Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nhân chuyến công du Việt Nam ở cấp Nhà nước của nguyên thủ Mỹ Joe Biden, hôm 10/09/2023, hai nước đã ký thỏa thuận về chất bán dẫn và khoáng chất hiếm. Đến ngày 13/11, đến lượt tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và đồng nhiệm Indonesia Joko Widodo đồng thuận siết chặt hợp tác trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khai thác đất hiếm.

dathiem1

Các mẫu kim loại hiếm được trưng bày ở cơ sở Molycorp, California, Hoa Kỳ. Ảnh chụp ngày 29/06/2015. Reuters/David Becker/File

Không phải vô cớ mà Mỹ muốn hợp tác với hai nước này như vậy. Trên thực tế, Châu Á-Thái Bình Dương, với Trung Quốc, Úc, Việt Nam, Indonesia… là khu vực giàu kim loại hiếm, có giá trị chiến lược và được xem là vùng không thể thiếu để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế giới.

Trong bài viết "Kim loại hiếm : Tại sao Trung Quốc và Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là thiết yếu ?" đăng trên trang mạng nghiên cứu Asialyst, chuyên gia về Châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, Hubert Testard, nhấn mạnh đến các ưu thế của khu vực này về cả trữ lượng và sản lượng. Riêng về khai thác - tinh luyện thì chủ yếu do Trung Quốc kiểm soát, và điều này có thể khiến căng thẳng địa chính trị gia tăng, theo hướng bất lợi cho phương Tây, nhất là Châu Âu. RFI giới thiệu bài viết. 

Sản xuất kim loại hiếm tập trung chủ yếu ở Châu Á 

Trong báo cáo mới nhất năm 2023 về "vai trò của các loại khoáng sản quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch", Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã xác định được 3 nhà sản xuất khoáng sản quý hiếm hàng đầu thế giới năm 2022. 

Bảng xếp hạng của IEA cho thấy vai trò chủ đạo của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất đất hiếm và than chì (graphite), Úc thì dẫn đầu về lithium, còn Indonesia là nhà sản xuất niken lớn nhất. Châu Âu hoàn toàn lép vế, còn Mỹ thì chỉ nằm trong số 3 nhà sản xuất đất hiếm hàng đầu, nhưng thua xa Trung Quốc. Nếu không tính Trung Quốc, phần còn lại của Châu Á-Thái Bình Dương cũng sản xuất 15% đất hiếm trên toàn thế giới. Tính tổng cộng, cả Châu Á chiếm 85% tổng sản lượng đất hiếm của thế giới. Một số nước Châu Á như Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam, theo chuyên gia Hubert Testard, đều có mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc và là nguồn cung ứng cho ngành công nghiệp chế biến của Trung Quốc. 

Riêng Cobalt chủ yếu do Cộng hòa Dân chủ Congo sản xuất, nhưng hầu như là để xuất khẩu sang Trung Quốc. Các công ty Nhà nước Trung Quốc (CMOC và Tập đoàn Đường sắt Trung Quốc) sở hữu 2 trong số 5 mỏ cobalt lớn nhất Congo. Và cho dù vẫn thường xuyên có nhiều tranh cãi về các điều kiện môi trường và xã hội, như lao động trẻ em, cũng như những căng thẳng mạnh mẽ trong năm 2022 liên quan đến việc chia phần lợi nhuận cho Congo, mối quan hệ đối tác Trung Quốc-Congo về cobalt dường như không thể mất đi. 

Chỉ có liên quan đến đồng là Trung Quốc đã để mất vị trí nước sản xuất lớn thứ ba thế giới vào tay Congo và chỉ chiếm 9% thị phần. Đồng cũng là kim loại quan trọng duy nhất mà sản lượng được phân bổ tương đối rộng, 3 nhà sản xuất hàng đầu thế giới chỉ chiếm 50% thị phần so với tỉ lệ trên 80% đối với đất hiếm, than chì, lithium và cobalt. 

Ngành công nghiệp tinh lọc và chế biến kim loại hiếm tập trung chủ yếu ở Trung Quốc 

Trung Quốc thống trị áp đảo ngành công nghiệp chế biến : hoạt động tinh chế đất hiếm chiếm hơn 85% toàn cầu, 90% về wafer (những tấm bán dẫn rất mỏng) dành cho ngành công nghiệp pin mặt trời, 90% về than chì tinh chế dùng cho pin điện, ắc quy, 83% đối với pin ithium-ion, 76% coban, 68% lithium, 40% đồng và niken. 

Liên quan đến Indonesia, với nguồn tài nguyên niken và cobalt dồi dào, nước này đang trở thành nhà tinh lọc niken hàng đầu thế giới, nhưng đó cũng là nhờ hợp tác với Trung Quốc. 

Sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực tinh chế không phải tự nhiên, mà là kết quả của hơn 30 năm đầu tư. Ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ 7, giai đoạn 1986-1990, Bắc Kinh đã hướng các nỗ lực nghiên cứu, phát triển và sản xuất đến đất hiếm và vật liệu mới. Trái lại, đến đầu những năm 2000 thì Hoa Kỳ mới nhận thức được về vấn đề địa chính trị do các kim loại hiếm gây ra, Châu Âu thì chậm hơn Mỹ 10 năm. 

Trữ lượng kim loại hiếm lớn nhất thế giới là ở Châu Á - Thái Bình Dương 

Ngoại trừ đồng, nhìn chung Trung Quốc có trữ lượng dồi dào cho phép duy trì được sản xuất trong thời gian dài. Cộng với trữ lượng đáng kể của Úc về hầu hết các kim loại hiếm và trữ lượng của Indonesia, Philippines và New Caledonia về cobalt, niken, và trữ lượng đất hiếm của Việt Nam và Ấn Độ, thì Châu Á-Thái Bình Dương có cơ hội vẫn duy trì vị thế lục địa trung tâm của các lĩnh vực mới vốn là cơ sở của quá trình chuyển đổi năng lượng. Xét về sự phân bổ trữ lượng theo lục địa, Châu Á chiếm 30- 60% trữ lượng thế giới, tùy loại kim loại. 

Đứng thứ hai là Nam Mỹ và Mêhicô, với ưu thế về lithium và đồng. Châu Phi là trung tâm về cobalt và có nhiều than chì. Rất xa phía sau mới đến lượt Bắc Mỹ, nhưng do thiếu hoạt động thăm dò, nên có thể trữ lượng được xác định thấp hơn nhiều so với nguồn tài nguyên, chẳng hạn về đất hiếm. Châu Âu chỉ được biết đến với trữ lượng đồng. Gần đây, trữ lượng đất hiếm đáng kể đã được xác định ở Vòng Bắc Cực Thụy Điển, nhưng sẽ mất 10-15 năm mới khai thác được. 

Chiến lược mới của phương Tây không bảo đảm sẽ thành công 

Tất cả các nước phát triển hiện nay đều có một chiến lược kiểm soát các kim loại quan trọng và lĩnh vực chế biến. 

Chẳng hạn, Mỹ có chiến lược bảo đảm an ninh về cung ứng, với các khoản viện trợ đáng kể cho các nhà đầu tư trên lãnh thổ Mỹ và các quốc gia có hiệp định mậu dịch tự do hoặc thỏa thuận đặc biệt với Hoa Kỳ, trừ Trung Quốc và Liên Âu. Các đối tác ưu tiên của Hoa Kỳ ở Châu Mỹ là Canada, Mêhicô, Chilê và Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương. Thế nhưng, theo nghiên cứu của Standard & Poor's, an ninh nguồn cung mới chỉ bảo đảm đối với lithium. Các nước đối tác của Mỹ về lâu dài không bảo đảm đủ nguồn cung cobalt và niken. Về đất hiếm, Mỹ vẫn lệ thuộc đến 80% vào dây chuyền chế biến của Trung Quốc và việc lệ thuộc này sẽ còn kéo dài vài thập niên. 

Về phần mình, Ủy Ban Châu Âu hồi tháng 03/2023 đã giới thiệu một dự luật về các nguyên liệu thô quan trọng, trong đó chẳng hạn có mục tiêu tăng tỉ lệ tái chế kim loại hiếm lên thành 15% và đa dạng hóa nguồn cung, nhắm vào Trung Quốc khi ngăn chặn việc một quốc gia duy nhất nắm giữ hơn 65% thị trường Châu Âu đối với mỗi kim loại và mỗi giai đoạn sản xuất. Xin nhắc lại, hồi năm 2020, 98% đất hiếm Châu Âu nhập khẩu là từ Trung Quốc. 

Ủy Ban Châu Âu đang dự kiến một hệ thống khá phức tạp để đẩy nhanh việc cấp phép cho các mỏ mới, nhưng miễn giảm thuế nhiều như Mỹ. Liên Âu cũng có ý định chuyển hướng dần viện trợ phát triển sang các dự án khai thác mỏ ở các nước đang phát triển, nhưng cũng không tăng thêm tài trợ. Một nghiên cứu của Viện Jacques Delors chỉ ra những bất cập và kết luận dự án của Liên Âu chưa đủ tầm. 

Trung Quốc vẫn dẫn đầu cuộc đua về các công nghệ thay thế 

Một trong những giải pháp nhằm giảm nhu cầu về lithium và cobalt và giảm lệ thuộc vào lĩnh vực lithium-ion của Trung Quốc, là thay thế ắc quy lithium-ion bằng các loại ắc quy khác. Một trong những giải pháp được xem là có triển vọng là ắc quy sodium-ion, có ưu điểm là sử dụng nguồn tài nguyên giá rẻ và đặc biệt dồi dào. 

Thế nhưng, vấn đề là các công ty đi đầu trong việc phát triển và tiếp thị loại ắc quy mới này hiện giờ đều là của Trung Quốc. 

Rủi ro địa chính trị gia tăng 

Lệnh cấm vận đất hiếm mà Bắc Kinh nhắm vào Nhật Bản hồi năm 2010, sau một sự cố tàu cá ở Biển Đông, là tín hiệu báo động đầu tiên cho các nước phương Tây. Trong 12 năm, Tokyo đã cố gắng giảm lệ thuộc vào đất hiếm của Trung Quốc, từ gần như lệ thuộc hoàn toàn xuống còn khoảng 2/3. Kể từ đó, Trung Quốc cũng thi thoảng áp hạn ngạch xuất khẩu đất hiếm. Các quốc gia khác, chẳng hạn như Indonesia, về niken, thì ra lệnh cấm xuất khẩu nguyên liệu thô, buộc các công ty lớn trong lĩnh vực kim loại hiếm đầu tư vào lĩnh vực chế biến ngay trong nước. 

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCDE), hạn chế xuất kim loại quý hiếm đã tăng gấp 5 lần tính từ năm 2009 và ít nhất 10% thương mại toàn cầu về kim loại quý hiếm bị ảnh hưởng do các kiểu rào cản thương mại (hạn ngạch, lệnh cấm …) Trong số các quốc gia đưa ra những hạn chế này, có Trung Quốc, Việt Nam, Achentina, Nga, Kazakhstan và Indonesia. 

Riêng Trung Quốc, hồi tháng 08 vừa qua, Bắc Kinh đã hạn chế xuất khẩu gallium và germanium (dùng để sản xuất chất bán dẫn), và đến tháng 10/2023 thì thông báo cơ chế cấp phép xuất khẩu than chì tinh khiết dùng cho pin điện. Cả hai trường hợp này đều là biện pháp Bắc Kinh đáp trả việc Hoa Kỳ và các đối tác áp dụng các lệnh hạn chế việc cung cấp vật liệu và chất bán dẫn thế hệ mới nhất cho Trung Quốc. 

Chuyên gia về Châu Á và kinh tế quốc tế Hubert Testard kết luận là những cuộc giao tranh này có thể trở thành một "cuộc chiến tranh kim loại quý hiếm" thực thụ nếu các căng thẳng địa chính trị liên quan đến Đài Loan và Biển Đông biến thành các xung đột mở. Khi trừng phạt kinh tế Bắc Kinh, có một hạn chế mà phương Tây vấp phải là Trung Quốc đang có một vị thế không thể phủ nhận trong ván cờ về kim loại quý hiếm và các lĩnh vực phục vụ chuyển đổi năng lượng. 

Thùy Dương

Nguồn : RFI, 17/11/2023

Published in Diễn đàn

Hoa Kỳ cử phái đoàn cấp cao đến Trung Quốc để hâm nóng quan hệ

Minh Anh, RFI, 11/12/2022

Tiếp theo cuộc gặp thượng đỉnh giữa tổng thống Mỹ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bali, Indonesia, tháng 11/2022, một phái đoàn đại diện cao cấp đầu tiên của Mỹ đến thăm Trung Quốc. Mục tiêu nhằm chuẩn bị cho chuyến thăm Bắc Kinh đầu năm 2023 của ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken để sưởi ấm quan hệ song phương.

pacific1

Mỹ cử phái đoàn cấp cao thăm Trung Quốc - Ảnh minh họa

Reuters trích dẫn thông cáo do bộ ngoại giao Mỹ ngày hôm qua 10/12/2022, cho biết ông Daniel Kritenbrink, trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, cùng với bà Laura Rosenberger, giám đốc cấp cao Hội đồng An ninh Quốc Gia về Trung Quốc và Đài Loan, sẽ lần lượt đến thăm các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản từ ngày hôm nay 11/12 đến ngày 14/12/2022. 

Theo bộ ngoại giao Mỹ, chuyến thăm Bắc Kinh của phái đoàn Mỹ lần này là nhằm "tìm cách xử lý một cách có trách nhiệm cạnh tranh giữa hai nước và tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác tiềm tàng".

AFP nhắc lại, tổng thống Joe Biden và chủ tịch Tập Cận Bình tại Indonesia đã có những cuộc trao đổi trực tiếp về những chủ đề gây căng thẳng, từ hồ sơ Đài Loan, hạt nhân Bắc Triều Tiên cho đến cuộc chiến tranh tại Ukraine do Nga phát động, cũng như là những hạn chế xuất khẩu công nghệ Mỹ…, nhằm tránh cho đôi bên đi đến một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới.

Minh Anh

*************************

Anh muốn phát triển các quan hệ đối tác mới ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ

Thu Hằng, RFI, 11/12/2022

Ngoài những đồng minh "truyền thống", Luân Đôn tìm cách mở rộng quan hệ đối tác với nhiều nước đang trỗi dậy ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Ngoại trưởng Anh James Cleverly dự kiến công bố chiến lược mới ngày 12/12/2022.

pacific2

Ngoại trưởng Anh James Cleverly. AP - Rolf Vennenbernd

Thông cáo tối 10/12 của bộ ngoại giao Anh cho biết ông James Cleverly sẽ nhấn mạnh đến tầm quan trọng đối với Luân Đôn về việc phát triển mối quan hệ vững mạnh hơn với nhiều nước ngày càng có ảnh hưởng ở ba khu vực trên, dù không phải là những "đối tác truyền thống" của vương quốc Anh.

Luân Đôn đang tìm vị trí mới trên trường quốc tế hậu Brexit nên cần phát triển quan hệ trong nhiều lĩnh vực với những nước "sẽ định hình tương lai thế giới". Chính phủ Anh cho rằng "trong những thập niên tới, một phần lớn của nền kinh tế thế giới sẽ nằm trong tay những quốc gia ở Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ". Cho nên, ông James Cleverly sẽ nhấn mạnh đến việc "chính sách đối ngoại (của Anh) sẽ phải không ngừng dự đoán tương lai, phải nhìn xa được trước 10, 15 và 20 năm".

"Thời kỳ vàng son" giữa Luân Đôn và Bắc Kinh đã kết thúc

Theo AFP, ngoại trưởng Anh có bài diễn văn quan trọng chỉ hai tuần sau khi thủ tướng Rishi Sunak khẳng định "thời kỳ vàng son" giữa Luân Đôn và Bắc Kinh đã kết thúc. Mối quan hệ song phương từ giờ sẽ theo "hướng thực dụng mạnh mẽ". Trong quá trình vận động tranh cử chức thủ tướng, ông Rishi Sunak từng đánh giá Trung Quốc là "mối đe dọa chính" cho an ninh của Anh và thế giới. Ông cũng chỉ trích dự án đầu tư cơ sở hạ tầng Con Đường Tơ Lụa Mới của Bắc Kinh.

Lẽ ra thủ tướng Anh và chủ tịch Trung Quốc gặp nhau bên lề thượng đỉnh G20 tại Bali nhưng cuộc gặp lần đầu tiên trong gần 5 năm qua đã bị hủy. Sự kiện này có thể cho thấy mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa hai nước. 

Thu Hằng

**********************

Đoàn lưỡng đảng Úc công du đảo quốc Thái Bình Dương

Thu Hằng, RFI, 11/12/2022

Một phái đoàn chính trị gia của hai đảng lớn của nước Úc công du một số đảo quốc ở Thái Bình Dương trong tuần tới để tang cường mối quan hệ trong vùng. Thông cáo chung, công bố ngày 11/12/2022, cho biết phái đoàn của Úc lần lượt thăm các nước Vanuatu, tiếp theo là Liên bang Micronesia và Quần đảo Palau.

pacific3

Bản đồ nước Úc và khu vực nam Thái Bình Dương © wikimedia

Trong phái đoàn Úc có ngoại trưởng Penny Wong, bộ trưởng Phát triển Quốc tế và Thái Bình Dương Pat Conroy, cùng với nhiều đồng nghiệp bên phe đối lập. Theo lịch trình, tại Vanuatu, các chính trị gia Úc dự lễ khánh thành một cầu cảng mới và chuyển giao một tầu hải cảnh "trong khuôn khổ hợp tác bền vững của Úc về những lợi ích chung liên quan đến an ninh trong vùng".

Chuyến công du tập trung vào các mục tiêu phát triển, "mối đe dọa hiện hữu" của biến đổi khí hậu và những vấn đề liên quan đến an ninh trong vùng. Ngoại trưởng Penny Wong nhấn mạnh đến "cam kết lâu dài của Úc nhằm tang cường những mối quan hệ đối tác với vùng Thái Bình Dương và giải quyết các thách thức khu vực".

Đây là lần đầu tiên kể từ năm 2019, một phái đoàn gồm chính trị gia của hai đảng đối lập và đảng cầm quyền cùng công du vùng Thái Bình Dương. Sự kiện này cho thấy quyết tâm của Canberra lấy lại niềm tin và trấn an các nước láng giềng trong khu vực vẫn được coi là nằm trong vòng ảnh hưởng của Úc.

Theo Reuters, cả Úc và Trung Quốc tổ chức nhiều chuyến thăm cấp cao trong năm 2022 để gia tang ảnh hưởng với các tiểu quốc ở Thái Bình Dương. Sự kiện khiến Úc và Mỹ đặc biệt quan ngại là Bắc Kinh ký hiệp định an ninh với quần đảo Salomon vào tháng 04/2022.

Thu Hằng

Published in Châu Á

Phó Tổng thống Mỹ đến thăm một hòn đảo của Philippines trong vùng biển Trung Quốc đòi chủ quyền

Thùy Dương, RFI, 22/11/2022

Phó tổng thống Mỹ, Kamala Harris, hôm 22/11/2022 đã đến thăm một hòn đảo của Philippines trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Mục đích chuyến thăm của phó tổng thống Harris là thể hiện sự ủng hộ của Washington đối với đồng minh lâu năm của Mỹ và chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày càng gia tăng trong khu vực.

myphi1

Phó tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris phát biểu trên tàu tuần duyên Philippines BRP Teresa Magbanua, tại cảng Puerto Princesa, Palawan, Philippines, ngày 22/11/2022. Reuters – Eloisa Lopez

Sau cuộc gặp với tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. tại Manila vào hôm qua 21/11, hôm nay phó tổng thống Mỹ tới đảo Palawan. Hòn đảo nằm ở phía tây Philippines, gần với quần đảo Spratleys (Trường Sa) ở Biển Đông, nơi Trung Quốc và các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam, tranh chấp chủ quyền. Trong chuyến thăm, phó tổng thống Mỹ Kamala Harris gặp gỡ các ngư dân và lực lượng tuần duyên Philippines ở đảo Palawan.

Trong bài phát biểu trên một tàu tuần duyên, bà Harris nói "các quy tắc và chuẩn mực quốc tế" phải được tôn trọng và phán quyết theo đó Tòa trọng tài quốc tế bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông phải được tôn trọng. Phó tổng thống Mỹ nhấn mạnh : "Với tư cách là đồng minh, Hoa Kỳ sát cánh với Philippines đối phó với sự đe dọa và cưỡng chế ở Biển Đông".

AFP nhắc lại phó tổng thống Mỹ Kamala Harris là quan chức Mỹ cấp cao nhất công du Philippines kể từ khi ông Ferdinand Marcos Jr. đắc cử tổng thống hồi cuối tháng 05/2022. Bà cũng là quan chức cấp cao nhất của Mỹ tới thăm đảo Palawan. Washington đang tìm cách củng cố quan hệ đồng minh về an ninh với Manila, trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trong khu vực. Hôm qua, trong cuộc gặp với nguyên thủ Philippines, phó tổng thống Mỹ đã khẳng định Washington luôn sát cánh với Manila để "bảo vệ các quy tắc và luật pháp quốc tế liên quan đến Biển Đông". Bà Harris cũng tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ về việc "kích hoạt" thỏa thuận phòng thủ chung, nếu "quân đội, tàu thuyền của chính quyền hay phi cơ Philippines hoạt động tại Biển Đông bị tấn công". 

Phản ứng của Bắc Kinh

Hôm nay, Hoàn Cầu Thời Báo tố cáo bà Harris "châm ngòi vấn đề Biển Đông". Bài xã luận của tờ báo viết : "Philippines có quyền tiếp đón bất kỳ du khách nước ngoài nào", nhưng "các cuộc trao đổi song phương không được gây phương hại đến lợi ích của một nước thứ ba, cũng như hòa bình và ổn định trong khu vực". 

Thùy Dương

**************************

Mỹ cam kết bảo vệ Manila, nếu quân đội Philippines tại Biển Đông bị tấn công

Trọng Thành, RFI, 21/11/2022

Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris trong chuyến công du Philippines hôm 21/11/2022, tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ, "kích hoạt" thỏa thuận phòng thủ chung, nếu "quân đội, tàu thuyền của chính quyền hay phi cơ Philippines hoạt động tại Biển Đông bị tấn công". Tuyên bố của lãnh đạo Mỹ được coi là một cảnh báo gửi đến Trung Quốc.

myphi2

Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris cam kết Mỹ sẽ bảo vệ Manila nếu quân đội Philippines bị tấn công trên Biển Đông

Theo AFP, trong cuộc gặp tổng thống Philippines Ferdianand Marcos Jr, phó tổng thống Mỹ Kamala Harris khẳng định : Hoa Kỳ luôn sát cánh với Manila để "bảo vệ các quy tắc và luật pháp quốc tế liên quan đến Biển Đông". Về phần mình, tổng thống Marcos cũng nhấn mạnh : vận mệnh của Philippines gắn liền với nước Mỹ.

