Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Phỏng vấn nhà giáo Bùi Văn Thuận về ngành sư phạm ngày càng tut hậu

Trần Quang Thành thực hiện

Nguồn : Tieng DanViet Media, 24/08/2017

Published in Video

Mức điểm chuẩn tuyển sinh của một số trường cao đẳng sư phạm năm 2017 hạ xuống rất thấp, làm dấy lên mối lo ngại rằng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến giáo dục của Việt Nam trong tương lai. Nguyên nhân và hậu quả của vấn đề vừa nêu như thế nào ?

supham1

Ảnh minh họa : Một giờ học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội hôm 26/04/2010. Photo : RFA

Tuyển sinh tràn lan

Mùa tuyển sinh đại học năm 2017 thu hút sự quan tâm của dư luận với kết quả điểm trúng tuyển được công bố cao ngất ngưởng, như 30, 5 điểm vào Học viện An ninh Nhân dân, nhưng càng gây bất ngờ lẫn hoang mang khi một giáo viên tương lai chỉ cần đáp ứng đủ 9 điểm đầu vào cho 3 môn thi.

Đại diện của một trong số các trường cao đẳng sư phạm công bố điểm trúng tuyển ở mức 9 điểm cho 3 môn, Hiệu trưởng Trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh, ông Nguyễn Hữu Tuyến, vào sáng ngày 9 tháng 8, cho Báo mạng Zing.vn biết lý do tuyển sinh đầu vào với tiêu chuẩn thấp như thế là vì tạo cơ hội cho học sinh đến nhập học theo nguyện vọng 2 và 3 cũng như những học sinh bị loại khỏi các khoa có điểm chuẩn cao và giúp cho học sinh có khả năng nhưng "sơ suất" bị điểm kém trong thi cử.

Hiệu trưởng Trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh còn cho biết nhà trường cũng lấy điểm trúng tuyển thấp tương tự từ năm 2016, là thời điểm Bộ Giáo Dục-Đào Tạo không còn đưa ra quy định mức điểm sàn cao đẳng và trong bối cảnh khó khăn chung của các trường sư phạm, không được xếp vào danh sách nghề nghiệp chọn lựa hàng đầu của sinh viên.

Theo truyền thống của người Việt Nam, nghề dạy học được xem là một trong những nghề cao quý. Tuy nhiên, sinh viên không muốn trở thành những "kỹ sư tâm hồn" vì tỉ lệ sinh viên sư phạm thất nghiệp rất cao, trung bình trong hai năm vừa qua, có đến 4000 sinh viên ra trường mỗi năm không có việc làm. Hội thảo khoa học Quốc gia đào tạo giáo viên, được tổ chức hồi tháng 6 năm 2016, cũng đưa ra số liệu đến năm 2020 Việt Nam dự kiến sẽ dư thừa khoảng 70.100 sinh viên sư phạm tốt nghiệp.

Giải thích về hậu quả của vấn đề dư thừa như thế, các giáo viên và những nhà quản lý giáo dục cho rằng nguyên nhân là do sự bất cập trong việc tuyển sinh tràn lan, đào tạo quá nhu cầu sử dụng. Nhà giáo Phạm Toàn, từ Hà Nội nói với RFA các trường hạ điểm chuẩn đầu vào thấp xuống để đạt đủ chỉ tiêu tuyển sinh, theo đúng yêu cầu tiêu chuẩn hoạt động do Bộ Giáo Dục-Đào Tạo đề ra. Thầy giáo Đỗ Việt Khoa, một giáo viên thâm niêm luôn đấu tranh chống tiêu cực trong ngành giáo dục, chia sẻ quan điểm của ông là giải pháp cho thực trạng sinh viên sư phạm tốt nghiệp không có việc làm thì giống như một mạng nhện có nhiều mắt lưới mà càng gỡ thì càng rối. Thầy giáo Đỗ Việt Khoa khẳng định :

"Thời gian vừa rồi đào tạo nhiều như thế thì làm sao giải quyết được ? Nếu có cho tôi là bộ trưởng giáo dục đi chăng nữa thì tôi cũng không thể giải quyết nỗi vấn đề việc làm cho các thầy cô giáo trẻ mới bước vào ngành. Không có cách nào giải quyết được. Không cách nào đổi mới. Thôi thì chấp nhận hiện tại và cất tấm bằng lại, coi như là một thất bại trong việc chọn nghề, trừ những con ông cháu cha xin xỏ được. Rất nhiều chuyện tiêu cực trong ngành mà nói ra thì không thể nào giải quyết được".

Đồng quan điểm với thầy giáo Đỗ Việt Khoa, một số giáo viên giảng dạy lâu năm mà chúng tôi tiếp xúc cho biết rất thông hiểu cho hoàn cảnh của hầu hết các sinh viên sư phạm mới tốt nghiệp phải tốn công, tốn sức và nhiều người phải chạy vại hàng chục triệu cho đến hàng trăm triệu để có được công việc với mức lương vài ba triệu đồng/một tháng. Và điều mà các giáo viên thâm niên nhấn mạnh rất đau lòng khi nhìn thấy không ít giáo viên trẻ tuổi có tâm huyết với nghề, nhưng đành phải xếp xó tấm bằng sư phạm và trở thành công nhân, lao động tay chân trong nhà máy, cơ xưởng…

supham2

Học sinh, sinh viên tại Hà Nội tìm hiểu thông tin du học, ảnh chụp hôm 4/10/2016. Photo : AFP

Giải quyết hậu quả ra sao ?

Trước đây giới sinh viên thường truyền khẩu cùng nhau "chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm", nhưng giờ đây dẫu rằng có "chạy cùng sào" cũng không muốn học ngành sư phạm. Nhất là thời gian gần đây, Bộ trưởng Giáo Dục Phùng Xuân Nhạ đưa ra đề án thử nghiệm bỏ biên chế giáo viên khiến cho nhiều bạn trẻ đánh đồng nghề dạy học sẽ không ổn định. Và khi sinh viên quay lưng với ngành sư phạm thì dù các cơ sở đào tạo, bao gồm trường đại học và cao đẳng sử dụng cách thức lấy điểm chuẩn ở mức thấp cũng không thu hút được đầu vào.

Mặc dù vậy, cách thức tuyển sinh này bị giới chuyên môn phản đối là "không thể chấp nhận được" và gây nghiêm trọng đến chất lượng giáo dục. Báo mạng Zing.vn dẫn lời của Phó Giáo sư Văn Như Cương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Lương Thế Vinh, Hà Nội nhận định về việc lấy mức trúng tuyển 9 điểm cho 3 môn để vào ngành sư phạm là nguy hại và là nỗi lo cho thế hệ tương lai vì sẽ đào tạo ra những giáo viên không đủ chất lượng. Phó Giáo sư Văn Như Cương còn cho rằng để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của Việt Nam thì việc đầu tiên là thay đổi giáo viên.

Thế nhưng, Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng, từng giảng dạy trong và ngoài nước cũng như tiếp cận với nhiều nền giáo dục của thế giới hàng chục năm, lại quả quyết :

"Nền giáo dục Việt Nam không phải chỉ là lạc hậu mà còn là lạc đường. Vì lạc đường nên nó loay hoay mãi không có lối ra. Mình sai thì còn có thể sửa, nhưng đi lạc đường mà lại tin tưởng con đường đó đúng thì không bao giờ thoát ra khỏi cái hệ lụy đó được".

Một trong những lụy nghiêm trọng nhất mà Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng đề cập đó là ngành sư phạm đang đi vào ngõ cụt và viễn ảnh giáo dục của Việt Nam được so sánh như một bức màn đen mà không tia sáng nào lọt qua được, nếu như giới lãnh đạo giáo dục cấp thượng tầng không bao giờ nhận thức họ đang bị lạc đường.

Đài Á Châu Tự Do ghi nhận trong mùa tuyển sinh năm 2017, mặc dù đa số các trường đại học và cao đẳng sư phạm lấy điểm chuẩn rất thấp, khoảng từ 9 đến 15, 5 điểm để thu hút đầu vào nhưng một số trường cho biết đến ngày 9 tháng 8 chỉ có số ít sinh viên đăng ký nhập học. Trong khi đó, một điểm sáng đối với ngành sư phạm khi hai trường Đại học Sự phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh công bố điểm chuẩn trúng tuyển lần lượt là 27,5 và 26,5 điểm.

Tuy nhiên, mùa khai trường năm học mới 2017-2018 chưa đến, nhưng rất nhiều giáo viên khắp các tỉnh, thành tại Việt Nam âu lo trước thông tin có đến 51 giáo viên thuộc các trường tiểu học và trung học cơ sở ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhận thông báo bị cắt hợp đồng làm việc.

 

Hòa Ái, phóng viên RFA

Nguồn : RFA, 10/08/2017

Published in Diễn đàn

Trong thời đại ngày nay, ngoài khao khát đổi thay thân phận cá nhân nhờ giáo dục, ở bình diện quốc gia, giáo dục quyết định số phận tương lai của cả dân tộc.

edu1

Ngoài khao khát đổi thay thân phận cá nhân, giáo dục quyết định số phận tương lai của cả dân tộc

Với thực tế chục triệu học sinh phổ thông Việt Nam đang bị vắt kiệt tuổi thơ với hy vọng sau 12 năm sẽ trèo được lên chiếc "xe đò" mang tên Đại học, trong khi mẹ cha vật lộn, thậm chí bán cả ruộng nương trả "vé xe" vậy mà "đến bến" thì trăm ngàn cử nhân lại "đứng đường". Đây thực tế là một cuộc khủng hoảng, mà nguyên nhân cần được nhìn rõ.

Chuyện Tây

Lúc bọn trẻ đầu lòng nhà tôi lên tám tôi thường tranh thủ sáng Chủ nhật lên phòng thí nghiệm đặt máy. Anh bạn thân của tôi, thường chở bọn trẻ hai nhà đi chơi.

Hôm đó tôi về đến nhà cũng là lúc mấy chú cháu trở về từ công viên đại học Oxford. Con bé con nhà tôi phụng phịu vùng vằng xuống xe. Bạn tôi bối rối nói : "Em bảo con cứ vào bụi cây là không ai thấy nhưng nó kiên quyết không chịu nên tè ra quần". Tôi quắc mắt hỏi : "Sao chú bảo con không nghe còn phụng phịu cái gì ?" Nó vùng vằng khẽ quát lại chúng tôi : "Cô giáo bảo không được tè bậy".

Hai anh em tôi nhìn nhau phá lên cười, tự nhận thấy cái vô duyên của người lớn. Chúng tôi may mắn có chút học hành nhưng cũng từ đồng ruộng đi ra. Với chúng tôi "bắn" một phát vào gốc cây hay đống rơm là vô tội từ tiềm thức, trong khi ở nền giáo dục khác, đó là hành vi không thể chấp nhận được.

Nền giáo dục tại đây từ nhỏ dạy trẻ em biết sẻ chia, học tổ chức meeting ủng hộ các bạn nước khác bị thiên tai, chiến tranh. Trẻ được đi xem tòa án, nhà thờ, nhà máy, trang trại.

Lớn hơn thì được dân biểu, nhà văn tới nói chuyện những khó khăn về kiệt quệ tài nguyên, ô nhiễm, thay đổi khí hâu và khủng bố… Nhà trường phổ thông dạy cho trẻ thấy xã hội đang vận hành ra sao và chúng sẽ phải đối mặt với những vấn nạn gì. Không có gì thừa, tất cả là vì sự phát triển và quyền lợi thiết thân của trẻ.

Môn toán trong chương trình dự bị đại học A-level tại Anh (2 năm) bao gồm kiến thức từ lớp bảy tới năm thứ nhất đại học ở Việt Nam, tuổi thơ được "chắt chiu" để chuẩn bị sức khỏe bằng học và chơi nhiều thứ khác.

Kể chuyện trên để thấy một thực tế, người ta có thể dùng giáo dục phổ thông nhằm tạo ra một thế hệ theo đúng ý chí của nền giáo dục lựa chọn. Hoàn toàn có thể tạo ra một thế hệ mới có ý thức tuân thủ pháp luật, từ chối bạo lực nhưng vẫn năng động tự tin ; yêu thiên nhiên và động vật ; trung thực và hiểu tham nhũng là tội ác…

Chuyện Ta

edu2

Có thể tạo ra một thế hệ mới có ý thức tuân thủ pháp luật, từ chối bạo lực nhưng vẫn năng động tự tin ; yêu thiên nhiên và động vật ; trung thực và hiểu tham nhũng là tội ác…

Indira Gandhi từng nói : "Trong thời đại chúng ta, giáo dục là sức mạnh của dân chủ hóa, nó sẽ phá đi thành lũy giai cấp và giảm bớt bất bình đẳng thân phận". Thực tại giáo dục Việt Nam đang đào một hố sâu hoắm của "bất bình đẳng thân phận" và "bần cùng hóa tri thức".

Trong khi những trẻ em Việt Nam từ các gia đình có điều kiện dễ có được thể chất và tinh thần tốt do thụ hưởng một nguyên lí giáo dục lành mạnh từ các trường quốc tế, con cái của đa số tầng lớp lao động đang bầm dập tuổi thơ trong một nền giáo dục nhồi nhét, xa rời các giá trị của đời sống. Nguy hiểm, cách giáo dục này đang tạo ra lớp trẻ xa lạ với lao động, thụ động, ít sáng tạo, thiếu tự tin, thậm chí vô cảm.

Thái độ xạ lạ với lao động, dù chỉ là lao động đơn giản như tự phục vụ, là thất bại của bất cứ mục tiêu giáo dục nào, không may nó luôn đi cùng với bốn thứ còn lại cho nên không thể tạo ra loại người thụ động, vô cảm đồng thời yêu lao động cũng như không thể hy vọng loại người công cụ, loại "cháu ngoan" có nhiều sáng tạo.

Đa phần trẻ trường công, theo khả năng kinh tế của gia đình sẽ chỉ có lựa chọn vào các đại học Việt Nam nơi chúng sẽ mất thêm 15-20% thời gian đại học để "xơi" món bắt buộc là những giáo điều chính trị mà vốn chỉ chiếm một vài tiết trong vài chủ đề hẹp, tự chọn của sinh viên xã hội học ở các nước văn minh.

Nhiều đại học Việt Nam đang hoạt động như một tay "bợm nhậu" vì mặc dù đã no say vẫn không ngừng nhậu tiếp các "thức ăn" lành sạch, lẽ ra phải giành cho người khác. Vẫn tuyển sinh bất chấp thất nghiệp đầy đường trong khi khủng hoảng cả về chất lượng, triết lí đào tạo chưa có lời giải cùng lúc nền kinh tế suy kiệt giảm cầu là vô trách nhiệm một cách trắng trợn.

