Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công bố Sáng kiến Một Vành đai và Một Con đường vào năm 2013. Với kế hoạch phát triển hạ tầng và giao thông toàn cầu này, Bắc Kinh muốn thúc đẩy kết nối giữa Trung Quốc với các quốc gia ở các Châu lục trên toàn thế giới. Gần 150 quốc gia, tức khoảng 75% dân số toàn cầu, đã tham gia sáng kiến này.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đưa ra sáng kiến Vành đai và Con đường cách đây một thập kỷ, sẽ tới thăm Việt Nam vào tuần tới.
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, chiếm vị trí trung tâm trên bản đồ Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Theođánh giá của trung tâm nghiên cứu Mỹ Council on Foreign Relations, Đông Nam Á là nơi hội tụ của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và là "yết hầu chiến lược" cũng như rất quan trọng với uy thế là một cường quốc trên thế giới của Trung Quốc.
BRI, hay "Con đường tơ lụa của thế kỷ 21", được xem là một chiến lược lâu dài của Trung Quốc để tăng cường sự ảnh hưởng của nước này trong khu vực bằng cách cung cấp cho các quốc gia Đông Nam Á hỗ trợ và đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong khi một số nước trong khu vực đã hồ hởi đón nhận nguồn tài trợ BRI nhưng, theo các nhà phân tích, Việt Nam có một cách tiếp cận thận trọng.
"Việt Nam ủng hộ sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc và các lãnh đạo Việt Nam thường xuyên tham dự các diễn đàn vành đai và con đường do Trung Quốc tổ chức", Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, nhận định. "Tuy nhiên về mặt thực tiễn, Việt Nam không tích cực tham gia vào các dự án trong khuôn khổ BRI hay tiếp nhận các khoản đầu tư trong khuôn khổ sáng kiến này".
Trung Quốc cho rằng hai nước Trung-Việt đang tích cực triển khai việc kết nối và hợp tác giữa "Một vành đai, một con đường" với "Hai lành lang, một vành đai". Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, Hùng Ba, hồi tháng 11/2021nói rằng đã có một loạt dự án hợp tác lớn giữa Trung Quốc và Việt Nam được đưa vào khuôn khổ hợp tác BRI, trong đó có tuyến đường sắt Cát Linh-Hà Đông.
Ngoài tuyến đường sắt Cát Linh-Hà Đông gây tranh cãi, Trung Quốc còn xếp nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1 ở Bình Thuận vào danh sách các dự án BRI, được xem là "đếm trên đầu ngón tay", ở Việt Nam.
Thận trọng
Tuy nhiên, Việt Nam không chính thức xác nhận một dự án nào thuộc về BRI.
"Điều này cho thấy tâm lý và thái độ thận trọng của Việt Nam trong việc tiếp nhận các nguồn vốn, các khoản vay qua các kênh chính thức từ phía Trung Quốc", Tiến sĩ Hiệp, một nhà phân tích chính trị về Việt Nam và khu vực, nói.
Cùng nhận định, nhà nghiên cứu cao cấp của Chương trình Đông Nam Á tại Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ở Washington của Mỹ, Murray Hiebert, cho rằng Việt Nam không muốn nhận các dự án BRI.
"Sự hoan nghênh của Việt Nam đối với BRI chỉ mang tính ngoại giao nhằm xoa dịu Trung Quốc", ông Hiebert, tác giả cuốn sách "Dưới cái bóng của Bắc Kinh : Thách thức về Trung Quốc của Đông Nam Á", nói. "Hà Nội không thực sự quan tâm tới các dự án trong khuôn khổ BRI cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng".
Theo nhận định của các nhà phân tích, nguyên nhân lớn nhất cho sự thận trọng của Việt Nam với các dự án BRI của Trung Quốc là sự bất đồng giữa hai nước về vấn đề chủ quyền biển đảo.
"Việt Nam và Trung Quốc hiện đang là các bên tranh chấp trên Biển Đông vì vậy Việt Nam rất thận trọng để tránh rơi vào tình huống Việt Nam vay nợ quá nhiều từ phía Trung Quốc", Tiến sĩ Hiệp nói. "Việt Nam có thể rơi vào tình thế mang ơn Trung Quốc và không thể có sự độc lập trong việc chống lại các sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông".
Hai quốc gia cộng sản láng giềng, mặc dù gắn kết về hệ tư tưởng, nhưng có nhiều xung đột về lãnh hải, đặc biệt trong những năm gần đây. Việt Nam nhiều lần cáo buộc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền khi đưa tàu vào vùng đặc quyền kinh tế cũng như tiến hành quân sự hóa Biển Đông.
"Việt Nam không muốn bị mắc nợ Trung Quốc trong các công trình cơ sở hạ tầng quan trọng vào thời điểm mà hai nước có những khác biệt sâu sắc trên Biển Đông", ông Hiebert nói.
Sự thận trọng của Việt Nam trong việc tiếp cận nguồn vốn của Trung Quốc còn được thể hiện qua việc Hà Nội từ chối khoản vay của Bắc Kinh cho việc xây dựng tuyến đường cao tốc Vân Đồn-Móng Cái và không cho tập đoàn công nghệ của Trung Quốc Huawei tham gia vào phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông 5G của Việt Nam với lý do quan ngại về an ninh quốc gia, theo truyền thông trong nước.
Các bài học từ những dự án dang dở hay đội vốn là một lý do khác khiến Việt Nam không mặn mà với các khoản đầu tư từ chính phủ Trung Quốc.
Tuyến đường sắt Cát Linh-Hà Đông được ký kết năm 2008, trước khi BRI ra đời, với nhà thầu Trung Quốc và dự kiến được đưa vào sử dụng năm 2016 nhưng phải đến cuối năm 2021 mới hoàn thành với chi phí tăng từ gần 553 triệu USD lên gần 11 tỷ USD vào năm 2018. Dự án này vấp phải sự chỉ trích gay gắt từ các quan chức chính quyền và người dân Việt Nam vì chi phí tăng vọt và tiến độ trì trệ, khiến Việt Nam gánh khoản nợ lãi suất với Trung Quốc.
Bên cạnh đó, dự án mở rộng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên được truyền thông trong nước nói là một trong những dự án yếu kém và khó xử lý nhất của ngành công thương Việt Nam. Dự án có tổng thầu là Tập đoàn Khoa học Công nghệ Luyện kim Trung Quốc đã "đắp chiếu" trong 20 năm qua. TheoVnEconomy, dự án "gây lãng phí nguồn lực rất lớn cho Nhà nước và doanh nghiệp, gây bức xúc cho cử tri và nhân dân" trong nước.
Cảnh báo về sáng kiến BRI của Trung Quốc, báo Công an Nhân dân của Việt Nam trích dẫn Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành, giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế của Đại học Kinh tế Quốc dân, nhận định rằng khoảng 70% các dự án BRI rơi vào tay các nhà thầu hoặc công nhân Trung Quốc. Vị tiến sĩ này cho rằng các doanh nghiệp Trung Quốc mang theo lao động quốc gia họ sang quốc gia bản xứ để làm việc cũng là một vấn đề không thể xem nhẹ.
Các dự án BRI của Trung Quốc ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở Châu Phi, được xem là "bẫy nợ" của Bắc Kinh khi Đảng cộng sản Trung Quốc tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng thông qua sáng kiến này. Các quốc gia đang phát triển hiện nợ Trung Quốc khoảng 1 tỷ USD.
Ý đã trở thành quốc gia đầu tiên tuyên bố sẽ rời khỏi BRI. Thủ tướng Ý Giorgia Meloni vào năm 2019 gọi quyết định tham gia BRI là một "sai lầm nghiêm trọng" và cho biết rằng những cam kết kinh tế của sự hợp tác trong sáng kiến này đã không bao giờ thành hiện thực.
Sẽ đón nhận ?
Để tránh nhận tiền từ Trung Quốc, Việt Nam đang tìm kiếm các khoản vay như Hỗ trợ Phát triển Chính thức ODA từ Nhật và từ các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB).
Thủ tướng Phạm Minh Chính vào tháng trướcđề nghị Chính phủ Nhật Bản cung cấp ODA thế hệ mới cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng chiến lược quy mô lớn như dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Ông Chính cũngđề nghị WB hỗ trợ tài chính cho các dự án cơ sở hạ tầng với các khoản vay ưu đãi nhất có thể.
"Việt Nam đang tìm cách xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn tự có và các khoản vay chi phí thấp từ Nhật Bản", nhà nghiên cứu Hiebert nói. "Nó mang lại cho Việt Nam sự độc lập đáng kể (khỏi Trung Quốc) nhưng nó cũng làm chậm quá trình phát triển cơ sở hạ tầng".
Dù là một trong những quốc gia có mức phát triển kinh tế cao nhất trong khu vực nhưng Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những hạn chế về ngân sách và nợ công gia tăng.
Trong khi đó, Trung Quốc không ngừng thúc ép Việt Nam tham gia vào BRI.
Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng đã tới Bắc Kinh tham dự Diễn đàn Vành đai và Con đường vì Hợp tác Quốc tế (BRF) và gặp mặt Chủ tịch Tập hôm 20/10. Tại đây, theo ghi nhận về cuộc gặp trêntrang web chính thức của BRF, ông Tập thúc giục hai bên "tiến nhanh hơn để phối hợp Sáng kiến Vành đai và con đường" bằng cách "tận dụng tối đa các sáng kiến và thế mạnh về sự gần gũi về mặt địa lý".
Ông Tập, theo các chuyên gia, khi tới thăm Việt Nam trong tháng này sẽ thúc giục Hà Nội đón nhận BRI một cách nhiệt tình hơn.
Chủ tịch Trung Quốc dự kiến đến Việt Nam ngày 12/12 và cách đây không lâu truyền thông Việt Nam đưa tin về dự án đường sắt 11 tỷ USD nối với Trung Quốc có nhà thầu Trung Quốc tham gia. Trước đó, ông Chính, khi đến thăm Trung Quốc đã hoan nghênh doanh nghiệp Trung Quốc tham gia triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao tại Việt Nam "với hình thức phù hợp".
Theo Tiến sĩ Hiệp, Việt Nam có thể đang cân nhắc thay đổi cách nhìn BRI trong khi Trung Quốc cũng có những thay đổi về cách tiếp cận BRI bằng các dự án quy mô nhỏ và mang tính hiệu quả cao.
Chủ tịch Tập tại Thượng đỉnh BRI hồi tháng 10 khẳng định rằng Trung Quốc nhận thấy cần phải làm nhiều hơn nữa để đảm bảo các quốc gia không rơi vào bẫy nợ và các dự án không gây hại đến môi trường như các dự án BRI trước đây.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, người đồng sáng lập Viện Nghiên cứu Phát triển IDS,ủng hộ Việt Nam tham gia vào Vành đai và Con đường nếu nó có lợi cho đất nước khi xây dựng cơ sở hạ tầng.
"Nếu bị như Lào và Sri Lanka thì rất là nguy hiểm", Tiến sĩ Quang A nói, ngụ ý tới khoản nợ hàng chục tỷ đô la của Sri Lanka và khủng hoảng nợ đáng báo động của Lào với Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất. "Nhưng nếu các khoản vay lãi suất vừa phải mà có lợi cho nền kinh tế Việt Nam thì tôi nghĩ việc tham gia (BRI) chẳng làm sao cả".
Tuy nhiên, theo blogger-nhà văn Phạm Viết Đào, cần phải đặt câu hỏi đối với thiện chí của Trung Quốc trong các dự án BRI.
"Trung Quốc làm chủ được kỹ thuật nhưng như với dự án đường sắt (Cát Linh-Hà Đông) ở Việt Nam, họ cứ trây ra và kéo dài thời gian nên cái dã tâm của họ như thế rất nguy hiểm", ông Đào, người theo dõi các đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam và viết cuốn sách "Vị Xuyên và Thế sự Việt-Trung", nói. "Việt Nam không thể tin được Trung Quốc vì họ chỉ cài bẫy".
Sự ngờ vực của phần lớn người Việt Nam đối với Trung Quốc không chỉ xuất phát từ những tranh chấp ở Biển Đông mà còn từ những kinh nghiệm lịch sử. Điều này thể hiện trongKhảo sát Tình trạng Đông Nam Á 2023, trong đó cho thấy 2/3 số người Việt Nam được hỏi không tin tưởng vào Sáng kiến An ninh Toàn cầu của Trung Quốc.
Nhưng hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng với Trung Quốc, theo Tiến sĩ Hiệp, là cách để Việt Nam cân bằng quan hệ với Bắc Kinh, nơi có mối quan hệ mật thiết với Đảng cộng sản ở Hà Nội.
"Việt Nam cũng có thể có áp lực từ Trung Quốc phải phát triển quan hệ đồng đều trong bối cảnh Việt Nam vừa nâng cấp và phát triển quan hệ với Mỹ và đồng minh của Mỹ", Tiến sĩ Hiệp nói, ngụ ý tới sự nâng cấp quan hệ của Việt Nam với Hàn Quốc, vào năm ngoái, và với Nhật, vào tháng trước.
Việc Việt Nam nâng cấp vượt bậc chưa từng có tiền lệ với Mỹ cũng như tăng cường quan hệ mật thiết hơn với các cường quốc trong khu vực, theo các nhà quan sát, là để như giảm sự phụ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ, hiện đang là thị trường nhập khẩu số 1 của Việt Nam.
"Đối với Việt Nam, cải thiện quan hệ với Mỹ là một phần trong nỗ lực đa dạng hóa quan hệ và giảm sự ảnh hưởng quá nhiều từ Bắc Kinh", ông Hiebert nói. "Nhưng Việt Nam cũng đang cân bằng giữa Bắc Kinh và Washington bằng cách làm sâu sắc hơn mối quan hệ với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc và Liên minh Châu Âu. Việt Nam không muốn rơi vào quỹ đạo của bất cứ một siêu cường nào".
Tuy nhiên với lượng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng lượng nhập khẩu cả nước, thì việc giảm sự phục thuộc vào Bắc Kinh "không hề đơn giản", theo Tiến sĩ Hiệp.
"Nhưng việc nâng cấp quan hệ với các nước khác và ký các FTA (hiệp định thương mại tự do) khác nhau, theo tôi nghĩ, là một bước đi cần thiết để có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc giảm phụ thuộc về mặt thương mại với Trung Quốc trong dài hạn".
Linh Đan
Nguồn : VOA, 09/12/2023
Ông Võ Văn Thưởng có vẻ đã ghi điểm bằng một loạt gặp gỡ quan trọng và những người quan tâm đến tương lai đất nước có thể thở phào khi xem xét các thông tin báo chí chính thống của hai nước, nhưng liệu...
Ông Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước, chụp ảnh chung với ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc, và Phu nhân Bành Lệ Viện tại tiệc chiêu đãi chào mừng các trưởng đoàn và phu nhân. Ảnh : TTXVN.
Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng vừa tham dự Diễn đàn cao cấp "Vành đai và Con đường" lần thứ 3 tổ chức tại Bắc Kinh. Diễn đàn lần này quy tụ lãnh đạo và đại diện của 130 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có cả tổng thống Nga, người đang bị toà án hình sự quốc tế phát lệnh truy nã vì tội ác chiến tranh.
Sáng kiến Vành đai và con đường (Belt and Road Initiative -BRI) còn được biết đến là "Con đường tơ luạ của thế kỷ 21" nhằm xây dựng các tuyến đường nối Trung Quốc với phần còn lại của thế giới, được công bố lần đầu bởi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 9/2013 trong chuyến thăm Kazakhstan.
Theo tạp chí Nghiên cứu Chiến lược lấy số liệu từ trang thông tin chính thức của BRI, tính tới tháng 6/2023 đã có đến 152 quốc gia và 32 tổ chức quốc tế ký kết hơn 200 văn kiện hợp tác. Nói cách khác, sáng kiến này có tầm ảnh hưởng tới 2/3 dân số thế giới và chiếm khoảng 40% GDP toàn cầu.
Trên bộ, trên không, trên biển và trên không gian số
Dù đang được che đậy dưới rất nhiều ngôn từ mềm mại và đẹp đẽ như "tơ lụa" thì cả thế giới đều biết rằng BRI là một biểu hiện về sự trỗi dạy đầy tham vọng của Trung Quốc. Những khoản đầu tư vật chất khổng lồ đang cố áp đặt các "giá trị" phi vật chất khác của Trung Quốc lên nhiều quốc gia.
