "tai mắt" phát hiện các hoạt động của máy bay, tàu chiến và tàu công vụ Trung Quốc trong khu vực.
Trong bài viết trên Trung tâm An ninh hàng hải quốc tế hồi tháng 4 rồi, chuyên gia Michael Perry cho biết Trung Quốc không dám sử dụng tàu hải cảnh quấy rối và bắt giữ ngư dân Nhật như đã làm trên Biển Đông bởi Tokyo sở hữu sức mạnh tuần duyên tương đương với Trung Quốc.
Trước sự xuất hiện của lực lượng dân quân biển Trung Quốc, Nhật Bản đã quyết định thành lập lực lượng cảnh sát tuần tra đảo trực chiến Senkaku. Nhiệm vụ của lực lượng này là phá vỡ kịch bản các tàu cá ngụy trang của Trung Quốc có thể bất ngờ tiếp cận và đổ bộ các toán vũ trang lên Senkaku hòng tạo sự đã rồi.
Với ngân sách năm đầu tiên khoảng 66 triệu USD, lực lượng này sẽ được trang bị các máy bay trực thăng cỡ lớn cho phép triển khai quân nhanh chóng tới những địa điểm nghi ngờ có đổ bộ bất hợp pháp.
Là một đất nước rộng lớn có chung biên giới với nhiều quốc gia. Nhưng cho đến những ngày đây, Trung Quốc dường như gây hấn ở khắp nơi từ Biển Đông, Biển Hoa Đông nay lại là biên giới với Ấn Độ trong khi đó biên giới với Nga cũng chưa yên ổn vì ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Đây cũng có thể là dấu hiệu của một đại cường đang quằn quại trước thời điểm sụp đổ, bởi đủ thứ áp lực dồn lên từ các vụ điều tra nguồn gốc của virus, các vụ kiện đòi chịu trách nhiệm về sự bùng phát của đại dịch trên toàn cầu, làn sóng bài Trung lan ra khắp năm châu, cho đến sự lục đục trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc, sự đánh mất tính chính danh của Đảng trong đại dịch và ngọn lửa chống đối trong dân chúng đang được thổi bùng sau ba thập kỷ, kể từ sự kiện nhà cầm quyền Bắc Kinh gây ra vụ thảm sát dã man người dân nước này tại quảng trường Thiên An Môn.
Hải Yến
Nguồn : Thoibao.de, 12/05/2020
**********************
Kazi Mahmood, VNTB, 12/05/2020
Tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Barry, (DDG 52) đang tiến hành các hoạt động ở Biển Đông gần đây -AFP
Để thể hiện sức mạnh siêu cường hàng hải, Mỹ đã điều tàu tấn công đổ bộ USS America cùng tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đến Biển Đông, thách thức Trung Quốc.
Theo dữ liệu từ Marine Traffic, một trang web theo dõi tàu, "Hải Dương 8" đã vào vùng biển gần Malaysia vào ngày 18 tháng Tư. Cảm giác tạo ra một "cuộc xâm lược" từ Trung Quốc vì Hải Dương 8 dẫn dắt một hạm đội theo.
Nhóm tàu Trung Quốc đã tiếp cận West Capella và ý định ngăn cản Malaysia thăm dò và khai thác dầu khí.
Các nhà quan sát nhìn nhận, Mỹ sẽ không đơn độc trong việc hỗ trợ người Malaysia. Tàu chiến Mỹ ở đó để hỗ trợ các quốc gia yêu sách khác trong khu vực. Việt Nam, Philippines, Indonesia, và có lẽ cả Brunei, gần đây đã gặp phải vấn đề với tàu tuần tra hoặc tàu chiến Trung Quốc, và các nhóm tàu đánh cá Trung Quốc được coi là lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
Nhưng đối với nhiều người, họ không hoan nghênh sự hiện diện của Mỹ vì nó đã làm tăng căng thẳng trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Trong khi một số thành viên của ASEAN muốn người Mỹ hiện diện tại Biển Đông. Hải Dương 8 đi cùng với tàu hải cảnh và tàu đánh cá mà các nhà phân tích cho rằng đây là một phần của lực lượng dân quân biển của Trung Quốc.
Không có nghi ngờ rằng Trung Quốc rất tích cực trong vùng biển mà họ coi là lãnh thổ của mình, bỏ qua luật pháp quốc tế trong khi trốn tránh sự toàn vẹn lãnh thổ của các bên yêu sách khác.
Kể từ khi có phán quyết của tòa trọng tài về Trung Quốc năm 2016, Bắc Kinh đã không ngần ngại trong các hành động của mình ở Biển Đông, tấn công các tàu cá Việt Nam, gây sốc cho người Indonesia, làm dấy lên mối lo ngại của Manila và đánh dấu tàu thăm dò dầu khí Malaysia.
Chính quyền Trung Quốc tuyên bố vào ngày 28 tháng 4 rằng họ đã trục xuất tàu khu trục Barry (DDG-52) ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Các quan chức quân đội Trung Quốc gọi sự hiện diện của Mỹ trong khu vực này là một hành động khiêu khích vi phạm chủ quyền và lợi ích an ninh của Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng cáo buộc Mỹ cố tình tạo ra căng thẳng trong Biển Đông và gây ra những rủi ro an ninh khu vực có thể gây ra những sự cố bất ngờ.
Sự chia rẽ của ASEAN đã có tác động tiêu cực đến cuộc xung đột với Trung Quốc
Từ năm 2012 đến 2016, đã có những vết nứt trong ASEAN và Campuchia liên quan đến chặn dự thảo nghị quyết cuối cùng về cuộc xung đột ở Biển Đông.
Trong bối cảnh ASEAN, sự đồng thuận có nghĩa là nếu một trong 10 quốc gia thành viên phản đối đề xuất hoặc ý tưởng, bất kỳ kết quả nào đưa ra cũng sẽ thất bại.
Trong mười năm, ASEAN đã không đạt được sự đồng thuận về cách tiếp cận Trung Quốc trên biển.
Trung Quốc đã tự áp đặt và dần dần chinh phục nhiều không gian trong vùng biển hơn, chủ yếu là do sự khác biệt giữa các thành viên ASEAN.
Để giải quyết xung đột với Trung Quốc, ASEAN phải quyết định có nên từ bỏ sự đồng thuận trong cuộc khủng hoảng rất hỗn loạn và lớn này hay phải nhượng bộ Trung Quốc.
ASEAN nên bắt đầu chú ý đến các công cụ giải quyết xung đột vĩnh viễn được cả Bắc Kinh và Washington chấp nhận.
ASEAN nên ngừng là một thực thể dư thừa. Nếu Trung Quốc hoặc Mỹ trở nên hung hăng hơn, họ sẽ không thể tìm ra giải pháp cho cuộc xung đột có thể nổ ra.
Kazi Mahmood
Nguyên tác : Asean floundering in sea dispute, New Straits Times, 10/05/2020
Diễm My dịch
Nguồn : VNTB, 12/05/2020
Cách tiếp cận của chính quyền Tổng thống Donald Trump trong mối quan hệ với Trung Quốc là tăng sức ép lên quốc gia cộng sản lớn nhất thế giới thông qua một cuộc chiến tranh thương mại chưa từng có. Thương chiến Mỹ – Trung đã tác động tiêu cực tới thiện cảm của người dân Mỹ đối với Trung Quốc. Nhưng đại dịch Covid-19 đã đổ thêm dầu vào lửa khiến Trung Quốc đã hoàn toàn mất điểm trong mắt người dân Mỹ bởi sự che giấu về nguồn gốc của virus cũng như quy mô dịch bệnh của Bắc Kinh khiến đại dịch lây lan ra toàn cầu.
Kết quả khảo sát về thiện cảm của người Mỹ đối với Trung Quốc thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu Pew giai đoạn 2005-2020
Khảo sát mới nhất của Trung tâm Nghiên cứu Pew có trụ sở ở Washington DC cho thấy 2/3 số người dân Mỹ, 66%, có cái nhìn không thiện cảm đối với Trung Quốc.
Con số này tăng hơn so với 47% người Mỹ có quan điểm tiêu cực về Trung Quốc trong khảo sát cách đây 2 năm, một thời gian sau khi ông Trump lên nắm quyền vào năm 2017.
Đây được coi là một con số tồi tệ nhất được ghi nhận về quan điểm của người Mỹ đối với Trung Quốc kể từ khi Trung tâm Nghiên cứu Pew bắt đầu thực hiện khảo sát về vấn đề này vào năm 2005, bất chấp những nỗ lực mở rộng tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới của Bắc Kinh với những kế hoạch chiến lược như "Một vành đai, Một con đường" hay chiêu bài "ngoại giao khẩu trang" trong dịp Covid-19 này.
Khảo sát được thực hiện qua điện thoại với 1.000 người trên toàn Hoa Kỳ từ ngày 3 đến 29/3 cũng cho kết quả chỉ 25% vẫn giữ cái nhìn tốt về Trung Quốc trong khi chỉ số này của khảo sát năm 2017 là 44%.
Mặc dù người dân Mỹ thuộc các đảng khác nhau có sự chia rẽ sâu sắc trong nhiều vấn đề, nhưng theo khảo sát của Pew, được công bố hôm 21/4 – là thời điểm các quan chức Mỹ và Trung Quốc tranh cãi về nguồn gốc của virus corona, xu hướng nhìn Trung Quốc một cách tiêu cực mang tính lưỡng đảng ở Mỹ. 72% số người theo Đảng Cộng hoà lo ngại về Trung Quốc và 62% số người theo Đảng Dân chủ có tâm lý tương tự.
Khảo sát cũng cho biết 90% số người được hỏi coi cường quốc Trung Hoa như là mối đe dọa.
Trong đó 62% người tham gia khảo sát nói họ coi Trung Quốc là một mối nguy lớn, tăng từ 48% cách đây hai năm.
Khảo sát mới nhất của Pew còn tiết lộ số lượng người dân Mỹ không tin tưởng vào ông Tập Cận Bình tăng mạnh, từ 50% lên 71%, sau một năm.
Theo các chuyên gia thì đây là một biến chuyển mới vì từ trước tới giờ chủ yếu giới chính trị mới có quan điểm chỉ trích Trung Quốc còn dư luận Mỹ không mấy có thái độ như vậy.
Không chỉ những người lớn tuổi, mà những người trẻ có độ tuổi từ 18-29 cũng dần có ấn tượng xấu về quốc gia Đông Á với 53% không ủng hộ Bắc Kinh, chỉ số này tăng lên 67% ở độ tuổi 30-49 và 71% ở độ tuổi trên 50.
Đứng đầu danh sách những vấn đề mà người Mỹ không có thiện cảm với Trung Quốc trong cuộc khảo sát mới nhất của Pew là ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với môi trường toàn cầu. Các vấn đề khác là vai trò của Bắc Kinh trong các vụ tấn công mạng, thâm hụt thương mại, mất việc làm, đối đầu quân sự, cạnh tranh công nghệ.
Cuộc khảo sát này được thực hiện vào thời điểm đại dịch Covid-19 đang hoành hành và gây thiệt hại vô cùng lớn trên khắp thế giới. Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và hành động bành trướng thế lực, coi thường luật pháp quốc tế của Trung Quốc trên các vùng biển, lãnh thổ của các nước khác cũng là những nguyên do để ấn tượng xấu của người dân Mỹ về Trung Quốc ngày một tăng.
Người dân Mỹ đã có xu hướng nhìn Trung Quốc không mấy thiện cảm kể từ năm 2013, theo các khảo sát trước đó của Pew.
Nhưng tâm lý này tăng mạnh trong hai năm qua khi chính quyền Trump tiến hành thương chiến với Trung Quốc và gần đây nhất là sự lây lan của đại dịch Covid-19. Trong hai năm đó, số lượng người Mỹ rất thiếu thiện cảm với Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi, từ 15% lên 33%.
Tác giả của cuộc khảo sát cho rằng : "Kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức năm 2017, cách tiếp cận của ông ấy với quan hệ Mỹ – Trung bao gồm gia tăng áp lực thông qua thuế quan và đấu khẩu chiến tranh thương mại. Còn bây giờ, trước sự tấn công của một đại dịch chưa từng thấy, cả hai bên vu khống lẫn nhau".
Chuyên gia Xiaoyu Pu, từ Đại học Nevada, nhận định : "Sự chỉ trích của ông Trump có thể làm gia tăng tâm lý phản đối Trung Quốc trong số một số cử tri Cộng hòa hoặc những người ủng hộ ông Trump. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông Trump đã thay đổi toàn bộ thái độ của công chúng Mỹ đối với Trung Quốc".
Ông Pu nói thêm : "Trung Quốc giờ đây mạnh hơn nhiều và cũng có nhiều vấn đề lớn gây tranh cãi giữa hai nước".
Khi được yêu cầu bình luận về kết quả của cuộc khảo sát nhất là khi những thành viên trong cả hai đảng Cộng Hoà và đảng Dân Chủ đều không ưa Trung Quốc, ông Orville Schell, Giám đốc Trung tâm về quan hệ Mỹ – Trung tại Hội Châu Á, cho rằng : "Điều đó không gây bất giờ. Điều duy nhất mà Đảng Cộng hòa và Dân chủ có chung quan điểm tại Washington hiện nay là, chúng ta nên có quan điểm hoài nghi hơn nhiều đối các ý định của Trung Quốc".
Ước tính, có hơn 250 dự luật hiện đang được trình tại quốc hội liên quan tới Trung Quốc, phần lớn ủng hộ gia tăng các hạn chế và các chính sách cứng rắn hơn với Bắc Kinh.
Douglas Paal, một cựu thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, nói : "Điều đó cho thấy có bao nhiêu thành viên của quốc hội từ cả 2 đảng cảm thấy cần thiết phải chỉ trích Trung Quốc để tái đắc cử. Đó là một thước đo cho thấy vấn đề nghiêm trọng và rộng lớn thế nào".
Giới chuyên gia lưu ý rằng chỉ số niềm tin hiện tại của người Mỹ đối với Trung Quốc thấp hơn ngay cả sau khi xảy ra các sự kiện ở Quảng trường Thiên An Môn của Bắc Kinh.
Truyền thông Trung Quốc chia sẻ video cháu ngoại của Tổng thống Trump hát và đọc thơ bằng tiếng Trung trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Tập Cận Bình năm 2017
Xin được nhắc lại, vào mùa xuân năm 1989, giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc bằng vũ lực, sử dụng xe tăng, đã giải tán cuộc biểu tình của sinh viên trên quảng trường chính của thủ đô Bắc Kinh. Phương Tây sau đó cáo buộc chính quyền Trung Quốc vi phạm nhân quyền và giảm hợp tác với Bắc Kinh. Hình ảnh Bắc Kinh trong mắt nhân dân thế giới nói chung và người dân Mỹ nói riêng đã giảm sút chưa từng có qua sự kiện này.
Ngày nay ở Hoa Kỳ có nhiều người cũng tin rằng Bắc Kinh vi phạm nhân quyền, ví dụ, ở Hồng Kông và Tân Cương. Trên các phương tiện truyền thông Mỹ có đầy đủ nhiều tin tức về các trại cải tạo, nơi người dân bản địa Tân Cương, người Duy Ngô Nhĩ, bị cầm tù.
Ngoài ra, các báo cáo về việc người Trung Quốc sử dụng bất hợp pháp sở hữu trí tuệ của Mỹ ảnh hưởng đến thái độ của công dân Mỹ đối với Trung Quốc. "Chiến tranh thương mại" lại đổ thêm dầu vào lửa.
Mặc dù thương chiến đã được Tổng thống Mỹ Trump "khai ngòi" nhưng thường dân có khuynh hướng đổ lỗi cho người Trung Quốc vì những khó khăn phát sinh mà một số nông dân Mỹ phải gánh chịu do phá vỡ quan hệ thương mại trước đây giữa hai nước.
Sự bùng phát của coronavirus ở Trung Quốc như một sự kiện Thiên An Môn thứ hai đã đánh thức làn sóng sinophobia (chủ nghĩa bài Trung Quốc) ở Hoa Kỳ, cũng như ở các nước khác trên thế giới.
Thật khó để buộc tội Tổng thống Donald Trump về chứng sinophobia, mặc dù chính ông là người đã mở ra cuộc chiến thương mại với Trung Quốc và rất nhiều lần cáo buộc Trung Quốc đã để đại dịch bùng phát ra toàn cầu. Bởi Trump luôn tỏ ra rất tôn trọng Chủ tịch Tập Cận Bình. Ông thích cách Chủ tịch Tập điều hành hiệu quả một đất nước rộng lớn. Còn nhớ cháu ngoại của ông Trump là Arabella Kushner đang học tiếng Trung Quốc, và vào năm 2017, khi Tập Cận Bình đến thăm Hoa Kỳ, cô bé đọc thơ và hát các bài hát bằng tiếng Trung cho các vị khách từ Trung Quốc. Thực tế này có thể được coi là sự thiện cảm của gia đình Trump đối với Trung Quốc.
Ngay từ khi dịch bệnh khởi phát tại Vũ Hán khiến chính quyền Trung Quốc phải phong tỏa cả thành phố rộng lớn này cùng nhiều địa phương khác, hàng loạt câu hỏi về sự thiếu vắng tình đồng cảm của thế giới với Trung Quốc được đặt ra như : Vì sao thế giới chia sẻ xúc động với Paris khi Nhà Thờ Đức Bà bị cháy mà không một chút tình tương thân với người dân Vũ Hán ? Vì sao dân Hồng Kông, hào phóng giúp Trung Quốc tái thiết Tứ Xuyên sau trận động đất năm 2008, bây giờ đòi đóng cửa biên giới với đại lục ?
Theo bài xã luận của tờ báo Pháp Le Monde (Lơ Mông-đ), Bắc Kinh thất bại trên mọi mặt trận vì xem tình người nhẹ hơn quyền lực.
