Hơn một tuần nay, công chúng người Việt trong và ngoài nước xôn xao trước một sự kiện hy hữu. Trong cuộc tiếp xúc cử tri sau kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV tại Sài Gòn hôm 19/6, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã phát biểu là đồng ý cần có luật biểu tình, sau khi nghe khi cử tri kiến nghị là cần thiết phải có luật này. Nhân vật đứng đầu bộ máy nhà nước hiện hành còn nói thêm là ông "sẽ báo cáo Quốc hội về nội dung này".
Chủ tịch Việt Nam Trần Đại Quang (trái) tới thăm chùa Mahabodhi, Bodhgaya Ấn Độ ngày 02/03/2018. AFP
Thoạt tiên, một loạt báo chí "lề đảng" đã đưa tin về cuộc tiếp xúc cử tri của ông Trần Đại Quang với những nội dung khiến dư luận bất ngờ nói trên. Tuy nhiên, chỉ vài tiếng sau, những câu chữ "nhạy cảm" ấy đã bị xóa sạch.
Đây quả là một sự kiện vô cùng hy hữu. Lần đầu tiên, một nhân vật số 2 của chế độ công khai bày tỏ "cần luật biểu tình", và cũng lần đầu tiên một kẻ "dưới một người, trên muôn người" trong "thời đại Hồ Chí Minh" bị bịt miệng ngay trước mắt bàn dân thiên hạ.
Vây thực hư sự thể thế nào ? Liệu nhà lãnh đạo số 2 của hệ thống có phải là một nhân vật tiến bộ, vì dân vì nước hay hay không ? (Nếu đúng vậy thì xem ra đất nước này vẫn còn hồng phúc lắm).
Để tìm câu trả lời cho câu hỏi trên, xin mời quý độc giả quay trở lại với một trong hai chủ đề đang khiến dư luận nổi sóng suốt hơn 1 tháng qua, bên cạnh Dự luật Đặc khu – đó là Luật An ninh mạng.
Ngày 11/6/2018, trang Luật khoa Tạp chí đăng bài "Ai là tác giả của Dự luật An ninh mạng ?" của tác giả Hoàng Anh. Trong bài viết, sau khi đưa ra những dẫn chứng thuyết phục, tác giả đã kết luận : "Thật khó có thể nghĩ theo hướng nào khác, ngoài việc Chủ tịch nước Trần Đại Quang là người thực sự đã thúc đẩy Dự luật An ninh mạng và là người bảo trợ lớn nhất cho dự luật này".
Vậy nghĩa là sao ? Một nhân vật vừa thể hiện lập trường tiến bộ và rất đáng hoan nghênh về luật biểu tình, "món nợ" nhân dân gần ba phần tư thế kỷ của một chế độ vẫn vỗ ngực tự xưng là "dân chủ gấp triệu lần tư bản", lại có thể là người thực sự đã thúc đẩy và bảo trợ lớn nhất cho một dự luật mà hàng triệu người Việt trong và ngoài nước cùng cộng đồng quốc tế gay gắt lên án – bởi nó kìm hãm sự phát triển của đất nước – hay sao ?
Bổn cũ soạn lại
Ngược dòng thời gian, Chủ tịch nước Trần Đại Quang không phải là nhân vật "tứ trụ" đầu tiên công khai bày tỏ sự ủng hộ đối với luật biểu tình. Gần 7 năm trước, tại phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội và được truyền hình trực tiếp ngày 25/11/2011, (cựu) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khiến hàng triệu người Việt trong và ngoài nước "nức lòng nức dạ" khi lên tiếng đề nghị Quốc hội "sớm có luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền đã được ghi trong Hiến pháp".
Cùng bày tỏ thái độ ủng hộ luật biểu tình, nhưng với quãng cách thời gian gần 7 năm, bối cảnh khi hai nhân vật lãnh đạo hàng đầu của chế độ lên tiếng về chủ đề này có gì giống nhau ?
Khi (cựu) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước diễn đàn Quốc hội ngày 25/11/2011 thì các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đang bị ngăn chặn gắt gao và đàn áp thẳng tay, sau khi UBND Thành phố Hà Nội ban hành bản Thông báo cấm biểu tình ngày 18/8/2011, vu cáo những người biểu tình chống Trung Quốc là "gây rối Thủ đô" và bị "các thế lực chống đối trong và ngoài nước" kích động.
Đông đảo người Việt trong và ngoài nước đã lên án bản Thông báo vi hiến và phi quy cách đó của chính quyền Hà Nội, đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam ban hành luật biểu tình để điều chỉnh một quyền tự do của người dân vốn đã được quy định trong Hiến pháp ngay từ năm 1946. (Theo nhà báo Huy Đức, không ai khác mà chính "đồng chí X" mới là "tác giả" đích thực của bản Thông báo cấm biểu tình đầy tai tiếng nói trên).
Khi Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu "đồng ý rằng cần luật biểu tình" trước cử tri ngày 19/6/2018, các cuộc biểu tình phản đối Dự luật Đặc khu và Dự luật An ninh mạng của người dân tại nhiều nơi trên cả nước đang bị nhà cầm quyền hoặc ngăn chặn gắt gao hoặc đàn áp khốc liệt, đặc biệt là các cuộc biểu tình diễn ra ngày 17/6/2018.
Một lần nữa, đông đảo người Việt lại lên án hành vi đàn áp người biểu tình và yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải trả "món nợ" luật biểu tình cho nhân dân.
Tháng 11/2011 là thời gian mà chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đang đứng trước nguy cơ bị truy vấn trách nhiệm về những món nợ quá hạn của Vinashin và nguy cơ sụp đổ của một loạt ngân hàng, trong khi lạm phát lên đến hơn 18%, chưa kể vô số tai tiếng tham nhũng cùng tình trạng các nhóm lợi ích dưới sự bảo trợ của ngài Thủ tướng tha hồ tác oai tác quái. Tức là uy tín của "đồng chí X" đã xuống đến tận đáy.
Tháng 6/2018 là thời gian mà Chủ tịch nước Trần Đại Quang đang bị bủa vây bởi hàng loạt tai tiếng về tham nhũng : vụ "thượng tá tình báo chiến lược" Phan Văn Anh Vũ (Vũ ‘nhôm’) trong Bộ Công an, vụ thượng tá Đinh Ngọc Hệ (Út ‘trọc’) trong Bộ Quốc phòng, vụ Đại Quang Minh ở Thủ Thiêm (Sài Gòn), vụ nhiều dự án đội giá hàng ngàn tỷ VNĐ ở Ninh Bình, v.v. Nghĩa là, hình ảnh của ngài Chủ tịch nước cũng xuống thấp chưa từng thấy.