Lúc đầu sáng kiến này chỉ là "1 vành đai và 1 con đường", nhưng giờ đây nó được phát triển thành cả"trên đất liền, trên không, trên biển và trên không gian số". Những nghi ngại vềlòng tin làm cho Việt Nam chưa tích cực tham gia vào sáng kiến này nhưng không thể trì hoãn lâu được nữa vì Trung Quốc có thể bỏ qua Việt Nam, bằng cách kết nối chuỗi hạ tầng trên bộ, kéo dài từ Côn Minh, qua Lào, Thái Lan, Malaysia rồi đến Singapore trên đất liền song song với một "Con đường tơ lụa trên biển" cắt ngang qua Biển Đông.
Việt Nam rất có thể sẽ bị kẹt giữa 2 "gọng kìm" là đường trên bộ ở phía Tây và vành đai dưới Biển ở phía Đông nếu Việt Nam không tích hợp được với định hướng phát triển hạ tầng trong nước và trở thành một "đoạn" trong con đường mà Trung Quốc đã vạch ra.
Nhưng nghiêm trọng hơn là trên không gian số. Hiện nay Việt Nam đang tích cực số hoá toàn bộ dữ liệu để xây dựng "doanh nghiệp số", "công dân số" và hướng đến "xã hội số. Thế nhưng hầu hết các camera giám sát an ninh, những thiết bị đầu cuối máy tính và máy móc thiết bị của ngành viễn thông ở Việt Nam hầu hết là do Trung Quốc sản xuất.
Đây chính là cửa ngỏ để Trung Quốc đổ bộ bằng "con đường số" hòng xâm chiếm và kiểm soát dữ liệu doanh nghiệp, công dân và chính phủ Việt Nam.
Việt Nam cũng đã bắt đầu tiến hành định danh công dân, kiểm soát việc "di biến động" của bất cứ cá nhân nào vào bất cứ thời điểm nào. Nó đang được lưu trữ tập trung vào một cơ quan của Bộ công an. Chúng ta thử nhắm mắt hình dung nếu cơ quan quản lý dữ liệu đó lọt vào tay Trung Quốc thì sẽ như thế nào ?.
Thách thức của BRI :Công trình dang dở và nợ "độc"
Mặc dù đã đầu tư hàng ngàn tỉ đô la cho các dự án, BRI cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và đang gây nghi ngờ trên diện rộng. Nhiều quốc gia cho rằng Trung Quốc thực sự muốn thông qua khuôn khổ hợp tác để đặt ra "bẫy nợ" và lôi kéo ngày càng nhiều nước vào quỹ đạo ảnh hưởng của mình.
Tôi đã từng đến Kenya, thăm các dự án của BRI, gặp những người dân Kenya và nghe rằng Trung Quốc đã để lại"Hàng loạt công trình dang dởcùngmột đống nợ độc". Rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng, từ đường sắt đến đường bộ, của Trung Quốc tại Kenya và Tanzania đang chậm tiến độ, phá hủy môi trường và bị các nhà môi trườngbiểu tình phản đối.
Sự thiếu minh bạch, tham nhũng và hiệu quả thấp trong các dự của BRI cũng đã để lại những cỗ máy hành chính hoại loạn và những con người chỉ biết đến lợi ích cá nhân. Đồng tiền tham nhũng đang tấn công không khoan nhượng vào các tổ chức nhà nước yếu kém tại Phi Châu.
Nghiêm trọng nhất đối với Viêt Nam là nếu như con đường tơ lụa trên biển được xác lập và thực hiện, Trung Quốc sẽ có căn cứ để nói rằng họ đã sở hữu con đường đó từ đầu thế kỷ thứ 15 khi Đô đốc Trịnh Hoà dẫn 7 đoàn thám hiểm và "đặt chân" lên những vùng biển đảo hiện đang tranh chấp.
Theo bài viết"đá ngầm" dọc con đường tơ lụa trên biển của Đỗ Minh Châu dịch từ The Economist đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Quốc Tế thì một trong những tranh chấp có thể phát sinh là do"sự mơ hồ và không rõ ràng của những nét vẽ tham vọng".
Đường "lưỡi bò" trên biển Đông đang là một bằng chứng của những nét vẽ đó. Nó vẫn tiếp tục là một thách thức không nhỏ với hàng loạt nước trong khu vực.
Ông Thưởng làm gì và mang được gì về ?
Lần này đến Bắc Kinh tham dự diễn đàn BRI, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng có cơ hội để thể hiện với nhiều lãnh đạo thế giới rằng mình là ai ? ủng hộ điều gì ?
Ngay khi vừa đến Bắc Kinh Ông Thưởng đã gặp tổng thống Nga, hội kiến với "đồng chí" Triệu Lạc Tế, Ủy viên Bộ Chính Trị, Ủy viên trưởng Nhân đại Trung Quốc (được coi như là chủ tịch quốc hội), trước khi dự chiêu đãi toàn thể do Tập Cận Bình chủ trì.
Trong ngày 19/10, ông Thưởng đã phát biểu tại Diễn đàn kinh tế số, gặp Tổng thống Uzbekistan, tổng thống Sri lanka, tổng thư ký của Liên Hiệp Quốc. Tối cùng ngày ông đã "hội kiến" với ông Thái Kỳ, Ủy viên thường vụ Bộ chính trị, Bí thư ban bí thư, Chánh văn phòng trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc.
Một cuộc gặp khác, bên lề nhưng rất quan trọng, là với thủ tướng Campuchia Hun Manet trong bối cảnh Trung Quốc đang tiến hành đầu tư mạnh mẽ tại quốc gia này và mới đây đã "mở ra một kỷ nguyên mới cho cộng đồng chung vận mệnh". Đây cũng là lần đầu 2 nhân vật thế hệ 7X vừa giữ cương vị mới gặp nhau (ông Thưởng sinh năm 1970, làm chủ tịch nước từ tháng 3 trong khi Hun Manet sinh 1977, mới nhậm chức Thủ tướng tháng 8 năm nay).
Trung Quốc và Campuchia đã cùng "chung vận mệnh", đang xây dựng cảng quân sự và chuẩn bị hỗ trợ đào kênh Phù Nam Techo lên đến 1,7 tỷ đô la. Điều này chắc chắn sẽ đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong tương lai nếu các bên "cơm không lành, canh không ngọt".
Với 16% khối lượng phân giới, cắm mốc còn lại sẽ là một trở ngại, đặc biệt khi chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dạy và đâu đó có sự "thọc gậy" của những ông lớn phía sau.
Quan trọng nhất, trước khi lên đường ra về, ông Thưởng đã có cuộc gặp với chủ tịch Tập Cận Bình và Reuters đưa tin nói rằng Ông Tập đã nhắc ông Thưởng rằng hai bên không được quên"nguồn gốc tình hữu nghị truyền thống của mình".
Bản tin của Reuteur cũng trích 3 nguồn tin từ Hà Nội cho biết là chuyến đi của ông Tập trước đây dự kiến vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11 có thể bị hoãn lại đến tháng 12.
Ông Thưởng bị nhắc về "Cộng đồng tương lai chung"
Có những lo ngại về việc ông Thưởng sẽ cùng các lãnh đạo Trung Quốc đề cập đến "Cộng đồng chung vận mệnh" sau khi Tập Cận Bình đã nhiều lần nhắc điều đó với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhiều người cũng lo ngại ông Thưởng sẽ bị kẹt giữa "Vành đai và Con đường" sau khi Việt Nam vừa nâng cấp quan hệ lên CSP với Hoa Kỳ.
Theo bản tin tiếng Anh củaXinhua ngày 20/10 thì ông Tập lại một lần nữa nhắc với Ông Thưởng về việc"Đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng của bối cảnh quốc tế, hai nước cần hợp tác cùng nhau theo con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng một cộng đồng tương lai chung có ý nghĩa chiến lược" (Facing a rapidly changing interational landscape, the two counntries should work together in following the path of socialism and building a commuity of a shared future with strategic significance", nhưng không đề cập đến chữ "Vận mệnh".
Ông Võ Văn Thưởng có vẻ đã ghi điểm bằng một loạt gặp gỡ quan trọng và những người quan tâm đến tương lai đất nước có thể thở phào khi xem xét các thông tin báo chí chính thống của hai nước, nhưng liệu Việt Nam có thể tránh được mưu đồ về một"Cộng đồng chung vận mệnh" trong chuyến đi của Tập Cận Bình dự kiến đến Hà Nội vào tháng 12, nếu có, vẫn đang là một vấn đề.
Chúng ta hãy cùng chờ đợi và hy vọng.
Nguồn : VOA 21/10/2023
Kế hoạch viện trợ phát triển của Bắc Kinh đã không còn hào nhoáng như trước – nhưng vẫn không kém phần tham vọng.
Dự án nối kết đường sắt Vành đai và Con đường tại cảng Tanjung Priok ở Jakarta, Indonesia, tháng 9/2022 - Ảnh Ajeng Dinar Ulfiana / Reuters
Sau 10 năm kể từ khi nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình công bố Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), chương trình đầu tư và cơ sở hạ tầng khổng lồ của Bắc Kinh đã trở thành một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của nước này. Trong những năm đầu thực hiện BRI, hàng chục nền kinh tế mới nổi ở Châu Phi, Châu Á, và Mỹ Latinh đã hoan nghênh chương trình này, nguyên nhân phần lớn là do cách tiếp cận của Bắc Kinh, đồng ý cho vay mà không áp đặt điều kiện đối với các siêu dự án như cảng container, mạng lưới đường sắt, và các con đập lớn, cùng với nguồn lực tài chính dường như vô hạn của nước này. Hành động cho vay mạnh tay đã khiến Washington và các đối tác dân chủ của họ phải bất ngờ, dẫn đến quan ngại rằng Bắc Kinh đang tạo ra gánh nặng cho các quốc gia khác bằng những khoản nợ không thể trả nổi, đồng thời hỗ trợ tài chính cho những đồng minh chuyên chế của họ.
Nhưng làn sóng cho vay BRI đã rút đi nhanh chóng một cách đáng ngạc nhiên. Mức độ cho vay cơ sở hạ tầng ở nước ngoài của Trung Quốc hiện chỉ bằng một phần rất nhỏ so với 5 năm trước, vì bản thân Trung Quốc cũng đang đối mặt với khó khăn kinh tế trong nước, vì Bắc Kinh trong năm 2016-2017 đã quyết liệt thay đổi các quy định đối với đầu tư tại nước ngoài, và vì chuỗi thất bại của BRI tại nhiều quốc gia từ Ecuador đến Sri Lanka. Bắc Kinh chắc chắn sẽ không từ bỏ Vành đai và Con đường. Nhưng ngày nay, BRI trong trí tưởng tượng của mọi người – một dự án cho vay cơ sở hạ tầng chi phối toàn cầu, nhằm củng cố quyền lực của Trung Quốc – thực sự đã chết. Thay vào đó là một mô hình can dự ít hào nhoáng hơn, ít tốn kém hơn, dựa trên việc vun đắp quan hệ một cách tự nhiên trong các lĩnh vực như thương mại, viễn thông, năng lượng xanh, và học thuật.
Các nhà hoạch định chính sách ở các nền kinh tế phát triển lẫn mới nổi đều nên chú ý. Các nhà lãnh đạo của "thế giới phương Nam" đang tìm kiếm nguồn tài chính mới từ Trung Quốc cần phải thận trọng, vì ngày càng khó có khả năng Bắc Kinh tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn. Mỹ và các đối tác công nghiệp hóa của họ sẽ phải ứng phó với sự thay đổi trong mô hình ảnh hưởng của Trung Quốc – một mô hình đang chuyển từ các siêu dự án cơ sở hạ tầng sang sự can dự rộng rãi hơn, bền vững hơn. Cả hai bên sẽ cần phải làm việc cùng nhau để giải quyết di sản của việc cho vay quá mức của Bắc Kinh, vốn đã thúc đẩy tham nhũng, khuyến khích các hành vi phản dân chủ, và khiến các quốc gia nhận viện trợ phải gánh những khoản nợ khổng lồ.
Đối mặt với sự thay đổi trong mô hình ảnh hưởng của Trung Quốc, Mỹ và các đối tác công nghiệp hóa của họ có hai thách thức. Họ phải điều chỉnh chiến lược phát triển của mình để đáp ứng nhu cầu về cơ sở hạ tầng và trách nhiệm giải trình dân chủ ở các nước đang phát triển, nhưng họ cũng phải giúp các đối tác ở các nước đang phát triển đối phó với cách tiếp cận mới của Bắc Kinh. Đứng trước những khó khăn ngày càng lớn về kinh tế và nhân khẩu học, Bắc Kinh đang đối mặt với những giới hạn của mình và học hỏi từ những sai lầm của mình. Chương trình BRI mới của Trung Quốc sẽ đặt ra những thách thức mới cho các nhà hoạch định chính sách đang tìm cách đối phó với ảnh hưởng kinh tế to lớn của Trung Quốc – và sức mạnh của nước này trong việc khiến cho dân chủ ngày càng suy yếu trên khắp thế giới.
Những thăng trầm trong chương trình cho vay của Bắc Kinh
Khi Sáng kiến Vành đai và Con đường lần đầu tiên được triển khai, nó đã được các nhà phân tích trên khắp thế giới ca ngợi là "có khả năng biến đổi" và "sẽ làm thay đổi cuộc chơi". Số liệu ban đầu về hoạt động cho vay quốc tế của Trung Quốc dường như ủng hộ quan điểm đó. Theo phòng nghiên cứu AidData, trong 5 năm đầu tiên thực hiện BRI, chi tiêu phát triển ở nước ngoài của Trung Quốc trung bình cao hơn gấp đôi so với chi tiêu tương đương của Mỹ, đạt mức cao nhất là 120 tỷ USD vào năm 2016. Chương trình cho vay của Bắc Kinh ngay lập tức đã thu hút được nhiều đối tượng vì nó giải quyết một vấn đề thực sự và cấp bách : nhiều quốc gia đang phát triển rất cần cơ sở hạ tầng năng lượng và giao thông quy mô lớn, nhưng lại bị cản trở bởi mức giá thường lên tới hàng nghìn tỷ USD. Hơn nữa, những tổ chức cho vay phát triển truyền thống như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới thường cấp các khoản vay cho các nước đang phát triển đi kèm những điều kiện được người đi vay mô tả là quá khó khăn hoặc quá nặng nề. Ngược lại, các khoản vay không ràng buộc của Bắc Kinh đã được ca ngợi bởi các nhà lãnh đạo đang tìm kiếm các hình thức tài trợ linh hoạt hơn.
Tuy nhiên, đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc cũng có cái giá của nó. Như nghiên cứu của Viện Cộng hòa Quốc tế (IRI) và các tổ chức khác đã chỉ ra, các nhà lãnh đạo có khuynh hướng chuyên chế đã sử dụng BRI không chỉ để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng, mà còn như một chỗ dựa tài chính cho những hành động phản dân chủ tồi tệ nhất, vì họ tin rằng mình có thể theo đuổi các chính sách chuyên chế và vẫn được Bắc Kinh hỗ trợ tài chính. Ví dụ, vào năm 2016, Trung Quốc đã đề nghị Thủ tướng Malaysia Najib Razak, khi đó đang là tâm điểm của một vụ bê bối tham nhũng lớn, hỗ trợ giám sát những người chỉ trích các dự án BRI trong chính phủ của ông ta – một đề nghị được cho là đã được chính Tập chấp thuận.
Trên thực tế, triển vọng nhận được hỗ trợ tài chính quy mô lớn từ Trung Quốc có lẽ đã khiến các nhà độc tài trên khắp thế giới hành động táo bạo hơn– một động lực mà Bắc Kinh đã chấp nhận. Chẳng hạn, nghiên cứu của IRI đã ghi nhận cách Bắc Kinh thường xuyên mập mờ về triển vọng cho vay để củng cố quan hệ với Tổng thống El Salvador Nayib Bukele, người đã dẫn đầu một cuộc tấn công vào các thể chế dân chủ của El Salvador kể từ khi lên làm tổng thống nước này vào năm 2019. Một động lực tương tự dường như đang diễn ra ở Quần đảo Solomon, nơi Tổng thống Manasseh Sogavare gần đây đã tìm cách sửa đổi hiến pháp của đất nước để mở rộng quyền cai trị của mình, dựa trên cơ sở triển vọng được hỗ trợ tài chính liên tục.
