Cứ sau mỗi cuộc bầu cử thì nước Mỹ lại rộ lên câu chuyện các tiểu bang muốn ly khai. Nhưng liệu điều này có thể xảy ra ?
Ly khai chẳng phải là chủ đề cấm kỵ, không được bàn đến trong lòng nước Mỹ.
Đầu năm 2017, trong một lớp học tiếng Anh tại Trường Cao đẳng cộng đồng Tacoma, có bài đọc hiểu cho sinh viên về việc chia tách ba tiểu bang xanh (bầu cho Đảng Dân chủ) là California, Oregon và Washington thành một nước Mỹ khác. Bài tập cho sinh viên sau bài đọc là hãy xây dựng thể chế chính trị, các chính sách về đối ngoại, y tế, giáo dục, quốc phòng, môi trường, các phúc lợi xã hội cho người dân… của "nước Mỹ" mới này.
Lúc đó vừa đến Mỹ không lâu, tôi nghĩ nước Mỹ thật kỳ lạ, chưa gì đã gieo mầm ly khai cho những người mới nhập cư.
Ở Việt Nam, điều như thế này là đại kỵ, không được phép nói đến, bàn thảo trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Ai bàn đến chắc chắn sẽ bị kết tội phản động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chính quyền nhân dân theo các điều luật được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Tháng 11/2016, cuộc bầu cử tổng thống diễn ra với chiến thắng tuyệt đối của Đảng Cộng hòa tại Nhà Trắng, Hạ viện và Thượng viện. Kết quả bầu cử năm 2024 này nhiều phần sẽ giống 8 năm trước.
Và cũng không ngạc nhiên khi chủ đề chia rẽ, ly khai lại được bàn đến nhiều hơn.
Có phải nước Mỹ nuôi dưỡng cho ly khai ?
Sự ly khai giữa các tiểu bang được bàn thảo một cách công khai, thậm chí có tổ chức hẳn hoi, bài bản để vận động cho ly khai. Và chính phủ từ cấp tiểu bang đến liên bang chưa xem đây là một mối đe dọa.
Phong trào Texas Nationalist Movement – vận động cho "nền độc lập hoàn toàn, toàn diện và không bị trói buộc về chính trị, văn hóa và kinh tế của Texas" – là một tổ chức như thế. Vừa qua, 10 người từng ký vào cam kết ủng hộ "Texas First Pledge", trưng cầu dân ý về việc tiểu bang Texas ly khai khỏi Hoa Kỳ, đã giành chiến thắng trong cơ quan lập pháp của tiểu bang tại cuộc bầu cử vào ngày 5/11. Cả 10 người này đã giành chiến thắng với tư cách ứng viên thuộc Đảng Cộng hòa.
Trước đó, sau cuộc bầu cử năm 2020 với chiến thắng của Joe Biden và Đảng Dân chủ tại hai viện Quốc hội, nước Mỹ lại rộ lên thông tin nhiều tiểu bang đỏ muốn tách ra để trở thành một nước Mỹ khác.
Sự chia rẽ trong nước Mỹ không chỉ ở những công dân bình thường mà còn ở những con người có vai trò quan trọng ở cấp liên bang.
Dân biểu Marjorie Taylor Greene thuộc Đảng Cộng hòa, trong một bài đăng trên tài khoản Twitter của bà (nay là X) vào tháng 2/2023, đã đưa ra thông điệp "Chúng ta cần một cuộc ly dị quốc gia. Chúng ta cần tách các tiểu bang đỏ, tiểu bang xanh và thu nhỏ chính quyền liên bang".
Ngay cả bà Nikki Haley, khi còn là chạy đua để trở thành ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa hồi đầu năm nay, đã nói rằng nếu tiểu bang Texas muốn ly khai, thì họ có quyền làm điều đó, nếu toàn bộ tiểu bang muốn.
Cuộc nội chiến trong lòng nước Mỹ từ 1861 – 1965, giữa 11 bang thuộc phe Liên minh miền Nam với phần còn lại của nước Mỹ, được gọi là liên bang miền Bắc, có nguyên nhân chính là do các bang miền Nam muốn tiếp tục chế độ nô lệ trong khi các bang miền Bắc muốn xóa bỏ.
Cuộc chiến mà người Mỹ gọi là "Civil War" kết thúc với chiến thắng thuộc về Liên bang miền Bắc. Chế độ nô lệ bị xóa bỏ trên khắp nước Mỹ sau cuộc chiến này.
Nhưng cuộc chiến đã khiến hơn 620.000 người Mỹ chết. Rất may là những trận đòn thù, trừng phạt, tù đày đã không xảy ra giữa bên thắng cuộc với bên thua cuộc. Đây là sự nhân văn, mở ra kỷ nguyên cho sự phát triển vượt bậc của Hoa Kỳ sau đó.
Cuộc nội chiến này là phép thử được trả bằng máu và nước mắt trong lòng nước Mỹ. Một bài học đắt giá cho một tiểu bang, hay một nhóm các tiểu bang tập hợp lại chống chính quyền liên bang bằng phương tiện bạo lực.
Nếu có một nỗ lực ly khai kiểu này trong tương lai, chắc chắn sẽ nhanh chóng bị chính quyền liên bang xem là chống lại Hoa Kỳ và có lý do chính đáng để dập tắt.
Điều này được giải thích rõ hơn thông qua một phán quyết của Tối cao Pháp viện vào năm 1868, trong vụ kiện gọi là vụ kiện gọi là Texas v. White. Theo đó, các tiểu bang không được phép ly khai khỏi liên bang.
Lằn ranh bảo thủ và cấp tiến
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, nước Mỹ không bị chia rẽ, đòi tách ra bởi nguyên nhân do sắc tộc, văn hóa, hay tôn giáo. Sự chia rẽ bắt nguồn từ những khác biệt về chính sách thuế, nhập cư, chăm sóc sức khỏe, môi trường và biến đổi khí hậu, quyền sinh sản của người phụ nữ, thực thi pháp luật, cam kết quốc tế… giữa bảo thủ và cấp tiến.
Cuộc khảo sát do tờ Newsweek đặt hàng Redfield & Wilton Strategies hỏi 1.500 người đủ điều kiện đi bầu trên khắp nước Mỹ công bố cuối tháng 2 năm nay cho thấy : Có 27% số người được hỏi ủng hộ Texas tách khỏi nước Mỹ; số người phản đối việc chia tách là 36%.
Còn tại tiểu bang California, cuộc khảo sát này cũng cho thấy, có 27% người Mỹ ủng hộ tiểu bang giàu mạnh nhất nước Mỹ trở thành quốc gia độc lập, 37% phản đối.
Một cuộc thăm dò khác của Bright Line Watch và YouGov, sau cuộc bạo loạn tấn công vào Điện Capitol ngày 6/1/2021 và được công bố vào tháng 6/2021, cho thấy một con số còn đáng lo lắng hơn, 66% người ủng hộ đảng Cộng hòa thuộc các tiểu bang miền Nam ủng hộ việc rời khỏi Hoa Kỳ và trở thành một quốc gia mới. Ở phía bờ Tây có đến 47% số người ủng hộ Đảng Dân chủ đồng ý chia tách.
Sự chia rẽ này không chỉ có trong những người ủng hộ Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ mà còn rất cao ở những người được xem là các cử tri độc lập.
Khi một tổng thống Cộng hòa ngồi trong Nhà Trắng và lưỡng viện Quốc hội cũng do đảng này kiểm soát, các tiểu bang Dân chủ sẽ cảm thấy mình bị trói buộc, các chính sách do họ gầy dựng, chú trọng không được tôn trọng, đảm bảo. Và khi Đảng Dân chủ nắm quyền thì người Cộng hòa cũng cảm thấy tương tự, dù luật lệ của các tiểu bang có sự khác biệt và có tính độc lập cao với luật lệ liên bang.
Sự chia rẽ trong lòng nước Mỹ dường như không được giảm nhẹ, mà còn tăng nhiệt trong gần chục năm qua. Điều này đặc biệt thấy rõ qua ngôn ngữ các ứng viên tổng thống của hai đảng và những người ủng hộ hai bên trong cuộc bầu cử vừa rồi. Đã có quá nhiều thông tin không đúng sự thật, hoặc được đẩy lên một cách quá đà, gây nên một nỗi sợ không đáng có.
Nếu năm 2016, nước Mỹ chọn Trump có thể du di hiểu là chọn nhầm. Nhưng lần này thì không thể ; 8 năm sau, dân Mỹ không thể gọi chưa hiểu Donald Trump, khi quá nhiều thông tin về ông đã được phơi bày trên các phương tiện truyền thông, qua cách ông làm việc, nói năng và chính sách…
Kết quả bầu cử vừa rồi thấy một nước Mỹ vẫn chưa đủ cởi mở để chấp nhận những điều được xem cấp tiến hơn, biến đổi khí hậu còn bị xem nhẹ, lối suy nghĩ cũ chưa thể chia tay. Một nước Mỹ đang muốn co cụm trong chính mình, thay vì mở ra như từng thể hiện trong suốt gần 80 năm qua.
Nước Mỹ trong bốn năm tới dưới quyền của Tổng thống Donald Trump sẽ được hàn gắn, hay chia rẽ càng nới rộng thêm khoảng cách ? Để trả lời câu hỏi này phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và hành động của chính quyền mới.
Nhưng khi ông Donald Trump còn chưa ngồi vào Nhà Trắng, thống đốc các tiểu bang Dân chủ đã công khai tìm cách chống lại những chính sách của chính quyền liên bang của Donald Trump để bảo vệ tiểu bang của họ. Nổi bật nhất là quyền của người phụ nữ, theo đuổi luật lệ bảo vệ môi trường để làm chậm lại quá trình biến đổi khí hậu, bảo vệ các gia đình có yếu tố nhập cư… Thậm chí các tiểu bang còn chuẩn bị nguồn lực để sẵn sàng kiện chính quyền liên bang trong tương lai.
Võ Ngọc Ánh
Nguồn : BBC, 11/11/2024
Tác giả Võ Ngọc Ánh đang sinh sống tại thành phố Tacoma, tiểu bang Washington.
Cuộc tranh luận giữa các ứng viên phó tổng thống JD Vance của Đảng Cộng hòa và Tim Walz của Đảng Dân chủ đã diễn ra trong bầu không khí tương đối kiềm chế, tập trung vào các vấn đề mà cử tri Mỹ quan tâm hàng đầu trước thềm cuộc bầu cử ngày 5/11/2024.
Cuộc tranh luận vào tối 1/10 (sáng 2/10 tại Việt Nam) không giống các cuộc tranh luận tổng thống trước đó giữa ông Joe Biden và ông Donald Trump hồi tháng Sáu và sau đó là giữa bà Kamala Harris và ông Trump vào tháng Chín.
Trong hơn 90 phút tranh luận trực tiếp trên sân khấu của đài CBS News ở New York, hai ứng viên phó tổng thống dành thời gian để công kích ông Trump và bà Harris, người đồng hành của đối phương thay vì nhắm vào nhau.
Ông Walz, người được bà Harris chọn làm phó tướng, đã có một khởi đầu khó khăn nhưng sau đó đã thể hiện tốt khi nói về vấn đề phá thai và cuộc bạo loạn ở Điện Capitol.
Tuy nhiên, cuộc tranh luận có phần ôn hòa, tập trung vào chính sách, với ít đòn công kích chính trị, có lẽ mang lại lợi thế cho JD Vance - phó tướng của ông Trump và là một diễn giả lão luyện trước công chúng.
Nếu ông Vance được ông Trump chọn vì mang lại chiều sâu tư tưởng cho chủ nghĩa dân túy bảo thủ của ứng viên Đảng Cộng hòa, thì trong cuộc tranh luận hôm 2/10, ông cũng đã thể hiện một bộ mặt lịch sự và khiêm tốn cho điều đó.
“Những người này thường đưa ra rất nhiều tuyên bố rằng nếu Donald Trump trở thành tổng thống, sẽ có nhiều hậu quả khủng khiếp xảy ra,” ông JD Vance phát biểu. “Nhưng thực tế là, Donald Trump đã từng là tổng thống. Khi đó, lạm phát thấp. Lương thực lĩnh cao hơn.”
Có những lúc ứng cử viên Đảng Cộng hòa tỏ ra khó chịu vì những gì ông cho là kiểm chứng thông tin không công bằng từ hai người điều phối của đài CBS, và tại một thời điểm, micro của cả hai ứng cử viên đều bị tắt tạm thời.
Nhưng phần lớn thời gian, các cuộc tranh luận trên sân khấu đều diễn ra một cách ôn hòa.
Và có một vài khoảnh khắc, hai phó tướng đã nhất trí về các vấn đề - và đã nói ra điều đó.
“Có rất nhiều điểm chung ở đây,” ông Walz nói vào cuối buổi tranh luận.
Khi ông Walz nói về việc cậu con trai 17 tuổi của ông từng chứng kiến một vụ xả súng tại một trung tâm cộng đồng, ông Vance tỏ ra thực sự lo lắng.
“Tôi rất tiếc về điều đó và tôi hy vọng cậu ấy ổn,” ông nói. “Lạy Chúa, thật kinh khủng.”
Thân thiện - nhưng có vài xung đột
Những bất đồng gay gắt nhất diễn ra vào cuối cuộc tranh luận, liên quan đến việc ông Trump lặp đi lặp lại tuyên bố sai sự thật rằng ông đã bị đối thủ “đánh cắp” chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2020.
Khi được hỏi liệu ông Trump có thua cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất không, ông Vance đã né tránh câu hỏi và chỉ trích điều mà ông gọi là sự kiểm duyệt của bà Kamala Harris.
Đối thủ Tim Walz nhanh chóng chỉ ra rằng đó là một "câu trả lời không thỏa đáng".
"Việc phủ nhận những gì đã xảy ra vào ngày 6/1/2021, lần đầu tiên một tổng thống Mỹ hoặc bất kỳ ai cố gắng đảo ngược một cuộc bầu cử, điều này phải chấm dứt," ông Walz nói. "Điều đó đang làm đất nước chúng ta tan rã."
Ông Walz tiếp tục nói rằng lý do duy nhất khiến Mike Pence, cựu phó tổng thống của ông Trump, không có mặt trên sân khấu lần này là vì ông Pence đã chứng nhận chiến thắng của Tổng thống Joe Biden.
Ông Vance không trả lời câu hỏi đó, nhấn mạnh rằng mặc dù ông có vẻ thân thiện và dễ chịu, nhưng ông sẽ không tách rời khỏi quan điểm của ông Trump.
Hai phong cách khác nhau
Hai phó tướng JD Vance và Tim Walz bước vào cuộc tranh luận này với những kỹ năng khác nhau. Ông Vance đã có kinh nghiệm tranh luận với các phóng viên trên truyền hình trong những cuộc trao đổi căng thẳng. Trong khi đó, ông Walz lại khá thoải mái, sử dụng lối diễn đạt dân dã để tạo sự khác biệt với những chính trị gia bóng bẩy hơn.
Vào đầu cuộc tranh luận, cả hai ứng cử viên đứng sau bục phát biểu trong trường quay ở thành phố New York, ông Vance có vẻ thoải mái hơn nhiều. Câu trả lời của ông trôi chảy và luôn đúng trọng tâm, liên tục nhắc nhở khán giả rằng với tất cả những lời hứa của Phó Tổng thống Kamala Harris, Đảng Dân chủ đã nắm giữ Nhà Trắng trong ba năm rưỡi qua.
