Báo cáo thường niên Chỉ số Quyền lực Châu Á 2024 do Viện Lowy, viện nghiên cứu chính sách đối ngoại hàng đầu của Úc, vừa công bố vào tháng 9/2024 cho thấy Việt Nam đứng thứ 12 trong tổng số 27 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng.
Theo đó, sức mạnh tổng thể của Việt Nam đã tăng 1,2 điểm so với năm 2023, tạo ra ảnh hưởng trong khu vực nhiều hơn so với dự kiến.
Trong số 27 quốc gia và vùng lãnh thổ tại Châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm cả Mỹ, Nga, Úc, New Zealand, thì Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia hạng trung.
Thước đo chỉ số quyền lực này dựa trên tám tiêu chí : năng lực kinh tế, năng lực quân sự, khả năng phục hồi, nguồn lực tương lai, quan hệ kinh tế, mạng lưới quốc phòng, ảnh hưởng ngoại giao và ảnh hưởng văn hóa.
Sự cải thiện lớn nhất của Việt Nam vào năm 2024 là ảnh hưởng ngoại giao và ảnh hưởng văn hóa, song thước đo về mạng lưới quốc phòng sụt giảm.
So với quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp dưới Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, và đứng trên Philippines, Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar và Đông Timor.
Từ Sydney, Giám đốc chương trình Đông Nam Á của Viện Lowy, trưởng dự án Chỉ số quyền lực Châu Á Susannah Patton nói với BBC News tiếng Việt bảng xếp hạng này nhằm so sánh sức mạnh toàn diện của các quốc gia dựa trên một loạt yếu tố, như mức độ tự cường và sự ảnh hưởng, xem các nước sử dụng sức mạnh, tài nguyên mà họ có ra sao...
Nhắc đến Việt Nam, bà Patton cho rằng vì là một trong những nước hoạt động ngoại giao tích cực nhất ở khu vực trong năm qua, khía cạnh mà Việt Nam đạt kết quả tốt nhất là ảnh hưởng ngoại giao.
"Tôi nghĩ điều này phản ánh chiến lược ngoại giao với nhiều đối tác của Việt Nam. Năm ngoái, Việt Nam là nước duy nhất trong khu vực đón cả hai nhà lãnh đạo của Mỹ và Trung Quốc", bà nói.
Tháng 9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Hà Nội theo lời mời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Dịp này, Mỹ và Việt Nam đã ký kết xác lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện.
Ba tháng sau, khi Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Hà Nội, Việt Nam đã nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai với Trung Quốc.
Tính đến cuối tháng 8/2024, khi ngành ngoại giao Việt Nam kỷ niệm 79 năm thành lập, chính phủ Việt Nam cho biết đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ ; đã ký 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới.
Bên cạnh ngoại giao, nhà nghiên cứu Susannah Patton cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam đã cải thiện điểm số về quan hệ kinh tế, đang trở thành một quốc gia có nền kinh tế kết nối, có thể liên kết giữa Mỹ và Trung Quốc.
Nhưng bà cũng lưu ý rằng có một khía cạnh mà Việt Nam bị thụt lùi là mạng lưới quốc phòng, tiêu chí được đánh giá dựa trên các loại hình tập trận quân sự chung, cũng như các cuộc đối thoại quốc phòng giữa các quốc gia.
"Điều này không có nghĩa là Việt Nam tham gia tập trận hay đối thoại ít hơn, mà lí do là vì các nước trong khu vực, đặc biệt là những quốc gia trong mạng lưới đồng minh với Mỹ đang thực hiện nhiều hoạt động chung hơn so với trước đây", chuyên gia này phân tích.
"Và tình trạng không liên minh của Việt Nam cùng với việc nước này khá thận trọng trong hợp tác quân sự đối với các quốc gia khác có nghĩa là Việt Nam vẫn nằm ngoài mạng lưới đó".
Trong bối cảnh các tranh chấp trên Biển Đông leo thang trong thời gian gần đây, bà Patton nêu dẫn chứng một quốc gia trong khu vực là Philippines đã nâng cao mạng lưới quốc phòng và ảnh hưởng ngoại giao.
Nhà nghiên cứu này cho biết chiến lược minh bạch cùng với cách tiếp cận mạnh mẽ của Philippines trong việc bảo vệ các yêu sách chống lại Trung Quốc đã ảnh hưởng đến vị thế của Philippines trong khu vực, vì họ đang hợp tác với nhiều quốc gia như Nhật Bản, Úc và đặc biệt là Mỹ.
Còn Việt Nam chọn cách tiếp cận im lặng, nhưng chuyên gia từ Viện Lowy cho rằng Hà Nội cũng nỗ lực để xây dựng khả năng răn đe quân sự và có tham vọng chiến lược thể hiện thông qua chiến dịch âm thầm bồi đắp đảo được ghi nhận trong năm qua.
Chính phủ Việt Nam cũng kiên trì với chính sách quốc phòng "bốn không", gồm : không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Việt Nam ảnh hưởng từ Mỹ hay Trung Quốc nhiều hơn ?
Báo cáo Chỉ số quyền lực Châu Á của Viện Lowy cũng thể hiện mạng lưới các đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Susannah Patton cho biết xét về tổng quát, Mỹ và Trung Quốc là hai siêu cường đang cạnh tranh khá sát sao và cũng là hai nước có ảnh hưởng nhiều nhất đến Việt Nam.
"So với nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam có phần khác biệt ở chỗ mức độ tham gia kinh tế với Mỹ và Trung Quốc cân bằng hơn", Giám đốc chương trình Đông Nam Á của Viện Lowy nhận định.
"Riêng đối với Trung Quốc, Việt Nam thiết lập một mức độ đối thoại an ninh mà nhiều nước khác trong khu vực không có. Vì vậy, tôi nghĩ rằng Việt Nam khá cân bằng với hai đối tác này".
Nga cũng là một nước có ảnh hưởng nhiều tới Việt Nam trước đây, song nước này đang bị phân tán bởi cuộc chiến ở Ukraine.
Còn về phía những nước mà Việt Nam tạo có ảnh hưởng, nhiều dữ liệu của Lowy cho thấy mức độ tham gia của Việt Nam với Lào và Campuchia, liên quan đến cả ngoại giao và quốc phòng.
"Tôi nghĩ nhiều người sẽ ngạc nhiên, đặc biệt là những người bên ngoài khu vực có thể không hoàn toàn hiểu hết những nỗ lực mà Việt Nam đã dành cho việc tương tác với các nước láng giềng Lào và Campuchia, trong quan hệ song phương với từng nước và đôi khi trong khuôn khổ tam giác ba nước", bà nói.
Xét đến các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, nhà nghiên cứu Patton nhận định Việt Nam còn cách khá xa Singapore và Indonesia, song khá gần với Thái Lan và Malaysia.
Bà Patton cho rằng trong tương lai không xa, Việt Nam có thể vượt qua Malaysia và cả Thái Lan.
"Điều này sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm tăng trưởng kinh tế liên tục của Việt Nam, cũng như loại hình đối tác mà nước này thiết lập với các các quốc gia khác, hay mức độ hoạt động ngoại giao của Hà Nội..".
Bên cạnh đó, thứ hạng cũng phụ thuộc vào cách tiếp cận của Thái Lan và Malaysia, vì tính chất của một chỉ số tương đối có thể thay đổi khi một quốc gia gặp khó khăn hoặc mắc sai lầm, lúc đó các nước khác sẽ vươn lên", bà lý giải.
Mỹ-Trung so kè, Ấn Độ trỗi dậy
Trong bảng xếp hạng Chỉ số quyền lực Châu Á năm nay, Mỹ vẫn là quốc gia hùng mạnh nhất, theo sau là Trung Quốc.
Washington dẫn trước Bắc Kinh về sáu trong tám chỉ số, trong đó năng lực quốc phòng, ảnh hưởng văn hóa và khả năng kinh tế. Ngược lại, Trung Quốc có mối quan hệ ngoại giao và thương mại mạnh hơn trên khắp Châu Á.
"Theo các chỉ số của chúng tôi, Mỹ vẫn có quyền lực hơn Trung Quốc khoảng 10%. Và sau đó có một khoảng cách rất lớn giữa hai nước này so với Nhật Bản và Ấn Độ, những cường quốc tiếp theo", nhà nghiên cứu Susannah Paton nói với BBC.
Tuy vậy, Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách về năng lực quân sự so với Mỹ, khi họ đổ tiền vào việc mở rộng lực lượng vũ trang.
Báo cáo năm nay cho thấy lần đầu tiên Trung Quốc đang ở vị thế cao hơn Mỹ xét về khả năng nhanh chóng triển khai quân đội ở Châu Á trong một thời gian dài trong trường hợp xảy ra xung đột.
Nhưng sức mạnh tổng thể của Bắc Kinh trong khu vực đang bắt đầu chững lại trong bối cảnh dân số cả nước giảm.
Trong khi đó, Ấn Độ đã vượt qua Nhật Bản một cách sát sao để trở thành quốc gia mạnh thứ ba trong bảng xếp hạng Chỉ số quyền lực Châu Á năm 2024.
"Ðiểm mạnh lớn nhất của Ấn Ðộ ở Châu Á là các nguồn lực sẵn có của nước này như dân số, diện tích và nền kinh tế khổng lồ. Hiện Ấn Ðộ là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới về sức mua tương đương", báo cáo nêu.
Về phía Nhật Bản, dù giữ được nhiều thế mạnh, vị thế kinh tế của nước này trong khu vực đã giảm, với một trong những nguyên nhân là lợi thế công nghệ của họ đã "sụt giảm mạnh do sự cạnh tranh từ các trung tâm sản xuất tiên tiến khác ở Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan".
Tuy nhiên, Viện Lowy đánh giá cao xu hướng chuyển đổi của Nhật Bản từ một cường quốc kinh tế và văn hóa thành một cường quốc năng nổ tham gia vào các hoạt động về quốc phòng và an ninh với các nước khác.
Mỹ và Trung Quốc là hai nước đứng đầu trong bảng xếp hạng Chỉ số quyền lực Châu Á 2024
Năm 2024 cũng chứng kiến việc Úc vượt qua Nga để trở thành nước đứng thứ 5 trong bảng xếp hạng. Úc được đánh giá tốt nhất về năng lực quốc phòng nhưng không đạt điểm cao về các nguồn lực trong tương lai.
Ở vị trí thứ 6, Nga tăng điểm về quân sự nhưng giảm thứ bậc về năng lực kinh tế, khả năng phục hồi, mối quan hệ kinh tế, mạng lưới quốc phòng và ảnh hưởng văn hóa.
Theo báo cáo này, Nga đã suy giảm mạnh về ảnh hưởng khi cuộc chiến ở Ukraine làm suy yếu sự tập trung và nguồn lực ở khu vực.
"Nga là một đối tác quan trọng đối với Việt Nam trong quá khứ, nhưng ảnh hưởng của Nga ở Châu Á thực sự đã giảm trong năm nay khi sức mạnh tổng thể của họ bị phân tán bởi cuộc xâm lược Ukraine và không thể dành sự chú ý ngoại giao cho Châu Á như trước, mặc dù Tổng thống Putin đã đến thăm ba quốc gia Châu Á, bao gồm Việt Nam, trong năm nay", Giám đốc chương trình Đông Nam Á của Viện Lowy lý giải.
Tháng 6/2024, Việt Nam là quốc gia xa xôi nhất mà Tổng thống Nga Vladimir Putin công du sau cuộc xâm lược Ukraine vào tháng 2/2022. Ngay trước chuyến thăm Việt Nam, ông Putin đã đến Triều Tiên và trước đó một tháng là Trung Quốc.
Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore là quốc gia được xếp hạng cao nhất. Tuy diện tích không lớn nhưng đảo quốc này giàu có và có mạng lưới kết nối chặt chẽ với thế giới.
Vì vậy, mặc dù không bằng Indonesia về khả năng phục hồi quốc gia, song Singapore có thể dành nhiều nguồn lực hơn cho năng lực quân sự và hội nhập sâu hơn với khu vực thông qua các mạng lưới quốc phòng, các dự án văn hóa và các liên kết thương mại-đầu tư.
Nguồn : BBC, 14/10/2024
Biển Đông : Mỹ, Philippines đẩy mạnh hợp tác quân sự để phản ứng nhanh trước Trung Quốc
Minh Phương, RFI, 30/07/2024
Hôm 30/07/32024, bộ trưởng Quốc Phòng và ngoại trưởng Mỹ đã hội đàm với các đồng cấp Philippines trong khuôn khổ cuộc đối thoại 2+2. Hai bên cam kết củng cố hiệp ước phòng thủ chung, đẩy mạnh liên lạc song phương để phản ứng nhanh trước các tình huống căng thẳng với Trung Quốc trên biển .
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken họp báo cùng người đồng cấp Philippines Enrique Manalo, tại Camp Aguinaldo, Manila, Philippines, ngày 30/07/2024. AP - Basilio Sepe
Sau cuộc gặp, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã công bố khoản viện trợ quân sự trị giá 500 triệu đô la cho Philippines, "đồng minh lâu đời nhất của Mỹ trong khu vực", để giúp tăng cường khả năng phòng thủ. Hãng tin AP trích lời ông Blinken cho biết đây là khoản tài trợ "có một không hai" giúp Manila hiện đại hóa quân đội và lực lượng tuần duyên. Ông cũng hoan nghênh sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Philippines đã giúp gắn kết quan hệ hai nước "không chỉ về an ninh mà cả về kinh tế". Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Lloyd Austin tái khẳng định những cam kết trong khuôn khổ Hiệp ước Phòng thủ chung mà hai nước đã ký từ năm 1951.
Về phần mình, tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. ca ngợi đường dây liên lạc mở giữa Washington và Manila về các vấn đề chính ở Biển Đông và khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương đã giúp hai bên kịp thời xem xét, đánh giá tình hình và có những phản ứng chung phù hợp. Ông Marcos Jr. cũng nhấn mạnh sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực là rất cần thiết để đảm bảo ổn định và hòa bình ở Châu Á.
Dù đã đạt được thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc nhằm ngăn chặn đụng độ giữa hai nước xung quanh Bãi Cỏ Mây, theo đại sứ Phiippines tại Mỹ, Jose Manuel Romualdez, Manila sẽ tiếp tục tăng cường phòng thủ lãnh thổ với sự hỗ trợ của Mỹ và các đồng minh, cũng như xây dựng các liên minh an ninh mới. Ông Romualdez cho biết các cuộc đụng độ hiện giờ không xảy ra khi Philippines tiếp tế và luân chuyển quân, nhưng đó chỉ là tình hình tạm thời và "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không dừng lại" ở đây.
Minh Phương
***************************
QUAD quan ngại về Biển Đông và cam kết tăng cường an ninh ở Châu Á-Thái Bình Dương
Thanh Hà, RFI, 29/07/2024
Trong thông cáo chung kết thúc cuộc họp tại Tokyo hôm nay, 29/07/2024, các ngoại trưởng 4 nước trong bộ tứ QUAD (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc) cam kết tăng cường an ninh hàng hải và an ninh mạng. Tránh nêu đích danh Trung Quốc, các bên bày tỏ "quan ngại sâu sắc" về tình hình ở Biển Đông và mạnh mẽ lên án "mọi hành vi đơn phương thay đổi nguyên trạng" tại các vùng biển ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida và ngoại trưởng Yoko Kamikawa tiếp ngoại trưởng Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar, ngoại trưởng Úc Penny Wong và ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken tại văn phòng thủ tướng ở Tokyo, Nhật Bản, ngày 29/07/2024. AP - Shuji Kajiyama
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken và các đồng cấp Nhật Bản Yoko Kamikawa, Úc Penny Wong và Ấn Độ Subrahmayam Jaishankar trong tuyên bố chung nhấn mạnh nhóm Bộ Tứ QUAD, tên gọi chính thức là Đối Thoại An Ninh Bốn Bên, "tiếp tục bày tỏ mối quan ngại sâu sắc trước các hành động quân sự hóa những vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, trước những hành động cưỡng ép, hù dọa tại Biển Đông".
Hãng tin Mỹ AP nhấn mạnh tại cuộc họp lần này ở Tokyo, Bộ Tứ cam kết tăng cường an ninh hàng hải và an ninh mạng, đẩy mạnh các công cụ chống phổ biến thông tin giả. Những biện pháp nói trên đặc biệt nhằm hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á và các hải đảo trong vùng Thái Bình Dương. Cụ thể, ngoại trưởng của bốn nước dự trù khởi động một cơ chế đối thoại hàng hải trên cơ sở Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển nhằm "duy trì trật tự trên biển và các vùng biển tự do và rộng mở" trong khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Trong lĩnh vực công nghệ kết nối, QUAD cam kết hỗ trợ Philippines và Ấn Độ về an ninh mạng, đồng thời mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng internet trong khu vực.
Trả lời báo chí, ông Blinken cho biết nhóm Bộ Tứ "huy động các nguồn lực tập thể để phục vụ người dân tại các quốc gia trong vùng mà nhóm QUAD có chung những lợi ích (…) QUAD tiếp tục cùng với các đối tác trong khu vực bảo đảm tự do trên biển, trên không, để giao thương trên biển tiếp tục được phát triển vì thịnh vượng chung".
Trong cương vị chủ nhà, ngoại trưởng Nhật Bản Yoko Kamlikawa ghi nhận an ninh hàng hải trong khu vực đang "càng lúc càng bất ổn, do vậy sự đoàn kết và hợp tác giữa các thành viên của Bộ Tứ để bảo đảm trật tự quốc tế là điều cần thiết hơn bao giờ hết".
Hãng tin Pháp AFP nêu bật một chi tiết: Thông cáo chung sau cuộc họp 2+2 Mỹ-Nhật hôm qua đã mạnh mẽ lên án "hợp tác quân sự chiến lược giữa Nga và Bắc Kinh ngày càng được mở rộng và mang tính khiêu khích". Washington và Tokyo cùng trực tiếp chỉ trích Trung Quốc hỗ trợ Nga trong cuộc chiến Ukraine. Nhưng trong thông cáo của Bộ Tứ QUAD hôm nay, các bên tránh chỉ trích Nga, bởi Ấn Độ mua vũ khí của Nga và New Delhi duy trì một mối quan hệ đặc biệt với Moskva.
Sau cuộc họp hôm nay, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken sang Manila để cùng với bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin dự đối thoại 2+2 với các đồng cấp Philippines.