Từ khi dịch corona chủng mới khởi phát, tâm lý bài Trung Quốc hiện rõ qua những bình luận kiểu "trời trả báo kẻ ăn thịt dơi" hay qua tuyên bố của bộ trưởng Thương Mại Hoa Kỳ "khuyến khích doanh nghiệp bỏ Trung Quốc về đầu tư tại Mỹ".
Theo Le Monde (Lơ Mông-đ), Trung Quốc bị rơi vào thế thủ vì thất bại trên mọi mặt trận. Trước hết về khắc phục nhân tâm trong lẫn ngoài nước. Năm 2008, dân Hồng Kông hào phóng giúp Tứ Xuyên tái thiết sau động đất. Năm 2020, giới y tế xứ Cảng Thơm đình công đòi đóng biên giới. Ngay những nước như Kazakhstan, Philippines, nằm trong chiến lược "Một vành đai Một con đường" của Tập Cận Bình cũng đóng cửa không nhận du khách Trung Quốc.
Nước Nga của Putin cũng đóng biên giới với Trung Quốc, một biện pháp mà Matxcơva không làm trong vụ khủng hoảng dịch SARS 2003.
Những nước bạn của Trung Quốc chỉ áp dụng phương pháp của Bắc Kinh đối với dân Trung Quốc mà thôi : Phong tỏa Hồ Bắc, cách ly hơn 50 triệu dân trong một tỉnh nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Trung Quốc không chỉ để mất thiện cảm với người Mỹ và cũng không phải chỉ vì đại dịch Covid-19 mà người dân thế giới mới không ưa Trung Quốc.
Vào lúc Bắc Kinh rầm rộ phô trương thanh thế nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, một cuộc khảo sát quan điểm về Trung Quốc của người dân thuộc 32 quốc gia, công bố hôm 30/9/2019 cho thấy tỷ lệ người thiếu thiện cảm với Trung Quốc gia tăng đáng kể, đặc biệt là tại các láng giềng ở Châu Á, từ Nhật Bản cho đến Indonesia.
Theo kết quả cuộc khảo sát dư luận thế giới mới nhất Global Attitudes Survey, cũng do Trung tâm Nghiên cứu Mỹ Pew thực hiện từ ngày 13/5/2019 cho đến ngày 29/8/2019, nhìn chung có bình quân 37% cư dân thuộc 32 nước trên thế giới có quan điểm tiêu cực về Trung Quốc.
Đi vào chi tiết, có thể thấy là tâm lý ghét Trung Quốc đang càng lúc càng gia tăng tại các nước, khi so sánh với những kết quả thăm dò trong những năm trước đây. Theo cuộc thăm dò vừa công bố, hiện có đến 60% người được hỏi tại Mỹ, và 67% tại Canada coi Trung Quốc là đất nước "không được ưa thích", một kết quả xấu nhất đối với Trung Quốc từ năm 2007 đến nay.
Tâm lý chung của người dân Tây Âu cũng rất tiêu cực đối với Trung Quốc, với tỷ lệ không có thiện cảm lên đến 70% tại Thụy Điển, hay 53% tại Tây Ban Nha. So với năm ngoái 2018, thiện cảm đối với Trung Quốc đã giảm mạnh ở Thụy Điển với tỷ lệ giảm 17%, cũng như tại Anh Quốc, hay Hà Lan, giảm đi 11%.
Điều đáng ghi nhận nhất có lẽ là việc Trung Quốc không hề được các láng giềng ưu ái chút nào. Bản khảo sát của Pew Research Center đã tập trung tại năm nước vùng Châu Á Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, ở Đông Bắc Á, Philippines, Indonesia ở Đông Nam Á, và Úc ở Châu Đại Dương.
Tại hầu như toàn bộ 5 quốc gia này, đa số người được hỏi đều xác nhận là họ không thích Trung Quốc, cao nhất là Nhật Bản với 85%, kế đến là Hàn Quốc, 63%, Úc 57%, Philippines 54%.
Riêng Indonesia thì không rõ ràng, với tỷ lệ người yêu và người ghét ngang nhau là 36%, nhưng tỷ lệ người thích Trung Quốc từ năm ngoái đến năm nay đã giảm 17%.
Theo giới quan sát, nếu tại Châu Mỹ và Châu Âu, những hành vị bị tố cáo là không hay của Trung Quốc bị vạch trần trong cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn ra là một trong những lý do khiến người dân mất đi thiện cảm với Trung Quốc, thì tại Châu Á, các hành vi bức hiếp láng giềng đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc là nguyên do khiến người dân các nước không còn thích Trung Quốc.
Giáo sư Diêu Thụ Khiết, Viện trưởng Viện Trung Quốc học đương đại, Đại học Nottingham, Anh đã từng có bài viết vào đầu những năm 2010 với nhan đề "Vì sao Trung Quốc bị thế giới oán ghét ?"
Ông nói : "Trung Quốc đã là nước lớn nhưng luôn trong tình trạng bị bao vây kìm kẹp, thậm chí bị người khác "oán hận". Nguyên nhân chính : Chính sách ngoại giao thiếu mưu trí ; Giới quan chức ngạo mạn, không biết cách học hỏi, luôn tự cho bản thân họ là đúng, khí phách thiên triều".
Sau gần một thập kỷ những điều này vẫn đúng và thế giới còn phát hiện ra thêm nhiều ‘tật xấu’ khác của Trung Quốc đặc biệt là thói che giấu, bưng bít những điều không có lợi cho mình bất chấp cho hậu quả ảnh hưởng đến cả toàn cầu trên mọi lĩnh vực y tế, kinh tế, an ninh xã hội như dịch bệnh Covid-19 hiện nay.
Nếu Trung Quốc không sớm thức tỉnh thì tình trạng "Trung Quốc thiếu bạn, chứ không hề thiếu kẻ thù" như suốt thời gian qua sẽ ngày càng trầm trọng dẫn đến sụp đổ của chế độ độc tài toàn trị tại Bắc Kinh.
Trung Kiên
Nguồn : Thoibao.de, 05/05/2020
Từ Châu Á tới Châu Phi, từ London sang Berlin, các đại diện của Trung Quốc đã gây ra một loạt cơn bão ngoại giao với thái độ khiêu khích, hiếu thắng, bất cứ lúc nào mà nước họ bị tố cáo là không minh bạch, hay không hành động kịp thời để ngăn chặn sự lây lan của virus Sars CoV2 để dịch bệnh trở thành đại dịch toàn cầu.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng tại cuộc họp báo thường ngày ở Bắc Kinh, ngày 18/3/2020. Ít nhất 13 nhà báo Mỹ sắp bị trục xuất khỏi Trung Quốc để đáp trả hành động của TT Mỹ, hạn chế thị thực cho truyền thông nhà nước Trung Quốc ở Hoa Kỳ.
Bản tin AP nói về thế hệ mới các nhà ngoại giao của Trung Quốc dựa theo hình ảnh "Chiến binh Sói" - theo tựa đề phim ‘Wolf Warrior’ rất ăn khách ở Trung Quốc, với nhân vật chính trong phim là một người hùng Trung Quốc, tay không diệt bạo tàn ở Châu Phi và Đông Nam Á - tương tự như người hùng Rambo của Mỹ, nhưng những kẻ gian trong phim lẽ dĩ nhiên là người Mỹ.
Chính sách ngoại giao hung hăng hơn của Trung Quốc đã được xây dựng trong nhiều năm dưới quyền lãnh đạo của ông Tập Cận Bình, khi ông Tập gạt sang một bên cách tiếp cận của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, khuyên Trung Quốc nên giấu tham vọng của mình để chờ thời.
Ngược lại, ông Tập hối thúc thế hệ mới các nhà ngoại giao Trung Quốc nên theo đuổi "nền ngoại giao nước lớn với đặc điểm Trung Hoa".
Qua đó, ông Tập kêu gọi Trung Quốc giành lại "vị trí lịch sử" của minh trong cương vị một cường quốc thế giới.
"Thời kỳ Trung Quốc phải phục tòng các nước khác đã qua từ lâu", tờ Hoàn cầu Thời báo viết, "Nhân dân Trung Quốc không còn hài lòng với giọng điệu ngoại giao yếu đuối nữa". Tại Thụy điển, một nhà báo viết về tác động của hệ thống chính trị độc đảng Trung Quốc với cách nước này đáp ứng trước cuộc khủng hoảng do virus Cúm Vũ Hán gây ra, đã bị chỉ trích trên trang web của đại sứ quán Trung Quốc.
Đại sứ Trung Quốc tại Thụy Điển Gui Congyou tỏ thái độ thiếu tôn trọng đối với các nhà báo Thụy Điển, so sánh họ như một "võ sĩ hạng nhẹ đang tìm cách gây hấn với võ sĩ hạng nặng Trung Quốc".
Dưới sự lãnh đạo của ông Tập Cận Bình, Bắc Kinh đã phát động các nỗ lực có phối hợp để uốn nắn hình ảnh của Trung Quốc ở nước ngoài. Bắt chước nước Nga, Bắc Kinh sử dụng hàng ngàn bot để tải thông điệp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, theo Twitter. Đồng thời, Trung Quốc bơm tiền vào truyền thông nhà nước với những chương trình phát đi bằng hàng chục ngôn ngữ.
Tại Thái Lan, đại sứ Trung Quốc đã dùng Facebook mô tả những người chỉ trích Trung Quốc là "thiếu tôn trọng trong cuộc tranh cãi về nguồn gốc virus Cúm Vũ Hán, và "phản bội lịch sử" khi nói tới tình trạng ở Hong Kong và Đài Loan.
Ông Xi Minzner, một chuyên gia về chính trị Trung Quốc tại Trường Luật Fordham, New York, nói ông Tập rõ ràng ưu tiên tiến cử các nhà ngoại giao "chiến binh sói".
Những nhà ngoại giao Trung Quốc thế hệ mới này là người không ngần ngại dùng những ngôn ngữ không mấy ngoại giao như một công cụ để thu hút sự chú ý của những người ở trong nước, bất kể tác động đối với hình ảnh của Trung Quốc ở nước sở tại.
Nhưng ở nước ngoài, thái độ nghênh ngang và những phát biểu hung hăng của các nhà ngoại giao Trung Quốc bị lên án nặng nề.
Ngoại trưởng Pháp triệu tập Đại sứ Trung Quốc sau khi sứ quán Trung Quốc ra tuyên bố chỉ trích các nhân viên làm việc tại các viện dưởng lão Pháp đã "chạy trốn, để mặc cho những người già chết vì đói và bệnh tật".
Hoa Kỳ phản đối sau khi đại diện Trung Quốc đưa lên Twitter những tố cáo không có cơ sở hay chứng cớ vu vạ cho quân đội Mỹ "có thể đã mang virus tới Vũ Hán".
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đặt nghi vấn về cách đáp ứng của Bắc Kinh, nói rằng "rõ ràng là có những điều xảy ra mà chúng ta không biết tới". Nhà ngoại giao hàng đầu của Anh thì nói "không có chuyện mọi sự như cũ với Trung Quốc" sau đại dịch.
Các quan chức Trung Quốc giận dữ về điều mà họ cho là tính đạo đức giả của các nước phương Tây. Họ nói Tổng thống Trump và các nhà lãnh đạo tây phương khác đã làm ngơ khi dịch bệnh sắp trở thành đại dịch, để rồi sau đó đổ lỗi cho Trung Quốc khi virus lan tới nước họ.
Le Point tuần này có bài xã luận đáng chú ý của nhà bình luận Nicolas Baverez mang tựa đề : "Trung Quốc và hiệu ứng gậy ông đập lưng ông".
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 10/03/2020 lần đầu tiên đến thăm một bệnh viện Vũ Hán, gần 2 tháng sau khi chính thức công bố dịch, phong tỏa Vũ Hán.
Bài viết so sánh đại dịch Cúm Vũ Hán, bùng lên từ Trung Quốc rồi lan khắp thế giới hiện nay, với cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ nước Mỹ năm 2008. Nhà báo Le Point nhận định : Giống như Hoa Kỳ, thoạt tiên, chính quyền Trung Quốc đã được hưởng lợi từ cuộc khủng hoảng xuất phát từ nước mình. Tuy nhiên, cũng tương tự như nước Mỹ đã phải gánh chịu "làn sóng dân túy bùng lên" sau khủng hoảng, giờ đây chính quyền Trung Quốc "có thể sẽ phải chứng kiến vị thế của Trung Quốc bị suy yếu do trách nhiệm của Bắc Kinh, trong giai đoạn bệnh dịch xuất hiện và khi đại dịch lan rộng khắp thế giới".
Cuộc khủng hoảng y tế hiện nay, mà Bắc Kinh cố gắng chứng minh đã "xử lý một cách mẫu mực", cho thấy rõ "bản chất toàn trị của chế độ Trung Quốc, gắn liền với chính sách tuyên truyền dối trá, và một Nhà nước bạo lực". Giờ đây công luận thế giới bắt đầu hiểu rằng "dịch bệnh đã bị bưng bít hơn hai tháng trời, một giai đoạn có ý nghĩa quyết định, khiến dịch lan rộng". Số lượng người nhiễm virus và người chết bị bóp méo.
Lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã làm đúng những lời tổ sư Mao Trạch Đông để lại : Bóp méo sự thật theo đòi hỏi của thực tế. Bắc Kinh đã không tính đến những người chết vì Cúm Vũ Hán tại gia đình. Theo thống kê mới điều chỉnh, số người chết tại gia đình chiếm 1/3 tổng số người thiệt mạng. Tuy nhiên, con số người chết thực sự có thể lên đến ít nhất 25.000 người, so với số chính thức 4.632 hiện nay. Bởi, theo chính một số nghiên cứu dịch tễ học Trung Quốc, số người vừa chết vì Cúm Vũ Hán, vừa chết do bệnh khác chiếm đến 72% người qua đời tại các bệnh viện Vũ Hán. Cho đến nay, Bắc Kinh chỉ chấp nhận thống kê số người chết duy nhất vì bệnh Cúm Vũ Hán.
Đại dịch Cúm Vũ Hán cũng phơi bày tình trạng kiểm soát công dân bằng kỹ thuật số, ngày càng sát sao tại Trung Quốc.
Bắc Kinh có chính sách chi đến một triệu nhân dân tệ cho tất cả doanh nghiệp nào phát triển một dự án kỹ thuật số liên quan đến dịch bệnh. Ví dụ như thiết lập các "hộ chiếu y tế" cho tài xế tắc-xi hay giới tài xế nói chung, do tập đoàn Alibaba quản lý. Việc sử dụng máy bay không người lái để kiểm soát công dân, kiểm soát việc đi lại, kỹ thuật nhận dạng người qua võng mạc hay tập hợp thông tin về sức khỏe người dân, hoàn toàn không cần tính đến sự chấp thuận của các công dân. Tình trạng kiểm soát gia tăng là một trong những nguyên nhân khiến người dân Trung Quốc hiện nay dè dặt trong việc tiêu thụ, bên cạnh các nguyên nhân khác như sợ thất nghiệp, bị hạ lương. Kinh tế Trung Quốc hiện nay đang trong tình trạng mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng, một bên là sản xuất bị bắt buộc phải nối lại (với hoạt động bằng 90% so với trước), bên kia là nhu cầu bị cắt đến một nửa (do nhu cầu nội địa không tăng mạnh, cũng như nhu cầu bên ngoài, do kinh tế thế giới tê liệt).
Về mặt địa chính trị, trước mắt Trung Quốc đang ở thế thượng phong trong khủng hoảng hiện nay, trong một bối cảnh chưa từng có kể từ năm 1945, khi Hoa Kỳ hoàn toàn rút khỏi cuộc chơi. Đối với Bắc Kinh, đại dịch cho thấy thế giới đang ngừng "phương Tây hoá", các nền dân chủ thể hiện đang bất lực, còn Trung Quốc củng cố quan hệ với các quốc gia đang trỗi dậy, bằng ngoại giao y tế (cung cấp ồ ạt trang thiết bị y tế), đầu tư thông qua các dự án Con Đường Tơ Lụa Mới, và kiểm soát các định chế đa phương, đầu tiên là Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO). Thế nhưng, theo Le Point, đại dịch này làm nổi bất tính chất tương phản sâu xa, đằng sau "thế thượng phong bên ngoài của Trung Quốc", một quốc gia có nền công nghệ phát triển, là các hành xử "rất cổ hủ". Những thiệt hại ghê gớm cho thế giới hiện nay đang làm dấy lên những đòi hỏi phải khởi kiện Trung Quốc.
Quan hệ với Trung Quốc xấu đi vì Cúm Vũ Hán, Thụy Điển đóng cửa Viện Khổng Tử cuối cùng.
Thụy Điển đã thông báo đóng cửa Viện Khổng Tử cuối cùng, trở thành quốc gia Châu Âu đầu tiên đóng cửa tất cả các trung tâm đầy tai tiếng này.
Trang tin Guancha của Trung Quốc ngày 24/4 dẫn tin của báo Anh The Times ngày 21/4, cho biết Thụy Điển đã đóng cửa Viện Khổng Tử cuối cùng và trở thành quốc gia Châu Âu đầu tiên đóng cửa hoàn toàn mọi Viện Khổng Tử.
Viện Khổng Tử được sáng lập năm 2004 và là một tổ chức được thành lập bởi Văn phòng quốc gia Trung Quốc lãnh đạo quảng bá ngôn ngữ Trung Quốc trên khắp thế giới (gọi tắt là Hán Biện) để quảng bá ngôn ngữ Trung Quốc.
Năm 2005, Trung Quốc đã đặt Viện Khổng Tử đầu tiên tại Đại học Stockholm ở Thụy Điển và là Viện Khổng Tử đầu tiên ở Châu Âu. Học viện này đã đóng cửa vào năm 2015.