Tụt hậu chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam, càng trầm trọng, còn nằm ở vấn đề người dạy khi các thí nghiệm, phương pháp tiếp cận trình bầy trong các giáo trình chuyên ngành khoa học kỹ thuật ở bậc đại học phương Tây là phương pháp thông thường, dùng trong phòng thí nghiệm hay công ty riêng của người dạy, đa phần đi trước Viêt nam từ 10-30 năm.

16 năm đẹp đẽ nhất cuộc đời của cả triệu người, lẽ ra để trang bị tri thức hữu dụng, xứng đáng với đồng tiền bát gạo thấm đẫm mồ hôi của cha mẹ đang bị hoang phí.

Những trẻ học trường quốc tế đi du học thành công trở về có ưu thế vượt trội về sức khỏe và kiến thức nhưng mất cân đối tỷ lệ ngành nghề nên không đủ đáp ứng, đặc biệt khoa học kỹ thuật thường ít được lựa chọn để du học.

Thực tại buồn thảm trên đòi hỏi việc tạm thời đóng cửa các ngành thậm chí cả đại học để thay máu bằng đào tạo lại. Các bằng sắc, tước vị mà các cá nhân đã có sẽ vẫn được giữ nguyên khi họ trở về nhưng họ cần phải tốt nghiệp lại đại học ở một nước phát triển nếu chưa từng được đào tạo tương tự, để tiếp tục giảng dạy đại học.

Việc đào tạo lại này lẽ ra đã có thể đại trà hóa ngay tại Việt Nam nếu trong 20 năm qua một đại học nghiên cứu hoàn toàn phương Tây được ưu đãi hoạt động vì thực tế các đại học nửa Việt nửa Tây ở Việt Nam vì vô vàn lí do đã "ngắc ngoải", thế nên gửi đi đào tạo lại cho các chuyên môn cụ thể là đòi hỏi đang cấp bách.

Một tượng đài nghìn tỷ của một tỉnh đủ đào tạo bài bản hơn 400 cử nhân ở các đại học rất tốt tại Anh, thừa đủ giảng viên cho một trường đại học của tỉnh đó, vấn đề phải lựa chọn giữa tương lai của nhân dân tỉnh đó hay "tiền đồ" của những người xây tượng đài.

Chuyện sáng tạo

John Locke, nhà triết học Anh đã nói : "Lịch sử của xã hội dân sự là lịch sử của giáo dục". Để tiến bộ đến ngày nay, con người đã nhờ cậy vào một thứ quả ngọt từ giáo dục là sáng tạo.

Ở thời đại mà một kiểu mới của máy quét laser 3D ra thị trường sau vài tuần, các phần mềm ứng dụng thường có đối thủ mới cạnh tranh sau vài tháng, người ảo có thể sớm ra đời sau các đột phá về trí tuệ nhân tạo, bộ gene của một sinh vật được đọc mã trong vòng vài giờ tới vài ngày với một giá "bình dân" cùng với công nghệ di truyền, tất cả sẽ cho phép tạo ra các siêu sinh vật hay mang tới đột phá về tuổi thọ và phòng chống lại bệnh tật, công nghệ tự động đâu cần gì nhiều lao động chân tay...

Bước nhẩy công nghệ trong 15-20 năm tới rõ ràng không có chỗ cho các dân tộc thất bại trong giáo dục và sáng tạo.

edu3

Bước nhẩy công nghệ trong 15-20 năm tới rõ ràng không có chỗ cho các dân tộc thất bại trong giáo dục và sáng tạo.

Để sáng tạo thì ngoài sự tinh thông, trung thực và dũng cảm cũng là một đòi hỏi. Tinh thông giúp người lao động quan sát và phát hiện ra bất hợp lí hay lệch lạc xung quanh lĩnh vực mà họ hoạt động. Nhưng để có những sáng tạo lớn hơn, người lao động cần sự trung thực và dũng khí để đối diện với thách thức đúng sai so với quan điểm và kiến thức hiện thời, với sự phản biện thậm chí phủ nhận khốc liệt của đồng nghiệp có xung đột lợi ích và để đói phó với các đối thủ cạnh tranh trong quá trình thị trường hóa tri thức.

Tuy nhiên tinh thông, trung thực và dũng cảm tự nó tạo cho người lao động một nhãn quan tự do và thói quen tìm kiếm bản chất của các vấn đề khác. Những xã hội độc tài, thần quyền, tự nó chứa đựng những phi lí được duy trì cố ý nhằm nắm giữ độc quyền.

Không phải ngẫu nhiên mà cha đẻ của "Lý thuyết giải quyết bài toán phát minh", viện sĩ Genrich Altshuller, đã bị án tù 25 năm tại nước Nga cộng sản, cũng như hàng chục các nhà khoa học nổi tiếng cùng thời ông đã bị tù hoặc chết trong tù.

Đâu là hy vọng ?

Giáo dục cần hai thành tố, người dạy và kẻ học. Nhân loại đã chứng minh là tất cả mọi thứ đều có thể dạy được. Người học, Việt Nam có cả một dân tộc ham học cho dù bị dè bửu là "học để làm quan" ? Học để làm quan tốt chẳng tốt hơn học làm quan tham sao ? Nguyên ủy cuộc khủng hoảng này là từ "mục tiêu và quyền lợi" của thể chế chính trị đang lèo lái nền giáo dục hiện nay.

Giáo dục Việt Nam sẽ chỉ vươn lên mạnh mẽ ngay khi nó thật sự tôn trọng và lấy quyền lợi phát triển tri thức và thể chất của người học làm mục vụ, đó chính là cốt lõi của tôn trọng quyền con người và giải phóng sức sáng tạo của cả dân tộc.

Ai bắt được thể chế chính trị này phải mở lối cho giáo dục đi lên ? Câu trả lời nằm trong "tay" của tất cả những ai lo cho chính tương lai của con cháu mình, tất cả các vấn đề khác chỉ là kỹ thuật và sẽ được tự điều chỉnh trong mối quan hệ cung cầu lành mạnh.

Hoàng Kim Phúc

Nguồn : BBC, 13/06/2017

(Chú thích của tác giả : Bài viết có tham khảo ý kiến của Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh về Kinh tế giáo dục học Việt Nam).

Tiến sĩ Hoàng Kim Phúc gửi cho BBC tiếng Việt từ Oxford, Anh Quốc.

Additional Info

  • Author Hoàng Kim Phúc
Published in Diễn đàn

Ngành giáo dục muốn đổi mới thì việc đầu tiên phải đổi mới công tác lãnh đạo, đổi mới cách chỉ đạo, biết nhìn vào thực tế của ngành để đổi mới.

Dù bất kì ở thời kì nào đi chăng nữa thì Người thầy vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền giáo dục nước nhà. Người thầy giỏi sẽ đào tạo được trò giỏi, sẽ tạo nên nguồn nhân lực tốt cho xã hội. 

Ngoài việc thầy giỏi thì cũng cần có lãnh đạo giỏi, biết đưa ra những chính sách vĩ mô, biết nhìn nhận thực trạng nền giáo dục để đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá.

chatluong1

Vai trò của người giáo viên rất quan trọng trong nền giáo dục. (Ảnh minh họa : Báo Tuổi trẻ)

Tuy nhiên, cứ nhn vào những gì của ngành giáo dục Việt Nam đang triển khai thực hiện trong những năm qua, chúng ta thấy có rất nhiều điều bất ổn.

Việc hướng tới chất lượng giáo dục Việt Nam tương đồng với giáo dục hiện đại của thế giới là điều mà chúng ta phải làm để hội nhập.

Thế nhưng, thực tế thì sao ? Điều kiện giáo dục Việt Nam ta hãy nhìn lại những thập niên qua sẽ thấy rất nhiều thua thiệt.

Đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Sau chiến tranh lại bị cấm vận hàng chục năm trời. Nước ta rơi vào tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.

Đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, nhất là ngành giáo dục thì cuộc sống những năm trước đây càng khó khăn gấp bội phần.

Vì thế, mới tồn tại câu nói : "chạy cùng sào mới vào sư phạm". 

Và, chúng ta phải đào tạo cấp tốc giáo viên, chúng ta phải mở nhiều hệ đào tạo như Từ xa, Tại chức để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho người thầy.

Lịch sử để lại như vậy nên bài toán nhân lực của ngành sư phạm cứ dai dẳng giải quyết mãi chưa xong.

Với một bộ phận giáo viên của lịch sử để lại như thế, trong những năm qua, các trường đại học, cao đẳng sư phạm cũng không tuyển được nhiều học sinh giỏi để đào tạo. 

Chỉ vì được miễn giảm học phí nên có rất nhiều con em nông thôn, những gia đình khó khăn mới thi vào sư phạm.

Khi ra trường thì phải chạy vạy khắp nơi, phải lo lót hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu mới được đứng trên bục giảng.

Khi đứng trên bục giảng rồi thì cũng chưa yên thân khi mà nhiều địa phương đột ngột cắt hợp đồng với hàng trăm giáo viên một lúc… vì thừa.

Vậy, vì sao mà thừa, vì sao biết là thừa mà các lãnh đạo một số địa phương vẫn tuyển, vẫn gửi gắm nhau rồi "ấn" về các trường ?

Những người đặt bút kí, những người tham mưu tuyển dụng chẳng lẽ lại không biết được các trường đang thừa, địa phương mình thừa giáo viên.

Vậy mà khi sự việc xảy ra, báo chí vào cuộc thì họ vẫn vô can, vẫn đổ tại lịch sử và xin rút kinh nghiệm !

Chất lượng giáo dục Việt Nam thấp, bất cập vì đâu ? Chẳng lẽ lại cứ mãi đổ tại giáo viên sao ?

Sách giáo khoa viết cho các cấp học phổ thông nhưng những giáo viên phổ thông không được tham dự. 

Những người viết sách đều là những chuyên gia đầu ngành nên sách họ viết ở "trên trời" còn giáo viên và học sinh là những người "hạ giới" nên nó khập khiễng ngay từ khi mới ban hành.

Những chỉnh sửa, bổ sung hàng năm cũng chẳng giải quyết được nhiều bởi càng chỉnh sửa, bổ sung càng thấy nhiều bất cập. 

Thi cử, kiểm tra thì thay đổi liên tục, mỗi đợt thay đổi, bổ sung lại tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của của nhà nước và nhân dân nhưng rồi cũng cứ "dậm chân một chỗ".

Bởi vì khi đánh giá, tổng kết thì toàn là những lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo Phòng, Sở ngồi với nhau nên có mấy ai dám phản biện. Thành ra, cái nào cũng được tổng kết, đánh giá là thành công nhưng chẳng có cái nào…hiệu quả.

Mấy năm qua, Bộ yêu cầu giáo viên có chứng chỉ Ngoại ngữ, Tin học để cho đủ… chuẩn.

Thế nhưng, Bộ lại chỉ đạo một số trường, trung tâm đào tạo. Một vài bữa sau khi nộp tiền, ôn tập và kiểm tra là có bằng, có chứng chỉ nhưng thử hỏi cái chứng chỉ đó có thiết thực và cần thiết không ?

Giáo viên giỏi Ngoại ngữ là tốt, là cần thiết trong xã hội hiện đại nhưng nhiều giáo viên một chữ Tiếng Anh bẻ đôi không biết thì vài ba bữa học giải quyết được vấn đề gì ?

Có chứng chỉ rồi có sử dụng được không, hay chỉ để cho đủ thủ tục hồ sơ rồi bỏ xó. Tiền giáo viên mất, một số cơ sở đào tạo có tiền, còn nhà nước mất nhiều thứ nhưng chất lượng thật thì không có gì.

Yêu cầu viết Sáng kiến kinh nghiệm, thi Giáo viên giỏi cấp Trường phải xuất phát từ tinh thần tự nguyện.

Thế nhưng một số Nghị định, Thông tư yêu cầu phải có mới được xét thi đua, được đánh giá là hoàn thành nhiệm vụ trở lên, thành ra giáo viên cũng tham gia, cũng dự thi.

Bộ biết rõ các phong trào này bất cập, giáo viên thì chán ghét nhưng nó vẫn tồn tại vì nó vẫn đang làm lợi cho một số người.

Hàng năm, ngân sách của ngành giáo dục chi trả không biết bao nhiêu là tiền cho những phong trào vô bổ này.

Vì thế, nên có thói nghịch đời là thi đạt giáo viên giỏi cấp Tỉnh vẫn phải thi giáo viên giỏi cấp Trường trong năm đó mới được xét thi đua ?

Căn bệnh thành tích chúng ta đã nghe nhiều, thế nhưng có lãnh đạo nào, văn bản nào chỉ đạo là phải làm thật, báo cáo thật chưa ?

Cấp trên chỉ biết phê bình đơn vị nào có tỉ lệ học sinh yếu kém cao, tỉ lệ khá giỏi thấp mà đâu có đi tìm bản chất thật của vấn đề. Vì thế, nhà trường nào cũng phải "cố gắng" để bằng các đơn vị bạn. 

Tỉ lệ khá giỏi ngày càng cao nhưng nhiều học sinh loại khá không nắm được cái "chuẩn" kiến thức trung bình mà Bộ đã ban hành.

Trong xét thi đua, trong đánh giá đảng viên thì cứ giáo viên nào có chất lượng thấp là bị gạt ra và góp ý. Vì thế, mà nhiều giáo viên chỉ còn cách là nâng điểm cho bằng mặt bằng chung của tổ, của trường.

Giáo viên dưới cơ sở họ chỉ cần có một môi trường trong sạch để công tác và cống hiến. Chế độ đãi ngộ thấp, giáo viên chúng tôi không sợ, cái sợ nhất là người thầy chúng tôi không được làm thầy đúng nghĩa.

Thấy cái chưa đúng, chưa phù hợp thì không được góp ý, thấy học sinh hư, hỗn hào không được…nói lớn vì làm như thế là "vi phạm đạo đức nhà giáo".

Thấy học sinh học yếu mà phải nâng điểm, thấy sự giả dối mà phải đồng lõa, thấy các cuộc thi, hội thi vô nghĩa mà phải tham gia…

Có lẽ, ngành giáo dục muốn đổi mới thì việc đầu tiên phải đổi mới công tác lãnh đạo, đổi mới cách chỉ đạo, biết nhìn vào thực tế của ngành để đổi mới.

Dù có đánh tráo khái niệm như thế nào đi chăng nữa thì Người thầy vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nhà trường để thúc đẩy chất lượng giáo dục thật. 

Còn, nếu như hiện nay, cái gì lãnh đạo cần giáo viên cũng có thể đáp ứng được, chỉ có điều chất lượng thật của giáo dục thì luôn là… giả dối !