Dù nhiều nhà độc tài có thể vẫn tin rằng Bắc Kinh sẵn sàng mở ngân khố cho họ, nhưng sự ủng hộ của nước này đã không còn được đảm bảo như trước. Dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau cho thấy các cam kết tài chính BRI đã chậm lại đáng kể. Theo Trung tâm Chính sách Phát triển Toàn cầu của Đại học Boston, các cam kết cho vay quốc gia của Trung Quốc đã giảm tới 94% từ năm 2016 đến năm 2019, từ 75 tỷ USD xuống chỉ còn 3,9 tỷ USD. Các bộ dữ liệu khu vực và toàn cầu khác nhìn chung cũng xác định xu hướng và mức độ sụt giảm. Một số thông tin từ năm 2020 và 2021 gợi ý rằng đại dịch Covid-19 có thể đã làm giảm hoạt động cho vay của Trung Quốc hơn nữa : một cơ sở dữ liệu khác của Đại học Boston tập trung vào đầu tư BRI ở Châu Phi chỉ ra rằng, vào năm 2020, các khoản vay của Trung Quốc dành cho các chính phủ Châu Phi đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2004.
Nhưng sự sụt giảm trong hoạt động cho vay, vốn diễn ra từ đầu năm 2017, không thể chỉ do sự tàn phá kinh tế của Covid-19. Thay vào đó, nó là kết quả từ sự kết hợp của các yếu tố bổ sung lẫn nhau, ở cả bên trong và bên ngoài Trung Quốc. Kết hợp lại với nhau, chúng khiến Bắc Kinh không thể nhanh chóng khôi phục hoạt động cho vay cơ sở hạ tầng BRI về quy mô như trước đây.
Không phải quá lớn đến mức không thể sụp đổ
Chương trình cho vay quy mô lớn của BRI đã sụt giảm một phần là do những trở ngại ngày càng lớn, mà rõ ràng nhất là những thất bại quan trọng của sáng kiến này. Trong nhiều trường hợp, Bắc Kinh đơn giản đã đánh giá quá cao khả năng của cách tiếp cận lấy cơ sở hạ tầng làm trung tâm mà họ áp dụng ở nước ngoài. Chẳng hạn, từ năm 2007 đến 2014, Trung Quốc đã cho Sri Lanka vay 1,5 tỷ USD để xây dựng một cảng và sân bay tại Hambantota – một thập niên sau đó, cả hai dự án vẫn gần như bị bỏ trống. Nền kinh tế Sri Lanka đang khốn đốn bởi những khoản nợ phát sinh từ các dự án này, và Trung Quốc có vẻ sẽ tìm cách phá bĩnh thỏa thuận với IMF và các chủ nợ quốc tế khác vốn có thể mang lại sự cứu trợ rất cần thiết cho Colombo. Có thể hiểu lý do tại sao giới lãnh đạo của các quốc gia bị hủy hoại bởi các siêu dự án BRI vô bổ đang thận trọng trước các khoản vay mới, và sự nhiệt tình đối với các sáng kiến đầu tư của Trung Quốc đã giảm sút sau những sai lầm này.
Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát có xu hướng bỏ qua các yếu tố kinh tế và chính trị khác ở chính Trung Quốc, những yếu tố đóng vai trò lớn hơn nhiều trong việc khiến cho hoạt động cho vay bị chậm lại. Quan trọng nhất là cuộc đại tu trong năm 2016-2017 của các cơ quan quản lý kinh tế Trung Quốc đối với các quy tắc quản lý và cấp phép cho các dự án đầu tư và cho vay ở nước ngoài, với mục đích rõ ràng là giảm đáng kể số lượng và quy mô của các siêu dự án ở nước ngoài. Quyết định của cơ quan quản lý kinh tế một phần là vì dòng vốn chảy ra nước ngoài ở thời kỳ đỉnh cao của BRI đã gây bất ổn cho nền kinh tế vĩ mô của Trung Quốc. Tại Bắc Kinh, BRI cũng ngày càng gắn liền với việc tháo vốn bất hợp pháp và chi tiêu hoang phí ở nước ngoài, vì các công ty có trụ sở tại Trung Quốc đã "dán nhãn BRI" cho các công viên giải trí ở các nước giàu có như Pháp, thay vì đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng công cộng ở các nước đang phát triển ở Châu Phi và Nam Á.
Việc điều chỉnh các quy tắc đầu tư đã có tác dụng như mong muốn : kể từ đó trở đi, Trung Quốc đã giảm hẳn số lượng dự án cho vay quy mô lớn. Nỗ lực kiểm soát các khoản đầu tư nước ngoài khổng lồ của Bắc Kinh, cùng với tình hình kinh tế trong nước ảm đạm của Trung Quốc, cho thấy rằng việc quay trở lại với cho vay nước ngoài không giới hạn sẽ không có khả năng xảy ra. Tập đã ám chỉ sự thay đổi này trong một bài phát biểu quan trọng trước các nhà lãnh đạo Châu Phi vào cuối năm 2021, trong đó ông không hề sử dụng từ "cơ sở hạ tầng" dù chỉ một lần.
Vành đai thắt chặt
Tuy nhiên, thay vì đánh dấu sự kết thúc của BRI, việc Bắc Kinh tái định hướng các khoản vay không kiểm soát có thể thúc đẩy chương trình hướng tới một mô hình bền vững hơn. Rời xa các siêu dự án cơ sở hạ tầng, Bắc Kinh đang theo đuổi các hình thức hợp tác kinh tế ít thâm dụng vốn hơn, bền vững hơn với các nền kinh tế đang phát triển. Như nghiên cứu của IRI và những tổ chức khác đã chỉ ra, "Vành đai và Con đường" giờ đây vượt ra ngoài cơ sở hạ tầng để bao gồm những sáng kiến ít hào nhoáng và ít tốn kém hơn trong các lĩnh vực như học thuật, viễn thông, năng lượng xanh, và thậm chí cả đánh bắt cá ngừ.
Bắc Kinh đang chuyển đổi BRI một cách âm thầm và có chủ ý. Việc Trung Quốc cắt giảm các khoản vay và mở rộng BRI ra ngoài cơ sở hạ tầng đều không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngay từ khi cho vay BRI đạt đỉnh vào năm 2016 và 2017, các nhà hoạch định chính sách và nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã bắt đầu kêu gọi một BRI phù hợp hơn với nhu cầu của nước chủ nhà, thân thiện hơn với môi trường, và ít tập trung hơn vào các dự án cơ sở hạ tầng lớn.
Bắc Kinh đã thay đổi BRI cho phù hợp với mục tiêu đó. Họ đã làm tăng sự can dự của Trung Quốc vào thế giới học thuật và các viện chính sách, nỗ lực để trở thành người đầu tiên định hình các nghiên cứu về Trung Quốc ở các quốc gia có các chương trình Hán học mới nổi – chẳng hạn như Nam Phi – thông qua trao đổi học thuật, trợ cấp nghiên cứu, và các Viện Khổng Tử. Trong khuôn khổ BRI, Trung Quốc cũng đã hiện diện nhiều hơn trong lĩnh vực truyền thông của các nước đang phát triển – đáng chú ý nhất là ở Châu Phi, nơi đài truyền hình vệ tinh StarTimes có trụ sở tại Trung Quốc đã giành được thị phần từ các công ty truyền thông nhà nước cũng như các đối thủ cạnh tranh tư nhân. Trung Quốc còn tăng cường đưa công nghệ của mình đến các nước đang phát triển : ví dụ, dù Huawei hiện đã gần như bị loại khỏi mạng viễn thông của các nước công nghiệp hóa, mạng 4G và 5G của họ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia ở Châu Phi và Nam Á. Đầu tư của các công ty nhà nước và tư nhân của Trung Quốc vào năng lượng xanh và lưới điện tiếp tục hoạt động rất hiệu quả, đồng thời các công ty và thể chế nhà nước của Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia khác như Tanzania, Myanmar, và Quần đảo Solomon trong lĩnh vực an ninh, giám sát, và đào tạo "quản trị".
Bắc Kinh đã không từ bỏ nỗ lực gây dựng ảnh hưởng toàn cầu thông qua phát triển kinh tế. Nước này đã điều chỉnh chiến lược của mình – trong một số trường hợp là cần thiết – theo hướng linh hoạt, có mục tiêu, và bền vững hơn. Nhà nước độc đảng của Trung Quốc tiếp tục cố gắng giành lấy lòng trung thành về chính trị và kinh tế của các nước có thu nhập thấp trên khắp thế giới, và họ đã tìm ra một cách rẻ hơn để làm như vậy. Dù quyết định của Bắc Kinh – từ bỏ các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn vốn có xu hướng thúc đẩy hành vi phản dân chủ – nghe như một tin tốt cho Washington và các đối tác của họ, nhưng thực ra nó có tác động cả tốt lẫn xấu đối với các bên liên quan.
Cơ hội cho phát triển dân chủ
Cách tiếp cận được tái định hướng của Trung Quốc mang đến những cơ hội mới cho Mỹ và các đối tác G-7, nhưng để tận dụng chúng, các nhà lãnh đạo dân chủ sẽ cần xây dựng một chiến lược phát triển chủ động và có phối hợp hơn trước rất nhiều. Thứ nhất, việc Trung Quốc lùi bước về cơ sở hạ tầng đã tạo cơ hội cho Washington và các đồng minh tiến lên. Những lỗ hổng quan trọng về cơ sở hạ tầng vẫn tồn tại trên khắp thế giới. Xét đến những kết quả cả tốt lẫn xấu từ hỗ trợ tài chính không ràng buộc của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo – và quan trọng hơn, các cử tri – tại các nước đang phát triển có thể sẽ sẵn sàng chấp nhận khoản vay đi kèm với trách nhiệm giải trình và các tiêu chuẩn rõ ràng hơn.
Hơn nữa, nhiều lĩnh vực mục tiêu của BRI, chẳng hạn như học thuật, viễn thông, và thương mại, là những lĩnh vực mà các nền dân chủ công nghiệp hóa có lợi thế cạnh tranh tốt. Mỹ và các đối tác dân chủ của mình phải đầu tư nhiều hơn nữa vào một cách tiếp cận chung nhằm xây dựng quan hệ lành mạnh với các quốc gia đang nỗ lực duy trì quan hệ với Trung Quốc – ví dụ, bằng cách thúc đẩy thương mại và kinh doanh, hỗ trợ trao đổi báo chí và học thuật, cung cấp học bổng và đào tạo kỹ thuật. Washington và các đối tác của mình cũng có thể đầu tư vào một quỹ mới dành cho phát triển và dân chủ, qua đó thể hiện mong muốn không chỉ hỗ trợ cơ sở hạ tầng vật chất của các nước đang phát triển mà cả cơ sở hạ tầng dân chủ của họ.
Mỹ và các đối tác của mình cũng phải nỗ lực nhiều hơn trong việc xây dựng quan hệ với các nước nhỏ. Quá trình tái định hướng BRI của Trung Quốc sẽ khiến nhóm nước này trở nên quan trọng hơn, chứ không phải kém quan trọng hơn đối với Bắc Kinh. Dù Trung Quốc có thể dừng các cam kết trị giá hàng tỷ USD ở các nền kinh tế lớn đang phát triển, nhưng các cam kết nhỏ hơn vẫn có thể gây tác động lớn ở những nơi như Quần đảo Solomon hoặc Serbia. Trong giới chính sách đối ngoại, việc nói rằng Mỹ và các đối tác của họ chỉ cần đơn giản xuất hiện đã trở thành sáo rỗng – nhưng duy trì sự hiện diện vẫn là cách tốt nhất để xây dựng lòng tin và xây dựng các quan hệ mang lại những cơ hội quan trọng.
Cuối cùng, Mỹ và các đối tác của mình không nên ngần ngại thúc đẩy dân chủ song song với phát triển. Thật vậy, Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đã bắt đầu đi theo con đường này ; cùng với Thượng đỉnh vì Dân chủ của chính quyền Biden, USAID đã nhấn mạnh lại tầm quan trọng của các thể chế dân chủ lành mạnh đối với sự phát triển lâu dài. Nhưng quá nhiều đối tác công nghiệp hóa của Mỹ đang do dự trong việc công khai chấp nhận hoặc nhấn mạnh quan điểm rằng các thể chế dân chủ như tòa án độc lập, cơ quan lập pháp mạnh, báo chí tự do, và bầu cử được tổ chức tốt có thể tạo điều kiện cho sự phát triển. Một số nhà phân tích từ lâu đã bày tỏ lo ngại rằng những lời kêu gọi dân chủ hóa có thể gợi lại những can thiệp thời Chiến tranh Lạnh của Mỹ, hoặc có thể cô lập các quốc gia với dàn lãnh đạo không có khuynh hướng dân chủ. Các nền dân chủ và các nhà tài trợ lớn khác càng cho thấy tiếng nói của họ bên cạnh tiếng nói của Washington, thì những lo ngại này sẽ càng trở nên vô nghĩa. Nếu chỉ một mình Mỹ lên tiếng về những lợi ích của nền dân chủ, hành động đó có thể dễ dàng bị coi là sản phẩm của tư duy Chiến tranh Lạnh. Nhưng nếu một liên minh gồm các nền dân chủ trải dài từ Canada đến Nhật Bản cùng làm như vậy, thì lời kêu gọi sẽ khó bị gạt đi hơn nhiều.
Các nhà hoạch định chính sách càng sớm thừa nhận chiến lược quốc tế đang thay đổi của Trung Quốc và điều chỉnh lại cách tiếp cận của riêng họ thì càng tốt. Nhà nước độc đảng của Trung Quốc đã nhanh chóng học được điều mà người Mỹ phát hiện ra sau khi nổi lên như một siêu cường : rằng thay đổi các xã hội khác là một công việc phức tạp, lộn xộn, và cố gắng thực hiện điều đó bằng các khoản tiền lớn có thể phản tác dụng theo những cách tai hại. Bắc Kinh sẽ áp dụng những bài học này như thế nào, và liệu họ có thành công trong việc theo đuổi quyền lực hay không, vẫn là một trong những câu hỏi cấp bách nhất đối với nền dân chủ toàn cầu. Mỹ và các đối tác dân chủ của mình sẽ phải tìm ra câu trả lời của riêng họ – và đó phải là những câu trả lời hiệu quả nhất có thể.
Matt Schrader & J. Michael Cole
Nguyên tác : "China Hasn’t Given Up on the Belt and Road", Foreign Affairs, 07/02/2023
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 15/02/2023
Matt Schrader và J. Michael Cole lần lượt là Cố vấn về Trung Quốc và Cố vấn Cấp cao về Trung Quốc tại Viện Cộng hòa Quốc tế. Họ là những nhà nghiên cứu chủ chốt trong báo cáo gần đây của IRI có tên "Cưỡng chế, Bắt bớ, và Kiểm duyệt : Nghiên cứu điển hình về nỗ lực tìm kiếm ảnh hưởng toàn cầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc" (Coercion, Capture, and Censorship : Case Studies on the CCP’s Quest for Global Influence)
(Bangkok, ngày 10 tháng Tám năm 2021) – Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nhận định trong bản phúc trình công bố ngày mồng 10 tháng Tám rằng một đập thủy điện quy mô lớn do Trung Quốc đầu tư ở vùng đông bắc Campuchia hoàn thành hồi năm 2018 đã hủy hoại cuộc sống và nguồn mưu sinh của hàng ngàn người dân tộc thiểu số và Bản địa. Đập Hạ Sesan 2, một trong những con đập rộng nhất ở Châu Á, đã nhấn chìm một diện tích lớn ở thượng lưu đoạn giao thủy giữa sông Sesan và Srepok, hai chi lưu của sông Mê Kông.
Bản phúc trình dài 137 trang, có tiêu đề "Ngập nước : Các hậu quả về nhân quyền từ một Dự án Vành đai và Con đường của Trung Quốc ở Campuchia", liệt kê các vi phạm về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là hậu quả của việc di dời gần 5.000 người trong các hộ gia đình đã sống ở khu vực này nhiều thế hệ, cũng như tác động tới nguồn mưu sinh của hàng chục ngàn người ở thượng lưu và hạ lưu đập. Nhà cầm quyền Campuchia và các lãnh đạo của công ty đầu tư không tham vấn đầy đủ với các cộng đồng bị ảnh hưởng trước khi khởi động dự án và bỏ qua đa số các ý kiến quan ngại của họ. Nhiều người bị đe dọa phải nhận khoản đền bù không thỏa đáng cho phần tài sản và thu nhập bị mất, phải nhận nhà cửa và dịch vụ chất lượng kém ở các khu tái định cư, và không được đào tạo hay hỗ trợ để tìm nguồn mưu sinh mới. Các cộng đồng khác ở thượng lưu và hạ lưu đập cũng bị ảnh hưởng nhưng không nhận được một khoản đền bù hay hỗ trợ nào.