Vào thời điểm đó, trang web của Đại học Stockholm đã giải thích rằng tình hình hiện nay đã khác với 10 năm trước. Vào thời điểm đó, việc nhà trường giao tiếp với Trung Quốc là rất quan trọng. "Bây giờ chúng tôi có các cấp độ trao đổi học thuật hoàn toàn khác với Trung Quốc. Sự hợp tác như vậy là không cần thiết nữa" - Ông Astid Soderbergh Widding, Phó Hiệu trưởng trường, nói với nhật báo Thụy Điển Dagens Nyheter : "Nói chung, việc đặt một học viện được tài trợ bởi một quốc gia khác trong khuôn khổ một trường đại học là một cách làm có vấn đề".
Trong 6 tháng qua, việc đóng cửa Học viện Khổng Tử của Thụy Điển đã được đẩy nhanh. Vào tháng 12 năm ngoái, Thụy Điển đã đóng cửa toàn bộ 4 Viện Khổng Tử ở nước này, chỉ giữ lại lớp học của một Viện Khổng Tử ở thành phố phía nam Falkenberg. Nhưng bắt đầu từ tuần trước, lớp học này cũng đã bị đóng cửa nốt.
Ông Bjorn Jerden, người phụ trách các dự án Châu Á của Swedish Institute of International Affairs (Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Thụy Điển), cho biết điều này cho thấy sự thay đổi trong thái độ của Thụy Điển đối với Trung Quốc.
Trang web National Review của Hoa Kỳ ngày 23/4 đã phân tích, sau khi dịch bệnh Cúm Vũ Hánbùng phát, quan hệ giữa Thụy Điển và Trung Quốc ngày càng xấu đi. Trong hoàn cảnh như vậy, Thụy Điển đã chọn cách đóng cửa Viện Khổng Tử cuối cùng.
Hồi tháng 2/2019, Lục Khảng, một người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói, hoạt động và quản lý hàng ngày của Viện Khổng Tử ở Thụy Điển là "hợp pháp, hợp quy, công khai và minh bạch, đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy trao đổi văn hóa". Ông ta chỉ trích : "Việc chính trị hóa chương trình trao đổi giáo dục bình thường này cho thấy tư duy Chiến tranh Lạnh điển hình và cũng phản ánh sự thiếu tự tin của họ ở một mức độ nhất định".
National Review cũng lưu ý rằng mối quan hệ giữa Thụy Điển và Trung Quốc đã xấu đi từ trước khi xuất hiện dịch bệnh Cúm Vũ Hán. Vào tháng 11/2019, Trung Quốc đã bắt giữ Quế Dân Hải (Gui Minhai), một người kinh doanh sách ở Hồng Kông có quốc tịch Thụy Điển. Hiệp hội PEN (Văn bút quốc tế) Thụy Điển sau đó đã trao cho Quế Dân Hải giải thưởng Tuchollsky Prize 2019. Trung Quốc sau đó đã áp đặt các lệnh trừng phạt thương mại đối với Thụy Điển. Một số chuyên gia nhận xét rằng h
Từ năm 2004, chính phủ Trung Quốc đã thành lập nhiều Viện Khổng Tử ở nhiều trường đại học ở nước ngoài. Lý do được họ đưa ra là để thúc đẩy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc. Nhưng các quan chức chính phủ Mỹ và một số quốc gia đã chỉ ra rằng các Viện Khổng Tử này là công cụ tuyên truyền của chính phủ Trung Quốc.
Giám đốc FBI Christopher Ray nói trong một phiên điều trần trước Quốc hội Mỹ hồi năm ngoái rằng Viện Khổng Tử "có một mô thức gián điệp đáng kể" và là một phần của chính phủ Trung Quốc nhằm thúc đẩy quyền lực mềm và mở rộng ảnh hưởng. Ông nói rằng các dự án của Viện Khổng Tử cũng cho phép chính phủ Trung Quốc hạn chế tự do học thuật và tiến hành kiểm duyệt.
Một báo cáo điều tra năm 2019 của Ủy ban Điều tra Thượng viện Hoa Kỳ cho biết, từ tháng 1/2012 đến tháng 6/2018, tổng cộng 15 trường học của Mỹ đã nhận được 15,47 triệu USD từ Hán Biện, nhưng kết quả rà soát hồ sơ tài chính của ủy ban này đối với 100 trường đại học có Viện Khổng Tử, cho thấy Hán Biện trực tiếp cung cấp cho các trường ở Mỹ hơn 110 triệu USD tiền quỹ, vượt xa báo cáo của trường.
Gần đây, nhiều trường đại học Mỹ đã liên tiếp chấm dứt hợp tác với Viện Khổng Tử Trung Quốc, trong đó có Đại học Maryland, nơi mở Viện Khổng Tử đầu tiên ở Bắc Mỹ.
Từ khắp nơi trên thế giới, phong trào xóa bỏ Viện Khổng Tử của Trung Quốc đang diễn ra, qua đây nhà cầm quyền tại Hà Nội sẽ có một bài học sâu sắc, để đối xử thích hợp hơn với cuộc xâm lăng văn hóa từ Trung Quốc đang tràn vào Việt Nam.
Hoàng Lan (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 27/04/2020
Trong khi Mỹ và các nước phương Tây đang phải tập trung đối phó với đại dịch coronavirus bùng phát với hệ quả khó lường, thì Trung Quốc tranh thủ thời cơ mở chiến dịch tuyên truyền với "ngoại giao khẩu trang", và tiếp tục "ngoại giao pháo hạm" tại Biển Đông. Đó là nước cờ mạo hiểm của Trung Quốc nhằm "đục nước béo cò" và "ngư ông đắc lợi".
Tuyên truyền phản tác dụng
Chiến dịch tuyên truyền và "ngoại giao khẩu trang" của Trung Quốc nhằm ba mục đích chính. Một là để đánh lạc hướng dư luận về coronavirus xuất xứ từ Vũ Hán mà họ đã phủ nhận. Hai là ca ngợi mô hình chống dịch của họ đã thành công. Ba là tuyên truyền cho "quyền lực mềm" của Trung Quốc đã đối phó thắng lợi với đại dịch, nay đang giúp các nước.
Theo các chuyên gia, chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc theo kiểu Liên Xô cũ trong chiến tranh lạnh, tuy "hùng hổ nhưng vụng về" (aggressive but clumsy), nên có thể "phản tác dụng" (backfiring). Bắc Kinh muốn đánh bóng và đánh tráo hình ảnh Trung Quốc (đang xấu đi), để lấy lòng dân trong nước (đang bất bình) và dư luận quốc tế (ngày càng bất lợi).
Có mấy lý do chiến dịch tuyên truyền của họ sẽ phản tác dụng. Một là sau bước đầu chập chững, các nước EU bắt đầu đoàn kết để chống đại dịch. Về lâu dài,Trung Quốc không thể lợi dụng tình trạng mất đoàn kết của Châu Âu để tuyên truyền rằng "chỉ có Trung Quốc giúp". EU vừa tuyên bố là "Pháp và Đức đã giúp Ý số khẩu trang còn nhiều hơn Trung Quốc".
Hai là EU bắt đầu phản công lại chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc. Josep Borrell (phụ trách đối ngoại của EU) đã lên án thông tin thất thiệt của Trung Quốc, làm Hoa Vi cắt giảm chương trình tài trợ khẩu trang cho EU. Ngày 26/3, EC kêu gọi Châu Âu phải tham gia "trận chiến truyền thông" để chống lại tuyên truyền thất thiệt của Trung Quốc.
Ba là các thiết bị y tế chất lượng kém của Trung quốc đã làm dư luận Châu Âu phản ứng mạnh. Một số nước như Tây Ban Nha, Hà Lan, Cộng hòa Czech, đã trả lại các bộ xét nghiệm (test kits) do Trung Quốc sản xuất, trong khi một số nước khác cũng trả lại khẩu trang Trung Quốc. EC vừa đưa ra các chỉ đạo mới để kiểm soát chất lượng hàng hóa y tế thiết yếu.
Bốn là tâm trạng nghi ngờ Trung Quốc của người Châu Âu không giảm vì những lo ngại sâu sắc về ảnh hưởng kinh tế và chính trị do Trung Quốc trỗi dậy. Điều đó phản ánh quan điểm cứng rắn trong các nước EU mà cách đây một năm, tài liệu "Chiến lược của EU đối với Trung Quốc" (EU Strategy paper on China) đã đề cập tới "như là đối thủ" (systemic rival).
Tóm lại, trước mắt Trung Quốc có thể ghi điểm với một số chính phủ dân túy, nhưng về lâu dài, chiến dịch tuyên truyền của họ không thay đổi được hình ảnh. Nếu Bắc Kinh muốn cải thiện quan hệ với Châu Âu, họ phải minh bạch về cách đối phó với coronavirus, không tuyên truyền thất thiệt và chính trị hóa tài trợ y tế (1).
Biển Đông lại nổi sóng
Theo Reuters, từ 16/4/2020, tàu khảo sát HD-8 và các tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã bám theo và quấy rối tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) đang thăm dò dầu khí trên thềm lục địa kéo dài về phía nam quần đảo Trường Sa. Theo MarineTraffic (23/4) tàu HD-8 vẫn đang trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, cách Borneo khoảng 336km.
Trong khi tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và USS Ronald Reagan đang bảo trì và cách ly tại cảng (Guam và Nhật) vì nhiều thủy thủy bị lây nhiễm coronavirus, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc đang hoạt động gần bãi cạn Macclesfield. Trung Quốc định bắt nạt Malaysia như họ đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính (năm 2019).
Theo Greg Poling (AMTI director/CSIS) ngày 20/4, các tàu tuần dương USS Bunker Hill, tàu đổ bộ USS America, tàu khu trục USS Barry (của Mỹ) và tàu khu trục HMAS Parramatta (của Úc) đã tập trận tại vùng biển tranh chấp giữa Malaysia và Trung Quốc, gần nơi tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) và tàu HD-8 của Trung Quốc đang hoạt động.
Ngày 23/4, Malaysia đã tuyên bố cam kết bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông. Ngoại trưởng Hishammuddin Hussein của Malaysia nói, "Trong khi luật pháp quốc tế đảm bảo quyền tự do hàng hải, sự hiện diện của tàu chiến và tàu cảnh sát biển ở Biển Đông có khả năng làm gia tăng căng thẳng, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực".
Trong khi Bộ Quốc phòng Mỹ điều tàu sân bay USS Harry Truman từ Trung Đông sang vùng Indo-Pacific để tăng cường cho hạm đội Thái Bình Dương, thì Không quân Mỹ lại dừng hoạt động của các máy bay ném bom chiến lược tầm xa tại Guam, vì dịch coronavirus. Các lỗ hổng chiến lược của Mỹ ở khu vực là cơ hội để Trung Quốc bành trướng (2).
Theo Nicole Schwegman (spokeswoman, US Indo-Pacific Command), với sự có mặt và hoạt động của Mỹ ở Biển Đông, "chúng ta đang phối hợp với các đồng minh và đối tác để đảm bảo tự do hàng hải và hàng không, cũng như các nguyên tắc quốc tế về an ninh và thịnh vượng ở Indo-Pacific… Mỹ ủng hộ đồng minh và đối tác vì lợi ích kinh tế của họ".
Nhưng có một nghịch lý là chính phủ các nước khu vực vẫn lo ngại về "thói quen của Mỹ" là tuy họ xuất hiện tại các điểm nóng nhưng rồi lại rút, để các nước khu vực tự đối phó với Trung Quốc ngày càng mạnh (3).
Peter Jenning (Director, Australian Strategic Policy Institute) cho rằng trong khi phải đối phó với dịch coronavirus, Trung Quốc vẫn không giảm mà còn tăng cường hoạt động quân sự tại Biển Đông. Theo Jennings, "Ý đồ chiến lược của Trung Quốc là phải tranh thủ tối đa cơ hội khi Mỹ đang bị phân tâm và mất khả năng gây sức ép với các nước khu vực".
Theo Alexander Vuving (APCS, Honolulu), tuy Trung Quốc phải chống dịch bùng phát, nhưng họ vẫn tư duy theo các mục tiêu chiến lược lâu dài của mình. Trung Quốc muốn tạo ra tình huống "bình thường mới" (new normal) ở Biển Đông nơi họ đang làm chủ. Và để làm điều đó, họ trở nên "ngày càng hung hăng hơn" (more and more aggressive).
Joshua Kurlantzick (CFR) cho rằng Trung Quốc lợi dụng lúc Mỹ và đồng minh phương Tây đang lo đối phó với đại dịch, để bắt nạt các nước khu vực vì lợi ích trước mắt, sẽ làm phương hại cho mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là phải lấy lòng các nước. Nhưng việc Mỹ bị phân tâm và mất khả năng đối phó là cơ hội quá hấp dẫn với Trung Quốc (4).
Tam chủng chiến pháp
Chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông là chờ thời cơ, dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988). Sau đó, họ "thay đổi thực địa" (changing facts on the ground) bằng cách bồi đắp các đảo nhân tạo vả quân sự hóa thành các "cứ điểm" (outposts). Họ từng bước lấn chiến như "tầm ăn dâu" để thành "chuyện đã rồi" (fait accompli).
Trung Quốc áp dụng "Tam chủng Chiến pháp" (tâm lý, pháp lý, tuyên truyền). Về tâm lý, họ hành xử kiểu "nước lớn" bắt nạt "nước bé", gây tâm lý lo sợ bị trừng phạt. Về pháp lý, họ dựa vào sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế. Về tuyên truyền, họ áp đặt những gì có lợi cho mình, sẵn sàng "đổi trắng thay đen" và "biến không thành có", làm thật giả lẫn lộn.
Để hợp pháp hóa việc chiếm đóng và khẳng định chủ quyền (phi pháp) ở Biển Đông, năm 2012 Trung Quốc lập ra "thành phố Tam Sa" (Sansha), đặt trụ sở tại đảo Phú Lâm (Woody island tại Hoàng Sa). Họ di dân đến đó sinh sống và phát triển du lịch để có bộ mặt "dân sự". Ngày 18/4, họ lập ra quận đảo Nam Sa (Nansha) và Tây Sa (Xinsha). Ngày 19/4, họ đặt tên tiếng Trung cho 25 đảo, bãi đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy Biển Đông (một cách phi pháp).
Năm ngoái (7-10/2019), tàu khảo sát HD-8 và các tàu hải cảnh hộ tống của Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền và quấy rối hoạt động dầu khí của Việt Nam gần Bãi Tư Chính và trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Họ đã gây ra "đối đầu" (standoff) và khủng hoảng Biển Đông (lần thứ hai) buộc các tàu cảnh sát biển của Việt Nam phải bám sát để ngăn chặn.
Ngày 12/12/2019, sau khi Malaysia gửi Liên Hiệp Quốc hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, thì cùng ngày 12/12, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm phản đối Malaysia. Ngày 6/3/2020, sau khi Philippines gửi Liên Hiệp Quốc hai Công hàm trình bày quan điểm và phản đối các yêu sách của Trung Quốc, thì ngày 23/3 Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm đáp lại Philippines. Ngày 14/4/2020, Việt Nam gửi Liên Hiệp Quốc thêm hai Công hàm để đáp lại quan điểm của Malaysia và Philippines.
Ngày 20/03/2020, Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu trên đảo đá Chữ Thập và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc còn tiến hành tập trận tại Biển Đông (tháng 3/2020). Ngày 02/04/2020, tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa, và vu cáo tàu đánh cá Việt Nam đâm vào tàu hải cảnh của họ.
Ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm khẳng định chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, và phản đối các lập luận vô lý của Trung Quốc tại Biển Đông trong các Công hàm trước đó. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm đáp trả Công hàm của Việt Nam, trong đó có những lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Nói cách khác, "cuộc chiến công hàm" này là một phần của "Tam chủng Chiến Pháp" (Three Warfare Doctrine).
Công hàm của Việt Nam gửi Liên Hiệp Quốc ngày 30/3/2020 nhằm (1) phản biện các yêu sách của Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, (2) khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, (3) khẳng định Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất quy định phạm vi vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo các chuyên gia về luật biển, Công hàm của Trung Quốc (17/4) có lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Vì vậy, trong bối cảnh khó lường hiện nay, Việt Nam phải cảnh giác đề phòng Trung Quốc có thể nghi binh để dùng vũ lực (tàu hải cảnh và "dân quân biển") uy hiếp các giàn DK gần Bãi Tư Chính, hoặc hạ đặt một cấu trúc nảo đó để lấn chiếm tại bãi Ba Đầu (thuộc cụm Sinh Tồn) như họ đã làm tại bãi cạn Scarborough của Philippines (2012).
Đồng thuận ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, Trung Quốc sẽ tranh thủ lợi thế so sánh ở Biển Đông để bắt nạt các nước ASEAN. Lực lượng chủ lực của Trung Quốc tại Biển Đông vẫn là tàu hải cảnh và "dân quân biển" để biến vùng không có tranh chấp thành "khu vực tranh chấp cường độ thấp" (low intensity conflict) trong vùng xám (grey area) để tránh xung đột với Mỹ.
Trong khi chính quyền Trump chủ trương "American First", bỏ rơi TPP và giảm cam kết khu vực, thì ASEAN bị phân hóa thành mấy nhóm nước có mức độ độc lập hay lệ thuộc vào Trung Quốc khác nhau. Do đó, đồng thuận ASEAN ngày càng yếu, trong đàm phán về COC cũng như trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung tác động đến quan hệ Mỹ-ASEAN.
Sau khủng hoảng chính trị tại Kuala Lumpur, ông Mahathir Mohamed đã thất bại và ông Muhyiddin Yassin lập chính phủ mới (1/3/2020). Nếu Bắc Kinh định đảo ngược xu thế "thoát Trung" của chính phủ Mahathir, họ sẽ ép Malaysia rút tàu khoan West Capella khỏi lô ND1 như đã ép Việt Nam rút giàn khoan Hakuryu khỏi lô 06-1 gần bãi Tu Chính.