Nguyễn Cao

GDVN, 09/06/2017

Additional Info

  • Author Nguyễn Cao
Published in Diễn đàn

Đến hn li lên, ph huynh Vit Nam my ngày nay vào mùa hp ph huynh cui niên hc.

giaoduc1

Hình minh họa.

Vào lớp, cô giáo bt đu bi bô v tình hình hc tp ca lp : Nào là "em rất kh vì nhiu hc sinh lp ta vn chưa hc gii đu các môn. Ngoài Toán, Tiếng Vit , Khoa Hc, Lch S , Đa Lý, nhiu em còn b giáo viên Nhc, giáo viên V than phin…".

Rồi cô tiếp : "Em dạy Toán, Tiếng Vit, Khoa Hc nhưng cui gi phi tranh th 30 phút làm thay luôn c giáo viên Nhc, giáo viên V gò cho tng đa biết đc nhc, biết v đúng… đ lp ta đt t l cao hc sinh gii đy các bác các anh ch . (vì ch cn mt môn không Tốt là không được chm hc sinh gii, không được giy khen !), nếu không giáo viên b phê bình, h thi đua, trường cũng mt danh hiu, huân huy chương …".

Thế ri cô tâm s : "Họp giáo viên, trao đi vi hiu trưởng… quyết đnh "thêm thêm, chút chút, nâng nâng" để … hài hòa (!) ri 90%… đu gii c !"(nhân tiện cũng nói thêm là các trường tiu hc Vit Nam hin nay khá hiếm đim 7 đim 8, đim 5 đim 6 càng … cc hiếm ! Trong khi đó đim 9, đim 10 trong cơn cung lm phát !).

Phụ huynh lào xào, nhiu ph huynh ngước mt ngưỡng m cô giáo. Vài bác thì mãn nguyn ra mt vì con em mình được cô khen ngoan và hc "gii". Ch thiu s vài anh, vài ch ngi ngùng giu ánh mt xu h do con mình b cô nêu tên chưa thuc bài, chưa hc gii… Nhưng ri cô bt ng tuyên bố : "Các em đó cũng được trường khen thưởng đt xut !"

Lần đu tiên ph huynh nghe khái nim là l này, cô giáo gii thích : "Đó là các trường hp thi 7, 8 đim tc ch "khá" thôi nhưng được vt thành… hc sinh "gii" !

Tóm lại các cô vui !

Học trò vui !

Phụ huynh vui !…

Cả nước đu vui (!)

Tôi chỉ ngi yên lng suy tư : Khó trách các giáo viên được vì xét cho cùng h đã b nn giáo dc thích phô trương biến thành các "Thiên Lôi". T dưng thy ti cho vài thế h chúng ta đang sng trên cái x s này : T giáo viên, phụ huynh, đến hc sinh… tt c là nn nhân ca gung máy giáo dc và xã hi quái g phn khoa hc, không ging ai, chy theo thành tích o vi nhng tm giy chng nhn "gii" vô hn mà khôngcó thc cht, ép hc sinh phi "chín đu" như trái cây tm thuc ! Và sau đó tt c tung hô "t sướng" thành tích giáo dc ni b mà không cn đánh giá ca thế gii !

Chợt nh đa con người bn : Hc sinh xut sc, cp mt l đ sau cp mt kính dày cp, thân hình béo phì ít vn đng và hc lp 5 vn phi nh cha m buộc giày, chưa biết bơi và k năng sng rt kém !

nước ngoài, thm chí hc sinh ch cn gii mt môn… bóng r đã được xem là hc sinh gii.

"Magic" Johnson kiếm c trăm triu đô la mà có cn gii toán, lý, hóa, văn, s, đa… đâu ?

Anh ta cũng làm nền công nghiệp th thao gii trí M phát trin, to bao vic làm cho dân chúng.

Nền giáo dc h hiu rõ : Bn thân mi cá nhân sinh ra có nhng t cht nht đnh, quyết đnh bi b gen dòng h, gia đình… không ai gii toàn năng và không th là thiên tài bách khoa.

Có người ưu thế cái này có người tuyt vi cái khác, mi người có mt chuyên môn năng khiếu riêng góp sc cho xã hi.

Còn trong cuộc sng khi cn nhng vn đ chuyên môn, h có th đc sách hoc hi ý kiến t nhng chuyên gia. Không nên bt ép tr quá sm nhồi nhét đ th kiến thc h ln vào đu !

Tại sao nn giáo dc Vit Nam không tha nhn điu t nhiên này mà c bt tt c bn tr phi gng lên chp bng mi giá nhng đim s 9, 10 cc kỳ hình thc kia. Nó làm thy cô phi gi di chm bài và nn thành tích, còn phụ huynh thì phi t gi di s bng lòng.

Với mt s tr không đt được thì hu qu s là s t ti và có th vô tình phá hng cuc đi tương lai chúng, vì s b ám nh và tin rng chúng b… "thiu năng" !

Lật các sách giáo khoa tiu hc ra mà phát hãi : họ mun biến tr em thành k sư đin đến… k sư nông nghip thông thái ! T nhà lch s, nhà đa lý đến ha sĩ, nhc sĩ thiên tài !

Nhiều kiến thc chuyên sâu đến ni người ln cũng bt ng (có bài trong sách giáo khoa nhà trường ln phòng giáo dc đành phải cho b !).

Việt Nam vn theo li mòn ca tư duy phong kiến đèn sách ca thế k xưa.

Cực kỳ phn khoa hc khi h c ép con em thành nhưng robot đa ch nghĩa công nghip. Hc sinh hc chay nhng th cao siêu rt thiếu thc tế và rơi vào thc trng "học cái gì cũng biết mà biết… ch ra cái gì !".

Để kết lun, chúng ta chiêm nghim li câu nói ni tiếng ca thiên tài khoa hc Einstein nói v giáo dc và mt bc tranh minh ha.

Trong hình biếm, mt thy giáo nói : Để đm bo tính công bng, mi mi người làm cùng mt bài thi : "Tt c hãy trèo lên cái cây kia".

Và câu nói của Albert Einstein : "Mỗi người sinh ra đu là thiên tài. Nhưng nếu bn bt mt con cá th hin kh năng qua vic trèo cây, thì c đi nó s sng và tin rng nó ch là mt đa ngc".

Lê Việt Hà

Nguồn : VOA, 24/05/2017

Additional Info

  • Author Lê Việt Hà
Published in Diễn đàn


So sánh là khiên cưỡng vì th chế chính tr khác nhau, tt yếu nn giáo dc cũng khác nhau. Tuy nhiên, hàng năm c vào cui tháng 4, người min Nam li nhìn li nhng năm hu chiến vi thi gian trước 1975 trong ni nim luyến tiếc.

Đến cui tháng 4 này, miền Nam Vit Nam bước sang năm th 43 ca hu chiến. Nhìn li chng đường giáo dc ca min Nam trước và sau năm 1975, người ta d nhn ra có s khác bit quá xa trong 42 năm qua. Triết lý giáo dc ca Vit Nam Cng hòa thi trước là nhân bn, dân tc, và khai phóng.

Linh mục Phm Trung Thành ca Dòng Chúa Cu Thế Sài Gòn nói rng ông đã được hưởng mt nn giáo dc khá toàn m dưới thi Vit Nam Cng Hòa :

"Tôi lớn lên và trưởng thành min nam Vit Nam trước năm 1975. Là mt hc sinh trung hc ca mt trường công lập và ri là mt sinh viên, tôi đã được tha hưởng mt cái nn giáo dc, mt h thng giáo dc và mt bu không khí giáo dc có th nói là khá toàn m".

Sau năm 1975 và kéo dài đến hôm nay, nn giáo dc vn loay hoay trong nhng kế hoch th nghiệm, mà mới nht là tiếp tc kêu gi góp ý v thay đi chương trình giáo dc ph thông. T thp niên đu 90 đến nay, hc trò đang b buc hc quá nhiu lp, và khi v nhà còn phi theo các lp hc thêm vi nhng khon chi phí, mà theo li ca ph huynh Lê Thị Nhìn, nhiu lúc vượt kh năng ca ph huynh :

"Chương trình hc ca my cháu tiu hc quá nhiu so vi s tui ca các cháu. Bi vì hc trong trường xong thì còn phi v hc ph đo hoc là hc thêm tt c các môn, chng hn như Anh văn đ không s thua với bn bè. Ngoài chuyn hc phí ra còn nhiu s tin khác na, chng hn như tin hc thêm ri tin ph đo, cm thy nhiu".

Chạy tin đ cho con cái được đi hc là chuyn không h xy ra trước năm 1975, theo li cu giáo sư Trn Minh Quc :

"Nhớ thu a, t lúc tôi hc lp mt cho ti lp mười hai, tôi hoàn toàn không đóng mt đng xu nào cho nhà trường, hoàn toàn không đóng. Cái này nói tht. Không nhng không đóng tin cho nhà trường, mà có nhng năm tôi được cp hc bng, ri hc gii, ri được phần thưởng, tp v giy bút này n ph phê. Ri khi lên đi hc thì tn kém rt ít. Riêng cái ngành Sư Phm và Văn Khoa thì nói thit như các bn biết là hoàn toàn không có đóng tin. Giáo dc hoàn toàn min phí. Tht đáng ca ngi, ưu vit mà ca ngi trong mt cái s luyến tiếc.."..

Học sinh hin nay tt bt đến trường, ri trường đ bước vào nhng lp hc thêm, lp ph đo. Ph huynh cũng tt bt đưa đón con cái. Khong ngh đ la tui hoa niên hn nhiên vi nhng trò chơi như nhy dây cũng ngày càng hiếm hoi.

Cựu giáo sư Trn Minh Quc bi quan nói rng 42 niên hc đi qua, nn giáo dc vn chưa có được s yên n :

"Và có thể nói trong sut bn mươi hai năm nay thì chưa tng ngày nào, tháng nào, năm nào nn giáo dc hin hu n đnh c".

Sự không yên n y càng khiến người ta thương tiếc v mt nn giáo dc đã mt.

Linh mục Phm Trung Thành ngm ngùi t bày lòng tri ân :

"Xin cám ơn nhng con người đã hy sinh, nhng con người đã c gng đ to dng cho cái bu khí ca min Nam Vit Nam trước năm bảy mươi lăm tt đp. Nếu đem so sánh vi các bn tr ngày hôm nay, thì chúng tôi thy rng chúng tôi đã được sng trong mt bu không khí khá trong lành và thun li cho vic phát trin hc tp. Ngày hôm nay, có th nói rng thế h ca chúng tôi ti hổ và xin li thế h các em, các cháu vì chúng tôi đã không to được mt môi trường văn hóa-xã hi-giáo dc như thi chúng tôi đã được hưởng t cha ông".

Published in Video

Dư luận phản ánh Hiệu trưởng và Ban giám hiệu ở nhiều trường tiểu học có thói quen quản lý, lãnh đạo đội ngũ cán bộ giáo viên rất độc đoán, thiếu dân chủ.

Vừa qua, VTV1 đưa tin, trong một buổi làm việc với một số Bộ Ngành, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã phê bình việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là ở các trường tiểu học còn nhiều sai sót, bất cập. 

Quy chế ban hành đã lâu, mọi điều khoản, quy định rất rõ ràng nhưng việc thực hiện ở nhiều nơi vẫn chưa nghiêm, vẫn còn nhiều sai phạm, thậm chí có nơi còn mất dân chủ nghiêm trọng ; người lãnh đạo độc đoán, tự tung tự tác, bất chấp dư luận và luật pháp, không làm hoặc làm trái những quy định của Đảng và Nhà nước. 

Dư luận lâu nay đã lên tiếng về những Hiệu trưởng và Ban giám hiệu ở nhiều trường tiểu học trên nhiều địa phương cả nước có thói quen quản lý và lãnh đạo đội ngũ cán bộ giáo viên rất độc đoán, thiếu dân chủ. 

Nhiều người tự cho mình như những "ông vua" trong trường tiểu học, kéo bè kết cánh, nâng đỡ kẻ xu nịnh, thù ghét người ngay thẳng, triệt hạ người dám có ý kiến phản biện bằng rất nhiều chiêu trò ma mãnh, lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và các hình thức bỏ phiếu, biểu quyết để chứng tỏ và thực hiện quyền lực sai trái của mình. 

vua1

Dân chủ trong nhiều trường học chỉ mang tính hình thức. (Ảnh minh họa : NOP/Tuoitre.vn)

Có những Hiệu trưởng công khai nói trong cuộc họp "tôi rất ghét cô này, cô kia" mà chẳng có lý do gì. 

Có Hiệu trưởng còn tuyên bố xanh rờn : "Ở trường này tất cả mọi việc là do tôi, tôi quyết thế nào tất cả phải làm thế, không có đúng sai gì hết". 

Không ít Hiệu trưởng đến cuối năm, khi có đoàn thanh tra tài chính, bắt cán bộ giáo viên toàn trường hì hục chuẩn bị, sản xuất ra các văn bản khống, các chứng từ giả để hợp pháp việc chi tiêu sai quy định của mình. 

Không ít Hiệu trưởng, đến ngày 20/11 hoặc Tết Nguyên đán, giáo viên nào không đến tặng quà là ngay sau đó gặp nhiều phiền phức, bị ghét bỏ, trù dập. 

Không hiếm Hiệu trưởng mua sắm những gì lớn trong trường đều liên kết với người nhà, người thân để khai khống tăng giá cao ngất ngưởng, ăn chia chênh lệch lớn trên mồ hôi công sức của giáo viên. 

Không hiếm Hiệu trưởng đe doạ, cấm đoán giáo viên không được tiết lộ những "Bí mật" của nhà trường với cấp trên hoặc đoàn thanh tra. 

Càng không hiếm Hiệu trưởng luôn tìm cách lợi dụng những phụ huynh là đại gia giàu có để trục lợi.

Cũng không hiếm Hiệu trưởng chỉ đạo các giáo viên chủ nhiệm đầu năm học thu đủ loại tiền sai quy định. 

Và, cũng không ít Hiệu trưởng đã nhẫn tâm bớt xén tiền ăn của học sinh nội trú… 

Những sai phạm đó xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau.

Một trong những nguyên nhân đầu tiên là ở quy trình bổ nhiệm cán bộ

Hiệu trưởng trường tiểu học đều do cấp uỷ và chính quyền địa phương bổ nhiệm, ý kiến của Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ có giá trị tham khảo. 

Vì vậy mà không ít con ông cháu cha hoặc người thân, người giỏi chạy chọt mặc dù năng lực và nhân cách có hạn vẫn được giữ trọng trách ở nhà trường.