"Đập Hạ Sesan 2 đã cuốn trôi nguồn mưu sinh của các cộng đồng dân tộc thiểu số và cư dân bản địa, những người từng sống quần cư và đa phần tự cấp tự túc nhờ ngư nghiệp, thu hoạch lâm sản và làm nông", ông John Sifton, giám đốc vận động Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. "Nhà cầm quyền Campuchia cần khẩn cấp xem xét lại công tác đền bù, tái định cư và các biện pháp phục hồi cơ hội mưu sinh của dự án này, và đảm bảo rằng các dự án trong tương lai không phát sinh những vi phạm tương tự".
Đập Hạ Sesan 2 đã cuốn trôi nguồn mưu sinh của các cộng đồng dân tộc thiểu số và cư dân bản địa
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã phỏng vấn hơn 60 người gồm các thành viên cộng đồng, lãnh đạo nhóm xã hội dân sự, nhà khoa học và những người khác từng nghiên cứu về dự án ; và đã đọc các công trình nghiên cứu học thuật, hồ sơ kinh doanh và đề án nghiên cứu của các tổ chức phi chính phủ và các nguồn khác.
Con đập là một phần của "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) của chính phủ Trung Quốc, một dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ đa quốc gia được khởi xướng dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình năm 2013. Nhiều dự án trong chương trình này ở Châu Á và các nơi khác đã bị chỉ trích vì thiếu minh bạch, bỏ mặc các mối quan ngại của cộng đồng, và tác động tiêu cực đến môi trường.
Tập đoàn Hoa Năng Trung Quốc, một công ty điện lực lớn thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc, đã xây và vận hành con đập. Tập đoàn Hoàng Gia Campuchia và công ty điện thuộc sở hữu nhà nước Việt Nam, EVN, giữ phần hùn nhỏ hơn. Các ngân hàng nhà nước Trung Quốc cung cấp phần lớn vốn đầu tư, được biết có ngân sách khoảng 800 triệu đô la Mỹ.
Chính quyền Campuchia và các lãnh đạo công ty không thực hiện tham vấn đúng nghĩa với các cộng đồng bị ảnh hưởng và không hề có động thái nào để có được "sự đồng thuận tự nguyện, từ trước và trên cơ sở được thông tin đầy đủ" của những người dân Bản địa, như đã quy định trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của các dân tộc bản địa.
Những người dân tộc bản địa và các sắc tộc thiểu số khác bị ảnh hưởng từ dự án đập gồm có những người trong các cộng đồng Bunong, Brao, Kuoy, Lao, Jarai, Kreung, Kavet, Tampuan, và Kachok.
Suốt từ năm 2011 đến khi con đập hoàn thành vào năm 2018, các thành viên cộng đồng nói trên đã phản đối và viết nhiều lá thư gửi đến công ty và các quan chức chính quyền, kể cả đến Thủ tướng Hun Sen, nhưng giới chức nhất quyết phớt lờ các mối quan ngại của cộng đồng và từ chối thảo luận các giải pháp thay thế. Một số người phản đối đã bị dọa dẫm, thậm chí bị bắt giam.
"Công ty không xem xét đến quyền của người bản địa", một dân làng người Bunong nói với Tổ chức Theo dõi Nhân quyền. "Họ chỉ bảo chúng tôi di dời đi".
"Trong các cuộc tham vấn, họ quyết định mọi thứ cho chúng tôi", một cư dân nói. "Họ không buồn hỏi chúng tôi muốn gì hay cần gì".
Con đập đã gây tác động lớn đến thu nhập ngư nghiệp. Do cản trở nhiều loài cá hoàn thành dòng di cư thiết yếu với quy trình sinh sản, con đập đã khiến sản lượng cá giảm sút nhanh chóng. Các chuyên gia ngư nghiệp và sinh thái đã cho rằng con đập góp phần làm suy giảm sản lượng cá trên toàn hệ thống sông Mê Kông, là nguồn thực phẩm và thu nhập mà hàng chục triệu người ở Campuchia, Việt Nam, Thái Lan và Lào trông chờ vào.
"Bây giờ cá còn ít quá", một người đàn ông sống gần con đập nói. "Chúng tôi trước đây vẫn bắt đủ cá để ăn và mang bán, nhưng [giờ đây] ít quá rồi. Nhiều khi chúng tôi còn không có đủ cá để ăn".
Những người dân đã tái định cư nói rằng sản lượng nông nghiệp cũng giảm sút vì đất ở khu tái định cư không màu mỡ và nhiều sỏi đá hơn, và họ mất thu nhập từ các loại cây ăn trái và lấy hạt ở làng cũ. Chính quyền không đền bù thiệt hại thu nhập từ nấm, cây thuốc và các lâm sản khác được thu hái từ các khu rừng cộng đồng. Khoản đền bù không đủ để giải quyết các mất mát về văn hóa và cơ hội mưu sinh của người Bản địa. Nước giếng ở đa số khu tái định cư bị ô nhiễm và không uống được.
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Tập đoàn Hoa Năng Trung Quốc không thiết lập bất kỳ một cơ chế khiếu nại hữu hiệu nào để giải quyết các bất đồng hay khiếu nại.
Tính đến năm 2017, hàng trăm cư dân không đồng ý nhận đền bù hoặc tái định cư và chuyển đến các vùng đất bỏ hoang ven hồ chứa do con đập tạo thành. Chính quyền địa phương đã đe dọa và sách nhiễu những người này.
Chính quyền Campuchia và Trung Quốc cũng như Tập đoàn Hoa Năng dường như không tiến hành đánh giá thực chất lợi ích của dự án so với tác động của nó từ trước khi khởi công. Tập đoàn Hoa Năng Trung Quốc liên tiếp tuyên bố rằng con đập có thể phát ra 1.998 gigawatt giờ điện mỗi năm, khoảng một phần sáu tổng sản lượng điện hàng năm của Campuchia. Tuy nhiên, sản lượng thực tế của con đập dường như chưa được một nửa con số đó, căn cứ theo hồ sơ ước tính thuế thu nhập dự án được công bố.
Con đập tạo ra rất ít lợi ích về môi trường. Nhiều nghiên cứu học thuật đã chỉ ra rằng khí thải từ quá trình phân hủy của các thực vật do bị chìm trong các hồ chứa nước đập thủy điện thường tương đương với lượng khí nhà kính sinh ra trong quá trình vận hành một nhà máy nhiệt điện chạy dầu hóa thạch thông thường. Một nghiên cứu năm 2017 ước tính rằng dự án có mức thải khí dioxit cacbon tính trên megawatt giờ ngang với một nhà máy điện chạy khí đốt tự nhiên.
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền có viết thư gửi các quan chức chính quyền Trung Quốc và Campuchia và Tập đoàn Hoa Năng vào tháng Ba năm 2020 rồi vào tháng Năm và tháng Bảy năm 2021, tóm tắt các lập luận của mình và yêu cầu phản hồi, nhưng không nhận được hồi âm nào. Một bản "Báo cáo Mức độ bền vững" năm 2020 về con đập do Tập đoàn Hoa Năng đặt hàng và công bố vào tháng Năm năm 2021 ghi nhận nhiều vấn đề về con đập nhưng hạ thấp mức độ nghiêm trọng và kết luận mà không giải thích rõ ràng rằng dự án đã cải thiện cuộc sống của những người dân phải di dời. Bản báo cáo nói trên không bàn về tác động của con đập đối với nguồn mưu sinh của các cộng đồng ở vùng thượng lưu và hạ lưu khu ngập nước.
Tập đoàn Hoa Năng Trung Quốc và chính phủ Campuchia vẫn có thể giải quyết một số thiệt hại do dự án gây ra, chủ yếu bằng cách tiến hành đánh giá lại mức bồi thường và cung cấp thêm các dịch vụ và chương trình đào tạo cho những cộng đồng bị ảnh hưởng bởi con đập. Chính quyền Trung Quốc và Campuchia cũng nên thực hiện cải tổ một cách hệ thống hơn để tránh những vi phạm trong các dự án tương lai.
"Chính quyền Trung Quốc cần cải tổ sâu sắc quy trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong chương trình Vành đai và Con đường để ngăn ngừa vi phạm trong các dự án khác triển khai ở các quốc gia như Campuchia, nơi chính quyền có hồ sơ về quá trình lâu dài vi phạm nhân quyền của công dân mình", ông Sifton nói. "Chính phủ Campuchia cần sửa đổi luật pháp để yêu cầu các dự án phát triển phải đánh giá tác động đầy đủ và đặt ra các biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa vi phạm".
Nguồn : Human Rights Watch, 10/08/2021
__________________
Phúc trình "Ngập nước : Các Hậu quả về Nhân quyền từ một Dự án Vành đai và Con đường của Trung Quốc ở Campuchia"
Phỏng vấn về tác động hủy hoại của Hạ Sesan 2, một trong những con đập rộng nhất Châu Á, đối với vùng Châu thổ sông Mê Kông của Campuchia và đời sống của hàng ngàn người dân có nhà ở khu bị ngập nước
Để đọc thêm tin, bài của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Campuchia
Để đọc thêm tin, bài của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Trung Quốc
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ :
Ở Washington, DC, John Sifton (tiếng Anh) : +1-646-479-2499 (di động) ; hoặc email : Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.. ; Twitter : @johnsifton
Ở New York, Yaqiu Wang (tiếng Anh, tiếng Quan thoại) : +1-646-281-1152 ; hoặc email : Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.. ; Twitter : @Yaqiu
"Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) được Trung Quốc ví như một chuyến tàu tốc hành mà đại quốc này muốn mời gọi các tiểu quốc cùng mua vé đi chung nhằm xây dựng các mối quan hệ nhiều mặt trong tương lai. Để giải mã được phản ứng của Việt Nam đối với "đại dự án thế kỷ" này và ý đồ chiến lược thực sự của Bắc Kinh, giới nghiên cứu quốc tế và trong nước hiện đang thẩm định dự án từ nhiều góc độ khác nhau.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nâng cốc chúc mừng Hội nghị Sáng kiến Vành đai Con đường ở Bắc Kinh hôm 26/4/2019 - Reuters
Các nhà lãnh đạo Việt Nam vốn được định vị trong nhận thức rằng, nền tảng của bang giao Việt – Trung là hữu nghị và hợp tác. Tuy nhiên, đa số trong giới này vẫn coi Trung Quốc vừa là đối tác vừa là đối tượng. Trừ một số trường hợp đặc biệt – mà tướng An ninh Trương Giang Long có lần nhắc đến – nhìn chung lãnh đạo Việt Nam ý thức được BRI là công cụ để Tàu bành trướng thế lực. Cứ quan sát quá trình kiềm chế Bắc Kinh giành lại quyền lực cứng lẫn quyền lực mềm của "Bộ Tứ" qua chiến lược "Ấn Thái Dương tự do và rộng mở" (FOIP) từ tháng 11/2017 đến nay thì rõ. Các đại cường còn thế huống chi là Việt Nam.
Đối với người dân, cảm quan chung về Trung Quốc, trước hết là về BRI khá tiêu cực. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu PEW, 80% dân số Việt Nam coi sự mở rộng sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu đối với Hà Nội. Chẳng cần đi sâu vào lịch sử các đợt "chinh phạt" qua hàng ngàn năm, chỉ cần nhìn lại cuộc xâm lăng của Trung Quốc 17/2/1979 và 10 năm xung đột dai dẳng do Trung Quốc khởi xướng cũng đủ để thấy mức độ tàn bạo của chủ nghĩa bá quyền.
Ngày nay, BRI được triển khai trong bối cảnh Trung Quốc lợi dụng đại dịch Vũ Hán để làm mưa làm gió trên Biển Đông. Hẳn nhiên vào thời điểm kinh tế và xã hội Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn do Covid-19, nên Việt Nam đã buộc phải nhượng bộ. Bỏ ra trên 1 tỷ USD đền bù cho các đối tác nước ngoài, rút khỏi các các cơ sở làm ăn chính ngay trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam khi bị Trung Quốc chèn ép và xua đuổi.
Riêng sự ức hiếp nói trên cũng đủ để những người có trọng trách ở Ba Đình phải suy nghĩ. Biển Đông ngày có tầm quan trọng rất lớn đối với tương lai, chủ quyền, an ninh và phát triển của đất nước. Không chỉ xuất phát từ kinh tế, Hà Nội còn có lý do chính trị và địa-chiến lược để cân nhắc và tính toán trước các khoản vay của Trung Quốc thông qua dự án BRI này. Thái độ đối với BRI sẽ còn là sự bảo đảm tính chính danh cho nhà cầm quyền trong con mắt dân chúng.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chụp hình chung cùng lãnh đạo các nước dự hội nghị Sáng kiến Vành đai Con đường ở Bắc Kinh hôm 26/4/2019 RetuersTuy nhiên, những công ty xuất nhập khẩu làm ăn với các thương lái Tàu thì quan điểm đối với BRI lại "mềm" hơn. Đường bộ và đường sắt kết nối miền nam Trung Quốc với tiểu vùng sông Mekong mở rộng khiến cho chi phí và thời gian vận chuyển hàng hóa giảm, nên giới này hưởng ứng. Tuy nhiên, cũng có một số nhà nhập khẩu không nghĩ như thế. Các doanh nghiệp lớn của Tàu tràn vào, với khả năng tài chính và công nghệ "trên cơ", các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh ngang bằng.
Chưa kể những tấm gương tiêu cực vẫn sừng sững. Cả doanh nghiệp lẫn người dân kinh hãi trước một số dự án Tàu trúng thầu như các cung đường Cát Linh – Hà Đông, Hà Nội – Hải Phòng… Chúng gây ra vô số những vấn đề nghiêm trọng. Đường sắt Cát Linh – Hà Đông bị chậm trễ 5 lần, đội vốn 205%. Đây quả thật là "biểu tượng" của bang giao song phương, với hàng loạt mỹ từ dân gian : "khúc xương 13 km", "vua chậm trễ", "nhát dao chém ngang trên mặt cô gái"…
Các cấp độ nhận thức khác nhau nói trên dường như chứa đựng những quan điểm mâu thuẫn về BRI. Một mặt, nhà cầm quyền hy vọng dù mong manh, có thể tối đa hóa lợi ích mà Việt Nam mong đợi từ BRI. Mặt khác, Việt Nam không thể không đề phòng những rủi ro và các mối đe dọa tiềm tàng, nhất là trên Biển Đông, do BRI mang lại.
Trong chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng 11/2017, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Bản Ghi nhớ về việc thúc đẩy kết nối khuôn khổ "Hai hành lang, Một vành đai" với BRI. Trên thực tế, "Hai hành lang, Một vành đai" đã được hai chính phủ thực hiện từ trước khi có BRI. Nhưng tới nay, hoạt động trong khuôn khổ hành lang Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng và hành lang Nam Ninh-Hà Nội-Hải Phòng vẫn chưa có kết quả khả quan.
Trên bối cảnh ấy, trong quá trình thúc đẩy BRI, phía Trung Quốc nhân tiện làm sống lại ý tưởng này và cũng gắn nó với "dự án thế kỷ". Đây là cách Trung Quốc cho thế giới thấy, Việt Nam ủng hộ BRI. Tuy nhiên, kể từ tháng 11/2017 tới nay, chưa có những triển khai thực chất nhằm kết nối hai khuôn khổ này với nhau. Trên thực tế, ngoại trừ ba dự án về đặc khu đang bị người dân kịch liệt phản đối, BRI thực sự cũng chưa có tiến triển đáng kể nào ở Việt Nam.
"Đa dạng hóa các đối tác chiến lược và toàn diện" chính là một trong những lối ra hiện nay của Việt Nam. Nếu muốn thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc ở các cấp độ khác nhau, kể cả với BRI, chính quyền Việt Nam phải kiến tạo được nhiều khuôn khổ đối trọng khác nhau. Nếu tham gia được vào "Mạng lưới các quốc gia thịnh vượng" trong khuôn khổ FOIP thì quả là cơ hội kim cương cho Việt Nam.