Để bù vào khoảng trống quyền lực của Mỹ ở khu vực, cần tăng cường vai trò an ninh tập thể của "Tứ cường" Mỹ, Nhật, Ấn, Úc (Quad), liên kết với các nước ASEAN có tranh chấp tại Biển Đông (như Việt Nam, Indonexia, Malaysia, Philippines). Cấu trúc an ninh này là cơ sở giúp Nhật có chính danh để tăng cường vai trò hợp tác an ninh tại Biển Đông.
Cho đến nay, hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam đã bị đình trệ, nguồn thu từ dầu khí bị giảm sút nghiêm trọng do không có dự án mới. Chỉ còn vài dự án cũ của Vietsovpetro tại Nam Côn Sơn là vẫn hoạt động. Trong khi đó, ExxonMobil (Mỹ) vẫn chưa triển khai dự án khí Cá Voi Xanh (lô 118). Năm ngoái, có tin đồn ExxonMobil định rút khỏi Việt Nam do sức ép ngầm của Trung Quốc hoặc do trục trặc về thủ tục dự án và giá bán khí.
Nếu Trung Quốc phân hóa được ASEAN như tách bó đũa để bẻ từng chiếc (chỉ đàm phán song phương chứ không đa phương) và gạt được Mỹ và đồng minh ra khỏi khu vực, để họ độc chiếm Biển Đông, thì tương lai ASEAN dễ bị "Ban Căng hóa" (Balkanization). Nói cách khác, Việt Nam và các nước ASEAN dễ trở thành chư hầu lệ thuộc vào Trung Quốc. Nhưng nếu Trung Quốc càng gây sức ép với Việt Nam thì họ càng xô đẩy Việt Nam gần Mỹ.
Theo Michael Green (CSIS) chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc tuy hùng hổ nhưng tỏ ra vụng về, chắc sẽ không hiệu quả. Cách đề cập của Bắc Ki”nh có vẻ bất lực, chứng tỏ sự bất an, không đối phó được với sự bùng phát" (5).
Theo Minxin Pei (Claremont McKenna College), Trung Quốc bị vây hãm bởi kinh tế đình đốn và xã hội ngày càng bất an từ bên trong và cạnh tranh nước lớn với bên ngoài, nên dễ bị đổ vỡ. Trung Quốc chắc phải tìm cách tháo gỡ, nhưng đang suy thoái dần, và sẽ lan rộng nhanh chóng. (China’s Coming Upheaval, Minxin Pei , Foreign Affairs, May/June 2020 ).
***
Trung Quốc vừa chống dịch coronavirus, vừa tiếp tục bắt nạt các nước ASEAN để độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ. Việt Nam và ASEAN cũng phải vừa chống đại dịch, vừa đối phó với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình tại Biển Đông. Nói cách khác, các nước ASEAN phải đoàn kết vì "đồng thuận ASEAN" để chống cả hai, trong khi Việt Nam phát huy vai trò tích cực của mình là Chủ tịch ASEAN trong năm 2020 và 2021.
Nguyễn Quang Dy
Nguồn : Viet-studies, 24/04/2020
Ghi chú :
(1) No, Covid-19 Isn’t Turning Europe "Pro China", Erik Brattberg and Philippe Le Corre, Belfer Center, Harvard, April 15, 2020
(2) China lays ever larger claim to South China Sea, Richard Heydarian, Asia Times, April 21, 2020
(3) US Warships Enter Disputed Waters of South China Sea as Tensions With China Escalate, Hannah Beech, New York Times, April 21, 2020
(4) Covid-19 and the South China Sea, Joshua Kurlantzick, Council on Foreign Relations, April 22, 2020
(5) The Pandemic Won’t Make China the World’s Leader, Michael Green and Evan Medeiros, Foreign Affairs, April 15, 2020
Tham khảo :
- China’s Coming Upheaval, Minxin Pei, Foreign Affairs, May/June 2020).
- How China Sees the World, H.R. McMasters, Atlantic, May 2020
- The New Normal : Thoughts about the Shape of Things to Come in the Post-Pandemic World, Nicholas Eberstadt, NBR, April 18, 2020
- Thế giới hậu Covid-19, Hoàng Anh Tuấn, Tuần Việt Nam, 20/04/2020
- China could soon sink US in South China Sea, Grant Newsham, Asia Times, April 23, 2020
Covid-19 : Trung Quốc cần trả giá vì để dịch bệnh lan ra toàn cầu
Theo cây bút thời luận Edouard Tétreau của báo kinh tế Les Echos, Trung Quốc cần phải trả giá vì làm lây lan dịch bệnh Covid-19 ra toàn thế giới. Cũng giống như thảm họa Chernobyl hồi năm 1986, cuối cùng đã khiến chế độ cộng sản Liên Xô sụp đổ, việc để virus corona lây lan nghiêm trọng là do sự im lặng, dối trá và hoạt động tuyên truyền của chế độ Trung Quốc toàn trị.
ình ảnh đồ họa virus corona được Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) công bố ngày 27/02/2020. Centers for Disease Control and Prevention/AFP/Archivos
Đối với nhà báo Tétreau, chỉ có một cuộc điều tra quốc tế trên thực địa, từ Vũ Hán đến Bắc Kinh, với sự bảo trợ của một tổ chức quốc tế không chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, mới cho phép tìm ra đáp án và đánh giá trách nhiệm của Trung Quốc trong việc để đại dịch lan truyền. Nhưng trong khi chờ có kết luận điều tra, trách nhiệm của chính quyền các nước lớn trên thế giới trước hết là tự bảo vệ đất nước khỏi mối nguy hiểm từ chế độ Trung Quốc ; sau đó là bắt Bắc Kinh trả giá cho đại dịch mà họ đã để lây lan, thậm chí là đã gây ra.
Trước hết, cần vô hiệu hóa vai trò quá lớn của Trung Quốc trong ban lãnh đạo của một số tổ chức chiến lược toàn cầu, và trong khi chờ kết luận điều tra quốc tế thì việc đầu tiên là tạm đình chỉ công tác của các nhà lãnh đạo người Trung Quốc đứng đầu các tổ chức quốc tế này. Về kinh tế, mặc dù không thể cấm Trung Quốc đầu tư vào các doanh nghiệp nước ngoài và quyền nhận cổ tức, nhưng đã đến lúc phải xem xét lại quyền biểu quyết của họ, do "tính nguy hiểm" của chế độ Bắc Kinh, hiện đang kiểm soát mọi hoạt động đầu tư, dù là nhỏ nhất, bên ngoài Trung Quốc.
Cũng trên tinh thần bảo vệ lợi ích sống còn và chủ quyền của Châu Âu, việc để các cá nhân và doanh nghiệp sử dụng các công nghệ quan trọng của Trung Quốc không còn phù hợp. Cuộc khủng hoảng này buộc Châu Âu tái đầu tư ồ ạt vào các ngành và lĩnh vực quan trọng, di dời sản xuất về gần Châu Âu, xa Trung Quốc nhất có thể, việc này cũng là cần thiết, nhìn từ góc độ sinh thái.
Chi phí thế giới bỏ ra để đối phó với virus corona là vô cùng lớn, nên cần có sự đóng góp tài chính quan trọng và dài hạn. Vì thế, nhà báo Tétreau đề xuất nhóm G20 (trừ Trung Quốc) áp thuế 20% hàng năm và trong vòng 5 năm đối với tất cả hàng xuất khẩu từ Trung Quốc (2.500 tỷ đô la/năm). Số tiền này sẽ dành cho nỗ lực phục hồi và tái thiết của các nước, là nạn nhân "bất đắc dĩ" của virus corona. Việc tăng thuế 20% như trên cũng sẽ khuyến khích các nước "hồi hương" các ngành sản xuất chiến lược, mà họ đã từng tin tưởng giao phó cho Trung Quốc. Không muốn "nhiễm virus kép" (virus corona và "virus của chế độ độc tài Bắc Kinh"), các quốc gia trên thế giới phải tạo cán cân quyền lực mới với Trung Quốc và các chế độ chư hầu của Bắc Kinh.
Cũng liên quan đến dịch virus corona, báo Le Monde có bài "Cuộc tổng tiến công mùa xuân thành công của Việt Nam chống lại Covid-19", coi đây là trường hợp "ngoại lệ". Mặc dù ở sát Trung Quốc, nhưng Việt Nam có số người nhiễm virus rất thấp và cho tới nay, (20/04) không có ca tử vong nào. RFI dịch và đăng bài viết này với tiêu đề "Cuộc tiến công mùa xuân của Việt Nam trước virus corona".
Covid-19 : Giới trẻ là nạn nhân đầu tiên của suy thoái kinh tế
Cũng liên quan đến Covid-19, trong lĩnh vực xã hội, Le Monde quan tâm đến giới trẻ 18-25 tuổi mà họ gọi là "những nạn nhân đầu tiên của nạn suy thoái kinh tế" do biện pháp phong tỏa chống Covid-19, mặc dù thanh niên là nhóm đối tượng ít bị tác hại nhất về sức khỏe.
Giới trẻ là nhóm lao động đông đảo trong các lĩnh vực bị đóng cửa nhiều nhất trong đợt phong tỏa : nhà hàng, khu thương mại, trung tâm vui chơi giải trí… Chẳng hạn, tại Anh Quốc, theo khảo sát của Viện Nghiên Cứu Về Thuế (IFS), 30% lực lượng người làm công ăn lương trong các lĩnh vực nói trên là thanh niên dưới 25 tuổi. Tỉ lệ này là 13% đối với nhóm lao động trên 25 tuổi. Theo tác giả công trình nghiên cứu của IFS, nếu cuộc khủng hoảng 2008 tác động chủ yếu đến giới tài chính, thì lần này tác động của lệnh phong tỏa chủ yếu nhắm đến nhóm người có trình độ học vấn thấp nhất, lương thấp nhất và trẻ tuổi nhất.
Tác động tiêu cực thứ hai đối với những sinh viên sắp hoặc mới ra trường và đang trong giai đoạn tìm việc làm là họ tham gia vào thị trường lao động vào đúng thời điểm tồi tệ nhất. Theo bà Camille Landais, trường Kinh Tế Luân Đôn, khi các doanh nghiệp gặp cú sốc, họ sẽ giữ lại các nhân viên có trình độ cao, hạn chế tuyển dụng nhân lực mới. Các công ty cũng có xu hướng không gia hạn hợp đồng ngắn hạn, trong khi các loại hợp đồng ngắn hạn liên quan nhiều nhất đến giới trẻ. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi 18-25 đã tăng gấp đôi, đạt mức kỷ lục 26,2%.
Nhiều nghiên cứu dài hạn cũng chỉ ra rằng trong thời khủng hoảng, thời gian thất nghiệp của thanh niên sẽ kéo dài hơn và họ cũng mất nhiều thời gian hơn để tìm được việc làm có hợp đồng dài hạn, nhất là những người có bằng cấp thấp.
Cuộc khủng hoảng dầu lửa đáng kinh ngạc
Một đề tài được báo chí đặc biệt quan tâm là "Thị trường dầu lửa đang trải qua một cuộc khủng hoảng đáng kinh ngạc". Theo La Croix, đối với người bình thường, điều này không mấy dễ hiểu. Trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đều nghe nói dầu hỏa là một nguồn tài nguyên đang cạn kiệt. Thế mà giờ đây dầu lửa dồi dào đến mức một số người sẵn sàng trả tiền để thoát khỏi nó. Hôm qua ở New York, giá niêm yết một thùng dầu chất lượng WTI là -37,63 đô la so với mức giá 18,27 đô la vào thứ Sáu tuần trước. Điều này tất nhiên có thể được giải thích qua nhiều yếu tố. Trước tiên là vào tháng 3, Nga và Saudi Arabia đã tăng sản lượng dầu để giảm giá, giành thị phần. Sau đó, lệnh phong tỏa quy mô lớn chống dịch Covid-19 khiến nhu cầu thế giới sụt giảm mạnh.
Cuộc khủng hoảng lần này làm nổi bật sự mong manh của thế giới đương đại, cả về địa chính trị và kinh tế. Khi có một yếu tố không lường trước như đại dịch Covid-19 xảy ra, sẽ có một cái kết bất ngờ. Hậu quả tiềm tàng sẽ rất thảm khốc cho các nước sản xuất dầu lửa dễ bị tổn thương xã hội nhất, chẳng như Algeria. Bài xã luận của La Croix kết luận : Hành tinh chúng ta đã có nhiều thập kỷ để mặc cho cạnh tranh kinh tế thoát khỏi mọi điều tiết, vốn được cho là động lực tạo ra sự giàu có, và giờ đây chúng ta đang phải trả giá !
Thời kỳ đen tối của các nước sản xuất dầu lửa
Libération cũng dành nhiều bài viết phân tích cuộc khủng hoảng dầu lửa, nhất là về tác hại đối với các nước khai thác và xuất khẩu dầu. Trong bài "Thời kỳ đen tối của các nước sản xuất dầu lửa", Libération lo ngại là nếu "các nền quân chủ dầu lửa" ở Trung Đông phải xem xét lại các mục tiêu kinh tế thì nhiều nước khác như Algeria, Nigeria có nguy cơ "bùng nổ xã hội".
Quả thực, từ các nước quân chủ sản xuất dầu lửa giàu có nhất vùng Vịnh cho đến các nước Châu Phi, Ả Rập hay Nam Mỹ vốn ít giàu có và đông dân hơn, tất cả đều dựa chủ yếu vào thu nhập từ nguồn dầu lửa và giờ đang bị dồn vào chân tường. Trang tin Algérie-Eco ngay từ hôm Chủ Nhật đã lo ngại về "Một thời kỳ phá sản đang mở ra cho ngành công nghiệp dầu lửa thế giới".
Libération đặc biệt lo ngại cho các nước Algeria, Iraq, nơi khủng hoảng xã hội sẽ còn lan rộng hơn nữa nếu thu nhập giảm sút. Các mối đe dọa cũng đè nặng lên Venezuela và Iran, những nước đang chịu lệnh trừng phạt của quốc tế. Còn đối với các nước giàu có vùng Vịnh, cho dù có tránh được tình trạng bất ổn xã hội nhờ có dự trữ tài chính đáng kể, thì các chế độ quân chủ sẽ khó lòng thực hiện các tham vọng kinh tế và chính trị, đặc biệt là các chiến lược đa dạng hóa để chuẩn bị cho thời kỳ hậu dầu lửa. Cuối cùng, sự sụt giảm doanh thu của các quốc gia dầu lửa giàu có thể sẽ đè nặng lên nền kinh tế thế giới.
Hồng Kông : Áp lực của Bắc Kinh
Nhìn sang Châu Á, Le Monde hướng về Hồng Kông qua bài xã luận mang tựa đề "Hồng Kông : Những áp lực của Bắc Kinh". Bắt giữ 15 nhân vật nổi bật của phong trào đấu tranh dân chủ hôm 18/04 và tuyên bố các đặc quyền mới trong việc can thiệp vào các vấn đề của khu tự trị, Trung Quốc đang làm gia tăng căng thẳng.
Le Monde nhận định trong khi áp lực y tế về dịch bệnh Covid-19 giảm bớt ở Hồng Kông, thì đặc khu hành chính lại đối mặt với sự gia tăng căng thẳng về chính trị. Cảnh sát Hồng Kông đã thực hiện các vụ bắt giữ theo lệnh của các công tố viên, nhưng rõ ràng là phải có sự khích lệ từ chính quyền Bắc Kinh, cho dù Hồng Kông được hưởng quy chế "một quốc gia, hai chế độ", vốn đảm bảo cho đặc khu có quyền tự chủ lớn, nhất là về tư pháp. Hiến pháp Hồng Kông còn ghi rõ "không có cơ quan nào của chính quyền trung ương, không một tỉnh, khu tự trị, đô thị nào dưới quyền trực tiếp của chính quyền trung ương (có thể) can thiệp vào các vấn đề của đặc khu hành chính Hồng Kông, vốn chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề theo luật lệ riêng".
Trong số những người Hồng Kông bị bắt, có hai cựu dân biểu Martin Lee và Albert Ho. Họ bị tố cáo đã tham gia các cuộc biểu tình trái phép làm rung chuyển lãnh thổ giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 11/2019. Vào ngày 19/05/2020, họ sẽ biết hình phạt dành cho họ là gì. Các thủ tục pháp lý này sẽ hạn chế sự tham gia của hai cựu dân biểu vào đời sống chính trị, trong bối cảnh cuộc bầu cử lập pháp sẽ được tổ chức vào tháng Chín.
Tuy nhiên, Le Monde không loại trừ khả năng phe đối lập sẽ chiếm đa số trong Nghị Viện, nhờ chiến thắng vang dội trong kỳ bầu cử địa phương hồi tháng 11/2019 và do người dân Hồng Kông ngày càng mất lòng tin vào Bắc Kinh.
Trang nhất các báo Pháp
Trên trang nhất, Le Monde lo ngại về tình trạng "Hành tinh chao đảo, mất thăng bằng trong cơn khủng hoảng xã hội". Hồ sơ 2 trang bài của Le Monde được tóm lược trên trang nhất qua 5 điểm quan trọng :
1. Việc phong tỏa vài tỉ người đã gây ra cú sốc xã hội vô cùng lớn cho những người không có nguồn tài chính dự phòng ;
2. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ước tính GDP thế giới sẽ giảm 3% trong năm 2020, mức giảm cao gấp đôi so với trong cuộc khủng hoảng 2009 ;
3. Các kế hoạch hỗ trợ ồ ạt giới doanh nghiệp mà Liên Hiệp Châu Âu tung ra sẽ không giúp tránh khỏi tình trạng nhiều triệu người mất việc làm ;
4. Trong khi đó, theo một nghiên cứu của Anh Quốc, cứ 1% số công ăn việc làm mất đi thì kéo theo nguy cơ các bệnh kinh niên tăng 2% ;
5. Đại dịch có thể đẩy gần 500 triệu người ở những nước có thu nhập thấp nhất vào cảnh đói nghèo.