Đến đây thì hẳn mọi người đã hiểu là vì sao "tác giả" của bản Thông báo cấm biểu tình ngày 18/8/2011 lại hùng hồn đề nghị Quốc hội ban hành luật biểu tình, cũng như vì sao "nhân vật bảo trợ lớn nhất" cho Dự luật An ninh mạng lại bỗng nhiên bày tỏ "cần luật biểu tình". Đơn giản, họ muốn lấy lòng công chúng để vừa vớt vát uy tín cá nhân, vừa cứu vãn cơ hội vươn tới ngôi vị quyền lực số 1.
Đừng nghe, hãy nhìn…
Gần 4 năm rưỡi tại nhiệm sau ngày 25/11/2011 ấy, "đồng chí X" không một lần trình dự luật biểu tình ra Quốc hội, bất chấp thực tế là ông ta có quyền và hoàn toàn có thể làm điều đó, ít nhất là để cho thiên hạ thấy mình không phải là một kẻ bịp bợm, đồng thời đẩy quả bóng trách nhiệm sang chân kẻ khác.
Còn đương kim Chủ tịch nước Trần Đại Quang thì sao ? Xin thưa, ông ta thậm chí còn chẳng (dám) lên tiếng phản đối khi bị "kiểm duyệt" một cách thô thiển như vậy.
Hai câu chuyện liên quan đến hai nhân vật chóp bu của chế độ nói trên lại khiến người ta không khỏi nhớ đến câu phát ngôn của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu : "Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm !".
Bất luận thế nào, trong môi trường quyền lực, chúng ta không nên đặt niềm tin tuyệt đối vào bất cứ ai, bởi kẻ nắm giữ quyền lực ngày hôm nay rất có thể đã "lột xác" so với cùng con người ấy ngày hôm qua. Quyền lực vì thế cần thường xuyên được giám sát và kiểm soát.
Dù vậy, với tư cách một trong hàng chục triệu nạn nhân của một đạo luật mà ngài Chủ tịch nước là "nhân vật bảo trợ chính", tôi vẫn phản đối việc nhân vật quyền lực số 2 của chế độ bị "kiểm duyệt" theo kiểu cách như trên. Một xã hội thiếu sự hiện hữu của quyền tự do ngôn luận cùng một nền báo chí tự do nghĩa là nó đã bị tước đoạt hai trong số những thiết chế quan trọng nhất để giám sát quyền lực nhà nước một cách hữu hiệu.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 30/06/2018
Suốt 1 tháng nay, Dự thảo Luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế Đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc (gọi tắt là Luật Đặc khu) đã gây nên một cơn bão phản đối trong dân chúng, khiến người ta liên tưởng tới bầu không khí chính trị - xã hội của Việt Nam sau vụ đại thảm hoạ môi trường thế kỷ do Formosa Hà Tĩnh gây ra hồi tháng 4 năm 2016.
Biểu tình chống 2 dự luật đặc khu và an ninh mạng.
Chưa bao giờ một dự luật do Chính phủ trình ra Quốc hội lại không chỉ khiến công luận phẫn nộ mà còn khiến nội bộ bộ máy cầm quyền chia rẽ đến thế.
Dù vậy, nếu chỉ nêu lên mặt tiêu cực của Dự luật Đặc khu thì e sẽ thiếu công bằng, bởi như người ta thường nói, đồng xu nào cũng có hai mặt. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhìn nhận những khía cạnh tích cực của dự luật đang gây bão dư luận đó.
Phơi bày dã tâm bán nước của một nhóm người
Trước hết cần phải khẳng định, Dự luật Đặc khu là một dự luật bán nước theo đúng nghĩa đen của từ này. Mở toang cửa ngõ đất nước để rước kẻ thù truyền kiếp vào chiếm lĩnh những vị trí đặc biệt xung yếu về an ninh quốc phòng không chỉ trong 50 năm, 70 năm hay 99 năm, như quy định về thời hạn cho thuê đất đặc khu, mà thậm chí đời đời kiếp kiếp (Điều 33 và Điều 34 của dự luật công nhận quyền thừa kế đối với nhà ở riêng lẻ, biệt thự nghỉ dưỡng, văn phòng làm việc kết hợp lưu trú… cho người nước ngoài) – đó chẳng phải là một dự luật bán nước thì là gì ?
Tại phiên thảo luận về Dự thảo Luật Đặc khu hôm 16/4/2018 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã nói huỵch toẹt : "Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật".
Như vậy, có thể nói, dã tâm bán nước mang tên "Dự luật Đặc khu" là ý chí của một nhóm người, hay đúng hơn là của một số nhân vật chóp bu trong Bộ Chính trị.
Hé lộ sự can thiệp của một thực thể ngoài vòng pháp luật vào Quốc hội
Việc bà Chủ tịch Quốc hội tiết lộ sự thật "Bộ Chính trị đã kết luận" cộng với Thông báo số 178/TB-VPCP ngày 11/5/2018 của Văn phòng Chính phủ về "Kết luận của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tại buổi họp lần thứ nhất của Ban Chỉ đạo" (trong đó nêu rõ "…Ban Chỉ đạo trong thời gian qua đã tích cực tổ chức triển khai thực hiện Kết luận số 21-TB/TW ngày 22 tháng 3 năm 2017 của Bộ Chính trị…") là cơ sở khả tín để người ta tin rằng tài liệu mang tên Kết luận số 21-TB/TW mà "ai đó" mới tung lên lên mạng vài tuần nay chính là văn bản của Bộ Chính trị mà Thông báo số 178/TB-VPCP đã đề cập.
Nội dung của Kết luận số 21-TB/TW cho thấy Bộ Chính trị là thực thể quyền lực cao nhất tại Việt Nam khi nó không chỉ "đồng ý thành lập ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt" mà còn "giao Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo Quốc hội xem xét thông qua Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và quyết định thành lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt". Và điều đó đã được chứng minh bằng câu phát ngôn "Bộ Chính trị đã kết luận rồi" của bà Chủ tịch Quốc hội.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định rõ : "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước". Trong khi đó, cũng trong Hiến pháp 2013, người ta không hề tìm thấy một dòng nào đề cập đến cái tên "Bộ Chính trị". Không chỉ vậy, trong tất cả các luật do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành từ trước tới nay cũng đều không hề có cụm từ "Bộ Chính trị".
Điều này có nghĩa là, Bộ Chính trị là một thực thể quyền lực nằm ngoài vòng pháp luật, tức là nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam hiện hành. Thật trớ trêu, chính thực thể nằm ngoài vòng pháp luật đó trên thực tế lại có quyền can thiệp và chỉ đạo cả "cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam" ( !).