Lần đầu tiên một lãnh đạo cao cấp của Hoa Kỳ đến Philippines kể từ khi tổng thống Marcos lên nắm quyền hồi tháng 6/2022. Đây là một dấu hiệu cho thấy Washington và Manila xích lại gần nhau sau nhiều năm quan hệ song phương căng thẳng trong nhiệm kỳ của tổng thống Rodrigo Duterte. Một trong các mục tiêu chính của chuyến đi của phó tổng thống Mỹ là thực thi thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) Mỹ - Philippines, đạt được vào năm 2014, nhưng bị đình chỉ dưới thời tổng thống tiền nhiệm Duterte.

AFP dẫn lời một quan chức Hoa Kỳ, xin ẩn danh, đưa ra trước chuyến công du của phó tổng thống Harris, theo đó hai bên đã đàm phán để thúc đẩy việc hoàn tất thỏa thuận EDCA. Theo thỏa thuận ký kết năm 2014, các lực lượng vũ trang Mỹ có quyền sử dụng 5 căn cứ quân sự tại Philippines, để bố trí các phương tiện quân sự.

Phó tổng thống Mỹ có kế hoạch gặp các lực lượng tuần duyên Philippines và tới đảo Palawan vào ngày mai 22/11. Đảo Palawan là nơi tiếp giáp với các vùng tranh chấp ở Biển Đông.

Biển Đông : Philippines cáo buộc Trung Quốc tranh giành một vật thể trôi nổi gần đảo Thị Tứ

Ít giờ trước chuyến công du của phó tổng thống Mỹ, hãng tin AP hôm nay, 21/11/2022, cho biết một sự cố xảy ra giữa một đơn vị hải quân Philippines và tuần duyên Trung Quốc gần đảo Thị Tứ (Pag-asa), thuộc quần đảo Trường Sa, do Philippines kiểm soát.

Theo Hải quân Philippines hôm nay, 21/11/2022, tàu Trung Quốc đã không ngăn không cho phía Philippines đưa về một số mảnh vỡ trôi nổi cách bờ của đảo Thị Tứ khoảng hơn 300 mét. Các mảnh vỡ dường như do một vụ phóng tên lửa của Trung Quốc để lại. Theo thiếu tá Cherryl Tindog, phát ngôn viên quân đội Philippines, các vật thể nói trên tương tự với các mảnh vỡ giống đầu đạn tên lửa Trung Quốc phát hiện trong tháng này gần đảo Busuagan, phía bắc đảo Palawan.

Rút cục phía Trung Quốc đã giành được vật thể nói trên. Không có ai thương tích trong sự cố này. Theo một phát ngôn viên của Quân khu miền Tây Philippines, phía Philippines đã kìm chế tối đa, và đây là ‘‘một vật thể không xác định và không có tầm quan trọng đặc biệt’’ nên không cần thiết phải giữ lại bằng mọi giá. 

Thị Tứ là đảo tự nhiên có diện tích lớn thứ hai ở Biển Đông, Việt Nam kiểm soát trước 1970. Hiện tại Việt Nam và Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.

Trọng Thành

Published in Châu Á

Sau hai ngày đàm phán, ngày 09/09/2022, tại Los Angeles, Mỹ đã đặt được nền móng cho liên minh với 13 nước Châu Á-Thái Bình Dương trong Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ -Thái Bình Dương - IPEF. Các nước tham gia đã đưa ra tuyên bố chung cam kết hợp tác trong bốn lĩnh vực : Thương mại (gồm cả kinh tế số), chuỗi cung ứng, năng lượng xanh và chống tham nhũng.

catbd1

Ảnh minh họa : Một cảng biển bốc dỡ hàng hóa ở Bangkok, Thái Lan, ngày 15/10/2021. AP - Sakchai Lalit

Văn bản mà 14 nước thông qua được coi là "lộ trình cho các cuộc đàm phán tương lai", theo bộ trưởng Thương Mại Mỹ Gina Raimondo. Bà cũng khẳng định thỏa thuận "sẽ tạo nhiều việc làm ở Mỹ cũng như ở các nước khác trong IPEF", trong đó có Việt Nam. 

Theo AFP, Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ-Thái Bình Dương được tổng thống Mỹ Joe Biden khởi xướng tháng 05/2022 với hy vọng tái lập trụ cột kinh tế trong chiến lược của ông về khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương và cũng nhằm làm đối trọng với sáng kiến Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP của Trung Quốc. 

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia không tin vào khả năng thực thi của IPEF, vì các điều khoản liên quan đến giảm thuế, hoặc tạo điều kiện thâm nhập thị trường Mỹ đã bị loại khỏi thỏa thuận. Sau khi tổng thống Donald Trump rút Mỹ khỏi hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương - TPP, người kế nhiệm là ông Joe Biden cũng không đưa Mỹ trở lại hiệp định, do công luận trong nước vẫn lo ngại về nguy cơ việc làm tại Mỹ bị đe dọa.

Ngược lại, dù vẫn mang tính biểu tượng, sáng kiến dường như được giới doanh nhân Mỹ ủng hộ, vì "nếu Mỹ vắng mặt ở trong vùng, thì đó sẽ là một nguy cơ, do Trung Quốc vẫn hỗ trợ (cho những nước trong vùng) về cơ sở hạ tầng".

Thu Hằng

Published in Châu Á

1. Việt Nam trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương

Tiến sĩ Nagao Satoru, nghiên cứu viên cao cấp tại Hudson Institute, chia sẻ với RFA về chính sách bành trướng của Trung Quốc và mạng lưới an ninh đang hình thành để đối phó với sự bành trướng đó.

nagao1

Một cuộc họp của QUAD hồi tháng 5 năm 2022 - Reuters

Nhận định với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng, Trung Quốc hiện nay tất yếu duy trì chính sách bành trướng. Song song đó, ông cũng đưa ra nhiều phân tích cụ thể về vị trí của Việt Nam trong mạng lưới an ninh mới đang dần hình thành ở Châu Á-Thái Bình Dương cùng góc nhìn toàn cảnh về chiến lược lấp đầy khoảng trống quyền lực của Trung Quốc trong loạt bài sau đây, mời quý vị cùng theo dõi.

Gần đây, trong bang giao quốc tế ở Châu Á - Thái Bình Dương, thế giới chứng kiến sự ra đời một loạt các mối liên kết song phương, ba bên và các mối quan hệ đa phương khác. Chẳng hạn, các liên kết Mỹ - Nhật - Ấn, Nhật - Ấn - Úc, Úc - Anh - Mỹ, Ấn - Úc - Indonesia, Ấn - Úc - Pháp, Mỹ - Ấn - Israel - Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và đặc biệt là Đối thoại Tứ giác An ninh (QUAD) gồm Mỹ - Nhật - Úc - Ấn. 

Các mối liên kết này đang dần dần hình thành một mạng lưới an ninh mới trong khu vực. Không khó để nhận ra mạng lưới này có mục đích phòng ngự trước sự nổi lên của một siêu cường quân sự mới : Trung Quốc. 

Trong mạng lưới an ninh mới đang dần hình thành này, không có quốc gia Đông Nam Á nào tham gia, kể cả Việt Nam. Mặc dù là một trong những địa bàn Trung Quốc muốn tăng cường bành trướng cả về lãnh thổ (như ở Biển Đông) lẫn kinh tế chính trị, một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, hiện đang quan sát tình hình chứ chưa "chọn phe" một cách dứt khoát. 

nagao2

Tiến sĩ Nagao Satoru, Hudson Institute

RFA trao đổi với Tiến sĩ Nagao Satoru, nghiên cứu viên cao cấp tại Hudson Institute ở Washington D.C. về chiến lược bành trướng của Trung Quốc, mạng lưới an ninh đang hình thành trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và vị trí "có thể có" của những nước như Việt Nam trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc cũng như trong mạng lưới an ninh mới đang hình thành để đối phó với siêu cường mới nổi này. 

Chiến lược "khai thác khoảng trống" của Trung Quốc ở Việt Nam và Philippines 

Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng chiến lược của Bắc Kinh là khai thác tình hình bất cứ khi nào xuất hiện khoảng trống quyền lực. 

Ông Nagao nêu các ví dụ trong thế kỷ 20 : 

"Vào thập niên 1950s, ở Biển Đông, ngay sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương năm 1954, Trung Quốc đã chiếm một nửa quần đảo Hoàng Sa. 

Đến năm 1974 - một năm sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam - Trung Quốc liền đánh chiếm nốt nửa còn lại của quần đảo ấy. 

Trong thập niên 1980s, ngay sau khi Liên Xô giảm bớt sự hiện diện quân sự ở Việt Nam, Trung Quốc mở rộng lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa, chiếm đóng 6 khu vực ở đó vào năm 1988".

Năm 1992, Quân đội Mỹ kết thúc 92 năm hiện diện ở Philippines. Và 3 năm sau đó, vào năm 1995, Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn do Philippines quản lý.

Theo nhà nghiên cứu Nagao, những hoạt động này cho thấy chiến lược của Trung Quốc là lựa chọn thời điểm khi cán cân quân sự thay đổi và xuất hiện những khoảng trống quyền lực để bành trướng lãnh thổ. 

Trung Quốc hiện nay tất yếu duy trì chính sách bành trướng

Áp dụng những kinh nghiệm lịch sử nói trên vào thời đại ngày nay, ông Nagao cho rằng, nếu những quan sát lịch sử trên là đúng, ngày nay Trung Quốc sẽ tiếp tục leo thang các hoạt động của mình, bởi lẽ trong thập kỷ qua, cán cân quân sự đã thay đổi theo hướng có lợi cho họ. 

Ông Nagao giới thiệu một nghiên cứu mới nhất của mình trên tạp chí Raisina Files, tháng 6 năm 2022, phân tích Cơ sở dữ liệu về chi tiêu quân sự của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), theo đó, trong 10 năm từ 2011 đến 2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76%. Trong khi đó, cùng thời gian nói trên, Ấn Độ tăng chi tiêu quân sự chỉ 34%, Australia chỉ tăng 33%, còn Nhật Bản thì chỉ tăng 2,4%. Đáng chú ý, Hoa Kỳ giảm chi tiêu 10% trong cùng khoảng thời gian này. 

"Thực vậy, gần đây Trung Quốc đã cố gắng mở rộng yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Đài Loan, Nam Thái Bình Dương, biên giới Ấn Độ - Trung Quốc và Ấn Độ Dương vì họ nhận thấy khoảng trống quyền lực ở những khu vực này. Dữ liệu cho thấy quan sát nói trên là đúng. Ví dụ, so sánh giữa số lượng tàu Trung Quốc được xác định trong vùng tiếp giáp ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku ở Nhật Bản và các cuộc xâm nhập của Trung Quốc ở khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc cho thấy những điểm tương đồng".

Đi sâu vào chi tiết, Tiến sĩ Nagao cho biết, ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku của Nhật Bản, Trung Quốc đã gia tăng hoạt động xâm nhập của lực lượng hải cảnh : Năm 2011, số lượng tàu Trung Quốc được xác định trong vùng tiếp giáp ở vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku chỉ là 12. Nhưng con số đã tăng lên 428 vào năm 2012, 819 vào năm 2013, 729 vào năm 2014, 707 vào năm 2015, 752 vào năm 2016 , 696 vào năm 2017 và 615 vào năm 2018. Đến năm 2019, con số đã lên tới 1097.

Ở phía tây, năm 2011, Ấn Độ ghi nhận 213 vụ xâm nhập vào khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, nhưng những năm sau đó, con số gia tăng lớn hơn : 426 lần vào năm 2012, 411 lần vào năm 2013, 460 lần vào năm 2014, 428 lần vào năm 2015, 296 lần vào năm 2016, 473 lần vào năm 2017, 404 lần vào năm 2018 và 663 lần vào năm 2019. Những cuộc xâm nhập này tương tự như các hoạt động của Trung Quốc xung quanh quần đảo Senkaku. 

Nhà nghiên cứu Nagao kết luận : "Dựa trên số lượng các cuộc xâm nhập của Trung Quốc ở khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc và các hoạt động của Trung Quốc trên vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku, có thể thấy rõ ràng rằng Trung Quốc đã tăng cường sự quyết đoán của mình trong năm 2012 và 2019 ở cả hai khu vực".

Phần tiếp theo, Tiến sĩ Nagao Satoru chia sẻ với độc giả RFA về Đối thoại Tứ giác An ninh (The Quadrilateral Security Dialogue - QUAD), một trong những tổ chức hợp tác an ninh đang nổi lên để đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc. 

2. QUAD : Bối cảnh mới của an ninh quốc gia của Việt Nam

Ở bài trước, RFA trao đổi với Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute về chiến lược bành trướng của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Nagao đã làm sáng tỏ chiến lược "lấp đầy khoảng trống quyền lực" của Trung Quốc để bành trướng lãnh thổ. 

nagao3

Thủ tướng Australia Anthony Albanese, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi vẫy tay chào giới truyền thông trước cuộc họp Quad tại văn phòng của Thủ tướng Kishida ở Tokyo, ngày 24/5/2022. AFP

Rõ ràng, những quốc gia và khu vực yếu kém trong khả năng tổ chức hệ thống an ninh sẽ không thể đối phó với chiến lược bành trướng của Trung Quốc. Trong bài thứ 2 này, nhà nghiên cứu Nagao Satoru chia sẻ với độc giả RFA về tổ chức Đối thoại Tứ giác An ninh (The Quadrilateral Security Dialogue - QUAD) gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ. Đây là một mô hình an ninh đối phó với chính sách bành trướng của cường quốc quân sự đang trỗi dậy này.

Vì sao QUAD ra đời ? 

Trả lời câu hỏi của RFA về chiến lược đối phó với chính sách bành trướng của Trung Quốc, Tiến sĩ Nagao chỉ ra rằng chiến lược của các quốc gia QUAD là lấp đầy những khoảng trống quyền lực để Trung Quốc không thể trám vào, bằng cách duy trì sự cân bằng quân sự. 

Để làm được điều này, họ cần tăng ngân sách quốc phòng nhưng tăng ngân sách là một nhiệm vụ không dễ dàng. Do đó, họ thực hiện cách tiếp cận khác là tổ chức lại hệ thống an ninh của chính mình. 

Đây thực sự là một chiến lược quan trọng. Nhà nghiên cứu Nagao giải thích về mô hình an ninh "trục bánh xe-và-nan hoa" lâu nay của Mỹ và đồng minh. Mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" là cách sắp xếp mạng lưới giống như chiếc bánh xe đạp, trong đó có một trục và các nan hoa đan với nhau để giữ cho bánh xe vững chắc khi chuyển động. 

"Trong một thời gian dài, Mỹ và đồng minh duy trì trật tự ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bằng hệ thống an ninh theo mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" ("hub and spoke" system). Trong hệ thống theo mô hình "trục bánh xe-và-nan hoa" này, trục bánh xe là Hoa Kỳ và các nan hoa là những đồng minh của Hoa Kỳ như Nhật Bản, Úc, Đài Loan, Philippines, Thái Lan và Hàn Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. 

Một đặc điểm của hệ thống hiện tại là nó phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Bởi vậy, mặc dù Nhật Bản và Úc đều là đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng không có liên minh Nhật-Úc. 

Những hành động khiêu khích gần đây của Trung Quốc cho thấy rằng hệ thống hiện tại đã không hiệu quả để ngăn cản chiến lược bành trướng của họ. Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn 2011-2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76% và Mỹ giảm chi tiêu 10%. 

Ngay cả khi chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ lớn hơn gấp ba lần so với Trung Quốc, hệ thống "trục bánh xe-và-nan hoa" hiện tại vẫn sẽ không đủ".

Theo nhà nghiên cứu Nagao, bởi mô hình an ninh hiện tại không hiệu quả, một hệ thống an ninh dựa trên những mối liên kết mới đang hình thành. Các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ hợp tác với nhau và chia sẻ gánh nặng an ninh với Hoa Kỳ và với nhau. 

Nhiều thỏa thuận hợp tác song phương, ba bên, tứ giác hoặc đa phương khác, chẳng hạn như Mỹ-Nhật-Ấn, Nhật-Ấn-Úc, Úc-Anh-Mỹ, Ấn-Úc-Indonesia, Ấn-Úc-Pháp và Mỹ-Ấn- Israel-UAE, đang tạo ra một mạng lưới hợp tác an ninh mới. 

Trong bối cảnh đó, QUAD chỉ là một trong số nhiều ví dụ về cách thức các quốc gia hợp tác với nhau và chia sẻ gánh nặng an ninh khu vực, khi đối phó với một cường quốc quân sự đang nổi lên.

QUAD hoạt động như thế nào ?

QUAD có thể làm gì để ngăn cản sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ? Nếu các nước QUAD phối hợp tốt, họ có thể buộc Trung Quốc phải phòng thủ nhiều mặt trận cùng một lúc. Nhà nghiên cứu Nagao giải thích :

"Trong một kịch bản như vậy, Trung Quốc sẽ cần đồng thời thực hiện nhiều khoản chi tiêu quốc phòng chống lại Mỹ và Nhật Bản ở phía Thái Bình Dương cũng như chống lại Ấn Độ ở phía biên giới Ấn Độ - Trung Quốc. Loại hợp tác này sẽ cung cấp một cách thức duy trì sự cân bằng quân sự ngay cả khi chi tiêu quân sự của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh chóng.

Khả năng tấn công là bí quyết chủ chốt. Trong một thời gian dài, không có quốc gia nào ngoại trừ Mỹ có đủ khả năng tấn công Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đều sở hữu khả năng tấn công tầm xa, thì khả năng tổng hợp của họ sẽ buộc Trung Quốc phải phòng thủ trên nhiều mặt trận. 

Ngay cả khi Trung Quốc quyết định mở rộng lãnh thổ ở biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, họ vẫn cần phải chi một lượng ngân sách và lực lượng quân sự nhất định để tự vệ trước một cuộc tấn công tiềm tàng từ Mỹ và Nhật Bản. 

Hiện tại, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia đều đang có kế hoạch sở hữu các khả năng tấn công tầm xa 1000-2000 km như tên lửa hành trình và máy bay phản lực F-35 với bom lượn (glide bomb). 

Và trên thực tế, Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Hàn Quốc cũng đang tăng cường kho vũ khí tấn công bằng tên lửa đất đối đất. Những động thái này có thể rất quan trọng".

Vào tháng 9 năm 2021, Australia, Anh và Mỹ thông báo thành lập AUKUS, một thỏa thuận an ninh ba bên ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong liên minh này, Mỹ và Anh sẽ hỗ trợ Australia mua và duy trì 8 tàu ngầm hạt nhân. 

Ông Nagao cho rằng nếu Australia sở hữu tàu ngầm hạt nhân với khả năng tấn công tầm xa, lực lượng hải quân Australia có thể hoạt động ở một khu vực rộng lớn hơn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và có khả năng chống lại mối đe dọa của Trung Quốc trong khu vực đó. Australia cũng sửa đổi tàu ngầm thông thường của họ để phóng tên lửa hành trình Tomahawk.

Chiến lược bành trướng của Trung Quốc và sự hình thành những mạng lưới an ninh mới trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để đối phó với cuộc bành trướng đó đã tạo ra một bối cảnh mới về an ninh mà các nước Đông Nam Á phải tìm cách thích ứng.

Phần cuối của loạt bài này, RFA sẽ phỏng vấn Tiến sĩ Nagao Satoru về vị trí của Đông Nam Á trong đó có Việt Nam trong mạng lưới an ninh đang tiến triển trong khu vực. 

3. Vị trí của Việt Nam trong mạng lưới an ninh mới đang dần hình thành ở Châu Á - Thái Bình Dương

Ở hai phần trước, Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute chia sẻ với độc giả RFA về chiến lược bành trướng của Trung Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương và mạng lưới liên kết an ninh đang hình thành ở khu vực này nhằm đối phó với Trung Quốc.

nagao4

Thủ tướng Nhật Bản Kishida phát biểu sau cuộc họp Quad ở Tokyo, 24/05/2022 - Reuters

Một điều đáng chú ý là, ngoại trừ Indonesia (cùng Ấn Độ và Úc xây dựng một tam giác phát triển hợp tác hải quân) và Philippines (có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ từ 1951), nhiều nước Đông Nam Á đang đứng ngoài các mạng lưới này. 

Trong phần cuối của loạt bài này, RFA đăng toàn văn nội dung phỏng vấn Tiến sĩ Nagao Satoru về an ninh quốc gia của Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác trong bối cảnh đó. 

RFA : Tại sao Nhật Bản lại chọn 4 quốc gia : Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ để tạo ra QUAD ? Tại sao không phải là Đài Loan, Hàn Quốc (Đông Bắc Á), Việt Nam hay Philippines (Đông Nam Á) ?

Nagao Satoru : Nhật Bản là quốc gia tiên phong trong việc lập thuyết cho cả QUAD và chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương. Bài phát biểu của Thủ tướng Shinzo Abe trước quốc hội Ấn Độ năm 2007 "Sự hợp lưu của hai đại dương", đã giới thiệu những ý tưởng này. Ông nói : 

"Với việc Nhật Bản và Ấn Độ kết hợp với nhau theo cách này, "Châu Á rộng mở hơn" này sẽ phát triển thành một mạng lưới rộng lớn, trải dài toàn bộ Thái Bình Dương, bao gồm Hoa Kỳ và Úc. Công khai và minh bạch, mạng lưới này sẽ cho phép con người, hàng hóa, vốn và tri ​​thc lưu thông t do".

Tại sao Nhật Bản cần QUAD ? Do sự phát triển kinh tế nhanh chóng, cả hai khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương ngày càng nổi lên như những khu vực có ảnh hưởng trong chính trị thế giới. 

Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đang trỗi dậy này không nên là khu vực do Trung Quốc thống trị. Shinzo Abe giải thích ý tưởng này trong bài báo của mình "Viên kim cương an ninh dân chủ của Châu Á" ("Asia’s Democratic Security Diamond") ngay trước khi tuyên thệ nhậm chức thủ tướng lần thứ hai vào năm 2012. 

Ấn Độ - Thái Bình Dương là một khái niệm địa lý bao gồm tất cả các quốc gia bao quanh Trung Quốc. QUAD bao gồm tất cả các cường quốc ngoại trừ Trung Quốc.

Ông Abe muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Ấn Độ và sự hội nhập của nước này vào QUAD với khái niệm Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (thay vì Châu Á - Thái Bình Dương, vốn không bao gồm Ấn Độ). Cả Nhật Bản và Australia đều là đồng minh lâu năm của Mỹ với các phương thức hợp tác đã được thiết lập từ lâu, còn Ấn Độ là thành viên mới. Để hợp tác với Ấn Độ, Nhật Bản cần kiến ​​trúc an ninh ca QUAD.

Ấn Độ thực sự là một chìa khóa. Ví dụ, quy mô dân số nước này. Quy mô của Ấn Độ tương tự như Trung Quốc. Ấn Độ có tiềm năng trở thành đối trọng của Trung Quốc. 

Và nhìn từ vị trí địa lý, Hawaii, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản là bốn cạnh của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Điều này có nghĩa là các địa điểm này có thể tiếp cận toàn bộ Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bao gồm Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và là vị trí tốt nhất để hỗ trợ Đông Nam Á, địa bàn chủ yếu mà Trung Quốc đang nhắm tới để mở rộng ảnh hưởng.