Nhiều khi, ý kiến của người lãnh đạo cao nhất ở địa phương về nhân sự đã trở thành pháp lệnh trong công tác bổ nhiệm Hiệu trưởng ở trường tiểu học. 

Đây là một thực tế đã trở thành "bệnh mãn tính" mà các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực cần phải chấn chỉnh, thay đổi thì mới xây dựng được một hệ thống cán bộ quản lý giáo dục các cấp đủ đức và tài, đủ năng lực và tâm huyết để "đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà".

Nguyên nhân thứ hai do cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả công việc, trình độ, năng lực và nhân cách đội ngũ Hiệu trưởng các trường học chưa nghiêm túc, chưa chặt chẽ và thiếu thường xuyên.

Việc hàng năm cử các đoàn thanh tra về các trường đã cho thấy nhiều bất cập, thường thiếu khách quan và cũng không có đủ thời gian cần thiết để kiểm định, xác minh hàng loạt những vấn đề và tài liệu, chứng từ liên quan đến hoạt động của nhà trường.

Cũng đã xảy ra không ít chuyện phức tạp và nhạy cảm về mối quan hệ giữa nhà trường với các đoàn thanh tra hàng năm.

Vì thế, ở nhiều trường, mọi chuyện tiêu cực, sai phạm vẫn chẳng có gì thay đổi và tiến triển. Năm trước như thế nào, năm sau vẫn thế, thậm chí còn sai phạm nhiều hơn.

Các Hiệu trưởng ngày càng tinh quái hơn trong việc đối phó với các kiểu thanh tra truyền thống.

Kết quả là "đâu vẫn hoàn đấy", quy chế dân chủ ở cơ sở vẫn không được thực hiện nghiêm túc, Hiệu trưởng vẫn là "ông vua" ở trường học.

Điều này dẫn đến một thực trạng đáng buồn và nguy hiểm hơn là : thủ tiêu tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, biến đội ngũ giáo viên trở thành những con người "dĩ hoà vi quý", "bịt mắt bưng tai", "ngậm miệng ăn tiền" trước những sai phạm của Hiệu trưởng và Ban giám hiệu.​​

Ai cũng sợ bị đe doạ, trù dập, thậm chí bị dọa đuổi việc, bị thuyên chuyển công tác và nhiều hệ lụy khác. 

Những năm qua báo chí đã lên tiếng về hiện tượng này quá nhiều rồi. 

Để hạn chế và xoá bỏ thực trạng ấy, cần rất nhiều giải pháp. Ở đây, "những lão giáo già" chúng tôi xin đưa ra một vài giải pháp nhỏ : 

- Hàng năm, phòng giáo dục kết hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương lập phiếu thăm dò, đánh giá, lấy ý kiến phản hồi của đội ngũ giáo viên trong trường về mọi mặt công tác, nhân cách và lối sống của Hiệu trưởng, Hiệu phó. 

Phiếu đánh giá phải được xây dựng công phu, khoa học, gồm nhiều mục, nhiều tiêu chí, bao hàm nhiều phương diện đánh giá cả về trình độ, năng lực, nhân cách, lối sống, các hành vi tiêu cực… 

Bộ tiêu chí này sắp xếp thành các loại câu hỏi, mỗi câu đưa ra 3 - 4 đáp án đề giáo viên dễ tích vào đó ý kiến của mình. 

- Trong buổi lấy ý kiến đánh giá, Hiệu trưởng và Hiệu phó không được có mặt, cán bộ đến lấy ý kiến phải phổ biến quan điểm, định hướng của cấp trên ; động viên khuyến khích các thầy cô giáo trung thực, thẳng thắn, công tâm góp ý. 

Giáo viên không cần thiết phải ghi tên, địa chỉ của mình. 

- Sau khi lấy ý kiến thăm dò, cần có bộ phận chuyên trách làm nhiệm vụ tổng hợp, phân loại các ý kiến, báo cáo cấp uỷ, chính quyền và các cơ quan liên quan. 

- Có những quy định rõ ràng về mức độ, tỷ lệ các ý kiến phê phán tương ứng với các mức nhắc nhở, phê bình, kiểm tra, thanh tra hoặc khen thưởng… 

- Nghiêm cấm tuyệt đối các hành vi trả thù, đe dọa, gây khó khăn cho người có ý kiến.

Tuyệt đối nghiêm cấm những trường hợp khi bị giáo viên góp ý, Hiệu trưởng tổ chức điều tra, sử dụng những người trong phe cánh của mình nghi kỵ người này người khác, gây không khí căng thẳng, mất đoàn kết nội bộ. 

Có quy định rõ những vấn đề tiêu cực ở cá nhân nào mà năm sau lặp lại, tái diễn cần phải xử lý thật nghiêm. 

- Việc lấy ý kiến đánh giá Hiệu trưởng, Hiệu phó có thể mở rộng đến đại diện cha mẹ học sinh ở từng lớp để có thêm kênh thông tin về người được đánh giá. 

Chúng tôi nhận thấy cách làm của một số trường Đại học Sư phạm trong đó có trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên lấy ý kiến phản hồi của người học, của cựu sinh viên đối với đội ngũ giảng viên và lấy ý kiến nhận xét đánh giá của cán bộ giảng viên đối với đội ngũ lãnh đạo nhà trường những năm qua đã đạt được hiệu quả rõ rệt, góp phần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. 

Một giải pháp nữa là các cơ quan chức năng lên thành lập một đường dây nóng, động viên kêu gọi mọi giáo viên, phụ huynh và học sinh phải ánh ngay những vụ việc tiêu cực ở trường mình. 

Thiết nghĩ, nếu các cấp có trách nhiệm nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác thì nhiều vụ việc không thể phát triển, hoặc tồn đọng kéo dài, gây nhiều bức xúc cho xã hội… 

Từ góc nhìn của những người đã từng dạy học và quản lý giáo dục nhiều năm, có rất nhiều con cháu đang công tác trong ngành giáo dục, chúng tôi xin có vài góp ý và giải pháp về việc nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở các trường phổ thông, đặc biệt là trường tiểu học nước ta.

Rất mong nhận được sự chia sẻ và chỉ bảo của độc giả.

Hoàng Hữu Đức

Nguồn : GDVN, 03/04/2017

Additional Info

  • Author Hoàng Hữu Đức
Published in Diễn đàn
dimanche, 26 mars 2017 11:36

Có học trò dốt không ?

Thầy Trần Trí Dũng khẳng định rằng : "Không có học trò nào dốt, mà chỉ có những thầy giáo chưa biết cách giảng dạy cho học sinh của mình".

Ngày tôi còn là sinh viên, trong một buổi học, thầy giáo nói : "Có một câu nói : "Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy kẻ dốt". Vậy mà nếu phải làm cấp dưới cho kẻ dốt thì thật là tai hại". 

Ý của thầy giáo ở đây là nếu phải làm cấp dưới cho người yếu kém về trí tuệ, năng lực thì đó là kìm hãm sự phát triển. 

Ngày 13/3/2017, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài viết : "Thư gửi chị - Một người mẹ có con học dốt" của tác giả Jenna An, nội dung nói về những tâm sự với một người mẹ có con bị xem là học dốt. 

Bài viết đã tạo ra được nhiều xúc động đối với độc giả. Bởi lẽ, những lời nhắn nhủ trong thư với các bà mẹ là hãy thực sự hiểu con mình, đặc biệt trong giáo dục. Và từ đó, có một câu hỏi được đặt ra ở đây là có hay không học sinh dốt ?

Với bất cứ ai trong nghề làm thầy, nỗi băn khoăn, trăn trở lớn nhất vẫn là làm sao để cho học trò của mình được học tốt lên. Nhất là khi gặp phải những học sinh học kém.

Vậy có hay không học trò dốt ? 

Bài viết này xin được trao đổi một góc nhìn về vấn đề đó.

hoctro1

Có hay không học sinh dốt ? (Ảnh minh họa : hoc.vtc.vn)

Đối với một giáo viên, trước khi thực hiện công việc giảng dạy, điều đầu tiên phải tiếp xúc để tìm hiểu học sinh, từ đó có đánh giá ban đầu về khả năng của các em. 

Chúng ta biết, tố chất là yếu tố cơ bản có trong một con người. Có một điều dễ nhận thấy là khả năng của các học sinh là không đồng nhất, điều đó quyết định bởi tố chất của từng em. 

Có những học sinh có tố chất thông minh và có những em lại chậm trong nhận thức. Nhưng, phải khẳng định rằng khả năng của mỗi con người là khác nhau, do tố chất quyết định. 

Tố chất của một con người không có ngay từ khi lọt lòng, cũng không phải do gen di truyền.

Tố chất được hình thành dần dần trong quá trình sống của người đó, chịu sự ảnh hưởng của truyền thống, nề nếp gia đình và bị tác động thông qua các yêu tố xã hội khác.

Tố chất của mỗi người ảnh hưởng đến sự hình thành trí thông minh của người đó.

Do mỗi người có một tố chất khác nhau nên trí thông minh của họ cũng khác nhau. 

Tuy nhiên trong giáo dục, có những học sinh còn chậm hiểu khi tiếp cận vấn đề.

Điều này là do môi trường hoc tập điều kiện và không khí lớp học đã gây ảnh hưởng đến khả năng nhận thức cùng với trạng thái tâm lý, ý thức và tinh thần học tập chung. 

Do đó, các thầy cô giáo khi dạy những học sinh như vậy cần biết cách gợi mở và dẫn dắt vấn đề để các em tiếp cận, tìm hiểu.

Theo một kết quả nghiên cứu của Tiến sĩ Howard Gardner- một nhà Tâm lý học cũng là Giáo sư Khoa học Thần kinh tại Đại Học Harvard cho biết, con người bao gồm 8 loại trí tuệ khác nhau, phản ánh các cách tương tác đa dạng với thế giới và ông tin rằng mỗi người đều có một sự pha trộn độc đáo giữa những dạng trí tuệ này. 

hoctro2

Mô hình 8 loại hình thông minh của Tiến sĩ H.Gardner.

Đó là các dạng thông minh gồm thông minh về không gian, thông minh về vận động cơ thể, thông minh về âm nhạc, thông minh về ngôn ngữ, thông minh về logic toán học, thông minh về giao tiếp, thông minh về nội tâm và thông minh về tự nhiên. 

Trong các dạng thông minh của con người mà Giáo sư Howard Gardner nói tới cần chú ý về một dạng thông minh, đó là thông minh về nội tâm. 

Theo đó, những người thuộc dạng thông minh này khá nhạy cảm với cảm xúc và mục tiêu của chính mình. Họ giỏi phát triển điểm mạnh của bản thân và ưa làm việc cá nhân. 

Dạng này không biểu hiện ở một nghề nghiệp cụ thể, nó là mục tiêu cho mỗi cá nhân trong xã hội phức tạp ngày nay, khi mà con người ta phải tự đưa ra những quyết định riêng của mình và chấp nhận đối mặt với kết quả của nó.

Đây là những khía cạnh rất hữu ích trong việc phát hiện và phát triển khả năng của bản thân con người.

Đặc biệt đối với trẻ em, cần có quan sát xem trẻ có những trí thông minh nào nổi trội giúp bé nuôi dưỡng đúng hướng và bộc lộ hết khả năng của bản thân. 

Từ đó ta có thể thấy khả năng của trẻ được bộc lộ ở nhiều thiên hướng khác nhau chứ không chỉ trong học tập.  

Theo Giáo sư Nguyễn Lân Dũng - chuyên gia hàng đầu về Sinh học thì gen không truyền trí thông minh, có nghĩa là trí thông minh không di truyền theo các thế hệ. 

Trên thực tế nhiều gia đình có bố mẹ được xem là giỏi giang nhưng con cái lại bị đánh giá là kém cỏi. Và ngược lại, nhiều ở nhiều gia đình thuộc thành phần lao động bình thường nhưng con cái lại rất giỏi giang. 

Những tấm gương học sinh, sinh viên vượt khó, có thành tích rất cao trong học tập xuất thân từ những gia đình nghèo khó là những thí dụ điển hình cho điều đấy.

Tuy nhiên, như đã nhận định ở trên, con người có thể có nhiều dạng thông minh khác nhau và thông minh trong học tập chỉ là một biểu hiện trong số đó.

Khả năng của con người là luôn luôn phát triển được biểu hiện dưới nhiều góc độ. Chính sự khác nhau trong loại hình thông minh của mỗi con người tạo nên sự quan tâm của con người là không giống nhau. 

Điều đó đã tạo nên sự khác biệt của con người trong nhận thức và thiên hướng. Điều đó cũng để lý giải là vì sao nhiều người học không giỏi ở trường lớp nhưng vẫn thành đạt trong cuộc sống.

Chính vì vậy mà các bậc cha mẹ cũng không nên quá lo lắng khi con mình bị xem là học dốt và cần thực sự hiểu con mình.

Bởi lẽ, khả năng của con người được bộc lộ ở nhiều mặt khác nhau, và cuộc sống sau này sẽ chứng minh điều đó.      

Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 20/12/2016 đăng bài viết : "Học trò phổ thông thực sự cần học bao nhiêu môn ?" của cô giáo Phan Tuyết.

Trong bài viết, cô giáo đã kể một câu chuyện về một người từng là bạn học của cô đã học rất giỏi các môn Khoa học xã hội, đặc biệt là môn Văn nhưng lại rất kém các môn Khoa học tự nhiên. 

Thậm chí, một số thầy cô giáo chia sẻ nếu cứ thẳng tay tổng kết có thể bạn đó sẽ không đủ điều kiện dự thi Tốt nghiệp, cho nên các thầy cô đã nới tay để những môn học ấy bạn đạt điểm 5. 

Tuy nhiên, sau này, bạn đó vẫn thi đỗ Đại học và rất giỏi trong trong công việc của mình. Đây là một thí dụ điển hình phản ánh các năng lực khác nhau ở người học.   

Trong giáo dục, việc tìm ra sự khác biệt giữa các học sinh để có nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp là rất quan trọng. Điều đó quyết định sự thành công và chất lượng giáo dục và sự phát triển toàn diện ở người học. 

Theo Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, một trong những quan điểm chỉ đạo của đổi mới là : chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. 

Trong đó, một trong những mục tiêu quan trọng cần đạt được là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân : yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào ; sống tốt và làm việc hiệu quả.

Như thế, để phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học cần đánh giá đúng tiềm năng, phẩm chất và năng lực để từ đó gợi mở, khai phá thích hợp.

Về mặt sinh học, con người được coi là động vật cao cấp nhất bởi trí não phát triển, sự thông minh và khả năng nhận thức. 