Người xưa có câu : "Danh chính, ngôn thuận". ‘Danh’ của Bộ Chính trị không ‘chính’, nên dĩ nhiên ‘ngôn’ của nó không ‘thuận’. ‘Danh’ không ‘chính’, ‘ngôn’ không ‘thuận’ nên nó hiếm khi (dám) công bố những quyết định, chỉ thị hay kết luận của mình, như Kết luận số 21-TB/TW nói trên chẳng hạn. Thay vì thế, nó cứ hành xử như một thực thể quyền lực trong bóng tối. Xã hội Việt Nam vì vậy mà ngày càng rơi vào cảnh "thượng bất chính, hạ tắc loạn".
Cho thấy bóng ma Trung Quốc trong một dự luật của Việt Nam
Trong bài "Ba đặc khu, ba đại hiểm hoạ" trên VOA ngày 9/6/2018, tác giả đã chỉ ra một thực tế : chính Trung Quốc đã "tư vấn" cho Việt Nam về chiến lược phát triển đặc khu kinh tế. Theo Cổng Thông tin Điện tử Quảng Ninh, ngày 20/3/2014, tại thành phố Hạ Long, Ban Chỉ đạo Tổ chức Hội thảo quốc tế tỉnh Quảng Ninh và Trung tâm Nghiên cứu Đặc khu Kinh tế Trung Quốc thuộc Đại học Thâm Quyến (Quảng Đông, Trung Quốc) đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế mang tên "Phát triển Đặc khu kinh tế - Kinh nghiệm và Cơ hội". Tham dự cuộc hội thảo, ngoài lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh còn có lãnh đạo các tỉnh Khánh Hoà và Kiên Giang. Đây là cuộc hội thảo mà phía "bạn" đã quán xuyến thậm chí đến cả vấn đề kinh phí tổ chức hội thảo.
Trong một bài viết gần đây trên trang Bauxite Việt Nam, PGS.TS Hoàng Dũng thậm chí còn chỉ đích danh Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính chính là "tác giả" của Đề án Đặc khu Kinh tế. Đây là nhân vật mà thời gian còn làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ninh từng đề xuất cho (Trung Quốc) thuê đất với thời hạn lên tới 120 năm.
Khơi dậy lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân
Điều đặc biệt đáng ghi nhận của Dự luật Đặc khu, và có lẽ là điều mà nhà cầm quyền Việt Nam không ngờ tới, là nó đã khơi dậy không chỉ lòng yêu nước của người Việt trong và ngoài nước cũng như trong và ngoài hệ thống hiện hành, mà cả ý thức trách nhiệm công dân của đông đảo người Việt. Hàng triệu người Việt khắp nơi trên thế giới đã bày tỏ sự phẫn nộ của mình trước dã tâm bán nước của một nhóm người bằng nhiều hình thức đa dạng : bấm like, bình luận hoặc chia sẻ những bài viết phản đối ; ký thỉnh nguyện thư phản đối ; viết bài phản đối ; giương biểu ngữ phản đối… và cuối cùng là xuống đường biểu tình phản đối Dự luật Đặc khu.
Chưa bao giờ, kể từ sau năm 1975, tại Sài Gòn có một cuộc biểu tình phản đối nhà cầm quyền rầm rộ và nhiều cảm xúc đến vậy.
Chưa bao giờ, kể từ ngày Nam - Bắc thống nhất, trên cả nước lại đồng loạt diễn ra nhiều cuộc biểu tình phản đối bè lũ Việt gian bán nước đến vậy.
Chưa bao giờ, kể từ khi chế độ cộng sản ra đời năm 1945, có một dự luật khiến nhiều người trong bộ máy cầm quyền không chỉ thức tỉnh mà còn mạnh dạn bày tỏ thái độ đến vậy.
Và đến thời điểm này, khi Dự luật Đặc khu đang bị "ách lại" do gặp phải sự chống đối chưa từng thấy, hẳn nhiều người đã không khỏi thốt lên trong lòng : "Cám ơn Dự luật Đặc khu !"
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 27/06/2018
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bao phen dâu bể, hết nóng lại đến lạnh, hết thăng lại đến trầm, song có một thứ không bao giờ thay đổi – đó là dã tâm thôn tính dải đất hình chữ S của các bộ óc Đại Hán.
Phối cảnh nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lập 1. Ảnh Dân Trí
Trong kỷ nguyên của chiến tranh hiện đại, lợi dụng triệt để xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cộng với sự ngây thơ đến mức khờ khạo (nếu không muốn nói là chủ tâm bán nước) của ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam qua sách lược "biến đối tượng thành đối tác", Trung Quốc đã chiếm lĩnh được một loạt vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng của Việt Nam trên khắp cả nước.
Mục đích của các ông chủ Trung Nam Hải là thiết lập những gọng kìm Đại Hán hòng siết chặt dải đất hình chữ S từ bốn phương tám hướng, khiến Việt Nam không thể cựa quậy (hoặc nếu cựa quậy được "chưa đánh đã thua"), rồi chờ cơ hội thuận lợi biến Việt Nam thành "một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Trung Hoa".
Nhiệt điện than : vũ khí đa mục đích của Bắc Kinh
Trong mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc nhiều năm qua, có lẽ ai cũng nhận thấy một "điểm nhấn" nổi bật : nhiệt điện than. Hầu hết các nhà máy nhiệt điện ở Việt Nam đều do Trung Quốc hoặc đầu tư theo hình thức BOT, hoặc làm tổng thầu (EPC), hoặc cung cấp thiết bị.
Đây là một mũi tên trúng nhiều đích của Bắc Kinh. Thứ nhất, qua đó họ kiểm soát được an ninh năng lượng của Việt Nam. Các nhà máy nhiệt điện "made in China" ấy có thể ngừng hoạt động hoặc bị vô hiệu hoá bất cứ lúc nào, thậm chí có thể trở thành những quả bom nổ chậm chỉ còn chờ "kích hoạt".
Thứ hai, Việt Nam trở thành nơi tiêu thụ các loại máy móc, thiết bị nhiệt điện công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường cao, trong bối cảnh những năm gần đây Trung Quốc đã đóng cửa hàng loạt dự án nhiệt điện than thuộc loại này.
Thứ ba, nhà đầu tư Trung Quốc vốn là "bậc thầy" thiên hạ về những chiêu trò tha hoá quan chức các nước sở tại ; thế nên, bằng các khoản "lại quả" hậu hĩnh, mà thực chất là "lấy mỡ nó rán nó", Bắc Kinh có thể thao túng được một bộ phận quan chức Việt Nam từ trung ương đến địa phương rồi biến họ thành những "quân bài" phục vụ cho lợi ích lâu dài của các ông chủ Trung Nam Hải.