"Nếu Kamala Harris có những kế hoạch tuyệt vời như vậy về cách giải quyết các vấn đề của tầng lớp trung lưu, thì bà ấy nên thực hiện ngay bây giờ," ông nói.
Về phần mình, ông Tim Walz có vẻ ngập ngừng và không chắc chắn trong phần mở đầu, khi đề cập đến cuộc tấn công bằng tên lửa của Iran vào Israel hôm 1/10 và liệu các ứng cử viên có ủng hộ một cuộc tấn công phủ đầu của Israel vào các cơ sở hạt nhân của Iran hay không. Thống đốc bang Minnesota hiếm khi nói về chính sách đối ngoại, và sự khó chịu của ông về vấn đề này được thể hiện rõ ràng.
Ứng viên của Đảng Dân chủ đã dần ổn định hơn khi cuộc tranh luận tiếp diễn, và trong các cuộc trao đổi với ông Vance về chủ đề nhập cư - một lĩnh vực là thế mạnh của Đảng Cộng hòa - cả hai đều đưa ra những thông điệp sắc nét.
Ông Vance đã bác bỏ những cáo buộc rằng ông đã khuếch đại những tuyên bố sai sự thật về việc người nhập cư Haiti ăn trộm và ăn thịt thú cưng ở bang Ohio.
"Những người mà tôi lo lắng nhất ở Springfield, Ohio là những công dân Mỹ có cuộc sống đã bị các chính sách biên giới của Kamala Harris hủy hoại," ông nói.
Ông JD Vance cho biết tình trạng nhập cư không có giấy tờ gây ra gánh nặng cho các nguồn lực của thành phố, đẩy giá cả lên cao và đẩy tiền lương xuống thấp.
Trong khi đó, ông Tim Walz chỉ ra sự phản đối của ông Trump đối với luật nhập cư lưỡng đảng được đề xuất vào đầu năm nay.
“Tôi tin rằng Thượng nghị sĩ Vance muốn giải quyết vấn đề này, nhưng khi đứng về phía Donald Trump và không cùng nhau tìm ra giải pháp, vấn đề này sẽ trở thành chủ đề bàn tán, và khi trở thành chủ đề bàn tán như thế này, chúng ta sẽ biến những người khác thành kẻ xấu và mất nhân tính.”
Hai ứng viên phó tổng thống có phong cách trái ngược nhau. Getty Images/ BBC
Khi chủ đề chuyển sang quyền phá thai – một lĩnh vực mà theo các cuộc thăm dò là thế mạnh của Đảng Dân chủ – thì ông Vance là người phải phòng thủ, thừa nhận rằng Đảng Cộng hòa phải làm nhiều hơn nữa để giành được lòng tin của cử tri Mỹ.
"Tôi muốn chúng ta, với tư cách là một Đảng Cộng hòa, trở thành đảng ủng hộ gia đình theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này,” ông nói. "Tôi muốn chúng ta tạo điều kiện giúp các bà mẹ đủ khả năng sinh con dễ dàng hơn. Có rất nhiều điều chúng ta có thể làm trong lĩnh vực chính sách công chỉ để mang đến cho phụ nữ nhiều lựa chọn hơn."
Ông Walz phản bác bằng cách nói rằng quan điểm của Đảng Dân chủ về quyền phá thai rất đơn giản : "Chúng tôi ủng hộ phụ nữ. Chúng tôi ủng hộ quyền tự do đưa ra lựa chọn của riêng bạn."
Nếu ông Walz có phần nhấn mạnh hơn về vấn đề phá thai, ông đã không đẩy mạnh công kích khi chủ đề chuyển sang kiểm soát súng.
Sau khi ông Vance nói rằng điều quan trọng là phải tăng cường an ninh trong trường học, làm cho cửa ra vào và cửa sổ "chắc chắn hơn", ông Walz đã nói về việc kiểm tra lý lịch thay vì ủng hộ các yêu cầu của Đảng Dân chủ về việc cấm vũ khí tấn công và các hạn chế khác đối với súng.
Trong tư cách là một nghị sĩ, ông Walz đã thường xuyên bỏ phiếu ủng hộ quyền sở hữu súng và phản đối nhiều biện pháp kiểm soát súng, giành được lời khen ngợi của Hiệp hội Súng trường Quốc gia Mỹ (NRA).
Trong cuộc tranh luận, ông Walz cho biết quan điểm của ông về kiểm soát súng đã thay đổi sau vụ xả súng tại trường học Sandy Hook năm 2012, nhưng một số đảng viên Dân chủ có thể thất vọng vì ông không gây sức ép nhiều hơn với ông Vance.
Tranh luận phó tổng thống có ảnh hưởng đến cuộc đua tổng thống không?
Lịch sử chính trị Mỹ cho thấy các cuộc tranh luận phó tổng thống không thực sự quan trọng.
Năm 1988, ứng viên Đảng Dân chủ Lloyd Bentsen đã đánh bại ứng viên Đảng Cộng hòa Dan Quayle. Vài tháng sau, ông Quayle tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống sau khi đảng của ông giành chiến thắng áp đảo.
Có thể cuộc tranh luận này cũng không có ý nghĩa nhiều đối với kết quả của cuộc bầu cử tháng 11. Tuy nhiên, trừ khi có một cuộc tranh luận bất ngờ vào phút chót, thì đây sẽ là lần cuối cùng mà cả hai đảng có cơ hội tranh luận trước ngày bầu cử.
Ông Walz không làm tổn hại đến số phiếu của Đảng Dân chủ và thể hiện một số sức hấp dẫn miền Trung Tây vốn đã khiến ông trở thành lựa chọn của bà Harris.
Nhưng màn trình diễn mạnh mẽ của ông JD Vance có khả năng sẽ tiếp thêm sức mạnh cho Đảng Cộng hòa trong những ngày tới.
Và tác động lâu dài của cuộc tranh luận có thể là thuyết phục các thành viên trong Đảng Cộng hòa rằng thượng nghị sĩ mới 40 tuổi của bang Ohio có một tương lai trong đảng chính trị bảo thủ quốc gia, với khả năng truyền đạt rõ ràng các ưu tiên tư tưởng của họ trên các sân khấu lớn nhất.
Anthony Zurcher, BBC, 02/10/2024
Khi chính phủ Mỹ không có tiền trả lãi và vốn từ các món nợ cũ thì Công khố phiếu Mỹ sẽ mất giá trị, hậu quả dây chuyền sẽ lan ra cả thế giới.
Chuyện vỡ nợ có thể xảy ra nếu Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy (trái) không thỏa thuận được với nhau.
Chỉ có hai quốc gia hạn chế quyền vay nợ của chính phủ, là Hoa Kỳ và Đan Mạch
Quốc hội biểu quyết số nợ tối đa, chính phủ không được vay nhiều trên cái "Trần Nợ" này. Nhưng cái Trần Nợ ở Đan Mạch rất cao, đến năm 2010 chính phủ suýt đụng đầu, quốc hội bèn nâng lên cao gấp đôi. Một số nước không ấn định số tiền tối đa mà chỉ đòi tổng số nợ thấp hơn một tỷ lệ so với Tổng Sản Lượng Kinh tế. Thí dụ, Ba Lan không cho phép số nợ cao hơn 60% GDP ; nước Đức đặt giới hạn dưới một phần ba GDP.
Chỉ có chính phủ Mỹ cứ mấy năm lại phải xin quốc hội nâng cái Trần Nợ lên cao một chút để được phép đi vay thêm. Khi Tòa Bạch Ốc và Quốc hội do hai đảng khác nhau kiểm soát thì thế nào cũng tranh cãi gay go ; như hiện nay, năm 2023.
Quốc hội là cơ quan quyết định ngân sách của nhà nước, từ chi phí quân sự đến các chương trình y tế, giáo dục, xã hội, vân vân. Muốn có tiền, chính phủ đánh thuế ; nếu số thuế thu không đủ tiêu thì đi vay. Chính phủ Mỹ mỗi tuần đều bán công khố phiếu (thường gọi tắt là Treasuries) thu tiền vào, tức là vay nợ những người mua công trái. Trong các nước với nền kinh tế lớn, chính phủ Nhật Bản nợ nhiều nhất, so với Sản Lượng Quốc gia, GDP. May mắn cho hai nước Nhật và Mỹ là họ vay nợ người trong nước nhiều nhất, số nợ người nước ngoài không đáng kể. Tức là tiền từ túi người dân được gửi cho chính phủ xài, coi như để dành, cho vay lấy lãi.
Chính phủ Mỹ đã đụng đầu vào "trần" từ tháng Giêng năm 2023, khi số nợ lên tới $31.4 ngàn tỷ đô la. Bộ Tài Chánh không được vay nữa, phải "du di" các món chưa dùng trong ngân sách để xài tạm vào các mục đã hết tiền. Nhưng từ đầu tháng Sáu, sẽ bắt buộc phải vay nợ thêm mới có tiền chi tiêu. Ngoài những món tiền trả lương cho nhân viên công chức, quân đội, các nhà cung cấp, vân vân, chính phủ còn phải trả tiền lãi các món nợ cũ. Trong ba tháng đầu năm nay riêng số tiền lãi đã lên tới một ngàn tỷ đô la ! Nếu không thanh toán được thì chính phủ bị "vỡ nợ".
Chuyện đó có thể xảy ra nếu Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy không thỏa thuận được với nhau. Ông McCarthy, đảng Cộng Hòa, đòi chính phủ phải cắt bớt chi tiêu thì Hạ viện mới nâng trần nợ. Ông Biden, Dân Chủ, nói hãy nâng cái trần lên trước, chuyện ngân sách chi tiêu những gì sẽ bàn sau. Cho tới nay, hai bên vẫn không chịu thỏa hiệp, chưa ai tỏ ra mình lo lắng chuyện nước Mỹ có thể bị "vỡ nợ".
Lần sau cùng ngân sách chính phủ Mỹ cân bằng, không cần đi vay, là thời Tổng thống Bill Clinton. Nhờ vừa tăng thuế vừa cắt bớt các phụ cấp xã hội, ông Clinton để lại một ngân sách thặng dư ; tổng số nợ quốc gia chỉ có 5,8 ngàn tỷ đô la, bằng 55% Tổng sản lượng nội địa. Năm 2022, tổng số nợ lên tới 120% GDP. Vẫn thấp hơn Nhật Bản, số nợ của chính phủ lớn bằng 226% GDP.
Từ năm 2001 đến giờ, số nợ của chính phủ Mỹ đã tăng hơn bốn lần, 445%. Vì chi phí tăng do hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, bệnh dịch Covid-19, hai lần cắt thuế của Tổng thống George W. Bush, một lần cắt do Tổng thống Donald Trump. Tổng thống Barack Obama vay nợ nhiều nhất, 8,3 ngàn tỷ đô la trong 8 năm trời, Tổng thống Trump đứng hạng nhì, trong bốn năm vay 8,2 ngàn tỷ đô la.
Tại sao hiện nay Joe Biden Kevin McCarthy không thể thỏa hiệp ?
Ông McCarthy cần phải tỏ ra cứng rắn đối với ông Joe Biden để bảo vệ vai trò của mình. Đảng Cộng Hòa đang chiếm đa số ở Hạ viện nhưng chỉ cần bị 5 người bất tín nhiệm là ông McCarthy sẽ không đủ phiếu làm chủ tịch nữa. Có mấy chục dân biểu Cộng Hòa không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào với một tổng thống đảng Dân Chủ
Ông Joe Biden cũng không thể nhường. Vì ông McCarthy muốn giảm bớt chi tiêu bằng cách xóa bỏ nhiều chương trình của ông Biden mà quốc hội cũ đã thông qua, khi đảng Dân Chủ còn chiếm đa số ở Hạ viện. Đó là các món tiền để khuyến khích đầu tư vào các năng lượng sạch, hoặc tăng ngân sách sở thuế IRS để thêm người kiểm tra các đại gia tỷ phú, có thể thâu thêm được hàng trăm tỷ và tiền thuế một năm.
Ngoài ra, ông Biden còn rút kinh nghiệm những năm ông làm phó tổng thống, cũng đụng độ về trần nợ với quốc hội do đảng Cộng Hòa chiếm đa số.
Năm 2011, đảng Cộng Hòa kiểm soát Hạ viện đã không chịu nâng trần nợ. Chủ tịch John A. Boehner, giống ông McCarthy bây giờ, cũng không thể thuyết phục các bạn đồng đảng chấp nhận thỏa hiệp. Gần đến ngày chính phủ hết tiền, Công ty Standard & Poor, lần đầu tiên trong lịch sử, quyết định hạ thấp mức tín nhiệm của công trái Mỹ. Sau cùng ông Obama chịu thua, cắt các món chi tiêu $2.4 ngàn tỷ và không tăng thuế các nhà tỷ phú nữa. Nhưng chính phủ tốn thêm $19 tỷ mỹ kim vì phải đi vay với lãi suất cao hơn bình thường vì mức tín nhiệm bị giảm.
Trong cuộc tranh cãi về trần nợ năm 2013, Obama mới được tái cử không nhượng bộ nữa, cuối cùng Hạ viện Cộng Hòa chịu thua, vì dư luận dân chúng không chấp nhận quốc gia bị vỡ nợ.
Nếu năm nay hai bên cứ giằng co, đưa nước Mỹ đến cảnh lo vỡ nợ thì có những hậu quả nào ?
Kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới sẽ lao đao
Hệ thống tài chánh thế giới đang nhìn Công khố phiếu Mỹ như món đầu tư an toàn nhất, vì ai cũng "biết" chính phủ Mỹ không bao giờ vỡ nợ ! Trong thị trường, tổng số công khố phiếu Mỹ trị giá 24 ngàn tỷ đô la. Các quỹ hưu bổng, các công ty bảo hiểm và ngân hàng đều đầu tư vào Treasuries để được an toàn ; nhất là khi cần bán lấy tiền mặt thì luôn luôn có người sẵn sàng mua.
Khi chính phủ Mỹ không có tiền trả lãi và vốn từ các món nợ cũ thì Công khố phiếu Mỹ sẽ mất giá trị, hậu quả dây chuyền sẽ lan ra cả thế giới. Mấy tháng trước, ngân hàng Silicon Valley Bank sụp đổ, kéo theo vài ngân hàng nhỏ khác, chỉ vì số Công khố phiếu họ làm chủ giảm giá trị, sau khi Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) tăng lãi suất để chống lạm phát.
Những nước giữ Công khố phiếu Mỹ làm dự trữ ngoại tệ sẽ thấy chính họ mất tiền. Đồng đô la Mỹ cũng tụt giá theo vì giá trị đồng bạc một phần dựa trên nhu cầu của người nước ngoài muốn có đô la để mua Công khố phiếu Mỹ. Cổ phần, chứng khoán của các công ty Mỹ cũng tụt giá khi đồng đô la giảm giá trị.
Khi đô la đi xuống, hàng nhập cảng vào nước Mỹ sẽ tăng giá, mà dân Mỹ không thể nào ngưng nhập cảng những món hàng họ không còn muốn sản xuất nữa. Những chi phí để duy trì các căn cứ quân sự Mỹ ở nước ngoài sẽ cao hơn, có thể phải rút bớt về.
Dù sau cùng trần nợ được nâng lên, nước Mỹ không bị vỡ nợ, thì riêng mối lo chuyện đó có thể xảy ra cũng khiến chính phủ Mỹ phải trả lãi suất cao hơn trước ; chi phí tiền lãi sẽ tốn kém hơn, ngân sách nhà nước sẽ khiếm hụt nhiều hơn.