Ngoài ra, như tôi đã đề cập ở phần trước, nếu các nước QUAD phối hợp tốt, họ có thể buộc Trung Quốc phải phòng thủ nhiều mặt trận một lúc. Trong một kịch bản như vậy, Trung Quốc sẽ cần đồng thời thực hiện các khoản chi tiêu quốc phòng chống lại Mỹ và Nhật Bản ở phía Thái Bình Dương cũng như chống lại Ấn Độ ở phía biên giới Ấn Độ - Trung Quốc. Loại hợp tác này sẽ cung cấp một cách thức để duy trì sự cân bằng quân sự, ngay cả khi chi tiêu quân sự của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh chóng.

Vì vậy, QUAD là một tầm nhìn chiến lược lớn thực sự. 

Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Hàn Quốc đều quan trọng nhưng tầm ảnh hưởng của họ còn hạn chế trong khu vực. Còn Mỹ là siêu cường, cả Nhật Bản, Úc, Ấn Độ đều là cường quốc khu vực ở Đông Bắc Á, Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Để bao phủ toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thì cần có bốn quốc gia lớn này.

RFA : Ấn Độ là thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, một tổ chức do Trung Quốc thành lập nhằm đối trọng với phương Tây. Vậy tại sao Nhật Bản và Mỹ mời Ấn Độ tham gia QUAD ?

Nagao Satoru : Để đối phó với Trung Quốc, cần có Ấn Độ. Nếu không có Ấn Độ, Trung Quốc có thể tập trung sức mạnh quân sự của họ để chống lại phía Nhật Bản và Mỹ.

Và lập trường của Ấn Độ chống lại Trung Quốc là rất mạnh mẽ. Không có khu phố Tàu (China town) nào ở Ấn Độ. Một quốc gia như vậy là hiếm trên thế giới. Thực chất, Ấn Độ là quốc gia hiếu chiến nhất chống lại Trung Quốc.

Sự tham gia của Ấn Độ vào Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), khối BRICS (viết tắt tên tiếng Anh của 5 nước  Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) không quan trọng. Ấn Độ cần một chính sách Trung Á bao gồm cả Afghanistan. Đó là lý do tại sao họ cần phải tham gia. Nhưng Ấn Độ không tham gia phong trào chống Mỹ ngay cả khi họ nằm trong các nhóm này.

RFA : Theo Nikkei Asia, Hàn Quốc tìm cách tham dự hội nghị thượng đỉnh QUAD với tư cách quan sát viên vào tháng 5. Xin ông cho biết QUAD có cơ chế mở cửa cho các quốc gia khác tham gia với tư cách không phải là thành viên chính thức hay không ? Những quốc gia nào có thể tham gia QUAD + với tư cách quan sát viên ?

Nagao Satoru : QUAD là nhóm chống lại Trung Quốc. Nếu Hàn Quốc tham gia, nó sẽ tạo ra nhiều vấn đề.

Hàn Quốc do dự thể hiện lập trường cứng rắn chống lại Trung Quốc. Trung Quốc là đồng minh chính thức của Triều Tiên và họ đã chiến đấu ở Triều Tiên. Trong trường hợp này, Hàn Quốc không thể đóng vai trò chủ chốt trong QUAD nếu họ tham gia.

Và nếu Hàn Quốc tham gia, Hàn Quốc muốn nói về vấn đề Triều Tiên trong các cuộc họp QUAD. Nhưng Ấn Độ không quan tâm đến vấn đề này.

Ngoài ra, nếu Hàn Quốc tham gia, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ đấu với nhau vì hai nước có rất nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Do đó, nếu có Hàn Quốc tham gia, QUAD sẽ mất đi mục đích chính (chống lại Trung Quốc).

Tất nhiên Hàn Quốc có thể đóng góp cho QUAD hoặc chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Hàn Quốc đang xuất khẩu vũ khí để tăng cường khả năng quân sự ở các nước xung quanh Trung Quốc. Ví dụ, Ấn Độ, Indonesia, Philippines đang nhập khẩu vũ khí từ Hàn Quốc. Theo cách này, Hàn Quốc có thể đóng góp vào chiến lược chống Trung Quốc theo từng trường hợp cụ thể (không phải là thành viên chính thức của QUAD nhưng với tư cách là thành viên QUAD +).

RFA : Việt Nam và các nước ASEAN có thể tham gia QUAD với tư cách quan sát viên không ? Nếu họ tham gia QUAD với tư cách quan sát viên, cả họ và QUAD có thể nhận được những lợi ích gì ?

Nagao Satoru : Tôi nghĩ Việt Nam có thể trở thành QUAD +. Tuy nhiên, gần đây, QUAD không nói về vấn đề quân sự một cách rõ ràng như vậy. Các nước QUAD đàm phán song phương các vấn đề quân sự, ví dụ như trường hợp Mỹ-Ấn. Hoạt động mua bán vũ khí Mỹ-Ấn để đối phó với vấn đề biên giới Ấn-Trung đang có nhiều tiến triển. Lý do là biên giới trên bộ giữa Ấn Độ và Trung Quốc là vấn đề quan trọng với Ấn Độ. Nếu Trung Quốc quyết định tấn công QUAD, Ấn Độ có thể là mục tiêu đầu tiên vì khu vực này chỉ là biên giới trên bộ và Trung Quốc sẽ dễ dàng tấn công hơn.

Như vậy, Ấn Độ đang đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ấn Độ cần QUAD để chống lại Trung Quốc. Nhưng Ấn Độ muốn QUAD được đánh giá thấp, không muốn đẩy QUAD thành một hình ảnh quan trọng. Do đó, các nước trong QUAD nói chuyện song phương về vấn đề quân sự. Còn tại hội nghị thượng đỉnh QUAD, họ nói nhiều vấn đề chiến lược hơn, ngay cả khi những vấn đề chiến lược này thực chất để đối phó với chiến lược của Trung Quốc.

RFA : Trung Quốc áp dụng chiến lược gì để đối phó với QUAD ? Nếu những quốc gia ở Đông Nam Á như Việt Nam tham gia QUAD+ thì họ nên tham gia như thế nào để có thêm lợi ích nhưng không kích động Trung Quốc tấn công ?

Nagao Satoru : Các nước Đông Nam Á muốn ngăn chặn sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng đồng thời, đầu tư và thương mại của Trung Quốc vẫn có ảnh hưởng đối với các nước này. Bởi vì sự cạnh tranh giữa QUAD và Trung Quốc đang leo thang, trong tương lai, các nước Đông Nam Á sẽ đến lúc cần phải chọn một bên. Và cuối cùng, QUAD sẽ giành chiến thắng trước Trung Quốc. Thật vậy, không có quốc gia nào cạnh tranh với Mỹ mà tồn tại được (Liên Xô, Nhật Bản, Đức). Vì vậy, cuối cùng thì ủng hộ QUAD cũng có lợi cho Đông Nam Á.

Nhưng cho đến thời điểm các nước Đông Nam Á cần chọn một bên, thì các nước này cần được hưởng đủ lợi ích. Trong trường hợp này, "tính trung lập trong việc ủng hộ QUAD" có tính thực tiễn hơn. 

Dần dần, các nước Đông Nam Á có thể chuyển quan điểm nghiêng về QUAD nhưng không nên quá khiêu khích Trung Quốc. Đó là điều tôi gọi là "tính trung lập trong việc ủng hộ QUAD".

RFA : Đài RFA trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nagao Satoru đã dành cho độc giả của đài cuộc phỏng vấn này. Các quan điểm trong bài là của nhà nghiên cứu Nagao Satoru, không phản ánh quan điểm của RFA. 

Nguồn : RFA, 29/08/2022

Published in Diễn đàn

Tổng thống Mỹ công bố kế hoạch cho Khuôn khổ Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương

RFA, 23/05/2022

Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 23/5 công bố kế hoạch Khuôn khổ kinh tế Châu Á Thái Bình Dương Thịnh Vượng (Indo-Pacific Economic Framework for Prosperity, gọi tắt là IPEF) với 13 quốc gia tham gia, nhân chuyến thăm Nhật Bản.

asiapacific1

Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Nhật Fumio Kishida tại Tokyo hôm 23/5/2022 - Reuters

Tổng thống Mỹ chính thức công bố kế hoạch này vào ngày thứ hai ở thăm Nhật trong cuộc nói chuyện với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, ngay trước cuộc gặp với các nước trong khối Quad (gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ, Australia) vào ngày 24/5.

13 nước tham gia IPEF gồm : Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Indonesia, New Zealand, Philippines, Singarpore, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Brunei, Malaysia.

Khác với Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership  - TPP) trước đó, IPEF không bắt các nước tham gia phải đàm phán vấn đề thuế quan và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường, một vấn đề khiến nhiều người Mỹ lo ngại sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất trong nước. Thay vào đó, chương trình tìm cách kết hợp các nước qua các tiêu chuẩn chung được các bên đồng ý trong bốn lĩnh vực gồm: kinh tế kỹ thuật số, dây chuyền cung ứng, hạ tầng cơ sở cho năng lượng sạch, các biện pháp chống tham nhũng.

Các nước tham gia IPEF có GDP chiếm khoảng 40% GDP toàn cầu. Tổng thống Biden nói rằng sẽ có thêm các nước khác sẽ tham gia khuôn khổ này.

Tuy nhiên ông không cho biết khi nào thì IPEF sẽ đi vào hiệu lực.

IPEF được coi như là đối trọng của Mỹ trước sức ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nhất là sau khi Mỹ dưới thời của Tổng thống Trump đã rút khỏi TPP hồi năm 2017. Hiệp định này sau đó đổi tên thành Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP) có hiệu lực từ ngày 20/12/2018 với 11 nước thành viên.

Thủ tướng Nhật Bản cho biết ông hoan nghênh IPEF nhưng đồng thời cho biết có mong muốn Mỹ sẽ tham gia lại vào TPP.

Trung Quốc trong khi đó đã lên tiếng phản đối IPEF và gọi đây là câu lạc bộ đóng với mục đích nhằm thu hút các nước Đông Nam Á "tách khỏi Trung Quốc".

Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/05/2022

************************

Thượng đỉnh Mỹ - ASEAN : Mỹ vẫn còn nhiều điều phải làm

Hoàng Minh, RFA, 22/05/2022

Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ-ASEAN tại Washington vừa qua đã đánh dấu sự khởi động của một "kỷ nguyên mới" trong mối quan hệ giữa Mỹ và khối 10 quốc gia này.

asiapacific2

Tổng thống Mỹ Joe Biden chụp hình cùng lãnh đạo các nước trong khối ASEAN ở Nhà Trắng hôm 12/5/2022 - AFP

Theo nhận định của giới phân tích, hai bên đã đi thêm một bước mang tính biểu tượng, đó là trong "Tuyên bố tầm nhìn" chung gồm 28 điểm được công bố sau hội nghị, Mỹ và ASEAN đã cam kết nâng cấp quan hệ từ quan hệ đối tác chiến lược lên "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" vào tháng 11 tới. Tổng thống Biden còn thông báo rằng chính quyền của ông sẽ cung cấp 150 triệu USD cho ASEAN để giải quyết các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, an ninh, ứng phó với đại dịch và năng lượng sạch. Đồng thời, Mỹ cũng cam kết triển khai tàu cảnh sát biển tới khu vực này trong tương lai để giúp tăng cường an ninh hàng hải. Bên cạnh đó, Tổng thống Biden thông báo đề cử ông Yohannes Abraham, Chánh văn phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, làm đại sứ Mỹ tại ASEAN - một vị trí đã bị bỏ trống kể từ thời kỳ đầu của chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump.

Vai trò quan trọng của ASEAN

Thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh này là quan trọng vì một số lý do; Đầu tiên, nó diễn ra vài ngày trước chuyến thăm của Tổng thống Biden đến Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong đó, Trung Quốc được xem là vấn đề chính trong chương trình nghị sự của chuyến công du này. Tại Tokyo, ông Biden sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo của nhóm Bộ tứ.

Thứ hai, Hội nghị thượng đỉnh diễn ra trong bối cảnh cuộc Khủng hoảng Ukraine và hệ lụy của cuộc khủng hoảng đã nhận được sự quan tâm trong suốt quá trình diễn ra cuộc họp.

Trong bài phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã đề cập đến tầm quan trọng của ASEAN trong bối cảnh Ấn Độ Dương. Ông Biden cho biết : "Vị trí trung tâm của ASEAN là trọng tâm trong chiến lược của chính quyền tôi trong việc theo đuổi tương lai mà tất cả chúng ta đều muốn thấy. Ấn Độ Dương là một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, ổn định và thịnh vượng, đồng thời kiên cường và an toàn. Đó là điều mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm" (1).

ASEAN cần gì ở Mỹ ?

Ông Joshua Kurlantzick, một thành viên cấp cao về Đông Nam Á tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại CFR Mỹ, nhận định khối ASEAN mong muốn thấy Mỹ đưa ra được một khuôn khổ hợp tác kinh tế với với một số nhượng bộ giành cho các nước Đông Nam Á và "một chiến lược rõ ràng hơn đối với an ninh khu vực…" (2).

Joanne Lin - chuyên gia tại Trung Tâm Nghiên cứu ASEAN thuộc viên Đông Nam Á Yusof Ishak, Singapore - cho rằng "ASEAN có thể muốn thấy sự hậu thuẫn nhiều hơn từ phía Mỹ đối với các cơ chế do ASEAN lãnh đạo, thay vì đối với các nhóm nhỏ như QUAD và AUKUS". Theo chuyên gia này, khối Đông Nam Á rất cần đến sự ủng hộ của Mỹ chẳng hạn như đối với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN, công bố vào năm 2019  (3).

Một trong những điểm cốt lõi mà giới phân tích ghi nhận là khối Đông Nam Á không muốn bị Mỹ dồn vào thế bị buộc phải chọn lựa giữa Washington và Bắc Kinh. Chuyên gia về Đông Nam Á Brian Harding, thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình Mỹ (USIP), ngày 9/5 nhận định : "Các nước ASEAN hết sức cảnh giác trước thực tế rằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với chính họ. Bất chấp sự đa dạng, ASEAN đều muốn có một nước Mỹ hiện diện và gắn bó ở Đông Nam Á để cân bằng với sức ảnh hưởng có thể trở thành thống trị của Trung Quốc" (4). Thế nhưng, theo ông Harding, điều họ không muốn là buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. 

Tuy nhiên, một điều quan trọng sự gần gũi của Đông Nam Á với Trung Quốc và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Sự gần gũi này khiến các quốc gia ASEAN không muốn cắt đứt quan hệ kinh tế với Trung Quốc, đồng thời khiến Đông Nam Á trở thành một khu vực có tầm quan trọng tương đối đối với Bắc Kinh so với Washington. Thế nhưng, khoản tiền 150 triệu USD mà Mỹ cam kết là một con số tương đối nhỏ so với số tiền mà Mỹ đã cam kết trong quá khứ dành cho khu vực này. Chỉ riêng Trung Quốc, vào tháng 11/2021, Bắc Kinh đã cam kết hỗ trợ phát triển 1,5 tỷ USD cho ASEAN trong vòng ba năm để chống lại các tác động kinh tế và y tế cộng đồng mà đại dịch Covid-19 gây ra, đồng thời, Trung Quốc đã dành hàng tỷ USD tài trợ cho cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI).

Bà Joanne Lin, chuyên gia hàng đầu của Trung tâm nghiên cứu ASEAN thuộc Viện ISEAS Yusof-Ishak (Singapore), cũng cho rằng tuyên bố tầm nhìn chung được đưa ra vào cuối hội nghị đã nhấn mạnh cam kết nâng tầm hợp tác giữa ASEAN và Mỹ lên Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 11 (5).

Tuy nhiên, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời : Mỹ sẽ mở rộng những hình thức sáng kiến kinh tế nào đối với một khu vực đang cố gắng phục hồi từ đại dịch Covid-19, và thoát khỏi hậu quả của cuộc xung đột Nga-Ukraine như thế nào ? Và liệu Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) có đủ thực chất để bù đắp cho việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2017 hay không ? (6).

Các vấn đề Biển Đông và Mekong

Hai vấn đề quan trọng liên quan mật thiết đến lợi ích của Việt Nam là Biển Đông và sông Mekong cũng là những vấn đề được đặt ra trong kỳ họp thượng đỉnh lần này.

Trong bài phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), Thủ tướng Phạm Minh Chính đề cập đến cách tiếp cận của Việt Nam về vấn đề Biển Đông : "Việt Nam sẵn sàng tham gia đối thoại và hợp tác để giải quyết những khác biệt và tranh chấp. Vì vậy, Việt Nam đang góp phần hướng tới hòa bình, ổn định và phát triển. Đồng thời, Việt Nam cố gắng đảm bảo cân bằng lợi ích và giải quyết thỏa đáng các mối quan tâm của các đối tác, quốc gia và cộng đồng quốc tế khác nhau…" (7).

Trong Tuyên bố chung Mỹ - ASEAN (8),  có năm đoạn trong tuyên bố này được dành để thúc đẩy hợp tác hàng hải. Phần này tập trung vào UNCLOS, hòa bình, an ninh và ổn định của Biển Đông, cũng như quyền tự do hàng hải và hàng không và các hoạt động sử dụng hợp pháp các vùng biển. Nội dung nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì và thúc đẩy một môi trường có lợi cho Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Tuy nhiên, không có biện pháp cụ thể nào được đề cập về cách tạo ra một môi trường thuận lợi cho các vấn đề nêu trên.

Đối với vấn đề Mekong, Giáo sư Bilahari Kausikan lập luận rằng việc Washington quá tập trung vào vấn đề tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc nên đã bỏ qua tầm quan trọng của vấn đề cạnh tranh của những nước ở lưu vực sông Mekong (9). Vị giáo sư giải thích rằng nếu không có vai trò lớn hơn của Mỹ, thì việc Trung Quốc xây dựng các con đập dọc theo thượng nguồn sông Mekong sẽ đem lại cho Bắc Kinh khả năng kiểm soát đối với năm thành viên ASEAN thuộc lưu vực sông này. Chuyên gia này nói : "Những con đập mà Trung Quốc đã và đang tiếp tục xây dựng trên thượng nguồn sông Mekong, chảy qua năm quốc gia thành viên lục địa ASEAN, không chỉ gây ra một nguy cơ sinh thái to lớn mà cùng với các tuyến đường sắt và đường cao tốc Bắc-Nam, có thể tạo ra tình thế phụ thuộc vào Bắc Kinh. Khi đó, điều này sẽ tái định hình vị trí địa lý chiến lược của Đông Nam Á" (10).

Theo đề xuất của giáo sư Bilahari Kausikan, Mỹ cần có cách tiếp cận chiến lược đối với những nước thuộc lưu vực sông Mekong và đặt vấn đề này trong tầm nhìn chính sách rộng lớn hơn của Washington đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thay vì chỉ đưa ra những chính sách mang tính chắp vá liên quan đến những vấn đề kỹ thuật hoặc môi trường.

Kết luận

Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Mỹ đã có những dấu ấn nhất định, trong đó điều quan trọng đó chính là tín hiệu mà Mỹ muốn thể hiện với ASEAN và thế giới việc Mỹ coi trọng và không bỏ quên ASEAN, cho dù đang vướng vào cuộc chiến ở Ukraine.

Thực chất là Mỹ muốn lôi kéo ASEAN thoát ra khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc, tuy nhiên, ASEAN không muốn vướng vào chiến tranh Mỹ - Trung, mà muốn nhân cơ hội này để phát triển kinh tế của từng quốc gia, mà Trung Quốc, mặc dù khiến nhiều quốc gia lo ngại về an ninh, nhưng lại đang có quan hệ kinh tế rất chặt chẽ ở khu vực Đông Nam Á này.

Mỹ rất muốn kéo ASEAN trở lại vòng ảnh hưởng của mình, nhưng kế hoạch phát triển kinh tế với TPP đã bị Trump khước từ. Chính vì vậy, trong Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được ban hành hồi tháng 2, Mỹ đã muốn xây dựng Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), để có thể đưa ASEAN quay lại với "vòng tay" của mình. Tuy nhiên, IPEF vẫn bị coi là quá sơ sài, thiếu rất nhiều chi tiết để cho nó có thể hoạt động hiệu quả.

Các kế hoạch cho vấn đề Biển Đông và Mekông vẫn còn rất nhiều thứ phải bàn, nếu Mỹ thực chất muốn đưa ASEAN trở lại "vòng tay" của mình.

Hoàng Minh

Nguồn : RFA, 22/05/2022

Tham khảo :

1. https://www.whitehouse.gov/briefing-room/speeches-remarks/2022/05/13/remarks-by-president-biden-at-the-u-s-asean-special-summit/

2. https://www.cnbc.com/2022/05/12/biden-will-host-asean-summit-at-the-white-house-.html

3. https://www.cnbc.com/2022/05/12/biden-will-host-asean-summit-at-the-white-house-.html

4. https://www.usip.org/publications/2022/05/brian-harding-us-asean-summit

5. https://fulcrum.sg/us-asean-summit-the-audacity-of-trope/

6. https://tass.com/world/1451075?utm_source=google.com.vn&utm_medium=organic&utm_campaign=google.com.vn&utm_referrer=google.com.vn

7. https://nld.com.vn/chinh-tri/thu-tuong-pham-minh-chinh-phat-bieu-tai-trung-tam-nghien-cuu-chien-luoc-va-quoc-te-my-20220512073427028.htm

8. https://asean.org/wp-content/uploads/2022/05/Final-ASEAN-US-Special-Summit-2022-Joint-Vision-Statement.pdf

9. https://eurasiantimes.com/us-needs-super-power-asean-by-its-side-to-challenge-china/

10. https://eurasiantimes.com/us-needs-super-power-asean-by-its-side-to-challenge-china/

Published in Diễn đàn

Tập Cận Bình cảnh báo bầu không khí "chiến tranh lạnh" tại Châu Á – Thái Bình Dương

Minh Anh, RFI, 11/11/2021

Những căng thẳng giống như thời Chiến Tranh Lạnh đang trở lại vùng Châu Á – Thái Bình Dương. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ngày 11/11/2021 đưa ra lời cảnh báo như trên khi tham dự trực tuyến một hội nghị, bên lề thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, được tổ chức tại Wellington, New Zealand.

lanh1

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong lễ kỷ niệm 110 năm Cách mạng Tân Hợi, tại Bắc Kinh, ngày 09/10/2021. Reuters – Carlos Garcia Rawlins

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh : "Mọi mưu toan vạch ra những đường biên ý thức hệ hay hình thành những nhóm nước nhỏ dựa trên địa chính trị đều sẽ đi đến thất bại".

Lãnh đạo Trung Quốc còn cho rằng, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương "không thể và cũng không nên một lần nữa rơi vào những cuộc đối đầu và những chia rẽ của thời Chiến Tranh Lạnh".

Như tỏ một cử chỉ hòa dịu về phía Mỹ, chiều tối thứ Ba, 09/11, ông Tập Cận Bình, trong một thông cáo được đại sứ quán Trung Quốc công bố trên mạng xã hội Twitter, cho rằng "mối quan hệ Mỹ - Trung hiện nay đang trong thời điểm quyết định lịch sử. Cả hai nước sẽ được lợi trong hợp tác và chỉ có thiệt trong đối đầu". Trong bối cảnh này, "Trung Quốc sẵn sàng làm việc với Mỹ để tăng cường các hoạt động trao đổi và hợp tác trong mọi chủ đề".