Le Figaro lại chú ý đến các em học sinh qua hàng tựa trang nhất : "Trường tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông : Các thách thức sau ngày 11/05". Hôm qua, bộ trưởng Giáo dục Pháp dự kiến trường học các cấp sẽ mở cửa trở lại dần dần theo 3 giai đoạn trong vòng 3 tuần. Tuy nhiên, thông báo của bộ trưởng Blanquer ngay lập tức đã gây nhiều thắc mắc và chia rẽ, nhất là đối với các giáo viên và phụ huynh học sinh. Giáo viên rất muốn các em trở lại trường nhưng cũng cần có sự đảm bảo về an toàn vệ sinh. Các bậc phụ huynh thì vừa thở phào nhẹ nhõm thấy con em được đi học lại, nhưng đồng thời rất lo ngại cho sự an toàn sức khỏe của các em. Còn báo công giáo La Croix đưa độc giả đến với "Wihr-au-Val, ngôi làng bị tổn thương đau đớn" do dịch Covid-19 tàn phá nặng nề.
Về kinh tế, trong khi Libération dự báo : "Sự sụt giảm giá dầu lửa sẽ còn mạnh hơn nữa", thì báo kinh tế Les Echos tìm hiểu "Những lý do khiến ngành dầu lửa rơi vào hỗn loạn chưa từng có".
Thùy Dương
'Giảm sốc' kinh tế Việt Nam sau cú sốc đại dịch
Khánh An, VOA, 22/04/2020
Trong khi các lãnh đạo Việt Nam vẫn tỏ ra dè dặt trong quyết định tái mở cửa nền kinh tế, thì những người trực tiếp làm công tác cứu trợ xã hội lo ngại phần lớn người nghèo, người thu nhập thấp sẽ không gượng nổi nếu các sinh hoạt xã hội, nhà máy, doanh nghiệp… không sớm quay lại bình thường như trước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, thậm chí đối diện với nguy cơ phá sản, do tác động của tình trạng giãn cách xã hội nhằm đối phó với dịch Covid-19.
Với số liệu chính thức cho biết đã 6 ngày liên tiếp không có ca nhiễm Covid-19 mới, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ hôm 22/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các lãnh đạo Việt Nam công bố kế hoạch phân chia các tỉnh thành theo 3 nhóm nguy cơ nhằm đưa ra các chính sách tái mở cửa kinh tế tương ứng theo từng trường hợp cụ thể.
Theo đó, nhóm nguy cơ cao là Hà Nội được đề nghị tiếp tục áp dụng giãn cách xã hội thêm 1 tuần nữa, cho đến hết ngày 30/4, nhưng cho phép thành phố này được tự quyết định về việc mở cửa lại các cửa hàng kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu và các loại hình kinh doanh đường phố tùy theo tình hình thực tiễn tại địa phương.
Nhóm có nguy cơ, gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Hà Giang, cũng được cho phép tự quyết định về việc tái tục các hoạt động kinh tế tùy theo tình hình địa phương.
Riêng nhóm nguy cơ thấp là các tỉnh thành còn lại được phép khôi phục trở lại các hoạt động kinh tế không thiết yếu nhưng phải đảm bảo các biện pháp phòng chống dịch.
"Khó trụ nổi"
Kế hoạch cho thấy sự dè dặt và đắn đo của các lãnh đạo Việt Nam trong việc đưa ra quyết sách về thời điểm tái mở cửa nền kinh tế, giữa bối cảnh mà một số nhà hoạt động và những người làm công tác xã hội nói rằng đời sống kinh tế của người dân ở nhiều nơi đã ở mức "kiệt quệ".
"Ở Việt Nam, dù người chết chưa có, rồi số lượng dịch bệnh chưa phải là nhiều, nhưng thực ra về kinh tế, phải nói là kiệt quệ. Nhân viên và tất cả những người lao động thấp đang rất khổ", bà Lê Hoài Anh, một nữ doanh nhân đã đứng ra quyên góp và hỗ trợ trực tiếp cho người dân trong đại dịch Covid-19, đưa ra nhận định với VOA.
Bày tỏ sự thông cảm về "bài toán khó" trong quyết định tái mở cửa nền kinh tế, nhưng bà Lê Hoài Anh cho rằng Việt Nam vẫn phải giải bài toán khó này vì nền kinh tế sẽ "khó trụ nổi" nếu các hoạt động kinh tế không sớm khôi phục.
"Bây giờ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà hàng... đã phá sản hết rồi. Tôi thực sự rất lo sợ", bà Anh cho VOA biết.
"Mặc dù tôi hiểu rằng chính phủ Việt Nam, cũng như Mỹ thôi, đang đứng trước bài toán rất khó là bao giờ mở cửa trở lại. Việt Nam lại còn khó hơn trong nền kinh tế mà người dân thì có rất nhiều thành phần mà số lượng, tỷ lệ chạy ăn từng bữa, từng tuần, từng tháng khá là đông".
Theo nữ doanh nhân này, nếu các hoạt động kinh tế không sớm khôi phục, tình trạng phá sản sẽ lan rộng, kéo theo những bất ổn xã hội.
Nhận định với VOA về vấn đề này, Tiến sĩ kinh tế Đinh Trường Hinh, nguyên chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới ở Washington DC và hiện là Chủ tịch Công ty EGAT, cho rằng quyết định có nên gia hạn thời gian cách ly xã hội hay không phải tùy thuộc vào tình trạng của nạn dịch đang xảy ra, chứ không đơn thuần vì kinh tế có chịu đựng được hay không.
"Nếu kinh tế chịu đựng không được, phải bỏ cách ly, mà bị Covid-19 hoành hành trở lại thì hậu quả còn nguy hiểm hơn là đừng bỏ cách ly", Tiến sĩ Đinh Trường Hinh nói.
Vì vậy, theo ông, quyết định này "phải dựa theo tình hình virus đã được ngăn chặn như thế nào, có nguy cơ quay trở lại hay không, và phải căn cứ vào số liệu thực tiễn ở tại nơi (data on the ground).
Việt Nam cần làm gì ?
Với "cú sốc đại dịch", nền kinh tế Việt Nam được cho là vừa đứng trước nguy cơ vừa đứng cơ hội. Ngoài những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến sụp đổ kinh tế, một số cơ hội cũng đang được bàn đến trong thời gian gần đây là cơ hội "thoát Trung" và cơ hội đón làn sóng đầu tư mới từ những doanh nghiệp quốc tế đang có kế hoạch rời khỏi Trung Quốc.
Nói về "cơ hội vàng" để kinh tế Việt Nam thoát thoát khỏi ảnh hưởng quá lớn từ Trung Quốc lâu nay, Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng dù có dịch cúm hay không, Việt Nam cũng cần phải thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc để có "độc lập tự do lâu dài".
Ông nói : "Dịp cúm Covid-19 là một cơ hội bằng vàng để các kinh tế gia Việt Nam có cơ hội phân tích ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào, để biết rõ số người lao động tay nghề cao và thấp của Trung Quốc xuất cảng qua Việt Nam hiện là bao nhiêu, ở trong ngành nghề nào, có thể thay được ngay hay không, cũng như ảnh hưởng Trung Quốc về giao thông, du lịch, vận tải, đầu tư, thương mại và tác động đến các đầu vào của các chuỗi cung ứng liên quốc gia".
"Từ đó, chính phủ phải lập ra một chương trình rõ ràng, thiết thực và có thể giám sát để trong một thời gian có thể giảm thiểu các ảnh hưởng từ Trung Quốc nêu trên, nhất là các đầu vào về chất xám cũng như về vật liệu, và thay vào đó các nguồn từ trong nước hoặc từ các nước khác".
Theo cựu chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới, việc đầu tiên chính phủ Việt Nam nên làm là lập ra một nhóm nghiên cứu để thu thập các tài liệu cần thiết, một mặt để tìm hiểu những ảnh hưởng của dịch cúm đến kinh tế Việt Nam, mặt khác để tìm hiểu rõ thêm ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc đối với Việt Nam, nhất là ở các tỉnh biên giới.
Mặt khác, với tình trạng xuất khẩu Việt Nam đang chịu tác động từ "lỗ hổng" nguồn cầu từ các thị trường lớn như Mỹ trong lĩnh vực dệt may, giày dép, phụ tùng, điện thoại... Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng đây là lúc mà Việt Nam cần phải "thắt lưng buộc bụng", dù có phải bán rẻ trước mắt để chiếm thị trường thì cũng phải làm để dành lấy cơ hội xuất khẩu cho tương lai, và cũng nên tận dụng các thị trường khác như Châu Âu thông qua EVFTA vào lúc này.
Ngoài ra, để chuẩn bị "nội lực" đủ mạnh để có thể đón lấy làn sóng di cư công xưởng sắp tới của các doanh nghiệp quốc tế từ Trung Quốc sang các quốc gia láng giềng, theo Tiến sĩ Đinh Trường Hinh, Việt Nam cần rà soát lại những đầu tư nước ngoài, chú trọng hơn về chất lượng và khuyến khích đầu tư vào những lãnh vực mà Việt Nam đang cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. "Những lãnh vực này là những nghành công kỹ nghệ cao có thể đem lại giá trị sản xuất cao hơn và tận dụng trí tuệ của dân Việt Nam", ông nói.
"Cụ thể, Việt Nam phải khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của những lãnh vực này để hoàn thiện chuỗi giá trị cung ứng ; khuyến khích FDI liên kết với các công ty trong nước qua hình thái liên doanh và đẩy mạnh liên kết hàng dọc ; nâng tỷ lệ nội địa hóa, và ngăn chận đầu tư (hoặc đem các máy móc cũ) có hại hay có ảnh hưởng xấu cho môi trường. Mục đích chính là giúp các công ty tư nhân trong nước được lớn mạnh và cạnh tranh thành công trên thế giới".
Theo Tiến sĩ Đinh Trường Hinh, để làm được điều này, Việt Nam cần "cải tổ theo chiều sâu", như giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp ; khuyến khích phát triển các cụm sản xuất (clusters) ; đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đồng bộ (plug-and-play) và các khu công nghệ ; khuyến khích và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua hợp đồng thầu phụ.
Lặp lại những khuyến nghị đã đưa ra trong cuốn sách "Light Manufacturing in Vietnam" (Phát Triển Công Kỹ Nghệ Nhẹ tại Việt Nam) do Ngân hàng Thế giới xuất bản, Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng vấn đề quan trọng nhất vẫn là chất xám của người Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nên thực hiện các chính sách nhằm tăng số lượng và chất lượng công nhân có tay nghề để giúp cho nền kinh tế "vươn lên mức cao hơn trên bậc thang giá trị gia tăng", từ đó có thể đón lấy những cơ hội sau đại dịch Covid-19, theo cựu kinh tế gia của Ngân hàng Thế giới.
Khánh An
Nguồn : VOA, 22/04/2020
***********************
Covid-19, Trung Quốc và những bài học bổ ích cho Việt Nam
Trân Văn, VOA, 22/04/2020
Covid-19 đang làm cục diện thế giới thay đổi. Chắc chắn vai trò, vị trí của Trung Quốc sẽ rất khác so với trước. Ưu thế của Trung Quốc về tầm vóc thị trường, về giá nhân công rẻ, về thu hút đầu tư, về nguồn nguyên liệu, vật liệu đa dạng, dồi dào… từng giúp Trung Quốc gia tăng khả năng chi phối sức cạnh tranh, duy trì sự ổn định từ chính trị tới kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia, kể cả các cường quốc, nay rơi theo phương thẳng đứng !
Nhà báo Trung Quốc đeo khẩu trang xem một thông cáo báo chí của chính quyền trước một cuộc họp báo tại Bắc Kinh.
Covid-19 giống như "cạnh" còn lại của "con dao hai lưỡi" - phương thức quản trị, điều hành quốc gia, cung cách hành xử trâng tráo, trịch thượng trong đối ngoại của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc - đã rạch một nhát rất sâu vào nhận thức của cộng đồng quốc tế. Chẳng riêng Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc mà ngay cả Châu Phi cũng đã tỉnh ra, đã hiểu thế nào là "lợi bất cập hại" khi làm ngơ, nhẫn nhịn, thậm chí nương theo Trung Quốc để các bên cùng có lợi.
Hóa ra làm ngơ để hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc hành xử độc đoán, vô luân ở Trung Quốc,… hóa ra "nhìn trước, ngó sau", bất kể đạo lý, luôn luôn cân phân lợi - hại trong gìn giữ quan hệ với Trung Quốc lại tai hại đến như thế ! Đã có nhiều triệu người, đặc biệt là chính khách ở nhiều quốc gia ngộ ra : Nếu cộng đồng quốc tế không như thế, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc bị buộc phải ứng xử minh bạch, có trách nhiệm với đồng bào và rộng hơn với nhân loại thì Covid-19 đã bị chặn ngay ở Vũ Hán, không lan rộng trên phạm vi toàn cầu, gây ra đủ loại thiệt hại kinh khủng như đang thấy.
Cho dù tình thế đã khác nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc không nhận ra điều đó. Nỗ lực hóa giải trách nhiệm về Covid-19, thậm chí cố gắng biến Covid-19 thành son, phấn để tô vẽ diện mạo, nâng cao uy tín của Trung Quốc đã tạo ra đủ loại "gậy", giao vào tay thiên hạ cho họ "vụt" chính Trung Quốc. Khống chế xuất cảng hay viện trợ các loại trang bị, thiết bị y tế cho một số quốc gia chỉ khiến thiên hạ thêm khinh bỉ, căm giận.
Nỗ lực của các viên chức ngoại giao Trung Quốc, những cuộc vận động để khen ngợi, cám ơn Trung Quốc ở nơi này, nơi khác hay những lá thư gửi cho Daily Telegraph ở Úc, Bild ở Đức,… từng tạo ra nhiều "tác động tích cực" đối với việc bảo vệ hình ảnh, gia tăng uy tín của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc, giờ trở thành lý do thúc thiên hạ tự thấy phải làm gì đó mạnh mẽ hơn là chỉ chỉ trích. Chính hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc khiến thiên hạ nhận ra họ phải tự thay đổi cả nhận thức lẫn cách hành xử đối với Trung Quốc. Thay đổi đó không đơn thuần là do nghĩa vụ bảo vệ dân chủ, nhân quyền mà vì lợi ích thiết thân của chính họ.
***
Không cần phải rành tiếng Anh mới có thể biết tâm tư, tình cảm của thiên hạ với Trung Quốc và về Trung Quốc đang như thế nào. Cả hệ thống truyền thông chính thức của Việt Nam lẫn mạng xã hội Việt ngữ đã cũng như đang liên tục cập nhập những diễn biến ấy (1). Covid-19 đã làm những người vốn dửng dưng về chính trị cũng có thể cảm nhận tường tận tác hại mà một chính quyền cộng sản có thể gieo rắc trên đầu của họ, đe dọa cả hiện tại lẫn tương lai của họ.
Trong bối cảnh như hiện nay, có tiếp tục tự hào vì bản chất chính thể cũng bất nhân, bất trí, bất tín, bất nghĩa y hệt Trung Quốc hay không là một lựa chọn ! Có nên bô bô phản ứng một cách trâng tráo trước những chỉ trích về xâm hại các tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền của nhân loại như "người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn ở ngay bên cạnh" hay không là một lựa chọn khác, Covid-19 đã vô hiệu hóa lối biện bạch về "đặc điểm riêng, tiêu chí riêng" và xé toạc tấm khiên "chuyện nội bộ của một quốc gia".
Cuối cùng, có nên tiếp tục xem "tuyên truyền" như "nhiệm vụ chính trị trọng tâm" cả trong đối nội lẫn đối ngoại như Trung Quốc, hay "có sao, nói vậy" như thiên hạ ? Vì sao đã chứng kiến thiên hạ khinh bỉ, căm giận Trung quốc như thế nào khi lợi dụng yếu tố "nhân đạo" để "tuyên truyền" mà đến cuối tuần vừa qua, vẫn còn thản nhiên biến chuyến bay do ENI (tập đoàn dầu khí của Ý) thuê để đưa chuyên gia và hàng hóa từ Việt Nam về Ý thành… "Đại sứ quán Việt Nam tại Ý đã phối hợp với Vietnam Airlines ‘điều máy bay đưa người Ý bị kẹt tại Việt Nam về nước’ và đưa một số người Việt bị kẹt tại Ý hồi hương" (2) ?
***
1,3 tỉ người Trung Hoa không chỉ phải trả giá rất đắt cho kiểu nhận thức, lối hành xử của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc mà còn bị thiên hạ khinh miệt lây. Không phải tự nhiên mà người Trung Hoa sống ở Đài Loan muốn chính quyền Đài Loan loại bỏ China khỏi quốc hiệu của lãnh thổ này (Republic of China) (3). Liệu hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam có nhìn thấy giá trị của những bài học mà thiên hạ đang dạy hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 22/04/2020
Chú thích
(2) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10220422073795798&set=pcb.260154871827180
********************
Covid-19 : Trung Quốc bị tố cáo gây họa cho thế giới vì giảm nhẹ số liệu
Trọng Nghĩa, RFI, 21/04/2020
Ngày 20/04/2020, Pháp đã vượt mốc 20.000 ca tử vong vì dịch Covid-19, ghi tên mình vào danh sách các nước có số người chết vì dịch bệnh cao nhất hành tinh, sau Mỹ, Ý và Tây Ban Nha. Những số liệu cực cao tại các quốc gia phương Tây đã nêu bật tính chất khác thường của các số liệu tương đối thấp mà Bắc Kinh đã công bố về dịch bệnh, cho dù Trung Quốc là nơi virus corona xuất phát.