Cuối cùng, và đặc biệt nguy hiểm, thông qua các dự án nhiệt điện than, Trung Quốc có thể kiểm soát được những vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên khắp Việt Nam. Tình trạng các nhà máy và trung tâm nhiệt điện được thành lập tại những vị trí xung yếu rồi "nhà đầu tư" Trung Quốc được "phù phép" để trở thành chủ đầu tư dự án và "cắm chốt" tại đó trong hàng chục năm đã được chúng tôi cảnh báo từ mấy năm trước.
Chúng tôi đã vạch trần âm mưu vô cùng nham hiểm này của Bắc Kinh, thông qua "con ngựa thành Troy" Hoàng Trung Hải, tại Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân (xem bài "Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân và hiểm hoạ mất nước" trên VOA ngày 20/4/2015), Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải (xem bài "Báo động : Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải sắp trở thành căn cứ của Trung Quốc" trên VOA ngày 31/3/2016) và Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu (xem bài "Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu ?" trên VOA ngày 11/4/2016).
Bổn cũ soạn lại ?
Mấy ngày qua, truyền thông nhà nước đưa tin, Bộ Công thương đã đề nghị Chính phủ thay thế nhà đầu tư Dự án Nhiệt điện Quỳnh Lập 1 từ Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) bằng liên danh Geleximco - HUI (Công ty TNHH Hồng Kông United Investors Holding, Trung Quốc). Lý do là việc TKV không đủ năng lực tài chính sẽ làm chậm tiến độ triển khai, vận hành dự án vào năm 2022 - 2023 theo Quy hoạch điện VII quốc gia. Do vậy, Bộ Công thương mong muốn Thủ tướng Chính phủ "xem xét chấp thuận" đề xuất trên. Theo Bộ Công thương, nếu giao dự án này cho liên danh Geleximco - HUI, 80% tổng mức đầu tư dự án sẽ phải đi vay từ Trung Quốc.
Dự án Nhiệt điện Quỳnh Lập 1 nằm trên diện tích 150 ha, tổng vốn đầu tư 2,4 tỉ USD, gồm 2 tổ máy với tổng công suất 1.200 MW, được Chính phủ giao cho TKV làm chủ đầu tư. Đây là một trong hai dự án thuộc Trung tâm Điện lực Quỳnh Lập và được TKV làm lễ động thổ ngày 1/10/2015, nhưng từ đó đến nay dự án vẫn dẫm chân tại chỗ.
Tháng 3/2009, tại Công văn số 1388/VPCP-KTN, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải giao Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch địa điểm Trung tâm Điện lực Quỳnh Lập, tại xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một vị trí nằm ngay bên bờ Biển Đông, chỉ cách quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam vài km và đặc biệt là giáp cảng nước sâu Nghi Sơn. Khoảng cách từ Nghi Sơn đến các căn cứ quân sự của Trung Quốc trên đảo Hải Nam là chừng 300km.
Như vậy, có thể nói Trung tâm Điện lực Quỳnh Lập là một địa điểm nhạy cảm về an ninh quốc phòng. Nếu Dự án Nhiệt điện Quỳnh Lập 1 được giao cho Trung Quốc làm chủ đầu tư thì vô cùng nguy hiểm, bởi điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc có thể bố trí tại đây một đội quân túc trực trong hàng chục năm.
Khi hữu sự, đội quân nằm vùng sẽ mở đường cho lực lượng từ biển đổ bộ vào, khống chế cảng nước sâu Nghi Sơn để các tàu hải quân trọng tải lớn (mang theo các loại vũ khí hạng nặng) cập cảng.
Đến đây thì quý độc giả hẳn đã hiểu nguyên do vì sao Trung Quốc lại tìm cách thuê các khu rừng đầu nguồn giáp biên giới Việt - Lào ở Nghệ An từ nhiều năm trước : lực lượng nằm vùng tại đây sẽ mở đường cho cánh quân từ Vân Nam kéo sang Lào rồi theo quốc lộ 48A và quốc lộ 36 đánh xuống Hoàng Mai, hợp lực với cánh quân đổ bộ từ biển vào để chia cắt Việt Nam thành 2 phần tại khu vực này.
Xử lý thế nào ?
Trong cuộc họp Chính phủ ngày 4/5/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu các cấp chính quyền từ nay trở đi phải tuân thủ quy định : Ở những vị trí nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, việc thu hồi đất phải được thảo luận, lấy ý kiến của các cơ quan chức năng, cũng như lấy kiến của nhân dân để không tạo nên bức xúc và khiếu kiện đông người.
Vị trí Trung tâm Điện lực Quỳnh Lập trên bản đồ. Ảnh : Lê Anh Hùng
Vì vậy, mặc dù Dự án Nhiệt điện Quỳnh Lập 1 đã được giao cho TKV làm chủ đầu tư, nhưng nay nếu muốn giao lại cho liên danh Geleximco - HUI, kéo theo những hệ luỵ về ô nhiễm môi trường và đặc biệt là về an ninh quốc phòng, Bộ Công thương phải tổ chức thảo luận, lấy ý kiến của các cơ quan chức năng và nhân dân địa phương. Việc họ chưa thực hiện thủ tục bắt buộc đó mà đã trình Thủ tướng rõ ràng là sai về mặt quy trình, trái với chỉ đạo của Thủ tướng.
Nhân sự kiện Bộ Công an phối hợp với Bộ Công Thương, UBND Thành phố Đà Nẵng và Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa hệ thống truyền tải điện 500KV vào "Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia", chúng tôi đã viết bài "Mất bò mới lo làm chuồng". Lý do thật đơn giản, Trung Quốc gần như là đối tượng duy nhất luôn đe doạ và nhăm nhe xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam.
Trong khi đó, hết "Thép Cà Ná" lại đến "Nhiệt điện Quỳnh Lập 1", xem ra "nhóm lợi Tàu" đã bén rễ chắc chắn tại Bộ Công Thương, bộ ngành quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VNTB, 25/06/2018
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV từ ngày 21/5 đến 15/6 diễn ra trong bối cảnh sự kiện Dự luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế Đặc biệt (Dự luật Đặc khu) gây nên làn sóng phẫn nộ trong dân chúng gần cả tháng nay, đồng thời châm ngòi cho một loạt cuộc biểu tình với quy mô chưa từng thấy tại nhiều địa phương trên cả nước.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gặp Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 2/4/2018.
Song kỳ lạ thay, suốt cả kỳ họp kéo dài 21 ngày, người ta không hề thấy ông Nguyễn Phú Trọng, một Đại biểu Quốc hội và là nhân vật đứng đầu hệ thống chính trị tại Việt Nam, hé răng lấy nửa lời về sự kiện đang khiến dư luận sục sôi đó.