Cuối cùng, nguyên thủ Trung Quốc kêu gọi tất cả các nước trong khu vực phải cùng hành động trước những thách thức chung, từ đại dịch Covid-19, thương mại cho đến cả hành động vì khí hậu.

AFP lưu ý những tuyên bố này được đưa ra khi chỉ còn có vài ngày nữa là diễn ra thượng đỉnh trực tuyến giữa ông Tập Cận Bình với nguyên thủ Mỹ Joe Biden.

Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng do các hoạt động quân sự dồn dập của Trung Quốc xung quanh đảo Đài Loan và vùng Biển Đông trong thời gian gần đây.

Việc Bắc Kinh hồi đầu tháng 10/2021, ồ ạt điều chiến đấu cơ xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan buộc Washington có phản ứng mạnh mẽ. Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, hôm qua, 10/11, khẳng định Hoa Kỳ giám sát chặt chẽ sao cho Đài Loan có thể tự bảo vệ nhằm tránh bất kỳ ai "tìm cách đảo lộn nguyên trạng bằng vũ lực".

Còn tại Biển Đông, trước những yêu sách chủ quyền ngày một quá đáng của Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh và Úc hồi tháng Chín thông báo thành lập một liên minh quốc phòng cho phép Úc sở hữu tầu ngầm hạt nhân theo công nghệ Mỹ. Quyết định này đã khiến Bắc Kinh nổi dóa và gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao nghiêm trọng giữa Pháp với Mỹ và Úc. 

Minh Anh

***********************

Trung Quốc cảnh báo nguy cơ căng thẳng "thời chiến tranh lạnh" ở Châu Á-Thái Bình Dương

RFA, 11/11/2021

Ch tch Trung Quc Tp Cn Bình cnh báo v nguy cơ căng thng thi Chiến tranh Lnh tái din Châu Á-Thái Bình Dương vào khi căng thng v an ninh Đài Loan gia tăng.

lanh2

Ông Tập Cận Bình nói trong video gửi đến diễn đàn bên lề Hội nghị APEC lo ngại căng thẳng ở Châu Á, trong khi trong tháng 10 Trung Quốc tăng cường hoạt động quân sự gần Đài Loan - Reuters, Weibo- RFA edited

Trước thm hi ngh thượng đnh trc tuyến vi Tng thng M Joe Biden được d kiến din ra vào đu tun ti, ông Tp hôm 10/11 đã phát biu như trên, đng thi kêu gi các nước trong khu vc phi cùng nhau gii quyết nhng thách thc chung, t đi dch Covid-19 đến thương mi. AFP loan tin này trong ngày 11/11/2021.

AFP dn li phát biu ca ông Tp Cn Bình, ti mt hi ngh kinh tế trc tuyến bên l Hi ngh thượng đnh Hp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) do New Zealand t chc, rng "Khu vc Châu Á - Thái Bình Dương không th và không nên tr li tình trng đi đu và chia r ca thi k Chiến tranh Lnh".

Li kêu gi ca ông Tp được đưa ra vài gi sau khi Trung Quc và Hoa K công b mt hip ước bt ng nhm đy nhanh hành đng vì khí hu ti mt hi ngh thượng đnh Glasgow, nơi các nước đang c gng thng nht các bin pháp đ hn chế s nóng lên ca Trái đt.

Tuy vy, ông Tp được cho là đã không đ cp trc tiếp đến tha thun, nhưng nhn mnh"tt c chúng ta có th theo con đường phát trin bn vng, phát thi carbon thp, xanh".

Ngun tin ca AFP cũng cho biết, theo Ngoi trưởng M Antony Blinken, các nhà lãnh đo Trung Quc và M s t chc các cuc gp trc tuyến sm nht vào tun ti.

Trong khi chính quyn Tng thng Joe Biden đã xác đnh khí hu là mt lĩnh vc quan trng đ hp tác tim năng vi Trung Quc, thì căng thng li tăng lên khu vc Châu Á - Thái Bình Dương, đc bit là Đài Loan, mt nn dân ch t tr do Trung Quc tuyên b ch quyn.

T đu tháng 10, Bc Kinh đã tăng cường các hot đng quân s gn Đài Loan, vi s lượng k lc máy bay bay vào vùng nhn dng phòng không ca Đài Loan.

Bên cnh đó, Trung Quc cũng tuyên b ch quyn gn như toàn b Bin Đông, bác b các tuyên b ch quyn t Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Vit Nam.

Mc dù vy, trong li phát biu bên l Hi ngh cp cao APEC, lãnh đo Trung Quc cũng kêu gi n lc chung trong toàn khu vc đ thu hp "khong cách tiêm chng", giúp vc-xin Covid-19 d tiếp cn hơn vi các quc gia đang phát trin.

Ông Tp nói vi các nhà lãnh đo doanh nghip APEC :"Chúng ta nên chuyn s đng thun rng vc xin là hàng hóa công cng toàn cu thành các hành đng c th đ đm bo s phân phi công bng và hp lý".

Ông nói, các quc gia trong khu vc nên đy mnh hp tác trong nghiên cu, sn xut, th nghim và công nhn vc xin đ "thoát khi cái bóng ca đi dch và sm đt được s phc hi kinh tế n đnh".

Published in Châu Á

Tóm tắt : Xu thế phân tách Mỹ – Trung ngày càng được giới chuyên gia, học giả đề cập nhiều trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc ngày một quyết liệt hơn. Đây là một xu thế tất yếu, tuy mới ở giai đoạn đầu, song đã diễn ra khá mạnh mẽ trong một số lĩnh vực như công nghệ, đầu tư, tài chính, và dự báo sẽ còn tiếp tục gia tăng thời gian tới. Tiến trình phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới có tác động trực tiếp, đa chiều, lâu dài và sâu sắc không chỉ đến các quốc gia mà cả đến hệ thống thể chế, luật chơi và chuẩn mực toàn cầu, trong đó mặt thách thức lớn hơn mặt cơ hội. Mặc dù phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc tạo ra áp lực "chọn bên" đối với các nước vừa và nhỏ, song chưa có dấu hiệu cho thấy triển vọng xảy ra phân tách toàn diện, hay hình thành trở lại cục diện hai cực và phân tuyến rõ nét như thời Chiến tranh Lạnh trong ngắn hạn.

Tác động của phân tách Mỹ – Trung đến cục diện thế giới và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương

mytrung0

Bối cảnh và nguyên nhân dẫn tới "cuộc ly hôn lịch sử" giữa Mỹ và Trung Quốc

Khái niệm phân tách giữa hai quốc gia thường được hiểu là một tiến trình với một số đặc điểm cụ thể như sau : Thứ nhất, đây là quá trình chuyển đổi trạng thái quan hệ từ gắn kết (coupling) sang phân tách (decoupling) [1]. Nói cách khác, trước khi phân tách, giữa hai quốc gia phải tồn tại mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau. Thứ hai, phân tách có thể là chủ trương, hoặc cũng có thể là hệ quả của sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược của một hoặc cả hai quốc gia. Thứ ba, hai quốc gia khi phân tách sẽ giảm dần mức độ phụ thuộc lẫn nhau, giảm hợp tác trên nhiều lĩnh vực, gia tăng các động thái cạnh tranh, thậm chí là cọ xát tổng lực và toàn diện [2].

Căn cứ theo những đặc điểm trên, có thể nhận thấy quan hệ Mỹ – Trung không những đã chuyển từ giai đoạn gắn kết sang phân tách, mà phân tách đã dần trở thành xu hướng ngày càng rõ nét trong quan hệ hai nước, nhất là dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump. Quá trình gắn kết giữa Mỹ và Trung Quốc bắt đầu từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Với tư cách siêu cường duy nhất còn lại sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ đã chủ động thúc đẩy toàn cầu hóa thị trường, hệ thống tài chính, chuỗi sản xuất và cung ứng công nghệ cao. Điều này dẫn đến sự kết hợp nhanh chóng, quy mô lớn về tài chính và xã hội với Trung Quốc. Kể từ khi Mỹ và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1979 cho đến trước khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức, tuy có một số thời điểm quan hệ Mỹ – Trung căng thẳng, song Mỹ vẫn chủ trương chú trọng can dự, kiểm soát bất đồng và thúc đẩy hợp tác với kỳ vọng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường, đẩy mạnh cải cách và dân chủ hóa, tham gia và tuân thủ luật chơi trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt. Về phần mình, Trung Quốc kể từ thời nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình cũng chú trọng tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa nguồn lực của Mỹ nhằm phát triển sức mạnh tổng hợp, nâng cao vị thế quốc tế. Giai đoạn gắn kết Mỹ – Trung được hậu thuẫn bởi xu thế toàn cầu hóa, điển hình là giao lưu nhân dân và hợp tác thương mại ngày càng khăng khít giữa Mỹ và Trung Quốc sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Sau gần bốn thập kỷ gắn kết, Mỹ và Trung Quốc đã có biểu hiện phân tách mà nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi về tư duy và chính sách của hai cường quốc theo hướng tăng cường cạnh tranh chiến lược, trong đó phân tách được sử dụng như một công cụ phục vụ cạnh tranh chiến lược. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 bùng phát cũng là một tác nhân quan trọng đẩy nhanh và làm sâu sắc hơn tiến trình phân tách Mỹ – Trung vốn đã định hình dưới thời Tổng thống Trump.

Phân tách Mỹ  Trung bắt đầu với sự chuyển đổi về nhận thức chiến lược của cả hai cường quốc và kéo theo là tiến trình điều chỉnh chính sách và trạng thái quan hệ nhằm giảm bớt sự phụ thuộc, tăng cường cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau, củng cố và tăng cường năng lực chi phối các chuẩn mực, luật chơi toàn cầu. Về phía Trung Quốc, kể từ khi thực hiện chính sách cải cách, mở cửa và hội nhập với quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường nguồn lực cho nghiên cứu phát triển và sức mạnh quốc phòng, Trung Quốc đã nhanh chóng trỗi dậy, ngày càng thu hẹp khoảng cách với Mỹ về sức mạnh tổng hợp [3] và ảnh hưởng quốc tế. Cùng với quốc lực và ảnh hưởng gia tăng, Trung Quốc ngày càng tự tin và quyết tâm theo đuổi mục tiêu chiến lược để "Phục hưng Trung Hoa". Từ góc nhìn của Mỹ, Chiến lược "Made in China 2025" và Sáng kiến "Vành đai  Con đường" cho thấy Trung Quốc có ý định và kế hoạch vượt Mỹ để trở thành cường quốc dẫn đầu thế giới về kinh tế và công nghệ, nhất là công nghệ lưỡng dụng, tiến tới có khả năng định hình và chi phối tiêu chuẩn, luật chơi toàn cầu. Để thực hiện mục tiêu, Trung Quốc hiểu rõ cần tăng cường tự chủ, giảm phụ thuộc vào Mỹ, tiến tới phát triển sức mạnh tổng hợp ngang hàng với Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn rất cần tranh thủ các yếu tố thị trường, nguồn lực tài chính và công nghệ của Mỹ để phục vụ cho các kế hoạch phát triển của mình.

Về phía Mỹ, lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc đã manh nha từ trước thời Chính quyền Trump, song Mỹ vẫn theo đuổi chính sách can dự, với kỳ vọng Trung Quốc sẽ dần có điều chỉnh chính sách theo hướng tuân thủ trật tự và luật chơi do Mỹ dẫn dắt. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Trump lên nắm quyền, tư duy chiến lược và chính sách của Mỹ về Trung Quốc đã có sự thay đổi căn bản. Nước Mỹ dưới thời Tổng thống Trump xác định rằng Trung Quốc tuy hưởng lợi và lớn mạnh nhờ hệ thống quốc tế hiện hành, song lại không thực hiện dân chủ hóa, cải cách và tôn trọng luật chơi do Mỹ dẫn dắt. Việc các công ty công nghệ mới của Trung Quốc như Hoa Vi, Alibaba, Tencent và Baidu phá vỡ thế độc quyền về công nghệ viễn thông tiên tiến trước đây của các công ty Mỹ như Apple hay Amazon càng khiến Mỹ lo ngại về khả năng Trung Quốc vượt Mỹ để dẫn đầu thế giới về công nghệ. Chính vì vậy, Chính quyền Trump xác định chính sách can dự với Trung Quốc đã thất bại và cần chuyển sang cách tiếp cận thiên về cạnh tranh. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Tổng thống Trump, Chiến lược An ninh Quốc gia 2017 của Mỹ đã công khai xác định Trung Quốc là một đối thủ chiến lược hàng đầu và là thách thức lâu dài, nghiêm trọng nhất đối với an ninh và lợi ích sống còn của Mỹ trên phạm vi toàn cầu, nhất là tại khu vực Ấn Độ Dương  Thái Bình Dương. Đi đôi với tăng cường cạnh tranh chiến lược, chủ trương của Mỹ là từng bước giảm dần những ràng buộc về lợi ích với Trung Quốc ở một số lĩnh vực có thể cản trở, khiến Mỹ bị động trong triển khai cạnh tranh Trung Quốc ; đồng thời tận dụng lợi thế hiện có, phối hợp với một số đồng minh để gây sức ép, kiềm chế Trung Quốc.

Sự chuyển đổi về tư duy chiến lược được củng cố thêm bởi lo ngại sâu sắc của Mỹ về nguy cơ phụ thuộc quá mức vào nguồn cung một số mặt hàng thiết yếu từ Trung Quốc. Đại dịch Covid-19 bùng phát đã khiến nội bộ Mỹ ý thức được rõ ràng hơn hệ lụy và nguy cơ nếu để phụ thuộc quá mức vào nguồn cung một số mặt hàng thiết yếu, nhất là dược phẩm và thiết bị y tế, từ đối thủ chiến lược là Trung Quốc. Hơn nữa, Chính quyền Trump cũng nhận định chính sự chậm trễ và thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin về dịch bệnh của Trung Quốc đã khiến nước Mỹ lâm vào khủng hoảng chưa từng có. Hệ quả là, ngày càng có sự đồng thuận cao hơn trong lưỡng đảng và dư luận Mỹ về việc Chính quyền Mỹ cần có chính sách cứng rắn hơn trong xử lý thách thức từ Trung Quốc, nhất là việc Trung Quốc lạm dụng Mỹ và hệ thống quốc tế do Mỹ dẫn dắt trong nhiều thập kỷ qua, đồng thời giảm phụ thuộc vào Trung Quốc trong một số lĩnh vực thiết yếu để Trung Quốc không thể lợi dụng các lĩnh vực này nhằm gây sức ép với Mỹ.

Hiện trạng phân tách Mỹ – Trung

Tuy mới ở giai đoạn đầu, song phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc đã nhanh chóng được mở rộng về phạm vi và mức độ, nhất là dưới thời Tổng thống Trump. Chính quyền Trump chủ động đưa ra nhiều biện pháp để phân tách với Trung Quốc, nhất là trong các lĩnh vực Mỹ chủ trương giảm ràng buộc, còn Trung Quốc cũng đưa ra nhiều biện pháp đáp trả.

Về thương mại  đầu tư  tài chính, Mỹ tăng cường bảo hộ [4], hạn chế đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc trong các lĩnh vực nhạy cảm [5], khuyến khích doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc để đầu tư về Mỹ, hạn chế nguồn vốn của Mỹ đầu tư vào doanh nghiệp Trung Quốc [6]. Trung Quốc áp thuế trả đũa, hạn chế doanh nghiệp Mỹ tiếp cận thị trường Trung Quốc, xúc tiến thành lập các định chế tài chính quốc tế không có sự tham gia của Mỹ (như AIIB, NDB), hạn chế hoạt động của các công ty thanh toán điện tử Mỹ (Visa, Master) ở Trung Quốc.

Về công nghệ, Mỹ tăng cường kiểm soát việc Trung Quốc mua lại doanh nghiệp công nghệ mũi nhọn của Mỹ, hạn chế doanh nghiệp Mỹ chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc, trừng phạt một số tập đoàn công nghệ hàng đầu của Trung Quốc (như Hoa Vi, ZTE…), vận động đồng minh, đối tác không sử dụng sản phẩm công nghệ 5G của Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư mua lại công ty công nghệ nước ngoài và hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ trong nước để đẩy nhanh tiến tới tự chủ về công nghệ [7], ngăn chặn hoạt động của Google, Facebook ở Trung Quốc và thay thế bằng các công cụ và mạng xã hội nội địa như Baidu, Wechat, Weibo…

Về văn hóa  giáo dục, Mỹ tăng cường kiểm soát hoạt động của Hội sinh viên Trung Quốc tại Mỹ, giám sát, hạn chế du học sinh và nghiên cứu sinh Trung Quốc trong các lĩnh vực Mỹ coi là nhạy cảm, chỉ trích hoạt động của các viện Khổng Tử [8] tại Mỹ, chấm dứt Chương trình Hòa bình (Peace Corps) của Mỹ tại Trung Quốc, giới hạn hoạt động của một số cơ quan báo chí Trung Quốc tại Mỹ [9]. Trung Quốc chấm dứt hơn 200 chương trình hợp tác về giáo dục với các đại học nước ngoài (trong đó có Mỹ), hạn chế các chương trình ngoại giao công chúng và văn hóa của Mỹ, siết chặt kiểm duyệt đối với báo chí Mỹ [10].

Không chỉ xúc tiến phân tách trực tiếp với Trung Quốc, chính quyền Mỹ cũng đẩy mạnh tập hợp lực lượng, vận động đồng minh và đối tác ủng hộ và hợp tác với Mỹ trong việc phân tách và cô lập Trung Quốc. Trước nỗ lực tập hợp lực lượng của Mỹ và xuất từ một số quan ngại về an ninh, nhiều nước đồng minh và đối tác chủ chốt của Mỹ đã có sự hưởng ứng lớn hơn với lời kêu gọi của Mỹ trong việc kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ, đầu tư. Anh thông báo lệnh cấm sử dụng các thiết bị liên lạc và công nghệ 5G của Tập đoàn Hoa Vi kể từ năm 2027. Úc đã ngăn chặn một số dự án trong đó các tập đoàn Trung Quốc có ý định đầu tư hoặc mua lại các công ty Úc trong lĩnh vực công nghệ, thực phẩm và khai khoáng với lý do quan ngại về an ninh. Ấn Độ, Úc và Nhật Bản đã bắt đầu đàm phán về Sáng kiến ​​kh năng phc hi chui cung ng (SCRI) mà gii quan sát cho là nhm gim s ph thuc vào Trung Quc. n Độ cũng bt đầu kim soát cht ch hơn FDI Trung Quc, cm s dng nhiu ng dng ca Trung Quc ti n Độ.

Tác động của việc phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới

1. Tác động đối với Mỹ và Trung Quốc

Thứ nhất, xét từ góc độ quốc gia, xu hướng phân tách Mỹ – Trung gia tăng sẽ làm tổn hại lợi ích của cả Mỹ và Trung Quốc, nhất là về kinh tế. Một sự phân tách sẽ làm gián đoạn dòng trao đổi thương mại và công nghệ vốn là những nền tảng quan trọng cho tăng trưởng và điều này sẽ gây tác động tiêu cực cho cả hai nước. Nhìn chung, Mỹ cơ bản có khả năng chịu đựng và hóa giải thách thức tốt hơn do có ưu thế hơn về sức mạnh tổng hợp, trình độ công nghệ, mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh. Trong khi đó, nếu phân tách tiếp tục gia tăng và mở rộng, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn hơn, trong ngắn hạn khó khôi phục được đà phát triển mạnh mẽ như giai đoạn trước. Theo phân tích của hai nhà kinh tế Tom Orlik and Bjorn van Roye [11], tăng trưởng của Trung Quốc có thể sẽ giảm xuống chỉ còn 3,5% vào năm 2030 nếu như nước này phân tách kinh tế với Mỹ. Tuy nhiên, một số ý kiến cũng cho rằng nếu Mỹ cố tình áp đặt chính sách phân tách giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới thì sẽ thất bại vì sự tùy thuộc lẫn nhau quá lớn giữa hai nền kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa.

Thứ hai, xét từ góc độ doanh nghiệp, một số công ty Mỹ, đặc biệt là những công ty cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thiết yếu cho Trung Quốc sẽ được hưởng lợi. Trái lại, những công ty Mỹ bán sản phẩm cho các công ty công nghệ cao của Trung Quốc có thể sẽ gặp khó khăn, thậm chí thua lỗ. Khi các công ty này không còn được coi là đối tác quan trọng cho sự phát triển của Trung Quốc, họ có thể chịu áp lực tăng lên từ các nhà chức trách Trung Quốc hoặc bị mất đi các đặc quyền vốn có trước đây. Về phần mình, nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc cũng sẽ đối mặt với áp lực tương tự từ chính quyền Mỹ. Các tập đoàn công nghệ như mũi nhọn của Trung Quốc như Hoa Vi sẽ tiếp tục phải gánh chịu nhiều hạn chế và rào cản trong việc tiếp cận các công nghệ Mỹ, làm ăn với doanh nghiệp Mỹ hoặc bán sản phẩm vào thị trường Mỹ. Điều này có thể buộc các doanh nghiệp này phải trở nên tự lực hơn sớm hơn so với kế hoạch ban đầu, hoặc ngược lại sẽ sụp đổ và phá sản. Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng có khả năng phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn và các hạn chế nghiêm trọng khi muốn đầu tư vào Mỹ.

Thứ ba, xét từ góc độ cá nhân, người tiêu dùng hai nước sẽ phải gánh chịu mức giá cả của các hàng hóa nhập khẩu cao hơn, trong bối cảnh hai nước duy trì các biện pháp áp thuế trừng phạt lẫn nhau. Trong nghiên cứu phát triển, các công dân Trung Quốc cũng sẽ bị hạn chế trong tiếp cận các nghiên cứu cơ bản của Mỹ. Trao đổi học thuật giữa các học giả Mỹ và Trung Quốc sẽ phải đối mặt với sự giám sát và hạn chế của cả hai chính phủ. Các trao đổi văn hóa cũng giảm với việc Trung Quốc tăng cường hạn chế các chương trình văn hóa Mỹ ở Trung Quốc, còn Mỹ thì nghi ngờ và siết chặt kiểm soát hoạt động của các Viện Khổng tử, học giả, sinh viên và cơ quan truyền thông Trung Quốc. Giao lưu nhân dân giữa Mỹ và Trung Quốc cũng sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực của xu thế phân tách. Nếu không được kiểm soát, thậm chí xu thế "bài Trung" và "bài Mỹ" có thể sẽ nổi lên.

2. Tác động đối với thế giới

Thứ nhất, phân tách Mỹ  Trung sẽ kéo theo tái cơ cấu mạnh mẽ chuỗi sản xuất và quan hệ thương mại toàn cầu, trong ngắn hạn sẽ gây nhiều tác động tiêu cực cho nhiều nước và hệ thống các thể chế quốc tế. Rủi ro là nền kinh tế toàn cầu có thể rạn nứt và tan rã nếu Mỹ và Trung Quốc tiếp tục đi theo con đường phân kỳ như hiện nay. Một tiến trình phân tách "cứng" sẽ không chỉ trì hoãn và làm phức tạp thêm sự phục hồi kinh tế của thế giới, mà cũng có thể gieo mầm cho cuộc suy thoái toàn cầu lần thứ hai. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres trong bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 9/2019) đã kêu gọi các nước hành động để tránh nguy cơ thế giới "rạn nứt lớn", cho rằng đây là một mối đe dọa thực sự với thể chế toàn cầu. Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson cảnh báo rằng một "bức màn sắt kinh tế" có thể rơi xuống thế giới, theo đó Mỹ và Trung Quốc sẽ rơi vào bế tắc về những khác biệt chiến lược, và dẫn đến sự suy giảm lớn hơn về vốn cũng như chuyển giao công nghệ trên toàn thế giới.