Quốc tế ngày càng đòi Trung Quốc phải nói thật về virus corona. China Daily via Reuters
Vấn đề tính xác thực của số liệu về Covid-19 tại Trung Quốc còn trong vòng bàn cãi, nhưng trong thời gian gần đây, ngày càng có nhiều tiếng nói vang lên, cho rằng việc Trung Quốc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh là một trong những nguyên nhân dẫn đến đại họa mà toàn thế giới đang phải gánh chịu.
Điểm qua các thống kê về diễn biến của dịch Covid-19 từ lúc bùng lên tại Trung Quốc cho đến nay, có một thực tế không thể chối cãi : Số liệu chính thức của Trung Quốc thấp một cách lạ thường.
Căn cứ vào bảng cập nhật cho đến sáng ngày 21/04 của đại học Mỹ Johns Hopkins, Hoa Kỳ là nước có nhiều người nhiễm virus corona nhất trên thế giới, với gần 800.000 ca, theo sau là Tây Ban Nha, hơn 200.000 ca, rồi đến Ý, Pháp, Đức và Anh, đều đã vượt xa mốc 100.000 ca.
Còn Trung Quốc thì sao ? Số ca nhiễm tại nơi xuất phát của dịch bệnh ổn định ở mức hơn 80.000 ca, đứng hàng thứ 8 thế giới về số người bị lây nhiễm.
Số liệu về các ca tử vong cũng cho thấy cách biệt rất lớn giữa Trung Quốc với các nước bị nặng nhất, đa phần là ở phương Tây.
Kể cả sau khi đã điều chỉnh cao hơn gấp rưỡi số tử vong vì Covid-19 tại tâm dịch Vũ Hán, Trung Quốc vẫn chỉ ghi nhận 4.636 người chết, thua xa các nước đầu bảng như Mỹ đứng đầu thế giới với 42.364 người chết, theo sau là Ý với 24.114 người, Tây Ban Nha 20.852 người, Pháp với 20.265 người, Anh 16.509 người, Bỉ 5.828 người, Iran 5.209 người.
Mặt khác, số liệu bình quân các ca nhiễm hay tử vong theo tổng số dân của từng nước đã làm lộ rõ tính chất quá thấp của thống kê chính thức tại Trung Quốc.
Trường đại học Mỹ Johns Hopkins chẳng hạn, đã dựa trên số liệu tính đến ngày 16/04 để thử so sánh số ca tử vong vì Covid-19 so với dân số của mỗi nước.
Kết quả rất đáng ngạc nhiên vì theo cách tính này, nước Bỉ vốn ít dân (hơn 11 triệu người) lại đứng đầu thế giới về số trường hợp tử vong vì virus corona, với tỷ lệ 425,2 phần triệu, theo sau là Tây Ban Nha, Ý và Pháp. Còn Mỹ, nước có 330 triệu dân, xếp thứ chín với tỷ lệ 106 phần triệu.
Riêng Trung Quốc, với cả tỷ dân, thì đứng gần như là cuối bảng với một tỷ lệ 24 phần 1000.000.
Nhận xét về số liệu này, một nhà bình luận cho đài truyền hình Pháp LCI ngày 17/04 cho rằng nếu các số liệu của Trung Quốc xác thực, thì nước này "gần như là không hề hấn gì !".
Dịch bệnh càng tàn phá dữ dội trên thế giới càng làm tăng nghi vấn về tính xác thực của các số liệu thống kê về Covid-19 mà Trung Quốc đưa ra. Trước các yêu cầu minh bạch hóa càng lúc càng nhiều, Bắc Kinh chỉ có một câu trả lời duy nhất là họ không hề che giấu điều gì.
Đối với giới chuyên gia phân tích, chính việc Trung Quốc không nói thật về quy mô của dịch bệnh khi mới bùng lên đã làm cho hầu như cả thế giới thiếu cảnh giác đối phó, để xẩy ra thảm họa như ngày nay.
Trả lời phỏng vấn của nhật báo La Croix ngày 17/04 nhà nghiên cứu Philippe Ravaud, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Tễ Học và Thống Kê CRESS tại Pháp đã không ngần ngại cho rằng "Việc số người chết bị giảm thiểu tại Trung Quốc đã tác hại đến công cuộc chuẩn bị chống đại dịch"
Đối với ông Ravaud, cộng đồng khoa học hầu như đều nhất trí cho rằng số ca tử vong vì virus corona mà chính quyền Trung Quốc đưa ra là không chính xác. Bản thân ông cũng "không thể tưởng tượng ra được rằng ở Trung Quốc chỉ có vài ngàn ca tử vong, trong khi nhiều nước Châu Âu thì số người chết cao hơn gấp bội".
Theo chuyên gia Pháp, các thộng tin mà phía Trung Quốc cung cấp về vấn đề này rất thiếu sót, một cách vô tình hay cố ý thì chưa thể biết được, nhưng rõ ràng là hoàn toàn không đầy đủ.
Chuyên gia Ravaud công nhận rằng về mặt các thông tin khoa học, quả là phía Trung Quốc đã cung cấp rất nhiều dữ liệu cho cộng đồng khoa học quốc tế, dưới hình thức các công bố chính thức, hoặc dưới dạng các bài nghiên cứu ban đầu được thông báo ngay cho giới khoa học để tham khảo trước mà không cần chờ được các đồng nghiệp xét duyệt kỹ lưỡng hay được công bố chính thức.
Thế nhưng, vấn đề là không thể biết được là các dữ liệu đó có bao gồm tất cả các thông tin quan trọng hay không, hay là có một phần đã bị chặn lại. Với khối lượng dữ liệu khổng lồ được công khai hóa, người ta không thể thực sự ước tính xem mức độ thiếu sót là bao nhiêu, 20%, 30% hay 50%.
Mặt khác, nhà nghiên cứu Pháp nhắc lại rằng "trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng lớn, như trường hợp ở Vũ Hán, ưu tiên của bác sĩ hoặc nhà khoa học không nhất thiết là phải thông tin hoặc công bố những gì họ phát hiện.
Đối với chuyên gia Ravaud, sai lầm của Trung Quốc là đã cảnh báo quá muộn về dịch bệnh và những nguy cơ đến từ con virus.
Trả lời báo La Croix, nhà nghiên cứu Pháp đã xác định : "Đối với tôi, đây là tội lỗi nguyên thủy của cách giao tiếp của Trung Quốc. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng rằng sẽ có hàng trăm ngàn người chết ở Châu Âu khi mà trên lý thuyết chỉ có vài nghìn ca tử vong ở Trung Quốc, một đất nước có hơn một tỷ dân ? Ngay từ đầu, nhiều chuyên gia đã tin vào số người chết được công bố tại Trung Quốc và căn cứ vào đó để giảm thiểu nguy cơ dự kiến của dịch Covid-19 tại Châu Âu.
Việc ước tính ít đi số lượng người chết ghi nhận ở Trung Quốc đã tác động đến công cuộc chuẩn bị chống đại dịch tại tất cả các quốc gia khác. Trên bình diện đánh giá rủi ro, việc khuyến cáo chính phủ rằng sẽ phải đối phó với một đợt dịch đã khiến 100.000 người chết hoàn toàn khác biệt với khuyến cáo trong trường hợp chỉ có 3.000 người thiệt mạng".
Chuyên gia Ravaud kết luận : "Kinh nghiệm của quốc gia đã bị dịch rất quan trọng đối với các nước mới bị ảnh hưởng, do đó phải được báo cáo một cách hoàn toàn minh bạch. Việc chia sẻ các dữ liệu này trên phạm vi quốc tế rất quan trọng vì nó cho phép quan sát cách dịch bệnh phản ứng với từng chiến lược đối phó và hỗ trợ cho cách hoạch định các chiến lược giảm phong tỏa sau dịch bệnh".
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 21/04/2020
Nếu lịch sử là một cách tốt để dự báo những điều sẽ xảy ra trong tương lai, thì Bắc Kinh rất có khả năng sẽ tăng cường lực lượng dân quân biển trong mọi viễn cảnh khả dĩ. Điều đó đồng nghĩa với việc lực lượng này sẽ trở thành một lực lượng đáng gờm trong những năm tới.
Lực lượng dân quân – ngư dân có vũ trang của Trung Quốc – hay còn được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gọi chính thức là Dân quân Biển thuộc Lực lượng Vũ trang Nhân dân (People's Armed Force Maritime Militia - PAFMM) – đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm áp đặt tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và Biển Hoa Đông. PAFMM là lực lượng ngư dân có vũ trang được chính phủ Trung Quốc bảo trợ, chưa rõ quân số, nằm dưới sự chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (People's Liberation Army - PLA). Lực lượng này đã tồn tại trong nhiều thập niên và hỗ trợ lực lượng Hải cảnh Trung Quốc (China Coast Guard - CCG) và Hải quân Trung Quốc (People's Liberation Army Navy - PLAN) trong việc triển khai các hoạt động trong khu vực.
PAFMM đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thiết lập sự hiện diện trên thực tế của Trung Quốc ở khu vực đang có tranh chấp – qua đó thay đổi thực tế trên biển – nhằm thách thức khả năng kiểm soát các khu vực tranh chấp của các quốc gia tham gia tranh chấp khác. Hình thái tác chiến "vùng xám" kinh điển này được thiết kế để "không đánh mà thắng" thông qua việc áp đảo kẻ thù bằng tàu cá số lượng lớn có hỗ trợ từ phía sau bởi lực lượng hải cảnh hoặc có thể là cả tàu chiến hải quân, tùy thuộc vào tình huống, theo đội hình các vòng tròn đồng tâm ngày càng tăng cường.
Tuy nhiên sự tồn tại của dân quân biển ở Trung Quốc là vô cùng độc đáo, bởi quốc gia duy nhất có một lực lượng tương tự để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển là nước láng giềng Việt Nam. Đúng vậy, Hà Nội đã chính thức thành lập lực lượng dân quân biển của họ vào năm 2009 với mục đích duy nhất là cạnh tranh trực tiếp với PAFMM trong một cuộc "chiến tranh nhân dân trên biển". Vậy câu hỏi cần được đặt ra là : tại sao Bắc Kinh lại thành lập một lực lượng dân quân biển và PAFMM đã phát triển như thế nào theo thời gian ? Lịch sử của lực lượng này nói lên điều gì về tương lai của nó ?
Lực lượng dân quân biển cách mạng
Sau hồi kết của nội chiến Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, Đảng cộng sản Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo tối cao của Mao Trạch Đông, đã tìm cách bảo vệ bờ biển Trung Quốc trước lực lượng quân sự của chính phủ Quốc Dân Đảng vốn đã rút lui ra Đài Loan và các đảo nhỏ ngoài khơi khác. Sự xâm nhập của lực lượng Quốc Dân Đảng vào vùng nước ven biển Trung Quốc đặt ra một thách thức nghiêm trọng bởi Đảng cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ sở hữu một lực lượng hải quân còn yếu kém. Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem việc thành lập một lực lượng dân quân biển có tổ chức để chống lại mối đe dọa này như một giải pháp khắc phục dễ dàng và nhanh chóng trước vấn đề cấp thiết này. Trên thực tế, Trung Quốc đã sở hữu lực lượng dân quân biển trước khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc đã cung cấp ngân sách và đào tạo để biến các lực lượng địa phương rời rạc thành một lực lượng gắn kết ở cấp quốc gia với nhiệm vụ bảo vệ chế độ mới.
Bằng chứng về vai trò của Đảng cộng sản Trung Quốc đối với các lực lượng địa phương xuất hiện vào đầu những năm 1950, khi Cục Thủy sản [水产部] đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức lực lượng dân quân biển. Cục đã khởi xướng việc tập thể hóa hoạt động đánh cá địa phương và xác định ranh giới các ngư trường lớn. Họ cũng đề ra chỉ tiêu đánh bắt và xây dựng chính sách đánh bắt cá. Sự hiện diện của các cựu sĩ quan Hải quân Trung Quốc trong Cục có thể cho thấy sự tham gia chặt chẽ của quân đội trong các hoạt động của dân quân. Ví dụ, đô đốc Yuan Yelie, Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc vào năm 1957, đã đảm nhận vị trí Cục phó (Thứ trưởng) Cục Thủy sản vào tháng 5 năm 1960. Huấn luyện kiểu hải quân đã giúp lực lượng dân quân biển thực hiện các hoạt động phòng thủ chống lại lực lượng quân sự của Quốc Dân Đảng có ý định quấy phá các tuyến hàng hải địa phương của Trung Quốc. Quả thực, lực lượng quân sự Quốc Dân Đảng đã sử dụng chiến tranh phi chính quy dưới hình thức du kích trên biển, khiến Trung Quốc càng cần phải dùng giải pháp tương tự để chống lại.
Có ít nhất hai cách giải thích khác nhau cho sự trỗi dậy của lực lượng dân quân biển của Trung Quốc : tập thể hóa và ảnh hưởng của học thuyết hải quân Liên Xô.
Đầu tiên, như một phần của việc áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin tại Trung Quốc, Mao đã tìm cách áp đặt tập thể hóa lên toàn xã hội Trung Quốc. Các cộng đồng ven biển truyền thống đã bị xáo trộn sau cuộc nội chiến Trung Quốc và một khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, họ đã nhanh chóng tập thể hóa các khu vực này. Chẳng hạn, tại Sơn Đông, vào tháng Tư năm 1956, Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành lập 786 hợp tác xã đánh cá bao gồm gần 76.000 hộ gia đình, tức 9/10 số ngư dân ở Sơn Đông. Bắc Kinh có lẽ đã tin rằng việc tập thể hóa hoạt động đánh cá là cần thiết để tái thiết đất nước sau chiến tranh.
Cách giải thích thứ hai cho sự tồn tại của lực lượng dân quân biển của Bắc Kinh bắt nguồn từ mối quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô trong giai đoạn bắt đầu hình thành chiến lược hải quân. Trong những năm 1920, một Liên Xô mới thành lập đã áp dụng lối tư duy hải quân gọi là "Trường phái mới". Về cơ bản, những người theo học thuyết này lập luận rằng quốc gia của họ, vốn là một cường quốc lục địa, nên tập trung phần lớn nguồn tài nguyên của mình vào việc bảo vệ bờ biển thay vì nhấn mạnh việc hiện đại hóa hải quân để đi bành trướng thế lực như tư duy của "Trường phái cũ" thời nước Nga Sa hoàng. Điều này đã giúp Moskva đỡ tốn khoản chi phí lớn vào một lĩnh vực nơi các cường quốc phương Tây đã vượt xa.
Rốt cuộc, "Trường phái mới" đã thắng thế và đã khiến Moskva thiết kế các lực lượng có thể giúp bảo vệ các khu vực ven biển của lục quân thông qua việc nhanh chóng mua sắm các tàu nhỏ và tàu ngầm hạng nhẹ, với mục tiêu nhắm vào các phương tiện, khí tài truyền thống của đối thủ. Trọng tâm là chiến tranh phi chính quy được dẫn dắt bởi tàu ngầm ven biển, tàu ngư lôi và tàu tuần tra, được hỗ trợ bởi các máy bay hải quân. Học thuyết này đã tác động lớn đến Đảng cộng sản Trung Quốc, và họ cuối cùng đã áp dụng chiến lược hải quân này cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ví dụ, tư lệnh Hải quân Trung Quốc Xiao Jingguang từng du học tại Moskva vào những năm 1920 đã học các lý thuyết của "Trường phái mới". Chắc chắn là hợp lý nếu Trung Quốc tiếp nhận "Trường phái mới" bởi Trung Quốc lúc bấy giờ phải đối mặt với những thách thức giống hệt của Liên Xô : chi phí cho các lực lượng xa bờ quá đắt đỏ và Bắc Kinh cũng bận tâm hơn với các diễn biến trên đất liền.
Sau đó không lâu vào năm 1965, truyền thông nhà nước bắt đầu đề cập đến một lực lượng dân quân biển chính thức được hỗ trợ bởi PLAN. Cũng trong khoảng thời gian này, PLAN đã thành lập các trường dân quân biển gần trụ sở ba hạm đội tại Thanh Đảo, Thượng Hải và Quảng Châu. Các trường này có các khóa huấn luyện kĩ năng lái tàu, sử dụng vũ khí, kỹ thuật và liên lạc. PLAN còn có những báo cáo thuật lại thành công của các trận đánh, tuần tra và huấn luyện – tất cả đều thực hiện theo học thuyết "chiến tranh nhân dân" của Mao. Xuyên suốt nửa đầu thập niên 1970, báo chí đã khắc họa PLAN như một lực lượng ven biển không bao giờ đi vượt quá phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Thay vào đó, chủ đề chung là PLAN chỉ hỗ trợ lực lượng dân quân biển.
Dân quân biển phát huy tác dụng
Mặc dù được thành lập với mục đích tuần tra bờ biển và giám sát, lực lượng dân quân biển đã dần phát triển thành một lực lượng bảo vệ chủ quyền biển vào những năm 1970. Lực lượng này dần đóng nhiều vai trò hơn như cứu hộ hàng hải, tham gia các hoạt động chiến đấu, chống buôn lậu, và quan trọng nhất là áp đặt chủ quyền.
Về các hoạt động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc, lực lượng dân quân biển (PAFMM) từ sớm đã thể hiện đóng góp đáng kể vào việc chiếm các đảo từ tay Nam Việt Nam trong Hải chiến Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974 . Thực tế là Bắc Kinh chưa có một lực lượng hải quân đáng kể vào năm 1974 và có thể nói PAFMM có nhiều năng lực thực hiện các chiến dịch đổ bộ hơn cả hải quân. Dù thế nào, sự hiện diện của các tàu đánh cá Trung Quốc quanh Hoàng Sa đã làm chậm lại quá trình đưa ra quyết định của Nam Việt Nam trong việc sử dụng vũ lực chống lại PAFMM cũng như đáp trả lại động thái của PLAN. Việc có thêm thời gian đã tạo điều kiện cho Bắc Kinh phối hợp hiệu quả hơn. Khi hai tàu đánh cá chở 500 lính PLA tới Tây Hoàng Sa, hành động đó đã dẫn tới sự đầu hàng ngay lập tức từ lực lượng Nam Việt Nam đang bảo vệ các đảo này.