Không ai muốn nước Mỹ phải những tai họa trên ; nhưng chưa ai chịu nhường bước. Chính phủ Biden muốn giảm bớt số nợ bằng cách tăng thuế trên 0,1% đến 1% những người lợi tức cao nhất ; với triển vọng sẽ giảm bớt khiếm hụt ngân sách được 3 ngàn tỷ mỹ kim trong 10 năm tới. Đảng Cộng Hòa muốn tiếp tục cắt thuế cho những người đó, khi đạo luật cắt thuế thời Tổng thống Trump hết hiệu lực vào năm 2025.
Thực ra, ông Biden và đảng Dân Chủ có thể tránh cuộc khủng hoảng về trần nợ này, nếu họ hành động sớm. Sau khi đảng Cộng Hòa chiếm được đa số ở Hạ viện, tháng 11 năm 2022, cho đến giữa tháng Giêng năm 2023, đảng Dân Chủ vẫn kiểm soát cả hai viện quốc hội. Nếu muốn, họ có thể bỏ phiếu nâng trần nợ trong thời gian đó, cho phép chính phủ Biden đi vay thêm, cho tới năm 2024.
Nhưng đảng Dân Chủ đã không làm như vậy. Có lẽ họ tính toán rằng một cuộc khủng hoảng về trần nợ năm nay sẽ làm giảm uy tín của các đại biểu Cộng Hòa, có lợi cho đảng Dân Chủ trong mùa bầu cử năm 2024 ! Ông Biden đang bắt đầu đi thăm các đơn vị bầu cử đã bầu cho đại biểu quốc hội Cộng Hòa năm ngoái, để than phiền về trần nợ !
Năm 2011, Nghị sĩ Mitch McConnell, Cộng Hòa, Kentucky, đã đề nghị Quốc hội hãy trao cho vị tổng thống thẩm quyền nâng trần nợ. Quốc hội chỉ có thể bác bỏ quyết định đó với 2 phần ba số phiếu. Đề nghị này chắc sẽ được các nghị sĩ hâm nóng lại trong thời gian tới !
Ngô Nhân Dụng
Số dân Mỹ tin tưởng vào Tổng thống Joe Biden đã giảm xuống tới mức ngang với cựu Tổng thống Donald Trump khi ông còn tại chức. Ngoài những vấn đề chính như vụ rút quân khỏi Afghanistan, biến thái Delta khiến bệnh dịch Covid-19 trầm trọng hơn, ông Biden còn mất uy tín khi chịu bó tay không thúc đẩy được quốc hội thông qua các dự luật chi tiêu của chính phủ. Nhiều đại biểu Hạ viện thuộc đảng Dân chủ đã ngăn cản. Họ được được là "nhóm cấp tiến" hoặc nặng hơn, là "phe cực đoan".
Muốn các tiểu bang khác cũng đi tìm "thuốc chữa" thì chính người dân phải tạo áp lực trên các nhà chính trị. Thế nào rồi người dân cũng hành động !
Có hai dự luật quan trọng trong chương trình của chính phủ Biden. Thứ nhất là dự luật xây dựng Hạ tầng Cơ sở, chi tiêu 1 ngàn tỷ mỹ kim. Thứ nhì là dự luật lớn hơn, chi 3,5 ngàn tỷ mỹ kim mà đảng Cộng Hòa và một số nghị sĩ Dân chủ coi là nhiều quá.
Thượng viện đã thông qua Dự luật Hạ tầng Cơ sở, được cả 19 nghị sĩ Cộng hòa ủng hộ. Nếu tất cả các đại biểu Dân chủ chiếm đa số ở Hạ viện đồng ý, chỉ cần Tổng thống Biden ký là dự luật này thành sự thật, đánh dấu một thành công lớn cho đảng Dân chủ và ông tổng thống. Dân biểu và nghị sĩ cả hai đảng đều có thể coi đó là một thành tích có thể đem khoe với cử tri của mình, khi người dân thấy các đường xá, cầu cống được tu chỉnh, hệ thống dẫn điện mạnh hơn, các làng xóm xa xôi cũng có internet, và rất nhiều người có việc làm.
Bà Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ viện đã hứa hẹn như vậy. Nhưng rất nhiều đại biểu Dân chủ trong Hạ viện không chịu. Họ muốn cả hai dự luật phải được thông qua, nếu không thì họ cũng không ủng hộ dự luật thứ nhất. Vì trong dự luật 3,5 ngàn tỷ mỹ kim có nhiều khoản chi tiêu cho các chương trình xã hội cấp tiến, như trợ cấp cho trẻ em, trông con giúp các bà mẹ đi làm, giáo dục miễn phí. Đó là những chương trình đã được áp dụng tại tất cả các nước Châu Âu tiến bộ, Canada, Australia, vân vân.
Những đại biểu "cấp tiến" không muốn bỏ phiếu thuận cho Dự luật Hạ tầng Cơ sở. Họ lo rằng nếu luật đó thông qua rồi thì chính trong đảng Dân chủ sẽ có nhiều người muốn cắt bớt các món chi tiêu trong số 3,5 ngàn tỷ mỹ kim trên, và chính ông Biden sẽ chịu thua. Đảng Dân chủ đang chiếm đa số rất mỏng manh. Chỉ cần một nghị sĩ hoặc 5 dân biểu Dân chủ không ủng hộ là các dự luật sẽ không đủ phiếu thông qua. Phe "cấp tiến" muốn chính họ dùng áp lực đó trước phe "ôn hòa !"
Không biết trong thời gian tới ông Biden và bà Pelosi sẽ "thuyết phục" các đại biểu Dân chủ cấp tiến như thế nào ! Nhưng đây là một hiện tượng diễn ra trong cuộc sống chính trị nước Mỹ, bên trong cả hai đảng. Mỗi đảng Cộng hòa hay Dân chủ đều có một nhóm đại biểu "cực đoan, không thỏa hiệp".
Những đại biểu gọi là "cấp tiến" trong đảng Dân chủ phần lớn trẻ tuổi, những người coi là "ôn hòa" già hơn. Những người trẻ vận động giỏi hơn, đáp ứng đúng các khát vọng của cử tri theo hướng cực đoan hơn. Những người lớn ôn hòa không được họ ủng hộ. Những người cấp tiến thì chỉ muốn làm vừa ý "quần chúng cơ bản" của mình.
Năm 2008, ông Barack Obama trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên. Một đợt sóng các chính trị gia Cộng Hòa trẻ tuổi trong phong trào Tea Party đã dấy lên, thay thế những người lớn tuổi và ôn hòa trong đảng. Đảng Cộng Hòa chiếm Hạ viện sau cuộc bầu cử năm 2010’ và chiếm Thượng viện năm 2016.
Năm 2013, một vấn đề bất đồng ý kiến mạnh nhất giữa hai phe Cộng Hòa già và trẻ là bản dự luật ngân sách, trong đó có chi phí cho chương trình y tế của chính phủ, thường gọi là Obama Care. Phe kỳ cựu chấp nhận thỏa hiệp nhưng phe trẻ chống Obama Care đến cùng, vì "quần chúng cơ bản" của họ muốn như vậy. Phe trẻ thắng, chính phủ không có ngân sách lại phải đóng cửa. Các dân biểu "cấp tiến" trong đảng Dân chủ đang "bảo vệ lập trường" cũng cứng rắn như vậy.
Vì đâu có những nhóm đại biểu cực đoan, không thỏa hiệp, nằm trong mỗi đảng ? Một lý do là cách phân chia những đơn vị bầu cử Hạ viện tại các tiểu bang. Khi một đảng nắm quyền ở Nghị viện tiểu bang, họ cắt, chia các đơn vị bỏ phiếu với chủ ý bảo đảm trong các đơn vị đó cử tri của mình chiếm đa số. Công việc này, người Mỹ gọi là "gerrymandering" vì nó khiến cho hình dạng các đơn vị bầu cử méo mó, lằng ngoằng, giống như hình vẽ con kỳ đà ! Tạm dịch là "kỳ đà hóa !"
Với thủ đoạn "gerrymandering", các đảng có thể bảo đảm phe mình sẽ luôn luôn thắng trong nhiều đơn vị. Họ chỉ cần vận đồng các cử tri "quần chúng cơ bản" của đảng mình, để được đưa ra tranh cử, sau đó là "ăn chắc !" Số các đơn vị "ăn chắc" này ngày càng nhiều hơn, số đơn vị "nghiêng ngửa", có khi bầu cho đảng này, có khi bầu đảng khác, ngày càng bớt đi.
Theo nhà báo Gerald F. Seib, trên Wall Street Journal ngày 4 tháng 10 năm 2021 thì năm 1997 có đến 164 trong số 435 đơn vị tranh cử Hạ viện Mỹ thuộc loại "nghiêng ngửa", không chắc đảng nào thắng. Năm nay, chỉ còn 78 đơn vị được coi là "nghiêng ngửa". Nghĩa là tổng số dân biểu "ăn chắc" của hai đảng đã tăng lên tới 357 ghế.
Muốn thắng tại các đơn vị "nghiêng ngửa", thì các ứng cử viên phải tỏ ra ôn hòa, để thu hút cử tri thuộc cả hai khuynh hướng, Cộng Hòa hoặc Dân chủ. Còn những đại biểu "ăn chắc" thì chỉ cần "phục vụ" cho các cử tri riêng của họ mà thôi. Nếu họ tỏ ra thỏa hiệp với "phe địch" thì còn có thể bị "quần chúng cơ bản" chống, các người cùng đảng sẽ nhảy ra giành chỗ !
Hiện nay những đại biểu "cực đoan", "không thỏa hiệp" trong cả hai đảng đều đại diện cho các đơn vị "ăn chắc".
Dân biểu Marjorie Taylor Greene, C.huyện , tiểu bang Georgia đại diện cho một đơn vị có cử tri đa số Cộng Hòa cao hàng thứ 12 trong cả nước. Bà Pramila Jayapal, D.C., tiểu bang Washington đại diện cho một vùng mà tỷ số cử tri bầu tổng thống cho đảng Dân chủ gấp rưỡi tỷ lệ trên toàn quốc, trong cả hai cuộc bầu cử 2016 và 2022.
Có phương thuốc nào để chữa trị "căn bệnh" này không ?
Phải thay đổi luật bầu cử. Đặc biệt, phải ngăn chặn thủ đoạn "kỳ đà hóa", (gerrymandering). Việc này rất khó vì hiến pháp Mỹ dành quyền tổ chức bầu cử cho các tiểu bang.
Các tiểu bang như Washington, California, đã đặt ra những luật bầu cử để giảm bớt ảnh hưởng của các củ tri cực đoan. Luật cho phép mọi người đều được tham dự các cuộc bỏ phiếu sơ bộ, không phân biệt đảng chính trị. Hai người nhiều phiếu nhất sẽ ra tranh cử với nhau. Các tiểu bang Alaska và Nebraska cũng mới làm luật tương tự, riêng Alaska cho 4 người tranh giải chót thay vì 2 người. Những phương pháp bầu sơ bộ kiểu này sẽ khuyến khích cử tri đi bỏ phiếu nhiều hơn. Và trong cuộc tranh đua, những ứng cử viên cực đoan sẽ không được đa số ủng hộ !
Muốn các tiểu bang khác cũng đi tìm "thuốc chữa" thì chính người dân phải tạo áp lực trên các nhà chính trị. Thế nào rồi người dân cũng hành động !
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 11/10/2021
Dịch Covid-19 không có dấu hiệu thuyên giảm ở Hoa Kỳ, quốc gia bị tác động nặng nhất thế giới. Ngày 01/01/2021, Mỹ đã vượt ngưỡng 20 triệu ca nhiễm và hơn 346.000 người chết vì virus corona.
Hy vọng miễn dịch được đặt trọn vào chiến dịch tiêm chủng khởi động từ ngày 14/12/2020. Tuy nhiên, với gần 3 triệu người được chích mũi đầu tiên, chiến dịch tiêm chủng không đạt tiến độ theo mong muốn là 20 triệu người trong vòng hai tuần cuối năm 2020.
Theo AFP, thành phố Los Angeles, đông dân nhất Hoa Kỳ, cũng là một trong những ổ dịch lớn nhất nước. Để cảnh báo người dân, từ thứ Năm 31/12/2020, chính quyền thành phố này đã tung chiến dịch chớp nhoáng trên mạng Twitter, cứ 10 phút lại tưởng niệm một nạn nhân Covid-19.
Điều lo ngại là số ca nhiễm mới và số ca tử vong sẽ không thuyên giảm trong những tháng tới, vì biến thể của virus corona (VOC 202012/01) được phát hiện tại Anh, bắt đầu lây lan ở Mỹ. Các bang Colorado, California và Florida đã phát hiện nhiều bệnh nhân nhiễm biến thể virus mới, lây lan dễ hơn và nhanh hơn. Bác sĩ Anthony Fauci, Giám đốc Viện dị ứng và bệnh truyền nhiễm quốc gia, không tỏ ra ngạc nhiên và cho rằng biến thể VOC 202012/01 "có thể đã lây lan ở nhiều bang khác".
Sau khi có thông tin biến thể mới của virus corona xuất hiện tại bang Florida, Philippines đã ra quyết định cấm nhập cảnh đối với mọi hành khách đã lưu trú tại Hoa Kỳ 14 ngày trước đó. Lệnh cấm có hiệu lực từ Chủ Nhật 03/01 đến ngày 15/01/2021.
Biến thể VOC 202012/01 cũng đã xuất hiện tại Việt Nam. Sáng 02/01, Bộ Y tế thông báo "bệnh nhân 1435" là một phụ nữ từ Anh Quốc về Việt Nam ngày 22/12/2020 và được cách ly tập trung tại Trà Vinh ngay khi nhập cảnh sân bay Cần Thơ.
Thu Hằng
Hơn 74 triệu người, đại diện cho gần một nửa nước Mỹ, bầu cho Trump để ông ta có thể tiếp tục đập phá nước Mỹ sau bốn năm đập phá khiến nước Mỹ phân hóa, bị cô lập và bị coi thường như chưa bao giờ thấy. Nước Mỹ đang ở trong một tình trạng rất hiểm nghèo. Vì đâu ?
Khối người ủng hộ tổng thống Donald Trump cho biết sẽ sẵn sàng cầm súng nổi dậy nếu Trump kêu gọi.
Hai tuần trước, hãng thông tấn Reuters có thực hiện một cuộc thăm dò ý kiến trong khối người ủng hộ tổng thống Donald Trump. Có thể mẫu thăm dò –nghĩa là số người được chọn để hỏi ý kiến- không tiêu biểu cho toàn bộ 74 triệu người bỏ phiếu cho Trump nhưng kết quả thật đáng kinh ngạc. Tất cả, 100%, đều tin rằng cuộc bầu cử vừa qua là gian lận, đáng lẽ Trump phải thắng lớn. Đáng sợ hơn nữa là đa số còn cho biết sẽ sẵn sàng cầm súng nổi dậy nếu Trump kêu gọi. Một số cho biết họ đang tập trận trong một đạo quân được đặt tên là Những Người Yêu Nước Miền Nam (The South Plains Patriots). Họ chỉ chờ Trump. Nước Mỹ chia rẽ một cách đáng sợ, ngoài mọi tưởng tượng.
Từ bất mãn đến phẫn nộ
Những người này là ai và tại sao họ có thể tin Trump đến như thế ?
Điều chắc chắn là đại đa số người Mỹ ủng hộ Donald Trump thuộc thành phần được gọi là Da trắng ít học (Non-college Whites). Những người sẵn sàng nổi loạn võ trang đều là những người đàn ông da trắng.