Thứ hai, quá trình phân tách sẽ làm gia tăng căng thẳng và cọ xát Mỹ – Trung trên phạm vi toàn cầu, cả song phương và tại các diễn đàn đa phương, làm xói mòn sự ổn định của các thể chế đa phương nền tảng mà cả Mỹ và Trung Quốc tuân thủ kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay. Mặt cọ sát sẽ nổi trội hơn hợp tác trong các cơ chế quản trị toàn cầu và khu vực như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Kinh tế Châu Á  Thái Bình Dương (APEC), G20, G7… khiến cho các cơ chế đa phương này gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý các vấn đề toàn cầu cũng như tìm tiếng nói chung trong thúc đẩy cải cách. Tại Đối thoại cấp cao ngày 10/9/2019 với chủ đề "Tái khẳng định cam kết đối với chủ nghĩa đa phương thông qua tăng cường thể chế và hệ thống quốc tế nhân dịp kỷ niệm 75 Hiến chương Liên Hợp Quốc," Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Guterres đã nhấn mạnh hai đe dọa lớn đối với chủ nghĩa đa phương, trong đó có việc sự phân tách của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo hộ ngày càng tăng sẽ làm chia rẽ các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, thúc đẩy hình thành các liên minh nhỏ cùng nguyện vọng hay cùng chí hướng, hành động độc lập trong đa phương thay vì đóng góp, đầu tư vào các thể chế đa phương toàn cầu.

Thứ ba, phân tách và cạnh tranh chiến lược Mỹ  Trung còn tạo ra áp lực "chọn bên" ngày một lớn đối với các nước, tiến tới hình thành các tập hợp lực lượng rõ nét hơn xoay quanh hai trục Mỹ và Trung Quốc. Dưới nhiệm kỳ Tổng thống Trump, cả Mỹ và Trung Quốc đều đã đẩy mạnh tập hợp lực lượng để cạnh tranh ảnh hưởng. Một số chuyên gia cho rằng chính việc Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao cứng rắn, gây sức ép với nhiều nước như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, có hành động quyết đoán hơn nhằm hiện thực hóa yêu sách chủ quyền ở Hoa Đông và biển Đông… đã khiến các nước khu vực Châu Á  Thái Bình Dương quan ngại hơn. Điều này đã phần nào giúp Mỹ thành công hơn trong nỗ lực tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ đối phó với thách thức từ Trung Quốc.

3. Tác động đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

Châu Á  Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng quyết liệt nhất giữa Mỹ và Trung Quốc nên cũng sẽ chịu tác động mạnh nhất từ tiến trình phân tách Mỹ – Trung trên nhiều phương diện, cả về kinh tế, chính trị và an ninh.

Về kinh tế : Khu vực Châu Á  Thái Bình Dương đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra tiến trình tái cơ cấu mạnh mẽ chuỗi sản xuất và quan hệ thương mại. Trung Quốc có khả năng sẽ mất dần vai trò công xưởng và nguồn cung ứng chính đối với nhiều mặt hàng. Các tập đoàn của Mỹ và nước ngoài có trụ sở tại Trung Quốc chịu áp lực lớn từ các biện pháp áp thuế mà Mỹ áp đặt với Trung Quốc, dẫn tới xu thế doanh nghiệp nước ngoài chuyển dịch đầu tư và dây chuyền sản xuất khỏi Trung Quốc để tránh bị áp thuế. Xu thế doanh nghiệp chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc đã mạnh mẽ hơn từ năm 2019 do ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ  Trung và dịch Covid-19. Theo báo cáo của hãng tư vấn Kearney, trong năm 2019, tổng nhập khẩu ngành sản xuất của Mỹ từ Trung Quốc giảm 90 tỉ USD (tương đương 17% cùng kỳ năm trước). Nhiều hãng phân tích đánh giá việc phải chịu cảnh gián đoạn chuỗi cung trong suốt tháng 2 và đầu tháng 3/2020 do các nhà máy Trung Quốc buộc phải đóng cửa vì dịch Covid19 đã khiến các doanh nghiệp Mỹ phải đánh giá lại một cách nghiêm túc về chiến lược phân bổ nguồn cung, khiến vai trò của Trung Quốc trong chuỗi cung toàn cầu khó có thể trở lại như trước đây.

Mặt khác, những cơ hội mới cũng có thể xuất hiện với một số quốc gia và doanh nghiệp. Trong bối cảnh có nhu cầu dịch chuyển đầu tư và sản xuất khỏi Trung Quốc, các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng tìm kiếm các điểm đến lân cận để thay thế. Giới phân tích cho rằng một số nước nền kinh tế đang lên ở Đông Nam Á có thể là những điểm đến phù hợp nhất do là chế độ chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao và nguồn nhân công giá rẻ. Một số tập đoàn đa quốc gia vốn phụ thuộc vào dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc như Google, Microsoft đang cân nhắc chuyển sản xuất một số mặt hàng điện thoại, máy tính cá nhân khỏi Trung Quốc sang các nước như Thái Lan hay Việt Nam. Công ty Wistron, một trong những đối tác sản xuất linh kiện hàng đầu cho tập đoàn Apple, mới đây cũng tuyên bố sẽ chuyển 50% công suất sản xuất ra khỏi Trung Quốc trong một vài năm tới. Thành viên sáng lập và Cố vấn Hội đồng quản trị của Tập đoàn Grant Thornton Việt Nam, ông Kenneth Atkinson cho biết : "Việt Nam đang chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh trong FDI do có sự chuyển dịch trong quá trình sản xuất của các mặt hàng như may mặc, giày dép và dụng cụ điện tử, là kết quả của căng thẳng thương mại hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc".

Về chính trị : Do chịu tác động của cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ  Trung, các cơ chế đa phương tại khu vực, trong đó có ASEAN, đối mặt với thách thức lớn hơn dưới các nỗ lực tập hợp lực lượng của hai cường quốc. Việc các nhà lãnh đạo tại Hội nghị APEC 2018 ở Papua New Guinea đã không thể đưa ra một Tuyên bố chung là thất bại lần đầu tiên gặp phải thuộc loại này trong lịch sử 25 năm của APEC. Thay vì tạo cơ hội cho thúc đẩy hợp tác kinh tế, APEC 2018 đã làm dấy lên lo ngại về sự chia rẽ và đối đầu ngày một gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sức ép chọn bên với các nước cũng sẽ tăng lên. Cho đến nay, đa số các nước khu vực nhìn chung vẫn triển khai chính sách thực dụng, bám sát lợi ích, duy trì quan hệ và hợp tác với cả Mỹ và Trung Quốc. Ngay cả các đồng minh thân cận của Mỹ tuy hưởng ứng tích cực các sáng kiến của Mỹ, song cũng duy trì hợp tác với Trung Quốc trong các lĩnh vực có lợi ích, nhất là thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, có thể sẽ ngày càng khó duy trì chủ trương và hành động cân bằng này, vì cả Mỹ và Trung Quốc đều sẽ tăng cường vận động, thậm chí gây sức ép mạnh mẽ hơn, để đối tác ủng hộ quan điểm và hành động của mình.

Về an ninh : Cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ  Trung gia tăng làm giảm đi số lượng và hiệu quả của các cơ chế đối thoại và hợp tác, suy giảm lòng tin chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc và làm tăng rủi ro tính toán sai lầm. Dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ đã rút lại lời mời Trung Quốc tham dự tập trận RIMPAC 2019 với lý do để phản đối các hành vi quá mức của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần mình, Trung Quốc nhiều lần cho tàu và máy bay áp sát tàu và máy bay Mỹ ở biển Đông, hoặc trong khu vực gần Hồng Công, Đài Loan. Hai bên cũng không còn duy trì được các cơ chế đối thoại an ninh cấp cao quan trọng như Đối thoại an ninh  ngoại giao, Đối thoại cấp Hội đồng Tham mưu trưởng… Những động thái trên làm tăng nguy cơ tính toán và hành động sai lầm, khiến môi trường an ninh khu vực phức tạp và bất ổn hơn. Căng thẳng và cọ xát Mỹ – Trung Quốc tại các điểm nóng khu vực có thể sẽ gia tăng cùng với tiến trình phân tách và tập hợp lực lượng của hai cường quốc, do cả hai đều có nhu cầu thể hiện sức mạnh và vị thế lãnh đạo của mình. Tuy nhiên, điểm trấn an là cả Mỹ và Trung Quốc đều tỏ ra chủ trương tránh để xảy ra xung đột nóng hay đối đầu, ngay cả trong những giai đoạn quan hệ căng thẳng nhất dưới thời Tổng thống Trump. Trong bốn năm nhiệm kỳ Tổng thống Trump, mặc dù các cơ chế hợp tác an ninh – quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc suy giảm mạnh, song hai bên vẫn duy trì hợp tác trong các lĩnh vực an ninh chung và một số cơ chế đối thoại quân sự nhất định để bình ổn quan hệ, giảm thiểu nguy cơ hai bên có tính toán và hành động sai lầm dẫn tới xung đột trực diện.

Triển vọng thời gian tới

Tiến trình phân tách Mỹ  Trung sẽ khó bị đảo ngược mà nhiều khả năng sẽ tiếp tục gia tăng về phạm vi, mức độ do các động lực của nó dự báo sẽ tiếp tục mạnh mẽ hơn thời gian tới. Việc Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy, tăng cường sức mạnh tổng hợp và cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ trên nhiều lĩnh vực sẽ khiến lo ngại về Trung Quốc trong nội bộ Mỹ gia tăng và chính sách cạnh tranh và kiềm chế chiến lược của Mỹ với Trung Quốc sẽ tiếp tục được triển khai đồng bộ. Cạnh tranh chiến lược sẽ dẫn tới việc Mỹ sẽ tiếp tục duy trì và tăng cường phân tách với Trung Quốc trong các lĩnh vực mà Mỹ có nhu cầu giảm phụ thuộc hoặc cần kiềm chế không để Trung Quốc lợi dụng nguồn lực, công nghệ và chất xám của Mỹ để vượt lên trên Mỹ. Có lẽ chính vì vậy, sau khi Tổng thống Biden lên nắm quyền, trái với một số dự đoán ban đầu về khả năng Mỹ sẽ có chính sách mềm dẻo hơn với Trung Quốc, Chính quyền Biden tiếp tục kế thừa chủ trương cứng rắn và gây áp lực với Trung Quốc của Chính quyền Trump, trong đó có việc duy trì nhiều biện pháp mà Chính quyền Trump đã áp dụng với Trung Quốc như áp thuế nhập khẩu, trừng phạt doanh nghiệp Trung Quốc, kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu công nghệ cao và hạn chế nguồn vốn đầu tư của Mỹ vào thị trường và doanh nghiệp Trung Quốc… Chính quyền Biden cũng đẩy mạnh việc tham vấn và hợp tác với đồng minh và đối tác liên quan đến các quan tâm và thách thức chung liên quan đến Trung Quốc. Chủ trương và cách tiếp cận của Chính quyền Biden có khả năng sẽ dẫn tới xu thế tập hợp lực lượng và phân tách quyết liệt hơn giữa Mỹ và Trung Quốc thời gian tới trong các lĩnh vực như chuỗi cung ứng, công nghệ lưỡng dụng, tài chính  tiền tệ, y tế  giáo dục.

Xu thế cạnh tranh chiến lược Mỹ  Trung ngày một gia tăng khiến một số học giả nhận định phân tách giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới có thể sẽ dẫn tới hình thành hai tập hợp lực lượng hoặc hai phe trong một hình thái "Chiến tranh Lạnh kiểu mới". Không thể phủ nhận cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ  Trung giai đoạn hiện nay có một số đặc điểm khá giống thời Chiến tranh Lạnh Mỹ  Xô trước đây : Một là, tồn tại hai cường quốc cạnh tranh ngôi vị đứng đầu thế giới. Hai là, cạnh tranh không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế mà lan rộng sang nhiều lĩnh vực khác như chính trị, quân sự, an ninh, mô hình phát triển… Ba là, cạnh tranh dự báo sẽ diễn ra trong dài hạn và ngày càng quyết liệt. Bốn là, cả hai cường quốc đều tránh để xảy ra "xung đột nóng" hay đối đầu trực tiếp.

Tuy vậy, rất ít khả năng phân tách Mỹ  Trung sẽ diễn ra toàn diện hoặc mỗi cường quốc trở thành một cực trong hai hệ thống đối lập như thời Chiến tranh Lạnh. Tuy có xu thế gia tăng, song phân tách Mỹ – Trung dự báo sẽ chỉ xảy ra cục bộ trong một số lĩnh vực, vì một số lý do sau :

Thứ nhất, toàn cầu hóa kinh tế vẫn là một xu hướng lớn và lâu dài với nền tảng và động lực quan trọng tiếp tục được củng cố như sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ, sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu hợp tác giải quyết các thách thức toàn cầu… Xu thế toàn cầu hóa mọi mặt đời sống quốc tế khiến mức độ phụ thuộc lẫn nhau không chỉ giữa Mỹ và Trung Quốc mà cả giữa tất cả các nước với nhau trở nên cao độ. Ví dụ, trong lĩnh vực thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu được định hình trong nhiều thập kỷ qua tuy có thể bị gián đoạn ở một số mắt xích nhưng sẽ chỉ dẫn tới tái cơ cấu, không thể bị phá vỡ. Việc phân tách tuyệt đối theo ý muốn chủ quan của bất kỳ quốc gia nào đều khó có thể thực hiện được.

Thứ hai, cả Mỹ và Trung Quốc đều không chủ trương để xảy ra phân tách toàn diện do mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc hiện vẫn rất lớn [12], đồng thời hai bên cũng có lợi ích duy trì hợp tác trên một số lĩnh vực chủ chốt có cùng lợi ích. Nội bộ Mỹ và Trung Quốc đều có những nhóm lợi ích vận động duy trì hợp tác giữa hai cường quốc. Thỏa thuận thương mại giai đoạn một giữa Mỹ và Trung Quốc dưới thời Chính quyền Trump là minh chứng cho thấy tuy cạnh tranh là xu thế chủ đạo, song những luồng quan điểm ủng hộ can dự, hợp tác [13] vẫn có tiếng nói mạnh. Ngay cả dưới thời Tổng thống Trump khi mà cạnh tranh chiến lược Mỹ  Trung bị đẩy lên ở mức rất cao, thì Mỹ cũng chỉ chủ trương phân tách có chọn lọc, theo lĩnh vực, không chủ trương phân tách hoàn toàn. Chính quyền Biden sẽ phải cân nhắc về các hậu quả và chi phí của việc phân tách với Trung Quốc đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ, nhất là trong bối cảnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp và cản trở quá trình phục hồi của kinh tế Mỹ. Về phần mình, Trung Quốc cũng không muốn xảy ra phân tách trong các lĩnh vực mà Trung Quốc vẫn có nhu cầu tranh thủ Mỹ như thương mại, tài chính và công nghệ. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình [14] và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường [15] đều khẳng định Mỹ và Trung Quốc sau nhiều năm hợp tác đã gắn kết chặt chẽ ; việc phân tách là không thực tế, không thể xảy ra, và các nước đều không muốn xảy ra. Các biện pháp của Trung Quốc hiện chủ yếu nhằm củng cố năng lực tự chủ, tìm cách hóa giải sức ép và các đòn công kích từ Mỹ, và khi cần có thể chấp nhận nhân nhượng nhất định nhằm kéo dài giai đoạn "thời cơ chiến lược" để phát triển.

Thứ ba, tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế ngày nay không còn theo ý thức hệ, mà phát triển đa dạng, đan xen, căn cứ theo lĩnh vực lợi ích. Ngoài Mỹ và Trung Quốc, còn nhiều trung tâm kinh tế lớn khác có đan xen lợi ích, tùy thuộc chặt chẽ về nhiều mặt với cả Mỹ và Trung Quốc, nên không dễ để phân tách kinh tế thế giới thành các hệ thống biệt lập như trước đây. Một số đồng minh thân cận của Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn hết sức coi trọng và thúc đẩy hợp tác kinh tế  thương mại với Trung Quốc. Nhiều đồng minh NATO của Mỹ (Anh, Pháp, Ý…) vẫn hợp tác với Trung Quốc ở mức độ nhất định trong lĩnh vực 5G bất chấp sức ép từ Chính quyền Trump.

Kết luận

Cạnh tranh chiến lược là nguyên nhân căn bản dẫn tới tiến trình phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc sau bốn thập kỷ gắn kết kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Dịch Covid19 bùng phát và lan rộng trên toàn cầu cũng là một tác nhân quan trọng đẩy nhanh và làm sâu sắc hơn tình trạng phân tách Mỹ  Trung dưới thời Tổng thống Trump. Phân tách Mỹ  Trung hiện mới ở giai đoạn đầu, song đã diễn ra khá mạnh mẽ trong một số lĩnh vực như công nghệ, đầu tư, tài chính, và dự báo sẽ còn tiếp tục diễn biến phức tạp và có thể còn gia tăng thời gian tới, mặc dù cách tiếp cận của Mỹ trong cạnh tranh với Trung Quốc có thể có những điều chỉnh dưới thời Tổng thống Biden. Tiến trình phân tách giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới có tác động đa chiều to lớn, lâu dài và sâu sắc không chỉ đến tất cả các quốc gia mà còn cả đến hệ thống các thể chế, tổ chức, luật chơi và chuẩn mực toàn cầu được định hình từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay, trong đó mặt thách thức tỏ ra lớn hơn mặt cơ hội. Mặc dù tiến trình phân tách tạo ra áp lực chọn bên và bước đầu hình thành các tập hợp lực lượng rõ nét hơn xoay quanh hai cường quốc, song chưa có dấu hiệu cho thấy triển vọng phân tách toàn diện giữa Mỹ  Trung hay hình thành trở lại cục diện hai cực và phân tuyến rõ nét như thời Chiến tranh Lạnh Mỹ  Xô.

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược và phân tách Mỹ  Trung có chiều hướng tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp thời gian tới, nhiều quốc gia đều tỏ quan ngại về những tác động và hệ lụy đối với thế giới, nhất là khu vực Châu Á  Thái Bình Dương, đồng thời chủ động xây dựng các phương án ứng phó linh hoạt và lâu dài, tránh để rơi vào thế bị động hay bất lợi về chiến lược. Đa phần các nước đều chủ trương và theo đuổi chính sách cân bằng, thúc đẩy hợp tác với cả Mỹ và Trung Quốc trên các lĩnh vực cùng chung lợi ích, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hệ thống chính trị và con đường phát triển của nhau. Các cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế do ASEAN đóng vai trò trung tâm, tiếp tục được cộng đồng quốc tế coi trọng và thúc đẩy. Luật pháp quốc tế và chuẩn mực khu vực vẫn là nền tảng quan trọng, được các nước sử dụng và đề cao cả trong quan hệ song phương và xử lý các vấn đề khu vực và toàn cầu.

Thời gian tới, cộng đồng quốc tế, trong đó có Việt Nam, đều kỳ vọng hai cường quốc hàng đầu thế giới sớm ổn định quan hệ, thể hiện vai trò và đóng góp ngày một tích cực và có trách nhiệm hơn vào việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở Châu Á  Thái Bình Dương, giúp thế giới sớm vượt qua khủng hoảng Covid19, tiến bước vào một thập kỷ mới của hòa bình, ổn định, hợp tác và phồn vinh.

Mỹ Châu (Bộ Ngoại giao Việt Nam)

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 29/06/2021

Bài viết được xuất bản lần đầu trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (Học viện Ngoại giao, số 124 (tháng 3/2021). 

—————–

[1] Định nghĩa của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) về thuật ngữ "decoupling".

[2] "Total competition" – khái niệm được học giả Patrick Cronin (Trung tâm An ninh mới của Mỹ – CNAS) sử dụng để đánh giá hình thái cạnh tranh giữa hai cường quốc trên mọi lĩnh vực (kinh tế, quân sự, khoa học, văn hóa…) song không coi đối phương là "kẻ thù," không dẫn tới đối đầu.

[3] Quy mô GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 65% của Mỹ, chi tiêu quân sự thực tế đã lên khoảng 250 tỉ USD/năm, trong khi dưới thời Tổng thống Obama Mỹ liên tục cắt giảm ngân sách quốc phòng.

[4] Tăng thuế nhập khẩu, thuế chống phá giá và trợ cấp, áp hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật khác…

[5] Mỹ ban hành các luật FIRRMA, ECRA thắt chặt kiểm soát đầu tư của Trung Quốc Mỹ trong các lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là công nghệ cao.

[6] Quốc hội Mỹ giới thiệu Dự luật hạn chế dùng Quỹ lương hưu để đầu tư vào chứng khoán Trung Quốc.

[7] Đầu tư 29,1 tỉ USD cho Quỹ đầu tư Big Fund giai đoạn hai để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn. Thiết lập Sàn giao dịch cổ phiếu công nghệ Star Market.

[8] Đã có khoảng 22 Viện Khổng tử tại Mỹ phải đóng cửa dưới thời Chính quyền Trump.

[9] Bộ Ngoại giao Mỹ đưa 5 cơ quan báo chí lớn của Trung Quốc (Tân Hoa Xã, China Daily, People’s Daily, CGTN, China Radio International) vào danh sách "tổ chức nước ngoài" không được hưởng quyền lợi của một cơ quan báo chí, bắt buộc phải khai báo tài chính và hoạt động đầy đủ.

[10] Trung Quốc trục xuất ba nhà báo Mỹ do cáo buộc lợi dụng dịch Covid-19 viết bài sai lệch, mang tính phân biệt chủng tộc.

[11] Sharon Chen and Yinan Zhao, "Decoupling with U.S. Would Cut China’s Growth to 3.5%, say Study", Bloomberg, 3 September 2020, 

[12] Kim ngạch thương mại song phương Mỹ – Trung mỗi ngày đạt trung bình gần 2 tỷ USD, tương đương mức giao thương trong một năm giữa Mỹ và Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh.

[13] Cộng đồng doanh nghiệp, giới học giả, một số cựu quan chức Mỹ ; nhóm ủng hộ cải cách ở Trung Quốc.

[14] Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế St. Petersburg ngày 7/6/2019.

[15] Trả lời họp báo Chính phủ ngày 16/3/2019.

Tài liệu tham khảo

A. Tiếng Việt

1. Hoài Thanh. "Phân tách kinh tế Mỹ – Trung : Đe dọa đối lập với thực tế". Báo tin tức, 25/6/2020. 

2. Huy Sơn. "Phân tách Mỹ – Trung trong bối cảnh Covid-19 : Suy thoái toàn cầu là mối đe dọa lớn nhất". Thế giới và Việt Nam, 22/9/2020. 