Thanh Hà
*******************************
An ninh : Quá trễ để Mỹ-Nhật ngăn chặn Trung Quốc thay đổi trật tự thế giới ?
Thanh Hà, RFI, 29/07/2024
Hôm 28/07/2024, kết thúc đối thoại 2+2 Mỹ-Nhật, Washington thông báo thành lập một bộ chỉ huy chung với Tokyo. Đây được coi là "thay đổi quan trọng nhất trong liên minh quân sự song phương từ 70 năm qua" để chống lại ý đồ của Trung Quốc muốn vẽ lại trật tự thế giới theo ý muốn của họ và trước mối đe dọa từ hợp tác chặt chẽ của trục Bắc Kinh - Moskva, cũng như hợp tác giữa Nga với Bắc Triều Tiên.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida (phải) tiếp ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken (giữa) và bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tại văn phòng thủ tướng ở Tokyo, Nhật Bản, ngày 29/07/2024. AP - Shuji Kajiyama
Kết thúc cuộc họp tại thủ đô Nhật Bản, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lloyd Austin thông báo một bộ chỉ huy chung sẽ chính thức đi vào hoạt động từ tháng 03/2025. Các hoạt động của cơ chế này sẽ từng bước được nâng cấp qua nhiều giai đoạn. Mục tiêu là nhằm "tạo điều kiện đẩy mạnh khả năng tương tác và hợp tác sâu sắc hơn" giữa hai nước "trong thời bình cũng như trong những tình huống đầy bất trắc". Cơ chế mới này sẽ có "trách nhiệm chính là phối hợp các hoạt động bảo vệ an ninh ngay trên lãnh thổ Nhật và xung quanh Nhật Bản", theo tinh thần của hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật.
Trong cuộc họp hôm qua, Washington và Tokyo còn đồng ý đẩy mạnh hợp tác chia sẻ thông tin tình báo, và hợp tác quốc phòng, bao gồm cả công nghiệp sản xuất vũ khí và trang thiết bị quân sự. Cụ thể là cỗ máy công nghiệp quốc phòng của Nhật tăng tốc để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của Hoa Kỳ và các đồng minh của Washington.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken trong cuộc họp báo hôm qua lưu ý liên minh quân sự Mỹ - Nhật trước hết mang tính "tự vệ", tăng cường các biện pháp phòng thủ, bảo đảm an ninh cho Hoa Kỳ và các đồng minh của Mỹ. Chính những mối đe dọa ngày càng lớn đã "thúc đẩy Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng như Hoa Kỳ và các đồng minh khác tăng cường hợp tác quân sự".
Trong mắt Hoa Kỳ, Trung Quốc là "thách thức chiến lược hàng đầu trong vùng", chủ yếu do Bắc Kinh "có những hành động uy hiếp và khiêu khích", "quân sự hóa" những nơi có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này một cách "bất hợp pháp". Hiểm họa Trung Quốc lại càng trở nên cấp bách hơn từ khi Bắc Kinh mở rộng hợp tác về nhiều mặt với Moskva, tiếp sức cho cỗ máy chiến tranh của Moskva trong cuộc xâm lược Ukraine. Bất ổn tại Châu Á - Thái Bình Dương lại càng đáng lo ngại hơn nữa khi mà một quốc gia "bất hảo" là Bắc Triều Tiên đang hiện đại hóa cỗ máy quân sự. Công nghệ chế tạo tên lửa và vũ khí hạt nhân của Bình Nhưỡng được nâng cấp nhờ hợp tác với Nga.
Nhưng liệu có quá trễ để bộ chỉ huy chung Mỹ - Nhật kềm hãm những tham vọng của Bắc Kinh trong vùng Châu Á Thái Bình Dương ? Ngoại trưởng Nhật Bản, Yoko Kamilawa nói đến "một bước ngoặt lịch sử" và "những quyết định ngày hôm nay sẽ tác động đến tương lai chung toàn khu vực sau này".
Thời gian không còn nhiều
Giới quan sát nói đến một "cuộc chạy đua việt dã" của các giới chức Hoa Kỳ 100 ngày trước bầu cử tổng thống Mỹ và sự gấp rút ấy cho thấy hai điều : Washington muốn đặt một số nền tảng cho hợp tác an ninh với các đối tác trong vùng trước khi chính quyền Biden mãn nhiệm và trước viễn cảnh cựu tổng thống Donald Trump quay trở lại Nhà Trắng. Đồng thời những mối hợp tác "chiến lược" hay "đối tác chiến lược" của hai cặp Trung Quốc - Nga, hay Moskva - Bình Nhưỡng buộc Hoa Kỳ và đồng minh phải đề phòng trước mọi tình huống.
Chẳng vậy mà trước ngày khai mạc Đối thoại 2+2 Mỹ Nhật tại Tokyo, hôm thứ Bảy vừa qua (27/07) bộ trưởng quốc phòng Austin và hai đồng cấp Nhật Bản và Hàn Quốc đã ký kết một thỏa thuận khung "hợp tác ba bên". Thế rồi trong ngày thứ nhì tại thủ đô Nhật Bản, hôm nay (29/07) ngoại trưởng Mỹ họp tiếp với ba đối tác đối tác quan trọng khác trong vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương là Nhật Bản, Úc và Ấn Độ trong nhóm Bộ Tứ QUAD. Một lần nữa các bên lại "bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình hình ở Biển Đông". Tránh nêu đích danh Trung Quốc, nhóm Đối Thoại An Ninh Bốn Bên lên án mọi hành vi "đơn phương thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông". Tăng cường an ninh hàng hải và an ninh mạng với các quốc gia trong vùng cũng là nhằm đối phó với "thách thức" mà Trung Quốc đang đặt ra cho khu vực.
Sau Lào và Việt Nam, ngoại trưởng Antony Blinken đến thủ đô Manila vào lúc chính quyền của tổng thống Ferdinand Marcos Jr. đang trên tuyến đầu đối phó với Trung Quốc về những tranh chấp chủ quyền biển đảo. Tại đây, cùng với bộ trưởng quốc phòng Lloyd Austin, ngoại trưởng Mỹ tiếp tục đối thoại 2+2 với đồng minh lâu đời nhất tại Đông Nam Á là Philippines.
Giới quan sát nhận định lịch làm việc dầy đặc của các ông Blinken và Austin cho thấy chính quyền Biden sắp mãn nhiệm cố gắng trấn an các đồng minh Châu Á về sự hiện diện lâu dài của Mỹ tại khu vực này. Thông điệp của Washington là dù kết quả bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tháng 11/2024 có ra sao, điều đó cũng không ảnh hưởng nhiều đến hợp tác về an ninh của Mỹ ở Ấn Độ -Thái Bình Dương. Đây cũng là một lời cảnh cáo Washington gửi tới Bắc Kinh.
Thanh Hà
*****************************
Mỹ-Nhật tăng cường hợp tác quân sự trước hai mối đe dọa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc
Thanh Hà, RFI, 28/07/2024
Thông báo cơ cấu một bộ chỉ huy chung được đặt tại Nhật Bản nhằm tăng cường quan hệ quốc phòng, giám sát và phối hợp tốt hơn về mặt quân sự trước hai mối đe dọa là Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Đây là trọng tâm cuộc họp 2+2 tại Tokyo giữa bộ trưởng quốc phòng và Ngoại Giao hai nước trong ngày Chủ Nhật 28/07/2024. Đối thoại lần này nhằm trấn an đồng minh của Mỹ sau khi tổng thống Joe Biden thông báo không ra tranh cử thêm một nhiệm kỳ thứ hai.
Cuộc họp 2+2 tại Tokyo giữa bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao Nhật Bản và Hoa Kỳ trong ngày Chủ nhật 28/07/2024. AP - Hiro Komae
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lloyd Austin và ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken khai mạc cuộc họp với hai đồng cấp Nhật Bản là ngoại trưởng Yoko Kamikawa và người đứng đầu ngành quốc phòng Nhật Bản Minoru Kihara. Mọi chú ý hướng về thông báo Mỹ-Nhật thành lập một bộ chỉ huy quân sự chung đặt tại Nhật Bản và cơ cấu này sẽ do một viên tướng ba sao lãnh đạo. Theo hãng tin Anh Reuters, bộ chỉ huy chung Mỹ-Nhật hướng tới việc tăng cường khả năng điều phối và hợp tác quân sự song phương, trong đó bao gồm cả việc dễ dàng cấp giấy phép hơn cho Nhật Bản sản xuất tên lửa thuộc bản quyền của các tập đoàn Mỹ.
Trong diễn văn khai mạc hội nghị, ngoại trưởng Nhật Bản tuyên bố : "Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh của lịch sử, trật tự trong một thế giới tự do, rộng mở, xây dựng trên nền tảng luật pháp đang bị khuynh đảo. Những quyết định của ngày hôm nay mang tính quyết định đối với tương lai sau này". Lãnh đạo Lầu Năm Góc Lloyd Austine thì nhắm thẳng vào Trung Quốc, lên án Bắc Kinh "có những hành vi hù dọa, tìm cách thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông và Hoa Đông, cũng như tại eo biển Đài Loan và trong toàn khu vực". Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nói thêm, chương trình hạt nhân Bắc Triều Tiên và quan hệ mật thiết giữa Bình Nhưỡng với Moskva "đe dọa an ninh của khu vực và thế giới".
Hãng tin AP nhắc lại hiện có khoảng 50.000 lính Mỹ đang đóng tại các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản nhưng bộ chỉ huy của Hoa Kỳ được đặt tại Yokota, ngoại ô phía tây thủ đô Tokyo, chỉ đảm nhiệm các công tác quản lý về mặt hành chính. Trong cơ cấu mới, bộ chỉ huy tại Nhật Bản sẽ đóng một vai trò quan trọng hơn trong các "chiến dịch hỗn hợp".
Ngoài ra trong cuộc họp hôm nay lãnh đạo ngoại giao và quốc phòng Mỹ-Nhật sẽ thảo luận về việc "tăng cường hợp tác trong các hoạt động tình báo, giám sát, an ninh mạng…". Về những điểm này, Tokyo cần nhanh chóng tăng cường khả năng để đối phó với những "mối đe dọa trong tương lai"
Cuối cùng, theo dự kiến, lần đầu tiên đối thoại Mỹ-Nhật 2+2 sẽ đề cập đến một hồ sơ mang tên "mối răn đe mở rộng" mà ở đó theo hãng tin Anh Reuters, Washington trên nguyên tắc sẽ tái khẳng định với Tokyo cam kết sử dụng vũ khí hạt nhân bảo vệ các đồng minh của Hoa Kỳ. Cuộc thảo luận này được đưa ra vào lúc đe dọa hạt nhân xuất phát từ Bắc Triều Tiên càng lúc càng lớn, đặc biệt là sau khi Bình Nhưỡng thắt chặt hợp tác quân sự với Nga.
Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng đặc biệt quan ngại "trước mối hợp tác chiến lược giữa Nga và Trung Quốc". Điều này được thể hiện qua việc Moskva và Bắc Kinh vừa tiến hành các cuộc tập trận chung gần vùng biển của Nhật Bản và nhất là thái độ của Bắc Kinh về vấn đề chiến tranh Ukraine.
Theo tin mới nhất, trong thông cáo chung kết thúc cuộc họp, Hoa Kỳ cho biết "bộ chỉ huy quân sự chung với Nhật Bản sẽ chính thức đi vào hoạt động kể từ tháng 3/2025 và đây sẽ là sự thay đổi quan trọng nhất về hợp tác quân sự Mỹ Nhật từ 70 năm qua".
Thanh Hà
*****************************
Lo Trung Quốc lấn lướt, Mỹ và Nhật Bản bàn ‘khả năng răn đe mở rộng’
BBC, 28/07/2024
Mỹ và Nhật Bản lần đầu tiên bàn về "khả năng răn đe mở rộng" - thuật ngữ mô tả việc Mỹ cam kết sử dụng năng lực hạt nhân để ngăn chặn nỗ lực tấn công vào các đồng minh của mình.
Mỹ sẽ cải tổ bộ chỉ huy quân sự tại Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng phối hợp với đồng minh
Hôm 28/7, Mỹ cho biết sẽ cải tổ bộ chỉ huy quân sự tại Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng phối hợp với đồng minh, sau khi hai nước gọi Trung Quốc là "thách thức chiến lược lớn nhất" trong khu vực.
Thông báo được đưa ra sau các cuộc hội đàm an ninh ở Tokyo (Nhật Bản) giữa Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Bộ trưởng quốc phòng Lloyd Austin với những người đồng nhiệm Nhật Bản là bà Yoko Kamikawa và ông Minoru Kihara.
Bản tuyên bố sau cuộc họp cho biết "bộ chỉ huy lực lượng chung" mới sẽ giúp Mỹ có thể tương tác sâu hơn với lực lượng vũ trang Nhật Bản và sẽ được triển khai song song với kế hoạch riêng của Tokyo về thành lập một bộ chỉ huy hỗn hợp để giám sát lực lượng của mình vào tháng 3/2025.
Việc nâng cấp bộ chỉ huy của Mỹ tại Nhật Bản là "một trong bước tiến đáng kể nhất trong lịch sử liên minh hai nước", Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lloyd Austin nói với báo giới trước cuộc hội đàm.
Cuộc cải tổ lần này là một trong nhiều biện pháp nhằm đối phó với cái mà nhiều quốc gia gọi là "môi trường an ninh biến động", nhấn mạnh vào các mối đe dọa khác nhau đến từ Trung Quốc.
"Chúng tôi tiếp tục thấy Trung Quốc có hành vi cưỡng chế và cố gắng thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, xung quanh Đài Loan và trên khắp khu vực", ông Austin nói.
Bản tuyên bố chỉ trích việc Bắc Kinh có những hành động khiêu khích trên biển, tham gia các cuộc tập trận quân sự chung với Nga và nhanh chóng mở rộng kho vũ khí hạt nhân.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc không lập tức trả lời yêu cầu bình luận của Reuters.
Chiếc dù hạt nhân của Mỹ
Tàu chiến ba nước Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc tập trận gần đảo Jeju của Hàn Quốc vào tháng 4/2023
Chính sách ngoại giao của Trung Quốc "có mục đích tái cấu trúc trật tự thế giới để phục vụ lợi ích riêng của mình trong khi gây tổn hại cho các nước khác", bộ trưởng hai nước nói.
"Hành vi này là mối quan ngại sâu sắc đối với Liên minh và cộng đồng quốc tế, đồng thời là thách thức chiến lược lớn nhất cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và các khu vực khác".
Lần đầu tiên, bộ trưởng hai nước thảo luận về "khả năng răn đe mở rộng" - một thuật ngữ mô tả việc Mỹ cam kết sử dụng năng lực hạt nhân để ngăn chặn nỗ lực tấn công vào các đồng minh của mình.
Đây là một chủ đề nhạy cảm ở Nhật Bản, quốc gia vốn vẫn luôn vận động hạn chế việc phổ biến vũ khí hạt nhân.
Theo một thông cáo chính thức khá ít chi tiết, hai nước đã thảo luận về việc tăng cường khả năng răn đe mở rộng nhằm thúc đẩy ổn định khu vực và ngăn chặn sự bùng phát xung đột.
"Chúng ta đang ở một thời điểm quan trọng. Để bảo vệ trật tự quốc tế hiện tại một cách toàn vẹn, chúng ta cần liên tục củng cố liên minh và tăng cường sức mạnh răn đe", Ngoại trưởng Nhật Bản Kamikawa nói với báo giới khi bắt đầu cuộc đàm phán.
Nhật Bản cho phép Mỹ lập căn cứ để triển khai sức mạnh quân sự ở Châu Á, với sự hiện diện của 54.000 lính, hàng trăm máy bay và nhóm tác chiến tàu sân bay tiền phương duy nhất của Washington.
Thúc đẩy bởi sức mạnh quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc và các vụ thử tên lửa thường xuyên của Bắc Hàn - một quốc gia có vũ khí hạt nhân, Nhật Bản đã thay đổi đáng kể sau nhiều thập kỷ theo đuổi chủ nghĩa hòa bình thời hậu chiến tranh.
Năm 2022, Nhật Bản từng công bố kế hoạch tăng gấp đôi chi tiêu quốc phòng, lên 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Bộ chỉ huy mới của Mỹ tại Nhật Bản sẽ do một tướng ba sao đảm nhiệm, thay vì một tướng bốn sao như Nhật Bản từng yêu cầu, một quan chức Mỹ cho biết trước cuộc hội đàm.
Thông báo sau cuộc họp không đề cập tới vấn đề này.
Hợp tác với Hàn Quốc
Hai nước đồng minh cũng bày tỏ quan ngại sâu sắc việc Nga mua tên lửa đạn đạo từ Bắc Hàn để hỗ trợ cuộc chiến ở Ukraine và khả năng Moscow chuyển giao vũ khí hủy diệt hàng loạt hoặc công nghệ liên quan đến tên lửa cho Bình Nhưỡng.
Bắc Hàn vừa tuyên bố sẽ "hủy diệt hoàn toàn" các kẻ thù nếu chiến tranh xảy ra, hãng thông tấn nhà nước KNCA đưa tin ngày 28/7.
Hôm nay 28/7, ông Austin và ông Kihara cũng đã có cuộc họp với Bộ trưởng quốc phòng Hàn Quốc Shin Won-sik.
Trong cuộc họp, ba nước đã ký kết một thỏa thuận nhằm "thể chế hóa" hợp tác ba bên thông qua các nỗ lực như chia sẻ dữ liệu cảnh báo tên lửa Bắc Hàn theo thời gian thực và các cuộc tập trận quân sự chung.
Chính quyền ông Biden đã thúc đẩy nâng cao hợp tác giữa Tokyo và Seoul. Mối quan hệ Nhật-Hàn vốn có nhiều căng thẳng, khởi nguồn từ việc Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc thời điểm 1910-1945.
"Bản ghi nhớ này củng cố hợp tác giữa Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc, giúp mối quan hệ đối tác của ba nước không thể bị lay chuyển, dù tình hình quốc tế biến chuyển thế nào", ông Kihara nói với các phóng viên sau cuộc họp ba bên.
Washington cũng muốn tận dụng ngành công nghiệp Nhật Bản để giảm áp lực lên các nhà sản xuất vũ khí của Mỹ vốn đang chịu căng thẳng do nhu cầu từ các cuộc xung đột ở Ukraine và Trung Đông.