Trong một bài viết đầu năm nay tôi đã cố gắng tìm hiểu lý do tại sao một số đông đảo người Mỹ ủng hộ Donald Trump (1). Điều chắc chắn là đại đa số thuộc thành phần được gọi là Da trắng ít học (Non-college Whites). Những người sẵn sàng nổi loạn võ trang đều là những người đàn ông da trắng. Ta có thể hình dung họ là những người lái xe pickup, đội mũ Make America Great Again trong các bang miền Nam, làm việc trong các nông trại, hay làm những công việc tạm thời hoặc không toàn thời gian trong các công ty như Amazon, Walmart, Target. Chỉ gần đúng thôi bởi vì cũng có những người tốt nghiệp đại học có việc làm ổn vững với lương khá cao và cũng có những chủ nông trại lớn. Nói chung đa số là những người da trắng không chỉ bất mãn mà còn phẫn nộ trước hiện tình nước Mỹ. Họ là những người mà cha ông đã khai phá và xây dựng nước Mỹ thành cường quốc số 1 thế giới. Mới cách đây một nửa thế kỷ họ còn là thành phần thượng đẳng đầy tự hào trong xã hội Mỹ, các thành phần khác hoặc chỉ là những người mới tới, hoặc thuộc lớp người phục dịch cũ vừa được thăng tiến.
Nhưng xã hội Mỹ đã thay đổi quá nhanh. Từ một cường quốc sản xuất và xuất khẩu thành một cường quốc tiêu thụ và nhập khẩu, từ một trung tâm công nghiệp thành một trung tâm tài chính, từ một nước Thiên Chúa giáo ngoan đạo thành một nước vật chất thế tục. Rồi phong trào toàn cầu hóa đảo lộn tất cả. Các công nghệ truyền thống di chuyển dần ra nước ngoài, các công việc mới được trả lương cao dành cho những người có học thức và kỹ năng cao, nhiều khi vừa mới đến lập nghiệp tại Mỹ. Một số khá đông những người da trắng sau một thời gian hài lòng và yên trí bừng tỉnh nhận ra mình đã trở thành giai cấp thua kém trong xã hội, không chỉ không có mà còn không thể có công việc làm ổn vững với lương cao và chỗ đứng đáng tự hào trong đất nước mà họ tạo dựng ra. Họ thua kém cả về kinh tế lẫn kiến thức so với một khối người mà mới cách đây không lâu họ còn nhìn với con mắt kẻ cả. Bất mãn nhanh chóng trở thành phẫn nộ.
Các thăm dò cho thấy đa số người Mỹ da trắng bỏ phiếu cho Donald Trump (52% nói chung, 55% đàn ông, 48% phụ nữ). Như vậy phải hiểu là có gần một nửa người Mỹ da trắng đã thích nghi với tình thế mới và thành công. Điều này càng làm cho khối người sa cơ thất thế tủi hổ và giận dữ hơn. Họ tin Trump khi ông nói cuộc bầu cử này gian lận mà không cần ông phải đưa ra một bằng chứng thuyết phục nào bởi vì họ đã coi ông là đại diện và phát ngôn viên của họ, bởi vì họ muốn ông thắng để tiếp tục đập phá cái trật tự xã hội đã gạt họ ra ngoài lề và xuống dưới. Những người này cảm thấy như không còn gì để mất. Không thể thảo luận với họ về những gì có lợi cho nước Mỹ vì nước Mỹ này không còn là của họ nữa. Họ sẵn sàng làm tất cả để giành lại nước Mỹ mà họ nghĩ rằng họ đã mất. Nước Mỹ vĩ đại là nước Mỹ của họ chứ không cần là nước Mỹ thực sự vĩ đại.
Trong cuốn sách ngắn nhất, nhưng cũng là cuốn sách cần đọc nhất của ông, Những vấn đề của Triết (Problems of Philosophy), Bertrand Russell đã nhận xét : "Tất cả những gì chúng ta biết đều đặt nên tảng trên những niềm tin từ bản năng". Nhưng trong bản năng của những người ủng hộ Trump chỉ còn lại sự tức giận. Quá giận mất khôn. Vả lại từ lâu rồi họ không còn biết những gì đang xảy ra nữa. Họ chỉ nghe nhạc, xem phim hay những reality shows và những trận quyền Anh, football. Họ không đọc sách báo, không theo dõi những chương trình thời sự và bình luận và không quan tâm tới chính trị, dù đã giận dữ với chính trị đến độ sẵn sàng nổi loạn. Đó là khối cử tri cơ sở của Trump. Bạo lực và những đám đông cuồng nhiệt có sức thu hút của chúng, khối người này đã lôi kéo thêm được một số người khác, kể cả những trí thức bình thường có thể suy nghĩ một cách sáng suốt.
Châu Âu cho tới khi bức tường Berlin sụp đổ không thiếu những trí thức trình độ cao, như Jean-Paul Sartre và Louis Aragon, cổ võ cho chủ nghĩa cộng sản. Tại Việt Nam sau Cách mạng tháng 8-1945 nhiều trí thức hàng đầu –như Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa và nhiều người khác- đã hùa theo Đảng cộng sản vào đúng lúc mà họ đang tàn sát thẳng tay những ngưới yêu nước không cộng sản.
Một cách tương tự thành phần cuồng nhiệt theo Trump cũng đã lôi kéo theo được những người có địa vị và học vị. Có những người chạy theo để lợi dụng, nhưng cũng có những người chỉ đơn giản bị hớp hồn, và cũng có những người sai lầm dù có bằng cấp. Kết quả là hơn 74 triệu người, đại diện cho gần một nửa nước Mỹ, bầu cho Trump để ông ta có thể tiếp tục đập phá nước Mỹ sau bốn năm đập phá khiến nước Mỹ phân hóa, bị cô lập và bị coi thường như chưa bao giờ thấy. Nước Mỹ đang ở trong một tình trạng rất hiểm nghèo. Vì đâu ?
Chủ nghĩa phóng khoáng và chế độ tổng thống
Nguyên nhân đầu tiên là chủ nghĩa thực tiễn (realism) thường được biết tới và đồng hóa với thể hiện kinh tế của nó là chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism) hay, gần đây, tân phóng khoáng (neoliberalism).
Nền tảng của chủ nghĩa thực tiễn là dành ưu tiên cho quyền lợi cụ thể.
Hầu như từ ngày lập quốc nước Mỹ chỉ biết chủ nghĩa này nhưng ngày càng theo đuổi một cách cực đoan hơn. Nền tảng của chủ nghĩa thực tiễn là dành ưu tiên cho quyền lợi cụ thể. Điều này có nghĩa là mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và đạo đức thì quyền lợi phải đi trước. Nền tảng của chủ nghĩa phóng khoáng là niềm tin mù quáng rằng cứ để cho mỗi người mặc sức tranh giành một cách tham lam và vị kỷ rồi đâu sẽ vào đó, sẽ có một bàn tay vô hình dàn xếp tất cả để sau cùng xã hội sẽ phồn vinh và hài hòa, mỗi người sẽ được phúc lợi. Không cần quá thắc mắc về số phận của những người nghèo khổ, luật và quy định càng ít càng tốt, thuế càng thấp càng hay. Nhiều lý thuyết gia của chủ nghĩa phóng khoáng, như Robert Nozick, còn lên án thuế và liên đới xã hội là vi phạm nhân quyền. Đó gần như là một tín ngưỡng tôn giáo bởi vì không có gì chứng minh cả, trái lại cuộc sống hàng ngày liên tục cho thấy lòng tham và lòng vị kỷ là những nguyên nhân quen thuộc của tội ác và thảm kịch.
Sức thu hút của chủ nghĩa phóng khoáng là nó đáp ứng bản năng sơ đẳng của con người, không đòi hỏi nghiên cứu và lý luận phức tạp và nhất là tiện lợi cho những người nhiều tiền và nhiều quyền. Bàn tay vô hình mà Adam Smith là người đầu tiên nói tới hơn hai thế kỷ trước không gì khác hơn là các giá trị đạo đức Kitô giáo –tôn trọng lẽ phải và yêu thương đồng loại- nhưng ngày nay bàn tay đó đã tê liệt vì Kitô giáo đã mất phần lớn ảnh hưởng. Hậu quả của chủ nghĩa phóng khoáng mà nước Mỹ mê mải chạy theo trong hơn một nửa thế kỷ qua là các giá trị đạo đức mờ nhạt dần, chênh lệch giầu nghèo ngày càng thách thức và các mâu thuẫn tích lũy. Xã hội không chỉ mất dần sự liên đới mà còn mất cả trí tuệ và tâm hồn.
Trừ một ngoại lệ nhỏ dưới thời Obama, các tổng thống Mỹ cho tới nay nói chung đã chỉ biết giảm thuế và bớt luật để kích thích tăng trưởng. Liên đới xã hội và, nghiêm trọng hơn, giáo dục và đào tạo xuống cấp ; học phí các trường đại học có phẩm chất vượt khỏi tầm tay đa số gia đình. Nhưng giáo dục là xương sống của mọi quốc gia, là động cơ của linh động xã hội và cũng đang là cuộc thế chiến giữa các dân tộc trong cuộc tranh đua chinh phục tương lai. Vì thế cùng với sự xuống cấp của giáo dục giấc mơ Hoa Kỳ cũng tan biến dần. Ngày nay khi nhìn vào các chỉ số xã hội –dù là tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người bị bệnh tâm thần, tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ các bà mẹ vị thành niên, thanh niên bỏ học và nghiện hút v.v.- Mỹ đều thua hẳn mọi nước phát triển khác. Tăng trưởng kinh tế mà các tổng thống Mỹ đặt làm ưu tiên hàng đầu –và cũng được đánh giá theo đó- chỉ chủ yếu dành riêng cho 1% những người giầu nhất. Nghiêm trọng hơn nữa là đa số người Mỹ, đặc biệt là những cử tri cơ sở của Trump, không nhìn thấy lý do bởi vì kiến thức và tư tưởng chính trị của nước Mỹ đã xuống cấp.
Không phải là Mỹ thiếu những nhà tư tưởng và những tác phẩm giá trị về tư tưởng chính trị và xã hội. Mỹ giầu có và thừa khả năng để thu hút những thành phần tinh hoa nhất về mọi mặt của mọi quốc gia. Vấn đề là các tư tưởng quý báu này chỉ quanh quẩn trong các trường đại học danh tiếng và các câu lạc bộ trí thức. Những cuốn sách rất giá trị về triết, kinh tế, xã hội nếu bán được 10.000 cuốn cũng đã là khá. Các bài giảng rất hay của các giáo sư và học giả danh tiếng đưa lên Youtube sau vài năm nếu được 100.000 lượt xem là một thành tích khả quan, trong khi các bài hát và các trận đấu quyền Anh có thể thu hút vài triệu hay vài chục triệu người xem. Nước Mỹ có tư tưởng nhưng người Mỹ không có tư tưởng.
Vì sao kiến thức và tư tưởng chính trị không đến được với người Mỹ ? Câu trả lời giản dị là chế độ tổng thống.
Chế độ Tổng thống Mỹ tập trung quyền lực vào tay một người và vì thế vô hiệu hóa và làm tan biến các chính đảng.
Chế độ này để người dân trực tiếp bầu người cần vận mệnh đất nước. Từ 25 thế kỷ trước, Socrates đã cảnh báo rằng tình trạng này cũng không khác để cho hành khách thay vì những người biết nghề đi biển biểu quyết chọn người thuyền trưởng. Mỗi cuộc bầu tổng thống gần như là một cuộc trình diễn, quần chúng bầu cho ứng cử viên hấp dẫn nhất hơn là cho người tài đức nhất bởi vì họ không đủ thông tin và trình độ để biết ai là người tài đức. Nguy hại nhất là chế độ tổng thống tập trung quyền lực vào tay một người và vì thế vô hiệu hóa và làm tan biến các chính đảng. Nghiên cứu và thảo luận làm gì khi mà các quyết định chỉ tùy thuộc một người không do đảng chỉ định và do đó không cần phục tùng đảng, trái lại các đảng viên phải phục tùng tổng thống để được ban phát ơn huệ ?
Nhưng các chính đảng đúng nghĩa là điều tối cần thiết cho một quốc gia. Ai không biết điều này thì đừng nên tham gia vào hoạt động chính trị. Đó là những môi trường đào tạo những người có khả năng đảm nhiệm các chức vụ công cộng, là môi trương sản xuất và sàng lọc các ý kiến đồng thời thảo luận về các vấn đề quốc gia và các giải pháp. Quan trọng hơn hết, qua khối đảng viên, các chính đảng cũng là hàng trăm nghìn, hàng triệu cỗ xe chuyên chở kiến thức và tư tưởng chính trị đến với quần chúng. Không có các chính đảng thì dân trí thấp là hậu quả tự nhiên. Đó là điều sau cùng đã xảy ra cho nước Mỹ. Cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa không còn là những chính đảng đúng nghĩa mà chỉ còn là những bộ máy gây quỹ và tranh cử. Nước Mỹ sở dĩ đã vươn lên mạnh mẽ là nhờ tinh thần lành mạnh của các Founding Fathers, nhưng bây giờ, sau hai thế kỷ rưỡi bị chế độ tổng thống làm hao mòn, tinh thần đó không còn nữa. Cho tới nay tất cả các chế độ tổng thống trên thế giới đều đã thất bại, hoặc đưa đến độc tài hoặc đưa đến mâu thuẫn bế tắc giữa hành pháp và lập pháp. Chế độ tổng thống đã là nguyên nhân chính khiến Châu Mỹ La Tinh không vươn lên được. Nó cũng đã khiến Châu Phi Da Đen quằn quại trong đói khổ hoặc, bi đát hơn, tan rã trong bạo loạn và nội chiến. Cho đến nay Mỹ vẫn được coi là ngoại lệ duy nhất mà chế độ tổng thống đã thành công. Ngoại lệ này bây giờ cũng chấm dứt.
Có thể chờ đợi gì ở Biden ?
Joe Biden là vị tổng thống có tài nhất trong lịch sử nước Mỹ từ gần một thế kỷ nay (NGK)
Theo tôi, Joe Biden là vị tổng thống có tài nhất trong lịch sử nước Mỹ từ gần một thế kỷ nay. Sinh ra trong một gia đình trung lưu thấp, ông đã đấu tranh với hoàn cảnh khó khăn để vươn lên và đã có cả một nửa thế kỷ để học hỏi và chứng minh bản lĩnh chính trị. Ông là tổng thống Mỹ đầu tiên hiểu biết và có kinh nghiệm về tình hình thế giới. Ông đã thất bại trong các lần tranh cử sơ bộ trước đây vì bầu cử tổng thống trước hết là một trình diễn trong khi ông thiếu sức thu hút. Lần này ông đã chỉ được bầu vì Đảng Dân Chủ và một số đông người Mỹ nhận ra là nước Mỹ đang lâm nguy. Joe Biden là vị tổng thống phù hợp nhất cho nước Mỹ trong tình thế này. Tuy vậy có thể dự đoán trước là sẽ không thể chờ đợi ở Biden một kết quả cụ thể ngoạn mục nào vì ông thừa hưởng một di sản quá khó khăn với quá nhiều vấn đề nghiêm trọng và cấp bách đã bị trì hoãn quá lâu. Ông sẽ phải hòa giải một nước Mỹ quá chia rẽ trên ngưỡng cửa của một cuộc nội chiến. Ông sẽ phải hòa giải với các đồng minh đã mất hết lý do để tin tưởng vào nước Mỹ và phục hồi uy tín của nước Mỹ đã tan tành sau bốn năm Donald Trump, vào lúc mà Mỹ và các nước dân chủ phải đương đầu quả quyết với thách thức từ Trung Quốc và các chế độ độc tài dân túy. Chính sách tăng thuế đối với các công ty và những người giầu để đầu tư vào liên đới xã hội và giáo dục đào tạo của ông rất đúng và rất cần thiết nhưng sẽ chỉ mang lại kết quả về lâu về dài trong khi trước mắt ông phải đương đầu với dịch Covid-19 đã làm 300.000 người chết và vẫn còn tiếp tục tàn phá. Trong những điều kiện may mắn nhất kinh tế Mỹ cũng sẽ chỉ trở lại được tình trạng cuối năm 2019 vào cuối nhiệm kỳ của ông. Nếu Biden chỉ vạch ra được cho nước Mỹ một hướng đi đúng về tương lai thì cũng đã là may mắn lắm rồi. Ông cũng sẽ không có thời giờ và cơ hội để đặt ra vấn đề quan trọng nhất của nước Mỹ là thay đổi chế độ tổng thống.