Vì thế, người ta chờ đợi cuộc tiếp xúc cử tri thường lệ diễn ra sau mỗi kỳ họp Quốc hội để xem ngài Tổng bí thư bày tỏ gì với cử tri Hà Nội nói riêng và nhân dân cả nước nói chung.
Và sau khi kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa IX bế mạc 2 ngày, nhân vật đứng đầu Bộ Chính trị, thực thể quyền lực đã ra lệnh cho Chính phủ và Quốc hội phải ban hành Luật Đặc khu, đã có buổi tiếp xúc cử tri hai quận Thanh Xuân và Hà Đông. Dưới đây, chúng ta sẽ xem "ông vua" của vị "vua tập thể" mang tên "Bộ Chính trị" đã phân bua gì với đám đông "cử tri quân xanh" về Dự luật Đặc khu, đồng thời đưa ra lý lẽ biện bác.
1) Ông ta nói : "Chúng ta đã có chủ trương xây dựng đặc khu kinh tế từ những năm 1990 của thế kỷ trước. Cụ Võ Văn Kiệt khi làm Thủ tướng đã đi khảo sát Vân Phong ở Nha Trang, Khánh Hòa rồi với tinh thần học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài, thí điểm cơ chế mới để mở rộng ra các khu vực".
Thưa ngài Tổng bí thư, một chủ trương cách đây tới một phần tư thế kỷ không có nghĩa là đến giờ nó vẫn còn đúng. Nhiều chuyên gia kinh tế, chẳng hạn như Giáo sư Trần Văn Thọ, người từng là thành viên chuyên môn Hội đồng Tư vấn Kinh tế của nhiều đời thủ tướng Nhật và hiện là thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Việt Nam, đã khẳng định đặc khu kinh tế là một mô hình đã lỗi thời.
Đặc biệt là Trung Quốc (hiểm hoạ lớn nhất mà 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc phải đối mặt, đồng thời là lý do chính khiến dân chúng phản đối việc thành lập chúng) thì một phần tư thế kỷ trước còn đang thực thi sách lược "thao quang dưỡng hối" ("náu mình chờ thời") do Đặng Tiểu Bình đề ra. Nay họ đã vứt bỏ sách lược đó từ lâu, và chẳng còn thèm che dấu cuồng vọng bành trướng, bá chủ thiên hạ vốn đã chảy trong huyết quản của họ từ thuở khai thiên lập địa nữa. Cách đây 25 năm, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo trên Biển Đông và quân sự hóa Hoàng Sa - Trường Sa chưa, hay đã âm thầm xua quân thiết lập vòng vây Việt Nam dọc theo biên giới Lào - Việt và Campuchia - Việt Nam dưới vỏ bọc các "dự án kinh tế" chưa ?
Đó là những thực tế mà bất cứ người nào với nhận thức bình thường cũng nhìn thấy, tại sao ngài lại không thấy, hay là ngài có ý đồ khác ?
2) Ông ta nói : "Đây là vấn đề khó, mới, nhạy cảm nên chúng ta làm rất thận trọng".
Thưa ngài Tổng bí thư, "rất thận trọng" kiểu gì mà dự luật vừa mới trình ra Quốc hội lần đầu đã đòi thông qua cho bằng được ? "Rất thận trọng" kiểu gì mà thành lập luôn một lúc 3 đặc khu, với hàng loạt điều khoản vô cùng lỏng lẻo, cực kỳ nguy hại cho an ninh quốc gia ?
3) Ông ta nói : "Chúng ta đã thông qua đâu, quyết định dừng lại để lắng nghe, chúng ta dừng từ ngày 8/6 nhưng tới ngày 10/6 vẫn đi biểu tình phản đối luật, chứng tỏ có ý đồ khác".
Thưa ngài Tổng bí thư, Quốc hội mới chỉ dừng lại, lắng nghe trước khi chuyển sang kỳ họp sau để thông qua, trong khi đòi hỏi của người dân là phải huỷ bỏ Dự luật Đặc khu, không cho Trung Quốc thuê đất tại 3 đặc khu dù chỉ 1 ngày. Vì thế, việc họ xuống đường biểu tình phản đối dự luật đó là hoàn toàn chính đáng.
4) Ông ta nói : "Đây đâu phải bàn giao đất cho nước A, nước B nào, rồi để người ta vào tự do. Phải có từng dự án đầu tư cụ thể. Pháp luật hiện hành quy định cho thuê đến 70 năm, còn đây là đặc khu nên dự kiến khuyến khích không quá 99 năm. Nhưng phải qua bao nhiêu quy trình, Thủ tướng phê duyệt mới được vào. Một số đối tượng cứ kích động chỗ này, cho rằng để cho Trung Quốc vào đây 99 năm thì mất nước, kích động đi biểu tình để biểu thị lòng yêu nước. Rõ ràng sự thật đã bị xuyên tạc, lòng yêu nước bị lợi dụng, kích động để chống đối".
Thưa ngài Tổng bí thư, theo dự thảo Luật, đất đai sẽ được bàn giao cho chủ đầu tư để họ thực hiện dự án trong thời hạn 70 năm (Đặc khu trưởng quyết định) hoặc 99 năm (Thủ tướng quyết định). Nếu chủ đầu tư là người Trung Quốc thì đó chẳng phải là bàn giao đất cho Trung Quốc trong thời hạn 70 năm hoặc 99 năm hay sao ? Hay theo ngài thì điều đó chỉ đúng khi chủ đầu tư là chính phủ Trung Quốc ? Và khi bàn giao đất cho họ rồi thì chẳng lẽ không cho họ ra vào tự do, hay theo ông phải cấp quốc tịch Việt Nam cho họ thì mới gọi là bán nước ? Đến khách du lịch Trung Quốc với visa du lịch ngắn ngày mà nhà chức trách Việt Nam còn quản lý không xuể, để họ gây ra bao vấn nạn trên khắp cả nước, huống hồ là hàng chục, hàng trăm ngàn người Tàu liên quan đến vô số dự án kéo dài tới 70 năm tại những vị trí vừa xung yếu, vừa khó quản lý như Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.
Việc (cựu) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngồi xổm trên pháp luật khi hợp thức hóa thời hạn cho Formosa Hà Tĩnh thuê đất 70 năm tại Vũng Áng đã khiến công chúng hết sức lo lắng cho an nguy của đất nước. Trong khi đó, theo quy định của Dự luật Đặc khu, chỉ cần Đặc khu trưởng (cấp lãnh đạo tương đương Chủ tịch huyện) là đã có thể quyết định việc giao đất cho người Trung Quốc lên đến 70 năm tại những địa bàn xung yếu tương tự thì hỏi làm sao người dân không lo sẽ bị mất nước ?