Một bài học then chốt rút ra cho Bắc Kinh là tận dụng lực lượng dân quân biển có hiệu quả hơn trong việc tránh sự can thiệp của Hoa Kỳ ngay cả khi đối thủ là một đồng minh của Hoa Kỳ. Công bằng mà nói, đây là cốt lõi trong chiến lược sử dụng các lực lượng phi chính quy ở các "vùng xám" trên và Biển Hoa Đông và Biển Đông. Sự ra mắt của PAFMM trên trường quốc tế đã thành công vang dội, càng tô đậm diễn ngôn cho rằng lực lượng dân quân biển đóng vai trò thiết yếu trong thành công của chiến lược biển của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, PAFMM đã tham gia hầu như mọi chiến dịch quân sự lớn của PLAN cũng như của Hải cảnh Trung Quốc nhằm gây khó dễ cho các quốc gia khác trong khu vực tranh chấp hoặc chiếm các đảo khác từ đối phương.
Andrew S. Erickson và Conor M. Kennedy đã thống kê kỹ lưỡng các hoạt động của PAFMM nhằm hỗ trợ Hải cảnh Trung Quốc và PLAN kể từ năm 1974. Trong số các sự cố, năm 1978 PAFMM tham gia vào các hoạt động "biển tàu" áp đảo quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông đang tranh chấp với Nhật Bản, và kể từ 2016, lực lượng này liên tục củng cố sự hiện diện tại đây. Erickson và Kennedy có chỉ ra sự gia tăng các cuộc va chạm ở Biển Đông kể từ Hải chiến Hoàng Sa, bao gồm việc Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn và Bãi cạn Scarborough từ Philippines vào năm 1995 và 2012. Bắc Kinh còn nỗ lực ngăn chặn tiếp tế của Manila cho Bãi Cỏ Mây vào năm 2014 và kể từ 2017 Bắc Kinh đã liên tục quấy nhiễu ngư dân Philippines tại bãi Sandy Cay và Đảo Thị Tứ gần đó. PAFMM cũng thường xuyên quấy phá các tàu của Việt Nam, và vào tháng 5/2014, họ đã giúp Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại vùng biển Việt Nam bằng cách va đâm vào các tàu tuần tra và tàu cá của Việt Nam. Ngoài ra, Bắc Kinh dường như tự tin rằng hành động quấy nhiễu của PAFMM đối với tàu hải quân Mỹ dưới ngưỡng dẫn đến hành động đáp trả mạnh mẽ từ phía Hoa Kỳ. Do vậy họ đã sử dụng lực lượng dân quân biển để chống lại tàu USNS Impeccable vào năm 2009 và tàu Howard O. Lorenzen vào năm 2014.
Tương lai của PAFMM
PAFMM đã và đang phát triển từ một lực lượng nhỏ, ven bờ thành một thành tố năng động và thiết yếu trong chiến lược quốc gia về biển của Trung Quốc. Sự thật là PAFMM không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ trong quá trình hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc những năm 1980. Điều đó đồng nghĩa với việc tiếp tục hiện đại hóa và ưu tiên phát triển các hệ thống ngày càng hiện đại sẽ không làm giảm giá trị của PAFMM trong thời gian tới. Thực ra, có vẻ điều ngược lại sẽ xảy ra – vai trò của PAFMM rất có thể sẽ lớn dần song song với lực lượng Hải cảnh và Hải quân để hỗ trợ tốt hơn cho các lực lượng này. Nguồn gốc khiêm tốn của PAFMM như là một sản phẩm của tập thể hóa và "Trường phái mới" gợi ý rằng nếu Trung Quốc phải làm chậm lại quá trình hiện đại hóa quân đội do điều kiện kinh tế hay một lí do nào khác, Bắc Kinh vẫn hoàn toàn có thể dựa vào PAFMM như một lựa chọn thay thế rẻ hơn và đơn giản hơn về công nghệ nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền và bảo vệ bờ biển. Nếu lịch sử là một chỉ dấu tốt để dự báo tương lai, thì Bắc Kinh rất có khả năng sẽ tăng cường lực lượng dân quân biển trong mọi viễn cảnh khả dĩ. Điều đó đồng nghĩa với việc lực lượng này sẽ trở thành một lực lượng đáng gờm trong những năm tới.
Derek Grossman & Logan Ma
Nguyên tác : "A Short History of China’s Fishing Militia and What it May Tell Us", Maritime Issues, 05/04/2020.
Nguyễn Minh Châu biên dịch
Lê Hồng Hiệp biên tập
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 20/04/2020
Derek Grossman là nhà phân tích quân sự cao cấp tại RAND Corporation. Ông từng là chuyên viên cập nhật tin tình báo cho trợ lý bộ trưởng quốc phòng phụ trách Châu Á và Thái Bình Dương tại Lầu Năm Góc.
Logan Ma là trợ lý nghiên cứu tại RAND Corporation.
Virus corona : Chính quyền Trung Quốc làm gì cũng chẳng ai tin
Covid-19, Châu Âu rục rịch giải tỏa biện pháp "hạn chế sinh hoạt". Trung Quốc vướng luật nhân quả : vừa đối đầu với "cú sốc" kinh tế và làn sóng thất nghiệp, vừa bị quốc tế nghi ngờ thiếu minh bạch từ phương cách chống dịch đến nguồn gốc siêu vi corona. Đó là hai chủ đề lớn trên báo Pháp ngày đầu tuần 20/04/2020.
Nhân viên an ninh tại Tử Cấm Thành, ngày 18/03/2020. Sau khi gây họa cho cả thế giới với virus Vũ Hán, Trung Quốc vẫn cho rằng mô hình cai trị của mình là "ưu việt" so với phương Tây. © Reuters/Carlos Garcia Rawlins
Thất nghiệp bùng nổ : Cơn ác mộng của Bắc Kinh, Bước đại nhảy lùi của tổng sản phẩm nội địa GDP, Thống kê về dịch tễ bất bình thường, Trung Quốc bị quốc tế gây sức ép rất mạnh. Qua các tựa trên đây, Les Echos nêu lên thế kẹt của chính quyền Trung Quốc vì không dám nói thật nên làm gì cũng chẳng ai tin.
Gậy ông đập lưng ông
Chính sách ngoại giao tuyên truyền hung hăng "cả vú lấp miệng em" của Bắc Kinh ngày càng gây bất lợi cho chế độ Trung Quốc. Thái độ kẻ cả tự cho mình phản ứng nhanh, quản lý giỏi, không che giấu thông tin, đã làm cho chế độ Trung Quốc đầu tiên là bị chỉ trích sửa đổi thống kê.
Theo chuyên gia Mathieu Duchâtel của Viện nghiên cứu Montaigne, chỉ cần nhìn qua một vài dấu hiệu là có thể thấy rõ thống kê không chính xác : Chính quyền Vũ Hán trì hoãn báo cáo dịch : từ lúc nhìn nhận có ca đầu tiên cho đến lúc ban hành lệnh cách ly phải mất 46 ngày. Thứ hai là quân đội, lên tuyến đầu chống dịch, mà không có một người lính nào bị lây. Thứ ba là theo nhiều nhân chứng, người dân Vũ Hán không tin vào số liệu chính thức.
Nếu so sánh các đường biểu diễn số liệu thống kê nạn nhân tử vong và bệnh nhân bị lây nhiễm tại Trung Quốc với biểu đồ ở các nước Tây phương thì rõ ràng thống kê của Trung Quốc bất bình thường. Dân Vũ Hán là những người đầu tiên không tin vào chính quyền của mình thì nói chi Mỹ, Anh, Pháp. Tất cả đều nghi ngờ Trung Quốc thiếu minh bạch trong việc đối phó với siêu vi corona, ít nhất là trong những tuần lễ đầu.
Nhà dịch tễ - thống kê học Philippe Ravaud lấy làm tiếc là nếu ngay từ đầu, Bắc Kinh nói thật có 100.000 nạn nhân thay vì nói dối chỉ có 3.000 thì cả thế giới đã cảnh giác đối phó, không để có thảm họa y tế, xã hội và kinh tế như ngày nay.
Còn theo chuyên gia Pháp Antoine Bondaz, cho dù chính quyền Trung Quốc làm gì thì cũng bị nghi là đang tìm cách che giấu chuyện gì đó. Bị Mỹ chỉ trích không báo cáo thật về số nạn nhân, Bắc Kinh lúc đầu phủ nhận, sau đó công bố số liệu mới thêm 1.500 người nữa, tức là cao hơn số liệu chính thức ban đầu 50% và đổ lỗi cho địa phương chậm trễ.
Nhưng đòn công kích nặng nhất, theo Les Echos là liên quan đến phòng thí nghiệm và nguồn gốc siêu vi. Nếu phòng thí nghiệm P4 do Pháp xây dựng đúng tiêu chuẩn an toàn tối đa và ở xa chợ động vật hoang dã, thì trái lại phòng thí nghiệm P2, cũng nghiên cứu về siêu vi corona của loài dơi, lại kém an toàn hơn và tọa lạc không xa khu chợ. P2 có thể là nơi xảy ra vụ siêu vi "thoát" ra ngoài.
Để chứng minh là không có ý gian dối, chính quyền Trung Quốc phải tìm cho ra "bệnh nhân Zero" ; có thể là một nhân viên, do bất cẩn, mang siêu vi ra ngoài. Nếu không có bằng chứng để minh oan, tình trạng bị nghi ngờ này kéo dài sẽ đưa đến nguy cơ tạo thêm căng thẳng trong nội bộ Hoa lục. Dân chúng đã khốn khó vì thất nghiệp và kinh tế suy yếu. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có một nhân viên của một công ty hỏa táng ớ Vũ Hán tức giận, hoặc một cán bộ bị thất sủng tung lên mạng xã hội những số liệu phủ nhận các thống kê chính thức ?
Thịt rừng và Thế Vận Hội
Cũng trong hồ sơ Covid-19, La Croix, qua hai trang báo, tường thuật về thị trường thịt rừng tại Trung Quốc. Le Monde nhận định vì sao Nhật Bản phản ứng chậm so với Đài Loan và Hàn Quốc.
Theo nhật báo công giáo, với doanh số 100 tỷ đôla hàng năm - nồi cơm của hàng triệu dân Hoa lục, thì khó mà tin vào lời hứa của chính quyền Trung Quốc đóng cửa các chợ động vật hoang dã. Trong lúc kinh tế cả thế giới tê liệt vì siêu vi corona chủng mới, được cho là từ dơi lây cho con tê tê rồi từ tê tê lây sang người, thì đường dây buôn lậu vảy tê tê vẫn hoạt động nhộn nhịp. Tê tê tuyệt chủng ở Hoa lục thì con buôn đổ qua Phi Châu và Á Châu. Hãy qua Malaysia mà xem : giá 1 kg là 3.300 đôla. Khi các loài thú hoang giảm đi thì ký sinh trùng dồn vào những con vật còn lại tìm "đất sống". Hậu quả tất yếu là sức truyền nhiễm mạnh hơn và lây lan đến những con vật lẽ ra không phải là loài trung chuyển.
Còn nước Nhật của thủ tướng Shinzo Abe, vì sao phải nới rộng tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc trong khi Đài Loan và Hàn Quốc khống chế dịch ngay từ đầu ? Cách nay 9 năm sau, khi động đất và sóng thần ập vào Fukushima, chính quyền Nhật Bản cũng khăng khăng trấn an là "kiểm soát được tình hình"... cho đến khi nhà máy hạt nhân bị nổ. Giờ đây cũng thế. Theo Le Monde, vì đặt nặng mục tiêu chính trị nên Tokyo hành động chậm trễ. Trong vụ du thuyền Diamond Princess, phản ứng chậm chạp của Nhật là do tệ nạn bàn giấy. Nhưng điều không thể chối cãi được là thủ tướng Shinzo Abe, vì lý do chính trị, đã trì hoãn các biện pháp mạnh ngăn dịch "đổ bộ".
Thứ nhất, muốn duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, ông sợ làm phật lòng Bắc Kinh, nên tiếp tục để hàng chục ngàn du khách Trung Quốc sang Nhật. Lý do thứ hai liên quan đến Thế Vận Hội Tokyo mùa hè 2020. Phải đến ngày 24/03, mất bao thời gian quý báu, thủ tướng Shinzo Abe mới tuyên bố đình hoãn Thế Vận, sau khi tỉnh trưởng Tokyo, bà Yoriko Koika, lên tiếng khuyến cáo. Quyết định dời Thế Vận sang cuối hè 2021 cũng là một dụng ý chính trị. Không tổ chức được trong năm 2020 để đánh bóng uy tín thì dời qua mùa thu năm sau làm bệ phóng tranh cử nhiệm kỳ 4.
Theo chân Áo, Pháp và Đức rục rịch bình thường hóa sinh hoạt
Sau cuộc họp báo của thủ tướng Pháp Edouard Philippe ngày 19/04, loan báo "mốc thời gian 11/05", Libération điểm qua một số nước : Pháp từng bước chuẩn bị, Đức bình tĩnh bình thường hóa sinh hoạt, dân chúng tin tưởng vào khả năng điều hành cúa Nhà nước, tin vui cho thủ tướng Angela Merkel.
Le Figaro, trong một bài phân tích dài của một chuyên gia, trình bày vì sao phải khẩn cấp ra khỏi tình trạng hạn chế sinh hoạt, ai ở nhà nấy. Theo tác giả, những lợi ích y tế ban đầu, sau 5 tuần, trở thành bất lợi nhiều hơn là có lợi. Làm càng trễ thì khởi động kinh tế càng khó, khủng hoảng càng nghiêm trọng, nợ công chồng chất. Chỉ có 5 tuần mà Pháp bị thiệt hại 10% GDP, nợ chiếm 120% GDP, không kể những nỗi hoang mang về việc làm, về tương lai của mọi tầng lớp xã hội lẫn doanh nhân.
Nhưng bình thường hóa sinh hoạt cũng phải tuân theo một số điều kiện : địa phương nào ít bị dịch thì chấm dứt phong tỏa trước, người dân đeo khẩu trang khi ra đường, trở lại sở làm, sử dụng phương tiện giao thông công cộng. Ngành y tế phải có khả năng theo dõi người bệnh sau khi họ hồi phục.
Trong bối cảnh khắp thế giới lo âu, tập trung tâm trí chống Covid-19 đến từ Trung Quốc, thì tại Hồng Kông, chính quyền thân Bắc Kinh bắt một loạt 14 nhà hoạt động đối lập, trong đó có luật sư Martin Lee, 81 tuổi. La Croix gọi đây là chiến thuật "dương đông kích tây" của Trung Quốc : đóng thêm một cây đinh vào chiếc quan tài "một quốc gia hai chế độ" bằng chính sách khủng bố thường trực.
Tú Anh
Chiến dịch ngoại giao hậu Covid-19 của Trung Quốc bị phản công
Nhiều nước trên thế giới đang dồn hết sức cho cuộc chiến chống đại dịch, đồng thời lo mở mặt trận mới thời kỳ hậu Covid-19. Còn Trung Quốc, dường như vừa thoát nạn, đã bước ngay vào thời kỳ sau dịch bằng một chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng với bên ngoài.
Bắc Kinh ra sức tán dương tính hiệu quả của "mô hình Trung Quốc" trong chống dịch. Ảnh minh họa -
Đây cũng là sự kiện chính của nhật báo Le Figaro với hàng tựa trang nhất : "Bộ máy tuyên truyền Trung Quốc làm phần còn lại của thế giới khó chịu". Tờ báo dành 2 trang "Sự kiện" nói về Trung Quốc, cho thấy một thực tế là "từ Đài Loan đến Châu Phi, qua Châu Âu, chính sách ngoại giao hậu virus corona của cường quốc thứ 2 thế giới đang vấp phải trở ngại ngày càng lớn, vào lúc mà Trung Quốc đang muốn viết lại lịch sử đại dịch bùng lên từ Vũ Hán, theo cách có lợi cho họ".
Le Figaro ghi nhận từ nhiều tuần nay, Bắc Kinh ra sức tán dương tính hiệu quả của "mô hình Trung Quốc" trong chống dịch bằng cách nhấn vào nỗi đau của các nước phương Tây đang ngập chìm trong Covid-19. Nhưng tờ báo cũng nhận thấy cuộc tấn công ngoại giao đó của Trung Quốc không những khó thuyết phục được ai mà còn đang bị công dân mạng và chính giới phản công dữ dội.
Bắt đầu là cuộc chiến trên mạng xã hội ở Đông Nam Á, được khởi phát từ sau khi các cư dân mạng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc ồ ạt "ném đá" vào một ngôi sao người mẫu Thái, cô Weeraya Sukaram, vì đã tung lên mạng xã hội giả thuyết cho rằng virus corona có xuất xứ từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán. Ngay lập tức, từ Bangkok đến Đài Loan qua Hồng Kông, giới trẻ ủng hộ dân chủ liên kết với nhau qua mạng xã hội lao vào "ứng cứu" cô người mẫu Thái nổi tiếng đang bị người Trung Quốc tấn công.
Họ lập thành một mặt trận lấy tên gọi "Liên minh trà sữa", lấy cảm hứng từ thức uống đang rất thịnh hành trong giới trẻ đô thị Châu Á. "Liên minh trà sữa" chủ trương chống Trung Quốc quyết liệt và lôi cuốn rất đông giới trẻ Thái Lan cũng như các nước khác trong vùng hưởng ứng.
Le Figaro nhận định "thái độ dè chừng của giới trẻ Thái là dấu hiệu cho thấy giới hạn của "quyền lực mềm" Trung Hoa đối với các nước láng giềng Đông Nam Á, khu vực chiến lược trong "Con đường tơ lụa mới" của Tập Cận Bình" và cũng là một mắt xích trong cuộc chiến giành ảnh hưởng với nước Mỹ của tổng thống Donald Trump.