Có thể nói gì giữa người Việt Nam với nhau ?
Dấu hỏi càng lớn và đáng lo ngại khi một số đông ủng hộ Trump một cách cuồng nhiệt đến độ có thể mạt sát những đồng bào mà mình từng quý mến chỉ vì họ có quan điểm khác.
Sự kiện Việt Nam là một trong số vài dân tộc rất hiếm hoi trên thế giới mà cho tới gần đây đa số ủng hộ Trump là một dấu hỏi lớn về bản chất và văn hóa của dân tộc ta. Tại sao người Việt Nam, kể cả một số người có học vị và địa vị cao trong xã hội, có thể ngưỡng mộ một con người thấp kém về kiến thức, tồi tệ về đạo đức và nhỏ mọn trong tâm hồn như Donald Trump ? Chúng ta là một dân tộc như thế nào ? Dấu hỏi càng lớn và đáng lo ngại khi một số đông ủng hộ Trump một cách cuồng nhiệt đến độ có thể mạt sát những đồng bào mà mình từng quý mến chỉ vì họ có quan điểm khác. Chúng ta vừa chứng tỏ sự nông cạn về kiến thức chính trị và tư tưởng chính trị và đó là lý do chính giải thích tại sao chúng ta đã là chúng ta ngày nay. Chúng ta còn cần một cố gắng văn hóa rất lớn.
Một quyết tâm mà chúng ta phải có ngay trong lúc này, trước thềm của kỷ nguyên dân chủ sắp mở ra, là phải dứt khoát gạt bỏ chế độ tổng thống. Đừng để lịch sử lặp lại. Chính vì thiếu văn hóa chính trị mà chúng ta đã đã không nhìn thấy những khuyết tật độc hại của tư tưởng Mác-Lênin và đã rước lấy chủ nghĩa cộng sản vào lúc mà thế giới đã nhìn ra nó như một sai lầm và một tội ác, với hậu quả là 30 năm nội chiến, sáu triệu người chết, đất nước tan hoang và tụt hậu và vẫn còn phải mang trên cổ cái ánh độc tài. Chúng ta cần cảnh giác để đừng chuốc lấy chế độ tổng thống vào lúc nó đã tiết lộ bản chất tệ hại.
Nguyễn Gia Kiểng
(07/12/2020)
(1) Nguyễn Gia Kiểng, "Nước Mỹ nào sau Donald Trump ?", Thông Luận, 02/02/2020
Trọng Thành, RFI, 24/11/2020
Chính quyền Indonesia quyết định tăng cường khả năng tác chiến của lực lượng Hải quân, để đối phó với nguy cơ từ Trung Quốc. Một lãnh đạo Hải quân Indonesia thông báo bộ chỉ huy lực lượng tác chiến của Hải quân nước này sẽ chuyển về quần đảo Natuna, khu vực mà tàu cá và tàu Hải quân Trung Quốc nhiều lần xâm nhập trong những năm gần đây.
Hãng thông tấn Anadolu cho hay, phát biểu trước báo giới hôm 23/11/2020, tổng tham mưu trưởng Hải quân Indonesia, đô đốc Yudo Margono cho biết trụ sở của Hạm đội 1 kể từ giờ sẽ được chuyển từ thủ đô Jakarta về quần đảo Natuna. Các đơn vị của Hạm đội 1 có nhiệm vụ sẵn sàng tác chiến trên biển, bảo đảm việc tuân thủ luật pháp trên biển và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nói chuyện với báo giới, tổng tham mưu trưởng Hải quân Indonesia cho biết, quyết định này cho phép triển khai nhanh chóng chiến hạm để "phản ứng kịp thời" trước các sự cố bất ngờ. Việc Jakarta tăng cường lực lượng hải quân tại quần đảo Natuna ở Biển Đông diễn ra vào lúc căng thẳng gia tăng với Trung Quốc tại khu vực này.
Yêu sách chủ quyền "đường 9 đoạn" của Trung Quốc bao gồm cả một phần vùng đặc quyền kinh tế xung quanh quần đảo Natuna. Tháng 1/2020, Indonesia huy động lực lượng chưa từng thấy, gồm 120 tàu đánh cá, cùng tàu chiến, phi cơ để ngăn chặn sự xâm nhập của tàu cá Trung Quốc có tàu hải cảnh Trung Quốc hộ tống tại khu vực quần đảo Natuna. Tháng 5/2020, Jakarta đã gửi công hàm đến Liên Hiệp Quốc bác bỏ yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc, vốn đã bị Tòa Trọng Tài Thường Trực bác bỏ hồi 2016, trong vụ kiện của Philippines. Tháng 7/2020, 24 tàu chiến của Indonesia đã tham gia cuộc tập trận 4 ngày ở Biển Đông nhằm thách thức các yêu sách "đường 9 đoạn" của Bắc Kinh.
Trọng Thành
Nguồn : RFI, 24/11/2020
*********************
Thụy My, RFI, 24/11/2020
Tổng thống Thái Anh Văn ngày 24/11/2020 loan báo Đài Loan sẽ tự đóng các tàu ngầm để bảo vệ chủ quyền trước Trung Quốc, một dự án quan trọng được Hoa Kỳ hỗ trợ.
Trong lễ khởi công tại thành phố cảng Cao Hùng, có sự hiện diện của ông Brent Christensen, thực chất là đại sứ Mỹ, bà Thái Anh Văn tuyên bố đây là một quyết định "lịch sử", sau khi đã vượt qua được "nhiều thử thách và nghi ngờ". Bà nói : "Dự án này chứng tỏ quyết tâm cao độ của Đài Loan nhằm bảo vệ chủ quyền. Tàu ngầm rất quan trọng để tăng cường năng lực chiến đấu của hải quân, nhằm răn đe các tàu địch bao vây Đài Loan".
Tập đoàn Đài Loan CSBC cho biết sẽ giao chiếc tàu ngầm đầu tiên vào năm 2025, trong số 8 chiếc được đặt hàng. Chủ tịch tập đoàn nói rằng đã gặp phải rất nhiều khó khăn, nhất là việc mua thiết bị và những cản trở từ các thế lực bên ngoài.
Hải quân Đài Loan hiện có bốn tàu ngầm, trong đó có hai chiếc sản xuất tại Mỹ từ thập niên 40, không thể nào so sánh được với hạm đội hùng hậu của Trung Quốc gồm cả những tàu chiến trang bị vũ khí nguyên tử và cả hàng không mẫu hạm.
Trong những thập niên qua, hòn đảo này đầu tư rất lớn vào kỹ nghệ quốc phòng, do Bắc Kinh gây áp lực lên những nước bán vũ khí cho Đài Loan. Năm 2018, chính quyền Donald Trump đã bật đèn xanh cho các nhà sản xuất Mỹ tham gia cung cấp, nhưng không rõ là những công ty nào.
Quân đội Trung Quốc không ngừng đe dọa Đài Loan, với việc gia tăng các hoạt động quân sự sát hòn đảo. Năm nay các máy bay tiêm kích Trung Quốc đã nhiều lần xâm nhập vùng nhận diện phòng không của Đài Loan. Nhiều nhà quan sát lo ngại nguy cơ Bắc Kinh sẽ đánh chiếm Đài Loan nhân kỷ niệm 100 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian) đã "cực lực phản đối" mọi sự hợp tác quân sự giữa Đài Bắc và Washington, nhấn mạnh vấn đề Đài Loan là "hết sức nhạy cảm". Trước đó Reuters hôm Chủ nhật dẫn hai nguồn tin cho biết đô đốc Michael Studeman, phụ trách tình báo quân sự Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương đã bất ngờ đến thăm Đài Loan.
Thụy My
Nguồn : RFI, 24/11/2020
**********************
Tú Anh, RFI, 23/11/2020
Theo Reuters, tướng hải quân Mỹ Michael Studerman đã âm thầm đến Đài Bắc vào chiều Chủ Nhật 22/11/2020. Đến sáng hôm nay, thủ tướng Đài Loan Tô Trinh Xương mới xác nhận chuyến viếng thăm bất ngờ của một lãnh đạo tình báo Mỹ thuộc Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc đe dọa trả đũa.
Đề đốc Michael Studerman, chỉ huy trưởng đơn vị tình báo J2 Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, đã đến phi trường Tùng Sơn, Đài Bắc. Chuyến viếng thăm của viên tướng Mỹ hai sao chỉ được Đài Loan, qua trả lời báo chí của thủ tướng Tô Trinh Xương, xác nhận vào sáng thứ Hai, kèm theo lời giải thích : "Phải đặt nhà hàng, món ăn đãi khách, chuẩn bị xong rồi mới báo cáo với dân chúng".
Lịch trình thăm viếng của tướng tình báo Michael Studerman tại Đài Loan không được thông báo, nhưng theo Reuters, sự kiện chính quyền Donald Trump tăng cường trợ giúp Đài Loan trên nhiều mặt đã gây phản ứng tức giận tại Bắc Kinh.
Trong cuộc họp báo sáng nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên tuyên bố "kiên quyết chống lại mọi hình thức trao đổi giữa Mỹ và Đài Loan hay quan hệ quân sự". Phát ngôn viên này đe dọa thêm : "Trung Quốc sẽ theo dõi diễn biến tình hình và sẽ có hành động chính đáng để trả đũa".
Trong khi đó, Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục duy trì hiện diện thường xuyên tại Biển Đông. Theo thông tin của Hạm Đội 7, khu trục hạm USS Barry, thuộc hải đội khu trục hạm số 15, đã trở lại Biển Đông với nhiệm vụ được giao phó là bảo vệ an ninh hàng hải và ổn định trong khu vực.
Trong năm nay, khu trục hạm trang bị tên lửa hành trình này từ Nhật Bản đã bốn lần băng qua eo biển Đài Loan để xuống Biển Đông.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 23/11/2020
**********************
Trung Quốc chỉ trích Mỹ gây mất ổn định Biển Đông
RFA, 24/11/2020
Đại sứ quán Trung Quốc ở hai nước Philippines và Việt Nam hôm 24/11 đã đồng loạt lên tiếng chỉ trích Hoa Kỳ đang gây mất ổn định tình hình Biển Đông và chia rẽ Trung Quốc với các nước láng giềng.
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Robert O'Brien phát biểu tại Học viện Ngoại giao ở Hà Nội hôm 21/11/2020 - Đại sứ quán Mỹ
Tuyên bố này của hai Đại sứ quán được đưa ra sau chuyến thăm mới đây của Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Robert O’Brien đến Việt Nam và Philippines.
Bài viết của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội đăng trên Fanpage nói rằng phát biểu của ông O’Brien tại Việt Nam là "hoàn toàn đi ngược lại sự thật khách quan, chứa đầy tư duy chiến tranh lạnh và thành kiến ý thức hệ mạnh mẽ".
Phát biểu tại Học viện Ngoại giao ở Hà Nội hôm 21/11, ông O’Brien đã nói đến mưu đồ của Trung Quốc trong các hành động nhằm kiểm soát sông Mekong và Biển Đông : "Từ biển Đông đến lưu vực sông Mekong, những nguồn tài nguyên phong phú dồi dào của đất nước các bạn thuộc về con cháu của các bạn".
Quyền thừa hưởng những nguồn tài nguyên này không thể bị cướp mất chỉ đơn giản vì một nước láng giềng lớn hơn và thèm muốn những gì thuộc về các bạn".
Ông O’Brien đồng thời cũng khẳng định cam kết của Mỹ với các nước trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương : "Hoa Kỳ có một lập trường vững chắc phản đối sự cưỡng ép bắt nạt của Trung Quốc tại biển Đông và các mối đe dọa an ninh trong khu vực Mekong".
Bài viết của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội khẳng định Trung Quốc luôn tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển" (UNCLOS), đồng thời khẳng định Trung Quốc đang làm việc với các nước ASEAN để giải quyết các vấn đề ở Biển Đông một cách hòa bình, không liên quan đến Mỹ.
Đại sứ quán Trung Quốc cũng cáo buộc Mỹ đã đặt vấn đề sông Mekong để vu khống Trung Quốc, phóng đại cái gọi là "mối đe doạ từ Trung Quốc", mục đích để chia rẽ mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước thuộc khu vực sông Mekong.
Cũng trong ngày 24/11, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức đối thoại trực tuyến chính sách quốc phòng Việt - Mỹ 2020. Hai bên đã cam kết sẽ tiếp tục hợp tác, thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh.
Nguồn : RFA, 24/11/2020
**********************
Tú Anh, RFI, 23/11/2020
Cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ đến Manila ngày 23/11/2020 với lời khẳng định sẽ giúp Philippines chống lại các mối đe dọa biển đảo từ Trung Quốc. Robert O’Brien nhắc đến bổn phận của Mỹ qua hiệp ước phòng thủ hỗ tương Mỹ-Phi từ năm 1951.
Sau chuyến viếng thăm Việt Nam, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ đến Manila. Trong buổi lễ trao tặng cho quân đội Philippines nhiều loại vũ khí mới, được tổ chức trong ngày thứ Hai với sự hiện diện của Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr, ông Robert O’Brien tuyên bố Hoa Kỳ "sẽ bảo vệ chủ quyền quốc gia và các nguồn tài nguyên trên biển của Philippines đúng theo quy định của luật quốc tế".
Lập trường của Mỹ tại Biển Đông, cũng theo ông Robert O’Brien, đã được ngoại trưởng Mike Pompeo xác quyết trong tuyên bố hồi tháng Hai năm nay : "Mọi cuộc tấn công quân sự vào quân đội Philippines, vào phi cơ hay thương thuyền của nước này trong vùng Biển Đông, sẽ buộc Hoa Kỳ thực hiện bổn phận tương trợ phòng thủ với Philippines".
Ngoài hiệp định 1951, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ còn xác quyết là Washington ủng hộ quyết định của Tòa Trọng Tài Thường trực La Haye công bố ngày 12/07/2016 sau khi xem xét lập trường của Philippines, bác bỏ các đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Đánh động tinh thần tự hào của người dân Philippines, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ nhấn mạnh "tài nguyên thiên nhiên của Philippines là của thế hệ con, cháu của qúy vị … mà không thuộc một nước nào khác, dù lớn hơn hay mạnh hơn Philippines, cũng không thể bị chiếm đoạt và mang đi được", theo tường thuật của báo mạng Inquier.net.