Thưa ngài Tổng bí thư, khoản 4 Điều 55 Dự thảo Luật Đặc khu quy định "Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với mục đích du lịch được miễn thị thực theo bảo lãnh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế của Việt Nam với thời hạn xác định..". thì liệu đã phải là mở toang cửa "để người ta vào tự do" chưa ? Ai dám đảm bảo "doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế của Việt Nam" đó sẽ không bị Trung Quốc lũng đoạn ?
Điều 33 và Điều 34 của Dự luật công nhận quyền thừa kế đối với nhà ở riêng lẻ, biệt thự nghỉ dưỡng, văn phòng làm việc kết hợp lưu trú… cho người nước ngoài, nghĩa là người Trung Quốc có thể sinh sống đời đời kiếp kiếp trong những bất động sản được thừa kế ấy. Vậy Dự luật Đặc khu chẳng phải là một dự luật bán nước thì là gì ?
5) Ông ta nói : "Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì nước vì dân chứ không phải vì mục đích gì khác. Không ai dại dột trao đất cho người nước ngoài để người ta vào làm rối mình, không ai ngây thơ thế. Phải đập tan âm mưu phá hoại".
Thưa ngài Tổng bí thư, "Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh" có phải là "tác giả" của vụ thảm sát "long trời lở đất" mang tên "Cải cách Ruộng đất", vụ đàn áp giới văn sĩ, trí thức mang tên "Nhân văn Giai phẩm", vụ "xét lại chống đảng", vụ "cải tạo công thương nghiệp Miền Bắc", vụ "cải tạo công thương nghiệp tư doanh Miền Nam", vụ "hợp tác hóa nông nghiệp", vụ "Bauxite Tây Nguyên"… hay không ?
Vô số dự án của Trung Quốc tại những vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng như Formosa Hà Tĩnh, Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân (Bình Thuận), Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải (Trà Vinh), "Chinatown" trước sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng), hàng trăm ngàn ha rừng đầu nguồn biên giới… nếu không phải do "dại dột" hay "ngây thơ" thì là do gì đây ?
Xem ra càng phân bua, càng biến báo, ngài càng khiến dân chúng mất hết niềm tin vào đảng của ngài. Rõ ràng là không ai khác mà chính ngài là người phải chịu trách nhiệm cao nhất về Dự luật Đặc khu, cũng như về thực trạng bộ máy ngày càng rối ren, xã hội ngày càng hỗn loạn, biển đảo quốc gia ngày càng bị kẻ thù xâm lấn hiện nay.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 20/06/2018
Theo thông tin từ truyền thông nhà nước, ngày 29/5/2018 vừa qua, tại thành phố Đà Nẵng, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Công Thương, UBND Thành phố Đà Nẵng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa hệ thống truyền tải điện 500KV vào "Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia".
Hệ thống truyền tải điện 500KV được đưa vào "Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia".
Điện lực là một ngành kinh tế hạ tầng trọng yếu của bất kỳ quốc gia nào, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Hãy thử tưởng tượng Việt Nam mất điện trong một ngày xem : cả nền hành chính lẫn nền kinh tế quốc gia sẽ rơi vào cảnh đình trệ, thậm chí gần như bị tê liệt. Đối với một tỉnh hay một khu vực, ảnh hưởng do sự cố mất điện gây ra cũng tương tự.
Vì vậy, không chỉ hệ thống truyền tải điện 500KV, mà lẽ ra toàn bộ hệ thống truyền tải điện quốc gia (bao gồm đường dây 500KV và đường dây 220KV) cùng các nhà máy điện (đặc biệt là các nhà máy điện công suất lớn) đều phải được đưa vào danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.
Ai có thể xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam ?
Chủ thể có thể xâm phạm an ninh của một quốc gia là đối tượng đe dọa và đủ sức gây phương hại đến an ninh của quốc gia đó. Xét trên phương diện ấy, chỉ có kẻ khủng bố, tổ chức khủng bố hoặc quốc gia thù địch mới có thể đe dọa và xâm phạm an ninh của một quốc gia.
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa xuất hiện một cá nhân hay tổ chức khủng bố nào. Các tổ chức khủng bố trên thế giới thường xuất hiện tại các quốc gia có các tổ chức tôn giáo cực đoan. Vì thế, khả năng trong tương lai các cá nhân hay tổ chức khủng bố xuất hiện tại Việt Nam có thể bị loại trừ.
Như vậy, đối tượng có thể đe dọa và xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam chỉ có thể là các quốc gia thù địch. Theo tiêu chí ấy, Trung Quốc gần như là quốc gia duy nhất có thể đe dọa và xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam, bởi họ không chỉ đã chiếm toàn bộ Hoàng Sa cùng một phần Trường Sa của Việt Nam, ngang nhiên đòi độc chiếm 85% Biển Đông thông qua yêu sách đường lưỡi bò, mà còn nhiều lần đe dọa đánh chiếm phần còn lại ở Trường Sa và xâm lược Việt Nam.
(Tổng thống Obama từng đón tiếp người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam tại Nhà Trắng, một cử chỉ cho thấy Hoa Kỳ thừa nhận và tôn trọng chính thể hiện hành tại Việt Nam. Không chỉ có vậy, Mỹ còn muốn thiết lập mối quan hệ đồng minh chiến lược với Việt Nam để cùng ngăn chặn hiểm họa chung mang tên Trung Quốc. Vì thế, có thể nói là Mỹ không đe dọa an ninh quốc gia của Việt Nam, mà ngược lại họ còn đang giúp Việt Nam đương đầu với Trung Quốc. Trong 3 quốc gia láng giềng của Việt Nam thì Lào được xem là đồng minh ; Campuchia thì chỉ có thể đe dọa và xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam nếu được Trung Quốc xúi giục và hậu thuẫn).
Trung Quốc đe dọa an ninh quốc gia Việt Nam trong lĩnh vực điện lực như thế nào ?
Thật trớ trêu, trong khi Trung Quốc gần như là quốc gia duy nhất đã, đang và tiếp tục xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam thì đâu đâu trên dải đất hình chữ S này người ta cũng thấy bàn tay lông lá của Bắc Kinh trong lĩnh vực điện lực. Phần lớn các nhà máy nhiệt điện và thủy điện ở Việt Nam đều do Trung Quốc hoặc đầu tư theo hình thức BOT, hoặc làm tổng thầu (EPC), hoặc cung cấp thiết bị. Thậm chí, ngay cả đồng hồ đo điện tại các hộ dân cũng phần lớn là hàng "made in China".