Tokyo và Washington đang hợp tác trên nhiều phương diện trong lĩnh vực này, bao gồm nâng cao nỗ lực hợp tác sản xuất tên lửa, thiết lập khả năng phục hồi chuỗi cung ứng và hỗ trợ sửa chữa tàu và máy bay.
Tuy nhiên, dự án hàng đầu - kế hoạch sử dụng các nhà máy của Nhật Bản để tăng sản lượng tên lửa phòng không Patriot - đang bị trì hoãn do thiếu một thành phần quan trọng do Boeing sản xuất, Reuters từng đưa tin trước đó trong tháng.
Sau khi rời Tokyo, ông Blinken và ông Austin sẽ có các cuộc đàm phán an ninh với một đồng minh Châu Á khác của Mỹ - Philippines, trong bối cảnh chính quyền Biden đang tìm cách đối phó một Trung Quốc ngày càng táo tợn.
Thứ Bảy 27/7, Ngoại trưởng Mỹ Blinken có cuộc gặp với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị tại Lào.
Tại đây, ông Blinken một lần nữa nhắc lại việc Washington và các đối tác muốn duy trì một "Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở cửa", theo thông cáo của Mỹ về cuộc họp.
*****************************
Mỹ, Nhật, Hàn siết chặt hợp tác quốc phòng để đối phó với đe dọa Nga - Bắc Triều Tiên
Trọng Thành, RFI, 28/07/2024
Hôm 27/07/2024, theo hãng tin Hàn Quốc Yonhap, bộ trưởng quốc phòng Hàn Quốc Shin Won-sik cùng hai đồng cấp Hoa Kỳ và Nhật Bản, Lloyd Austin và Minoru Kihara, đã ký kết bản ghi nhớ về "Khung hợp tác an ninh ba bên" (Trilateral Security Cooperation Framework - TSCF). Liên minh ba nước coi việc Bắc Triều Tiên tăng cường sức mạnh hạt nhân và tên lửa với hỗ trợ của Nga là mối đe dọa chính.
Bộ trưởng quốc phòng ba nước Mỹ-Nhật-Hàn ký thỏa thuận hợp tác sau cuộc họp ba bên tại Tokyo vào Chủ Nhật, ngày 28/07/2024. AP – Yoshikazu Tsuno
Theo bộ quốc phòng Hàn Quốc, đây là văn bản đầu tiên thể chế hóa các hợp tác an ninh giữa các cơ quan quốc phòng Mỹ-Nhật-Hàn, nhằm đảm bảo các điều kiện duy trì hợp tác ba bên trong bối cảnh môi trường an ninh quốc tế đầy biến động hiện nay. Theo Khung hợp tác an ninh ba bên TSCF, ba quốc gia dự kiến đặc biệt sẽ tăng cường chia sẻ dữ liệu về tên lửa Bắc Triều Tiên "theo thời gian thực", thường xuyên tiến hành tập trận chung, bao gồm cuộc tập trận Freedom Edge đa binh chủng, vừa được tổ chức lần đầu tiên vào cuối tháng 06/2024.
Trong cuộc họp lần đầu tiên của bộ trưởng quốc phòng ba nước tại Tokyo, Mỹ, Nhật, Hàn bày tỏ lo ngại về hợp tác quân sự và kinh tế ngày càng gia tăng giữa Bình Nhưỡng và Moskva, được thúc đẩy bởi hiệp ước "Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện" Nga – Triều, bao gồm cam kết về "phòng thủ chung", ký kết hồi tháng trước. Lãnh đạo quốc phòng ba nước lên án Bắc Triều Tiên đa dạng hóa các hệ thống tấn công hạt nhân và thử nghiệm nhiều tên lửa đạn đạo, cũng như có các hành động leo thang căng thẳng khác trên bán đảo Triều Tiên.
Việc ký kết TSCF diễn ra sau khi Hàn Quốc, hồi tháng 02/2024 vừa qua, đề xuất cần xác lập một văn bản cụ thể hóa hợp tác an ninh ba bên. Trong cuộc họp của bộ trưởng quốc phòng ba nước bên lề Đối thoại an ninh Shangri-la, Singapore, hồi tháng 6, ba bên thỏa thuận sẽ ký kết văn bản này ngay trong năm nay.
Trả lời báo giới sau lễ ký kết, bộ trưởng quốc phòng Hàn Quốc Shin Won-sik cho biết ông tin tưởng cơ chế hợp tác an ninh ba bên sẽ tiếp tục được duy trì bất kể ai giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11/2024.
Theo lãnh đạo bộ quốc phòng Hàn Quốc, vũ khí hạt nhân và tên lửa Bắc Triều Tiên là đe dọa lâu dài đối với an ninh của ba nước và đặt ra rất nhiều thách thức trong khu vực.
Lên án "thay đổi nguyên trạng" ở Biển Đông
Bản ghi nhớ về Khung hợp tác an ninh ba bên không trực tiếp nêu tên Trung Quốc, nhưng cho biết Mỹ, Nhật, Hàn "chia sẻ quan điểm về các hoạt động quân sự trên biển và trên không ở vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương bao gồm Biển Đông, thời gian gần đây". Ba bên tái khẳng định lập trường "phản đối mạnh mẽ mọi nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng" và "các hành động đi ngược lại luật pháp quốc tế".
Trọng Thành
Nhân chuyến công du Việt Nam ở cấp Nhà nước của nguyên thủ Mỹ Joe Biden, hôm 10/09/2023, hai nước đã ký thỏa thuận về chất bán dẫn và khoáng chất hiếm. Đến ngày 13/11, đến lượt tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và đồng nhiệm Indonesia Joko Widodo đồng thuận siết chặt hợp tác trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khai thác đất hiếm.
Các mẫu kim loại hiếm được trưng bày ở cơ sở Molycorp, California, Hoa Kỳ. Ảnh chụp ngày 29/06/2015. Reuters/David Becker/File
Không phải vô cớ mà Mỹ muốn hợp tác với hai nước này như vậy. Trên thực tế, Châu Á-Thái Bình Dương, với Trung Quốc, Úc, Việt Nam, Indonesia… là khu vực giàu kim loại hiếm, có giá trị chiến lược và được xem là vùng không thể thiếu để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế giới.
Trong bài viết "Kim loại hiếm : Tại sao Trung Quốc và Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là thiết yếu ?" đăng trên trang mạng nghiên cứu Asialyst, chuyên gia về Châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, Hubert Testard, nhấn mạnh đến các ưu thế của khu vực này về cả trữ lượng và sản lượng. Riêng về khai thác - tinh luyện thì chủ yếu do Trung Quốc kiểm soát, và điều này có thể khiến căng thẳng địa chính trị gia tăng, theo hướng bất lợi cho phương Tây, nhất là Châu Âu. RFI giới thiệu bài viết.
Sản xuất kim loại hiếm tập trung chủ yếu ở Châu Á
Trong báo cáo mới nhất năm 2023 về "vai trò của các loại khoáng sản quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch", Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã xác định được 3 nhà sản xuất khoáng sản quý hiếm hàng đầu thế giới năm 2022.
Bảng xếp hạng của IEA cho thấy vai trò chủ đạo của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất đất hiếm và than chì (graphite), Úc thì dẫn đầu về lithium, còn Indonesia là nhà sản xuất niken lớn nhất. Châu Âu hoàn toàn lép vế, còn Mỹ thì chỉ nằm trong số 3 nhà sản xuất đất hiếm hàng đầu, nhưng thua xa Trung Quốc. Nếu không tính Trung Quốc, phần còn lại của Châu Á-Thái Bình Dương cũng sản xuất 15% đất hiếm trên toàn thế giới. Tính tổng cộng, cả Châu Á chiếm 85% tổng sản lượng đất hiếm của thế giới. Một số nước Châu Á như Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam, theo chuyên gia Hubert Testard, đều có mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc và là nguồn cung ứng cho ngành công nghiệp chế biến của Trung Quốc.
Riêng Cobalt chủ yếu do Cộng hòa Dân chủ Congo sản xuất, nhưng hầu như là để xuất khẩu sang Trung Quốc. Các công ty Nhà nước Trung Quốc (CMOC và Tập đoàn Đường sắt Trung Quốc) sở hữu 2 trong số 5 mỏ cobalt lớn nhất Congo. Và cho dù vẫn thường xuyên có nhiều tranh cãi về các điều kiện môi trường và xã hội, như lao động trẻ em, cũng như những căng thẳng mạnh mẽ trong năm 2022 liên quan đến việc chia phần lợi nhuận cho Congo, mối quan hệ đối tác Trung Quốc-Congo về cobalt dường như không thể mất đi.
Chỉ có liên quan đến đồng là Trung Quốc đã để mất vị trí nước sản xuất lớn thứ ba thế giới vào tay Congo và chỉ chiếm 9% thị phần. Đồng cũng là kim loại quan trọng duy nhất mà sản lượng được phân bổ tương đối rộng, 3 nhà sản xuất hàng đầu thế giới chỉ chiếm 50% thị phần so với tỉ lệ trên 80% đối với đất hiếm, than chì, lithium và cobalt.
Ngành công nghiệp tinh lọc và chế biến kim loại hiếm tập trung chủ yếu ở Trung Quốc
Trung Quốc thống trị áp đảo ngành công nghiệp chế biến : hoạt động tinh chế đất hiếm chiếm hơn 85% toàn cầu, 90% về wafer (những tấm bán dẫn rất mỏng) dành cho ngành công nghiệp pin mặt trời, 90% về than chì tinh chế dùng cho pin điện, ắc quy, 83% đối với pin ithium-ion, 76% coban, 68% lithium, 40% đồng và niken.
Liên quan đến Indonesia, với nguồn tài nguyên niken và cobalt dồi dào, nước này đang trở thành nhà tinh lọc niken hàng đầu thế giới, nhưng đó cũng là nhờ hợp tác với Trung Quốc.
Sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực tinh chế không phải tự nhiên, mà là kết quả của hơn 30 năm đầu tư. Ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ 7, giai đoạn 1986-1990, Bắc Kinh đã hướng các nỗ lực nghiên cứu, phát triển và sản xuất đến đất hiếm và vật liệu mới. Trái lại, đến đầu những năm 2000 thì Hoa Kỳ mới nhận thức được về vấn đề địa chính trị do các kim loại hiếm gây ra, Châu Âu thì chậm hơn Mỹ 10 năm.
Trữ lượng kim loại hiếm lớn nhất thế giới là ở Châu Á - Thái Bình Dương
Ngoại trừ đồng, nhìn chung Trung Quốc có trữ lượng dồi dào cho phép duy trì được sản xuất trong thời gian dài. Cộng với trữ lượng đáng kể của Úc về hầu hết các kim loại hiếm và trữ lượng của Indonesia, Philippines và New Caledonia về cobalt, niken, và trữ lượng đất hiếm của Việt Nam và Ấn Độ, thì Châu Á-Thái Bình Dương có cơ hội vẫn duy trì vị thế lục địa trung tâm của các lĩnh vực mới vốn là cơ sở của quá trình chuyển đổi năng lượng. Xét về sự phân bổ trữ lượng theo lục địa, Châu Á chiếm 30- 60% trữ lượng thế giới, tùy loại kim loại.
Đứng thứ hai là Nam Mỹ và Mêhicô, với ưu thế về lithium và đồng. Châu Phi là trung tâm về cobalt và có nhiều than chì. Rất xa phía sau mới đến lượt Bắc Mỹ, nhưng do thiếu hoạt động thăm dò, nên có thể trữ lượng được xác định thấp hơn nhiều so với nguồn tài nguyên, chẳng hạn về đất hiếm. Châu Âu chỉ được biết đến với trữ lượng đồng. Gần đây, trữ lượng đất hiếm đáng kể đã được xác định ở Vòng Bắc Cực Thụy Điển, nhưng sẽ mất 10-15 năm mới khai thác được.
Chiến lược mới của phương Tây không bảo đảm sẽ thành công
Tất cả các nước phát triển hiện nay đều có một chiến lược kiểm soát các kim loại quan trọng và lĩnh vực chế biến.
Chẳng hạn, Mỹ có chiến lược bảo đảm an ninh về cung ứng, với các khoản viện trợ đáng kể cho các nhà đầu tư trên lãnh thổ Mỹ và các quốc gia có hiệp định mậu dịch tự do hoặc thỏa thuận đặc biệt với Hoa Kỳ, trừ Trung Quốc và Liên Âu. Các đối tác ưu tiên của Hoa Kỳ ở Châu Mỹ là Canada, Mêhicô, Chilê và Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương. Thế nhưng, theo nghiên cứu của Standard & Poor's, an ninh nguồn cung mới chỉ bảo đảm đối với lithium. Các nước đối tác của Mỹ về lâu dài không bảo đảm đủ nguồn cung cobalt và niken. Về đất hiếm, Mỹ vẫn lệ thuộc đến 80% vào dây chuyền chế biến của Trung Quốc và việc lệ thuộc này sẽ còn kéo dài vài thập niên.
Về phần mình, Ủy Ban Châu Âu hồi tháng 03/2023 đã giới thiệu một dự luật về các nguyên liệu thô quan trọng, trong đó chẳng hạn có mục tiêu tăng tỉ lệ tái chế kim loại hiếm lên thành 15% và đa dạng hóa nguồn cung, nhắm vào Trung Quốc khi ngăn chặn việc một quốc gia duy nhất nắm giữ hơn 65% thị trường Châu Âu đối với mỗi kim loại và mỗi giai đoạn sản xuất. Xin nhắc lại, hồi năm 2020, 98% đất hiếm Châu Âu nhập khẩu là từ Trung Quốc.
Ủy Ban Châu Âu đang dự kiến một hệ thống khá phức tạp để đẩy nhanh việc cấp phép cho các mỏ mới, nhưng miễn giảm thuế nhiều như Mỹ. Liên Âu cũng có ý định chuyển hướng dần viện trợ phát triển sang các dự án khai thác mỏ ở các nước đang phát triển, nhưng cũng không tăng thêm tài trợ. Một nghiên cứu của Viện Jacques Delors chỉ ra những bất cập và kết luận dự án của Liên Âu chưa đủ tầm.
Trung Quốc vẫn dẫn đầu cuộc đua về các công nghệ thay thế
Một trong những giải pháp nhằm giảm nhu cầu về lithium và cobalt và giảm lệ thuộc vào lĩnh vực lithium-ion của Trung Quốc, là thay thế ắc quy lithium-ion bằng các loại ắc quy khác. Một trong những giải pháp được xem là có triển vọng là ắc quy sodium-ion, có ưu điểm là sử dụng nguồn tài nguyên giá rẻ và đặc biệt dồi dào.
Thế nhưng, vấn đề là các công ty đi đầu trong việc phát triển và tiếp thị loại ắc quy mới này hiện giờ đều là của Trung Quốc.
Rủi ro địa chính trị gia tăng
Lệnh cấm vận đất hiếm mà Bắc Kinh nhắm vào Nhật Bản hồi năm 2010, sau một sự cố tàu cá ở Biển Đông, là tín hiệu báo động đầu tiên cho các nước phương Tây. Trong 12 năm, Tokyo đã cố gắng giảm lệ thuộc vào đất hiếm của Trung Quốc, từ gần như lệ thuộc hoàn toàn xuống còn khoảng 2/3. Kể từ đó, Trung Quốc cũng thi thoảng áp hạn ngạch xuất khẩu đất hiếm. Các quốc gia khác, chẳng hạn như Indonesia, về niken, thì ra lệnh cấm xuất khẩu nguyên liệu thô, buộc các công ty lớn trong lĩnh vực kim loại hiếm đầu tư vào lĩnh vực chế biến ngay trong nước.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCDE), hạn chế xuất kim loại quý hiếm đã tăng gấp 5 lần tính từ năm 2009 và ít nhất 10% thương mại toàn cầu về kim loại quý hiếm bị ảnh hưởng do các kiểu rào cản thương mại (hạn ngạch, lệnh cấm …) Trong số các quốc gia đưa ra những hạn chế này, có Trung Quốc, Việt Nam, Achentina, Nga, Kazakhstan và Indonesia.
Riêng Trung Quốc, hồi tháng 08 vừa qua, Bắc Kinh đã hạn chế xuất khẩu gallium và germanium (dùng để sản xuất chất bán dẫn), và đến tháng 10/2023 thì thông báo cơ chế cấp phép xuất khẩu than chì tinh khiết dùng cho pin điện. Cả hai trường hợp này đều là biện pháp Bắc Kinh đáp trả việc Hoa Kỳ và các đối tác áp dụng các lệnh hạn chế việc cung cấp vật liệu và chất bán dẫn thế hệ mới nhất cho Trung Quốc.
Chuyên gia về Châu Á và kinh tế quốc tế Hubert Testard kết luận là những cuộc giao tranh này có thể trở thành một "cuộc chiến tranh kim loại quý hiếm" thực thụ nếu các căng thẳng địa chính trị liên quan đến Đài Loan và Biển Đông biến thành các xung đột mở. Khi trừng phạt kinh tế Bắc Kinh, có một hạn chế mà phương Tây vấp phải là Trung Quốc đang có một vị thế không thể phủ nhận trong ván cờ về kim loại quý hiếm và các lĩnh vực phục vụ chuyển đổi năng lượng.
Thùy Dương
Nguồn : RFI, 17/11/2023
Hoa Kỳ cử phái đoàn cấp cao đến Trung Quốc để hâm nóng quan hệ
Minh Anh, RFI, 11/12/2022
Tiếp theo cuộc gặp thượng đỉnh giữa tổng thống Mỹ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bali, Indonesia, tháng 11/2022, một phái đoàn đại diện cao cấp đầu tiên của Mỹ đến thăm Trung Quốc. Mục tiêu nhằm chuẩn bị cho chuyến thăm Bắc Kinh đầu năm 2023 của ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken để sưởi ấm quan hệ song phương.
Mỹ cử phái đoàn cấp cao thăm Trung Quốc - Ảnh minh họa
Reuters trích dẫn thông cáo do bộ ngoại giao Mỹ ngày hôm qua 10/12/2022, cho biết ông Daniel Kritenbrink, trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, cùng với bà Laura Rosenberger, giám đốc cấp cao Hội đồng An ninh Quốc Gia về Trung Quốc và Đài Loan, sẽ lần lượt đến thăm các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản từ ngày hôm nay 11/12 đến ngày 14/12/2022.