Để hoàn chỉnh một chiến lược hội đủ các yếu tố chống lại BRI nhằm ngăn ngừa rủi ro, đề phòng âm mưu của Trung Quốc, nhưng vẫn tận dụng được quan hệ hợp tác để phát triển (hưởng ứng BRI có mức độ), thì bên cạnh tăng cường sức mạnh cứng, nền Ngoại giao Việt Nam phải thực sự có những đột phá về chính sách. Từ duy trì trạng thái "cân bằng động" đến tham gia "cấu trúc an ninh tập thể" sẽ là một quá trình tiến hoá.
Trong quá trình ấy, Việt Nam từ nay phải chéo lái giữa "hai dòng nước xoáy" BRI và FOIP. Mâu thuẫn đối kháng Trung – Mỹ từ nay không chỉ thể hiện qua sự cạnh tranh quyết liệt giữa BRI và FOIP. Chuỗi xung đột Mỹ – Trung còn bao trùm cả cuộc hoa sơn luận kiếm giữa một bên là "chủ nghĩa toàn trị số hoá", còn bên kia là "không gian mạng sạch".
Ngày 13/10, Ngoại trưởng Vương Nghị lên tiếng cảnh báo các nước ASEAN không nên ngả theo Mỹ, đặc biệt là phải cảnh giác trước chiến lược Ấn Thái Dương của Hoa Kỳ mà ông Vương cho sẽ là một nguy cơ về an ninh trong khu vực. Trước đó, trong cuộc họp với các bộ trưởng ASEAN ngày 10/9, Ngoại trưởng Mike Pompeo kêu gọi ASEAN xem xét lại việc làm ăn với các công ty Trung Quốc mà Washington liệt vào danh sách đen. Ông Pompeo thẳng thừng, quý vị không chỉ dừng làm ăn với Trung Quốc, mà phải hành động cụ thể.
"Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay" (Everything happens for a reason). Việt Nam và ASEAN rõ ràng dễ bị "kẹt cứng" giữa cả hai đại cường. Đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức trong cuộc đối đầu lịch sử này, chính sách của Hà Nội đối với BRI không thể chỉ đóng khung trong khuôn khổ bang giao Việt – Trung đầy trắc trở, mà còn phải bao hàm một tầm nhìn bao quát và rộng lớn hơn của ban lãnh đạo mới sau Đại hội 13. Hãy kiên nhẫn chờ xem !
Đinh Hoàng Thắng
Nguồn : RFA, 14/10/2020
Cùng đề tài trên :
Việt Nam dè chừng Sáng kiến Vành đai - Con đường của Trung Quốc
Ngày tàn của "Vành đai và Con đường"
Việt Nam với "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI)
Thiếu tướng Trương Giang Long - Quan hệ Việt Nam với các nước lớn
Tập Cận Bình muốn Vành đai và Con đường 'được minh bạch' (BBC, 26/04/2019)
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tìm cách xoa dịu quan ngại về dự án Vành đai và Con đường tại hội nghị thượng đỉnh ở Bắc Kinh.
Ông Tập cho biết Trung Quốc sẽ tăng cường nỗ lực bảo đảm việc bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Tập tuyên bố sẽ đảm bảo sự minh bạch và "tính bền vững tài khóa" của tất cả các dự án.
Sáng kiến này được một số người coi là một nỗ lực cho ảnh hưởng địa chính trị và đã bị chỉ trích tạo ra nợ nần với các quốc gia đi vay.
Ông Tập cũng tìm cách giải quyết các mối quan ngại thương mại chính của Hoa Kỳ trước cuộc hội đàm hai nước vào tuần tới.
Phát biểu vào ngày thứ hai của hội nghị thượng đỉnh Vành đai và Con đường, ông Tập cho biết mục đích của chương trình cơ sở hạ tầng là "tăng cường kết nối và hợp tác thực tế".
Sáng kiến đầy tham vọng, dự kiến sẽ cần đến hơn 1 nghìn tỷ đô la đầu tư, đã và đang cấp vốn cho ác dự án xe lửa, đường bộ và cảng ở nhiều quốc gia.
Ông nói rằng chương trình này là nhằm "mang lại kết quả cùng có lợi và phát triển chung".
"Mọi thứ nên được thực hiện theo cách thức minh bạch và chúng ta không thể khoan dung với tham nhũng", ông nói. "Chúng ta cũng cần đảm bảo tính bền vững thương mại và tài khóa của tất cả các dự án để chúng sẽ đạt được các mục tiêu dự định theo đúng kế hoạch đề ra".
Bắc Kinh đang phô diễn các dự án cơ sở hạ tầng hàng đầu của mình tại diễn đàn ba ngày nơi nước chủ nhà đón các nhà lãnh đạo thế giới bao gồm Tổng thống Nga Vladimir Putin và Thủ tướng Ý Giuseppe Conte.
Phát biểu tại Bắc Kinh, bà Christine Lagarde, Giám đốc Điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nói về nhu cầu tạo ra 'Vành đai và Con đường 2.0' với tinh thần "chỉ kiến thiết ở đâu có phát triển bền vững và tính minh bạch".
Tân Tổng giám đốc Ngân hàng Thế giới, David Malpass, người Mỹ đã không dự Diễn đàn BRF tại Bắc Kinh lần này vì bận đi Châu Phi.
Tuy thế, bà Kristalina Georgieva, CEO của Ngân hàng Thế giới đại diện cho tổ chức này đến Bắc Kinh, nơi bà phát biểu về nguy cơ 'bẫy nợ'.
"Khi chúng ta có kế toán tốt, không đầu cơ, thì việc thật rõ là gánh nặng nợ nần một quốc gia có thể gánh chịu là bao nhiêu. Và Ngân hàng Thế giới có vai trò ở đây... đối với Vành đai và Con đường, cần có hệ thống đánh giá độc lập, của bên thứ ba, để giúp các quốc gia làm đúng".
Bị chỉ trích tạo ra gói nợ
Dự án đã bị chỉ trích vì để lại một số quốc gia lún sâu vào nợ nần như việc Sri Lanka buộc phải trao quyền kiểm soát một cảng vào năm 2017 để trả lại một số khoản vay nước ngoài.
Với các cuộc đàm phán thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc do tiếp tục vào tuần tới, ông Tập cũng đã tìm cách giải quyết một số điểm tranh chấp chính.
Các cuộc đàm phán giữa hai nước đã được tiến hành kể từ tháng 12 khi cả hai bên đồng ý đình chỉ thuế quan trong nỗ lực ăn miếng trả miếng.
Hoa Kỳ cáo buộc Trung Quốc đánh cắp tài sản trí tuệ và muốn Bắc Kinh thay đổi chính sách kinh tế của mình mà Washington nói Bắc Kinh đã ủng hộ các công ty trong nước không công bằng thông qua trợ cấp.
Hoa Kỳ cũng muốn Trung Quốc mua thêm hàng hóa Mỹ để kiềm chế thâm hụt thương mại lớn.
Trung Quốc cáo buộc Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến thương mại lớn nhất trong lịch sử kinh tế và nhiều người ở Bắc Kinh coi cuộc chiến thương mại là một phần trong nỗ lực của Mỹ nhằm kiềm chế sự gia tăng của nước này.
Trong bài phát biểu của mình, ông Tập cho biết Trung Quốc sẽ tăng cường nỗ lực bảo đảm việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, tăng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ và đảm bảo môi trường giao dịch công bằng cho các công ty, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải đối xử công bằng.
"Chúng tôi sẽ rà soát toàn diện và bãi bỏ các quy định, trợ cấp và những thói quen phi lý, cản trở cạnh tranh công bằng và bóp méo thị trường", ông Tập nói.
"Chúng tôi hy vọng rằng các quốc gia khác cũng sẽ tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, đối xử với các doanh nghiệp, sinh viên và học giả Trung Quốc bình đẳng, và tạo một môi trường công bằng và thân thiện để họ tham gia trao đổi và hợp tác quốc tế bình thường".
***************
Chủ tịch Tập Cận Bình hôm 26/4 phát biểu khai mạc rằng "Sáng kiến Vành đai và Con đường" cần phải thân thiện với môi trường và bền vững, và rằng cơ sở hạ tầng lớn cũng như kế hoạch thương mại phải dẫn tới sự phát triển "chất lượng cao" cho mọi người.
Ông Tập có kế hoạch khôi phục lại Con đường Tơ lụa, nối Trung Quốc với Châu Á, Châu Âu và xa hơn nữa với mức chi tiêu khổng lồ cho cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, theo Reuters, sáng kiến này cũng gây ra nhiều tranh cãi vì một số quốc gia đối tác phàn nàn về chi phí cao cho các dự án.
Trung Quốc đã nhiều lần nói rằng nước này không tìm cách đẩy bất kỳ ai vào bẫy nợ cũng như chỉ có các mục đích tốt đẹp.
Trong bài phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh về "Sáng kiến Vành đai và Con đường", ông Tập nói rằng bảo vệ môi trường phải là nền tảng của chương trình nhằm "bảo vệ ngôi nhà chung chúng ta đang sống".
Ông nói thêm : "Xây dựng cơ sở hạ tầng toàn diện, chất lượng cao, bền vững, chống rủi ro và giá cả hợp lý sẽ giúp các nước hoàn toàn tận dụng được các nguồn lực".
Sáng kiến Vành đai và Con đường của Chủ tịch Tập Cận Bình đã gây ra nhiều tranh cãi ở nhiều nước phương Tây, nhất là Mỹ, vốn coi đó là một phương tiện để gây ảnh hưởng của Trung Quốc ở nước ngoài cũng như đặt gánh nặng lên các nước với khoản nợ không bền vững qua các dự án thiếu minh bạch.
Các nhà lãnh đạo thế giới tới Trung Quốc dự diễn đàn có Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng như Thủ tướng Imran Khan của Pakistan, một đồng minh thân thiết của Trung Quốc.
Ngoài ra, còn có đại diện các nước nhận đầu tư lớn của "Sáng kiến Vành đai và Con đường" cũng như lãnh đạo của Italia, quốc gia đầu tiên thuộc nhóm G7 gia nhập sáng kiến.
II. Cuộc phiêu lưu lịch sử 'Vành Đai và Con Đường'
Số phận của "Sáng kiến Vành đai và Con đường" cũng là số phận của chế độ cộng sản Trung Quốc. Tập Cận Bình đã được tôn vinh vì ông đã vẽ ra một tương lai huy hoàng trong một tình trạng tuyệt vọng. Người ta tin ông vì người ta cần và muốn tin. Người ta thần thánh hóa ông vì người ta cần một phép mầu. Nhưng Vành đai và Con đường không thể tiếp tục, chưa nói thành công, vì nó là một thách đố đối với sự thực và lý trí.
Cuộc chinh phục của Thành Cát Tư Hãn đã diễn ra trong hoàn cảnh Trung Quốc không chủ động mà chỉ là nạn nhân.
Trung Quốc đã từng là đế quốc chế ngự Châu Á trong hơn 2000 năm và vẫn là nước đông dân nhất thế giới. Tuy vậy một đặc tính của Trung Quốc trong suốt dòng lịch sử là nó chưa bao giờ có tham vọng bành trướng ra khỏi vùng Đông Á. Cuộc chinh phục của Thành Cát Tư Hãn đã diễn ra trong hoàn cảnh Trung Quốc không chủ động mà chỉ là nạn nhân. Đặc tính này đang chấm dứt ngay trước mắt chúng ta với dự án khổng lồ được gọi là "Sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative).
Trong một cố gắng thoát hiểm
Dự án này, cho tới gần đây vẫn còn được gọi là "Một vành đai, một con đường" được dự trù hoàn tất vào năm 2049, đánh dấu 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và sẽ đưa Trung Quốc lên ngôi vị cường quốc số 1 và vượt trội nhất thế giới với trọng lượng kinh tế lớn hơn cả Mỹ, Châu Âu và Nhật cộng lại. Nó được coi là sáng kiến vĩ đại của Tập Cận Bình và đã khiến ông được tôn vinh làm chủ tịch vô thời hạn của Trung Quốc và được đưa tên vào hiến pháp như Mao Trạch Đông. Tuy vậy người ta có lý do để nghĩ rằng "sáng kiến" này không thể hiện một viễn kiến mà chỉ do hoàn cảnh đưa đẩy để dần dần biến thành một cuộc chạy trốn bắt buộc về phía trước và không còn kiểm soát được nữa.
Sáng kiến này trước hết nằm trong khuôn khổ của cố gắng thoát hiểm của Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã hốt hoảng. Thủ tướng Trung Quốc lúc đó là ông Ôn Gia Bảo đã tuyên bố rằng nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thụt xuống dưới mức 8% thì Trung Quốc sẽ lâm vào bạo loạn. Lời tuyên bố này tương đương với một lời thú nhận tình trạng tuyệt vọng -bởi vì tăng trưởng 8% là một mục tiêu không thể thực hiện được trong một bối cảnh suy thoái toàn cầu và như thế Trung Quốc sẽ có bạo loạn- nhưng nó chắc chắn không phải là ý kiến cá nhân của ông Ôn Gia Bảo, bởi vì sau đó không có cấp lãnh đạo Trung Quốc nào phát biểu khác, trái lại mọi cố gắng của chính quyền Trung Quốc đều phản ánh mối lo sợ của ông.
Trước hết là nỗ lực phát triển nhanh chóng thị trường nội địa để bù lại sự sút giảm của hoạt động xuất khẩu. Lương công nhân nói chung được tăng gấp đôi trong vòng khoảng hai năm. Biện pháp này không thành công mà còn có tác dụng ngược lại với sự chờ đợi. Tiêu thụ nội địa không tăng bao nhiêu vì người Trung Quốc chủ yếu dùng số thu nhập mới để cất giữ phòng hờ khi đau ốm, nỗi ám ảnh thường trực của họ vì Trung Quốc không có bảo hiểm an sinh xã hội. Việc tăng lương công nhân đã chỉ khiến giá thành của hàng xuất khẩu tăng lên và khó bán. Một số công ty nước ngoài sau đó đã di chuyển sang các nước khác trong vùng như Bangladesh, Myanmar, Thái Lan và cả Việt Nam.
Mùa hè 2015 thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến đã sụp đổ khiến một phần quan trọng của giai cấp trung lưu phá sản.
Một sáng kiến khác được tung ra năm 2014 là dựa trên hình ảnh của Trung Quốc như là một thị trường có tiềm năng lớn và còn nhiều dự trữ ngoại tệ -vì còn cho Mỹ và Châu Âu vay trên 3.000 tỷ USD- để biến Thượng Hải thành một trong những trung tâm tài chính lớn, tương đương với New York hay ít nhất với London và Tokyo. Hy vọng của chính quyền Trung Quốc là như thế họ sẽ dễ huy động các nguồn vốn quốc tế. Người dân Trung Quốc, đặc biệt là giai cấp trung lưu, được hô hào dồn tiền mua cổ phần. Trong vòng không đầy một năm số vốn cũng như số người đầu tư vào thị trường chứng khoán Thượng Hải tăng gấp hơn mười lần. Chỉ số CSI 300 cũng tăng cũng tăng gần 100%. Người Trung Quốc đổ xô đi mua cổ phiếu, thị trường chứng khoán Thượng Hải gần như trở thành một sòng bài. Sáng kiến này sau không đầy hai năm đã trở thành một tai họa vì mùa hè 2015 thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến đã sụp đổ khiến một phần quan trọng của giai cấp trung lưu phá sản. Thị trường chứng khoán Trung Quốc sau đó đã liên tục suy sụp mặc dù chính quyền Bắc Kinh không ngừng can thiệp một cách rất tốn kém để cứu vãn. Từ đầu năm nay –cho đến khi tôi viết những dòng này- thị trường chứng khoán Thượng Hải đã xuống hơn 22%, Thẩm Quyến gần 30% (trong khi các thị trường chứng khoán Châu Âu xuống khoảng 5 tới 10%, Mỹ quân bình, Nhật xuống ít, riêng Ân Độ tiếp tục lên). Vấn đề phục hồi thị trường chứng khoán để làm dụng cụ động viên vốn hoàn toàn không đặt ra nữa nhưng các ngân hàng của nhà nước vẫn phải liên tục dồn tiền để tránh sự sụp đổ của thị trường chứng khoán kéo theo sự sụp đổ của cả nền kinh tế. Thất bại đã rất đau đớn.