3. Kim Đường. "Xu thế chia tách toàn diện Trung – Mỹ là không thể ngăn chặn". Trí thức Việt Nam, 1/9/2019. 

4. Mai Ngọc. "Virus corona đẩy nhanh tiến trình phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc". Thời báo Ngân hàng, 13/2/2020. 

5. Thái Văn Long. "Đặc điểm mới của cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung Quốc và đối sách của Việt Nam". Tạp chí Cộng sản, tháng 11/2020. 

B. Tiếng Anh

6. Bao Huaying. "Why US-China decoupling failed". GlobalTimes, 12 January 2020.

7. Blustein, Paul . Schism : China, America, and the Fracturing of the Global Trading System. Ontario, Canada : CIGI Press, 2019.

8. Browne , Andrew. "Bloomberg New Economy : For the U.S. and China, the Unthinkable May Be Inevitable". Bloomberg, 27 February 2021. 

9. Dupont, Alan. "US-China Decoupling and the Eve of Economic Destruction". Lowy Institute, 9 October 2020. 

10. Hoecker, Anne and Li, Shu and Wang, Jue. "US and China : The Decoupling Accelerates". Bain & Company, 14 October 2020. 

11. Hoecker, Anne and Wang, Jue and Li, Shu. "Preparing for US-China Decoupling". IndustryWeek, 9 November 2020. 

12. Inkster, Nigel. The Great Decoupling : China, America and the Struggle for Technological Supremacy. London : Hurst, 2021.

13. Johnson, Keith and Gramer, Robbie. "The Great Decoupling". Foreign Policy, 14 May 2020. 

14. Rachman, Gideon. "The Decoupling of the US and China Has Only Just Begun". Financial Times, 17 August 2020. 

15. Rosen, Daniel and Gloudeman, Lauren. "Understanding US -China Decoupling : Macro Trends and Industry Impacts". Rhodium Group, 17 February 2021. 

16. Segal, Stephanie. "Degrees of Separation : A Targeted Approach to U.S.-China Decoupling – Interim Report". CSIS, 3 February 2021. 

17. Weber, Isabella. "Could the US and Chinese economies really ‘decouple’ ?" The Guardian, 11 September 2020. 

Published in Diễn đàn

Châu Á - Thái Bình Dương : Mỹ tăng cường tên lửa để đối phó với Trung Quốc

Thanh Hà, RFI, 07/03/2021

Báo tài chính Nhật Bản Nikkei Asia hôm 05/03/2021 tiết lộ về kế hoạch Hoa Kỳ triển khai hệ thống tên lửa tấn công, trị giá hơn 27 tỷ đô la, nhằm đối phó với Trung Quốc tại Ấn Độ - Thái Bình Dương trong 6 năm sắp tới.

tenlua1

Quân đội Mỹ bắn thử hỏa tiễn chận tên lửa THAAD.  © Reuters/File Photo. Ảnh do bộ quốc phòng Mỹ cung cấp.

Bộ Chỉ huy Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ vừa đệ trình lên Quốc hội một kế hoạch đầu tư cho giai đoạn 2022-2027 tổng trị giá 27,4 tỷ đô la. Chỉ riêng cho năm tới, tài liệu này dự trù gần 5 tỷ đô la đầu tư nâng cao khả năng phòng thủ của Hoa Kỳ trong khu vực. Khoản tiền nói trên cao hơn gấp đôi so với tài khóa 2021. Theo Asia Nikkei, kế hoạch triển khai tên lửa nói trên là một trong những đề xuất chính của dự án mang tên Sáng Kiến Răn Đe Thái Bình Dương (Pacific Deterrence Initiative - PDI). 

Tài liệu được báo Nikkei Asia trích dẫn nhấn mạnh "mối đe dọa lớn nhất đối với Hoa Kỳ trong tương lai vẫn là sự suy yếu của hệ thống vũ khí quy ước mang tính răn đe. (...) Việc thiếu đi các vũ khí răn đe quy ước đủ vững chắc và đáng tin cậy khiến Trung Quốc sẽ có những hành động táo bạo hơn tại khu vực và trên toàn cầu, nhằm lấn át các quyền lợi của Mỹ".

Bộ Chỉ huy Ấn Độ - Thái Bình Dương kêu gọi triển khai một lực lượng liên quân, với mạng lưới tên lửa tấn công có độ chính xác cao được bố trí "dọc theo chuỗi đảo thứ nhất", phối hợp với hệ thống tên lửa phòng không trên "chuỗi đảo thứ nhì", việc phân bố lực lượng cần chú trọng khả năng "duy trì các hoạt động tác chiến trong thời gian kéo dài".

Báo tài chính Nhật cho biết cụ thể là "chuỗi đảo thứ nhất" trong khu vực Thái Bình Dương bao gồm từ Đài Loan đến đảo Okinawa (Nhật Bản) và quần đảo Philippines, tức khu vực mà Trung Quốc xem là tuyến phòng thủ thứ nhất. "Chuỗi đảo thứ nhì" ở bờ phía Tây Thái Bình Dương, trải dài từ khu vực miền đông nam Nhật Bản đến đảo Guam và miền nam Indonesia, là nơi Bắc Kinh đang tìm cách ngăn cản quân đội Mỹ tiếp cận. 

Phát biểu trước viện tư vấn American Enterprise Institute, tại thủ đô Washington, đô đốc Philip Davidson, người đứng đầu Bộ Chỉ huy Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định "sáu năm sắp tới"là giai đoạn Bắc Kinh muốn làm "thay đổi tình thế nguyên trạng trong vùng", đặc biệt có nguy cơ Trung Quốc tấn công Đài Loan. 

Báo Nikkei Asia nhắc lại Trung Quốc hiện đang nắm giữ 1.250 tên lửa tầm trung, có tầm bắn từ 500 km đến 5.500 km, được phóng đi từ đất liền. Trước đây Mỹ không thể triển khai loại tên lửa này, do bị trói tay vì Hiệp ước về tên lửa hạt nhân tầm trung (INF), ký kết với Nga. Tuy nhiên, Hiệp ước INF đã hết hạn năm 2019. 

Thanh Hà

Nguồn : RFI, 07/03/2021

**********************

Mỹ sẽ triển khai tên lửa chống Trung Quốc dọc theo chuỗi đảo thứ nhất

Ryo Nakamura, Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2021

Mỹ sẽ tăng cường khả năng răn đe bằng vũ khí thông thường chống lại Trung Quốc bằng cách thiết lập một mạng lưới tên lửa tấn công chính xác dọc theo cái gọi là "chuỗi đảo thứ nhất" như một phần của khoản chi 27,4 tỷ USD sẽ được xem xét cho chiến trường Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong sáu năm tới.

my1

Tàu tác chiến ven biển USS Gabrielle Giffords phóng tên lửa tấn công trong cuộc tập trận Pacific Griffin ở Biển Philippines. NSM là vũ khí tấn công chính xác, tầm xa được thiết kế để tìm và tiêu diệt tàu địch. (Ảnh do Hải quân Hoa Kỳ cung cấp)

Các khoản chi này sẽ là thành phần chính trong đề xuất thành lập Sáng kiến ​​Răn đe Thái Bình Dương mà B Tư lnh n Độ Dương Thái Bình Dương ca Hoa K đã đệ trình lên Quc hi.

"Mối nguy lớn nhất đối với tương lai của Hoa Kỳ tiếp tục là sự xói mòn khả năng răn đe thông thường", tài liệu cho biết. "Nếu không có biện pháp răn đe thông thường hiệu quả và mang tính thuyết phục, Trung Quốc sẽ càng được khuyến khích hành động tại khu vực và trên toàn cầu để lật đổ lợi ích của Mỹ. Khi cán cân quân sự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trở nên bất lợi hơn, Mỹ sẽ gánh thêm nhiều rủi ro có thể khiến các đối thủ tự tin đơn phương cố gắng thay đổi nguyên trạng".

Cụ thể, Sáng kiến kêu gọi "triển khai lực lượng tích hợp đa thành phần với các mạng lưới tên lửa tấn công chính xác ở phía tây Đường Chuyển ngày Quốc tế dọc theo chuỗi đảo thứ nhất, hệ thống tên lửa phòng không tích hợp ở chuỗi đảo thứ hai và một thế trận lực lượng phân tán mang lại khả năng duy trì sự ổn định, và nếu cần, phân phối và duy trì các hoạt động chiến đấu trong thời gian dài".

Chuỗi đảo thứ nhất bao gồm một nhóm các đảo bao gồm Đài Loan, Okinawa và Philippines, được Trung Quốc coi là tuyến phòng thủ đầu tiên. Chiến lược "chống tiếp cận/chống xâm nhập" của Bắc Kinh tìm cách đẩy lực lượng Mỹ ra khỏi Biển Đông và Biển Hoa Đông vốn nằm trong chuỗi đảo thứ nhất.

Trung Quốc cũng tìm cách ngăn không cho lực lượng Hoa Kỳ tiếp cận "chuỗi đảo thứ hai" ở Tây Thái Bình Dương, trải dài từ đông nam Nhật Bản đến đảo Guam và Indonesia ở phía Nam.

my3

Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đã đệ trình kế hoạch đầu tư cho năm tài khóa 2022 đến năm tài khóa 2027 lên Quốc hội trong tháng này.

Đối với năm tài khóa 2022, họ đã yêu cầu 4,7 tỷ đô la, cao hơn gấp đôi so với 2,2 tỷ đô la dành cho khu vực trong năm tài khóa 2021 và gần với khoảng 5 tỷ đô la mà Washington đã chi hàng năm để đối phó với Nga.

Tổng chi 27,4 tỷ đô la trong sáu năm tương đương mức tăng 36% so với chi tiêu được lên kế hoạch cho cùng giai đoạn tính đến năm tài khóa 2020, phản ánh sự báo động ngày càng tăng về hoạt động của Trung Quốc xung quanh Đài Loan và ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Trong một bài phát biểu tại Viện American Enterprise có trụ sở tại Washington hôm thứ Năm, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cho biết có những lo ngại về việc 6 năm tới là thời kỳ mà Trung Quốc có thể tìm cách thay đổi nguyên trạng khu vực, chẳng hạn như với Đài Loan.

Ông nói rằng có "một nhận thức cơ bản là giai đoạn từ nay đến năm 2026, trong thập niên này, là khoảng thời gian mà Trung Quốc đạt được sự vượt trội về năng lực, và khi Bắc Kinh có thể, họ sẽ chọn thay đổi hiện trạng khu vực bằng vũ lực".

"Và tôi sẽ nói rằng sự thay đổi hiện trạng đó có thể trở thành vĩnh viễn", ông nói.

Theo tài liệu, kế hoạch được cấu trúc để "tập trung nguồn lực vào các khả năng quân sự quan trọng nhằm răn đe Trung Quốc". "Các yêu cầu được nêu trong báo cáo này được thiết kế đặc biệt để thuyết phục các đối thủ tiềm tàng rằng bất kỳ hành động quân sự phủ đầu nào cũng sẽ quá tốn kém và có khả năng thất bại do (Mỹ) triển khai sức mạnh chiến đấu đáng tin cậy vào thời điểm khủng hoảng".

Đề xuất sẽ được theo sau bởi các cuộc thảo luận với các nhà lập pháp và với các quốc gia sẽ tham gia vào việc thực hiện đề xuất này. Trước đây, Trung Quốc đã phản đối nỗ lực của Mỹ nhằm thiết lập lá chắn tên lửa ở các nước đồng minh, đặc biệt là ở Hàn Quốc.

my2

Hai trực thăng tấn công AH-1W Super Cobra của Thủy quân lục chiến Mỹ bay qua Căn cứ Không quân Clark ở Philippines. Philippines là một phần của cái gọi là chuỗi đảo đầu tiên. (Ảnh do Bộ Quốc phòng cung cấp)

Mỹ có khoảng 132.000 quân đóng tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, theo sách trắng quốc phòng Nhật Bản.

Kế hoạch đầu tư lấy "mạng lưới tấn công chính xác, có khả năng sống sót cao dọc theo chuỗi đảo thứ nhất" làm yếu tố trung tâm. Điều này có nghĩa là Mỹ sẽ mở rộng sử dụng các khẩu đội tên lửa thông thường trên đất liền vì quân đội Mỹ đã loại trừ việc sử dụng đầu đạn hạt nhân trên các tên lửa tầm ngắn và tầm trung như vậy.

Chiến lược Trung Quốc của Mỹ từ lâu đã xoay quanh lực lượng hải quân và không quân. Trong cuộc Khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1996, Hoa Kỳ đã điều động hàng không mẫu hạm tới thể hiện sức mạnh quân sự áp đảo như một biện pháp răn đe.

Trung Quốc hiện nắm giữ một kho tên lửa đa dạng với mục tiêu ngăn chặn bước tiến quân sự của Hoa Kỳ trong chuỗi đảo thứ hai. Điều này đã làm cho chiến lược xoay quanh hải quân và không quân của Hoa Kỳ trở nên kém khả thi hơn.

Trung Quốc mạnh về tên lửa tầm trung, đặt trên đất liền. Theo Lầu Năm Góc, trong khi Trung Quốc nắm giữ một kho vũ khí gồm 1.250 tên lửa như vậy, Mỹ lại không có.

Khoảng cách này là do Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF), Hiệp ước cấm phát triển các tên lửa mặt đất có tầm bắn từ 500 km đến 5.500 km. Hiệp ước này hết hạn vào năm 2019.

"Hiệp ước INF đã bó buộc Hoa Kỳ một cách không cần thiết", Thượng nghị sĩ Jim Risch, thành viên cấp cao của Đảng Cộng hòa trong Ủy ban Đối ngoại Thượng viện nói với Nikkei trong một cuộc trả lời phỏng vấn bằng văn bản.

Risch cho biết việc triển khai các tên lửa tầm trung ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương "là một lĩnh vực đàm phán lớn và ngày càng cần thiết đối với Hoa Kỳ và Nhật Bản".

Một mạng lưới tên lửa đối phó với Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương "sẽ là một điểm cộng cho Nhật Bản", một quan chức cấp cao của chính phủ Nhật Bản cho biết. Quan chức này cũng nói Tokyo chưa thảo luận về một động thái như vậy với Washington.

Các lực lượng trên bộ, trên biển và trên không của Mỹ đồn trú tại Nhật Bản theo hiệp ước an ninh song phương của hai nước, buộc Washington phải bảo vệ Nhật Bản nếu nước này bị tấn công. Hiện có khoảng 55.000 lính Mỹ đóng tại Nhật Bản, là đội quân lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài.

Lực lượng Mỹ tại Nhật Bản hiện không duy trì các tên lửa có thể vươn tới Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã và đang xây dựng năng lực tên lửa tầm xa của riêng mình ở quần đảo Nansei, bao gồm cả đảo Okinawa.

Nhưng việc đặt tên lửa của Mỹ trên đất Nhật Bản sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì một động thái như vậy sẽ ảnh hưởng đến sự phân chia vai trò giữa quân đội Mỹ và Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, Tokyo và Washington sẽ cần thảo luận chi tiết về bất kỳ việc triển khai nào được đề xuất, bao gồm cả vị trí và tầm bắn của tên lửa.

Cơ hội có thể sẽ đến trong các cuộc đàm phán về hỗ trợ của Nhật cho lực lượng đồn trú của Mỹ từ năm tài khóa 2022 trở đi. Một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao cho biết "việc triển khai tên lửa có thể được thảo luận khi chúng ta nói về tiến trình của liên minh Nhật-Mỹ".

Việc Nhật Bản quyết định cho phép Mỹ triển khai tên lửa chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc tức giận, làm phức tạp thêm quan hệ ngoại giao giữa hai nước láng giềng vốn phụ thuộc nhau về kinh tế. Và Tokyo có thể sẽ vấp phải sự phản đối của địa phương nơi có các địa điểm triển khai tên lửa tiềm năng, bao gồm cả ở Okinawa, nơi tập trung khoảng 70% lực lượng Mỹ ở Nhật.

Các vấn đề về ngân sách cũng có thể phát sinh. Washington "có thể yêu cầu chúng tôi gánh vác việc bảo trì và các chi phí khác liên quan đến các tên lửa được triển khai ở Nhật Bản", một quan chức Bộ Quốc phòng cho biết.

Ryo Nakamura

Nguyên tác : US to build anti-China missile network along first island chain, Nikkei Asia, 05/03/2021

Phan Nguyên biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2021

Published in Diễn đàn

Những "di sản" của Trump mà Biden không thể gạt bỏ và 2 lựa chọn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

Phạm Quang Vinh, Tổ Quốc, 09/11/2020

Một trong số đó là cạnh tranh Mỹ - Trung sau 4 năm đã trở thành cạnh tranh chiến lược, không chỉ gói gọn trong khoa học công nghệ, ý thức hệ và chiến lược.

disan1 (2)

Cử tri hiện nay đã nhìn nhận về một giá trị rất khác, thực dụng hơn rất nhiều - Ảnh minh họa

Kỳ vọng cử tri thay đổi

Cuộc bầu cử này, cho thấy, một nước Mỹ vốn đã khác, nay càng thay đổi rất khác. Đó là một nước Mỹ vừa phân cực, phân hóa chính trị xã hội lại vừa chìm trong khủng hoảng đa chiều bao gồm cả khủng hoảng về y tế, khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội.

Với tư cách là Tổng thống mới của nước Mỹ, Joe Biden bắt buộc phải xử lý vấn đề cấp bách nhất và cũng là ưu tiên hàng đầu là vấn đề nội trị. Nhất là câu chuyện giải bài toán kiểm soát đại dịch, mở cửa phục hồi kinh tế, đi đôi với chuyện hàn gắn trở lại nước Mỹ đã phân cực rất nhiều.

Do vấn đề ưu tiên cấp bách là vấn đề nội trị nên ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại trong thời gian tới.

Nhìn chung, một nước Mỹ về mặt đối ngoại mà ta gọi là một nước Mỹ đã khác, là câu chuyện không chỉ của Donald Trump, mà là của Obama và sắp tới là của ông Biden.

Đó là, nước Mỹ ngày càng phải coi trọng kỳ vọng của cử tri. Mà cử tri hiện nay đã nhìn nhận về một giá trị rất khác, thực dụng hơn rất nhiều.

Cử tri nước Mỹ không nhìn nhiều vào giá trị nước Mỹ ở bên ngoài, mà tập trung vào lợi ích nước Mỹ, thoát khỏi đại dịch và phục hồi kinh tế.

Cho nên, một mặt nước Mỹ vẫn phải coi trọng lợi ích nước Mỹ, vẫn phải thúc đẩy các giá trị, vai trò toàn cầu của nước Mỹ nhưng cũng phải tiếp tục điều chỉnh theo xu hướng giảm chi phí, cam kết, can dự ở bên ngoài. Đó là xu hướng mà dù là Obama, Trump hay sắp tới là Biden cũng phải theo hướng đó.

Ngoài ra, Hạ viện khả năng của Dân chủ nhưng khoảng cách giữa Dân chủ và Cộng hòa thu hẹp lại. Còn Thượng viện khả năng vẫn do Cộng hòa nắm giữ. Mà Thượng viện quyết định rất nhiều chính sách đối ngoại và nhân sự đối ngoại của nước Mỹ. Trong khi Hạ viện lo ngân sách.

Thêm vào đó, Tòa án Tối cao nghiêng về bảo thủ, thiên Cộng hòa nhiều hơn. Cấu trúc quyền lực này buộc ông Biden không thể một mình làm được mà phải dàn xếp giữa 2 đảng Dân chủ, Cộng hòa ít nhất là trong thời gian trước mắt khi bắt đầu nhiệm kỳ.

Những di sản của ông Trump

Về mặt đối ngoại, Tổng thống Mỹ nào, đều phải tập trung vào lợi ích và vai trò toàn cầu của nước Mỹ. Trong bối cảnh nước Mỹ do thay đổi so sánh tương quan lực lượng, do nhu cầu nước Mỹ đã khác, khả năng nước Mỹ đã khác nên phải tiếp tục theo chiều hướng giảm cam kết, giảm chi phí đối với bên ngoài.

Trong khi đó, thế giới đã thay đổi lại càng thay đổi sâu sắc hơn sau đại dịch. Và tương quan so sánh trong cuộc cạnh tranh với các nước lớn khác cũng đã có thay đổi.

Trong khi nước Mỹ của ông Joe Biden vừa phải thúc đẩy lợi ích nước Mỹ thiết thực hơn, thúc đẩy vai trò toàn cầu, nhưng trong xu hướng giảm cam kết, ông sẽ phải tập trung vào cái gì ? Đấy là câu chuyện lớn mà ông Joe Biden sẽ phải thừa kế và xử lý.

Trong khi thúc đẩy lợi ích nước Mỹ và vai trò toàn cầu của Mỹ, Biden thúc đẩy nhiều hơn hệ giá trị, bao gồm dân chủ, nhân quyền, môi trường, biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, tiêu chuẩn lao động ; thứ 2 là khôi phục và tăng cường tham vấn với đối tác, đồng minh mà trước đây Trump sử dụng nhiều hơn câu chuyện song phương và có đi có lợi.

Trump sử dụng nhiều hơn câu chuyện song phương thì Biden nhấn vào đồng minh và đối tác, tức là kênh đa phương nhiều hơn

Cái nhìn thấy dễ nhất là Joe Biden sẽ quay trở lại ngoại giao truyền thống, dễ đoán định hơn Donald Trump. Hai việc Biden có thể làm ngay là quay trở lại Hiệp ước chống biến đối khí hậu Paris và quay trở lại WHO. 

disan2 (2)

Cái nhìn thấy dễ nhất la Joe Biden sẽ quay trở lại ngoại giao truyền thống, dễ đoán định hơn Donald Trump - Ảnh minh họa

Nhưng cũng có những việc sẽ phải tính toán. Đó là câu chuyện cạnh tranh nước lớn, trong đó có cạnh tranh Trung - Mỹ đã chuyển sang cạnh tranh chiến lược. Cái này không chỉ là di sản của ông Trump mà được sự đồng thuận của cả 2 đảng nước Mỹ.

Cạnh tranh Mỹ - Trung sau 4 năm đã trở thành cạnh tranh chiến lược và cạnh tranh cao hơn, không chỉ gói gọn trong khoa học công nghệ, ý thức hệ và chiến lược. Không chỉ do thay đổi nhận thức về Trung Quốc ở phía Mỹ mà còn nằm ở sự thay đổi của Trung Quốc, bỏ chính sách "ẩn mình chờ thời".

Ngoài ra, nước Mỹ với đồng minh không còn dễ dàng trong việc kiềm chế Trung Quốc nữa vì lợi ích của Mỹ và đồng minh ngày càng đan xen trong quan hệ với Trung Quốc. Vì vậy quan hệ Mỹ - Trung sắp tới tiếp tục là cạnh tranh chiến lược, vừa có hợp tác nhưng mặt cạnh tranh cũng gia tăng. Vậy thì ông Joe Biden sẽ phải quản trị quan hệ nước lớn, đặc biệt là quan hệ Mỹ - Trung vừa cạnh tranh nhưng vẫn hợp tác như thế nào ?

Một di sản nữa dưới thời Trump không chắc xóa bỏ được, dù không thích, hay có cách tiếp cận mới. Chẳng hạn tình hình Trung Đông, cục diện đã đặc biệt khác trong 4 năm qua. Việc tái thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Isreal với 1 số nước vùng Vịnh là không thể gạt bỏ được. Quản trị và điều chỉnh điều này với đảng Dân chủ không phải là dễ.