Vì thế, từ những luận cứ trên có thể khẳng định, không có học sinh nào dốt mà chỉ có những giáo viên chưa nhìn thấy đúng khả năng, năng lực của học sinh và chưa có phương pháp giảng dạy thích hợp. 

Từ một thực tế cho thấy, sự thành công của Giáo sư Ngô Bảo Châu - người Việt Nam đầu tiên đạt giải thưởng cao nhất về Toán học, làm thế giới sửng sốt là sự khẳng định trí tuệ của con người Việt Nam. 

Tôi cũng xin kể một câu chuyện về việc dạy học của bản thân.

Trong một lần tôi tiếp nhận một học sinh, mà trước đó đã theo học bồi dưỡng ở một thầy giáo khá nổi tiếng, dạy giỏi. 

Theo đó, trước đó khi tiếp xúc với học sinh này, thầy giáo đó đã nói : "Cậu này khả năng là sẽ trượt tốt nghiệp".

Vì thế, cậu học sinh đã tự ái và tìm đến chỗ tôi theo học. 

Sau khoảng thời gian một tháng học với cả ba môn Toán, Vật lý và Hóa học, học sinh của tôi đã thi đỗ và bây giờ đã tốt nghiệp Đại học với tấm bằng loại Giỏi.

Thực tế trong công việc của tôi, hầu hết các học sinh ban đầu đều chưa được xem là học tốt, nhưng sau khi thi đỗ Đại học, hiện tại các em đều đã tốt nghiệp với tấm bằng từ Khá trở nên. 

Điều đó nói nên rằng, phương pháp giảng dạy và giáo dục học sinh là rất quan trọng.

Người thầy cần hiểu đúng các em, nắm bắt đúng các yếu tố tâm lý, tạo môi trường học tập thân thiện và gợi mở để từ đó có nội dung và phương pháp giảng dạy thích hợp đối với từng đối tượng học sinh, điều đó sẽ quyết định sự thành công trong giảng dạy.

Tuy nhiên, ở Việt Nam ta, cơ cở vật chất trường học còn nhiều hạn chế, các lớp học đa phần có sỹ số đông gây khó khăn cho các thầy cô giáo trong việc nhận diện học sinh, tìm ra sự khác biệt giữa các em để tổ chức phương pháp thích hợp.

Đặc biệt, phương pháp giảng dạy của chúng ta trong một thời gian dài vẫn là lối truyền thụ mang tính áp đặt một chiều, giáo viên là trung tâm của quá trình giảng dạy, thầy nói trò nghe, thầy chép cho ghi do đó hạn chế cho việc bảo đảm hiệu quả giáo dục.

Vì thế, đây cũng là một gợi mở để chúng ta đổi mới phương pháp giảng dạy và cách tổ chức lớp học. 

Bởi lẽ, mọi chủ trương cải cách và đổi mới giáo dục suy cho cùng là nhằm đạt đến mục đích nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển toàn diện và hiệu qủa trong việc đào tạo con người.

Vì thế, một lần nữa phải khẳng định rằng : "không có học trò nào dốt, mà chỉ có những thầy giáo chưa biết cách giảng dạy cho học sinh của mình".

Một vài trao đổi để chúng ta cùng tham khảo, để từ đó các thầy cô cùng có cái nhìn đúng đắn và định hướng tốt cho công việc của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng đã giúp tài liệu cho tôi hoàn thành bài viết này ! 

Trần Trí Dũng

Nguồn : GDVN,26/03/2017

Additional Info

  • Author Trần Trí Dũng
Published in Văn hóa

Bài 4

Khoa học chính trị, lịch sử nhất định phải đổi mới tư duy dạy và học

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 16/03/2017

Học các môn chính trị ấy là học về khoa học chính trị. Khoa học thì khách quan và bình đẳng, không ai và không có lý thuyết nào độc quyền chân lý.

GDVN : Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa X, XI, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương gửi đến báo Điện tử Giáo dục Việt Nam loạt bài viết của ông góp ý cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

Văn phong cũng như nội dung bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Tiêu đề bài viết do báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đặt.

******************

Đối với chương trình môn học cụ thể, tôi muốn đề xuất một số ý kiến sau đây, tất nhiên là không thể đầy đủ và toàn diện. 

Học lịch sử không phải chỉ để hiểu rõ quá khứ, mà còn để nắm chắc tương lai

Trước nhất là môn lịch sử. Đây là môn học rất quan trọng, phong phú và hấp dẫn. Tại sao những năm gần đây học sinh ít thích học môn này ?

Nhiều em cảm thấy nó khô khan, nặng nề và không ít học sinh không biết học để làm gì, không thấy rõ học có lợi gì. 

Nguyên nhân của tình trạng này là do chương trình không tốt, cộng với năng lực yếu kém của người truyền thụ và còn có quan điểm không đúng trong nhìn nhận vai trò của môn học nữa. 

Để khắc phục tình hình trên, tôi đề nghị quan tâm 2 vấn đề sau. 

Thứ nhất : Học lịch sử không chỉ để hiểu biết về quá khứ, tự hào về truyền thống vẻ vang của Dân tộc trong công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, dù việc ấy vẫn mãi mãi là cần thiết, nhưng chưa đủ, rất chưa đủ. 

giaoduc1

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (giữa) và nhà văn Nguyên Ngọc (phải) tại lễ ra mắt Viện Phan Châu Trinh, ảnh : Báo Công an Nhân Dân.

Quan trọng hơn nữa là học sử để chuẩn bị cho một tương lai, kể cả tiếp tục giữ nước và nhất là phát triển mạnh mẽ và bền vững đất nước.

Tức là học quá khứ cho tương lai, vì tương lai. Tìm trong quá khứ câu trả lời cho hiện tại và tương lai. 

Lâu nay ta nói khá rõ về truyền thống giữ nước, nhưng chưa phải đã đủ, chưa khái quát cô đọng nhất và chưng cất kỹ lưỡng để có bài học đắt giá nhất được rút ra từ lịch sử. 

Cần tổng kết lại trong lịch sử dân tộc ta đã bao nhiêu lần chống xâm lược từ Phương Bắc và Phương Tây, nguyên nhân xảy ra các lần chiến tranh ấy, bao nhiêu lần ta thắng, mấy lần ta thua, vì sao ta thắng và vì sao ta thua, thông điệp cho hôm nay và mai sau là gì ? 

Đặc biệt hơn, cần nói rõ về thời kỳ xây dựng trong hòa bình. Phần này-phát triển đất nước trong hòa bình-chưa rõ và không đủ. 

Trong khi đó, thời kỳ hòa bình vẫn là chủ yếu, dài hơn gấp bội thời gian chiến tranh chống xâm lược. 

Thời kỳ nào nước ta hưng thịnh và thời kỳ nào suy vong, suy đồi, nguyên nhân vì sao ? Vì sao sau 4 ngàn năm rồi mà Việt Nam chưa là một quốc gia và dân tộc phát triển ? 

Rút ra cho được nguyên nhân chính yếu dẫn đến tụt hậu, không phát triển được. Từ đó mà chuyển đến cho hôm nay và mai sau thông điệp có giá trị cao đối với sự phát triển từ nay về sau của dân tộc và đất nước. 

Thứ hai : Giữ vững tính khách quan khoa học của môn này, không nên "chính trị hóa" vấn đề nọ, vấn đề kia. 

Ở nước Đức, khi chấm bài lịch sử, thầy giáo chủ yếu chỉ quan tâm cách tiếp cận và cách lập luận của học sinh chứ không đánh giá về quan điểm chính trị.

Khi thống nhất nước Đức, với sự thắng thế thuộc về Tây Đức, có những ý kiến cực đoan yêu cầu phá bỏ ngay các tượng của ông Các Mác trong tất cả các trường học. 

giaoduc2

Hội Khoa học Lịch sử tổ chức hội thảo : Môn Lịch sử trong giáo dục phổ thông vào tháng 11/2015 sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương tích hợp môn Lịch sử. Ảnh : Thu Hà / Báo Nhân Dân.

Nhà cầm quyền không vội quyết định mà để cho tập thể thầy giáo và học sinh thảo luận nên giữ hay nên bỏ, vì sao như vậy, lợi hại thế nào ?

Kết quả thảo luận đã giúp cho học sinh trưởng thành về nhiều mặt, có những nơi sinh viên yêu cầu không bỏ. Ta thử tham khảo và suy ngẫm cách giáo dục của họ.

Việc gì trước đây do yêu cầu tuyên truyền tức thời lúc đó hoặc xử lý thông tin không tốt mà đã dẫn đến cung cấp kiến thức không đúng sự thật lịch sử thì nay mạnh dạn nói lại càng sớm càng tốt cho học sinh. 

Một số nội dung trước đây chưa trình bày rõ, nay nên trình bày rõ cho học sinh, như vấn đề Chămpa-Lâm Ấp, Óc eo-Phù Nam, cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979, chuyện mất đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa…kể cả những việc gì ta sai lầm trong lịch sử. 

Nói đến sai lầm ấy không có nghĩa là kết tội cha anh, mà muốn người Việt Nam ta hiện tại và tương lai sẽ tránh được những sai lầm tương tự.

Điều đấy cũng có nghĩa là sự hao tốn công sức, tiền của và máu xương của cha ông ta là học phí, là không vô nghĩa, đã góp phần cho một tương lai tốt đẹp của dân tộc này. 

Phần lớn học sinh sau này sẽ làm việc trên nhiều lĩnh vực khác nhau, chứ không phải là sử học. Việc giảng dạy lịch sử ở phổ thông chủ yếu là nhằm hình thành nhân cách, để sống và ứng xử. 

Cần phân biệt yêu cầu này với việc chuẩn bị cho các nhà sử học tương lai.

Một mặt, phải chuẩn bị nội dung và cách học cho đại trà. Mặt khác, cần có các hình thức câu lạc bộ phù hợp để bồi dưỡng cho các tài năng, nhằm chuẩn bị các nhà sử học cho đất nước. 

Lâu nay, trong chương trình học sử phổ thông, nhiều lúc bắt học sinh phải nhớ quá nhiều tư liệu. Ngày tháng, tên tuổi, địa danh, số lượng… Làm cho các em cảm thấy nặng nề, khô khan, chán học sử. 

Tốt hơn nên giúp cho học sinh tiếp cận được bản chất của lịch sử, các dòng chảy bên trong có tính quy luật của lịch sử ấy, và các tinh chất được chắc lọc, chưng cất từ thực tiễn lịch sử của dân tộc.

Giáo dục các môn khoa học chính trị, chứ không phải dạy chính trị

Về các môn "chính trị" cần đổi mới như thế nào ? Nhiều người vẫn gọi các môn ấy là các môn học chính trị.

Gọi như thế là căn cứ vào thực tế của việc dạy và học các môn này. Chứ đúng ra nó không phải là học chính trị, mà là học khoa học về các vấn đề đó. 

Cần phân biệt giữa việc học khoa học và học chính trị. Nó khác nhau, không phải là một. 

Học chính trị-ví dụ nghe phổ biến một nghị quyết của Trung ương hoặc của Quốc hội-cũng là việc rất cần, nhưng đó là việc khác. Hiện nay, nhiều học sinh-sinh viên không thích học, không muốn học các môn này.

Không ít em cảm thấy nặng nề, học như là một khổ dịch. Như thế chắc chắn không có chất lượng, không có hiệu quả, thậm chí có mặt có hại. 

Có thầy giáo khi học viên hỏi "thầy có thật sự tin những điều thầy nói… ấy không" thì thầy trả lời "về câu hỏi của em-đây là việc tế nhị, nhạy cảm". 

Một trí thức làm công tác quản lý trường đại học, khi được hỏi ý kiến về hiệu quả trong việc học các môn ấy thì nói rằng "học như thế cũng không có hại gì vì học sinh nó có chịu học đâu". 

Tình hình là thế đó. Nếu học kiểu như vậy cũng có nghĩa là ta đang tích cực làm cho lớp trẻ nó chán ông Mác và ông Lênin, mặc dù các ông ấy vẫn có những điều hấp dẫn và có ích.

Tất nhiên là không phải tất cả, không phải rất nhiều, không phải đã đầy đủ rồi, chỉ cần nghiên cứu các ông ấy thôi, không cần phải học của ai khác nữa. 

Để đổi mới căn bản việc dạy và học các môn này, tôi đề nghị lưu ý 3 vấn đề sau. 

Một là, học các môn chính trị ấy là học về khoa học chính trị. Khoa học thì khách quan và bình đẳng, không ai và không có lý thuyết nào độc quyền chân lý. 

Phải chấp nhận phản biện trong quá trình học và nghiên cứu các môn này, không quy chụp học sinh khi nó phản biện khoa học.

Cần phải thấy tinh thần phản biện và cách phản biện là biểu hiện của sự trưởng thành. Tạo ra một không khí cởi mở, một môi trường tự do học thuật. 

Hai là, học các môn ấy không chỉ của Mác, Lênin mà kể cả các trường phái khoa học khác, lịch sử ra đời và phát triển của khoa học ấy, để các lý thuyết bình đẳng với nhau, tự khẳng định mình và tồn tại bằng giá trị. 

Các môn Mác-Lênin là bộ phận hợp thành của khoa học nói chung về lĩnh vực ấy, chứ không phải tách ra, biệt phái, cô lập với lịch sử khoa học của nhân loại. 

Đó là những phần, những chương quan trọng trong chương trình nghiên cứu nói chung (chứ không riêng Mác-Lênin) về triết học, các lý thuyết kinh tế, khoa học chính trị. 

Thầy giáo là bạn đồng hành cùng các em đi tìm chân lý chứ không phải là áp đặt theo kiểu độc quyền những chân lý định sẵn. Cái nào là chân lý thì chính người học tự nguyện thừa nhận với một tư duy mở và độc lập. 

Thầy giáo giúp các em nhận biết các giá trị cốt lõi nhân văn và khoa học của môn học. Phân biệt giữa khoa học và tư biện. 

Có đồng chí hỏi tôi rằng nếu các giá trị ấy ít quá thì làm sao ? Ít nhiều thì nói sau, mà chắc gì đã ít, mà nhiều và ít thì có sao đâu, miễn là đúng khoa học.

Hãy bằng các sinh hoạt khoa học để thảo luận kỹ đâu là các giá trị khoa học và nhân văn ở trong đó. 

Phải thật khách quan, không phải cố bênh vực hay cố loại bỏ ông này hay ông kia. Đó không phải là thái độ khoa học.

Giá trị nhân văn và khoa học không phụ thuộc vào số lượng ít hay nhiều, mấy cái, mà phụ thuộc vào tầm cỡ, mức độ sâu sắc và ý nghĩa của vấn đề. 

Không có vĩ nhân nào đúng tất cả và mãi mãi, khi thời gian đi qua.