Biện pháp kinh tế đã giúp Bắc Kinh giữ được mức độ tăng trưởng giả tạo cao là xây dựng. Kinh tế Trung Quốc là kinh tế chỉ huy và các tỉnh nhận được lệnh của trung ương là phải duy trì mức tăng trưởng 8% bằng mọi giá. Giải pháp khả thi duy nhất đối với họ là xây dựng. Xây dựng không đòi hỏi kỹ thuật cao và lại có tác dụng lôi kéo vô số hoạt động khác. Họ đã xây dựng tới tấp và vẫn còn tiếp tục xây dựng cho tới nay dù đã xây hàng trăm thành phố không người ở. Một nghiên cứu cho thấy là vào đầu năm 2017 số căn hộ (apartment) không người ở đã lên tới 64 triệu. Giờ này chắc phải trên 70 triệu. Trị giá các căn hộ này dĩ nhiên được tính vào tổng sản lượng quốc gia và khiến tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc không xuống nhiều so với trước năm 2008, mới đầu ở mức 8%, sau đó dần dần xuống 7% và bây giờ 6,5%. Điều mà mọi người đều có thể nhận thấy là kinh tế Trung Quốc luôn luôn "đạt chỉ tiêu". Lý do dễ hiểu là các cao ốc và các căn hộ được đánh giá một cách tùy tiện. Trên thực tế các căn hộ này có mọi triển vọng sẽ không bao giờ bán được và sẽ hư dần, như thế chúng không có một giá trị nào cả. Trị giá trung bình của mỗi căn hộ là 100.000 USD, trị giá của 70 triệu căn hộ không người mua như vậy vào khoảng 7.000 tỷ USD. Nếu trừ ra số tiền này khỏi GDP thì kinh tế Trung Quốc không tăng trưởng mà còn suy thoái nặng. Trung Quốc đã và vẫn còn đang trả giá rất đắt để giữ một tỷ lệ tăng trưởng giả tạo.
Biện pháp kinh tế đã giúp Bắc Kinh giữ được mức độ tăng trưởng giả tạo cao là xây dựng.
Cũng không phải chỉ có thế. Các thành phố ma không chỉ là những tốn kém vô ích mà còn làm mất đi nhiều vùng đất phì nhiêu lớn trong khi đất canh tác được của Trung Quốc ngày càng hiếm. Cũng nên nhắc lại rằng Trung Quốc tuy có diện tích 10 triệu km2 nhưng hơn một tỷ người sống chen chúc trên một phần đất được coi là cái nôi lịch sử của Trung Quốc ở phía Đông không tới 2 triệu km2 và phần lớn các thành phố ma mọc lên tại vùng này. Một thí dụ là tại Quảng Đông, nơi 115 triệu người sống trên 180.000 km2, có hai thành phố ma rất lớn, Đông Quản dự trù cho 10 triệu người và Đại Á Vịnh dự trù đón 12 triệu người nhưng sau sáu năm hơn 70% các căn hộ vẫn chưa có người mua và còn bỏ trống. Trung tâm Thương mại Nam Á (The South China Mall) tại Đông Quản được xây lên với tham vọng sẽ là trung tâm thương mại lớn nhất thế giới bây giờ trống trơn, nhắc nhở một mộng lớn không thành.
Trung Quốc không chỉ xây nhà và các thành phố, họ còn xây đủ loại công trình kết cấu hạ tầng : xa lộ, đường sắt, cầu, kênh đào, đường ống dẫn dầu khí (pipeline), phi trường, hải cảng v.v. Họ xây ở bất cứ nơi nào có thể xây, kể cả những nơi không nên xây như khu thắng cảnh Thạch Lâm mà tôi đã nói tới trong một bài trước (1). Trung Quốc không chỉ có những thành phố ma mà còn có xa lộ vắng và những tuyến đường sắt chỉ có một chuyến tầu mỗi ngày, thậm chí mỗi tuần (2). Một thí dụ mà tôi biết được trong chuyến thăm viếng Trung Quốc vừa qua là tuyến đường bộ dài 2000 km từ Shangri-La tới Lhassa không còn được sử dụng nữa dù mới hoàn thành gần đây.
Các thành phố ma không chỉ là những tốn kém vô ích mà còn làm mất đi nhiều vùng đất phì nhiêu lớn trong khi đất canh tác được của Trung Quốc ngày càng hiếm.
Để trả lời những thắc mắc ngày càng khó bỏ ngoài tai chính quyền Bắc Kinh nói rằng họ đang xây dựng cho ngày mai. Nhưng ngày mai nào vì phần lớn các thành phố, căn hộ và đường xá trống và do đó không được bảo trì này sẽ hư hỏng trong tương lai gần ? Trên đường từ Côn Minh tới Đại Lý tôi đã thấy một khu đất rộng trên đó có hàng trăm xe cần trục cao vút giống như những con sếu khổng lồ đứng yên. Hỏi ra thì được biết chúng không thể sử dụng được nữa vì không còn chỗ nào để xây. Một sự thực không thể chối cãi là Trung Quốc đã tốn rất nhiều tiền cho những công trình xây dựng không chỉ vô ích mà còn cướp đi tài nguyên ngày càng quý hiếm : đất.
Nhưng tại sao ? Cho tới nay giải thích thông thường vẫn là đã có sai lầm về ước tính nhu cầu trong kế hoạch, nhưng tại sao có thể sai lầm quá đáng như vậy ? Thăm viếng Trung Quốc lần này tôi nghĩ còn có một lý do khác : an ninh. Nhìn các toán cảnh sát võ trang hiện diện khắp nơi trong tư thế sẵn sàng can thiệp tôi chợt nhớ lại lời ông Ôn Gia Bảo là tăng trưởng kinh tế chậm lại chắc chắn sẽ đưa tới bạo loạn. Đó là nỗi ám ảnh của ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc khi kinh tế khựng lại và khuynh hướng ly khai mạnh lên. Họ cần xây đường, đường sắt cũng như đường bộ, để có thể điều động nhanh chóng đến bất cứ nơi nào một lực lượng vũ trang đủ mạnh để dập tắt mọi cuộc nổi dậy. Lo ngại về an ninh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thể hiện qua một sự kiện mà ít nhà báo nào để ý, đó là công an Trung Quốc hoàn toàn thuộc trung ương, ngay cả các tỉnh và các khu tự trị cũng không có quyền có công an riêng, chưa nói quân đội địa phương. Khuynh hướng ly khai có thật tại Trung Quốc, nó nổi bật tại Tây Tạng và Tân Cương nhưng cũng có ngay cả tại Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên và các tỉnh phía Tây nói chung. Điểm nổi bật của Trung Quốc hiện nay mà các quan sát viên đều đồng ý là trong giai đoạn phát triển ồ ạt các tỉnh được lợi nhất đã là các tỉnh phía Đông giáp bờ biển, thuộc vùng được coi là cái nôi của Hán tộc. Nói chung hiện nay các tỉnh phía Đông giầu gấp ba lần các tỉnh phía Tây (hay các tỉnh phía Tây nghèo gấp ba lần các tỉnh phía Đông).
Họ cần xây đường, đường sắt cũng như đường bộ, để có thể điều động nhanh chóng đến bất cứ nơi nào một lực lượng vũ trang đủ mạnh để dập tắt mọi cuộc nổi dậy - Ảnh minh họa trục xa lộ không có xe chạy
Chính sách xây dựng ồ ạt này như vậy nhắm hai mục tiêu, duy trì mức tăng trưởng giả tạo và kiểm soát các tỉnh miền Tây nơi sự chênh lệch giầu nghèo Đông Tây đang nuôi dưỡng khuynh hướng ly khai. Các cuộc tấn công của các nhóm "chống Hán" thường xuyên xảy ra tại Tân Cương, chính quyền Trung Quốc đã giam giữ hàng triệu người trong tỉnh 21 triệu dân này. Tại nhà ga Côn Minh đầu năm 2014 một nhóm khủng bố đã dùng dao đâm chết hơn 30 người. Việc xây dựng các đường giao thông dĩ nhiên có tác dụng phát triển các tỉnh phía Tây nhưng khi tới đây người ta nhận ra là chúng cũng đáp ứng nhu cầu quân sự. Phi trường Lhassa, thủ đô Tây Tạng, chỉ có một hay hai chuyến bay dân sự mỗi ngày nhưng đầy rẫy phi cơ chiến đấu và xe tăng. Và chính vì nhu cầu an ninh được coi là khẩn cấp sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, như lời ông Ôn Gia Bảo, nên chúng đã được xây dựng một cách dồn dập. Kết quả là sau đó Trung Quốc có một lực lượng xây dựng, trang thiết bị cũng như công nhân, quá dư thừa so với nhu cầu, và họ phải tìm cách sử dụng. Đó chính là nguyên nhân của "sáng kiến" Vành đai và Con đường.
Một vành đai, Một con đường
Tháng 9/2013 trong một bài diễn văn tại Kazakhstan ông Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng hợp tác xây dựng một con Đường Tơ Lụa Mới nối liền Trung Quốc và Châu Âu. Một tháng sau, tại Indonesia ông kêu gọi hợp tác xây dựng các hải cảng cho một con đường biển nối liền các tỉnh bờ biển Trung Quốc và Địa Trung Hải thông qua Châu Phi. Hai bài diễn văn này được coi là đã chính thức khai sinh ra "Sáng kiến Một vành đai, Một con đường". Vành đai trên đất liền, con đường trên biển. Vành đai gồm bốn hành lang giữa Trung Quốc và Châu Âu và một hành lang ASEAN từ Côn Minh qua Lào, Campuchia, Malaysia tới Singapore ; mỗi hành lang bao gồm xa lộ, đường sắt, đường ống dẫn dầu khí và cả các nhà máy. Con đường là đường biển nối liền các hải cảng.
Dự án khổng lồ được gọi là "Sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative).
Thực ra hai bài diễn văn của Tập Cận Bình chỉ đặt một tên gọi chung cho rất nhiều công trình xây lắp đủ loại đã được xúc tiến rất mạnh mẽ từ trước, ít nhất từ năm 2010, khi Trung Quốc thấy phải tìm mọi cách để sử dụng khả năng xây dựng quá dư thừa so với nhu cầu trong nước mà họ đã tạo ra để thoát hiểm trong cơn hốt hoảng 2008. Các công ty xây lắp Trung Quốc đấu thầu các công trình đủ loại –xa lộ, đường sắt, hải cảng, cầu, đường ống dẫn dầu khí, phi trường, nhà máy v.v.- ở khắp mọi nước, dĩ nhiên kể cả Việt Nam, với những điều kiện vừa dễ dãi vừa thuận lợi. Dễ dãi vì giá thấp hơn hẳn so với các công ty khác trên thế giới, thuận lợi vì Ngân Hàng Ngoại Thương Trung Quốc sẵn sàng cho vay chi phí xây dựng với lãi suất rất thấp hoặc không lấy lãi.
Một điều quan trọng cần được lưu ý là cũng vào lúc đó Trung Quốc nhận ra là phải gỡ bỏ dần thay vì thành lập thêm các nhà máy nhiệt điện, thép, giấy, phân bón chạy bằng than. Họ bán với giá gần như cho không các thiết bị dự trù cho các nhà máy sắp thành lập nhưng sẽ không thành lập nữa và còn đề nghị đảm nhiệm việc xây dựng với giá đặc biệt hấp dẫn. Nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đã trở thành những bãi rác công nghiệp của Trung Quốc. Tập Cận Bình chỉ mở ra giai đoạn thứ hai của một chính sách tháo chạy hốt hoảng về phía trước, đã có từ ít nhất ba năm.
Vành đai và Con đường
Đầu năm 2017 một hội nghị quốc tế mới được triệu tập ở Bắc Kinh và lần này toàn thể những công trình này được trình bày như một chương trình hợp tác toàn cầu và được gọi bằng một tên mới : "Sáng kiến Vành đai và Con đường". Đức, Anh, Pháp và Mỹ tuyên bố không ủng hộ vì "sáng kiến" này không rõ rệt về nhân quyền và môi trường nhưng 68 quốc gia khác đã tuyên bố hưởng ứng. Hiện nay, sau hơn một năm, không còn ai có thể phân biệt những quốc gia nào và những dự án nào nằm trong khuôn khổ của sáng kiến Vành đai và Con đường. Nó trở thành tên gọi chung của toàn bộ các công trình xây dựng và lắp ráp đủ loại trong đó Trung Quốc giữ vai trò chủ động, kể cả tại Nam Mỹ.
Không thể liệt kê hết những công trình này vì chúng quá nhiều, hơn 8.000 hợp đồng đã được ký kết, người ta chỉ có thể nhận xét vài nét chính của nó.
Thứ nhất là Trung Quốc tài trợ gần như hoàn toàn các dự án này và không đặt bất cứ một điều kiện nào về bản chất cũng như phẩm chất của các chính quyền. Trung Quốc hợp tác với bất cứ chính quyền nào chấp nhận hợp tác với họ, dù là một chính quyền tham nhũng, quân phiệt, bạo ngược.
Thứ hai là chính quyền Trung Quốc trong tuyệt đại đa số các trường hợp không trực tiếp ký các hợp đồng. Đối tác của các quốc gia là các công ty quốc doanh Trung Quốc. Các công ty này cho vay vốn đầu tư và điều động công nhân của mình tới nơi cùng với các trang thiết bị và vật liệu cần thiết để thực hiện.
Thứ ba là để đổi lại với những dễ dãi, Trung Quốc đòi một điều kiện là trong trường hợp có tranh tụng các tòa án Trung Quốc sẽ phán quyết. Trung Quốc như vậy vừa là đối tác vừa là trọng tài.
Trong số những dự án được nói tới nhiều nhất người ta có thể kể tuyến đường sắt 12.000 km nối liền Nghĩa Ô (Yiwu) thuộc tỉnh Chiết Giang với London (trong đó Trung Quốc chỉ xây những đoạn đường mới để bổ túc cho những đoạn đường có sẵn), xa lộ nối liền thủ đô Nairobi và cảng Mombassa tại Kenya, nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại Bostwana, tuyến đường sắt 62 tỷ USD từ Khách Thập (Kashgar, Tân Cương) tới cảng Gwadar (Pakistan), đường ống dẫn dầu khí từ Turmenistan tới Thượng Hải, đường sắt xuyên Lào, Đập Diam - Basha tại Pakistan, cảng Hambantota tại Sri Lanka, chiếc cầu dài trên quần đảo Malidives, hay xa lộ Montenegro. Những dự án này được nói tới nhiều vì những sự cố chứ không phải vì chúng quan trọng hơn những dự án khác.
Thí dụ như cảng Hambantota sau khi hoàn tất không có tầu buôn nào ghé, do đó không có lợi tức để trả nợ, cuối cùng phải nhường cho Trung Quốc quyền khai thác trong 99 năm. Cảng Gwadar cũng trong trường hợp tương tự và phải nhường cho Trung Quốc trong 40 năm (Trung Quốc cũng đang đề nghị một giải pháp tương tự với cảng Kyauk Pyi với chi phí xây dựng 7,2 tỷ USD của Myanmar). Xa lộ Montenegro được xây bất chấp các kết luận của các nghiên cứu theo đó nước Montenegro hoàn toàn không cần xa lộ dài 100 km này, một xa lộ hơn nữa rất tốn kém vì phần lớn là những cầu bắt ngang các đỉnh núi cao. Trị giá dự trù của xa lộ là 950 triệu USD nhưng bây giờ số tiền này đã dùng hết và còn cần thêm 1.200 triệu USD. Montenegro là một nước rất nhỏ, chỉ có 630.000 dân và đã nợ gần 100% GDP rồi. Chắc chắn không ai cho vay nữa trừ Trung Quốc. Để được gì ?
Chiếc cầu 225 triệu USD trên quần đảo Maldives còn khó tưởng tượng hơn. Nó không có ngay cả lý do hiện hữu. Maldives (300 km2, 400.000 dân) là một nước Hồi giáo dữ tợn trong đó một thiếu nữ chưa có chồng mà có người yêu có thể bị đánh 100 hèo, trẻ con 10 tuổi phải chịu trách nhiệm về hành động của mình trước tòa và chịu án tù. Maldives hoàn toàn không có tương lai vì trong vòng 60 năm nữa sẽ chìm dưới mặt nước biển và người Maldives sẽ phải di tản đi nơi khác. Chiếc cầu này còn công dụng gì ? Điều chắc chắn là Maldives sẽ không bao giờ trả được món nợ 225 triệu USD cho Trung Quốc. Vậy Trung Quốc xây cầu này để làm gì ? Các quan sát viên đều đồng ý rằng Trung Quốc sẽ đòi chính quyền Maldives nhượng dài hạn quyền sử dụng chiếc cầu này rồi biến nó thành một đảo nhân tạo khi cả quần đảo đã chìm.