Tại sao lại xảy ra sự thể lạ đời như vậy ? Câu trả lời nằm ở một người Việt gốc Hoa xuất thân từ ngành điện, đã chui sâu leo cao trong bộ máy quyền lực và khuynh loát ngành điện lực Việt Nam kể từ năm 1995 đến nay – đó là Hoàng Trung Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô.
Công văn cho phép xây dựng Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân theo đề nghị của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ngày 14/01/2010
Hoàng Trung Hải làm việc tại Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại ngay sau khi tốt nghiệp chuyên ngành hệ thống điện, Đại học Bách khoa Hà Nội vào năm 1981. Từ 9/1995 đến 6/1997, ông ta là Ủy viên Hội đồng quản trị kiêm Trưởng ban Kiểm soát Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) ; từ 7/1997 đến 3/1998 : Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, phụ trách EVN ; từ 4/1998 đến 8/2000 : Tổng Giám đốc EVN ; từ 8/2000 đến 7/2002 : Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, phụ trách EVN ; từ 8/2002-7/2007 : Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (bộ chủ quản EVN) ; từ 8/2007 đến 4/2016 : Phó Thủ tướng Chính phủ đặc trách lĩnh vực kinh tế ngành, trong đó có ngành điện lực.
Trong suốt 20 năm nắm giữ các vị trí quan trọng nói trên, "con ngựa thành Troy" Hoàng Trung Hải đã gần như "Hán hóa" ngành điện lực Việt Nam, biến Việt Nam thành nơi tiêu thụ các loại máy móc, thiết bị điện lực công nghệ lạc hậu và đặc biệt là gây ô nhiễm của Trung Quốc.
Là một kỹ sư hệ thống điện, gắn bó với ngành điện lực suốt 35 năm (từ 1981 đến 2016), trong đó có hơn 20 năm ở cương vị lãnh đạo, nên chúng ta cần cảnh giác trước khả năng Hoàng Trung Hải và Bắc Kinh có thể kiểm soát được một phần hoặc thậm chí toàn bộ hệ thống điện lực, ngành kinh tế hạ tầng đặc biệt trọng yếu của Việt Nam.
Vì vậy, việc mãi gần đây Thủ tướng Chính phủ mới quyết định đưa hệ thống truyền tải điện 500KV vào "Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia" chẳng khác gì "mất bò mới lo làm chuồng". Động thái này không chỉ muộn màn mà còn cho thấy là chính phủ cùng các cơ quan hữu trách vẫn chưa đánh giá hết những hiểm họa điện lực đang treo lơ lửng trên đầu dân tộc, trong bối cảnh một cuộc chiến trên Biển Đông giữa Việt Nam với Trung Quốc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, thậm chí không loại trừ nguy cơ chiến tranh trên bộ.
Dù vậy, muộn còn hơn không. Vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải tiến hành rà soát toàn bộ hệ thống điện lực Việt Nam, cả con người lẫn thiết bị, nhằm tránh lặp lại những thảm họa như sự cố mất điện toàn Miền Nam ngày 22/5/2013, một sự cố hết sức nghiêm trọng song thật kỳ lạ là đến nay vẫn chưa có bất kỳ cá nhân nào bị xử lý.
Ngoài ra, chính phủ cần bổ sung các nhà máy điện, nhất là những nhà máy công suất lớn, vào "Danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia", đồng thời thực hiện chế độ giám sát chặt chẽ và thường xuyên những nhà máy điện do Trung Quốc làm chủ đầu tư, đặc biệt là tại những vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng như Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân ở Bình Thuận hay Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải ở Trà Vinh.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 19/06/2018
Những ai đã từng đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa hẳn đều khó quên câu chuyện rừng mơ của Tào Tháo. Thời gian Lưu Bị còn nương nhờ dưới trướng Tào Tháo, nhân một lần mời rượu Lưu Bị, Tào Tháo đã kể lại một mẩu chuyện đáng nhớ, khi ông ta dẫn quân đi đánh Trương Tú. Bấy giờ đang là mùa hè, trời nắng như đổ lửa, dọc đường đi không có nước, tướng sĩ khát cào cuống họng. Để khích lệ quân sỹ, Tào Tháo bèn nghĩ ra một kế. Ông ta cầm roi trỏ bâng quơ về phía trước và nói : "Trước mặt có rừng mơ". Quân sỹ nghe nói đến mơ thì ai nấy đều ứa nước dãi, không những phần nào giải được cơn khát cháy cổ, mà tinh thần còn phấn chấn đến độ quên hết mệt nhọc, và chẳng mấy chốc họ đã đến được nơi cần đến.
Biểu tình tại Sài Gòn. (Hình : FB Trần Tiến Dũng)
Ý nghĩa của câu chuyện nằm ở chỗ, khi người ta tin tưởng mình đang đi đúng hướng và thắng lợi đang chờ ở phía trước, niềm tin đó sẽ chuyển hoá thành năng lượng vật chất, tiếp thêm sức mạnh cho họ và giúp họ đạt được mục đích của mình.
Gần một tháng nay, người người Việt trong và ngoài nước sôi sục trước thông tin Quốc hội Việt Nam chuẩn bị thông qua Dự luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (gọi tắt là Luật Đặc khu). Trước viễn cảnh nếu dự luật được thông qua, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ mở toang cửa cho Trung Quốc tràn vào chiếm lĩnh 3 vị trí cực kỳ xung yếu về an ninh quốc phòng trong một khoảng thời gian vô hạn định, làn sóng phản đối dự luật bán nước này đã nhanh chóng lan toả trong các tầng lớp và cộng đồng người Việt, cả trong và ngoài nước, cả bên trong lẫn bên ngoài bộ máy.
Trước cơn bão phản đối mạnh mẽ chưa từng có của công luận đối với một dự luật do Chính phủ trình ra Quốc hội theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngày 9/6 vừa qua, nhà cầm quyền Việt Nam đã ra thông báo lùi việc thông qua Luật Đặc khu từ kỳ họp thứ 5 sang kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV "để có thêm thời gian nghiên cứu, hoàn thiện", đồng thời bỏ quy định trường hợp đặc biệt với thời hạn cho thuê đất lên tới 99 năm.
Việc Chính phủ và Quốc hội Việt Nam thống nhất tạm hoãn thông qua Dự luật Đặc khu và trong dự luật không còn thời hạn cho thuê đất 99 năm có thể được xem là một sự nhượng bộ từ phía nhà cầm quyền và là một thắng lợi của các tầng lớp nhân dân cùng những thành phần "phản tỉnh" trong hệ thống hiện hành.