Chỉ cần một ít thôi, nhưng đó là những phát hiện vĩ đại, rất sâu sắc, có tầm vượt trước rất xa, tồn tại và có giá trị lâu dài trong thực tiễn và với lịch sử, thế là vĩ đại rồi, tốt quá rồi. 

Trong cuộc đời mình, Các Mác chưa hề có quyền lực, thậm chí ông đã nhiều lần bị quyền lực truy đuổi, và ông đã mất lâu rồi, cả trăm năm rồi, không còn sống để trực tiếp bảo vệ các quan điểm của mình.

Nhưng mãi tới nay, nhiều nước ở Mỹ và phương Tây, phương Đông, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu vẫn nghiên cứu các tư tưởng của ông. Bản thân việc ấy cũng nói lên một điều rằng, trong đó, trong tư duy của ông, không thể hoàn toàn không có những giá trị gì.

Ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai ?

Có ý kiến cho rằng nên lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2 của quốc gia. Tôi lại không nghĩ như vậy. 

Người Việt Nam cần giỏi ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, để từ đó mà tiếp biến hiệu quả hơn với các nền văn hóa khác nhằm không ngừng hoàn thiện mình. Tôi ủng hộ cách suy nghĩ đó. 

Nhưng ngôn ngữ quốc gia thì chỉ nên để một thứ tiếng là tiếng Việt. Đây còn là chuyện sâu xa về sự trường tồn và thống nhất của toàn dân tộc trên đất nước Việt Nam. 

Nhớ lại thời kỳ một ngàn năm Bắc thuộc, chính tiếng Việt đã đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giữ cho dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa. 

Mặt khác, thực tế của thế giới đã cho thấy, nhiều quốc gia giỏi ngoại ngữ hơn các nước khác nhưng vẫn không phát triển được, trong khi đó có những quốc gia không giỏi ngoại ngữ nhưng họ đã phát triển mạnh mẽ, thành cường quốc. 

Tình hình đó cho thấy, giỏi ngoại ngữ là một yếu tố quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia.

Ngoài ra, dạy tích hợp ở lớp dưới và phân hóa ở lớp trên là một chủ trương đúng. Cần tích cực thực hiện theo hướng này. 

Hà Lan là một trong những nước làm mạnh, làm sớm và họ đã có những kinh nghiệm trong vấn đề này. Cần nói rõ lợi hại thế nào để tạo ra sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội, không để do chưa nắm chắc được vấn đề mà có nhiều ý kiến thắc mắc là tại sao bỏ môn này và bỏ môn kia. 

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 16/03/2017

**************************

Bài 3

Thầy phải là người bạn lớn, bình đẳng, đồng hành cùng học trò đi tìm chân lý

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 15/03/2017

Đổi mới chương trình phải có cách tiếp cận khác, tiếp cận mới – tiếp cận việc xây dựng phẩm chất và phát triển năng lực. Nói gộp lại là nhân cách.

Sau khi bàn về triết lý và mục tiêu giáo dục, tiếp theo xin nói về đổi mới chương trình. Đó không phải là tất cả, nhưng là công việc lõi, quan trọng nhất của bất kỳ một cuộc cải cách giáo dục nào, nhất là đối với giáo dục phổ thông. 

Nước ta đang tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Trước đó cũng có ý kiến đề nghị dùng từ "cải cách", nó ngắn gọn hơn, rõ và dứt khoát hơn. Trong văn bản của Đảng và Nhà nước cũng đã từng có từ đó rồi. 

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng : "việc gì mà phải cải cách, giáo dục của ta cơ bản vẫn đúng hướng và tốt đó thôi, thành tích nhiều, nói cải cách hóa ra lâu nay mình làm kém quá sao".

Thậm chí còn có người thì ngại nói cải cách là nó "nhạy cảm". 

Nước ta lâu nay nhiều lúc đến khổ với cái quan niệm "nhạy cảm" kiểu này. Không phải đáng ngại như thế đâu. 

Trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp đã sử dụng từ "cải cách" rồi, có gì đâu mà phải ngại "nhạy cảm". Và đối với nền giáo dục Việt Nam, từ những năm 60 đã có Ban Nghiên cứu cải cách giáo dục. 

Nhưng thôi, không nên mất quá nhiều thì giờ để tranh luận "cải cách" hay "đổi mới". Đổi mới căn bản và toàn diện là nhiều lắm rồi, là ghê rồi. Đừng sợ ít. Căn bản là "gốc rễ" mà, lại còn toàn diện nữa. 

Theo tôi hiểu, đổi mới căn bản và cải cách là một, về bản chất giống nhau, dù với hai cách gọi khác nhau. 

Thực chất của cải cách giáo dục là cải cách về chương trình-việc chính yếu nhất, tôi nghĩ vậy. 

Trước đây, ta quan niệm chương trình rất đơn giản, chủ yếu là những nội dung được sắp xếp trước sau, với một lịch trình về thời gian nhất định. Đó là quan niệm chương trình theo cách tiếp cận nội dung. 

Lần này trong đổi mới chương trình phải có cách tiếp cận khác, tiếp cận mới – tiếp cận việc xây dựng phẩm chất và phát triển năng lực. Nói gộp lại là nhân cách, hoặc diễn đạt khác là năng lực Người. 

Sau đây xin viết gọn là "năng lực" được hiểu theo nghĩa là năng lực Người, bao gồm cả năng lực và phẩm chất.

Việc xây dựng chương trình theo cách tiếp cận phát triển năng lực là thể hiện sự nhất quán với việc xây dựng một nền giáo dục mà mục tiêu chính yếu là phát triển năng lực. 

Mấy năm nay ta thường nói là phát triển năng lực người học. Nói vậy không sai, nhưng chưa đủ. Còn phát triển cả năng lực của người dạy nữa. 

Đó là kết quả của sự tương tác giữa thầy và trò với phương pháp sư phạm mới là tôn trọng tư duy độc lập của học sinh.

Thầy không phải nắm độc quyền chân lý, rồi cứ thế áp đặt theo kiểu bề trên chỉ xuống, bắt phải thuộc lòng và ghi nhớ đầy đủ để nói và viết theo, không được sai câu chữ.

Thầy phải là người bạn lớn, bình đẳng và cùng đồng hành với học sinh trong quá trình đi tìm chân lý. 

giaoduc3

Phụ huynh chọn mua sách tại cửa hàng của Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam. Ảnh : Báo Nhân Dân.

Với đặc điểm của thời đại và xuất phát từ tình hình nước ta hiện nay, chương trình cần lưu ý cả những vấn đề mới như :

Toàn cầu hóa, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, kinh tế tri thức, kinh tế thị trường hiện đại và vấn đề khởi nghiệp của từng con người và của một quốc gia ; hay vấn đề lớn hơn nữa là công cuộc đổi mới ở tầm văn hóa, tiếp cận cho được các giá trị văn hóa (trong) phát triển. 

Chương trình là một công cụ sư phạm quan trọng nhất để người thầy dùng nó, thông qua nó, mà tác động vào học sinh nhằm phát triển năng lực của người học. 

Công cụ (sư phạm) này khác với các công cụ lao động khác ở chỗ nó phải phù hợp, tùy thuộc vào đối tượng mà nó tác động, sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất. 

Các công cụ khác cũng không phải không có yêu cầu này, nhưng ít hơn, không ở mức độ cao như chương trình giáo dục, vì chương trình giáo dục tác động vào đối tượng con người – một đối tượng thật tinh vi, thật hiện đại và rất nhạy cảm. 

Nếu công cụ tác động vào nó không phù hợp đối tượng thì chẳng những không có lợi gì, mà có khi còn hại lớn. Vì lẽ ấy mà bản thân tôi không nhất trí, không ủng hộ chủ trương cho nhập chương trình từ nước ngoài vào.

Nói như vậy không có nghĩa là không cần học hỏi cái hay của họ. Phải ra sức học hỏi thế giới, nhất là những nơi có nền giáo dục tiên tiến.

Nhưng học không đồng nghĩa với việc phải bỏ nhiều tiền ra để đi nhập khẩu chương trình của họ về dạy nguyên xi như vậy cho học sinh ta. 

Chương trình ấy họ làm ra để tác động vào đối tượng là học sinh nước họ - một đối tượng khác học sinh của ta, nhất là về văn hóa.

Một công cụ được làm ra để tác động vào đối tượng này thì ta lại dùng để tác động vào một đối tượng khác, mà phải tốn nhiều ngoại tệ để đi mua. 

Có lúc chúng ta đã tốn đến cả ngàn tỷ, mà phần nhiều là của ngân sách nhà nước.

Ta chỉ cần bỏ ra một ít tiền, mua sách tài liệu về đọc cho kỹ, xem thử tại sao họ làm như vậy, hiểu cho đúng bản chất và cơ sở khoa học, rồi ta tự làm ra chương trình của Việt Nam ta. 

Tại sao không thể ? Tại sao ta không đủ sức làm chương trình ? Hãy tự làm đi, để dành số tiền nhập chương trình ấy đầu tư cho việc làm chương trình. 

Đó cũng là cách đào tạo, để có một đội ngũ thầy cô giáo giỏi về làm chương trình, về khoa học giáo dục, cũng tức là tạo ra "thầy"- những cái "máy cái", vừa lợi mặt này vừa hiệu quả mặt kia.

Trước đây, năm 1956 nước ta đã có chủ trương nhập chương trình và sách giáo khoa của Liên-Xô và Trung Quốc về để dạy cho học sinh Việt Nam. 

Sau 4 năm thực hiện, năm 1960 thì thấy sai, năm 1961 phải có chủ trương cải cách mới về chương trình, trong đó có việc sửa sai vấn đề nhập chương trình.

Đối với phổ thông, tôi nhất trí theo cách, trước nhất phải có một chương trình tổng thể, tiếp theo sau đó là chương trình cụ thể cho từng cấp, từng môn học.

Cũng có thể không nhất thiết phải làm xong toàn bộ chương trình tổng thể rồi mới bắt tay làm chương trình cụ thể. 

Làm như thế có thể sẽ rất chậm và không có thông tin từ đề án cụ thể để bổ sung ngược lại cho đề án tổng thể. Tuy nhiên, đề án tổng thể phải đi trước một bước để hình thành cái khung, cái sườn.

Kết thúc phổ thông cơ sở cần giải quyết cơ bản xong phần trang bị kiến thức phổ thông và biết cách tự học, tự tìm tư liệu, hướng đến tư duy độc lập. Biết cách tự học, tự tìm tư liệu và tư duy độc lập là một trong những yêu cầu quan trọng nhất về năng lực của học sinh. 

Còn phổ thông trung học sẽ làm gì ? Sau khi hệ thống hóa để củng cố kiến thức phổ thông và cũng là để nâng cao năng lực (tổng hợp, hệ thống, tóm tắt, trình bày…) thì tập trung chủ yếu cho việc tiếp cận nghề nghiệp, như : 

Hướng dẫn cho học sinh có hiểu biết ban đầu về các loại nghề nghiệp phổ biến trong xã hội và các môn học liên quan đến ngành nghề ấy khi lên đại học, giúp các em có cơ sở định hướng nghề nghiệp trong tương lai để từ đó mà quyết định các môn học tự chọn theo hướng liên quan với nghề nghiệp mà các em dự định lựa chọn. 

Các môn học ở trung học phổ thông cần tiến gần với nghề nghiệp, hạn chế dần số môn bắt buộc và mở rộng dần số môn tự chọn. 

Sau một thời gian nhất định, nên chuyển tất cả các môn học sang tự chọn và thời gian học có thể ngắn hơn đối với học sinh giỏi, khi họ giải quyết xong khối lượng công việc cần hoàn thành của chương trình.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 15/03/2017

************************

Bài 2

Không làm rõ, nắm chắc triết lý, mục tiêu giáo dục, đổi mới sẽ mất phương hướng

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 14/03/2017

Vấn đề "nhạy cảm" chính là những vấn đề mà cuộc sống đang cần, đang đòi hỏi phải sớm có câu trả lời. Xác định vấn đề "nhạy cảm" không phải là để tránh né nó.

Tiếp theo mạch bài trước, đánh giá lại 4 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, trong bài viết hôm nay trước tiên xin trao đổi một số ý kiến liên quan đến triết lý và mục tiêu giáo dục. 

Đành rằng công việc đổi mới giáo dục cuối cùng thì phải rất cụ thể và thiết thực, chứ không phải là những lý thuyết chung chung trừu tượng, nói không sai nhưng không biết làm thế nào cho đúng. 

Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc về triết lý và mục tiêu giáo dục mà nếu không làm rõ, không nắm chắc thì cuộc đổi mới dễ mất phương hướng. 

Thậm chí là mất công sức và tốn tiền bạc để thay đổi đủ thứ, rối cả lên, vừa đi xuôi vừa đi ngược, cuối cùng thì mục đích vẫn không đạt được, và cuộc đổi mới không thành công. Dân tộc này, đất nước này lại tiếp tục mất cơ hội. 

Phương pháp xác định triết lý, mục tiêu giáo dục

Hàng nghìn năm nay, các nhà triết học, văn hóa và giáo dục đã nhiều lần bàn, và nay vẫn tiếp tục bàn chứ không phải đã xong. 

Câu hỏi đầu tiên thường được nêu ra là : "Mục đích của giáo dục để làm gì ?". Giáo dục để hình thành "con người", sản phẩm của giáo dục là "con người" – điều đó thì hầu như ai cũng thống nhất. 

Nhưng cần tạo ra "con người như thế nào" thì từ xưa đến nay vẫn luôn có những ý kiến khác nhau. Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể và do góc nhìn, cách tiếp cận khác nhau, nên đã có rất nhiều quan điểm không giống nhau. 

Và nhờ sự không giống nhau ấy mà ta có cách nhìn đa chiều, phong phú và sâu sắc thêm, liên tục hoàn thiện tư duy trên con đường đi tìm chân lý, trong một thế giới, một thời đại vận động không ngừng, liên tục biến đổi và tiến lên. 

Nói điều này cũng để thấy rằng, không phải nói một lần, với ý kiến của ai đó, thế là xong rồi, là chân lý mãi mãi rồi, cứ thế mà quán triệt, ghi nhớ và làm theo, không phải mất thì giờ bàn nữa. 

Đây là việc cần có cách nhìn mở, cần có phản biện và thảo luận thẳng thắn, thông tin nhiều chiều. 

Trong bất kỳ thời đại nào cũng vậy, ở bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, đã là con người thì vẫn có, đều có những đặc tính nhất định giống nhau, ổn định bền vững, bởi đó là "con người", chứ không phải là con gì khác. 