Viện trợ vũ khí
Cũng theo nguồn tin này, vũ khí mới của Mỹ viện trợ cho quân đội Philippines trị giá 18 triệu đô la gồm bom thường, bom bộc phá hầm bê tông, tên lửa TOW 2A. Theo tuyên bố của ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr, số vũ khí này được tổng thống Donald Trump hứa tặng cho Philippines để chống khủng bố Hồi Giáo nhân cuộc điện đàm hồi tháng Tư năm nay với tổng thống Duterte.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 23/11/2020
*********************
Hoa Kỳ cung cấp tên lửa, gia hạn cam kết bảo vệ Philippines
RFA, 23/11/2020
Hoa Kỳ đã cung cấp tên lửa dẫn đường và các vũ khí khác để giúp Philippines chiến đấu với các tay súng liên kết cùng Nhà nước Hồi giáo và gia hạn hiệp ước cam kết bảo vệ đồng minh nếu nước này bị tấn công ở vùng Biển Đông, mà Manila gọi là Biển Tây Philippines. AP đưa tin hôm 23/11/2020.
Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O'Brien (phải) và Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin tại văn phòng Bộ Ngoại giao ở Manila vào ngày 23/11/2020. AFP
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ, Robert O’Brien đã đại diện cho Tổng thống Donald Trump thông báo như vậy tại Manila. Chính quyền của Tổng thống Trump cam kết cung cấp số tên lửa trị giá 18 triệu USD trong cuộc điện đàm với Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte vào tháng 4 vừa qua.
Trong phát biểu của mình về việc cung cấp tên lửa cho Manila, ông O'Brien đã trích dẫn vai trò của chính quyền Trump trong việc đánh bại nhóm Nhà nước Hồi giáo ở Trung Đông và vụ giết thủ lĩnh của nhóm này, Abu Bakr al-Baghdadi, ở Syria năm ngoái, và tiếp tục cam kết giúp Philippines đánh bại các tay súng có liên hệ với IS ở miền nam nước này.
Ông O'Brien bày tỏ hy vọng về việc duy trì một thỏa thuận an ninh quan trọng cho phép các lực lượng Mỹ huấn luyện trong các cuộc tập trận chiến đấu quy mô lớn ở Philippines. Ông nói rằng Hoa Kỳ sát cánh với Philippines trong nỗ lực bảo vệ các quyền chủ quyền của mình ở Biển Đông.
Tổng thống Phillipines đã bãi bỏ Thỏa thuận các lực lượng thăm viếng với Hoa Kỳ vào đầu năm nay nhưng sau đó đã dời hiệu lực của quyết định này đến năm sau. Tháng trước, Philippines đã thông báo rằng họ sẽ nối lại các hoạt động thăm dò dầu khí trong hoặc gần Bãi Cỏ Rong (Reed Bank), nơi Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền.
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ nhắc lại tuyên bố của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo vào đầu năm nay rằng "bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào máy bay hoặc tàu công cộng của lực lượng Philippines ở Biển Đông sẽ kích hoạt nghĩa vụ phòng vệ chung của chúng ta". Các đồng minh đã có hiệp ước phòng thủ chung 69 năm.
Trong một tuyên bố đưa ra hồi tháng 7 năm nay, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo viết rằng, "các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông là hoàn toàn phi pháp, đồng thời bác bỏ "đường lưỡi bò" của Trung Quốc tự vẽ ra và lên án chính quyền Bắc Kinh đang bắt nạt các nước khác trong khu vực. Thế giới sẽ không cho phép Trung Quốc ứng xử với Biển Đông như đế chế hàng hải của riêng mình".
Nguồn : RFA, 23/11/2020
*********************
Mỹ gia tăng mức độ ‘sẵn sàng’ ở Đông Nam Á
Trân Văn, 21/11/2020
Sau sự kiện Tư lệnh Không quân khu vực Thái Bình Dương của quân đội Mỹ yêu cầu các đơn vị thuộc quyền chỉ huy của ông phải sẵn sàng cho cuộc chiến với Trung Quốc ở khu vực Thái Bình Dương (1), tới lượt hải quân và lục quân Mỹ thực hiện hàng loạt các kế hoạch nhằm gia tăng mức độ sẵn sàng của những quân chủng này.
Tàu khu trục USS Roosevelt (DDG-80). Hình minh họa.
***
Ông Kenneth Braithwaite, Bộ trưởng Hải quân Mỹ, vừa giới thiệu ý định tái thành lập Hạm đội 1 để nâng cao năng lực hải quân của Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương nhằm kiềm chế và đối phó với tình trạng Trung Quốc dốc sức phát triển bộ máy quân sự trong khu vực này (2).
Hạm đội 1 được thành lập hồi đầu năm 1947 và bị giải thể vào đầu năm 1973. Nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm của Hạm đội 1 được giao cho Hạm đội 3 đảm nhận. Vào lúc này, tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương chỉ có Hạm đội 7, đồn trú ở căn cứ hải quân Yokosuta – Nhật.
Thỉnh thoảng, Hạm đội 7 nhận thêm sự hỗ trợ của Hạm đội 3 – đóng ở San Diego (California, Mỹ) nhưng con số từ 50 đến 70 chiến hạm (bao gồm cả tàu ngầm), 150 phi cơ quân sự các loại, cộng vói hàng không mẫu hạm Ronald Reagan, không tương xứng cả với bối cảnh khu vực lẫn phạm vi trách nhiệm (diện tích khoảng 48 triệu dặm vuông, trải rộng từ ranh của hải phận quốc tế ở giữa Thái Bình Dương đến hải phận của Ấn Độ, Pakistan và quần đảo Kurin ở phía Bắc Đại Tây Dương).
Ông Braithwait nhấn mạnh,thời gian vừa qua, Hạm đội 7 còn phải thực hiện các cuộc tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải ở biển Đông, nơi Trung Quốc bất chấp các khuyến cáo của cộng đồng quốc tế, thản nhiên bồi đắp hàng loạt bãi đá ngầm thành đảo rồi xây dựng một chuỗi các căn cứ quân sự ở khu vực vốn đang có tranh chấp về chủ quyền. Đó là lý do phải tái thành lập Hạm đội 1, vừa nâng cao năng lực hải quân trong khu vực, vừa gia tăng mức độ răn đe.
Tại hội nghị thường niên về họat động của mạng lưới tàu ngầm, ngoài việc giới thiệu dự định tái thành lập Hạm đội 1, ông Braithwait nói thêm,Hạm đội 1 nên đồn trú ở ‘ngã tư’ nào đó giữa khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, phù hợp với lợi ích của cả Mỹ lẫn các đồng minh, đối tác của Mỹ tại khu vực này.
Ông Braithwaith chỉ đề cập đến Singapore như một trong những nơi có thể sẽ được chọn làm chỗ để Hạm đội 1 trú đóng, song vài chuyên gia khẳng định, Singapore là vị trí phù hợp nhất. Từ 2013 đến nay đã có khoảng 1.000 quân nhân Mỹ và nhân viên dân sự của Bộ Quốc phòng Mỹ thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 73 và Bộ Chỉ huy Hậu cần Khu vực Tây Thái Bình Dương trú đóng tại Singapore để hỗ trợ cho hoạt động của Hạm đội 7 cũng như những hoạt động khác của hải quân Mỹ.
Ian Chong – Giảng viên về Khoa học Chính trị của Đại học Quốc gia Singapore – giải thích,sở dĩ Singapore là địa điểm lý tưởng nhất vì hội đủ cả yêu cầu về vị trí địa lý lẫn nền tảng sẵn có về hạ tầng, cũng như tiềm năng phát triển các khả năng gia tăng mức độ hỗ trợ toàn diện cho Hạm đội 1.
Theo Chong, khu vực Đông Nam Á vẫn còn một vài địa điểm phù hợp với mục tiêu của hải quân Hoa Kỳ nhưng vì nhiều lý do rất khó nhắm tới. Ví dụ một số vị trí ở Indonesia, Malaysia sẽ cần rất nhiều thời gian để chuẩn bị về hạ tầng. Vịnh Subic ở Philippines dù thuận lợi hơn nhưng bối cảnh chính trị ở Philippines khiến lựa chọn này thiếu chắc chắn.
Vịnh Cam Ranh của Việt Nam dẫu là một địa điểm lý tưởng nhưng Chong tin là hệ thống chính trị, hệ thống công quyền của Việt Nam không sẵn sàng. Ngay cả Thái Lan – quốc gia vốn là đồng minh của Mỹ có lẽ cũng sẽ không hào hứng với việc gật đầu để Mỹ đặt căn cứ của Hạm đội 1.
Bởi rất nhiều quốc gia – không loại trừ Singapore – sẽ ngần ngại trong việc công khai bắt tay với Mỹ, can dự trực tiếp vào việc răn đe, sẵn sàng đối đầu với sự hung hăng của Trung Quốc, một số chuyên gia phỏng đoán, hải quân Hoa Kỳ có thể nhắm tới việc đặt căn cứ cho Hạm đội 1 tại quần đảo Andaman của Ấn Độ - một nơi rất gần Singapore…
***
Giống như không quân và hải quân, lục quân Mỹ vừa công bố hàng loạt kế hoạch gia tăng mức độ sẵn sàng tham chiến ở Đông Nam Á. Một trong bảy lữ đoàn của Bộ Chỉ huy Hỗ trợ an ninh (Security Force Assistance Command - SFAC) vừa được điều động đến Joint Readiness Training Center (JRTC) ở Fort Polk (tiểu bang Louisiana) (3).
SFAC được thành lập hồi giữa năm 2018, nay có bảy lữ đoàn chuyên đảm nhận vai trò hỗ trợ huấn luyện các lực lượng ngoại quốc bảo vệ an ninh, quốc phòng (Security Force Assistance Brigade – SFAB). Các SFAB chuyên tuyển lựa những sĩ quan, hạ sĩ quan giàu kinh nghiệm, giỏi kỹ năng trong lục quân Mỹ để huấn luyện thêm rồi gửi họ đến huấn luyện, gia tăng khả năng phối hợp, kể cả về hỏa yểm (yểm trợ bằng pháo binh), không yểm cho quân đội của các quốc gia hoặc là đồng minh, hoặc là đối tác trên toàn thế giới.
Lục quân Mỹ có hai trung tâm huấn luyện thực địa nổi tiếng. Một là National Training Center (NTC) ở Fort Irwin (California) và một là JRTC. Trong vài thập niên gần đây, đa số đơn vị lục quân chỉ được gửi đến NTC - nơi tập luyện chiến đấu ở hoang mạc – để làm quen, tập thích nghi với đặc điểm các chiến trường ở khu vực Trung Đông. Giờ, JRTC – nơi tập luyện chiến đấu ở khu vực rừng rậm nhiệt đới, đầm lầy… vốn là đặc điểm chung của khu vực Đông Á – bắt đầu được sử dụng thường xuyên.
Theo Army Times, sở dĩ Lữ đoàn 5 của SFAC được gửi đến JRTC vì vài tháng nữa, các đơn vị của lữ đoàn này sẽ được gửi đến một số quốc gia ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Chuẩn tướng Curtis Taylor, Chỉ huy trưởng Lữ đoàn 5 thuộc SFAC, tiết lộ, đơn vị của ông sẽ hỗ trợ quân đội của các quốc gia đồng minh và đối tác gia tăng khả năng tương tác giữa viễn thám, phòng không, pháo binh, công binh của các bên. Một nhóm của lữ đoàn này đã đến Thái Lan. Sau đó hai bên đã tập trận chung ở Hawaii.
Mục tiêu sắp tới là sử dụng các SFAB nhằm cải thiện hơn nữa khả năng hợp tác – hỗ trợ về hậu cần, thu thập – chia sẻ thông tin tình báo, hỗ trợ cả hỏa yểm, không yểm và nâng chất lượng đội ngũ hạ sĩ quan của quân đội các quốc gia đồng minh, đối tác ở Đông Nam Á. SFAC không đề cập đến việc sẽ gửi các SFAB đến những quốc gia nào trong khu vực này, tuy nhiên tướng Taylor thừa nhận, trên thực tế, quân đội của một số quốc gia ở Đông Nam Á muốn thắt chặt quan hệ với cả Mỹ lẫn Trung Quốc.
Cho dù đã có những lo ngại rằng việc hỗ trợ những quốc gia như thế có thể giúp Trung Quốc dễ dàng thu thập thông tin về kỹ thuật, chiến thuật của Mỹ nhưng tướng Taylor trấn an :Vào lúc này, ưu tiên hàng đầu là nâng cao năng lực cho quân đội của các quốc gia đồng minh và đối tác. Các thành viên của những SFAB chỉ hướng dẫn, hỗ trợ phối hợp chứ không được phép ép đồng minh hay đối tác thực hiện những tiêu chuẩn của Mỹ, theo kiểu của Mỹ.
Chỉ huy trưởng Lữ đoàn 5 của SFAC nhấn mạnh, điều mà SFAC mong muốn là để lãnh đạo quân đội của các quốc gia đồng minh và đối táchiểu hơn về cách hoạt động của chúng ta, cách chúng ta chia sẻ quyền hành cho cấp dưới, cách chúng ta đầu tư vào đội ngũ hạ sĩ quan. Chẳng có gì đáng phàn nàn nếu họ muốn chia sẽ những yếu tố đó với Trung Quốc. Chẳng có gì phải lo nếu họ muốn chia sẻ những gì họ tiếp nhận từ chúng ta với các đối tác khác của họ (3).
Trân Văn
Nguồn : VOA, 21/11/2020
Chú thích
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã kín đáo bắn tiếng muốn Mỹ nhảy vào giải quyết xung đột ở Biển Đông, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị của Trung Quốc đã cảnh giác Việt Nam "không dành bất cứ cơ hội nào cho sự quấy rối và phá hoại của thế lực bên ngoài".
Đề nghị bán chính thức của Việt Nam đưa ra ngày 17/07/2020, bốn ngày sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Mike Pompeo gọi hành động đe dọa các nước nhỏ để chiếm đoạt và mưu toan cướp chủ quyền nguồn tài nguyên ở phần lớn Biển Đông của Trung Quốc là "phi pháp".
Ông Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao của Trung Quốc cảnh giác Việt Nam "không dành bất cứ cơ hội nào cho sự quấy rối và phá hoại của thế lực bên ngoài".
Dưới tiêu đề "Quan hệ Việt-Mỹ và vấn đề Biển Đông", Tiến sĩ Lại Thái Bình của Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề nghị 2 khả năng hợp tác, chưa từng được nêu lên trước đây giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Đó là :
1. "Việt Nam và Mỹ cũng có thể cùng các quốc gia khu vực và trên thế giới tạo dựng một diễn đàn an ninh cấp cao thường niên để thảo luận và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan Biển Đông".
2. "Hai nước cũng có thể thúc đẩy những hợp tác liên quan việc tăng cường năng lực cho mỗi bên về đào tạo, huấn luyện, diễn tập chung, trao đổi thông tin liên quan sự phát triển của Biển Đông, hợp tác kinh tế, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, phòng chống khủng bố, cướp biển, cứu trợ thiên tai…".
Về đề nghị thứ nhất, có vẻ như Việt Nam muốn "quốc tế hóa" vấn đề Biển Đông, điều mà phía Trung Quốc không tán thành. Lập trường của Bắc Kinh chỉ muốn giải quyết tranh chấp biển đảo "song phương" với từng nước có xung đột với Trung Quốc gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei.
Trung Quốc cũng không muốn nói chuyện Biển Đông với ASEAN như một khối 10 quốc gia vì có 5 nước không có quyền lợi ở Biển Đông và không có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc gồm Thái Lan, Tân Gia Ba, Miến Điện, Lào và Cao Miên.
Đây là nguyên nhân tại sao ASEAN không thể đoàn kết và thống nhất quan điểm trong khi thảo luận tìm giải pháp cho xung đột Biển Đông với Trung Quốc.