Chiếc cầu 225 triệu USD trên quần đảo Maldives
Nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại Botswana đã tốn 950 triệu USD của quốc gia chỉ có 2,2 triệu dân này nhưng ngay sau khi đưa vào hoạt động đã phát nổ. Chính quyền Botswana đề nghị trả 800 triệu USD cho hai công ty Nhật và Hàn Quốc để sửa chữa và nâng cấp nhà máy này nhưng các công ty này sau cùng đã từ chối.
Kết quả nào ?
"Sáng kiến Vành đai và Con đường" được báo chí Trung Quốc tưng bừng ca tụng như một dự án vĩ đại sẽ đưa Trung Quốc lên dài vinh quang của cường quốc số 1 và vượt trội. Điều mà mọi người đều phải đồng ý, vì quá hiển nhiên, là thế giới đang chứng kiến một dự án lớn nhất từ xưa đến nay, lớn gấp nhiều lần Vạn Lý Trường Thành và các kim tự tháp Ai Cập. Để có một ý niệm về tầm vóc của sáng kiến này nên biết là Trung Quốc đã sử dụng trong vòng ba năm từ 2011 đến 2013 một khối lượng bê tông lớn gấp rưỡi khối lượng bê tông mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong suốt thế kỷ 20. Đây đang là diễn biến quan trọng và cần theo dõi nhất hiện nay vì sẽ quyết định tương lai của chế độ cộng sản Trung Quốc và sẽ có ảnh hưởng lớn lên toàn thế giới, trước hết là Châu Á và đặc biệt là Việt Nam.
Trung Quốc và những người bênh vực nó nói rằng Vành đai và Con đường là một sáng kiến hòa bình sẽ đem phúc lợi lại cho toàn thế giới, giúp các quốc gia chậm tiến vươn lên và đưa hàng tỷ người ra khỏi cảnh nghèo đói. Họ không hoàn toàn sai vì quả nhiên sáng kiến này đã giúp cải thiện một cách đáng kể, nhiều khi ngoạn mục, hạ tầng cơ sở của nhiều quốc gia kém mở mang, như tại Châu Phi.
Tuy vậy hầu hết các nhà nghiên cứu và các quan sát viên lại cho rằng mục tiêu của Trung Quốc chỉ giản dị là muốn gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới. Họ có lý bởi vì một mặt Trung Quốc chỉ nhắm xây dựng những công trình chiến lược chứ không hề quan tâm tới nước uống, nhà thương, trường học và mặt khác đã hợp tác ngay cả với những chính quyền rất tham nhũng và hung bạo, không những thế còn sử dụng tham nhũng và móc ngoặc để mua chuộc chúng. Cũng phải lưu ý một sự gian trá của Trung Quốc -và tất cả các chế độ độc tài- là khi nói đến hạ tầng cơ sở -hay kết cấu hạ tầng- họ chỉ nói đến những xây dựng vật chất như xa lộ, đường sắt, phi trường, hải cảng v.v. mà cố tình quên hai yếu tố của hạ tầng cơ sở quan trọng hơn nhiều là thể chế chính trị và con người.
Điều chắc chắn là Trung Quốc không phát động chương trình này vì lòng tốt. Như đã nói ở phần trên họ đã đẩy mạnh ngành xây dựng để thoát hiểm sau cuộc khủng hoảng 2008, rồi sau đó không xuống khỏi lưng cọp được nữa. Bành trướng thế lực thực ra chỉ là ước mơ sau khi đã bị bắt buộc phải lao vào một cuộc phiêu lưu hiểm nghèo mà bình thường chắc chắn họ không chọn.
Vậy sáng kiến Vành đai và Con đường đã đem lại cho họ những kết quả nào ?
Trung Quốc đã thành công lớn về mặt chiến lược. Các hành lang mở sang Châu Âu và sang Ấn Độ Dương (thí dụ như cảng Gwadar tại Pakistan và cảng Kyauk Pyi tại Myanmar) nếu tiếp tục được khai thác sẽ giúp Trung Quốc ra khỏi thế bị bao vây hiện nay trong đó phần lớn tiếp vận phải qua ngả Thái Bình Dương hoàn toàn do Mỹ và đồng minh khống chế. Ngoài ra sáng kiến này cũng đã khiến Trung Quốc trở thành nước có khả năng xây dựng vượt hẳn mọi quốc gia khác. Hiện nay bẩy trong số mười công ty xây dựng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc.
Một kết quả cụ thể thấy rõ là Trung Quốc gần như đã làm chủ hai nước Lào và Campuchia. Thủ đô Viêng Chăn đã gần như trở thành một thành phố Trung Quốc và một thành phố Viêng Chăn mới, lớn hơn, sắp xây xong. Kinh tế Lào hoàn toàn nằm trong tay người Trung Quốc. Nếu tình hình này tiếp tục thì trong mười năm nữa Lào sẽ là một tỉnh của Trung Quốc trên thực tế. Một căp vợ chồng người Campuchia vừa về thăm quê hương. Bà vợ, thuộc hoàng gia, nói với tôi rằng bà ấy hoàn toàn tuyệt vọng. Campuchia đã trở thành một thuộc địa của Trung Quốc. Riêng Sihanoukville đã trở thành một thành phố cờ bạc và mại dâm, đã có 30 casino và còn sắp có thêm 70 casino mới, các nhà chứa mọc nên như nấm, người Campuchia đang dần dần dời đi nơi khác. Các hãng xưởng hầu hết là của người Trung Quốc. Bà ấy nói một cách giận dữ trước sự im lặng chua xót của ông chồng : "Campuchia không còn là nước của chúng tôi nữa, mất rồi !". Với Lào và Campuchia trong tay, Trung Quốc gần như đã bao vây Việt Nam.
Campuchia và Lào là mô hình thu nhỏ của những gì đang diễn ra tại Châu Phi. Trung Quốc ồ ạt đấu thầu các công trình kết cấu hạ tầng và các công ty Trung Quốc sản xuất những sản phẩm kỹ thuật thấp như may mặc cũng ồ ạt di chuyển sang đây vì nhân công rẻ hơn tại Trung Quốc hai ba lần. Một số khai thác các mỏ. Đã có hơn 10.000 công ty đủ loại của người Trung Quốc tại các nước Châu Phi, trong đó 90% là các công ty tư doanh. Châu Phi cũng như Lào, Campuchia và, ở mức độ nào đó, Afghanistan và Myanmar đang là nguồn cung cấp nhân công rẻ cho hàng Trung Quốc, nghĩa là đảm nhiệm vai trò của Trung Quốc trước đây. Trong nhất thời sự can thiệp của Trung Quốc đã có lợi cho các quốc gia này, cải thiện một cách ngoạn mục kết cấu hạ tầng và nâng cao mức sống của rất nhiều người.
Kết quả không khả quan tại các nơi khác. Các dự án do Trung Quốc cho vay vốn và đấu thầu thực hiện thường có những đặc tính chung là thiếu phẩm chất, gây ô nhiễm nặng, chậm trễ trong tiến độ thi công và đội giá. Đường sắt Cát Linh – Hà Đông là một thí dụ điển hình : phẩm chất không đạt yêu cầu, dự trù hoàn tất trong bốn năm, sau hơn bẩy năm vẫn chưa xong, chi phí dự trù 552 triệu USD bị đội lên thành 892 USD. Vũng Áng và Ninh Bình là những kinh nghiệm đau thương khác. Đây không phải là một vài ngoại lệ mà là số phận chung của gần như tất cả các dự án do Trung Quốc đảm nhiệm ở mọi nơi và mọi nước, nhiều khi còn bi đát hơn. Dự án xa lộ Montenegro bị đội giá từ 950 triệu USD lên 2.150 triệu USD và vẫn còn dở dang, nhà máy nhiệt điện than tại Botswana mới đưa vào hoạt động đã phát nổ. Các nước chủ nhà không thể kiện bởi vì nếu kiện tranh tụng sẽ do tòa án Trung Quốc phán quyết và kết quả sẽ quá hiển nhiên. Họ đành chịu và khi họ không còn khả năng vay nợ thêm thì Trung Quốc sẵn sàng đề nghị chuyển nhượng quyền khai thác, nghĩa là nhường một phần chủ quyền quốc gia, cho mình trong 99 năm. Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao các nước chủ nhà có thể khờ khạo đến như thế ? Lý do rất giản dị là Trung Quốc đã mua chuộc các cấp lãnh đạo tham nhũng.
Dầu vậy, bên bị thiệt hại nhất, nghĩa là nạn nhân chính của "sáng kiến Vành đai và Con đường", chính là Trung Quốc. Thiệt hại đầu tiên là cách thi công gian lận và bê bối song song với thái độ thường thiếu nhã nhặn của những người điều khiển công trường, chưa kể ý đồ thường trực là muốn chiếm đoạt chủ quyền, đã tạo ra một phong trào bài Hoa tại nhiều nước chủ nhà. Việt Nam là một thí dụ. Malaysia và Myanmar ngừng những hợp đồng đang tiến hành, và việc Malaysia ngừng hợp đồng có nghĩa là hành lang ASEAN không thành. Sự bất mãn và phẫn nộ xuất hiện ở mọi nước nơi người dân có ít nhiều tinh thần quốc gia. Cũng rất may cho Trung Quốc là giai đoạn 3, giai đoạn "tổng tiến công" của sáng kiến Vành đai và Con đường, được tung ra đầu năm 2017 trùng với thời điểm Donald Trump lên làm tổng thống Mỹ. Donald Trump đã gây hấn với cả thế giới, làm rã rượi liên minh giữa các nước dân chủ, làm quên lãng phần nào môi trường và nhân quyền và khiến Mỹ trở thành đáng ghét hơn Trung Quốc dưới mắt nhiều dân tộc. Tuy vậy hình ảnh Trung Quốc cũng vẫn bị thiệt hại nặng.
Thiệt hại thứ hai là về mặt tài chính. Trung Quốc đấu thầu và cho vay vốn để thực hiện các công trình, nhưng phần lớn, nếu chưa phải là tất cả, các nước vay vốn đều không có tiền và cũng không muốn trả nợ. Trung Quốc làm gì được họ ? Giải pháp duy nhất là đành chịu, Trung Quốc không thể tịch thu xa lộ ở Nam Phi hay Ethiopia để đem về nước !
Nhưng mất mát tài chính không dừng lại ở đó. Vành đai và Con đường cũng là cơ hội để tiền và tài sản đào thoát khỏi Trung Quốc. Bên cạnh những xa lộ, đường sắt và hải cảng là những doanh nhân Trung Quốc mang vốn ra nước ngoài. Trong năm 2015 một nghiên cứu không bị phản bác cho thấy là đã có ít nhất 450 tỷ USD đào thoát ra nước ngoài từ Trung Quốc dưới hình thức đầu tư. Phong trào đào thoát của vốn từ đó chỉ tăng thêm chứ không giảm đi. Đây là một mất mát cho Trung Quốc chứ không phải là một sự bành trướng lực lượng. Hiện đang có khoảng 9.000 công ty tư của doanh nhân Trung Quốc được thành lập tại Châu Phi, có bao nhiêu trong số 9.000 doanh nhân này sẽ còn tự coi là công dân Trung Quốc trong mười năm nữa ? Có mọi triển vọng là sẽ không còn ai. Họ cũng giống như các doanh nhân Trung Quốc đầu tư tại các nơi khác.
Tương lai nào ?
Trong bài diễn văn tại hội nghị thượng đỉnh APEC họp tại Papua New Guinea tuần trước –một bài diễn văn đánh dấu một thay đổi chính sách đối ngoại quan trọng của Hoa Kỳ- phó tổng thống Mỹ Mike Pence đã mỉa mai sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh là "vành đai trói buộc và con đường một chiều". Nhưng ai bị trói và một chiều nào ? Có lẽ không hẳn như ông Pence nghĩ.
Như đã nói, sáng kiến Vành đai và Con đường về bản chất là sự tiếp nối của cố gắng thoát hiểm của chế độ cộng sản Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng 2008, một sự tiếp nối bắt buộc và càng ngày càng trở nên bắt buộc hơn cho sự sống còn của chế độ. Bắc kinh không thể ngừng xây dựng vì ngành này đang, trực tiếp hoặc gián tiếp, nuôi sống hàng trăm triệu gia đình. Chính họ bị trói buộc, dù hầu như chỉ có chi ra chứ không có thu vào. Như vậy số phận của Vành đai và Con đường cũng là số phận của chế độ cộng sản Trung Quốc.
Tập Cận Bình đã được tôn vinh vì ông đã vẽ ra một tương lai huy hoàng trong một tình trạng tuyệt vọng. Người ta tin ông vì người ta cần và muốn tin. Người ta thần thánh hóa ông vì người ta cần một phép mầu. Nhưng Vành đai và Con đường không thể tiếp tục, chưa nói thành công, vì nó là một thách đố đối với sự thực và lý trí. Để thực hiện những công trình mà phần lớn sẽ mất không Trung Quốc đã vay tiền để trả nợ cũ và tiếp tục cho vay. Tình trạng này không thể tiếp tục lâu. Nó sẽ kết thúc khi Trung Quốc không còn vay được nữa. Trong cuộc thăm viếng Trung Quốc vừa qua tôi đã có thể thấy là không khí tưng bừng và phấn khởi đang nhường chỗ cho sự lo âu.
Khi nào ? Trung Quốc hiện đã nợ trên 30.000 tỷ USD -phần lớn là của các quỹ đầu tư- trong đó trên 25.000 tỷ USD là nợ của chính phủ và các công ty nhà nước, nghĩa là nợ nhà nước. Các định chế thẩm định đã bắt đầu hạ điểm tín nhiệm của Trung Quốc và tình trạng này sẽ gia tốc trong những ngày sắp tới. Hiện nay lãi suất của các công trái và các trái phiếu hai năm của các công ty của nhà nước Trung Quốc đã ở mức 3,2% (lãi suất của các công trái hai năm của Hoa Kỳ, Nhật và các nước Châu Âu chỉ vào khoảng 0,5% là cùng). Trung Quốc hiện đang phải vay nợ mới để trả nợ cũ và phải trả khoảng 1.000 tỷ USD tiền lãi mỗi năm.
Ngày đó sẽ không xa vì các quỹ đầu tư ngày càng đánh giá Trung Quốc không phải là một con nợ đáng tin.
Nguyễn Gia Kiểng
(27/11/2018)
Diễn đàn cấp cao quốc tế về sáng kiến "Vành đai và Con đường" vừa được nước chủ nhà Trung Quốc tổ chức tại Bắc Kinh những ngày trung tuần tháng 5 vừa qua, với sự tham gia của lãnh đạo 29 quốc gia.
Được đưa ra năm 2013 bởi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, sáng kiến này đem tới viễn cảnh rộng lớn về sự kết nối các nền kinh tế tại Châu Á, Châu Phi, Châu Âu, hứa hẹn khi hoàn thành sẽ tạo thành mạng lưới kinh tế thương mại bao trùm một khu vực rộng lớn với dân số lên tới 4,4 tỷ người.
Phát biểu tại diễn đàn nói trên, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nói, Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến liên kết kinh tế, kết nối khu vực nói chung, sáng kiến của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về thúc đẩy kết nối kinh tế đa quốc gia, liên khu vực, liên lục địa trong khuôn khổ "Vành đai và Con đường" nói riêng, đặc biệt là ý tưởng "hòa bình và hợp tác, cởi mở và bao trùm, học hỏi lẫn nhau và cùng có lợi".
Đồng thời, Việt Nam mong muốn sáng kiến nói trên tiếp tục góp phần thúc đẩy liên kết kinh tế và kết nối khu vực, hỗ trợ các nước kém và đang phát triển trong xây dựng kết cấu hạ tầng và mở rộng thị trường, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia và đem lại cơ hội mới cho doanh nghiệp, người dân.
Bình luận về sự kiện này, trong cuộc trao đổi với VnEconomy, Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nói, đây là một chuyển biến rõ nét trong cách tiếp cận của Việt Nam đối với các ý tưởng hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính được Trung Quốc đề xuất, đặc biệt là từ sau năm 2014.
"Lựa chọn mang tính chủ động"
Ông đánh giá thế nào về khả năng Việt Nam tham gia sáng kiến "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc ?