Sebastian Strangio, một chuyên gia thuộc đại học báo chí Yale Hoa Kỳ được tờ báo trích dẫn, nhận xét : "Dịch bệnh làm bùng phát tâm lý bài Trung Quốc đã tiềm ẩn trong dân chúng ASEAN".
Thất bại của chính sách đánh bóng lại hình ảnh
Ở cấp độ quốc gia, Le Figaro nhận thấy, những ngày qua ngoại giao Trung Quốc liên tiếp nhận được những thất bại.
Chẳng hạn ngoại trưởng Pháp cho triệu mời đại sứ tại Paris để phản đối về những phát ngôn, nhận xét không đúng mực về cách xử lý dịch của Pháp. Đồng nhiệm Kazakhstan cũng lên tiếng cảnh cáo Bắc Kinh về thái độ ngạo mạn tương tự. Hàng loạt nước Châu Phi cũng lên án Trung Quốc "kỳ thị chủng tộc" đối với kiều dân của họ ở Quảng Đông dưới cớ kiểm soát dịch Covid-19 …
Theo các chuyên gia chính trị được tờ báo trích dẫn thì chiến dịch tấn công ngoại giao của Trung Quốc nhằm xóa đi phần trách nhiệm của Trung Quốc trong việc để dịch bùng phát, đi kèm theo đó là mục tiêu đối nội để khẳng định tính vượt trội của chế độ độc đảng dưới sự dẫn dắt của Tập Cận Bình. Hôm 23/02, ông Tập từng tuyên bố : "Cuộc khủng hoảng này một lần nữa cho thấy ưu thế hơn hẳn của hệ thống xã hội chủ nghĩa mang đặc thù Trung Quốc". Nhà nghiên cứu chính trị độc lập Chen Daoyin nhận định : "Trận dịch đã củng cố quyền lực của Tập Cận Bình, nhờ việc tuyên truyền dựng lên huyền thoại Trung Quốc cứu cả thế giới bằng cách nhấn vào cảnh bấn loạn của phương Tây".
Tuy nhiên, theo tờ báo, những phát giác mới nhất cho thấy các lãnh đạo Trung Quốc đã biết nguy cơ dịch từ ngày 14 tháng Giêng nhưng không báo động cho dân chúng, trong suốt 6 ngày để mặc cho Vũ Hán tổ chức bữa tiệc tập thể tập trung hàng nghìn người và dẫn đến dịch bùng lên rồi lây lan ra khắp thế giới như bây giờ.
Theo một hướng phân tích khác của Le Figaro, chiến dịch ngoại giao khẩu trang, thiết bị y tế, hỗ trợ nhân viên y tế của Bắc Kinh đối với các nước phương Tây đang gặp khó khăn dịch bệnh còn có một mục đích vụ lợi khác. "Đối với Đảng cộng sản Trung Quốc cuộc khủng hoảng dịch bệnh này có thể kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội, chính trị ở trong nước, nhất là khi nước ngoài giảm đầu tư vào Trung Quốc", chuyên gia Chen nhận định. Nếu Bắc Kinh tạo dựng được hình ảnh đẹp với bên ngoài thì sẽ giảm bớt được nguy cơ đó.
Bài báo nhấn mạnh, chế độ Bắc Kinh đang chuẩn bị hứng cú sốc mạnh về kinh tế trong những tháng tới với nạn thất nghiệp, phá sản hàng loạt, bên cạnh đó là mối đe dọa xảy ra làn sóng virus corona thứ 2. Việc các nước xem lại chức năng "công xưởng thế giới" của Trung Quốc sẽ là điều đáng sợ nhất trong mắt các "ông quan đỏ". Vì thế mà "quyền lực mềm" sẽ là thách thức chiến lược đối với Trung Quốc lúc này.
Thế giới đốn củi ba năm đốt 1 giờ vì Covid-19
Song song với cuộc chiến chống Covid-19, một mặt trận thứ 2 đang mở ra khắp thế giới không kém phần khốc liệt là kinh tế. Nhật báo công giáo La Croix có bài "Nhiều tỷ để giảm sốc".
Khắp nơi trên thế giới, các nước đều đang đôn đáo tìm mọi cách để huy động hàng tỷ đô la, cố cứu nền kinh tế đang dính bẫy trong khủng hoảng virus corona. Những ngày qua, chính phủ ở khắp nơi liên tục thông báo về các nguồn tài chính, trợ giúp trực tiếp các doanh nghiệp, hỗ trợ việc làm…
La Croix ghi nhận "Người ta không thể tính phải cần bao nhiêu lít nước khi dập tắt một vụ hỏa hoạn". Đối phó với mức độ tràn lan nhanh chóng của virus corona và hoạt động kinh tế bị đình lại vì phong tỏa trên khắp hành tinh, các kế hoạch hỗ trợ, từ các hộ gia đình cho đến các doanh nghiệp, đã lên tới số tiền hàng tỷ tỷ. Thế giới đang bước vào một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ năm 1930.
La Croix cho biết hành động đầu tiên là từ các ngân hàng trung ương. Tất cả các ngân hàng của các nước mới trỗi dậy cũng như đã phát triển, từ Hoa Kỳ cho đến khu vực đồng euro đều đồng loạt có những hành động khẩn cấp mạnh mẽ hơn rất nhiều thời khủng hoảng tài chính 2008, sẵn sàng tung nhiều nghìn tỷ euro để mua trái phiếu, cổ phần nhằm giữ cho lãi suất vay tiền trên thị trường tài chính không quá cao.
Bên cạnh đó, các công ty, hộ gia đình còn phải được hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước. Con số này cũng lại là hàng nghìn tỷ. Đúng là cả thế giới đang trong tình cảnh đốn củi bao nhiêu năm nay phải mang đốt trong một giờ.
Cũng trong chủ đề kinh tế, nhật báo Les Echos chạy tựa lớn "Một thế giới không du lịch". Tờ báo cho biết, ngành du lịch chiếm tỷ trọng 10% GDP của thế giới đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất. Năm nay dự tính lượng du khách sẽ giảm từ 20 đến 30%. Kéo theo đó là rất nghiều ngành nghề ăn theo du lịch như nhà hàng, khách sạn, du thuyền, hàng không … cũng điêu đứng. Hàng loạt nước đang tính đến các giải pháp hậu Covid để cứu ngành công nghiệp không khói.
Trong khi đó, Libération ghi nhận một cách hình ảnh : "Tại Hoa Kỳ, thất nghiệp vẫn không ngừng lây lan". Tờ báo cho biết : "Với khủng hoảng kinh tế do dịch Covid-19 kéo theo, tỷ lệ thấy nghiệp ở Mỹ đang từ 3,5% trong tháng Hai đã lên tới 20% trong nhưng tuần tới". Theo những kịch bản tồi tệ thì tỷ lệ này có thể đạt đỉnh ở mức hơn 32%. Phụ nữ, người gốc Phi và dân nói tiếng Tây Ban Nha là những đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Anh Vũ
Hoàn Cầu Thời Báo vào ngày 11/4 đã đăng tải bài viết của tác giả Cheng Hanping với tiêu đề tạm dịch ‘Tại sao Việt Nam xâm phạm Biển Đông vào thời điểm này ?’
Ảnh chụp màn hình. Tàu Hải cảnh 4301 của Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam - Weibo
Mở đầu bài viết, tác giả cho hay một tàu đánh cá Việt Nam ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa của Trung Quốc đã đâm vào mũi tàu của Lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc hồi đầu tháng tư. Nhưng Việt Nam lại chính thức phản đối Trung Quốc và đổ lỗi cho tàu Hoa Lục nhằm nỗ lực tìm kiếm bồi thường.
Nhận xét về việc không chỉ người đại diện chính quyền Bắc Kinh mà ngay cả báo chí Trung Quốc cũng đưa tin không đồng nhất với nguồn tin từ ngư dân và cả chính phủ Hà Nội, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đưa ra câu hỏi :
"Một chiếc tàu cá Việt Nam to lớn thế nào so với tàu hải cảnh Trung Quốc ? Liệu tàu cá đâm đầu vào tàu hải cảnh Trung Quốc thì có ai tin được hay không ? Việc ‘ăn đằng sóng nói đằng gió’ của chính phủ Trung Quốc từ trước đến nay cả thế giới không ai lạ. Ví dụ như 11 năm trước, trong ngày quốc khánh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì Hồ Cẩm Đào là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng hết sức hòa bình, hữu nghị và ca ngoại Trung Quốc không còn từ nào tốt hơn. Nhưng ngay lúc đó tại Biển Đông, Trung Quốc bắn giết, cầm tù các ngư dân Việt Nam đang đánh cá trong vùng biển của mình. Kể từ đó đến nay, hầu như không lúc nào Trung Quốc không bắt giết, bắt bớ tàu cá của ngư dân Việt Nam".
Còn Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông, nhận định rằng đây là chiến lược thông tin của Trung Quốc được áp dụng từ xưa đến nay :
"Cũng không riêng bài của Hoàn Cầu Thời Báo mà ngay cả trên tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng mới đây cũng có bài tương tự như vậy. Trên rất nhiêu diễn đàn Trung Quốc vẫn đang làm điều đó, thể hiện chiến thuật của Trung Quốc : muốn đổi trắng thay đen vấn đề. Trong vấn đề Biển Đông thì ta thấy vấn đề tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam ngày 2/4 thì rõ ràng ngay cả phía Hoa Kỳ đã 3 lần lên tiếng, cùng với Philippines đã đồng cảm với Việt Nam trong vấn đề này. Nhưng Trung Quốc lại đưa ra luận điệu cho rằng tàu của Việt Nam tốc vào tàu hải cảnh Trung Quốc cho thấy lập luận của Trung Quốc là muốn đổ vấy trách nhiệm, đổi trắng thay đen vấn đề".
Theo tường thuật của chính những ngư dân bị nạn với cơ quan chức năng Việt Nam, tàu cá QNg90617 đã bị tàu hải cảnh 4301 của Trung Quốc cố tình đâm chìm vào khoảng 3 giờ sáng ngày 2/4.
3 tàu cá khác của ngư dân Quảng Ngãi sau dó đã đến để cứu tàu QNg90617. Tuy nhiên phía Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh 4001 và 4002 đến để vây bắt hai tàu của ngư dân Quảng Ngãi, đưa về đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tại đó, hai tàu này bị lục soát, trang thiết bị trên tàu bị đập phá, tịch thu.
Chiếc tàu thứ ba của ngư dân Việt bị Trung Quốc dùng vòi rồng xua đuổi.
Đến chiều ngày 2/4, Trung Quốc trao trả 8 ngư dân trên chiếc tàu bị chìm cho hai tàu cá bị bắt giữ và buộc các tàu này phải rời khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng vào ngày 3/4 cho biết đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và trao công hàm phản đối yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm nhân viên công vụ và tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam.
Trong khi đó, tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng vào ngày 4/4 đưa tin trích lời phát ngôn nhân Hải cảnh Trung Quốc Zhang Jun cho biết tàu cá của ngư dân Việt Nam đã đâm vào tàu hải cảnh 4301 của Trung Quốc ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa hôm 2/4 nên bị chìm, 8 ngư dân trên tàu đã được cứu sống.
Sau khi vụ việc Tàu hải cảnh Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào ngày 6/4 ra tuyên bố báo chí dẫn lời người phát ngôn Morgan Ortagus nói rõ vụ việc là hành động mới nhất của Trung Quốc trong loạt lâu dài những hành động của Bắc Kinh nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp và gây tổn hại cho các nước láng giềng tại Biển Đông. Phía Bộ Quốc phòng Mỹ cũng lên tiếng phản đối sau đó.
Mới đây nhất, bốn Thượng nghị sĩ Mỹ vào ngày 10/4 đã đưa một tuyên bố lên án Trung Quốc cho tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam và triển khai máy bay chiến đấu ra Biển Đông.
Hoàn Cầu Thời Báo đăng tải bài viết ‘Tại sao Việt Nam xâm phạm Biển Đông vào thời điểm này ?’ vào ngày 11/4/2020. Ảnh chụp màn hinh
Theo quan điểm của tác giả Cheng Hanping, qua vụ việc này, Hoa Kỳ đang một lần nữa cố gắng chính trị hóa một vấn đề đối ngoại để bêu xấu Trung Quốc.
Ông Cheng Hanping cho rằng sự hỗ trợ kịp thời từ Hoa Kỳ sẽ khuyến khích chính phủ Việt Nam và ngư dân Việt Nam tham gia đánh bắt cá trái phép, mạnh dạn xâm phạm lợi ích và quyền lợi của Trung Quốc tại vùng biển xung quanh Quần đảo Hoàng Sa hơn. Điều này có khả năng leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Không đồng ý với nhận định vừa nêu của tác giả, Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cho rằng Hà Nội sẽ không bao giờ căng thẳng với Bắc Kinh. Ông giải thích :
"Hiện nay Bắc Kinh sợ sự phát triển trong mối quan hệ Việt – Mỹ vì nếu như mối quan hệ Việt – Mỹ có tiến thêm một bước nữa hay nói cách khác là bước thêm bước gọi là đối tác chiến lược hay đối tác chiến lược toàn diện thì sẽ đe dọa đến âm mưu bá quyền của Trung Quốc. Chính vì vậy khi Bộ Ngoại giao Mỹ, một số Thượng Nghị sĩ Mỹ lên tiếng về vấn đề Trung Quốc đụng tàu cá Việt Nam thì họ tưởng rằng Việt Nam bắt đầu liên minh quân sự hay liên kết với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Việt Nam không bao giờ dại để làm hành động đó. Chúng ta biết rằng chính sách ngoại giao của Việt Nam từ trước đến giờ là ‘3 không’ được đặt ra tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đến nay và Việt Nam vẫn tuyên bố tuân thủ chính sách ‘3 không’ đó. Do đó, tất cả những tố cáo, lên án của Trung Quốc đối với Việt Nam thời gian vừa qua là nhằm muốn cô lập Việt Nam, vẫn muốn Việt Nam thần phục Trung Quốc chứ không mở rộng đa phương như mong muốn của chính phủ Việt Nam hiện nay".
Bài viết trên Hoàn Cầu Thời Báo cũng đưa ra nhận định Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ban hành lệnh phong tỏa đối với Trung Quốc, tương ứng với các động thái của Hoa Kỳ.
Theo đó, Việt Nam lấy danh nghĩa thực hiện một số biện pháp phòng chống dịch bệnh nhưng thực chất để cô lập Bắc Kinh trong khi chính phủ Trung Quốc đang chiến đấu gian khổ chống lại Covid-19.
Tác giả đã dẫn chứng trường hợp được xác nhận nhiễm Covid-19 tại Việt Nam đã tăng nhanh chóng kể từ đầu tháng ba. Nhiều người lo lắng rằng Việt Nam có thể trải qua một đợt bùng phát vào giữa tháng Tư.
Từ đó cho thấy Hà Nội có ý định chuyển sự chú ý khỏi áp lực trong nước gần đây và sự bất lực trong việc xử lý đại dịch sang căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung.
Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, nhận định mà tác giả đưa ra trong bài viết là hết sức thô thiển, không dựa trên sự thật :
"Chúng ta thấy rõ rằng tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam khi muốn đóng đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc là phải thảo luận, xin phép và được sự đồng ý của Trung Quốc. Không thể nào Việt Nam đơn phương đóng cửa biên giới, coi Trung Quốc là một thế lực thù địch hay kẻ thù, chuyện đó trong mấy mươi năm qua, kể từ năm 1979 hay nói cách khác từ khi quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trở lại bình thường thì chưa bao giờ Việt Nam coi Trung Quốc là kẻ thù, chưa bao giờ Việt Nam bao vây Trung Quốc mà Việt Nam vẫn tuân thủ ‘4 tốt, 16 chữ vàng’ trong mối quan hệ Việt – Trung hiện nay".
Đồng quan điển vừa nêu, Thạc sĩ Hoàng Việt nhận định :
"Đấy là Trung Quốc họ nói chứ Việt Nam làm sao có đủ sức cô lập Trung Quốc. Ngay cả trong Chiến tranh biên giới 1979 Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng lại tuyên truyền là Trung Quốc bị Việt Nam đe dọa tấn công nên phải tự vệ, đó là lập luận của Trung Quốc. Chúng ta quá hiểu dân tộc Trung Quốc luôn sử dụng biện pháp ngụy biện và đổi trắng thay đen vấn đề, nên cần bình tĩnh để hiểu vấn đề".
Thạc sĩ Hoàng Việt cũng cho rằng không phải chỉ riêng Việt Nam bị Trung Quốc tấn công thông tin, mà ngay cả Hoa Kỳ cũng từng bị Trung Quốc ‘đổi trắng thay đen’.
Cụ thể là việc người phát ngôn của Trung Quốc Triệu Lập Kiên nói rằng có khả năng quân đội Mỹ mang Covid-19 tới Trung Quốc trong khi tất cả đều biết rõ nguồn gốc của virus từ Vũ Hán của Trung Quốc.
Vì thế, trước những thông tin sai lệch về Việt Nam mà chính phủ và truyền thông Bắc Kinh liên tiếp đưa ra trong thời gian gần đây, Thạc sĩ Hoàng Việt đưa ra đề xuất :
"Tôi nghĩ rằng tốt nhất Việt Nam cũng phải đưa lại thông tin cho cộng đồng quốc tế biết vấn đề và cũng phải có phản bác lại. Có lẽ trong trường hợp này chỉ là báo thôi thì phía Việt Nam cần có những báo viết bằng tiếng Anh để phản bác vấn đề này cho cộng đồng quốc tế biết rõ nguyên nhân từ đâu".
Theo Cheng Hanping
Nguyên tác : ‘Tại sao Việt Nam xâm phạm Biển Đông vào thời điểm này ?
Nguồn : RFA tiếng Việt, 13/04/2020