Nhưng liệu Mỹ có sẵn sàng đứng mũi chịu sào đứng ra làm đầu tầu để tổ chức "một diễn đàn an ninh cấp cao thường niên" với khối ASEAN và các nước lớn khác để giải quyết vấn đề Biển Đông ?
Hay liệu Trung Quốc có từ bỏ lập trường "chỉ thảo luận song phương với nước nào có tranh chấp" để tham gia một diễn đàn quốc tế về Biển Đông ?
Đề nghị thứ 2 của Tiến sĩ Lại Thái Bình có vẽ táo bạo vì ông muốn Mỹ không chỉ "tăng cường năng lực cho mỗi bên liên quan đào tạo, huấn luyện" mà còn muốn hai nước "diễn tập chung" và " trao đổi thông tin liên quan sự phát triển của Biển Đông".
Rõ ràng sáng kiến này liên quan đến chính sách quốc phòng của Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng sách trắng Quốc phòng 2019 của Việt Nam đã minh thị "4 không", thay đổi từ "3 không" trước đây.
Sách trắng viết rằng : "Việt Nam chủ trương :
1. không tham gia liên minh quân sự ;
2. không liên kết với nước này để chống nước kia ;
3. không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác ;
4. không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Nhưng "điểm 4 mới" nên được hiểu như thế nào trong hoàn cảnh của Việt Nam ? Phải chăng lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam muốn bắn tiếng với đàn anh Trung Quốc rằng "chúng em sẽ không gây chiến với bất kỳ nước nào, vì chúng em chỉ muốn được yên thân" ?
Nhưng nếu Bắc Kinh hành quân xâm lược Việt Nam cả trên bộ lẫn ngoài khơi thì Việt Nam làm gì ?
Chắc chắn chế độ cộng sản Việt Nam sẽ không được Mỹ "tự động yểm trợ và bảo vệ" như Mỹ hứa sẽ bảo vệ Phi Luật Tân khi bị nước ngoài tấn công. Thỏa hiệp quốc phòng Mỹ-Phi ký ngày 30/08/1951 tại Hoa Thịnh Đốn gồm 8 điều đã minh thị rằng : "Hai nước sẽ yểm trợ nhau nếu Phi Luật Tân hay Hoa Kỳ bị tấn công bởi lực lượng bên ngoài" (1).
Trung Quốc cảnh cáo Việt Nam
Cũng đáng chú ý là bốn ngày sau khi bài viết của Tiến sĩ Lại Thái Bình xuất hiện trên báo Thế giới & Việt Nam của Bộ Ngoại giao, Phó Thủ tướng, Bộ trường Ngoại giao Phạm Bình Minh đã có Hội nghị trực tuyến lần thứ 12 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, ngày 21/07/2020, với Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị của Trung Quốc.
Tại diễn đàn này, theo tin Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Minh "đã nêu quan ngại trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông gần đây ; đề nghị hai bên kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung cấp cao và Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc ; tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ; thúc đẩy các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển đạt kết quả thực chất ; thực hiện toàn diện, hiệu quả DOC ; thúc đẩy đàm phán COC sớm đạt kết quả thực chất".
Tuy nhiên, phía Việt Nam đã giấu nhẹm phát biểu lên lớp Việt Nam của Vương Nghị.
Đài Phát thanh quốc tế Trung Hoa (CRI, China Radio International) đưa tin trong bản tiếng Việt ngày 22/07/2020 : "Về vấn đề Nam Hải, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị cho biết, Nam Hải là quê nhà chung của chúng ta, Trung Quốc và ASEAN vĩnh viễn là láng giềng, tìm kiếm hòa bình, thúc đẩy phát triển là nguyện vọng chung của chúng ta. Chính sách Nam Hải của Trung Quốc không thay đổi, giữ bền vững".
Sau khi giáo đầu như thế, họ Vương lên án Mỹ : "Xuất phát từ nhu cầu địa chiến lược, Mỹ châm ngòi thổi gió ở khắp nơi, liên tục cử tàu chiến và máy bay diễu võ dương oai tại Nam Hải, mục đích là nhằm gây ra sự bấp bênh căng thẳng trên Nam Hải, phá hoại đoàn kết giữa các nước trong khu vực, làm hỏng triển vọng phát triển của các nước và khu vực, các nước trong khu vực cần nêu cao cảnh giác".
Vương Nghị nói với ông Phạm Bình Minh : "Trung Quốc và Việt Nam cần kiên trì kiểm soát bất đồng thông qua đối thoại và hiệp thương song phương theo nhận thức chung đạt được giữa Lãnh đạo tối cao hai đảng và hai nước, tìm kiếm giải pháp công bằng và hợp lý theo một loạt thỏa thuận ký giữa hai bên. Trung Quốc và Việt Nam còn cần cùng các nước ASEAN, tuân thủ "Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Nam Hải" (DOC, Declaration on the Conduct of the Parties in the South China Sea), thúc đẩy tham vấn về "Bộ Quy tắc ứng xử trên Nam Hải" (COC, Code of Conduct), không dành bất cứ cơ hội nào cho sự quấy rối và phá hoại của thế lực bên ngoài".
Vương Nghị nói đến COC, nhưng sự thật là Trung Quốc đã tìm mọi cách trì hoãn thảo luận nghiệm chỉnh để hoàn tất văn kiện có tính ràng buộc pháp lý đối với các bên vi phạm.
Nhưng tại sao cuộc thương thảo giữa khối ASEAN và Trung Quốc đã kéo dài gần 4 năm mà chưa đi đến đâu ?
Theo quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, một học giả về bang giao quốc tế, thì : "Trở ngại chính là các nước ASEAN không đoàn kết và nhất trí vì quyền lợi bất đồng và bị Trung Quốc chi phối, trong khi đó Trung Quốc muốn kéo dài việc ký kết để có thời gian thực hiện các "việc đã rồi" hầu có thế thượng phong trong việc thương thuyết. Ngoài ra trong khi ASEAN muốn bộ Quy tắc Ứng xử có tính cách ràng buộc thì Trung Quốc không muốn thế. Việt Nam muốn bộ Quy tắc Ứng xử áp dụng cho cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa, điều mà Trung Quốc không muốn. Đó là chưa kể những bất đồng về cơ chế giải quyết tranh chấp và cách tiếp cận trong việc xử lý tranh chấp".
Vậy ông Minh đã nói gì với Vương Nghị ? CRI viết : "Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã giới thiệu lập trường của Việt Nam trong vấn đề trên biển, cho biết sẵn sàng cùng Trung Quốc giữ gìn hòa bình và ổn định của Nam Hải, thúc đẩy sự hợp tác cùng phát triển trên biển, điều này phù hợp lợi ích của Việt Nam và Trung Quốc, cũng là nguyện vọng phổ biến của các nước trong và ngoài khu vực".
Rõ ràng trong tuyên bố của Vượng Nghị, ông ta đã cảnh giác khối ASEAN và riêng Việt Nam phải tỉnh táo trước các hành động của Mỹ ở Biển Đông, và "không dành bất cứ cơ hội nào cho sự quấy rối và phá hoại của thế lực bên ngoài".
Phía Trung Quốc cũng cố ý không nói đến việc ông Phạm Bình Minh đã "quan ngại trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông gần đây" với Vương Nghị.
Nên biết Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/01/1974 và sau đó từ 1988 đến 1995, chính thức chiếm thêm 7 đá gồm Châu Viên, Chữ Thập, Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Xu Bi và Vành Khăn trong Quần đảo Trường Sa.
Sau Vành Khăn bị mất năm 1995, Việt Nam coi như mất luôn quyền kiểm soát bãi Cỏ Mây, một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa nằm về phía đông nam của đá Vành Khăn. Hiện bãi Cỏ Mây đang bị tranh chấp giữa Phi Luât Tân và Trung Quốc.
Ngoài ra, Đài Loan cũng đã chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba Island), lớn nhất ở Trường Sa từ sau năm 1956. Đảo này có diện tích tối đa 0,4896 cây số vuông với chiều dài 1.400 mét, rộng 379 mét. Có tài liệu nói Đài Loan đã chính thức đem quân đội và dân cư đến sống và bảo vệ đảo từ năm 1971.
Như vậy, cho đến nay, Trung Quốc và Đài Loan đã chiếm 9 đảo và đá của Việt Nam thuộc Trường Sa.
Mất quyền dầu khí
Trong khi đó, theo tài liệu của Bách khoa toàn thư mở thì Việt Nam đang thực thi chủ quyền hợp pháp tại 21 điểm đảo. Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, đã chia thành thành 2 nhóm đảo, tuyến Bắc Trường Sa và Nam Trường Sa.
Ông nói : "Các đảo phía Bắc Trường Sa mà Việt Nam đang canh giữ, thực thi chủ quyền gồm 10 đảo, đá : Song Tử Tây, Đá Nam, Đá Thị, Sơn Ca, Nam Yết, Len Đao, Cô Lin, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Đá Lớn. Các đảo phía Nam Trường Sa mà Việt Nam đang bảo vệ gồm 11 đảo, đá : Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Phan Vinh, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan, Đá Tây, Đá Đông, Đá Lát" (theo Infonet).
Tuy kiểm soát nhiều vị trí nhưng quân đội Việt Nam vẫn không có sức mạnh quân sự như Trung Quốc ở Biển Đông. Ngược lại Trung Quốc đã bồi đắp, tân tạo và xây dựng các vị trí ở Trường Sa thành căn cứ quân sự với bến cảng và sân bay. Ít nhất Bắc Kinh đã biến các đá Chữ Thập, Vành Khăn và Subi thành căn cứ quân sự với sân bay và doanh trại kiên cố để đe dọa trực tiếp vào quân trú phòng Việt Nam.
Riêng đảo Gạc Ma, nơi đã xẩy ra cuộc thảm sát đẫm máu ngày 14/03/1988 khiến 64 binh sĩ cộng sản Việt Nam bởi hải quân Trung Quốc. Được biết, chính cố Đại tướng Lê Đức Anh, khi ấy là Bộ trưởng Quốc phòng, đã ra lệnh cho bộ đội Việt Nam không được nổ súng.
Ngày nay, Gạc Ma đã được Trung Quốc tân tạo và xây dựng thành căn cứ quân sự kiên cố với sân bay, doanh trại 6 tầng và hệ thống radar tối tân. Gạc Ma sẽ là nút thắt cắt đường liên lạc và tiếp vận từ đất liền với binh sĩ Việt Nam đồn trú ở Trường Sa, nếu xẩy ra chiến tranh.
Trung Quốc cũng đã áp lực Việt Nam phải hủy bỏ một số dự án tìm kiếm dầu khí ở khu vục nam Hoàng Sa và ở Trường Sa, trong số này có nhiều đại công ty đã bỏ Việt Nam gồm BP (Anh, 2008), ConocoPhillips (2012), Chevron (Mỹ, 2015), Repsol (Tây Ban Nha, 2018).
Mới đây, ngày 9/7/2020, liên doanh dầu khí Rosneft PetroVietnam đã hủy hợp đồng khoan dầu với công ty Noble Corporation tại Lô 06-01 vì bị áp lực từ Trung Quốc.
Vị trí Lô 06-01 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính, cách bờ biển Vũng Tầu 160 hải lý (370 cây số) hướng Đông-Nam. Trung Quốc tự coi bãi Tư Chính nằm trong khu vực Đường Chín Đoạn, hay Đường lưỡi bò do Bắc Kinh tự vẽ để giành quyền chủ quyền.
Với tình hình vừa kể, liệu bài viết của Tiến sĩ Lại Thái Bình muốn Mỹ nhảy vào giúp giải quyết xung đột Biển Đông với Trung Quốc có nên được coi là Việt Nam muốn Mỹ cứu nguy, hay Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua nỗi sợ Trung Quốc ?
Phạm Trần
(27/07/2020)
(1) "The overall accord contains eight articles and dictates that both nations would support each other if either the Philippines or the United States are attacked by an external party"
Ngoại trưởng Mỹ lên án Trung Quốc "xâm lược" Ấn Độ (RFI, 09/07/2020)
Vụ đụng độ giữa quân đội Ấn Độ và Trung Quốc ở Ladakh, khiến 20 người chết bên phía Ấn Độ, là "hành vi xâm lược" của Trung Quốc, theo nhận định của ngoại trưởng Mỹ trong buổi họp báo ngày 08/07/2020. Ngoài ra, ông Pompeo còn lên án "cách hành động hung hăng không thể tin nổi" của Trung Quốc.
Ngoại trưởng Mike Pompeo họp báo tại bộ Ngoại Giao Mỹ, Washington, Hoa Kỳ, ngày 08/07/2020. Reuters - Tom Brenner
Theo AFP, vấn đề căng thẳng biên giới ở khu vực Ladakh đã được ông Pompeo đề cập nhiều lần với đồng nhiệm Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar. Trong lần đụng độ vừa qua, ngoại trưởng Mỹ cho rằng "Ấn Độ đã đáp trả một cách tốt nhất".
Không chỉ hung hăng với Ấn Độ, Bắc Kinh còn có chính sách "hăm dọa" Butan nhỏ bé khi phản đối việc quốc gia nhỏ bé này vay một khoản tín dụng quốc tế để lập khu bảo tồn thiên nhiên ở phía đông Butan, nằm trên dãy Himalaya.
Ngoại trưởng Mỹ cho rằng "thế giới không thể cho phép những hành vi hăm dọa như vậy… từ dãy Himalaya đến vùng biển của Việt Nam hoặc ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, cũng như những nơi khác".
Trong bối cảnh căng thẳng Mỹ-Trung trên mọi lĩnh vực, Bắc Kinh kêu gọi cải thiện quan hệ ngoại giao với Washington, vì chính sách của Mỹ hiện nay dựa trên "những đánh giá sai lầm chiến lược thiếu cơ sở thực tế". Thông điệp được đăng trên trang web của bộ Ngoại Giao Trung Quốc ngày 09/07 và được Reuters trích dẫn, còn đề nghị hai bên "cùng khai thác những cách chung sống hòa bình".
Thu Hằng
**********************
Ấn Độ tẩy chay hàng Trung Quốc : Nói dễ, làm khó (RFI, 07/07/2020)
Dùng đòn kinh tế để trả đũa Bắc Kinh sau xung đột ở biên giới Ấn - Trung là một bàn thua được báo trước đối với chính quyền New Delhi. Trên đây là nhận định của nhà báo Patrick de Jacquelot, nguyên là phóng viên của báo kinh tế Les Echos tại Ấn Độ về chiến dịch vận động quần chúng "tuyên chiến" với hàng Made in China.
Ấn Độ và Trung Quốc : tranh chấp lãnh thổ không ngăn cản đôi bên hợp tác về kinh tế. Reuters/Kim Kyung-Hoon
Chỉ vài giờ sau xung đột ở biên giới Ấn - Trung trong vùng thung lũng Ladakh trên dãy Himalaya, đã rộ lên những lời kêu gọi tẩy chay các công ty và hàng Trung Quốc. Rồi lời nói đi đôi với hành động : Hình ảnh một cư dân tại bang Gujarat liệng màn hình tivi Made in China qua cửa sổ đã được truyền thông Ấn Độ loan tải ra khắp thế giới. Tại thủ đô New Delhi, một quan chức địa phương trên mạng xã hội Whatsapp "tuyên chiến" với những sản phẩm xuất xứ từ Trung Quốc. Một viên tướng về hưu xem việc tẩy chay hàng Trung Quốc là hình thức cụ thể nhất để "tấn công vào cột sống" của nước láng giềng muốn xâm lấn lãnh thổ của Ấn Độ.