Đồng thời, trong mỗi thời đại, con người còn có những đặc điểm riêng mang dấu ấn của thời đại ấy. Thời đại khác nhau thì nhất định sẽ có con người khác nhau. 

Đương nhiên rồi, nhưng không riêng thời đại đâu, mà cộng đồng dân tộc, môi trường tự nhiên và văn hóa, điều kiện xã hội khác nhau cũng hình thành nên con người khác nhau. 

Mặt khác, trong cấu tạo tự nhiên ở các vùng vỏ não của con người nói chung không ai giống ai.

Vậy nên, tư duy cực đoan muốn bắt con người nhất định phải thế này hoặc thế kia, phải giống nhau đồng loạt, phải theo một ý muốn từ bề trên nào đó tạo ra, đều là sai lầm, đều làm mất động lực tiềm ẩn và lớn lao nhất, đều là kìm hãm sự phát triển của con người. 

Có nhà nghiên cứu cho rằng không có học sinh kém mà chỉ có học sinh giỏi việc này và không giỏi việc khác. Nhiệm vụ của người thầy là phát hiện cho được ở em nào đang tiềm ẩn năng lực có thể giỏi thứ gì để giúp cho nó phát triển tốt nhất theo hướng ấy. 

Từng học sinh cần phải được phát triển một cách tự nhiên, "tự do", không bị gò ép theo tư duy chủ quan của người khác. 

Ngược lại, nếu cho rằng, con người cứ phát triển một cách tự phát, tùy hứng, không cần có những giá trị chung (làm chuẩn) về nhân cách thì cũng sẽ là sai lầm "chết người", vì chính sự tự phát ấy sẽ phá vỡ nền tảng văn hóa, cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. 

Mỗi con người là một thế giới riêng, không ai giống ai ; và mặt khác, họ đều là thành viên của một cộng đồng cùng loại. 

Triệt tiêu hoặc làm lu mờ vai trò của cá nhân sẽ làm mất động lực phát triển. Quên tư cách thành viên của cộng đồng sẽ làm hư hỏng hoặc rạn nứt nền tảng văn hóa. 

Từ những cá nhân được hoàn toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do, phát triển tối đa theo các thế mạnh của mình, cộng lại sẽ có một cộng đồng dân tộc với sức mạnh của cấp số nhân. 

Mặt khác, như chúng ta đã biết, con người khi mới sinh ra là một thực thể tự nhiên, sau đó nhờ cộng đồng, sống và gắn bó với cộng đồng, mà họ trở thành Người. 

Bài học kinh nghiệm từ phương Tây, Nhật Bản

Xã hội phương Đông, với hàng nghìn năm chế độ phong kiến, con người cá nhân bị kìm hãm, không được giải phóng, đó là nguyên nhân quan trọng hàng đầu làm đất nước tụt hậu. 

Trước đó, phương Tây đã có thời kỳ chìm trong chế độ thần quyền, có nhiều mặt phát triển kém phương Đông, ai nói khác giáo hội có thể bị đưa lên dàn hỏa thiêu. 

Nhưng sau đó, phương Tây đã biết thế tục hóa, "phục hưng" và "khai sáng", giải phóng tự do cá nhân, họ phát triển vượt lên phía trước, bỏ phương Đông lại phía sau, cách xa họ cả một nền văn minh.

Trong giai đoạn sau đó của lịch sử, một số nước ở phương Đông đã ý thức được điều đó và họ đã quyết tâm triển khai những cuộc cải cách lớn theo hướng tích cực và chủ động tiếp thu có chọn lọc những yếu tố hợp lý từ phương Tây. 

Những nước phương Đông ấy cũng đã phát triển vượt lên. Một trường hợp đáng nghiên cứu tham khảo là nước Nhật. 

Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Hoàng và các nhà lãnh đạo thông minh của nước Nhật nhận thức sâu sắc được tình hình và nguyên nhân tụt hậu so với phương Tây, đã đi đến một quyết định lịch sử mạnh mẽ là tiến hành một cuộc đại cải cách để phát triển nước Nhật. 

Công cuộc ấy đã bắt đầu bằng việc cho dịch, in, phát hành các tác phẩm nổi tiếng của phương Tây bàn về tự do và cử đoàn chuyên gia gồm nhiều người tài giỏi của nước Nhật đi nghiên cứu học tập kinh nghiệm phát triển của Châu Âu, nhất là kinh nghiệm của nước Đức.

Qua những điều vừa trình bày, tôi mong muốn được chuyển đến bạn đọc để tham khảo một ý kiến rằng, trong công cuộc đổi mới căn bản nền giáo dục hiện nay, việc quan trọng hàng đầu là giải phóng con người khỏi các tư duy lạc hậu, kìm hãm tự do cá nhân, để thật sự trở thành người tự do, có thể phát triển tối đa những năng lực tiềm ẩn, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.

Năng lực Người, nền tảng của triết lý giáo dục

Đặc tính quan trọng hàng đầu cần có ở con người là gì ? Đó là tính trung thực, lòng nhân ái và năng lực (tư duy và hành động). 

Văn hóa là những giá trị thuộc về con người. Không trung thực sẽ không có tự trọng và không biết xấu hổ. Khi con người biết xấu hổ là lúc văn hóa bắt đầu. Nhờ biết xấu hổ mà con người đã dùng lá nho để che thân. Từ đó, văn minh bắt đầu. 

giaoduc4

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trong phiên trả lời chất vấn của Quốc hội ngày 16/11/2016, trong đó có Đại biểu Quốc hội nêu câu hỏi về triết lý giáo dục của Việt Nam, ảnh : Báo Chính phủ.

Trong một gia đình, một tập thể, một cộng đồng mà bao gồm nhiều con người sống không trung thực thì thật đáng sợ. Trong một môi trường trung thực và minh bạch sẽ không có chỗ ẩn nấp của các thói xấu và các thủ đoạn. 

Lòng nhân ái cũng là nền tảng của văn hóa cộng đồng. Văn hóa là sống. Sự sống của con người. Cách sống và cuộc sống.

Con người ta sống với nhau trước tiên là bằng lòng nhân ái. Khi lòng nhân ái không còn thì đó là môi trường phát triển của cái ác, con người sẽ không còn là con người, sẽ không phải là bạn của nhau. 

Năng lực tư duy và năng lực hành động là cái cần thiết để con người nhận thức và cải tạo thế giới. Năng lực và sự sáng tạo là bạn đồng hành. Năng lực là để sáng tạo. Và sự sáng tạo làm cho năng lực phát triển hơn lên. 

Năng lực là cái tự nó. Không thể ban phát, không thể vay mượn, không thể áp đặt. Khi nói đến năng lực Người, theo nghĩa của chữ Người viết hoa, là bao hàm cả phẩm chất, trong đó có tính trung thực và lòng nhân ái. 

Như phần đầu đã nói, sản phẩm của giáo dục là con người. Nói cô đọng và cụ thể hơn, đó là năng lực Người. 

Cần tạo ra những con người thật sự có năng lực của chính mình, để họ tự quyết định mọi thứ, chứ không phải là tạo ra những con người chỉ biết thừa hành như một công cụ của người khác, do người khác áp đặt tư duy. 

Đổi mới giáo dục cần giải quyết cho được những vấn đề "nhạy cảm" một cách khoa học, thực chứng

Để năng lực Người có thể phát triển một cách tự nhiên, không bị biến dạng, thì người học và người dạy đều phải là những con người tự do. Tự do thật sự. Tự do với chính mình. Tự do trước người khác. Tự do trước quyền lực và mọi sự áp đặt. 

Trong tự do, trước nhất là tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của mình. Không có tự do thật sự thì con người chẳng những không phát triển được năng lực, mà cũng không thể xây dựng được tính trung thực. 

Khoa học tâm lý đã từng cho biết, nói dối trong rất nhiều trường hợp cũng là một "cơ chế tự vệ" khi con người không có quyền tự do. 

Khi không có tự do, con người sẽ không thể phát triển đầy đủ năng lực tư duy độc lập. Khi không có tư duy độc lập thì con người cũng thiếu sức đề kháng về văn hóa, trở thành thụ động, dễ bị các thói hư tật xấu xâm nhập và hủy hoại. 

Chính điều này đã cho thấy vai trò to lớn của tự chủ đại học và tự do học thuật trong công cuộc đổi mới giáo dục. 

Đối với những quốc gia có một nền giáo dục đại học phát triển, thì tự do học thuật là chuyện rất bình thường, đương nhiên, như vốn có của giáo dục đại học theo đúng nghĩa. 

Ở Việt Nam ta, chuyện tự do học thuật đến nay vẫn chưa quen, thậm chí còn không ít ý kiến khác nhau, kể cả cho rằng có cần thiết hay không cần thiết. 

Chưa quen thì phải làm quen ! Đây là việc rất cần thiết, nếu muốn dân tộc ta phát triển.

Cũng có ý kiến ngại đụng đến những vấn đề "nhạy cảm" trong chính trị, nếu như mở rộng tự do học thuật. 

Đó là cách tư duy sai lầm. Giống như ngại ánh sáng. Trong khi ánh sáng mới chính là nguồn sống và sự phát triển của tư duy khoa học. 

Cái gì đã đúng, đã có cơ sở khoa học, thì trong tự do học thuật nó càng được khẳng định, càng có sức sống. Cái gì chưa đủ cơ sở khoa học thì trong tự do học thuật nó sẽ sớm được phát hiện, được bổ sung, điều chỉnh để phù hợp hơn, tránh được những sai lầm. 

Những vấn đề "nhạy cảm" chính là những vấn đề mà cuộc sống đang cần, đang đòi hỏi phải sớm có câu trả lời. Xác định vấn đề "nhạy cảm" không phải là để tránh né nó, mà ngược lại là để "xông vào", hiểu nó đến cùng, và có lời giải để đáp ứng cho yêu cầu của cuộc sống.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 14/03/2017

*************************

Bài 1

Đổi mới giáo dục và món nợ với cha ông"

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 13/03/2017

Nếu không có cách làm tốt hoặc né tránh bản chất của vấn đề thì sẽ không thay đổi được. Làm một hồi, vất vả và tốn kém, nhưng cuối cùng thì vẫn như cũ.

Đối với nước ta hiện nay, phát triển là mục tiêu quan trọng nhất. Mà không chỉ hiện nay, đây là câu chuyện vẫn còn nợ của mấy ngàn năm lịch sử. 

Món nợ với cha ông

Ông cha ta rất anh hùng trong đấu tranh giữ nước. Với một hoàn cảnh lịch sử hết sức khó khăn như vậy, phải đương đầu với các thế lực xâm lăng mạnh hơn ta rất nhiều lần, nhưng cha ông đã đủ bản lĩnh và mưu trí, giữ vững nền độc lập cho dân tộc và cơ bản toàn vẹn lãnh thổ non sông. 

Thật sự đáng tự hào về truyền thống ấy.

Nhưng mặt khác, cho đến nay, qua mấy ngàn năm lịch sử, với thời gian hòa bình xây dựng vẫn nhiều hơn gấp bội so với thời gian chiến tranh, người Việt Nam ta vốn cần cù lao động chăm chỉ và hiếu học, có nhiều người học giỏi và thông minh, nhưng đến nay vẫn tụt hậu, chưa thành một dân tộc và quốc gia phát triển. 

Không phát triển thì độc lập dân tộc đã giành được bằng rất nhiều công sức và máu xương sẽ không giữ được và Chủ nghĩa xã hội cũng không bao giờ có thể đạt tới trên thực tế. 

Đối với sự phát triển của một quốc gia, thì trước tiên và quan trọng nhất là sự phát triển của con người - từng con người, những con người, và cả một dân tộc. 

Khi có một cộng đồng phát triển thì đất nước tất yếu cũng sẽ phát triển, vì đất nước là sản phẩm của con người, con người sẽ tạo ra đất nước như thế này hoặc thế kia. 

Để dân tộc và đất nước có thể phát triển bền vững, việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà là việc quan trọng số một, không gì bằng.

Khi nói đổi mới giáo dục là quan trọng nhất, chắc sẽ có ý kiến chưa đồng tình. 

Có người sẽ nói kinh tế còn quan trọng hơn, kinh tế là trung tâm, vật chất quyết định ý thức, phải "có thực mới vực được đạo", hoặc chính trị quan trọng hơn nữa, đó là "then chốt", hoặc văn hóa mới là quan trọng nhất, vì đó là "nền tảng". 

Ý kiến nào cũng có những lý lẽ hùng hồn.

Đều đáng lắng nghe cả.

Lắng nghe và suy ngẫm. 

Tuy nhiên, đổi mới giáo dục mới là quan trọng nhất.

Bởi lẽ, chính công việc ấy, chứ không phải cái gì khác, nếu làm tốt thì sau một thời gian, không phải dài lắm, nó có thể tạo ra một dân tộc Việt Nam "mới" ở tầm cao hơn hẳn hôm nay, kể cả phẩm chất và năng lực. 

Còn mọi việc về xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, một nền văn hóa giàu tính nhân văn, một chế độ xã hội tốt đẹp, một cách quản trị quốc gia thông minh nhất, một hệ thống chính trị trong sạch, không tham nhũng…cũng đều quan trọng cả, chẳng có cái nào là không quan trọng.

Nhưng tất cả những việc quan trọng ấy đều do những con người (với đẳng cấp cao hơn) giải quyết, đều là sản phẩm của con người, của một dân tộc ở tầm cao mới ấy.

Những bất cập trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 29/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà đã chính thức có chủ trương cách đây ba năm với một nghị quyết của Trung ương khóa XI - Nghị quyết 29. 

Nghị quyết ấy được nhiều người, kể cả các chuyên gia trong nước và chuyên gia nước ngoài (như nhóm các nhà khoa học Đức…) đánh giá cao, cho rằng nó có nhiều nội dung rất tiến bộ, phù hợp thời đại. 

Theo tôi, nội dung khoa học của Nghị quyết tuy chưa phải đã đạt yêu cầu tốt nhất đối với tất cả mọi vấn đề, khi thời gian đi qua, sẽ có những nội dung phải thay đổi, nhưng riêng linh hồn của nó-giá trị cốt lõi của Nghị quyết ấy thì sẽ sống lâu dài với thời gian, như một dấu mốc tiến bộ trong tư duy.

Nhưng không phải ra Nghị quyết là xong. Quan trọng hơn là thực hiện Nghị quyết ấy như thế nào. 

Rất tiếc là, cho đến nay, việc triển khai thực hiện Nghị quyết có nhiều việc chưa đạt yêu cầu. 

Việc tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu thêm để nhận thức thật rõ yêu cầu chính yếu của công cuộc đổi mới, trên cơ sở đó mà tiếp tục đề ra những giải pháp cụ thể và tổ chức thực hiện một cách tích cực, có bài bản, chúng ta chưa quan tâm đúng mức và thực hiện chưa đạt yêu cầu. 