Theo bộ ngoại giao Mỹ, chuyến thăm Bắc Kinh của phái đoàn Mỹ lần này là nhằm "tìm cách xử lý một cách có trách nhiệm cạnh tranh giữa hai nước và tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác tiềm tàng".
AFP nhắc lại, tổng thống Joe Biden và chủ tịch Tập Cận Bình tại Indonesia đã có những cuộc trao đổi trực tiếp về những chủ đề gây căng thẳng, từ hồ sơ Đài Loan, hạt nhân Bắc Triều Tiên cho đến cuộc chiến tranh tại Ukraine do Nga phát động, cũng như là những hạn chế xuất khẩu công nghệ Mỹ…, nhằm tránh cho đôi bên đi đến một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới.
Minh Anh
*************************
Anh muốn phát triển các quan hệ đối tác mới ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ
Thu Hằng, RFI, 11/12/2022
Ngoài những đồng minh "truyền thống", Luân Đôn tìm cách mở rộng quan hệ đối tác với nhiều nước đang trỗi dậy ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Ngoại trưởng Anh James Cleverly dự kiến công bố chiến lược mới ngày 12/12/2022.
Ngoại trưởng Anh James Cleverly. AP - Rolf Vennenbernd
Thông cáo tối 10/12 của bộ ngoại giao Anh cho biết ông James Cleverly sẽ nhấn mạnh đến tầm quan trọng đối với Luân Đôn về việc phát triển mối quan hệ vững mạnh hơn với nhiều nước ngày càng có ảnh hưởng ở ba khu vực trên, dù không phải là những "đối tác truyền thống" của vương quốc Anh.
Luân Đôn đang tìm vị trí mới trên trường quốc tế hậu Brexit nên cần phát triển quan hệ trong nhiều lĩnh vực với những nước "sẽ định hình tương lai thế giới". Chính phủ Anh cho rằng "trong những thập niên tới, một phần lớn của nền kinh tế thế giới sẽ nằm trong tay những quốc gia ở Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ". Cho nên, ông James Cleverly sẽ nhấn mạnh đến việc "chính sách đối ngoại (của Anh) sẽ phải không ngừng dự đoán tương lai, phải nhìn xa được trước 10, 15 và 20 năm".
"Thời kỳ vàng son" giữa Luân Đôn và Bắc Kinh đã kết thúc
Theo AFP, ngoại trưởng Anh có bài diễn văn quan trọng chỉ hai tuần sau khi thủ tướng Rishi Sunak khẳng định "thời kỳ vàng son" giữa Luân Đôn và Bắc Kinh đã kết thúc. Mối quan hệ song phương từ giờ sẽ theo "hướng thực dụng mạnh mẽ". Trong quá trình vận động tranh cử chức thủ tướng, ông Rishi Sunak từng đánh giá Trung Quốc là "mối đe dọa chính" cho an ninh của Anh và thế giới. Ông cũng chỉ trích dự án đầu tư cơ sở hạ tầng Con Đường Tơ Lụa Mới của Bắc Kinh.
Lẽ ra thủ tướng Anh và chủ tịch Trung Quốc gặp nhau bên lề thượng đỉnh G20 tại Bali nhưng cuộc gặp lần đầu tiên trong gần 5 năm qua đã bị hủy. Sự kiện này có thể cho thấy mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa hai nước.
Thu Hằng
**********************
Đoàn lưỡng đảng Úc công du đảo quốc Thái Bình Dương
Thu Hằng, RFI, 11/12/2022
Một phái đoàn chính trị gia của hai đảng lớn của nước Úc công du một số đảo quốc ở Thái Bình Dương trong tuần tới để tang cường mối quan hệ trong vùng. Thông cáo chung, công bố ngày 11/12/2022, cho biết phái đoàn của Úc lần lượt thăm các nước Vanuatu, tiếp theo là Liên bang Micronesia và Quần đảo Palau.
Bản đồ nước Úc và khu vực nam Thái Bình Dương © wikimedia
Trong phái đoàn Úc có ngoại trưởng Penny Wong, bộ trưởng Phát triển Quốc tế và Thái Bình Dương Pat Conroy, cùng với nhiều đồng nghiệp bên phe đối lập. Theo lịch trình, tại Vanuatu, các chính trị gia Úc dự lễ khánh thành một cầu cảng mới và chuyển giao một tầu hải cảnh "trong khuôn khổ hợp tác bền vững của Úc về những lợi ích chung liên quan đến an ninh trong vùng".
Chuyến công du tập trung vào các mục tiêu phát triển, "mối đe dọa hiện hữu" của biến đổi khí hậu và những vấn đề liên quan đến an ninh trong vùng. Ngoại trưởng Penny Wong nhấn mạnh đến "cam kết lâu dài của Úc nhằm tang cường những mối quan hệ đối tác với vùng Thái Bình Dương và giải quyết các thách thức khu vực".
Đây là lần đầu tiên kể từ năm 2019, một phái đoàn gồm chính trị gia của hai đảng đối lập và đảng cầm quyền cùng công du vùng Thái Bình Dương. Sự kiện này cho thấy quyết tâm của Canberra lấy lại niềm tin và trấn an các nước láng giềng trong khu vực vẫn được coi là nằm trong vòng ảnh hưởng của Úc.
Theo Reuters, cả Úc và Trung Quốc tổ chức nhiều chuyến thăm cấp cao trong năm 2022 để gia tang ảnh hưởng với các tiểu quốc ở Thái Bình Dương. Sự kiện khiến Úc và Mỹ đặc biệt quan ngại là Bắc Kinh ký hiệp định an ninh với quần đảo Salomon vào tháng 04/2022.
Thu Hằng
Phó Tổng thống Mỹ đến thăm một hòn đảo của Philippines trong vùng biển Trung Quốc đòi chủ quyền
Thùy Dương, RFI, 22/11/2022
Phó tổng thống Mỹ, Kamala Harris, hôm 22/11/2022 đã đến thăm một hòn đảo của Philippines trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Mục đích chuyến thăm của phó tổng thống Harris là thể hiện sự ủng hộ của Washington đối với đồng minh lâu năm của Mỹ và chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày càng gia tăng trong khu vực.
Phó tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris phát biểu trên tàu tuần duyên Philippines BRP Teresa Magbanua, tại cảng Puerto Princesa, Palawan, Philippines, ngày 22/11/2022. Reuters – Eloisa Lopez
Sau cuộc gặp với tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. tại Manila vào hôm qua 21/11, hôm nay phó tổng thống Mỹ tới đảo Palawan. Hòn đảo nằm ở phía tây Philippines, gần với quần đảo Spratleys (Trường Sa) ở Biển Đông, nơi Trung Quốc và các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam, tranh chấp chủ quyền. Trong chuyến thăm, phó tổng thống Mỹ Kamala Harris gặp gỡ các ngư dân và lực lượng tuần duyên Philippines ở đảo Palawan.
Trong bài phát biểu trên một tàu tuần duyên, bà Harris nói "các quy tắc và chuẩn mực quốc tế" phải được tôn trọng và phán quyết theo đó Tòa trọng tài quốc tế bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông phải được tôn trọng. Phó tổng thống Mỹ nhấn mạnh : "Với tư cách là đồng minh, Hoa Kỳ sát cánh với Philippines đối phó với sự đe dọa và cưỡng chế ở Biển Đông".
AFP nhắc lại phó tổng thống Mỹ Kamala Harris là quan chức Mỹ cấp cao nhất công du Philippines kể từ khi ông Ferdinand Marcos Jr. đắc cử tổng thống hồi cuối tháng 05/2022. Bà cũng là quan chức cấp cao nhất của Mỹ tới thăm đảo Palawan. Washington đang tìm cách củng cố quan hệ đồng minh về an ninh với Manila, trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trong khu vực. Hôm qua, trong cuộc gặp với nguyên thủ Philippines, phó tổng thống Mỹ đã khẳng định Washington luôn sát cánh với Manila để "bảo vệ các quy tắc và luật pháp quốc tế liên quan đến Biển Đông". Bà Harris cũng tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ về việc "kích hoạt" thỏa thuận phòng thủ chung, nếu "quân đội, tàu thuyền của chính quyền hay phi cơ Philippines hoạt động tại Biển Đông bị tấn công".
Phản ứng của Bắc Kinh
Hôm nay, Hoàn Cầu Thời Báo tố cáo bà Harris "châm ngòi vấn đề Biển Đông". Bài xã luận của tờ báo viết : "Philippines có quyền tiếp đón bất kỳ du khách nước ngoài nào", nhưng "các cuộc trao đổi song phương không được gây phương hại đến lợi ích của một nước thứ ba, cũng như hòa bình và ổn định trong khu vực".
Thùy Dương
**************************
Mỹ cam kết bảo vệ Manila, nếu quân đội Philippines tại Biển Đông bị tấn công
Trọng Thành, RFI, 21/11/2022
Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris trong chuyến công du Philippines hôm 21/11/2022, tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ, "kích hoạt" thỏa thuận phòng thủ chung, nếu "quân đội, tàu thuyền của chính quyền hay phi cơ Philippines hoạt động tại Biển Đông bị tấn công". Tuyên bố của lãnh đạo Mỹ được coi là một cảnh báo gửi đến Trung Quốc.
Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris cam kết Mỹ sẽ bảo vệ Manila nếu quân đội Philippines bị tấn công trên Biển Đông
Theo AFP, trong cuộc gặp tổng thống Philippines Ferdianand Marcos Jr, phó tổng thống Mỹ Kamala Harris khẳng định : Hoa Kỳ luôn sát cánh với Manila để "bảo vệ các quy tắc và luật pháp quốc tế liên quan đến Biển Đông". Về phần mình, tổng thống Marcos cũng nhấn mạnh : vận mệnh của Philippines gắn liền với nước Mỹ.
Lần đầu tiên một lãnh đạo cao cấp của Hoa Kỳ đến Philippines kể từ khi tổng thống Marcos lên nắm quyền hồi tháng 6/2022. Đây là một dấu hiệu cho thấy Washington và Manila xích lại gần nhau sau nhiều năm quan hệ song phương căng thẳng trong nhiệm kỳ của tổng thống Rodrigo Duterte. Một trong các mục tiêu chính của chuyến đi của phó tổng thống Mỹ là thực thi thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) Mỹ - Philippines, đạt được vào năm 2014, nhưng bị đình chỉ dưới thời tổng thống tiền nhiệm Duterte.
AFP dẫn lời một quan chức Hoa Kỳ, xin ẩn danh, đưa ra trước chuyến công du của phó tổng thống Harris, theo đó hai bên đã đàm phán để thúc đẩy việc hoàn tất thỏa thuận EDCA. Theo thỏa thuận ký kết năm 2014, các lực lượng vũ trang Mỹ có quyền sử dụng 5 căn cứ quân sự tại Philippines, để bố trí các phương tiện quân sự.
Phó tổng thống Mỹ có kế hoạch gặp các lực lượng tuần duyên Philippines và tới đảo Palawan vào ngày mai 22/11. Đảo Palawan là nơi tiếp giáp với các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Biển Đông : Philippines cáo buộc Trung Quốc tranh giành một vật thể trôi nổi gần đảo Thị Tứ
Ít giờ trước chuyến công du của phó tổng thống Mỹ, hãng tin AP hôm nay, 21/11/2022, cho biết một sự cố xảy ra giữa một đơn vị hải quân Philippines và tuần duyên Trung Quốc gần đảo Thị Tứ (Pag-asa), thuộc quần đảo Trường Sa, do Philippines kiểm soát.
Theo Hải quân Philippines hôm nay, 21/11/2022, tàu Trung Quốc đã không ngăn không cho phía Philippines đưa về một số mảnh vỡ trôi nổi cách bờ của đảo Thị Tứ khoảng hơn 300 mét. Các mảnh vỡ dường như do một vụ phóng tên lửa của Trung Quốc để lại. Theo thiếu tá Cherryl Tindog, phát ngôn viên quân đội Philippines, các vật thể nói trên tương tự với các mảnh vỡ giống đầu đạn tên lửa Trung Quốc phát hiện trong tháng này gần đảo Busuagan, phía bắc đảo Palawan.
Rút cục phía Trung Quốc đã giành được vật thể nói trên. Không có ai thương tích trong sự cố này. Theo một phát ngôn viên của Quân khu miền Tây Philippines, phía Philippines đã kìm chế tối đa, và đây là ‘‘một vật thể không xác định và không có tầm quan trọng đặc biệt’’ nên không cần thiết phải giữ lại bằng mọi giá.
Thị Tứ là đảo tự nhiên có diện tích lớn thứ hai ở Biển Đông, Việt Nam kiểm soát trước 1970. Hiện tại Việt Nam và Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Trọng Thành
Sau hai ngày đàm phán, ngày 09/09/2022, tại Los Angeles, Mỹ đã đặt được nền móng cho liên minh với 13 nước Châu Á-Thái Bình Dương trong Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ -Thái Bình Dương - IPEF. Các nước tham gia đã đưa ra tuyên bố chung cam kết hợp tác trong bốn lĩnh vực : Thương mại (gồm cả kinh tế số), chuỗi cung ứng, năng lượng xanh và chống tham nhũng.
Ảnh minh họa : Một cảng biển bốc dỡ hàng hóa ở Bangkok, Thái Lan, ngày 15/10/2021. AP - Sakchai Lalit
Văn bản mà 14 nước thông qua được coi là "lộ trình cho các cuộc đàm phán tương lai", theo bộ trưởng Thương Mại Mỹ Gina Raimondo. Bà cũng khẳng định thỏa thuận "sẽ tạo nhiều việc làm ở Mỹ cũng như ở các nước khác trong IPEF", trong đó có Việt Nam.
Theo AFP, Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ-Thái Bình Dương được tổng thống Mỹ Joe Biden khởi xướng tháng 05/2022 với hy vọng tái lập trụ cột kinh tế trong chiến lược của ông về khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương và cũng nhằm làm đối trọng với sáng kiến Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP của Trung Quốc.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia không tin vào khả năng thực thi của IPEF, vì các điều khoản liên quan đến giảm thuế, hoặc tạo điều kiện thâm nhập thị trường Mỹ đã bị loại khỏi thỏa thuận. Sau khi tổng thống Donald Trump rút Mỹ khỏi hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương - TPP, người kế nhiệm là ông Joe Biden cũng không đưa Mỹ trở lại hiệp định, do công luận trong nước vẫn lo ngại về nguy cơ việc làm tại Mỹ bị đe dọa.
Ngược lại, dù vẫn mang tính biểu tượng, sáng kiến dường như được giới doanh nhân Mỹ ủng hộ, vì "nếu Mỹ vắng mặt ở trong vùng, thì đó sẽ là một nguy cơ, do Trung Quốc vẫn hỗ trợ (cho những nước trong vùng) về cơ sở hạ tầng".
Thu Hằng
Tiến sĩ Nagao Satoru, nghiên cứu viên cao cấp tại Hudson Institute, chia sẻ với RFA về chính sách bành trướng của Trung Quốc và mạng lưới an ninh đang hình thành để đối phó với sự bành trướng đó.
Reuters
Nhận định với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng, Trung Quốc hiện nay tất yếu duy trì chính sách bành trướng. Song song đó, ông cũng đưa ra nhiều phân tích cụ thể về vị trí của Việt Nam trong mạng lưới an ninh mới đang dần hình thành ở Châu Á-Thái Bình Dương cùng góc nhìn toàn cảnh về chiến lược lấp đầy khoảng trống quyền lực của Trung Quốc trong loạt bài sau đây, mời quý vị cùng theo dõi.
Gần đây, trong bang giao quốc tế ở Châu Á - Thái Bình Dương, thế giới chứng kiến sự ra đời một loạt các mối liên kết song phương, ba bên và các mối quan hệ đa phương khác. Chẳng hạn, các liên kết Mỹ - Nhật - Ấn, Nhật - Ấn - Úc, Úc - Anh - Mỹ, Ấn - Úc - Indonesia, Ấn - Úc - Pháp, Mỹ - Ấn - Israel - Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và đặc biệt là Đối thoại Tứ giác An ninh (QUAD) gồm Mỹ - Nhật - Úc - Ấn.
Các mối liên kết này đang dần dần hình thành một mạng lưới an ninh mới trong khu vực. Không khó để nhận ra mạng lưới này có mục đích phòng ngự trước sự nổi lên của một siêu cường quân sự mới : Trung Quốc.
Trong mạng lưới an ninh mới đang dần hình thành này, không có quốc gia Đông Nam Á nào tham gia, kể cả Việt Nam. Mặc dù là một trong những địa bàn Trung Quốc muốn tăng cường bành trướng cả về lãnh thổ (như ở Biển Đông) lẫn kinh tế chính trị, một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, hiện đang quan sát tình hình chứ chưa "chọn phe" một cách dứt khoát.
Tiến sĩ Nagao Satoru, Hudson Institute
RFA trao đổi với Tiến sĩ Nagao Satoru, nghiên cứu viên cao cấp tại Hudson Institute ở Washington D.C. về chiến lược bành trướng của Trung Quốc, mạng lưới an ninh đang hình thành trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và vị trí "có thể có" của những nước như Việt Nam trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc cũng như trong mạng lưới an ninh mới đang hình thành để đối phó với siêu cường mới nổi này.
Chiến lược "khai thác khoảng trống" của Trung Quốc ở Việt Nam và Philippines
Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng chiến lược của Bắc Kinh là khai thác tình hình bất cứ khi nào xuất hiện khoảng trống quyền lực.
Ông Nagao nêu các ví dụ trong thế kỷ 20 :
"Vào thập niên 1950s, ở Biển Đông, ngay sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương năm 1954, Trung Quốc đã chiếm một nửa quần đảo Hoàng Sa.
Đến năm 1974 - một năm sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam - Trung Quốc liền đánh chiếm nốt nửa còn lại của quần đảo ấy.
Trong thập niên 1980s, ngay sau khi Liên Xô giảm bớt sự hiện diện quân sự ở Việt Nam, Trung Quốc mở rộng lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa, chiếm đóng 6 khu vực ở đó vào năm 1988".
Năm 1992, Quân đội Mỹ kết thúc 92 năm hiện diện ở Philippines. Và 3 năm sau đó, vào năm 1995, Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn do Philippines quản lý.
Theo nhà nghiên cứu Nagao, những hoạt động này cho thấy chiến lược của Trung Quốc là lựa chọn thời điểm khi cán cân quân sự thay đổi và xuất hiện những khoảng trống quyền lực để bành trướng lãnh thổ.