Các hoạt động hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước luôn được tiến hành độc lập, căn cứ theo lợi ích quốc gia.
Trên thực tế, trước khi sáng kiến "Vành đai và Con đường" được đề xuất, Việt Nam đã chủ động đề xuất những ý tưởng hợp tác kinh tế song phương với Trung Quốc như "Hai hành lang, một vành đai".
Đồng thời, Việt Nam cũng tích cực cùng với các nước ASEAN triển khai các khung khổ hợp tác tiểu vùng giữa Nhật Bản và Trung Quốc với khu vực như hợp tác tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS), hợp tác "Một trục, hai cánh", hợp tác Mekong - Lan Thương…
Tôi cho rằng, việc hoan nghênh sáng kiến "Vành đai và Con đường" phản ánh lựa chọn mang tính chủ động của Việt Nam, thể hiện qua việc hai bên nhất trí khẩn trương bàn bạc, ký kết bản ghi nhớ về hợp tác kết nối trong khung khổ sáng kiến này.
Tuy nhiên, việc tham gia sáng kiến nhiều khả năng cũng sẽ tuân theo những nguyên tắc và thứ tự được cân nhắc kỹ.
Tôi không cho rằng Việt Nam sẽ chỉ tham gia về mặt chủ trương hoặc tham gia không điều kiện. Hình thức hợp tác chủ yếu trong sáng kiến này có thể sẽ là thông qua từng lĩnh vực đề xuất cụ thể, trên từng dự án cụ thể.
Việt Nam có thể nhận được những lợi ích gì nếu tham gia sáng kiến này, theo ông ?
Theo tôi, việc tham gia sáng kiến sẽ giúp Việt Nam có thêm nguồn vốn để phát triển mạng lưới hạ tầng giao thông và năng lượng phục vụ phát triển kinh tế.
Ngoài ra, nếu Trung Quốc cũng có thiện chí trong việc đầu tư hạ tầng giao thông kết nối các quốc gia trong khu vực, Việt Nam có thể tận dụng được nguồn vốn này để tăng cường gắn kết, tạo giá trị thương mại và đầu tư lớn hơn với các nước Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, việc tham gia sáng kiến này cũng có thể thúc đẩy sự phát triển của du lịch giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Nhưng trước mắt, theo tôi, với các đề xuất hợp tác của Trung Quốc, Việt Nam cần có nghiên cứu kỹ lưỡng, không vội vàng.
Đặc biệt là các đề nghị hợp tác xây dựng khu kinh tế xuyên biên giới hay cơ chế hải quan một cửa. Khu kinh tế xuyên biên giới là mô hình có mức độ đàm phán khó. Bởi chính Trung Quốc cũng chưa có kinh nghiệm trong mô hình này.
Lợi ích nhiều, không xem nhẹ thách thức
Nếu tham gia "Vành đai và Con đường", dự kiến Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) sẽ cung cấp nguồn vốn ưu đãi cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Điều này có thể mang tới những tác động nào đối với Việt Nam ?
Việc vay vốn từ AIIB có thể giúp Việt Nam giải quyết phần nào các thiếu hụt về nguồn vốn cho các dự án hạ tầng giao thông và năng lượng.
Theo tính toán của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) vào năm 2012, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 10,4 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trong đó tới 53% là để xây mới.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, nhu cầu vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng giao thông do Bộ Giao thông Vận tải quản lí vào khoảng 40 – 45 tỷ USD.
Trong khi đó, khả năng đáp ứng nhu cầu đáp ứng của nguồn ngân sách và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách - như trái phiếu Chính phủ, vốn Odự án - chỉ khoảng 28%, còn nếu theo hướng dẫn xây dựng kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 thì nguồn vốn này chỉ đáp ứng được 7% nhu cầu.
Trong bối cảnh các khoản cho vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và ADB chỉ đáp ứng một phần nhu cầu đầu tư của Việt Nam, tôi cho rằng AIIB có thể góp phần bổ sung quan trọng cho nhu cầu này.
Tuy nhiên, cũng có một số điểm tôi muốn lưu ý.
Thứ nhất, AIIB không phải là định chế duy nhất của Trung Quốc cấp tài chính phát triển cho Việt Nam, các ngân hàng chính sách của nước này như Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (CHEXIM) cũng đã cung cấp vốn cho Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ hai, các điều kiện cho vay của Trung Quốc thường dễ và thuận tiện, nhưng tác động tiêu cực cũng không phải không có.
Thứ ba, cần kiểm soát nợ công. Chi phí đầu tư và hiệu quả kinh tế luôn là yếu tố cần được ưu tiên xem xét hàng đầu khi quyết định lựa chọn loại hình cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của quốc gia và liên kết quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh áp lực nợ công ngày càng lớn.
Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế của Việt Nam năm 2016 do WB công bố cho thấy dư nợ công tính đến cuối năm 2015 là 117 tỷ USD, tăng gấp đôi so với mức nợ công của năm 2011. Trong đó, nợ Chính phủ đã chiếm tới 50,3% GDP, vượt ngưỡng 50% do Quốc hội đề ra.
Cũng trong báo cáo này, WB dự báo nợ công của Việt Nam sẽ có thể đạt mức 64,9% GDP vào năm 2018.
Các khoản nợ công tăng cao sẽ tạo ra cho Chính phủ nhiều ràng buộc hơn. Với hơn 50% nợ công là nợ Chính phủ, nếu vay nợ càng nhiều thì sức ép lên ngân sách càng lớn, thâm hụt tài khóa càng cao, trong bối cảnh thâm hụt tài khóa, kể cả các khoản ngoài ngân sách, đã chiếm 6% GDP trong năm 2015.
Các rủi ro về nợ công nếu trở thành khủng hoảng có thể tạo ra sức ép về chính sách từ bên ngoài, trong bối cảnh 50% các khoản nợ công của Việt Nam là vay nợ nước ngoài.
Thứ tư, đặc điểm của các dự án "Vành đai và Con đường" đã triển khai tại các nơi khác trên thế giới cho thấy khoảng 70% số dự án sẽ rơi vào tay các công ty Trung Quốc, và các công ty Trung Quốc thường mang theo lao động của mình đến thực hiện các dự án này. Do vậy, vấn đề lao động Trung Quốc sẽ là thách thức không nên xem nhẹ.
Kiều Linh
Nguồn : VnEconomy, 27/05/2017
***********************
Tham vọng quyền lực trên "con đường tơ lụa" (TBKTSG, 28/05/2017)
Trung Quốc đang đổ hàng tỉ đô la vào các dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ ở khắp Châu Á, Châu Phi và cả Châu Âu, trong một nỗ lực xây dựng trật tự kinh tế thế giới mới. Song nhiều quốc gia vẫn đang hoài nghi rằng, việc tạo ra những cơ sở hạ tầng hữu ích, các tuyến thương mại mới, chỉ là bức màn che những tham vọng kiểm soát chiến lược của Bắc Kinh.
Công nhân Trung Quốc xây cầu đường bộ ở Vang Vieng (Lào). Ảnh : NYT
Tìm kiếm thị trường mới
Dọc theo những ngọn núi được rừng rậm bao phủ của Lào, các đội kỹ sư Trung Quốc đang tiến hành khoan hàng trăm đường hầm và xây dựng những cây cầu để hỗ trợ tuyến đường sắt dài 260 dặm, dự án trị giá 6 tỉ đô la, kết nối tám nước Châu Á.
Các nhà quy hoạch Trung Quốc cũng đang lập bản đồ cho những tuyến đường sắt nối từ Budapest (Hungary) đến Belgrade (Serbia), mạng giao thông huyết mạch để hàng hóa Trung Quốc đổ vào Châu Âu, thông qua cảng biển do Trung Quốc quản lý ở Hy Lạp.
Các dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc, cùng với hàng trăm dự án khác trên khắp Châu Á, Châu Phi và Châu Âu đang tạo nên xương sống cho chương trình đầy tham vọng về kinh tế và địa chính trị của Trung Quốc.
Chủ tịch Tập Cận Bình đang nỗ lực tìm kiếm thị trường mới cho các công ty xây dựng của Trung Quốc và xuất khẩu mô hình phát triển của nước này, thông qua sáng kiến mang tên "Một vành đai, một con đường", được hình thành với phạm vi và quy mô chưa từng có trong lịch sử hiện đại. Dự án hứa hẹn tạo ra các cơ sở hạ tầng trị giá 1.000 tỉ đô la, trải rộng trên 60 quốc gia.
Trong khi tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đang chậm lại, nước này lại sản xuất ra số lượng thép, xi măng và máy móc nhiều hơn nhu cầu. Vì vậy, ông Tập đang quay sang các nước còn lại trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, để tìm kiếm thị trường nhằm giữ cho cỗ máy kinh tế tiếp tục vận hành.
Ông Cao Wenlian, Tổng giám đốc Trung tâm Hợp tác quốc tế của Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia, nhấn mạnh với The New York Times : "Chủ tịch Tập Cận Bình tin rằng đây là một kế hoạch dài hạn, liên quan đến các thế hệ hiện tại và tương lai để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và Trung Quốc. Kế hoạch này sẽ dẫn dắt toàn cầu hóa thế hệ thứ hai".
Ông Tập Cận Bình đang muốn tận dụng sự thịnh vượng và phương pháp sản xuất công nghiệp của Trung Quốc để tạo ra một loại hình toàn cầu hóa mới, không cần tới những quy tắc của các tổ chức già cỗi mà phương Tây đang chiếm ưu thế. Mục tiêu của Bắc Kinh là nhằm tái tạo lại trật tự kinh tế toàn cầu, thu hút mạnh mẽ các quốc gia và các công ty vào quỹ đạo của Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, Châu Á đã có những cách tiếp cận thận trọng đối với dự án lớn này của Trung Quốc. Một số nước như Úc, đã thẳng thừng bác bỏ những đề nghị của Bắc Kinh. Ấn Độ, mặc dù có chấp thuận một vài dự án trên lãnh thổ của mình, song cũng thấy chưa thoải mái vì những con đường do Trung Quốc xây dựng sẽ chạy qua vùng tranh chấp ở Kashmir hiện đang do Pakistan chiếm đóng.
Nhưng, đối với các nhà lãnh đạo, các giám đốc công ty đa quốc gia và các ngân hàng lớn, thật khó để phớt lờ nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc đẩy thương mại toàn cầu.
Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Đức Brigitte Zypries đã tới dự cuộc họp về sáng kiến "Một vành đai, một còn đường" ở Bắc Kinh cách đây gần hai tuần. Những gã khổng lồ công nghiệp phương Tây như General Electric, Siemens cũng có mặt để tìm kiếm những hợp đồng béo bở. Chính quyền của ông Trump cũng đã nâng cấp sự tham gia của mình. Ban đầu, họ định cử một quan chức Bộ Thương mại, song sau đó quyết định thay bằng Giám đốc cao cấp về Châu Á của Hội đồng An ninh Quốc gia.
Bức màn che
Khi mặt trời bắt đầu sấp bóng trên công trường ở Vang Vieng, một khu vực cách thủ đô Vientiane 3 giờ lái xe, với những con đường đầy ổ gà, đoàn xe chở thép cuộn đang đưa hàng vào kho. Cách đó nửa dặm, một nhà máy trộn xi măng Trung Quốc đang hoạt động, cùng với một nhà máy khác cũng của Trung Quốc cung cấp xi măng cho dự án xây dựng đường hầm.
Gần như mọi thứ cung cấp cho các dự án Lào đều được làm bởi Trung Quốc và hầu như toàn bộ lực lượng lao động đều là người Trung Quốc. Vào giai đoạn cao điểm, có tới 100.000 công nhân Trung Quốc hoạt động trên công trường.
Khi ông Tập tuyên bố kế hoạch "Một vành đai, một con đường" vào tháng 9- 2013, Bắc Kinh cần phải làm một cái gì đó cho các ngành công nghiệp của Trung Quốc, vốn đã thành công trong việc xây dựng các thành phố mới, đường sắt và đường bộ, biến những khoản đầu tư của nhà nước thành động lực phát triển kinh tế. Giờ đây, Trung Quốc không còn nhiều việc xây dựng để làm và sự tăng trưởng thì bắt đầu chậm lại.
Trong khi đó, theo ước tính của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các nền kinh tế đang nổi tại Châu Á cần 1.700 tỉ đô la một năm để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhằm duy trì tăng trưởng, giải quyết vấn đề đói nghèo và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong bối cảnh đó, đất nước Lào với 6 triệu dân, trở thành địa điểm quan trọng trong chiến lược của Bắc Kinh để đối phó với quyền lực của Mỹ ở Đông Nam Á. Sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực đang suy yếu. Ngược lại, với Trung Quốc, đầu tư vào các tuyến đường sắt qua Lào sẽ cung cấp một mạng lưới liên kết tới các quốc gia mà Bắc Kinh muốn củng cố quan hệ.
Mặc dù các kỹ sư Trung Quốc chỉ mới bắt đầu đến thị trấn du lịch Vang Vieng (Lào) vài tháng trước, song họ đã tiến hành đào xuyên ba đường hầm vào những ngọn núi. Các công nhân đang chạy nước rút để thực hiện công việc càng nhiều càng tốt trước khi mùa mưa tới.
Đây được cho là một sự khởi đầu nhanh chóng, sau khi chương trình này bị trì hoãn nhiều năm. Trong thời gian qua, Lào và Trung Quốc đã chưa nhất trí được về vấn đề tài chính. Với chi phí xây dựng khoảng gần 6 tỉ đô la Mỹ, phía Lào lo ngại họ không thể tham gia đối ứng, khi sản lượng kinh tế của đất nước chỉ đạt 12 tỉ đô la mỗi năm. Trong khi đó, theo nghiên cứu khả thi của một công ty Trung Quốc, tuyến đường sắt này sẽ lỗ trong 11 năm đầu tiên.
Sau năm năm đàm phán, cuối cùng hai bên nhất trí về việc Lào sẽ nhận khoản vay trị giá 800 triệu đô la từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc để chấp thuận thành lập liên doanh với Trung Quốc, đồng thời sẽ vay mượn phần lớn số tiền còn lại.
Tuy nhiên, Lào phải đối mặt với gánh nặng nợ khổng lồ. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo trong năm nay rằng dự trữ ngoại tệ của quốc gia này chỉ đủ để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trong hai tháng. IMF cũng bày tỏ lo ngại rằng nợ công có thể tăng lên khoảng 70% nền kinh tế.
Còn Trung Quốc, trong kế hoạch mình, họ luôn tính toán đến những lợi thế chiến lược riêng khi thực hiện dự án ở mỗi quốc gia.
Tại Pakistan, Trung Quốc xây dựng nhà máy điện, nâng cấp các tuyến đường cao tốc chính và mở rộng cảng biển trị giá 1 tỉ đô la. Bằng cách thúc đẩy tăng trưởng ở Pakistan, Trung Quốc muốn ngăn chặn sự lan rộng của những kẻ khủng bố từ Pakistan qua biên giới vào khu vực Tân Cương, nơi có cộng đồng người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ sinh sống. Trung Quốc cũng có lợi ích quân sự tại Pakistan, khi hải quân của Trung Quốc trong tương lai có thể tiếp cận cảng xa ở Gwadar hiện đang do một công ty nhà nước Trung Quốc quản lý theo hợp đồng 40 năm.
Ở Kenya, Trung Quốc đang nâng cấp một tuyến đường sắt từ cảng Mombasa đến Nairobi, giúp cho việc vận chuyển hàng hóa của Trung Quốc trở nên dễ dàng hơn. Tuyến đường sắt này sẽ chính thức vận hành vào tháng tới, là tuyến đầu tiên được xây dựng theo tiêu chuẩn Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc sẽ còn tiếp tục được hưởng lợi nhiều năm từ hợp đồng bảo trì tuyến đường sắt này.
Tom Miller, tác giả của cuốn Giấc mơ Châu Á của Trung Quốc : Mưu đồ quyền lực trên con đường tơ lụa mới nhận xét : "Sáng kiến vành đai và con đường đang bắt đầu cung cấp các cơ sở hạ tầng hữu ích, tạo ra các tuyến thương mại mới và kết nối tốt hơn với Châu Á và Châu Âu. Nhưng Trung Quốc sẽ rất vất vả để thuyết phục các quốc gia hoài nghi rằng, sáng kiến này không phải là một bức màn che việc kiểm soát chiến lược".
Minh Đức
Theo The New York Times