Cho đến nay, bốn năm rồi, vẫn chưa có một đề án tổng thể về chuyên môn, trong khi đó đã thực hiện một số việc cụ thể. 

Cứ cho rằng khẩn trương làm một số việc cụ thể ấy là cần thiết và tích cực đi, nhưng rất tiếc là đối với các công việc đã triển khai thì có việc đi xuôi, có việc đi ngược, hoặc nửa vời, hoặc hình thức, không thực chất và không vững chắc. 

Vừa đi xuôi vừa đi ngược thì cũng có nghĩa là có biểu hiện chệch choạc, chưa nhất quán, nắm không chắc vấn đề (xin sẽ trình bày rõ hơn trong các vấn đề cụ thể sau). 

Đổi mới nền giáo dục là công việc hết sức hệ trọng và cần thiết hiện nay, kể cả cấp bách nữa, đồng thời cũng là công việc khó bậc nhất. Nếu không đủ tâm huyết thì sẽ không làm được. 

Nói chung nó chỉ đem lại lợi ích cho người học, cho phụ huynh và cho xã hội, chứ không trực tiếp tạo ra thu nhập đối với những người làm công việc quản trị (thậm chí nhiều việc còn bị giảm thu nhập so với kiểu quản lý hiện nay). 

Vì thế, nó không có "động lực" vật chất cho những người trực tiếp tổ chức thực hiện Nghị quyết. Đòi hỏi phải rất thiện tâm đối với công việc. 

Nó là việc khó, đòi hỏi phải sâu và có kiến thức tổng hợp, nên rất cần được thảo luận kỹ, thảo luận một cách công khai và phải có một "bộ lọc" tốt, biết cách lắng nghe và lựa chọn phương án tốt nhất. 

Nếu không có cách làm tốt hoặc né tránh bản chất của vấn đề thì sẽ không thay đổi được. Làm một hồi, vất vả và tốn kém, nhưng cuối cùng thì vẫn như cũ. Lại một lần nữa đánh mất cơ hội phát triển của dân tộc.

Các nhà lãnh đạo và quản lý cấp trung ương thì bận quá, không giành thời gian thỏa đáng cho công cuộc đổi mới giáo dục này, dù rằng đây là việc lớn và quan trọng nhất như tôi hiểu, trong khi đó thì nhiều cuộc khởi công và khánh thành công trình này, công trình kia, dự án này, dự án khác cũng được nhiều đồng chí quan tâm đến dự. 

Trong Nghị quyết có nói đến việc phải có một Ủy ban Quốc gia về đổi mới giáo dục. Đó là việc rất cần. Cần một ủy ban tâm huyết với giáo dục và làm việc thật nghiêm túc.

Vì rằng, sẽ phải giải quyết nhiều việc có tính chất liên ngành mà một Bộ không giải quyết nổi, ngay cả đối với Chính phủ cũng có việc sẽ bị vượt thẩm quyền mà phải xin ý kiến Quốc hội, có việc còn liên quan đến bên Đảng nữa.

Ủy ban ấy đã được thành lập mấy năm rồi, nhưng nhìn chung hầu như không có hoạt động gì. Có họp vài lần theo kiểu hành chính, nêu tên một số công việc, vậy thôi. 

Nếu không hoạt động tích cực và làm việc theo kiểu hành chính như vậy thì cũng chẳng cần cái Ủy ban ấy. 

Các nhóm chuyên gia thì nhìn chung, trong một thời gian dài, không hoạt động, mặc dù công việc này rất cần họ hoạt động thường xuyên với cường độ cao trong một thời gian nhất định. 

Hơn hai mươi năm trước, Hàn Quốc đã tiến hành cải cách giáo dục, lúc ấy họ lập ra một ủy ban do Tổng thống làm chủ tịch và huy động 800 nhà khoa học trực tiếp tham gia. 

Ngày nay có công nghệ thông tin để giúp cho việc thảo luận, ta không nhất thiết phải huy động nhiều như thế, nhưng cũng không thể là ít, càng không thể không có, đây là việc lớn và khó. 

Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan tham mưu chính cũng còn tỏ ra rất lúng túng. 

Bản thân ngành giáo dục chưa thấy có tổng công trình sư về khoa học giáo dục, mỗi người một vài lĩnh vực, một số vấn đề, mới nhìn theo góc độ cụ thể nào đó thì thấy đúng, nhưng khi khớp nối vào trong tổng thể thì không ít ý kiến mâu thuẫn nhau.

Trong khi đó, các chuyên gia cũng không được tổ chức lại để thảo luận, mỗi người nói một khía cạnh, nhiều ý kiến khác nhau không được trao đổi đến cùng, trong đó không ít ý kiến theo kiểu kinh nghiệm của giáo dục chưa đổi mới.

Những việc quan trọng chưa làm được để thực hiện Nghị quyết 29

Xin điểm lại một số việc quan trọng để thấy rõ hơn tình hình. 

Trước nhất, điểm lại việc đổi mới chương trình. Chương trình tổng thể và chương trình cho từng cấp, từng môn học. Trong đó có việc đổi mới về mục tiêu, chuyển mạnh từ nền giáo dục chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục xây dựng nhân cách, phát triển năng lực. 

giaoduc5

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (bên trái) trò chuyện với nhà báo Đào Ngọc Tước, Phó Tổng biên tập Báo điện tử Giáo dục Việt Nam tại nhà riêng, ảnh Hồng Thủy.

Ban đầu có chỉ đạo thực hiện khá tích cực, được một thời gian sau đó thì "đắp chiếu" nằm yên.

Người thì nói không có kinh phí, người khác lại cho biết là Bộ Tài chính đã có dự kiến bố trí ngân sách nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì chờ đợi vốn vay. 

Gần đây, sau khi có ý kiến tích cực từ phía Quốc hội yêu cầu phải triển khai theo kế hoạch đã dự kiến thì công việc mới khởi động trở lại.

Được biết chương trình tổng thể mới gần xong dự thảo ban đầu để đưa ra thảo luận, còn chương trình môn học thì còn rất nhiều vấn đề, hầu như chưa đi được bước nào đáng kể. 

Việc tự chủ đại học có bàn một ít, rồi cũng dừng ở đó, gần đây Chính phủ có khởi động lại. Tự do học thuật hầu như chưa đụng đến, còn né tránh, có phần ngại đụng đến những vấn đề nhạy cảm. 

Vấn đề liên thông và phân luồng là một chủ trương quan trọng vẫn chưa có giải pháp gì mới. Hệ thống giáo dục mở và thực học hầu như chưa có tiến triển gì, thậm chí có việc còn đi ngược, cắt khúc hệ thống ra, trở ngại hơn đối với liên thông và phân luồng. 

Chính sách thúc đẩy khu vực ngoài công lập, nhất là đối với loại trường phi lợi nhuận, chưa có cải tiến gì, vẫn theo cái cách làm cho nó không thể ra đời được, hoặc nếu đã ra đời thì trước sau gì cũng "chết".

Đổi mới sư phạm nhìn chung chưa chuyển động, mà cũng phải thôi, vì chương trình mới chưa có.

Mặc dù cũng có thể ghi nhận đây đó, cơ sở này cơ sở kia, đã có một số chuyển động ban đầu về đổi mới cách dạy, cách học, nhưng nhìn chung còn rất ít và chủ yếu là tự phát. 

Chính sách và cách phân bổ tài chính đối với giáo dục chưa có gì tiến bộ đáng nói. 

Một số trường đại học đã có những cố gắng rất đáng khích lệ và rất cần tạo điều kiện, kể cả trợ giúp. Họ đã tự làm một cách tâm huyết và vất vả, trong điều kiện chỉ đạo từ trên không thật tích cực và không rõ ràng.

Đấy, tình hình theo chỗ tôi nắm được là như vậy. Việc làm được rất "khiêm tốn", ít ỏi, vẫn đang còn trong lùng bùng, có đi xuôi và có đi ngược, chưa rõ lối. 

Nếu tôi nói như vậy là không đúng thực tế thì đáng mừng ! Nhưng tiếc rằng, tôi cũng đã theo dõi, cố gắng tìm kiếm, nhưng vẫn chưa thấy được những kết quả nhiều hơn, mặc dù luôn mong muốn như vậy.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 13/03/2017

Additional Info

  • Author Vũ Ngọc Hoàng
Published in Diễn đàn

Làm sao để gây dựng những thế hệ có tinh thần lành mạnh trong cơ thể khỏe mạnh là một vấn đề thực sự quan trọng, cần kíp.

"Vấn đề đổi mới giáo dục thể chất, thể thao trong trường học không phải lần đầu đặt ra nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Đây phải là một nội dung quan trọng của đổi mới chương trình, sách giáo khoa lần này, phải làm quyết liệt, trở thành nhận thức của lãnh đạo ngành giáo dục, thể thao. Giáo dục là toàn diện Đức - Trí - Thể - Mỹ… Cách dạy, cách học môn thể dục phải thay đổi để không còn là giờ học nhàm chán" [1]

Đây là nội dung được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh trong buổi làm việc vừa mới đây với lãnh đạo Bộ Giáo dục và đào tạo.

Là phụ huynh của hai em nhỏ đều đang học phổ thông, tôi rất chia sẻ với những trăn trở này. Bởi thiếu không gian, thiếu những hoạt động vận động hấp dẫn bọn trẻ đang là vấn đề chung mà xã hội phải đối mặt. Trong khi đó, giáo dục thể chất trong nhà trường đến nay hầu như vẫn còn mang tính hình thức. Tiếp tục như vậy, bài tóan cải thiện tầm vóc, thể chất người Việt đến bao giờ mới giải được ?

Thiếu không gian...

Bọn trẻ ngày nay được cải thiện rất nhiều về vật chất, nhưng lại đối mặt với một vấn đề không có chỗ chơi, quá nhiều phương tiện làm chúng không muốn chơi ngoài trời nữa. 

Như phường tôi ở chẳng hạn, vốn dĩ đã rất ít khoảng không dành cho cộng đồng, nay do nhu cầu bãi trông giữ xe mà ao làng còn bị rào lại. Rất may là từ khi thi công xong, chắc do có ý kiến của các cụ cao tuổi mà đến nay chính quyền vẫn đắn đo chưa đưa nó vào hoạt động.

Đây có lẽ là tình trạng chung của toàn thành phố chứ không riêng gì phường nào quận nào. Đất chật, người đông…, để chen vào thành phố ở người ta phải hi sinh nhiều thứ, mà trước hết là khoảng không để đi dạo, hít thở, vận động. Vì thế, trẻ em muốn được chơi ngoài trời, cũng phải đi khá xa, và với giao thông đông đúc không mấy trật tự của thành phố, lại đòi hỏi phải có người lớn đưa đi.

Bọn trẻ bây giờ cao lớn hơn thế hệ chúng ta, nhưng lại dễ mắc thừa cân, béo phì, do thừa dinh dưỡng, thiếu vận động. Thỉnh thoảng xem những bức ảnh lễ khai giảng hay các chương trình giải trí thiếu nhi, chúng ta dễ dàng nhận ra điều này, khi có khá nhiều "bé mập". Ngay đến lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh, ông Đinh La Thăng cách đây vài ngày cũng chia sẻ "trăn trở vì học sinh béo phì quá nhiều".

Cận thị thực sự thành "nạn", có những lớp học quá nửa số học sinh bị cận, kể cả những cháu bị cấm gần như hoàn toàn với tivi và thiết bị điện tử. Phải chăng đây cũng là do sự mất cân bằng giữa học tập và vận động, mắt các em ít tiếp xúc không gian ngoài trời, nơi có nắng, gió đặc biệt có cây xanh… ?

Thời còn đi học, chúng ta thường xuyên có những buổi lao động tập thể, cắt cỏ, đào hố… Còn bọn trẻ bây giờ chắc cả năm có một vài buổi trải nghiệm ở trang trại nào đó, ngó nghiêng cho biết là chính và đương nhiên do phụ huynh chi tiền.

hocgioi1

Các hoạt động thể dục thể thao rất cần cho thế hệ trẻ. Ảnh minh họa : Lễ khai mạc Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ IX năm 2016. Ảnh : Dân trí

...thiếu cả thời gian 

Trong khi đó tại các trường học, thể thao, giáo dục thể chất vẫn chưa được coi trọng đúng mức hoặc còn nặng tính hình thức. Con cái chúng ta đến trường, có giờ học thể dục và cũng… hết ! Hầu như không có các phong trào chơi thể thao đến mức tiệm cận chuyên nghiệp, "màu cờ sắc áo," trò nào thích chơi gì về tự chơi, bố mẹ phải tự lùng sục đi tìm xem có câu lạc bộ nào để con chơi môn đó trong thành phố hay không… Không khó hiểu khi Việt Nam hiếm những học sinh, sinh viên vừa học xuất sắc vừa là vận động viên thể thao.

Còn nhớ mấy năm trước, sau thất bại của thể thao Việt Nam tại Olympic London, có vị nguyên lãnh đạo tổng cục Thể dục thể thao đã nhìn nhận : "Thể thao trường học ở Việt Nam kém nhất Đông Nam Á" [2]

Gần đây thể thao học đường có vẻ được quan tâm hơn, nhưng lại cũng có bất cập riêng. Một số giải thể thao mở ra chủ yếu phục vụ cho nhu cầu kiếm thêm điểm cộng để các cháu vào lớp 10, nghĩa là một hướng phát triển rất phi thể thao. 

Và cuối cùng là vấn đề là thời gian nào để vận động, chơi thể thao ? Như hai con tôi luôn luôn bị giục học tập trung, hoàn thành bài cho nhanh còn có thời gian chơi, đọc sách… nhưng lượng bài vẫn quá nhiều. Không chỉ vậy, bài của cháu còn rất khó, thầy cô giao những bài ngoài chương trình của bộ, và buộc cháu phải đi học thêm mới giải quyết được những "pháo đài" đó.

Làm sao để gây dựng những thế hệ có tinh thần lành mạnh trong cơ thể khỏe mạnh là một vấn đề thực sự quan trọng, cần kíp. Bởi học giỏi nhưng yếu ớt về thể chất, leo cầu thang không nổi thì giỏi để làm gì ? 

Phúc Lai

Nguồn : VietnamNet, 26/02/2017

[1] "Giáo dục thể chất cần phải thay đổi để không còn là giờ học nhàm chán", Tin Tức, 21/02/2017.

[2] "Thể thao trường học ở Việt Nam kém nhất Đông Nam Á", Tuổi trẻ, 15/08/2012.

Additional Info

  • Author Phúc Lai
Published in Diễn đàn