Trung Quốc hiện nay tất yếu duy trì chính sách bành trướng
Áp dụng những kinh nghiệm lịch sử nói trên vào thời đại ngày nay, ông Nagao cho rằng, nếu những quan sát lịch sử trên là đúng, ngày nay Trung Quốc sẽ tiếp tục leo thang các hoạt động của mình, bởi lẽ trong thập kỷ qua, cán cân quân sự đã thay đổi theo hướng có lợi cho họ.
Ông Nagao giới thiệu một nghiên cứu mới nhất của mình trên tạp chí Raisina Files, tháng 6 năm 2022, phân tích Cơ sở dữ liệu về chi tiêu quân sự của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), theo đó, trong 10 năm từ 2011 đến 2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76%. Trong khi đó, cùng thời gian nói trên, Ấn Độ tăng chi tiêu quân sự chỉ 34%, Australia chỉ tăng 33%, còn Nhật Bản thì chỉ tăng 2,4%. Đáng chú ý, Hoa Kỳ giảm chi tiêu 10% trong cùng khoảng thời gian này.
"Thực vậy, gần đây Trung Quốc đã cố gắng mở rộng yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Đài Loan, Nam Thái Bình Dương, biên giới Ấn Độ - Trung Quốc và Ấn Độ Dương vì họ nhận thấy khoảng trống quyền lực ở những khu vực này. Dữ liệu cho thấy quan sát nói trên là đúng. Ví dụ, so sánh giữa số lượng tàu Trung Quốc được xác định trong vùng tiếp giáp ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku ở Nhật Bản và các cuộc xâm nhập của Trung Quốc ở khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc cho thấy những điểm tương đồng".
Đi sâu vào chi tiết, Tiến sĩ Nagao cho biết, ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku của Nhật Bản, Trung Quốc đã gia tăng hoạt động xâm nhập của lực lượng hải cảnh : Năm 2011, số lượng tàu Trung Quốc được xác định trong vùng tiếp giáp ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku chỉ là 12. Nhưng con số đã tăng lên 428 vào năm 2012, 819 vào năm 2013, 729 vào năm 2014, 707 vào năm 2015, 752 vào năm 2016 , 696 vào năm 2017 và 615 vào năm 2018. Đến năm 2019, con số đã lên tới 1097.
Ở phía tây, năm 2011, Ấn Độ ghi nhận 213 vụ xâm nhập vào khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, nhưng những năm sau đó, con số gia tăng lớn hơn : 426 lần vào năm 2012, 411 lần vào năm 2013, 460 lần vào năm 2014, 428 lần vào năm 2015, 296 lần vào năm 2016, 473 lần vào năm 2017, 404 lần vào năm 2018 và 663 lần vào năm 2019. Những cuộc xâm nhập này tương tự như các hoạt động của Trung Quốc xung quanh quần đảo Senkaku.
Nhà nghiên cứu Nagao kết luận : "Dựa trên số lượng các cuộc xâm nhập của Trung Quốc ở khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc và các hoạt động của Trung Quốc trên vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku, có thể thấy rõ ràng rằng Trung Quốc đã tăng cường sự quyết đoán của mình trong năm 2012 và 2019 ở cả hai khu vực".
Phần tiếp theo, Tiến sĩ Nagao Satoru chia sẻ với độc giả RFA về Đối thoại Tứ giác An ninh (The Quadrilateral Security Dialogue - QUAD), một trong những tổ chức hợp tác an ninh đang nổi lên để đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc.
Ở bài trước, RFA trao đổi với Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute về chiến lược bành trướng của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Nagao đã làm sáng tỏ chiến lược "lấp đầy khoảng trống quyền lực" của Trung Quốc để bành trướng lãnh thổ.
AFP
Rõ ràng, những quốc gia và khu vực yếu kém trong khả năng tổ chức hệ thống an ninh sẽ không thể đối phó với chiến lược bành trướng của Trung Quốc. Trong bài thứ 2 này, nhà nghiên cứu Nagao Satoru chia sẻ với độc giả RFA về tổ chức Đối thoại Tứ giác An ninh (The Quadrilateral Security Dialogue - QUAD) gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ. Đây là một mô hình an ninh đối phó với chính sách bành trướng của cường quốc quân sự đang trỗi dậy này.
Vì sao QUAD ra đời ?
Trả lời câu hỏi của RFA về chiến lược đối phó với chính sách bành trướng của Trung Quốc, Tiến sĩ Nagao chỉ ra rằng chiến lược của các quốc gia QUAD là lấp đầy những khoảng trống quyền lực để Trung Quốc không thể trám vào, bằng cách duy trì sự cân bằng quân sự.
Để làm được điều này, họ cần tăng ngân sách quốc phòng nhưng tăng ngân sách là một nhiệm vụ không dễ dàng. Do đó, họ thực hiện cách tiếp cận khác là tổ chức lại hệ thống an ninh của chính mình.
Đây thực sự là một chiến lược quan trọng. Nhà nghiên cứu Nagao giải thích về mô hình an ninh "trục bánh xe-và-nan hoa" lâu nay của Mỹ và đồng minh. Mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" là cách sắp xếp mạng lưới giống như chiếc bánh xe đạp, trong đó có một trục và các nan hoa đan với nhau để giữ cho bánh xe vững chắc khi chuyển động.
"Trong một thời gian dài, Mỹ và đồng minh duy trì trật tự ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bằng hệ thống an ninh theo mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" ("hub and spoke" system). Trong hệ thống theo mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" này, trục bánh xe là Hoa Kỳ và các nan hoa là những đồng minh của Hoa Kỳ như Nhật Bản, Úc, Đài Loan, Philippines, Thái Lan và Hàn Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Một đặc điểm của hệ thống hiện tại là nó phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Bởi vậy, mặc dù Nhật Bản và Úc đều là đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng không có liên minh Nhật-Úc.
Những hành động khiêu khích gần đây của Trung Quốc cho thấy rằng hệ thống hiện tại đã không hiệu quả để ngăn cản chiến lược bành trướng của họ. Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn 2011-2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76% và Mỹ giảm chi tiêu 10%.
Ngay cả khi chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ lớn hơn gấp ba lần so với Trung Quốc, hệ thống "trục bánh xe-và-nan hoa" hiện tại vẫn sẽ không đủ".
Theo nhà nghiên cứu Nagao, bởi mô hình an ninh hiện tại không hiệu quả, một hệ thống an ninh dựa trên những mối liên kết mới đang hình thành. Các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ hợp tác với nhau và chia sẻ gánh nặng an ninh với Hoa Kỳ và với nhau.
Nhiều thỏa thuận hợp tác song phương, ba bên, tứ giác hoặc đa phương khác, chẳng hạn như Mỹ-Nhật-Ấn, Nhật-Ấn-Úc, Úc-Anh-Mỹ, Ấn-Úc-Indonesia, Ấn-Úc-Pháp và Mỹ-Ấn- Israel-UAE, đang tạo ra một mạng lưới hợp tác an ninh mới.
Trong bối cảnh đó, QUAD chỉ là một trong số nhiều ví dụ về cách thức các quốc gia hợp tác với nhau và chia sẻ gánh nặng an ninh khu vực, khi đối phó với một cường quốc quân sự đang nổi lên.
QUAD hoạt động như thế nào ?
QUAD có thể làm gì để ngăn cản sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ? Nếu các nước QUAD phối hợp tốt, họ có thể buộc Trung Quốc phải phòng thủ nhiều mặt trận cùng một lúc. Nhà nghiên cứu Nagao giải thích :
"Trong một kịch bản như vậy, Trung Quốc sẽ cần đồng thời thực hiện nhiều khoản chi tiêu quốc phòng chống lại Mỹ và Nhật Bản ở phía Thái Bình Dương cũng như chống lại Ấn Độ ở phía biên giới Ấn Độ - Trung Quốc. Loại hợp tác này sẽ cung cấp một cách thức duy trì sự cân bằng quân sự ngay cả khi chi tiêu quân sự của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh chóng.
Khả năng tấn công là bí quyết chủ chốt. Trong một thời gian dài, không có quốc gia nào ngoại trừ Mỹ có đủ khả năng tấn công Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đều sở hữu khả năng tấn công tầm xa, thì khả năng tổng hợp của họ sẽ buộc Trung Quốc phải phòng thủ trên nhiều mặt trận.
Ngay cả khi Trung Quốc quyết định mở rộng lãnh thổ ở biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, họ vẫn cần phải chi một lượng ngân sách và lực lượng quân sự nhất định để tự vệ trước một cuộc tấn công tiềm tàng từ Mỹ và Nhật Bản.
Hiện tại, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia đều đang có kế hoạch sở hữu các khả năng tấn công tầm xa 1000-2000 km như tên lửa hành trình và máy bay phản lực F-35 với bom lượn (glide bomb).
Và trên thực tế, Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Hàn Quốc cũng đang tăng cường kho vũ khí tấn công bằng tên lửa đất đối đất. Những động thái này có thể rất quan trọng".
Vào tháng 9 năm 2021, Australia, Anh và Mỹ thông báo thành lập AUKUS, một thỏa thuận an ninh ba bên ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong liên minh này, Mỹ và Anh sẽ hỗ trợ Australia mua và duy trì 8 tàu ngầm hạt nhân.
Ông Nagao cho rằng nếu Australia sở hữu tàu ngầm hạt nhân với khả năng tấn công tầm xa, lực lượng hải quân Australia có thể hoạt động ở một khu vực rộng lớn hơn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và có khả năng chống lại mối đe dọa của Trung Quốc trong khu vực đó. Australia cũng sửa đổi tàu ngầm thông thường của họ để phóng tên lửa hành trình Tomahawk.
Chiến lược bành trướng của Trung Quốc và sự hình thành những mạng lưới an ninh mới trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để đối phó với cuộc bành trướng đó đã tạo ra một bối cảnh mới về an ninh mà các nước Đông Nam Á phải tìm cách thích ứng.
Phần cuối của loạt bài này, RFA sẽ phỏng vấn Tiến sĩ Nagao Satoru về vị trí của Đông Nam Á trong đó có Việt Nam trong mạng lưới an ninh đang tiến triển trong khu vực.
Ở hai phần trước, Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute chia sẻ với độc giả RFA về chiến lược bành trướng của Trung Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương và mạng lưới liên kết an ninh đang hình thành ở khu vực này nhằm đối phó với Trung Quốc.
Reuters
Một điều đáng chú ý là, ngoại trừ Indonesia (cùng Ấn Độ và Úc xây dựng một tam giác phát triển hợp tác hải quân) và Philippines (có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ từ 1951), nhiều nước Đông Nam Á đang đứng ngoài các mạng lưới này.
Trong phần cuối của loạt bài này, RFA đăng toàn văn nội dung phỏng vấn Tiến sĩ Nagao Satoru về an ninh quốc gia của Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác trong bối cảnh đó.
RFA : Tại sao Nhật Bản lại chọn 4 quốc gia : Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ để tạo ra QUAD ? Tại sao không phải là Đài Loan, Hàn Quốc (Đông Bắc Á), Việt Nam hay Philippines (Đông Nam Á) ?
RFA, 23/05/2022
Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 23/5 công bố kế hoạch Khuôn khổ kinh tế Châu Á Thái Bình Dương Thịnh Vượng (Indo-Pacific Economic Framework for Prosperity, gọi tắt là IPEF) với 13 quốc gia tham gia, nhân chuyến thăm Nhật Bản.
Reuters
Tổng thống Mỹ chính thức công bố kế hoạch này vào ngày thứ hai ở thăm Nhật trong cuộc nói chuyện với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, ngay trước cuộc gặp với các nước trong khối Quad (gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ, Australia) vào ngày 24/5.
13 nước tham gia IPEF gồm : Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Indonesia, New Zealand, Philippines, Singarpore, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Brunei, Malaysia.
Khác với Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) trước đó, IPEF không bắt các nước tham gia phải đàm phán vấn đề thuế quan và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường, một vấn đề khiến nhiều người Mỹ lo ngại sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất trong nước. Thay vào đó, chương trình tìm cách kết hợp các nước qua các tiêu chuẩn chung được các bên đồng ý trong bốn lĩnh vực gồm: kinh tế kỹ thuật số, dây chuyền cung ứng, hạ tầng cơ sở cho năng lượng sạch, các biện pháp chống tham nhũng.
Các nước tham gia IPEF có GDP chiếm khoảng 40% GDP toàn cầu. Tổng thống Biden nói rằng sẽ có thêm các nước khác sẽ tham gia khuôn khổ này.
Tuy nhiên ông không cho biết khi nào thì IPEF sẽ đi vào hiệu lực.
IPEF được coi như là đối trọng của Mỹ trước sức ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nhất là sau khi Mỹ dưới thời của Tổng thống Trump đã rút khỏi TPP hồi năm 2017. Hiệp định này sau đó đổi tên thành Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP) có hiệu lực từ ngày 20/12/2018 với 11 nước thành viên.
Thủ tướng Nhật Bản cho biết ông hoan nghênh IPEF nhưng đồng thời cho biết có mong muốn Mỹ sẽ tham gia lại vào TPP.
Trung Quốc trong khi đó đã lên tiếng phản đối IPEF và gọi đây là câu lạc bộ đóng với mục đích nhằm thu hút các nước Đông Nam Á "tách khỏi Trung Quốc".
Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/05/2022
Hoàng Minh, RFA, 22/05/2022
Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ-ASEAN tại Washington vừa qua đã đánh dấu sự khởi động của một "kỷ nguyên mới" trong mối quan hệ giữa Mỹ và khối 10 quốc gia này.
AFP
Theo nhận định của giới phân tích, hai bên đã đi thêm một bước mang tính biểu tượng, đó là trong "Tuyên bố tầm nhìn" chung gồm 28 điểm được công bố sau hội nghị, Mỹ và ASEAN đã cam kết nâng cấp quan hệ từ quan hệ đối tác chiến lược lên "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" vào tháng 11 tới. Tổng thống Biden còn thông báo rằng chính quyền của ông sẽ cung cấp 150 triệu USD cho ASEAN để giải quyết các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, an ninh, ứng phó với đại dịch và năng lượng sạch. Đồng thời, Mỹ cũng cam kết triển khai tàu cảnh sát biển tới khu vực này trong tương lai để giúp tăng cường an ninh hàng hải. Bên cạnh đó, Tổng thống Biden thông báo đề cử ông Yohannes Abraham, Chánh văn phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, làm đại sứ Mỹ tại ASEAN - một vị trí đã bị bỏ trống kể từ thời kỳ đầu của chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump.
Vai trò quan trọng của ASEAN
Thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh này là quan trọng vì một số lý do; Đầu tiên, nó diễn ra vài ngày trước chuyến thăm của Tổng thống Biden đến Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong đó, Trung Quốc được xem là vấn đề chính trong chương trình nghị sự của chuyến công du này. Tại Tokyo, ông Biden sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo của nhóm Bộ tứ.
Thứ hai, Hội nghị thượng đỉnh diễn ra trong bối cảnh cuộc Khủng hoảng Ukraine và hệ lụy của cuộc khủng hoảng đã nhận được sự quan tâm trong suốt quá trình diễn ra cuộc họp.
Trong bài phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã đề cập đến tầm quan trọng của ASEAN trong bối cảnh Ấn Độ Dương. Ông Biden cho biết : "Vị trí trung tâm của ASEAN là trọng tâm trong chiến lược của chính quyền tôi trong việc theo đuổi tương lai mà tất cả chúng ta đều muốn thấy. Ấn Độ Dương là một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, ổn định và thịnh vượng, đồng thời kiên cường và an toàn. Đó là điều mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm" (1).
ASEAN cần gì ở Mỹ ?
Ông Joshua Kurlantzick, một thành viên cấp cao về Đông Nam Á tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại CFR Mỹ, nhận định khối ASEAN mong muốn thấy Mỹ đưa ra được một khuôn khổ hợp tác kinh tế với với một số nhượng bộ giành cho các nước Đông Nam Á và "một chiến lược rõ ràng hơn đối với an ninh khu vực…" (2).
Joanne Lin - chuyên gia tại Trung Tâm Nghiên cứu ASEAN thuộc viên Đông Nam Á Yusof Ishak, Singapore - cho rằng "ASEAN có thể muốn thấy sự hậu thuẫn nhiều hơn từ phía Mỹ đối với các cơ chế do ASEAN lãnh đạo, thay vì đối với các nhóm nhỏ như QUAD và AUKUS". Theo chuyên gia này, khối Đông Nam Á rất cần đến sự ủng hộ của Mỹ chẳng hạn như đối với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN, công bố vào năm 2019 (3).
Một trong những điểm cốt lõi mà giới phân tích ghi nhận là khối Đông Nam Á không muốn bị Mỹ dồn vào thế bị buộc phải chọn lựa giữa Washington và Bắc Kinh. Chuyên gia về Đông Nam Á Brian Harding, thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình Mỹ (USIP), ngày 9/5 nhận định : "Các nước ASEAN hết sức cảnh giác trước thực tế rằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với chính họ. Bất chấp sự đa dạng, ASEAN đều muốn có một nước Mỹ hiện diện và gắn bó ở Đông Nam Á để cân bằng với sức ảnh hưởng có thể trở thành thống trị của Trung Quốc" (4). Thế nhưng, theo ông Harding, điều họ không muốn là buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.
Tuy nhiên, một điều quan trọng sự gần gũi của Đông Nam Á với Trung Quốc và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Sự gần gũi này khiến các quốc gia ASEAN không muốn cắt đứt quan hệ kinh tế với Trung Quốc, đồng thời khiến Đông Nam Á trở thành một khu vực có tầm quan trọng tương đối đối với Bắc Kinh so với Washington. Thế nhưng, khoản tiền 150 triệu USD mà Mỹ cam kết là một con số tương đối nhỏ so với số tiền mà Mỹ đã cam kết trong quá khứ dành cho khu vực này. Chỉ riêng Trung Quốc, vào tháng 11/2021, Bắc Kinh đã cam kết hỗ trợ phát triển 1,5 tỷ USD cho ASEAN trong vòng ba năm để chống lại các tác động kinh tế và y tế cộng đồng mà đại dịch Covid-19 gây ra, đồng thời, Trung Quốc đã dành hàng tỷ USD tài trợ cho cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI).