Cố gắng trả đũa để giữ thể diện quốc gia ?
Về mặt chính thức, hai tuần sau vụ đụng độ đẫm máu trên dãy Himalaya, New Delhi tìm nhiều cách để "trả đũa" Bắc Kinh. Biện pháp thứ nhất là ban hành lệnh cấm người dân Ấn Độ sử dụng 59 ứng dụng do các tập đoàn Trung Quốc cung cấp, trong lúc 65% điện thoại di động đang lưu hành tại quốc gia Nam Á này đều mang nhãn hiệu Trung Quốc. Chỉ riêng ứng dụng chia sẻ video như TikTok cũng của Trung Quốc đang thu hút đến 120 triệu thanh niên Ấn Độ và đây cũng là thị trường lớn nhất của TikTok ngoài Hoa lục.
Kế tới là việc tăng cường các hàng rào thuế quan nhắm vào 300 mặt hàng nhập từ Trung Quốc. Chính quyền Modi cũng đã "mạnh mẽ khuyến khích" cơ quan Nhà nước "giảm mức độ lệ thuộc" vào hàng Trung Quốc. Cổng mua bán trên mạng Government E-market của Nhà nước yêu cầu các nhà cung cấp ghi rõ xuất xứ những mặt hàng bán ra ở địa chỉ này.
Gần như cùng lúc, New Delhi tăng tốc thắt chặt luật đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là nhằm cản đường các nhà đầu tư Trung Quốc muốn mở thêm địa bàn trên xứ sở của Bollywood. Cũng chính quyền của thủ tướng Narendra Modi kêu gọi các tập đoàn viễn thông Ấn Độ "tránh" mua trang thiết bị của Hoa Vi. Một phương tiện khác nữa cho phép Ấn Độ "thọc gậy bánh xe" nước láng giềng là kéo dài thủ tục hành chính ở hải quan mỗi khi hàng của Trung Quốc cập các cảng Ấn Độ trước khi được chuyển đi tiếp sang một quốc gia thứ ba.
Hiệu quả nào khi đang lệ thuộc vào giao thương với Trung Quốc về nhiều mặt ?
Câu hỏi đặt ra liệu Ấn Độ có đủ sức dùng đòn kinh tế trả đũa Trung Quốc vụ giao tranh đẫm máu, cướp đi sinh mạng 20 quân nhân Ấn Độ ở đường biên giới chung giữa hai nước hay không ?
RFI Việt ngữ đặt câu hỏi với nhà báo độc lập Patrick de Jacquelot của báo Asialyst. Ông từng là thông tín viên thường trực của nhật báo kinh tế Les Echos tại New Delhi trong nhiều năm.
"Trao đổi mậu dịch Ấn-Trung cho đến năm 2019 là như sau : Ấn Độ xuất khẩu 16,3 tỷ đô la sang Trung Quốc và mua vào 65,3 tỷ hàng Trung Quốc. Như vậy Ấn Độ bị thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc gần 50 tỷ đô la và đó là một số tiền rất lớn. Nhìn qua, có vẻ như việc tẩy chay hàng Trung Quốc có hại cho phía Bắc Kinh. Sự thật hoàn toàn ngược lại bởi vì 14 % hàng của Ấn Độ làm ra để bán cho Trung Quốc. Trong chiều ngược lại thì Ấn Độ chỉ chiếm có từ 1 đến 2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Thành thử Ấn Độ có tẩy chay hàng Trung Quốc đi chăng nữa, cỗ máy xuất khẩu Trung Quốc không hề hấn gì bởi thị trường Ấn Độ không chiếm một vị trí quá lớn trong số những khách hàng của Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, nếu Trung Quốc ngưng mua hàng của Ấn thì các công ty Ấn Độ sẽ rất kẹt".
Trung Quốc là đối tác thương mại thứ nhì của Ấn Độ chỉ sau có Mỹ. Ấn Độ và Trung Quốc là hai mắt xích quan trọng trong dây chuyền cung ứng của toàn cầu. Về thương mại, hai nước đông dân nhất địa cầu này rất cần lẫn nhau vậy về mặt cơ cấu đôi bên trao đổi với nhau những gì ? Patrick de Jacquelot đi sâu thêm vào chi tiết.
"Có thể nói Ấn Độ chủ yếu bán nguyên liệu cho Trung Quốc và mua vào những mặt hàng có giá trị gia tăng. Thí dụ như bán sắt cho Trung Quốc nhưng mua vào thép, mua vào đồ điện và máy móc, vi tính… mà Trung Quốc làm ra. Những mặt hàng đó tối cần thiết cho đời sống hàng ngày của mỗi người dân Ấn Độ. Nhìn đến công nghệ cao, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu cho Ấn Độ. 80 % trang thiết bị năng lượng mặt trời của Ấn Độ được mua từ Trung Quốc ; 40 % trang thiết bị điện tử của Ấn Độ được nhập từ Trung Quốc và ngành công nghiệp xe hơi Ấn Độ lệ thuộc đến 25 % vào phụ tùng của Trung Quốc. Nói cách khác, cho dù là một ngành công nghiệp mũi nhọn, nhưng nếu không có Trung Quốc thì sẽ không có xe hơi Ấn Độ".
Thỏa mãn niềm tự hào dân tộc
Theo quan điểm của nhà báo Jacquelot, kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc chỉ nhằm mục đích xoa dịu công luận Ấn Độ phẫn nộ vì cái chết của 20 người lính ở biên giới Ấn - Trung. Ông giải thích tiếp :
"Chẳng vậy mà từ khi New Delhi kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc, chỉ trong vỏn vẹn khoảng một chục ngày, chính phủ đã hai lần nới lỏng biện pháp trả đũa Bắc Kinh gây hấn ở biên giới Ấn Trung. Hôm 30 tháng 6 chính quyền Ấn Độ đã nới lỏng các biện pháp cấm vận nhắm vào các sản phẩm cần thiết nhất trong ngành dược phẩm. Tuy rằng đây là một công nghệ xuất khẩu quan trọng của Ấn Độ nhưng các hãng dược phẩm Ấn lại lệ thuộc đến 60 % vào nguyên liệu nhập từ Trung Quốc. Cùng một ngày New Delhi cũng đã rút lại biện pháp đòi trừng phạt các tập đoàn nước ngoài hiện diện tại Ấn Độ làm ăn với Trung Quốc. Các tên tuổi như Samsung, Honda hay Toyota bị đưa vào danh sách này nhưng trừng phạt các tập đoàn nói trên thì chính nền công nghiệp của Ấn Độ bị thiệt hại trước hết".
Từ công nghệ cao cho đến dược phẩm và ngay cả những mặt hàng điện tử thông dụng nhất, hay đầu tư nước ngoài, Ấn Độ đều cần Trung Quốc. Nhà báo Patrick de Jacquelot nhấn mạnh kinh tế không là yếu tố gây căng thẳng giữa New Delhi và Bắc Kinh. Xung đột giữa hai ông khổng lồ Châu Á này nằm ở vế ngoại giao và tranh chấp lãnh thổ :
"Vấn đề cốt lõi không nằm trong địa hạt kinh tế, mà xung đột Ấn - Trung thuộc về phạm trù ngoại giao và nhất là tranh chấp biên giới. Ấn Độ và Trung Quốc hoàn toàn không có tranh chấp về kinh tế hay thương mại. Nếu như trong những ngày sắp tới New Delhi và Bắc Kinh thu xếp được với nhau để làm dịu tình hình, thì sẽ không còn mấy ai chú ý tới kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc nữa. Ngược lại, nếu tình hình xấu đi thêm Ấn Độ bắt buộc phải cứng giọng hơn nữa. Nhưng như tôi vừa trình bày, khả năng hành động của New Delhi về mặt này rất hạn hẹp. Về kinh tế, Ấn Độ và Trung Quốc đang cần lẫn nhau. Ấn Độ cần hàng của Trung Quốc. Còn với Bắc Kinh, Ấn Độ là một thị trường đầy tiềm năng không thể bỏ qua".
Tranh chấp lãnh thổ và lợi ích kinh tế
Đây là lần đầu tiên từ năm 1975 máu lại đổ vì xung đột ở đường biên giới. Nhưng căng thẳng Ấn - Trung thì từ hơn 50 năm qua vẫn âm ỉ. Tình hình đã căng lên trở lại từ đầu tháng 5/2020 và đỉnh điểm là đêm 15 rạng sáng 16/06/2020 khi hàng trăm binh lính đôi bên lao vào một trận giáp lá cà. Chuyên gia quân sự Abhijit Iyer Mitra thuộc Viện Nghiên cứu về Hòa bình và các cuộc xung đột (IPCS) của Ấn Độ lưu ý tình hình tại biên giới Ấn - Trung nóng lên đúng vào lúc New Delhi vừa cấp giấy phép cho một tập đoàn Úc khoan ba đường hầm lớn trong khu vực thung lũng Ladakh, đồng thời chính quyền cũng đã bật đèn xanh cho các dự án xây dựng hơn 60 trục lộ dài tổng cộng hơn 3.300 cây số dọc theo đường biên giới Ấn - Trung. Tất cả các dự án đó cho phép Ấn Độ mở rộng cơ sở hạ tầng tại một vùng lãnh thổ mang tính chiến lược này đối với Bắc Kinh.
Đành rằng Ấn Độ và Trung Quốc không có hiềm khích về kinh tế hay thương mại, nhưng dự án của New Delhi phát triển vùng thung lũng Ladakh tại một địa điểm nhậy cảm trên dãy Himalaya phần nào châm ngòi cho xung đột đẫm máu hôm 15/06/2020. Vấn đề còn lại là đôi bên liệu sẽ có dừng lại đúng lúc trước khi bước qua lằn ranh đỏ của một sự can thiệp quân sự hay không ?
Thanh Hà
Tổng thống Trump thay đổi lập trường, tuyên bố ‘hoàn toàn ủng hộ đeo khẩu trang’ (VOA, 02/07/2020)
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dường như đã thay đổi lập trường về việc đeo khẩu trang nơi công cộng khi ông nói trong một cuộc phỏng vấn rằng ông "hoàn toàn ủng hộ việc đeo khẩu trang".
Tổng thống Donald Trump cầm khẩu trang trên tay trong lúc nói chuyện tại nhà máy của hãng Ford ở Rawsonville ngày 21/5/2020.
Thậm chí, nhà lãnh đạo Mỹ còn nói với Fox Business rằng ông nghĩ đeo khẩu trang khiến ông trông giống nhân vật hư cấu "Kỵ sĩ cô độc" (Lone Ranger).
"Tôi hoàn toàn ủng hộ đeo khẩu trang. Tôi nghĩ đeo khẩu trang là tốt. Mọi người đã thấy tôi đeo một lần", AP dẫn lại lời ông Trump nói với Fox Business.
Bình luận của ông Trump được đưa ra một ngày sau khi các nhà lập pháp đảng Cộng hòa đề nghị ông đeo khẩu trang ở nơi công cộng để làm gương tốt cho người Mỹ.
Ông Trump lâu nay không mặn mà với việc đeo khẩu trang.
Đầu tháng 4, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) khuyến cáo mọi người nên đeo khẩu trang ở những nơi công cộng, là những nơi khó có thể duy trì các biện pháp giãn cách xã hội.
Ông Trump ngay lập tức nói hạ giảm về hướng dẫn của CDC với lời tuyên bố thẳng thừng rằng ông sẽ không tuân theo, nói rằng tổng thống đeo khẩu trang là không lịch sự khi gặp các nguyên thủ quốc gia.
Hôm 1/7, ông Trump thay đổi giọng điệu và nói rằng : "Tôi đã đeo khẩu trang. Tôi cũng thích diện mạo đeo khẩu trang của mình. Được. Tôi nghĩ rằng chuyện đó ổn. Đó là một đồ che mặt màu đen và tôi nghĩ rằng nó trông ổn".
"Trông giống như Lone Ranger", Tông thống Mỹ nói thêm, đề cập đến một nhân vật đeo mặt nạ đen trong phim Viễn Tây Mỹ.
"Tôi không có vấn đề gì với chuyện đó. Nếu mọi người cảm thấy tốt thì họ nên làm".
Gần đây, nhiều đảng viên Cộng hòa và thành viên của lực lượng chuyên trách về chống virus corona của Nhà Trắng đã thẳng thắn hơn trong việc ủng hộ người Mỹ đeo khẩu trang nơi công cộng khi tình trạng dịch bệnh đã lan khắp miền nam và miền tây nước Mỹ.
Ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, cựu Phó Tổng thống Joe Biden, tuần trước nói rằng ông sẽ quy định bắt buộc đeo khẩu trang nếu đắc cử.
Trong cuộc phỏng vấn hôm 1/7, ông Trump cho rằng một quy định bắt buộc là không cần thiết và tiếp tục bảo lưu ý kiến cho rằng đeo khẩu trang là lựa chọn của mỗi người.
*********************
Mỹ : Số ca nhiễm Covid-19 hàng ngày tăng kỷ lục (VOA, 02/07/2020)
Hoa Kỳ ngày 30/6 loan báo số ca Covid-19 tăng kỷ lục : 47.000 ca, mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ khi đại dịch bắt đầu.
Bác sĩ Anthony Fauci, người đứng đầu Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ, điều trần tại một ủy ban Thượng viện hôm 30/6/2020
Các ca nhiễm mới trải dài từ các tiểu bang miền tây nam Arizona và Texas đến tiểu bang miền tây California, số ca nhiễm tăng cao cũng được ghi nhận tại các tiểu bang đông nam Florida, Georgia và South Carolina.
Số ca nhiễm Covid-19 tăng cao trên toàn nước Mỹ khiến bác sĩ Anthony Fauci, người đứng đầu Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia, tuyên bố tại một ủy ban Thượng viện hôm 30/6 rằng theo tỉ lệ hiện nay thì có thể lên tới 100.000 ca một ngày nếu không có biện pháp chế ngự.
"Rõ ràng hiện nay chúng ta không hoàn toàn kiểm soát được", bác sĩ Fauci điều trần. Ông cảnh báo là nếu chỉ chú trọng đến những tiểu bang đang có những ca nhiễm mới tăng cao nhất thì "đặt toàn thể đất nước trong vòng nguy hiểm".
Trong lúc bác sỉ Fauci điều trần tại Điện Capitol, thống đốc New York, New Jersey và Connecticut, ba tiểu bang vùng đông bắc lúc đầu chịu ảnh hưởng đại dịch nặng nề nhất, bổ sung vào danh sách du khách phải tự cách ly 14 ngày khi đến đây tên của 8 tiểu bang gồm California, Georgia, Idaho, Iowa, Louisiana, Mississippi, Nevada và Tennessee.
Danh sách trước đó bao gồm Alabama, Arizona, Arkansas, Florida, North Carolina, South Carolina, Texas và Utah.
Đợt lây nhiễm mới tăng cao khiến thống đốc Florida, Texas, và California làm chậm lại kế hoạch tái mở cửa nền kinh tế, ra lệnh các quán rượu và nhà hàng đóng cửa và buộc tất cả cư dân phải mang khẩu trang.
Với việc Mỹ dẫn đầu thế giới về số ca virus corona, vượt quá 2,6 triệu và 127.000 người chết, hành khách từ Mỹ bị gạt ra khỏi danh sách các nước được EU dỡ bỏ lệnh cấm nhập cảnh.
Gần 10,5 triệu người xét nghiệm dương tính với Covid-19 kể từ khi virus được phát hiện đầu tiên tại Trung Quốc cuối năm ngoái, trên 500.000 người thiệt mạng.