2 lựa chọn chiến lược với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cho ông Biden

Cái chung nhất của nước Mỹ, dù là dưới thời ông Donald Trump, hay trước đó là Obama và sau đây là Joe Biden thì, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực địa chiến lược của nước Mỹ, tiếp tục coi trọng, can dự và hợp tác sâu sắc với khu vực này.

disan3 (2)

Cái chung nhất của nước Mỹ, dù là dưới thời ông Donald Trump, hay trước đó là Obama và sau đây là Joe Biden thì, khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực địa chiến lược của nước Mỹ (Đại sứ Phạm Quang Vinh).

Nhưng trải qua đại dịch, nước Mỹ thay đổi, tình hình thế giới cũng thay đổi, quan hệ Mỹ - Trung đã thay đổi, đặt ra nhiều yếu tố mới mà Joe Biden phải đối diện.

Có 2 lựa chọn đã có : Đó là ở khu vực này, đã có Tái cân bằng của Obama, dựa trên cam kết và hợp tác của nước Mỹ ở khu vực, coi trọng quan hệ cả về kinh tế và an ninh, dựa trên quan hệ đồng minh và đối tác, trong đó có cả ASEAN và các đồng minh trong khu vực và quản trị quan hệ nước lớn.

Chính sách Tái cân bằng của ông Obama dựa trên Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm tạo ra chuỗi cung ứng và giá trị ở khu vực này ở chất lượng và tiêu chuẩn cao hơn, để định hình cả về địa kinh tế, địa chính trị ở khu vực, vừa thúc đẩy thịnh vượng khu vực nhưng đồng thời cũng để quản trị nước lớn. 

Thế nhưng nhìn lại nửa sau 2016, TPP đã không được người dân và chính trị Mỹ chấp nhận vì tính toán về chi phí và lợi ích của Mỹ. Nếu không phải là ông Trump chiến thắng mà là bà Hillary Clinton thì cũng khó có thể thông qua TPP. 

Vậy nếu như dưới thời ông Obama, Mỹ dựa rất nhiều vào TPP và hệ thống đồng minh và đối tác trong đó có ASEAN thì nay, TPP không được nước Mỹ chấp nhận, cái gì sẽ thay thế TPP để gắn kết địa kinh tế, địa chiến lược ?

Lựa chọn thứ 2 là chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng lớn và cởi mở dưới thời Tổng thống Trump. Hai chính sách này vẫn có điểm chung là lợi ích nước Mỹ, quan hệ với đối tác, đồng minh và quản trị nước lớn và trật tự dựa trên luật lệ.

Câu chuyện Châu Á - Thái Bình Dương được mở ra thành Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vẫn còn giá trị địa chiến lược của nó.

Trong thời gian vừa qua, Mỹ triển khai một loạt hoạt động gắn kết đồng minh với các đối tác, gắn kết chính trị, an ninh, trong đó có câu chuyện Biển Đông, cũng như gắn kết kinh tế, bắt đầu manh nha những dự án kinh tế, trong đó có đạo luật BUILD ACT, huy động ngân sách cả nhà nước cả tư nhân để đầu tư cho hạ tầng ở khu vực này, củng có quan hệ với các đồng minh nhưng cũng tạo ra sự chọn lọc và khác biệt với Vành đai - Con đường.

Nhưng câu chuyện này là của Donald Trump và đảng Cộng hòa, chưa chắc đã được thừa kế và ưa thích bởi Dân chủ và Biden.

TPP và QUAD : 2 điểm nhấn khác biệt giữa Biden và Trump

Khái niệm Bộ tứ (QUAD) được chính quyền Tổng thống Trump thúc đẩy trong thời gian vừa qua không phải vấn đề mới, từ thời Obama đã có nhưng Trump đẩy mạnh hơn ở mấy khía cạnh là duy trì hoạt động và tham vấn và đẩy lên cấp cao là cấp Bộ trưởng.

Khái niệm này dường như đã có sự đáp ứng nhất định của các nước trong QUAD, đặc biệt là Ấn Độ, Úc, Nhật, tạo ra vành đai không phải thuần túy để chống Trung Quốc mà tạo ra quản trị sự vươn lên của Trung Quốc nhưng không bất lợi cho các nước trong khu vực, không bất lợi cho bảo đảm trật tự dựa trên luật lệ.

disan4 (2)

Tạo ra vành đai không phải thuần túy để chống Trung Quốc mà tạo ra quản trị sự vươn lên của Trung Quốc nhưng không bất lợi cho bảo đảm trật tự dựa trên luật lệ (Đại sứ Phạm Quang Vinh)

Để bảo đảm trật tự dựa trên luật lệ mà các nước hợp tác cùng có lợi thì bất kỳ là Tổng thống nào cũng phải tạo được luật chơi mà dù nước lớn, nước nhỏ muốn hòa bình, ổn định và có lợi thì phải ủng hộ trật tự dựa trên luật pháp quốc tế, thúc đẩy khu vực dựa trên đa cực để các nước nhỏ có tiếng nói, gắn kết cả về kinh tế và địa chiến lược, đan xen lợi ích cùng có lợi, tận dụng cơ chế đa phương trong khu vực để dù có cạnh tranh, khu vực này cũng không bị bắt buộc chọn bên.

Nếu nhìn nhận Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương về mặt chiến lược được đa phần các nước ủng hộ nhưng thời Trump xử lý thiên quá nhiều về kiềm chế Trung Quốc nhưng không có cái gắn kết đồng minh ở đây, ngắm nhiều về chiến lược mà không có kinh tế.

Trong khi đó, Xoay trục của Obama và Biden lại dựa vào hợp tác và có phần chưa thể hiện được Mỹ có thể đi đầu trước những hành vi của Trung Quốc như vấn đề Biển Đông hay Mekong.

Như vậy, đây là 2 bài toán mà Biden phải điều chỉnh.

disan5

Đại sứ Phạm Quang Vinh

Nguồn : Tổ Quốc, 09/11/2020

**********************

Việt - Mỹ sẽ thúc đẩy hợp tác đa diện, giảm ảnh hưởng của Trung Quốc

Benoît de Tréglodé, N.T., RFI, 09/11/2020

Việt Nam đã trở thành một trong những đối tác quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á từ thời cựu tổng thống Barack Obama. Tổng thống Donald Trump đã thắt chặt và mở rộng thêm quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Trong nhiệm kỳ của tổng thống Mỹ thứ 46 Joe Biden, Việt Nam sẽ tiếp tục là đối tác chủ chốt trong chiến lược của Mỹ ở Châu Á.

disan6

Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tiếp đồng nhiệm Mỹ Mike Pompeo nhân chuyến công du Hà Nội của ông ngày 30/10/2020.  AP - Bui Lam Khanh

Tuy nhiên, người dân Việt Nam sẽ cần thêm một chút thời gian để hiểu hơn về ông Joe Biden, trái ngược với ông Trump rất nổi tiếng ở Việt Nam. "Lập trường đối đầu trực diện với Trung Quốc từ hai năm nay (của ông Trump) dĩ nhiên đã giúp Hà Nội đối thoại với Bắc Kinh ở tầm mức mà họ chưa từng có thể nghĩ đến", theo nhận định với RFI tiếng Việt của nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực Châu Phi - Châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Mối quan hệ Hà Nội - Washington sẽ như thế nào trong nhiệm kỳ sắp tới của ông Joe Biden ? RFI tiếng Việt lần lượt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Pháp Benoît de Tréglodé và N. T., một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt - Mỹ (qua thư điện tử).

Tiếp tục chiến lược an ninh Ấn Độ-Thái Bình Dương

RFI :Thưa nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, với chính quyền mới của Hoa Kỳ, liệu sẽ có thay đổi trong chính sách an ninh của Mỹ ở Châu Á, cũng như với Việt Nam ?

Benoît de Tréglodé : Một chính quyền mới đứng đầu nước Mỹ sẽ dẫn đến việc các nhân tố ở Châu Á, trước tiên là Trung Quốc, cũng như là Việt Nam và các quốc gia khác ở Đông Nam Á, một cách nào đó xem xét lại đối thoại và quan hệ đối tác với những nhà lãnh đạo mới của Mỹ. Dĩ nhiên là trong những tháng tới, đối thoại sẽ được nối lại, không tập trung và dựa trên những căng thẳng như trong những tháng gần đây dưới thời tổng thống Trump.

Tôi không nghĩ là chính quyền mới sẽ xem xét lại toàn bộ những hồ sơ chiến lược được thông qua dưới thời tổng thống Trump, trong đó có chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đây sẽ vẫn là đường lối trong chính sách quốc phòng của Mỹ ở Châu Á, trong đó có Đông Nam Á, nhưng đúng là có thể sẽ có nhiều đối thoại hơn, để Trung Quốc và Mỹ cùng làm việc với nhau và hiểu nhau hơn. Do đó, nếu nhìn theo quan điểm này, căng thẳng chắc sẽ giảm bớt trong những tháng tới ở Châu Á.

Về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sẽ không có việc xem xét lại hoàn toàn những nguyên tắc lớn đang chi phối quan hệ song phương. Năm 2020, Việt Nam và Hoa Kỳ kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Vấn đề Việt Nam vẫn thường được nhìn nhận, chú ý và đôi khi, theo một số người vẫn nói, bị khai thác trong mối quan hệ Mỹ-Trung.

Trong bối cảnh này, nếu Biden đi theo hướng giảm bớt căng thẳng với Trung Quốc, thì tất nhiên sẽ thấy được hệ quả trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng những bước tiến của Mỹ trong vấn đề bảo vệ tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế ở Biển Đông chẳng hạn, là những điều về cơ bản sẽ vẫn được theo đuổi, nhưng có thể với ngôn từ mang tính ngoại giao hơn một chút, hòa dịu hơn một chút. Chúng ta có thể trông đợi những thay đổi sâu sắc trong quan điểm của Mỹ về khu vực, trên thực tế không chắc rằng chính quyền mới sẽ có thể thay đổi bất cứ điều gì.

RFI :Có thể thấy là vấn đề nhân quyền tại Việt Nam ít được chú ý trong nhiệm kỳ tổng thống Trump để tránh cản trở những dự án hợp tác song phương, mà Trung Quốc là mục tiêu sâu xa. Vấn đề này sẽ được đề cập như nào trong chính quyền Joe Biden ?

Benoît de Tréglodé : Trong những năm gần đây, các nhà quan sát nhận thấy vấn đề nhân quyền không phải là một ưu tiên của chính quyền Trump. Những thách thức nằm ở chỗ khác. Chính những thách thức đó giúp Hoa Kỳ tập hợp quanh mình những quốc gia sẵn sàng ủng hộ chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương và hình thành mặt trận chung ở Châu Á chống Trung Quốc. Chắc chắn vấn đề nhân quyền không phải là ưu tiên lớn, ngoài Đối thoại Nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, mà cuộc họp gần đây nhất là vào tháng 10/2020.

Với chính quyền mới ở Mỹ, thông thường đảng Dân chủ vẫn được cho là có khuynh hướng thúc đẩy nhân quyền và dân chủ trên thế giới, nhưng cần nhắc lại là ưu tiên trước mắt của chính quyền mới sẽ là chính trị trong nước và tiếp tục các hồ sơ quốc phòng lớn trên thế giới. Do đó, tôi không chắc là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam trở thành một ưu tiên rõ ràng trong chính sách của Mỹ.

Mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực phi quân sự

RFI :N. T. là nhà nghiên cứu về quan hệ Mỹ-Việt được RFI tiếng Việt đặt câu hỏi qua thư điện tử. Ngoài vấn đề an ninh, tự do hàng hải ở Biển Đông, những lĩnh vực nào được Việt Nam quan tâm hợp tác với Mỹ ?

N. T. : Theo tôi, có hai lĩnh vực chính mà Việt Nam sẽ quan tâm hợp tác với Mỹ ngoài hợp tác an ninh hàng hải. Thứ nhất là quản lý nguồn nước ở sông Mêkông. Hiện nay, khu vực đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với tình trạng thiếu nước từ đầu nguồn và nước biển xâm nhập, với nguyên nhân chính là các hoạt động xây đập do Trung Quốc đầu tư ở thượng nguồn và biến đối khí hậu. Đây là một vấn đề cấp thiết đối với Việt Nam khi đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa chính, cung cấp sinh kế cho hàng chục triệu người.

Hợp tác trong lĩnh vực này có thể bao gồm hỗ trợ nông dân ứng phó với ngập mặn và thiếu nước từ thượng nguồn, chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững hơn, hỗ trợ nông dân tìm kiếm sinh kế mới… Ngoài ra, Việt Nam và Mỹ có thể hợp tác yêu cầu Trung Quốc cung cấp đầy đủ hơn thông tin về các hoạt động xây đập ở thượng nguồn và tác động của chúng đối với các quốc gia ở hạ nguồn như Việt Nam. Sáng kiến Quan hệ đối tác Mỹ-Mêkông đóng vai trò điều phối các hoạt động hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này.

Lĩnh vực thứ hai là cơ sở hạ tầng. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ, tạo sức ép rất lớn lên cơ sở hạ tầng vừa thiếu và vừa yếu. Nhu cầu này càng bức thiết trong bối cảnh ngày càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài chuyển dây chuyền sản xuất sang Việt Nam và Việt Nam cũng muốn đóng một vai trò lớn hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy Trung Quốc là nhà đầu tư cơ sở hạ tầng hàng đầu trong khu vực, Việt Nam tỏ ra thận trọng hơn với đầu tư trong lĩnh vực này của Trung Quốc, đặc biệt là các khoản đầu tư trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI). Nguyên nhân một phần vì lý do an ninh và một phần vì các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc thường vướng nhiều vấn đề như tiến độ thi công chậm, đội vốn và chất lượng công trình kém. Do đó, nếu chính phủ và các nhà đầu tư tư nhân của Mỹ đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này, đây là điều có lợi cho cả Việt Nam lẫn khu vực. Sự hiện diện của Mỹ, cùng cộng tác với Nhật Bản, sẽ đem lại nhiều lựa chọn cho Việt Nam và các nước trong khu vực, tránh tình trạng phụ thuộc vào một nhà đầu tư duy nhất mà có thể dẫn đến các nguy cơ cả về kinh tế và an ninh.

Các thỏa thuận hợp tác mới ký kết gần đây giữa Mỹ và Việt Nam về cải thiện hệ thống thông tin lưới điện, phát triển điện từ khí hóa lỏng (LNG) và xây dựng kho cảng chứa LNG cho thấy cả hai bên đều đang chú trọng tới lĩnh vực này.

RFI :Liệu "Mạng lưới Điểm Xanh" (Blue Dot Network, BDN) gồm Mỹ, Nhật Bản và Úc là một lựa chọn giúp Việt Nam đa dạng hóa đối tác cơ sở hạ tầng ? Liệu BDN có "cạnh tranh" được với các tập đoàn Trung Quốc khi phía Trung Quốc không đặt nhiều điều kiện để cho vay vốn ?

N. T. : Theo quan điểm của tôi, Mạng lưới Điểm Xanh (Blue Dot Network) không nhất thiết phải "cạnh tranh" với đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc. Trước hết đây là một sáng kiến đa phương nhằm chứng nhận các dự án cơ sở hạ tầng đảm bảo các điều kiện về minh bạch tài chính, phát triển bền vững và thân thiện với môi trường. Việc triển khai sáng kiến này vẫn đang diễn ra, vẫn còn nhiều câu hỏi như tiêu chí chứng nhận, giám sát cũng như các quốc gia nào có thể tham gia. Có thể coi sáng kiến Mạng lưới Điểm Xanh là giúp đem lại cho Việt Nam, cũng như các quốc khác trong khu vực, một lựa chọn nữa cho đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài đầu tư của Nhật Bản và Trung Quốc.

Một điều cần quan tâm là gần đây, nhiều dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc, nhất là các dự án thuộc sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích do không đáp ứng được các tiêu chuẩn minh bạch tài chính, phát triển bền vững và đem lại nhiều nguy cơ an ninh địa chính trị. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã hủy hoặc xem xét lại nhiều dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc đầu tư. Ví dụ, Miến Điện đã cho tạm dừng dự án đập thủy điện Myitsone vào năm 2011 và Malaysia đã hủy 3 dự án thuộc BRI vào năm 2018.

Như tôi đã nói ở trên, Việt Nam từ trước tới nay có cách tiếp cận khá thận trọng với đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc so với các nước khác trong khu vực. Do đó, tôi cho rằng Việt Nam sẽ duy trì cách tiếp cận này trong tương lai, nhất là với các dự án có tầm quan trọng về an ninh chiến lược.

RFI : Phải chăng Việt Nam muốn dần giảm bớt phụ thuộc vào Trung Quốc khi mở rộng hợp tác với Mỹ ? Việt Nam sẽ phải cân nhắc rủi ro như nào với Trung Quốc khi tăng cường hợp tác với Mỹ ?

N. T. : Việc Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ không nhất thiết chỉ vì lý do tránh sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Chính sách ngoại giao của Việt Nam luôn là duy trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Do đó, Việt Nam đã mở rộng và tăng cường hợp tác không chỉ với Mỹ, mà còn với các cường quốc khác trong khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và các nước khác ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Về những rủi ro Việt Nam có thể phải đối mặt với Trung Quốc khi mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ, điều này còn phụ thuộc vào bản chất của hoạt động hợp tác và tác động của nó tới lợi ích của Trung Quốc trong khu vực. Các rủi ro có thể bao gồm căng thẳng gia tăng trên Biển Đông và khả năng Trung Quốc đơn phương áp đặt một số biện pháp hạn chế trao đổi thương mại, như nước này đã làm đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây nhất là Úc.

Tuy nhiên, ngoại trừ tình hình căng thẳng trên Biển Đông, Việt Nam chưa phải đối mặt với các biện pháp hạn chế thương mại của Trung Quốc. Lý do thứ nhất là vì Việt Nam đã khéo léo xử lý quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc. Thứ hai là vì hợp tác Mỹ-Việt chủ yếu tập trung vào trao đổi thương mại song phương và các lĩnh vực phi quân sự. Tăng cường hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt trong giai đoạn gần đây cũng thiên về nâng cao năng lực an ninh hàng hải của Việt Nam, như tăng cường nhận thức khu vực trên biển (maritime domain awareness) và thực thi pháp luật trên biển (maritime law enforcement). Đây là những lĩnh vực hợp tác ít gây tranh cãi và giúp hai bên từng bước xây dựng lòng tin và sự hiểu biết về quan điểm của mỗi bên.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn hai nhà nghiên cứu N. T., chuyên về quan hệ Việt-Mỹ và Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Thu Hằng

Nguồn : RFI, 09/11/2020

***********************

Kỳ vọng gì ở Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ 2020 và bang giao Mỹ - Việt ?

BBC, 09/11/2020

Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ Việt Nam về an ninh, chủ quyền trên Biển Đông, đồng thời hỗ trợ tiến bộ cho Việt Nam về cả dân chủ, nhân quyền lẫn kinh tế và phát triển, là một số kỳ vọng được một số nhà quan sát thời sự, chính trị và bang giao Mỹ - Việt chia sẻ với BBC sau khi ông Joe Biden được loan tin thành Tổng thống đắc cử mới đây.

disan7

Thượng nghị sĩ Joe Biden trao đổi với nhân chứng chiến tranh, bà Kim Phúc, hôm 06/05/2003 tại Hoa Kỳ, sau một họp báo mà ông thuyết trình về bảo vệ phụ nữ, trẻ em trong chiến sự

"Chắc chắn rằng tôi cũng như rất nhiều người đã rất kỳ vọng, trước hết là đã mong muốn Tổng thống Donald Trump thắng cử lần này trong kỳ bầu cử 2020, nhưng trường hợp kết quả sau cùng cho thấy ông Donald Trump không thắng cử, thì một chính quyền Mỹ khác ngoài ông Donald Trump dù có lên cầm quyền ở Mỹ, thì tôi vẫn tin rằng đường lối của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc có lẽ vẫn còn tiếp tục", Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển từ Hà Nội nói với BBC hôm 08/11.

"Về nhận thức của mối nguy cơ, nguy hiểm của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ và an ninh quốc tế, khu vực, tôi nghĩ rằng nhận thức đó ở cả hai đảng lớn ở Hoa Kỳ cũng như ở các nhà lãnh đạo mới vẫn như nhau, tuy nhiên, tôi vẫn lưu ý rằng nếu không phải là ông Donald Trump lãnh đạo tiếp, thì rất có thể chính quyền khác, với một cách tiếp cận có thể nhẹ nhàng hơn với Trung Quốc, không quyết liệt và không quyết đoán như Tổng thống Donald Trump đã thể hiện và hành động, thì điều đó sẽ tạo điều kiện câu giờ về thời gian cho Trung Quốc để Trung Quốc mạnh mẽ lên hơn nữa và đó là một mối nguy đối với bang giao và an ninh quốc tế.

"Còn riêng đối với Việt Nam, tôi nghĩ dù bất kỳ chính quyền nào lên ở Mỹ tới đây, thì chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam cũng sẽ không thay đổi gì nhiều, tuy nhiên, có bước đi những bước mạnh mẽ hơn nữa hay không thì nó còn phụ thuộc vào mối quan hệ của chính quyền mới này, mà không phải là chính quyển của Tổng thống Donald Trump nữa, với Trung Quốc như thế nào.

"Có mạnh mẽ hơn với Việt Nam hay không, thì đó lại còn phụ thuộc vào yếu tố quan hệ của chính quy mới đó với Trung Quốc cụ thể như thế nào, họ xử lý vấn đề khủng hoảng ở Biển Đông ra sao và đấy là chính là cái mà có lẽ là tôi và cũng rất nhiều đồng nghiệp của tôi lo ngại", ông Hoàng Ngọc Giao, người cũng từng là Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói với BBC News tiếng Việt.

"Đề cao dân chủ và thúc đẩy hợp tác kinh tế rất quan trọng"

disan8

Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nâng ly chúc mừng trước bữa tiệc trưa với Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 07/7/2015 tại Washington, Dân chủ

Từ Hà Nội, Phó Giáo sư Nguyễn Hoàng Ánh, một chuyên gia trong lĩnh vực ngoại thương có nhiều năm giảng dạy tại các đại học ở Hà Nội và Việt Nam nói với BBC :

"Chúng tôi nghĩ là cũng mong Hoa Kỳ giữ được những giá trị như dân chủ và sẽ là thế lực đứng ra đảm bảo cho hoạt động dân chủ không bị gây quá nhiều khó khăn ở Việt Nam.

"Là một người nghiên cứu về kinh tế, chúng tôi rất mong mỏi quan hệ kinh tế Việt - Mỹ sẽ tiếp tục phát triển.

"Chúng ta biết hiện nay Mỹ là nền kinh tế đứng thứ nhất thế giới, nhưng đầu tư nước ngoài của Mỹ vào Việt Nam chỉ đứng thứ 11 và Mỹ cũng không phải là một đối tác thương mại lớn nhất.

"Đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam năm 2020, một điều mà mọi người không để ý, bởi vì mọi người thường nghĩ Mỹ gây khó khăn cho Trung Quốc thì Trung Quốc yếu đi, nhưng mọi người không hề theo dõi được rằng trong thời gian Mỹ gây khó khăn với Trung Quốc, thì thương mại của Trung Quốc vào Việt Nam lại tăng lên và vị thế của Trung Quốc ở Việt Nam lại tăng lên.

"Nói cách khác là sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc lại tăng lên nữa, cho nên điều mong mỏi của tôi là làm thế nào để cho Mỹ có thể phát triển một quan hệ thương mại lành mạnh với không chỉ Việt Nam mà với tất cả các nước trong khu vực", bà Hoàng Ánh nói với một hội luận Bàn tròn Thứ Năm của BBC News tiếng Việt.

Quan ngại nếu chính quyền Biden trở nên "mềm mỏng"

disan9

Có một số ý kiến đặt vấn đề và quan ngại liệu chính quyền sắp tới ở Mỹ có 'mềm mỏng' với Trung Quốc, điều có thể gây ra bất lợi cho Việt Nam, hay không

Từ Sài Gòn hôm 08/11, nhà báo tự do Sương Quỳnh nói với BBC :

"Quan hệ Việt - Mỹ trong 4 năm qua theo tôi không tiến bộ, rất mờ nhạt. Tổng thống Donald Trump còn áp thuế cho những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì đó là điểm lo chứ không có gì đáng mừng. Nhưng có lẽ do ông Trump dành tổng lực tấn công Trung Quốc quá nên cũng không chú ý gì đến Việt Nam mấy.

"Vừa qua Trung cộng đã lũng loạn thế giới, nhưng qua dịch virus Vũ Hán cũng làm các nước tỉnh ra. Để Trung cộng làm công xưởng sản xuất thuê cho các nước thì đã là phụ thuộc kinh tế, nên khi dịch xảy ra trở tay không kịp, thiếu thốn từ khẩu trang cho đến thiết bị y tế. Do đó nếu Tổng thống Donald Trump mà thắng cử và khống chế được Trung cộng thì sẽ ổn định kinh tế không chỉ ở nước Mỹ mà còn cho cả Thế giới.

"Nhưng nếu ông Biden thắng cử, với chính sách mềm mỏng, bắt tay với Trung cộng thì tôi e rằng Bắc Kinh sẽ có thêm sức mạnh. Và điều lo ngại nhất cho Việt Nam là Trung cộng sẽ chiếm lĩnh biển Đông, kinh tế VN vốn đã phụ thuộc vào Trung Quốc, tới đây có thể sẽ càng phụ thuộc hơn, trong khi ở nhiều nơi khác, Đài Loan, Hong Kong chẳng hạn, sẽ càng ngày càng nguy ngập nhiều hơn và có khả năng mất độc lập, tự chủ".

Cũng từ Sài Gòn, cùng hôm Chủ Nhật, cựu phóng viên và đạo diễn phim thuộc báo Thanh Niên, ông Trần Đình Thu nói với BBC :

"Nếu Ủy ban bầu cử quốc gia Hoa Kỳ tuyên bố ông Biden là tổng thống kế tiếp, có lẽ tôi hoàn toàn không có bất cứ sự mong đợi nào cho nước Mỹ và cho đất nước Việt Nam của tôi cả. Tôi tin rằng giai đoạn "Obama kéo dài" sẽ trở lại nước Mỹ và chẳng bao lâu nữa dân Mỹ sẽ phải đi học tiếng Trung quốc như ông Trump đã từng nói. Khi đó Chiến tranh thương mại với Trung quốc sẽ dịu dần rồi ngưng hẳn. Chính sách hòa hoãn với Iran, với Cuba, với Venezuela sẽ trở lại như thời Obama.

"Tôi không có kỳ vọng gì nếu ông Biden đắc cử cả. Không phải là tôi cực đoan nhưng quả thật cuộc bầu cử của nước Mỹ vừa qua thực chất là cuộc chọn lựa của người dân Mỹ để cho nước Mỹ trở nên vỹ đại hay là một nước Mỹ ngủ quên trước thời tổng thống Trump".

Giá trị biểu tượng của ngôi vị Tổng thống ở Mỹ "rất quan trọng"

Nêu quan điểm riêng tại hội luận Bàn tròn thứ Năm (05/11/2020) của BBC News tiếng Việt từ California, Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Hữu Liêm, đồng thời là một học giả về triết học, nhấn mạnh điều mà ông muốn bất cứ ai đắc cử cần thể hiện như một kỳ vọng :

"Biểu tượng ngôi vị Tổng thống ở Mỹ rất là quan trọng cho một số đông người và chính tôi cũng quan niệm như vậy.

"Là vì định danh và chức vụ Tổng thống Mỹ không phải chỉ là vấn đề chính sách mà thôi, mà còn là một biểu tượng và giá trị dân chủ, mà trong đó, định chế đó thiết lập một đầu cầu và một vai trò lãnh đạo cho thế giới trên phương diện đạo đức về chính trị.

"Nếu người Mỹ và đất nước Mỹ không còn uy tín để mà đại diện cho giá trị dân chủ, đa dạng và đa nguyên như hiện nay, mà nhất là vấn đề tôn trọng uy tín, danh dự của nhau, và nhất là trong hòa giải sự khác biệt, thì nước Mỹ sẽ đi vào những nguy khốn khác.

"Tôi cũng mong rằng nếu ông Biden đắc cử, có vẻ như ông Biden đang thắng thế, thì ông Biden cũng nên cẩn trọng, đừng có đi về phía bên tả quá nhiều để làm cho khối bên hữu, khối mà ủng hộ ông Trump, càng ngày càng bị giống như là đặt ra khỏi lề của xã hội, thành ra tất cả những cái đó tạo ra những cái phân cực càng lớn hơn nữa...

"Cá nhân ông Biden hay ông Trump chẳng qua chỉ là những biến số về nhân cách của con người mà thôi, nhưng mà có một nguyên lý thông suốt trong nền chính trị của Mỹ, đó là giá trị của con người và giá trị của định chế đại diện cho một giá trị lớn hơn mà văn minh nhân loại đang hướng đến.

"Thì tôi nghĩ là nước Mỹ dù dưới ông Trump hay ông Biden trong 4 năm tới đừng làm cho thế giới và nhất là những người như chúng ta thất vọng", Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Hữu Liêm nói với Bàn tròn của BBC.

Sẽ không có thay đổi gì lớn trong thời gian trước mắt ?

Trở lại với chính sách tới đây mà Hoa Kỳ có thể có liên quan bang giao Mỹ - Việt và an ninh Biển Đông, hôm 08/11, từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một sử gia và nhà phân tích chính trị, bang giao quốc tế, nói với một chương trình bình luận chuyên đề hậu Bầu cử Mỹ 2020 của BBC :

"Trong thời gian trước mắt, quan hệ của Mỹ với Việt Nam sẽ không thay đổi, đặc biệt là trong vấn đề quân sự và an ninh, bởi vì vấn đề này đã tiến triển từ lâu rồi.

"Về sau, về dài, nó sẽ có thay đổi, nhưng tôi nói về sau về dài là ít nhất 2 năm nữa.

"Lý do là bởi vì ông Joe Biden phải dọn "rác" ở nước Mỹ trước, rồi sau ông mới lo các vấn đề đối với nước ngoài.

"Việt Nam lẽ dĩ nhiên là một chỗ quan trọng, nhưng Việt Nam không phải là quan trọng nhất, nên tôi nghĩ đối với Việt Nam, quan hệ của Mỹ đối với Việt Nam vẫn tiếp tục như thế".

"Sẽ tụ hợp lại lực lượng và quan tâm Hiệp định xuyên Thái Bình Dương ?"

Từ tiểu bang Georgia, chính trị gia thuộc đảng Cộng hòa Mỹ, ông Vũ Nguyễn Bảo Kỳ bình luận :

"Trong 20/15 năm qua, từ thời của chính quyền của ông Bill Clinton mà có bình thường hóa quan hệ ngoại giao đối với Việt Nam, sự liên hệ giữa hai nước càng ngày càng tiến triển, riêng tôi, tôi đã thấy vào thời gian 2015, 2016, lúc chính quyền của ông Barack Obama đưa ra và cố làm sao thông qua được Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thì tôi đã đặt hy vọng làm sao Hoa Kỳ có thể lãnh đạo được một khối Châu Á - Thái Bình Dương để đối phó với Trung Quốc một cách mạnh mẽ hơn.

"Và riêng nguyện vọng của Hiệp định TPP lúc đó là để làm sao đẩy mạnh sự liên hệ mậu dịch của 12/13 nước, trong đó có ở vùng Đông Nam Á và đồng thời thúc đẩy đối sách của Hoa Kỳ với Trung Quốc, sau khi Hoa Kỳ rút ra khỏi TPP, tôi thấy nó tạo ra một số mâu thuẫn đối với một số nước như là Việt Nam đối với Trung Quốc còn hơn cả trước đây nữa.

"Là bởi vì Trung Quốc rất giỏi để chia rẽ mọi quốc gia khác nhau, và như là Đài Loan đã biết lâu nay là họ khó tạo ra tư thế, vị thế cho những nước nhỏ, nên tôi thấy như Giáo sư Ngô Vĩnh Long đã nêu, trong thời gian ngắn hạn, chính sách của chính quyền mới của ông Joe Biden sẽ không thay đổi đối với các nước ở Đông Nam Á.

"Và những tháng gần đây chính một số nhà cựu lãnh đạo quân nhân ở Bộ Quốc phòng Mỹ từ xưa đến nay và đồng thời một số nhân sự trong chính quyền từ thời ông George W. Bush qua đến những nhóm ủng hộ ông Mitt Romney và ông John McCain, họ chuyên là lãnh đạo gia của thành phần quốc phòng và quốc tế, đã có những lời ủng hộ vì họ thấy ông Biden là người đã tụ hợp thêm những người là những tiếng nói chung (hai đảng) mà có kinh nghiệm để đối phó với Trung Quốc và đối phó với những phe chống Hoa Kỳ và đồng thời chống lại khối dân chủ trên khắp thế giới".

"Không có Voi, bắt Lừa gánh thay và liệu có giữa đường đứt gánh ?"

Từ Hà Nội, ông Nguyễn Hữu Vinh, cựu Thiếu tá An ninh từng làm việc trong Bộ Công an Việt Nam, bình luận thêm với BBC :

"Nếu muốn đoán đường lối của ông Joe Biden thế nào, liên quan Việt Nam và Biển Đông, chúng ta cứ nhìn ngược lại chính quyền của ông Barack Obama.

disan10

Ông Joe Biden ngay sau cuộc phát biểu trước cử tri và quốc dân cả nước Mỹ từ Wilmington, tiểu bang Delawarey, trong buổi tối 07/11/2020 sau khi ông được truyền thông Mỹ loan bố thắng cử

"Và ông Biden có mặt trong đó và người ta nói rất ngắn gọn thôi là chính quyền của ông Obama là nhu nhược với Trung Quốc.

"Và thứ hai là liệu bây giờ ông Biden phải cố gắng hơn thời đó, hơn ông Obama không ?

"Thì đó là một câu hỏi và tôi xin nhắc lại là nếu như ông Joe Biden thắng thì thôi thì không có Voi, đành phải bắt Lừa vác nặng.

"Có nghĩa là ông Biden phải cố gắng để lãnh một gánh nặng của một con voi và có thể giữa chừng ông ấy bị đứt gánh", ông Nguyễn Hữu Vinh bình luận từ góc nhìn cá nhân, cùng tính cách quan điểm riêng như của các ý kiến khác ở trên khi các nhà bình luận trao đổi với BBC News tiếng Việt.

*********************

Đi s Shear : Vit Nam là đi tác mnh trong chính sách đi ngoi ca Biden

VOA, 09/11/2020

Gia lúc các nhà lãnh đo nhiu nước, trong đó có Anh, Pháp, Đc, Canada, n Đ, Đài Loan gi li chúc mng ông Joe Biden tr thành tng thng đc c ca M, nhiu người Vit Nam bày t trên mng xã hi rng h mun biết Vit Nam s có v trí thế nào trong chính sách đi ngoi ca ông Biden khi ông chính thc nm quyn.

disan11

Phó Tng thng M Joe Biden nâng cc vi Tổng bí thư Đng cộng sản Việt Nam Nguyn Phú Trng M hôm 7/7/2015

Nói vi VOA v vn đ này hôm 8/11, cu Tr lý B trưởng Quc phòng M, cu Đi s M ti Vit Nam David Shear nhn đnh rng Vit Nam là đi tác mnh trong chính sách ngoi giao ca ông Biden liên quan đến các vn đ Bin Đông, cnh tranh vi Trung Quc, nhân quyn và biến đi khí hu.

Chính sách đi ngoi ca ông Biden được trình bày trong s tháng 3/tháng 4 ca tp chí uy tín Foreign Affairs, khi ông còn là ng c viên tng thng ca đng Dân ch.

Theo tìm hiu ca VOA, bài viết dưới ta đ "Vì sao nước M phi lãnh đo tr li" ca ông Biden nêu ra ngh trình đi ngoi quan trng, tuy không nhc đến Vit Nam hay Bin Đông mt ln nào, song có 4 vn đ liên quan đến Vit Nam.

Dân ch, nhân quyn

Ông Joe Biden đt vn đ nhân quyn làm ưu tiên s 1 trong chính sách đi ngoi ca mình, theo bài viết ca ông trên Foreign Affairs.

"Trong năm đu tiên nm quyn, Hoa K s t chc và làm ch nhà mt Hi ngh Thượng đnh Dân ch toàn cu đ mang li sc sng mi cho tinh thn và mc đích chung ca các quc gia thuc thế gii t do", ông Biden viết.

Chính tr gia ca đng Dân ch cho hay trong chính sách đi ngoi ca ông, Hoa K s ưu tiên thúc đy các cam kết ca các quc gia trong ba lĩnh vc : chng tham nhũng, phòng v chng li ch nghĩa đc tài, và thúc đy nhân quyn các quc gia.

v trí ng c viên tng thng khi đó, ông Joe Biden ch trích chính quyn ca Tng thng Trump vì đã xem thường nhng người thuc phe dân ch trong khi công nhn các chính ph bt lương, tham nhũng.

disan12

Đi thoi Nhân quyn Vit Nam - Hoa K ln th 22 ti th đô Washington, Hoa K, ngày 17/5/2018. Twitter EAP US Department of State

So sánh 2 cách tiếp cn vi dân ch, nhân quyn gia ông Trump và ông Biden, cu Đi s M David Shear, mt quan chc thuc chính quyn thi Tng thng Obama, nói vi VOA :

"Tôi nghĩ có s khác bit to ln gia chính quyn ca ông Trump và chính quyn ca ông Biden v vn đ nhân quyn. Tôi tin chc rng khi ông Biden nm quyn tng thng, ông s khôi phc mi quan tâm ca M vào dân ch, nhân quyn, không ch M mà c nước ngoài. Ông s thc hin mt chính sách mnh m v vn đ này".

Cu Đi s Shear đim li rng dưới thi Tng thng Obama, M và Vit Nam có đi thoi rt xây dng v nhân quyn, và ông tiên liu dưới thi Tng thng Biden, hai nước cũng s tiến hành đi thoi mang tính xây dng tương t.

Cnh tranh vi Trung Quc

Nêu tm nhìn chiến lược v Trung Quc, ông Joe Biden viết trong s tháng 3/tháng 4 ca Foreign Affairs rng "Hoa K chc chn cn phi cng rn vi Trung Quc".

ng c viên ca đng Dân ch khi đó mà nay là tng thng đc c đánh giá nn kinh tế s 2 thế gii vi dân s 1,4 t người "là mt thách thc đc bit" đi vi M và đng minh.

Vì vy, ông Joe Biden xác đnh rng "cách tt nht đ x lý thách thc đó là xây dng mt mt trn thng nht bao gm các đng minh và đi tác ca M" đ đi đu vi Trung Quc, k c trong các vn đ v cách hành x xu và nhng vi phm nhân quyn ca Bc Kinh.

Cu Đi s M David Shear nhn xét rng thông đip k trên ca ông Biden th hin s nht quán ca chiến dch tranh c, nhn mnh đến vic M cn làm vic cht ch hơn vi các đng minh và đi tác, mà theo ông Shear, bao gm c Vit Nam. Ông Shear nói :

"Vit Nam chc chn là mt đi tác mnh. Tôi hình dung rng chính quyn mi [ca ông Biden] s mun tăng cường quan h song phương, cũng như m rng và cng c hp tác đa phương. Tôi nghĩ chính quyn mi s nhm đến làm vic cht ch hơn vi Vit Nam v mt ngoi giao c Hi ngh Thượng đnh Đông Á ln Din đàn An ninh Khu vc thuc ASEAN".

T kinh nghim khi gi chc v cp cao v ngoi giao ln quc phòng vào thi Tng thng Obama, ông Shear nói thêm vi VOA rng nếu ông là quan chc cp cao thuc chính quyn mi, ông chc chn s thúc gic tân tng thng tiếp cn vi Vit Nam và Đông Nam Á "càng sm càng tt".

Theo dõi dư lun trên mng xã hi, VOA nhn thy nhiu người Vit t ý lo ngi rng ông Biden trên cương v tng thng M s không cng rn bng Tng thng đương nhim Donald Trump trong vic đi phó vi Trung Quc, đc bit là trong vic chng Trung Quc đánh cp công ngh và thúc đy các công ty M ri khi Trung Quc.

V vn đ này, cu Đi s David Shear, cũng tng là cu Tr lý B trưởng Quc phòng M chuyên trách An ninh Châu Á-Thái Bình Dương, đưa ra nhn đnh vi VOA :

"Chính quyn ông Biden s tiếp tc nhiu vic ca chính quyn ông Trump đi vi kim soát công ngh, s cn thiết phi kim soát dòng chy công ngh sang Trung Quc. Có s đng thun mnh m gia các đng viên Cng hòa và Dân ch v vn đ này. Tôi nghĩ ta s thy Tng thng Biden s nhm đến tăng cường n lc ca M nhm ngăn chn Trung Quc đánh cp tài sn trí tu và làm biến cht mng internet".

Lưu ý rng bc tranh ln v quan h M-Trung là "va hp tác va đu tranh", song cu Đi s Shear tiên liu rng chính quyn ông Biden s nhn mnh vào phn u tranh" nhiu hơn.

disan13

Đi s M David Shear cùng các phóng viên Vit Nam ti tư dinh Hà Ni, theo dõi bu c tng thng M, 6/11/2012

n Đ Dương-Thái Bình Dương

Trong chiến lược ngoi giao mà ông Biden đăng lên tp chí Foreign Affairs, ông nói nước M s tái đu tư vào các đng minh theo hip ước gm Australia, Nht Bn và Hàn Quc, đng thi làm sâu sc thêm các quan h đi tác vi n Đ và Indonesia, nhưng không nhc đến Bin Đông.

Tt c các nước k trên đu trong khu vc có gn bó cht ch vi li ích ca M là n Đ Dương-Thái Bình Dương, cha đng c Bin Đông nơi M can d ngày càng nhiu trong nhng năm gn đây đ phn bác các yêu sách ch quyn b M gi là "phi pháp" và "quá đáng".

Cu Đi s Shear nói vi VOA rng vic Bin Đông không được đ cp không đng nghĩa là ông Biden xem nh tuyến đường thy chiến lược này :

"Tôi nghi ng chuyn chính quyn ông Biden li tng l Vit Nam và Bin Đông. Tôi nghĩ đó là vn đ quan trng đi vi h. Có th h s có cách tiếp cn hơi khác v vn đ này. Tôi d báo là Bin Đông, mi quan h vi các nước ASEAN có tuyên b ch quyn vùng bin, trong đó có Vit Nam s là điu quan trng đi vi chính quyn ca ông Biden".

Cu Đi s, cu Tr lý B trưởng Quc phòng M David Shear cho rng nhiu công vic t thi Tng thng Obama, khi ông Biden tham gia vai trò Phó Tng thng, s được tiếp tc trong thi gian sp ti khi ông Biden là tng thng M. Ông Shear nói thêm :

"V Bin Đông, tôi nghĩ tân Tng thng [Biden] s nhm đến tăng cường quan h ngoi giao và an ninh vi Vit Nam, đng thi cũng s tìm cách cng c quan h kinh tế".

Ông Shear tiên liu rng tính ni tiếp v chính sách còn được th hin qua vic nhiu kh năng là trong s nhng quan chc cao cp trong chính quyn ông Biden s có mt s khuôn mt quen thuc vi Vit Nam, là bn ca Vit Nam, như Tony Blinken, cu Th trưởng Ngoi giao ; Michelle Flournoy, cu Phó Tr lý B trưởng Quc phòng ; hay Susan Rice, cu Đi s M ti Liên Hip Quc.

Biến đi khí hu

Ông Joe Biden viết trên Foreign Affairs rng Hoa K phi lãnh đo thế gii đ đương đu vi mi đe da đến s sng còn ca con người là biến đi khí hu.

Ông cho biết vào ngày đu tiên nm quyn, ông s đưa nước M tham gia tr li vào Hip đnh Paris v khí hu và sau đó t chc cuc hp thượng đnh gm các nước phát thi CO2 nhiu nht trên thế gii, nhm đến vn đng các nước đt ra các mc tiêu tham vng hơn và đt nhiu tiến b hơn, vi tc đ nhanh hơn.

Bình lun v mi liên quan ca Vit Nam đến tm nhìn k trên ca người sp tr thành tng thng mi ca M, cu Đi s Shear lưu ý đến Đng bng Sông Cu Long ca Vit Nam là mt trong nhng nơi s chu nh hưởng nng n nht t tình trng nước bin dâng cao do biến đi khí hu.

Nước bin dâng cao và phn ln Đồng bằng sông Cửu Long s b ngp lt trong vòng 30-50 năm na, cu đi s M nhc li li cnh báo ca gii khoa hc, tiếp đến ông nhn đnh :

"Đó là điu s thu hút s quan tâm ca chính quyn ông Biden và s là mt lĩnh vc Vit Nam và M hp tác được vi nhau, tìm tòi xem hai bên có th làm gì cùng nhau đ gim nh tác đng ca biến đi khí hu, không ch Đồng bằng sông Cửu Long mà c các nơi khác ca Vit Nam và trong khu vc".

Hà Ni chưa chúc mng

Tính đến sáng 9/11, gi Hà Ni, Vit Nam chưa chính thc gi li chúc mng đến ông Joe Biden dù nhiu lãnh đo khác trên thế gii đã nhìn nhn ông là tng thng đc c ca M.

Trước đó, hôm 5/11, khi kết qu bu c M còn chưa rõ ràng, Phó Phát ngôn viên B Ngoi giao Vit Nam Dương Hoài Nam nói Hà Ni "tin tưởng rng Tng thng M nào cũng s ng h" mi quan h đã kéo dài 25 năm gia M và Vit Nam.

Ông Dương Hoài Nam cũng lp li khng đnh ca các lãnh đo Vit Nam gn đây rng "Vit Nam coi M là mt trong nhng đi tác quan trng hàng đu trên cơ s tôn trng đc lp ch quyn, toàn vn lãnh th và th chế chính tr ca nhau, cùng có li".

Nguồn : VOA, 09/11/2020

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2