Bà Joanne Lin, chuyên gia hàng đầu của Trung tâm nghiên cứu ASEAN thuộc Viện ISEAS Yusof-Ishak (Singapore), cũng cho rằng tuyên bố tầm nhìn chung được đưa ra vào cuối hội nghị đã nhấn mạnh cam kết nâng tầm hợp tác giữa ASEAN và Mỹ lên Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 11 (5).
Tuy nhiên, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời : Mỹ sẽ mở rộng những hình thức sáng kiến kinh tế nào đối với một khu vực đang cố gắng phục hồi từ đại dịch Covid-19, và thoát khỏi hậu quả của cuộc xung đột Nga-Ukraine như thế nào ? Và liệu Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) có đủ thực chất để bù đắp cho việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2017 hay không ? (6).
Các vấn đề Biển Đông và Mekong
Hai vấn đề quan trọng liên quan mật thiết đến lợi ích của Việt Nam là Biển Đông và sông Mekong cũng là những vấn đề được đặt ra trong kỳ họp thượng đỉnh lần này.
Trong bài phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), Thủ tướng Phạm Minh Chính đề cập đến cách tiếp cận của Việt Nam về vấn đề Biển Đông : "Việt Nam sẵn sàng tham gia đối thoại và hợp tác để giải quyết những khác biệt và tranh chấp. Vì vậy, Việt Nam đang góp phần hướng tới hòa bình, ổn định và phát triển. Đồng thời, Việt Nam cố gắng đảm bảo cân bằng lợi ích và giải quyết thỏa đáng các mối quan tâm của các đối tác, quốc gia và cộng đồng quốc tế khác nhau…" (7).
Trong Tuyên bố chung Mỹ - ASEAN (8), có năm đoạn trong tuyên bố này được dành để thúc đẩy hợp tác hàng hải. Phần này tập trung vào UNCLOS, hòa bình, an ninh và ổn định của Biển Đông, cũng như quyền tự do hàng hải và hàng không và các hoạt động sử dụng hợp pháp các vùng biển. Nội dung nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì và thúc đẩy một môi trường có lợi cho Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Tuy nhiên, không có biện pháp cụ thể nào được đề cập về cách tạo ra một môi trường thuận lợi cho các vấn đề nêu trên.
Đối với vấn đề Mekong, Giáo sư Bilahari Kausikan lập luận rằng việc Washington quá tập trung vào vấn đề tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc nên đã bỏ qua tầm quan trọng của vấn đề cạnh tranh của những nước ở lưu vực sông Mekong (9). Vị giáo sư giải thích rằng nếu không có vai trò lớn hơn của Mỹ, thì việc Trung Quốc xây dựng các con đập dọc theo thượng nguồn sông Mekong sẽ đem lại cho Bắc Kinh khả năng kiểm soát đối với năm thành viên ASEAN thuộc lưu vực sông này. Chuyên gia này nói : "Những con đập mà Trung Quốc đã và đang tiếp tục xây dựng trên thượng nguồn sông Mekong, chảy qua năm quốc gia thành viên lục địa ASEAN, không chỉ gây ra một nguy cơ sinh thái to lớn mà cùng với các tuyến đường sắt và đường cao tốc Bắc-Nam, có thể tạo ra tình thế phụ thuộc vào Bắc Kinh. Khi đó, điều này sẽ tái định hình vị trí địa lý chiến lược của Đông Nam Á" (10).
Theo đề xuất của giáo sư Bilahari Kausikan, Mỹ cần có cách tiếp cận chiến lược đối với những nước thuộc lưu vực sông Mekong và đặt vấn đề này trong tầm nhìn chính sách rộng lớn hơn của Washington đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thay vì chỉ đưa ra những chính sách mang tính chắp vá liên quan đến những vấn đề kỹ thuật hoặc môi trường.
Kết luận
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Mỹ đã có những dấu ấn nhất định, trong đó điều quan trọng đó chính là tín hiệu mà Mỹ muốn thể hiện với ASEAN và thế giới việc Mỹ coi trọng và không bỏ quên ASEAN, cho dù đang vướng vào cuộc chiến ở Ukraine.
Thực chất là Mỹ muốn lôi kéo ASEAN thoát ra khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc, tuy nhiên, ASEAN không muốn vướng vào chiến tranh Mỹ - Trung, mà muốn nhân cơ hội này để phát triển kinh tế của từng quốc gia, mà Trung Quốc, mặc dù khiến nhiều quốc gia lo ngại về an ninh, nhưng lại đang có quan hệ kinh tế rất chặt chẽ ở khu vực Đông Nam Á này.
Mỹ rất muốn kéo ASEAN trở lại vòng ảnh hưởng của mình, nhưng kế hoạch phát triển kinh tế với TPP đã bị Trump khước từ. Chính vì vậy, trong Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được ban hành hồi tháng 2, Mỹ đã muốn xây dựng Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), để có thể đưa ASEAN quay lại với "vòng tay" của mình. Tuy nhiên, IPEF vẫn bị coi là quá sơ sài, thiếu rất nhiều chi tiết để cho nó có thể hoạt động hiệu quả.
Các kế hoạch cho vấn đề Biển Đông và Mekông vẫn còn rất nhiều thứ phải bàn, nếu Mỹ thực chất muốn đưa ASEAN trở lại "vòng tay" của mình.
Hoàng Minh
Nguồn : RFA, 22/05/2022
Tham khảo :
2. https://www.cnbc.com/2022/05/12/biden-will-host-asean-summit-at-the-white-house-.html
3. https://www.cnbc.com/2022/05/12/biden-will-host-asean-summit-at-the-white-house-.html
4. https://www.usip.org/publications/2022/05/brian-harding-us-asean-summit
5. https://fulcrum.sg/us-asean-summit-the-audacity-of-trope/
9. https://eurasiantimes.com/us-needs-super-power-asean-by-its-side-to-challenge-china/
10. https://eurasiantimes.com/us-needs-super-power-asean-by-its-side-to-challenge-china/
Minh Anh, RFI, 11/11/2021
Những căng thẳng giống như thời Chiến Tranh Lạnh đang trở lại vùng Châu Á – Thái Bình Dương. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ngày 11/11/2021 đưa ra lời cảnh báo như trên khi tham dự trực tuyến một hội nghị, bên lề thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, được tổ chức tại Wellington, New Zealand.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong lễ kỷ niệm 110 năm Cách mạng Tân Hợi, tại Bắc Kinh, ngày 09/10/2021. Reuters – Carlos Garcia Rawlins
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh : "Mọi mưu toan vạch ra những đường biên ý thức hệ hay hình thành những nhóm nước nhỏ dựa trên địa chính trị đều sẽ đi đến thất bại".
Lãnh đạo Trung Quốc còn cho rằng, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương "không thể và cũng không nên một lần nữa rơi vào những cuộc đối đầu và những chia rẽ của thời Chiến Tranh Lạnh".
Như tỏ một cử chỉ hòa dịu về phía Mỹ, chiều tối thứ Ba, 09/11, ông Tập Cận Bình, trong một thông cáo được đại sứ quán Trung Quốc công bố trên mạng xã hội Twitter, cho rằng "mối quan hệ Mỹ - Trung hiện nay đang trong thời điểm quyết định lịch sử. Cả hai nước sẽ được lợi trong hợp tác và chỉ có thiệt trong đối đầu". Trong bối cảnh này, "Trung Quốc sẵn sàng làm việc với Mỹ để tăng cường các hoạt động trao đổi và hợp tác trong mọi chủ đề".
Cuối cùng, nguyên thủ Trung Quốc kêu gọi tất cả các nước trong khu vực phải cùng hành động trước những thách thức chung, từ đại dịch Covid-19, thương mại cho đến cả hành động vì khí hậu.
AFP lưu ý những tuyên bố này được đưa ra khi chỉ còn có vài ngày nữa là diễn ra thượng đỉnh trực tuyến giữa ông Tập Cận Bình với nguyên thủ Mỹ Joe Biden.
Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng do các hoạt động quân sự dồn dập của Trung Quốc xung quanh đảo Đài Loan và vùng Biển Đông trong thời gian gần đây.
Việc Bắc Kinh hồi đầu tháng 10/2021, ồ ạt điều chiến đấu cơ xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan buộc Washington có phản ứng mạnh mẽ. Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, hôm qua, 10/11, khẳng định Hoa Kỳ giám sát chặt chẽ sao cho Đài Loan có thể tự bảo vệ nhằm tránh bất kỳ ai "tìm cách đảo lộn nguyên trạng bằng vũ lực".
Còn tại Biển Đông, trước những yêu sách chủ quyền ngày một quá đáng của Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh và Úc hồi tháng Chín thông báo thành lập một liên minh quốc phòng cho phép Úc sở hữu tầu ngầm hạt nhân theo công nghệ Mỹ. Quyết định này đã khiến Bắc Kinh nổi dóa và gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao nghiêm trọng giữa Pháp với Mỹ và Úc.
Minh Anh
***********************
Trung Quốc cảnh báo nguy cơ căng thẳng "thời chiến tranh lạnh" ở Châu Á-Thái Bình Dương
RFA, 11/11/2021
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cảnh báo về nguy cơ căng thẳng thời Chiến tranh Lạnh tái diễn ở Châu Á-Thái Bình Dương vào khi căng thẳng về an ninh ở Đài Loan gia tăng.
Ông Tập Cận Bình nói trong video gửi đến diễn đàn bên lề Hội nghị APEC lo ngại căng thẳng ở Châu Á, trong khi trong tháng 10 Trung Quốc tăng cường hoạt động quân sự gần Đài Loan - Reuters, Weibo- RFA edited
Trước thềm hội nghị thượng đỉnh trực tuyến với Tổng thống Mỹ Joe Biden được dự kiến diễn ra vào đầu tuần tới, ông Tập hôm 10/11 đã phát biểu như trên, đồng thời kêu gọi các nước trong khu vực phải cùng nhau giải quyết những thách thức chung, từ đại dịch Covid-19 đến thương mại. AFP loan tin này trong ngày 11/11/2021.
AFP dẫn lời phát biểu của ông Tập Cận Bình, tại một hội nghị kinh tế trực tuyến bên lề Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) do New Zealand tổ chức, rằng "Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không thể và không nên trở lại tình trạng đối đầu và chia rẽ của thời kỳ Chiến tranh Lạnh".
Lời kêu gọi của ông Tập được đưa ra vài giờ sau khi Trung Quốc và Hoa Kỳ công bố một hiệp ước bất ngờ nhằm đẩy nhanh hành động vì khí hậu tại một hội nghị thượng đỉnh ở Glasgow, nơi các nước đang cố gắng thống nhất các biện pháp để hạn chế sự nóng lên của Trái đất.
Tuy vậy, ông Tập được cho là đã không đề cập trực tiếp đến thỏa thuận, nhưng nhấn mạnh"tất cả chúng ta có thể theo con đường phát triển bền vững, phát thải carbon thấp, xanh".
Nguồn tin của AFP cũng cho biết, theo Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ sẽ tổ chức các cuộc gặp trực tuyến sớm nhất vào tuần tới.
Trong khi chính quyền Tổng thống Joe Biden đã xác định khí hậu là một lĩnh vực quan trọng để hợp tác tiềm năng với Trung Quốc, thì căng thẳng lại tăng lên ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đài Loan, một nền dân chủ tự trị do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
Từ đầu tháng 10, Bắc Kinh đã tăng cường các hoạt động quân sự gần Đài Loan, với số lượng kỷ lục máy bay bay vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, bác bỏ các tuyên bố chủ quyền từ Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Mặc dù vậy, trong lời phát biểu bên lề Hội nghị cấp cao APEC, lãnh đạo Trung Quốc cũng kêu gọi nỗ lực chung trong toàn khu vực để thu hẹp "khoảng cách tiêm chủng", giúp vắc-xin Covid-19 dễ tiếp cận hơn với các quốc gia đang phát triển.
Ông Tập nói với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp APEC :"Chúng ta nên chuyển sự đồng thuận rằng vắc xin là hàng hóa công cộng toàn cầu thành các hành động cụ thể để đảm bảo sự phân phối công bằng và hợp lý".
Ông nói, các quốc gia trong khu vực nên đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, sản xuất, thử nghiệm và công nhận vắc xin để "thoát khỏi cái bóng của đại dịch và sớm đạt được sự phục hồi kinh tế ổn định".
Tóm tắt : Xu thế phân tách Mỹ – Trung ngày càng được giới chuyên gia, học giả đề cập nhiều trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc ngày một quyết liệt hơn. Đây là một xu thế tất yếu, tuy mới ở giai đoạn đầu, song đã diễn ra khá mạnh mẽ trong một số lĩnh vực như công nghệ, đầu tư, tài chính, và dự báo sẽ còn tiếp tục gia tăng thời gian tới. Tiến trình phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới có tác động trực tiếp, đa chiều, lâu dài và sâu sắc không chỉ đến các quốc gia mà cả đến hệ thống thể chế, luật chơi và chuẩn mực toàn cầu, trong đó mặt thách thức lớn hơn mặt cơ hội. Mặc dù phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc tạo ra áp lực "chọn bên" đối với các nước vừa và nhỏ, song chưa có dấu hiệu cho thấy triển vọng xảy ra phân tách toàn diện, hay hình thành trở lại cục diện hai cực và phân tuyến rõ nét như thời Chiến tranh Lạnh trong ngắn hạn.
Tác động của phân tách Mỹ – Trung đến cục diện thế giới và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
Bối cảnh và nguyên nhân dẫn tới "cuộc ly hôn lịch sử" giữa Mỹ và Trung Quốc
Khái niệm phân tách giữa hai quốc gia thường được hiểu là một tiến trình với một số đặc điểm cụ thể như sau : Thứ nhất, đây là quá trình chuyển đổi trạng thái quan hệ từ gắn kết (coupling) sang phân tách (decoupling) [1]. Nói cách khác, trước khi phân tách, giữa hai quốc gia phải tồn tại mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau. Thứ hai, phân tách có thể là chủ trương, hoặc cũng có thể là hệ quả của sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược của một hoặc cả hai quốc gia. Thứ ba, hai quốc gia khi phân tách sẽ giảm dần mức độ phụ thuộc lẫn nhau, giảm hợp tác trên nhiều lĩnh vực, gia tăng các động thái cạnh tranh, thậm chí là cọ xát tổng lực và toàn diện [2].
Căn cứ theo những đặc điểm trên, có thể nhận thấy quan hệ Mỹ – Trung không những đã chuyển từ giai đoạn gắn kết sang phân tách, mà phân tách đã dần trở thành xu hướng ngày càng rõ nét trong quan hệ hai nước, nhất là dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump. Quá trình gắn kết giữa Mỹ và Trung Quốc bắt đầu từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Với tư cách siêu cường duy nhất còn lại sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ đã chủ động thúc đẩy toàn cầu hóa thị trường, hệ thống tài chính, chuỗi sản xuất và cung ứng công nghệ cao. Điều này dẫn đến sự kết hợp nhanh chóng, quy mô lớn về tài chính và xã hội với Trung Quốc. Kể từ khi Mỹ và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1979 cho đến trước khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức, tuy có một số thời điểm quan hệ Mỹ – Trung căng thẳng, song Mỹ vẫn chủ trương chú trọng can dự, kiểm soát bất đồng và thúc đẩy hợp tác với kỳ vọng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường, đẩy mạnh cải cách và dân chủ hóa, tham gia và tuân thủ luật chơi trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt. Về phần mình, Trung Quốc kể từ thời nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình cũng chú trọng tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa nguồn lực của Mỹ nhằm phát triển sức mạnh tổng hợp, nâng cao vị thế quốc tế. Giai đoạn gắn kết Mỹ – Trung được hậu thuẫn bởi xu thế toàn cầu hóa, điển hình là giao lưu nhân dân và hợp tác thương mại ngày càng khăng khít giữa Mỹ và Trung Quốc sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Sau gần bốn thập kỷ gắn kết, Mỹ và Trung Quốc đã có biểu hiện phân tách mà nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi về tư duy và chính sách của hai cường quốc theo hướng tăng cường cạnh tranh chiến lược, trong đó phân tách được sử dụng như một công cụ phục vụ cạnh tranh chiến lược. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 bùng phát cũng là một tác nhân quan trọng đẩy nhanh và làm sâu sắc hơn tiến trình phân tách Mỹ – Trung vốn đã định hình dưới thời Tổng thống Trump.
Phân tách Mỹ – Trung bắt đầu với sự chuyển đổi về nhận thức chiến lược của cả hai cường quốc và kéo theo là tiến trình điều chỉnh chính sách và trạng thái quan hệ nhằm giảm bớt sự phụ thuộc, tăng cường cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau, củng cố và tăng cường năng lực chi phối các chuẩn mực, luật chơi toàn cầu. Về phía Trung Quốc, kể từ khi thực hiện chính sách cải cách, mở cửa và hội nhập với quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường nguồn lực cho nghiên cứu phát triển và sức mạnh quốc phòng, Trung Quốc đã nhanh chóng trỗi dậy, ngày càng thu hẹp khoảng cách với Mỹ về sức mạnh tổng hợp [3] và ảnh hưởng quốc tế. Cùng với quốc lực và ảnh hưởng gia tăng, Trung Quốc ngày càng tự tin và quyết tâm theo đuổi mục tiêu chiến lược để "Phục hưng Trung Hoa". Từ góc nhìn của Mỹ, Chiến lược "Made in China 2025" và Sáng kiến "Vành đai – Con đường" cho thấy Trung Quốc có ý định và kế hoạch vượt Mỹ để trở thành cường quốc dẫn đầu thế giới về kinh tế và công nghệ, nhất là công nghệ lưỡng dụng, tiến tới có khả năng định hình và chi phối tiêu chuẩn, luật chơi toàn cầu. Để thực hiện mục tiêu, Trung Quốc hiểu rõ cần tăng cường tự chủ, giảm phụ thuộc vào Mỹ, tiến tới phát triển sức mạnh tổng hợp ngang hàng với Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn rất cần tranh thủ các yếu tố thị trường, nguồn lực tài chính và công nghệ của Mỹ để phục vụ cho các kế hoạch phát triển của mình.
Về phía Mỹ, lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc đã manh nha từ trước thời Chính quyền Trump, song Mỹ vẫn theo đuổi chính sách can dự, với kỳ vọng Trung Quốc sẽ dần có điều chỉnh chính sách theo hướng tuân thủ trật tự và luật chơi do Mỹ dẫn dắt. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Trump lên nắm quyền, tư duy chiến lược và chính sách của Mỹ về Trung Quốc đã có sự thay đổi căn bản. Nước Mỹ dưới thời Tổng thống Trump xác định rằng Trung Quốc tuy hưởng lợi và lớn mạnh nhờ hệ thống quốc tế hiện hành, song lại không thực hiện dân chủ hóa, cải cách và tôn trọng luật chơi do Mỹ dẫn dắt. Việc các công ty công nghệ mới của Trung Quốc như Hoa Vi, Alibaba, Tencent và Baidu phá vỡ thế độc quyền về công nghệ viễn thông tiên tiến trước đây của các công ty Mỹ như Apple hay Amazon càng khiến Mỹ lo ngại về khả năng Trung Quốc vượt Mỹ để dẫn đầu thế giới về công nghệ. Chính vì vậy, Chính quyền Trump xác định chính sách can dự với Trung Quốc đã thất bại và cần chuyển sang cách tiếp cận thiên về cạnh tranh. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Tổng thống Trump, Chiến lược An ninh Quốc gia 2017 của Mỹ đã công khai xác định Trung Quốc là một đối thủ chiến lược hàng đầu và là thách thức lâu dài, nghiêm trọng nhất đối với an ninh và lợi ích sống còn của Mỹ trên phạm vi toàn cầu, nhất là tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Đi đôi với tăng cường cạnh tranh chiến lược, chủ trương của Mỹ là từng bước giảm dần những ràng buộc về lợi ích với Trung Quốc ở một số lĩnh vực có thể cản trở, khiến Mỹ bị động trong triển khai cạnh tranh Trung Quốc ; đồng thời tận dụng lợi thế hiện có, phối hợp với một số đồng minh để gây sức ép, kiềm chế Trung Quốc.
Sự chuyển đổi về tư duy chiến lược được củng cố thêm bởi lo ngại sâu sắc của Mỹ về nguy cơ phụ thuộc quá mức vào nguồn cung một số mặt hàng thiết yếu từ Trung Quốc. Đại dịch Covid-19 bùng phát đã khiến nội bộ Mỹ ý thức được rõ ràng hơn hệ lụy và nguy cơ nếu để phụ thuộc quá mức vào nguồn cung một số mặt hàng thiết yếu, nhất là dược phẩm và thiết bị y tế, từ đối thủ chiến lược là Trung Quốc. Hơn nữa, Chính quyền Trump cũng nhận định chính sự chậm trễ và thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin về dịch bệnh của Trung Quốc đã khiến nước Mỹ lâm vào khủng hoảng chưa từng có. Hệ quả là, ngày càng có sự đồng thuận cao hơn trong lưỡng đảng và dư luận Mỹ về việc Chính quyền Mỹ cần có chính sách cứng rắn hơn trong xử lý thách thức từ Trung Quốc, nhất là việc Trung Quốc lạm dụng Mỹ và hệ thống quốc tế do Mỹ dẫn dắt trong nhiều thập kỷ qua, đồng thời giảm phụ thuộc vào Trung Quốc trong một số lĩnh vực thiết yếu để Trung Quốc không thể lợi dụng các lĩnh vực này nhằm gây sức ép với Mỹ.
Hiện trạng phân tách Mỹ – Trung
Tuy mới ở giai đoạn đầu, song phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc đã nhanh chóng được mở rộng về phạm vi và mức độ, nhất là dưới thời Tổng thống Trump. Chính quyền Trump chủ động đưa ra nhiều biện pháp để phân tách với Trung Quốc, nhất là trong các lĩnh vực Mỹ chủ trương giảm ràng buộc, còn Trung Quốc cũng đưa ra nhiều biện pháp đáp trả.
Về thương mại – đầu tư – tài chính, Mỹ tăng cường bảo hộ [4], hạn chế đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc trong các lĩnh vực nhạy cảm [5], khuyến khích doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc để đầu tư về Mỹ, hạn chế nguồn vốn của Mỹ đầu tư vào doanh nghiệp Trung Quốc [6]. Trung Quốc áp thuế trả đũa, hạn chế doanh nghiệp Mỹ tiếp cận thị trường Trung Quốc, xúc tiến thành lập các định chế tài chính quốc tế không có sự tham gia của Mỹ (như AIIB, NDB), hạn chế hoạt động của các công ty thanh toán điện tử Mỹ (Visa, Master) ở Trung Quốc.
Về công nghệ, Mỹ tăng cường kiểm soát việc Trung Quốc mua lại doanh nghiệp công nghệ mũi nhọn của Mỹ, hạn chế doanh nghiệp Mỹ chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc, trừng phạt một số tập đoàn công nghệ hàng đầu của Trung Quốc (như Hoa Vi, ZTE…), vận động đồng minh, đối tác không sử dụng sản phẩm công nghệ 5G của Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư mua lại công ty công nghệ nước ngoài và hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ trong nước để đẩy nhanh tiến tới tự chủ về công nghệ [7], ngăn chặn hoạt động của Google, Facebook ở Trung Quốc và thay thế bằng các công cụ và mạng xã hội nội địa như Baidu, Wechat, Weibo…
Về văn hóa – giáo dục, Mỹ tăng cường kiểm soát hoạt động của Hội sinh viên Trung Quốc tại Mỹ, giám sát, hạn chế du học sinh và nghiên cứu sinh Trung Quốc trong các lĩnh vực Mỹ coi là nhạy cảm, chỉ trích hoạt động của các viện Khổng Tử [8] tại Mỹ, chấm dứt Chương trình Hòa bình (Peace Corps) của Mỹ tại Trung Quốc, giới hạn hoạt động của một số cơ quan báo chí Trung Quốc tại Mỹ [9]. Trung Quốc chấm dứt hơn 200 chương trình hợp tác về giáo dục với các đại học nước ngoài (trong đó có Mỹ), hạn chế các chương trình ngoại giao công chúng và văn hóa của Mỹ, siết chặt kiểm duyệt đối với báo chí Mỹ [10].
Không chỉ xúc tiến phân tách trực tiếp với Trung Quốc, chính quyền Mỹ cũng đẩy mạnh tập hợp lực lượng, vận động đồng minh và đối tác ủng hộ và hợp tác với Mỹ trong việc phân tách và cô lập Trung Quốc. Trước nỗ lực tập hợp lực lượng của Mỹ và xuất từ một số quan ngại về an ninh, nhiều nước đồng minh và đối tác chủ chốt của Mỹ đã có sự hưởng ứng lớn hơn với lời kêu gọi của Mỹ trong việc kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ, đầu tư. Anh thông báo lệnh cấm sử dụng các thiết bị liên lạc và công nghệ 5G của Tập đoàn Hoa Vi kể từ năm 2027. Úc đã ngăn chặn một số dự án trong đó các tập đoàn Trung Quốc có ý định đầu tư hoặc mua lại các công ty Úc trong lĩnh vực công nghệ, thực phẩm và khai khoáng với lý do quan ngại về an ninh. Ấn Độ, Úc và Nhật Bản đã bắt đầu đàm phán về Sáng kiến khả năng phục hồi chuỗi cung ứng (SCRI) mà giới quan sát cho là nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Ấn Độ cũng bắt đầu kiểm soát chặt chẽ hơn FDI Trung Quốc, cấm sử dụng nhiều ứng dụng của Trung Quốc tại Ấn Độ.
Tác động của việc phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới
1. Tác động đối với Mỹ và Trung Quốc
Thứ nhất, xét từ góc độ quốc gia, xu hướng phân tách Mỹ – Trung gia tăng sẽ làm tổn hại lợi ích của cả Mỹ và Trung Quốc, nhất là về kinh tế. Một sự phân tách sẽ làm gián đoạn dòng trao đổi thương mại và công nghệ vốn là những nền tảng quan trọng cho tăng trưởng và điều này sẽ gây tác động tiêu cực cho cả hai nước. Nhìn chung, Mỹ cơ bản có khả năng chịu đựng và hóa giải thách thức tốt hơn do có ưu thế hơn về sức mạnh tổng hợp, trình độ công nghệ, mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh. Trong khi đó, nếu phân tách tiếp tục gia tăng và mở rộng, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn hơn, trong ngắn hạn khó khôi phục được đà phát triển mạnh mẽ như giai đoạn trước. Theo phân tích của hai nhà kinh tế Tom Orlik and Bjorn van Roye [11], tăng trưởng của Trung Quốc có thể sẽ giảm xuống chỉ còn 3,5% vào năm 2030 nếu như nước này phân tách kinh tế với Mỹ. Tuy nhiên, một số ý kiến cũng cho rằng nếu Mỹ cố tình áp đặt chính sách phân tách giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới thì sẽ thất bại vì sự tùy thuộc lẫn nhau quá lớn giữa hai nền kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa.
Thứ hai, xét từ góc độ doanh nghiệp, một số công ty Mỹ, đặc biệt là những công ty cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thiết yếu cho Trung Quốc sẽ được hưởng lợi. Trái lại, những công ty Mỹ bán sản phẩm cho các công ty công nghệ cao của Trung Quốc có thể sẽ gặp khó khăn, thậm chí thua lỗ. Khi các công ty này không còn được coi là đối tác quan trọng cho sự phát triển của Trung Quốc, họ có thể chịu áp lực tăng lên từ các nhà chức trách Trung Quốc hoặc bị mất đi các đặc quyền vốn có trước đây. Về phần mình, nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc cũng sẽ đối mặt với áp lực tương tự từ chính quyền Mỹ. Các tập đoàn công nghệ như mũi nhọn của Trung Quốc như Hoa Vi sẽ tiếp tục phải gánh chịu nhiều hạn chế và rào cản trong việc tiếp cận các công nghệ Mỹ, làm ăn với doanh nghiệp Mỹ hoặc bán sản phẩm vào thị trường Mỹ. Điều này có thể buộc các doanh nghiệp này phải trở nên tự lực hơn sớm hơn so với kế hoạch ban đầu, hoặc ngược lại sẽ sụp đổ và phá sản. Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng có khả năng phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn và các hạn chế nghiêm trọng khi muốn đầu tư vào Mỹ.
Thứ ba, xét từ góc độ cá nhân, người tiêu dùng hai nước sẽ phải gánh chịu mức giá cả của các hàng hóa nhập khẩu cao hơn, trong bối cảnh hai nước duy trì các biện pháp áp thuế trừng phạt lẫn nhau. Trong nghiên cứu phát triển, các công dân Trung Quốc cũng sẽ bị hạn chế trong tiếp cận các nghiên cứu cơ bản của Mỹ. Trao đổi học thuật giữa các học giả Mỹ và Trung Quốc sẽ phải đối mặt với sự giám sát và hạn chế của cả hai chính phủ. Các trao đổi văn hóa cũng giảm với việc Trung Quốc tăng cường hạn chế các chương trình văn hóa Mỹ ở Trung Quốc, còn Mỹ thì nghi ngờ và siết chặt kiểm soát hoạt động của các Viện Khổng tử, học giả, sinh viên và cơ quan truyền thông Trung Quốc. Giao lưu nhân dân giữa Mỹ và Trung Quốc cũng sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực của xu thế phân tách. Nếu không được kiểm soát, thậm chí xu thế "bài Trung" và "bài Mỹ" có thể sẽ nổi lên.
2. Tác động đối với thế giới
Thứ nhất, phân tách Mỹ – Trung sẽ kéo theo tái cơ cấu mạnh mẽ chuỗi sản xuất và quan hệ thương mại toàn cầu, trong ngắn hạn sẽ gây nhiều tác động tiêu cực cho nhiều nước và hệ thống các thể chế quốc tế. Rủi ro là nền kinh tế toàn cầu có thể rạn nứt và tan rã nếu Mỹ và Trung Quốc tiếp tục đi theo con đường phân kỳ như hiện nay. Một tiến trình phân tách "cứng" sẽ không chỉ trì hoãn và làm phức tạp thêm sự phục hồi kinh tế của thế giới, mà cũng có thể gieo mầm cho cuộc suy thoái toàn cầu lần thứ hai. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres trong bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 9/2019) đã kêu gọi các nước hành động để tránh nguy cơ thế giới "rạn nứt lớn", cho rằng đây là một mối đe dọa thực sự với thể chế toàn cầu. Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson cảnh báo rằng một "bức màn sắt kinh tế" có thể rơi xuống thế giới, theo đó Mỹ và Trung Quốc sẽ rơi vào bế tắc về những khác biệt chiến lược, và dẫn đến sự suy giảm lớn hơn về vốn cũng như chuyển giao công nghệ trên toàn thế giới.
Thứ hai, quá trình phân tách sẽ làm gia tăng căng thẳng và cọ xát Mỹ – Trung trên phạm vi toàn cầu, cả song phương và tại các diễn đàn đa phương, làm xói mòn sự ổn định của các thể chế đa phương nền tảng mà cả Mỹ và Trung Quốc tuân thủ kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay. Mặt cọ sát sẽ nổi trội hơn hợp tác trong các cơ chế quản trị toàn cầu và khu vực như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), G20, G7… khiến cho các cơ chế đa phương này gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý các vấn đề toàn cầu cũng như tìm tiếng nói chung trong thúc đẩy cải cách. Tại Đối thoại cấp cao ngày 10/9/2019 với chủ đề "Tái khẳng định cam kết đối với chủ nghĩa đa phương thông qua tăng cường thể chế và hệ thống quốc tế nhân dịp kỷ niệm 75 Hiến chương Liên Hợp Quốc," Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Guterres đã nhấn mạnh hai đe dọa lớn đối với chủ nghĩa đa phương, trong đó có việc sự phân tách của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo hộ ngày càng tăng sẽ làm chia rẽ các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, thúc đẩy hình thành các liên minh nhỏ cùng nguyện vọng hay cùng chí hướng, hành động độc lập trong đa phương thay vì đóng góp, đầu tư vào các thể chế đa phương toàn cầu.
Thứ ba, phân tách và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung còn tạo ra áp lực "chọn bên" ngày một lớn đối với các nước, tiến tới hình thành các tập hợp lực lượng rõ nét hơn xoay quanh hai trục Mỹ và Trung Quốc. Dưới nhiệm kỳ Tổng thống Trump, cả Mỹ và Trung Quốc đều đã đẩy mạnh tập hợp lực lượng để cạnh tranh ảnh hưởng. Một số chuyên gia cho rằng chính việc Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao cứng rắn, gây sức ép với nhiều nước như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, có hành động quyết đoán hơn nhằm hiện thực hóa yêu sách chủ quyền ở Hoa Đông và biển Đông… đã khiến các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương quan ngại hơn. Điều này đã phần nào giúp Mỹ thành công hơn trong nỗ lực tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ đối phó với thách thức từ Trung Quốc.
3. Tác động đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Châu Á – Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng quyết liệt nhất giữa Mỹ và Trung Quốc nên cũng sẽ chịu tác động mạnh nhất từ tiến trình phân tách Mỹ – Trung trên nhiều phương diện, cả về kinh tế, chính trị và an ninh.
Về kinh tế : Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra tiến trình tái cơ cấu mạnh mẽ chuỗi sản xuất và quan hệ thương mại. Trung Quốc có khả năng sẽ mất dần vai trò công xưởng và nguồn cung ứng chính đối với nhiều mặt hàng. Các tập đoàn của Mỹ và nước ngoài có trụ sở tại Trung Quốc chịu áp lực lớn từ các biện pháp áp thuế mà Mỹ áp đặt với Trung Quốc, dẫn tới xu thế doanh nghiệp nước ngoài chuyển dịch đầu tư và dây chuyền sản xuất khỏi Trung Quốc để tránh bị áp thuế. Xu thế doanh nghiệp chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc đã mạnh mẽ hơn từ năm 2019 do ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và dịch Covid-19. Theo báo cáo của hãng tư vấn Kearney, trong năm 2019, tổng nhập khẩu ngành sản xuất của Mỹ từ Trung Quốc giảm 90 tỉ USD (tương đương 17% cùng kỳ năm trước). Nhiều hãng phân tích đánh giá việc phải chịu cảnh gián đoạn chuỗi cung trong suốt tháng 2 và đầu tháng 3/2020 do các nhà máy Trung Quốc buộc phải đóng cửa vì dịch Covid–19 đã khiến các doanh nghiệp Mỹ phải đánh giá lại một cách nghiêm túc về chiến lược phân bổ nguồn cung, khiến vai trò của Trung Quốc trong chuỗi cung toàn cầu khó có thể trở lại như trước đây.
Mặt khác, những cơ hội mới cũng có thể xuất hiện với một số quốc gia và doanh nghiệp. Trong bối cảnh có nhu cầu dịch chuyển đầu tư và sản xuất khỏi Trung Quốc, các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng tìm kiếm các điểm đến lân cận để thay thế. Giới phân tích cho rằng một số nước nền kinh tế đang lên ở Đông Nam Á có thể là những điểm đến phù hợp nhất do là chế độ chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao và nguồn nhân công giá rẻ. Một số tập đoàn đa quốc gia vốn phụ thuộc vào dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc như Google, Microsoft đang cân nhắc chuyển sản xuất một số mặt hàng điện thoại, máy tính cá nhân khỏi Trung Quốc sang các nước như Thái Lan hay Việt Nam. Công ty Wistron, một trong những đối tác sản xuất linh kiện hàng đầu cho tập đoàn Apple, mới đây cũng tuyên bố sẽ chuyển 50% công suất sản xuất ra khỏi Trung Quốc trong một vài năm tới. Thành viên sáng lập và Cố vấn Hội đồng quản trị của Tập đoàn Grant Thornton Việt Nam, ông Kenneth Atkinson cho biết : "Việt Nam đang chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh trong FDI do có sự chuyển dịch trong quá trình sản xuất của các mặt hàng như may mặc, giày dép và dụng cụ điện tử, là kết quả của căng thẳng thương mại hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc".
Về chính trị : Do chịu tác động của cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ – Trung, các cơ chế đa phương tại khu vực, trong đó có ASEAN, đối mặt với thách thức lớn hơn dưới các nỗ lực tập hợp lực lượng của hai cường quốc. Việc các nhà lãnh đạo tại Hội nghị APEC 2018 ở Papua New Guinea đã không thể đưa ra một Tuyên bố chung là thất bại lần đầu tiên gặp phải thuộc loại này trong lịch sử 25 năm của APEC. Thay vì tạo cơ hội cho thúc đẩy hợp tác kinh tế, APEC 2018 đã làm dấy lên lo ngại về sự chia rẽ và đối đầu ngày một gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sức ép chọn bên với các nước cũng sẽ tăng lên. Cho đến nay, đa số các nước khu vực nhìn chung vẫn triển khai chính sách thực dụng, bám sát lợi ích, duy trì quan hệ và hợp tác với cả Mỹ và Trung Quốc. Ngay cả các đồng minh thân cận của Mỹ tuy hưởng ứng tích cực các sáng kiến của Mỹ, song cũng duy trì hợp tác với Trung Quốc trong các lĩnh vực có lợi ích, nhất là thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, có thể sẽ ngày càng khó duy trì chủ trương và hành động cân bằng này, vì cả Mỹ và Trung Quốc đều sẽ tăng cường vận động, thậm chí gây sức ép mạnh mẽ hơn, để đối tác ủng hộ quan điểm và hành động của mình.
Về an ninh : Cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ – Trung gia tăng làm giảm đi số lượng và hiệu quả của các cơ chế đối thoại và hợp tác, suy giảm lòng tin chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc và làm tăng rủi ro tính toán sai lầm. Dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ đã rút lại lời mời Trung Quốc tham dự tập trận RIMPAC 2019 với lý do để phản đối các hành vi quá mức của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần mình, Trung Quốc nhiều lần cho tàu và máy bay áp sát tàu và máy bay Mỹ ở biển Đông, hoặc trong khu vực gần Hồng Công, Đài Loan. Hai bên cũng không còn duy trì được các cơ chế đối thoại an ninh cấp cao quan trọng như Đối thoại an ninh – ngoại giao, Đối thoại cấp Hội đồng Tham mưu trưởng… Những động thái trên làm tăng nguy cơ tính toán và hành động sai lầm, khiến môi trường an ninh khu vực phức tạp và bất ổn hơn. Căng thẳng và cọ xát Mỹ – Trung Quốc tại các điểm nóng khu vực có thể sẽ gia tăng cùng với tiến trình phân tách và tập hợp lực lượng của hai cường quốc, do cả hai đều có nhu cầu thể hiện sức mạnh và vị thế lãnh đạo của mình. Tuy nhiên, điểm trấn an là cả Mỹ và Trung Quốc đều tỏ ra chủ trương tránh để xảy ra xung đột nóng hay đối đầu, ngay cả trong những giai đoạn quan hệ căng thẳng nhất dưới thời Tổng thống Trump. Trong bốn năm nhiệm kỳ Tổng thống Trump, mặc dù các cơ chế hợp tác an ninh – quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc suy giảm mạnh, song hai bên vẫn duy trì hợp tác trong các lĩnh vực an ninh chung và một số cơ chế đối thoại quân sự nhất định để bình ổn quan hệ, giảm thiểu nguy cơ hai bên có tính toán và hành động sai lầm dẫn tới xung đột trực diện.
Triển vọng thời gian tới
Tiến trình phân tách Mỹ – Trung sẽ khó bị đảo ngược mà nhiều khả năng sẽ tiếp tục gia tăng về phạm vi, mức độ do các động lực của nó dự báo sẽ tiếp tục mạnh mẽ hơn thời gian tới. Việc Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy, tăng cường sức mạnh tổng hợp và cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ trên nhiều lĩnh vực sẽ khiến lo ngại về Trung Quốc trong nội bộ Mỹ gia tăng và chính sách cạnh tranh và kiềm chế chiến lược của Mỹ với Trung Quốc sẽ tiếp tục được triển khai đồng bộ. Cạnh tranh chiến lược sẽ dẫn tới việc Mỹ sẽ tiếp tục duy trì và tăng cường phân tách với Trung Quốc trong các lĩnh vực mà Mỹ có nhu cầu giảm phụ thuộc hoặc cần kiềm chế không để Trung Quốc lợi dụng nguồn lực, công nghệ và chất xám của Mỹ để vượt lên trên Mỹ. Có lẽ chính vì vậy, sau khi Tổng thống Biden lên nắm quyền, trái với một số dự đoán ban đầu về khả năng Mỹ sẽ có chính sách mềm dẻo hơn với Trung Quốc, Chính quyền Biden tiếp tục kế thừa chủ trương cứng rắn và gây áp lực với Trung Quốc của Chính quyền Trump, trong đó có việc duy trì nhiều biện pháp mà Chính quyền Trump đã áp dụng với Trung Quốc như áp thuế nhập khẩu, trừng phạt doanh nghiệp Trung Quốc, kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu công nghệ cao và hạn chế nguồn vốn đầu tư của Mỹ vào thị trường và doanh nghiệp Trung Quốc… Chính quyền Biden cũng đẩy mạnh việc tham vấn và hợp tác với đồng minh và đối tác liên quan đến các quan tâm và thách thức chung liên quan đến Trung Quốc. Chủ trương và cách tiếp cận của Chính quyền Biden có khả năng sẽ dẫn tới xu thế tập hợp lực lượng và phân tách quyết liệt hơn giữa Mỹ và Trung Quốc thời gian tới trong các lĩnh vực như chuỗi cung ứng, công nghệ lưỡng dụng, tài chính – tiền tệ, y tế – giáo dục.
Xu thế cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ngày một gia tăng khiến một số học giả nhận định phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới có thể sẽ dẫn tới hình thành hai tập hợp lực lượng hoặc hai phe trong một hình thái "Chiến tranh Lạnh kiểu mới". Không thể phủ nhận cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ – Trung giai đoạn hiện nay có một số đặc điểm khá giống thời Chiến tranh Lạnh Mỹ – Xô trước đây : Một là, tồn tại hai cường quốc cạnh tranh ngôi vị đứng đầu thế giới. Hai là, cạnh tranh không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế mà lan rộng sang nhiều lĩnh vực khác như chính trị, quân sự, an ninh, mô hình phát triển… Ba là, cạnh tranh dự báo sẽ diễn ra trong dài hạn và ngày càng quyết liệt. Bốn là, cả hai cường quốc đều tránh để xảy ra "xung đột nóng" hay đối đầu trực tiếp.
Tuy vậy, rất ít khả năng phân tách Mỹ – Trung sẽ diễn ra toàn diện hoặc mỗi cường quốc trở thành một cực trong hai hệ thống đối lập như thời Chiến tranh Lạnh. Tuy có xu thế gia tăng, song phân tách Mỹ – Trung dự báo sẽ chỉ xảy ra cục bộ trong một số lĩnh vực, vì một số lý do sau :
Thứ nhất, toàn cầu hóa kinh tế vẫn là một xu hướng lớn và lâu dài với nền tảng và động lực quan trọng tiếp tục được củng cố như sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ, sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu hợp tác giải quyết các thách thức toàn cầu… Xu thế toàn cầu hóa mọi mặt đời sống quốc tế khiến mức độ phụ thuộc lẫn nhau không chỉ giữa Mỹ và Trung Quốc mà cả giữa tất cả các nước với nhau trở nên cao độ. Ví dụ, trong lĩnh vực thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu được định hình trong nhiều thập kỷ qua tuy có thể bị gián đoạn ở một số mắt xích nhưng sẽ chỉ dẫn tới tái cơ cấu, không thể bị phá vỡ. Việc phân tách tuyệt đối theo ý muốn chủ quan của bất kỳ quốc gia nào đều khó có thể thực hiện được.
Thứ hai, cả Mỹ và Trung Quốc đều không chủ trương để xảy ra phân tách toàn diện do mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc hiện vẫn rất lớn [12], đồng thời hai bên cũng có lợi ích duy trì hợp tác trên một số lĩnh vực chủ chốt có cùng lợi ích. Nội bộ Mỹ và Trung Quốc đều có những nhóm lợi ích vận động duy trì hợp tác giữa hai cường quốc. Thỏa thuận thương mại giai đoạn một giữa Mỹ và Trung Quốc dưới thời Chính quyền Trump là minh chứng cho thấy tuy cạnh tranh là xu thế chủ đạo, song những luồng quan điểm ủng hộ can dự, hợp tác [13] vẫn có tiếng nói mạnh. Ngay cả dưới thời Tổng thống Trump khi mà cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung bị đẩy lên ở mức rất cao, thì Mỹ cũng chỉ chủ trương phân tách có chọn lọc, theo lĩnh vực, không chủ trương phân tách hoàn toàn. Chính quyền Biden sẽ phải cân nhắc về các hậu quả và chi phí của việc phân tách với Trung Quốc đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ, nhất là trong bối cảnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp và cản trở quá trình phục hồi của kinh tế Mỹ. Về phần mình, Trung Quốc cũng không muốn xảy ra phân tách trong các lĩnh vực mà Trung Quốc vẫn có nhu cầu tranh thủ Mỹ như thương mại, tài chính và công nghệ. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình [14] và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường [15] đều khẳng định Mỹ và Trung Quốc sau nhiều năm hợp tác đã gắn kết chặt chẽ ; việc phân tách là không thực tế, không thể xảy ra, và các nước đều không muốn xảy ra. Các biện pháp của Trung Quốc hiện chủ yếu nhằm củng cố năng lực tự chủ, tìm cách hóa giải sức ép và các đòn công kích từ Mỹ, và khi cần có thể chấp nhận nhân nhượng nhất định nhằm kéo dài giai đoạn "thời cơ chiến lược" để phát triển.
Thứ ba, tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế ngày nay không còn theo ý thức hệ, mà phát triển đa dạng, đan xen, căn cứ theo lĩnh vực lợi ích. Ngoài Mỹ và Trung Quốc, còn nhiều trung tâm kinh tế lớn khác có đan xen lợi ích, tùy thuộc chặt chẽ về nhiều mặt với cả Mỹ và Trung Quốc, nên không dễ để phân tách kinh tế thế giới thành các hệ thống biệt lập như trước đây. Một số đồng minh thân cận của Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn hết sức coi trọng và thúc đẩy hợp tác kinh tế – thương mại với Trung Quốc. Nhiều đồng minh NATO của Mỹ (Anh, Pháp, Ý…) vẫn hợp tác với Trung Quốc ở mức độ nhất định trong lĩnh vực 5G bất chấp sức ép từ Chính quyền Trump.
Kết luận
Cạnh tranh chiến lược là nguyên nhân căn bản dẫn tới tiến trình phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc sau bốn thập kỷ gắn kết kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Dịch Covid–19 bùng phát và lan rộng trên toàn cầu cũng là một tác nhân quan trọng đẩy nhanh và làm sâu sắc hơn tình trạng phân tách Mỹ – Trung dưới thời Tổng thống Trump. Phân tách Mỹ – Trung hiện mới ở giai đoạn đầu, song đã diễn ra khá mạnh mẽ trong một số lĩnh vực như công nghệ, đầu tư, tài chính, và dự báo sẽ còn tiếp tục diễn biến phức tạp và có thể còn gia tăng thời gian tới, mặc dù cách tiếp cận của Mỹ trong cạnh tranh với Trung Quốc có thể có những điều chỉnh dưới thời Tổng thống Biden. Tiến trình phân tách giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới có tác động đa chiều to lớn, lâu dài và sâu sắc không chỉ đến tất cả các quốc gia mà còn cả đến hệ thống các thể chế, tổ chức, luật chơi và chuẩn mực toàn cầu được định hình từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay, trong đó mặt thách thức tỏ ra lớn hơn mặt cơ hội. Mặc dù tiến trình phân tách tạo ra áp lực chọn bên và bước đầu hình thành các tập hợp lực lượng rõ nét hơn xoay quanh hai cường quốc, song chưa có dấu hiệu cho thấy triển vọng phân tách toàn diện giữa Mỹ – Trung hay hình thành trở lại cục diện hai cực và phân tuyến rõ nét như thời Chiến tranh Lạnh Mỹ – Xô.
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ – Trung có chiều hướng tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp thời gian tới, nhiều quốc gia đều tỏ quan ngại về những tác động và hệ lụy đối với thế giới, nhất là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời chủ động xây dựng các phương án ứng phó linh hoạt và lâu dài, tránh để rơi vào thế bị động hay bất lợi về chiến lược. Đa phần các nước đều chủ trương và theo đuổi chính sách cân bằng, thúc đẩy hợp tác với cả Mỹ và Trung Quốc trên các lĩnh vực cùng chung lợi ích, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hệ thống chính trị và con đường phát triển của nhau. Các cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế do ASEAN đóng vai trò trung tâm, tiếp tục được cộng đồng quốc tế coi trọng và thúc đẩy. Luật pháp quốc tế và chuẩn mực khu vực vẫn là nền tảng quan trọng, được các nước sử dụng và đề cao cả trong quan hệ song phương và xử lý các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Thời gian tới, cộng đồng quốc tế, trong đó có Việt Nam, đều kỳ vọng hai cường quốc hàng đầu thế giới sớm ổn định quan hệ, thể hiện vai trò và đóng góp ngày một tích cực và có trách nhiệm hơn vào việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương, giúp thế giới sớm vượt qua khủng hoảng Covid–19, tiến bước vào một thập kỷ mới của hòa bình, ổn định, hợp tác và phồn vinh.
Mỹ Châu (Bộ Ngoại giao Việt Nam)
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 29/06/2021
Bài viết được xuất bản lần đầu trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (Học viện Ngoại giao, số 124 (tháng 3/2021).
—————–
[1] Định nghĩa của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) về thuật ngữ "decoupling".
[2] "Total competition" – khái niệm được học giả Patrick Cronin (Trung tâm An ninh mới của Mỹ – CNAS) sử dụng để đánh giá hình thái cạnh tranh giữa hai cường quốc trên mọi lĩnh vực (kinh tế, quân sự, khoa học, văn hóa…) song không coi đối phương là "kẻ thù," không dẫn tới đối đầu.
[3] Quy mô GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 65% của Mỹ, chi tiêu quân sự thực tế đã lên khoảng 250 tỉ USD/năm, trong khi dưới thời Tổng thống Obama Mỹ liên tục cắt giảm ngân sách quốc phòng.
[4] Tăng thuế nhập khẩu, thuế chống phá giá và trợ cấp, áp hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật khác…
[5] Mỹ ban hành các luật FIRRMA, ECRA thắt chặt kiểm soát đầu tư của Trung Quốc Mỹ trong các lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là công nghệ cao.
[6] Quốc hội Mỹ giới thiệu Dự luật hạn chế dùng Quỹ lương hưu để đầu tư vào chứng khoán Trung Quốc.
[7] Đầu tư 29,1 tỉ USD cho Quỹ đầu tư Big Fund giai đoạn hai để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn. Thiết lập Sàn giao dịch cổ phiếu công nghệ Star Market.
[8] Đã có khoảng 22 Viện Khổng tử tại Mỹ phải đóng cửa dưới thời Chính quyền Trump.
[9] Bộ Ngoại giao Mỹ đưa 5 cơ quan báo chí lớn của Trung Quốc (Tân Hoa Xã, China Daily, People’s Daily, CGTN, China Radio International) vào danh sách "tổ chức nước ngoài" không được hưởng quyền lợi của một cơ quan báo chí, bắt buộc phải khai báo tài chính và hoạt động đầy đủ.
[10] Trung Quốc trục xuất ba nhà báo Mỹ do cáo buộc lợi dụng dịch Covid-19 viết bài sai lệch, mang tính phân biệt chủng tộc.
[11] Sharon Chen and Yinan Zhao, "Decoupling with U.S. Would Cut China’s Growth to 3.5%, say Study", Bloomberg, 3 September 2020,
[12] Kim ngạch thương mại song phương Mỹ – Trung mỗi ngày đạt trung bình gần 2 tỷ USD, tương đương mức giao thương trong một năm giữa Mỹ và Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh.
[13] Cộng đồng doanh nghiệp, giới học giả, một số cựu quan chức Mỹ ; nhóm ủng hộ cải cách ở Trung Quốc.
[14] Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế St. Petersburg ngày 7/6/2019.
[15] Trả lời họp báo Chính phủ ngày 16/3/2019.
Tài liệu tham khảo
A. Tiếng Việt
1. Hoài Thanh. "Phân tách kinh tế Mỹ – Trung : Đe dọa đối lập với thực tế". Báo tin tức, 25/6/2020.
2. Huy Sơn. "Phân tách Mỹ – Trung trong bối cảnh Covid-19 : Suy thoái toàn cầu là mối đe dọa lớn nhất". Thế giới và Việt Nam, 22/9/2020.
3. Kim Đường. "Xu thế chia tách toàn diện Trung – Mỹ là không thể ngăn chặn". Trí thức Việt Nam, 1/9/2019.
4. Mai Ngọc. "Virus corona đẩy nhanh tiến trình phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc". Thời báo Ngân hàng, 13/2/2020.
5. Thái Văn Long. "Đặc điểm mới của cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung Quốc và đối sách của Việt Nam". Tạp chí Cộng sản, tháng 11/2020.
B. Tiếng Anh
6. Bao Huaying. "Why US-China decoupling failed". GlobalTimes, 12 January 2020.
7. Blustein, Paul . Schism : China, America, and the Fracturing of the Global Trading System. Ontario, Canada : CIGI Press, 2019.
8. Browne , Andrew. "Bloomberg New Economy : For the U.S. and China, the Unthinkable May Be Inevitable". Bloomberg, 27 February 2021.
9. Dupont, Alan. "US-China Decoupling and the Eve of Economic Destruction". Lowy Institute, 9 October 2020.
10. Hoecker, Anne and Li, Shu and Wang, Jue. "US and China : The Decoupling Accelerates". Bain & Company, 14 October 2020.
11. Hoecker, Anne and Wang, Jue and Li, Shu. "Preparing for US-China Decoupling". IndustryWeek, 9 November 2020.
12. Inkster, Nigel. The Great Decoupling : China, America and the Struggle for Technological Supremacy. London : Hurst, 2021.
13. Johnson, Keith and Gramer, Robbie. "The Great Decoupling". Foreign Policy, 14 May 2020.
14. Rachman, Gideon. "The Decoupling of the US and China Has Only Just Begun". Financial Times, 17 August 2020.
15. Rosen, Daniel and Gloudeman, Lauren. "Understanding US -China Decoupling : Macro Trends and Industry Impacts". Rhodium Group, 17 February 2021.
16. Segal, Stephanie. "Degrees of Separation : A Targeted Approach to U.S.-China Decoupling – Interim Report". CSIS, 3 February 2021.
17. Weber, Isabella. "Could the US and Chinese economies really ‘decouple’ ?" The Guardian, 11 September 2020.