Tuy nhiên, đây dù sao cũng chỉ là thắng lợi bước đầu, bởi nhà cầm quyền mới chỉ thông báo là hoãn trình Quốc hội thông qua chứ chưa huỷ bỏ dự luật, trong khi bản chất Luật Đặc khu, như nhiều chuyên gia đã chỉ ra, là một đạo luật bán nước, không phụ thuộc vào thời hạn cho thuê đất 99 năm, 70 năm hay 50 năm. Nhiều người đã bày tỏ thái độ dứt khoát là không cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc thuê đất đặc khu, dù chỉ một ngày.
Cơn bão phản đối Luật Đặc khu hiện nay khiến người ta không khỏi liên tưởng tới bầu không khí phản đối dự án Bauxite Tây Nguyên gần 10 năm trước.
Lần đầu phải đối mặt với phản ứng mạnh mẽ của dân chúng (đặc biệt là các nhà chuyên môn cùng giới trí thức) cũng như một số thành phần tiến bộ đã hoặc đang nằm trong hệ thống, nhà chức trách Việt Nam lúc bấy giờ đã phải chấp nhận nhượng bộ. Ban đầu, giới hữu trách thậm chí còn định cho phép Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam liên doanh với Trung Quốc để thực hiện dự án khai thác bauxite. Tuy nhiên sau đó, trước áp lực của dư luận, phương án này đã bị huỷ bỏ.
Để quý độc giả có thể hình dung, nếu Vinacomin liên doanh với Trung Quốc thực hiện dự án Bauxite Tây Nguyên thì hàng nghìn người Hán sẽ cắm chốt tại Tây Nguyên ít nhất là cho đến hết đời dự án. Trong khoảng thời gian hàng chục năm ấy, lực lượng này có thể kết hôn với người Việt rồi sinh con đẻ cái, lập xóm lập phố và sinh sống đời đời kiếp kiếp ở đây. Trong khi đó, theo các chuyên gia quân sự, ai làm chủ được Tây Nguyên, nơi được mệnh danh là "nóc nhà Đông Dương", sẽ làm chủ được cả Đông Dương. Chừng ấy đủ cho thấy phương án Vinacomin liên doanh với Trung Quốc nguy hiểm đến thế nào đối với vận mệnh dân tộc.
Mặc dù những kẻ đứng sau dự án Bauxite Tây Nguyên đã phần nào nhượng bộ, nhưng do lúc bấy giờ số người lên tiếng còn chưa thực sự đông, cũng như do các đối thủ của "nhóm lợi ích Tàu" trong bộ máy không hình dung ra đầy đủ hiểm hoạ và chưa thực sự hết lòng vì dân vì nước, nên cuối cùng dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên vẫn được triển khai tại Nhân Cơ (Đak Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), theo phương án Vinacomin đầu tư 100% vốn và nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu xây dựng nhà máy. (Sau khi xây dựng xong, tổng thầu bàn giao nhà máy cho chủ đầu tư theo hình thức "chìa khoá trao tay" và rút nhân lực về nước).
Rốt cuộc, dự án Bauxite Tây Nguyên vẫn để lại những di hoạ vô cùng nặng nề cho chúng ta : môi trường bị tàn phá không thể phục hồi và đặc biệt là không biết bao giờ chúng ta mới có thể vô hiệu hoá được những quả "bom bùn đỏ" đang lơ lửng trên đầu dân tộc. (Hiện nay, cả hai nhà máy đều phải dựa vào Trung Quốc để được hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp phụ tùng thay thế. Và nếu được kích hoạt, những quả bom nổ chậm kia có thể nhấn chìm cả Miền Đông Nam Bộ trong bùn đỏ).
Những kết quả khiêm tốn của chiến dịch phản đối dự án Bauxite Tây Nguyên cùng thắng lợi bước đầu của cao trào phản đối Dự luật Đặc khu cho chúng ta thấy những nỗ lực của chúng ta hoàn toàn không vô ích, đất nước chúng ta hoàn toàn có thể thoát khỏi hiểm hoạ Đại Hán, miễn là những người Việt Nam yêu nước thương nòi cả bên trong lẫn bên ngoài hệ thống đoàn kết vì mục tiêu chung và quyết tâm chiến đấu đến cùng với bè lũ cướp nước và bán nước.
Hơn ai hết, hậu duệ của Tào Tháo chính là những kẻ biết rút ra bài học từ câu chuyện rừng mơ của ông ta. Đám hậu bối của Tào Tháo trong Trung Nam Hải thậm chí còn thâm hiểm đến mức nhào nặn ra cái gọi là "Mật ước Thành Đô" nhằm mục đích chủ yếu là làm nản lòng những người Việt yêu nước vẫn đang âu lo cho vận mệnh nước nhà trước hiểm hoạ Đại Hán. Càng tin vào "Mật ước Thành Đô" càng khiến những người Việt yếm thế nghĩ rằng, dù mình có cố gắng đến mấy đi nữa thì rồi đến năm 2020 Việt Nam cũng sẽ "gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" như nội dung "Mật ước Thành Đô" (1).
Tuy "Mật ước Thành Đô" không có thật, song âm mưu cướp nước của Bắc Kinh và dã tâm bán nước của một số tên Việt gian trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại là sự thật không thể chối cãi. Điều đó giải thích cho sự tồn tại của những Bauxite Tây Nguyên, Dự luật Đặc khu hay vô số hiểm hoạ "made in China" khác trên khắp Việt Nam suốt nhiều năm qua.
Bất luận thế nào, việc nhà cầm quyền Việt Nam mới đây tạm hoãn thông qua Dự luật Đặc khu càng củng cố thêm niềm tin cho chúng ta rằng cuộc đấu tranh của chúng ta hoàn toàn không vô vọng. Và chừng nào chúng ta còn mang trong mình niềm tin sắt đá ấy, chừng nào chúng ta còn tiếp tục đấu tranh, chừng đó tương lai đất nước còn nằm trong tay chúng ta.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 11/06/2018
(1) Nên hiểu ‘Mật ước Thành Đô’ như thế nào ?", VOA 13/12/2017
Suốt gần một tháng nay, Dự luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế Đặc biệt đã trở thành một chủ đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận người Việt trong và ngoài nước. Chưa bao giờ một dự luật được chính phủ trình ra Quốc hội lại khiến công chúng Việt Nam phản đối mạnh mẽ và rộng khắp đến vậy.
Vị trí Bắc Vân Phong trên bản đồ. Ảnh : Lê Anh Hùng
Sự kiện này làm người ta nhớ lại bầu không khí phản đối trong các tầng lớp nhân dân đối với dự án Bauxite Tây Nguyên 10 năm trước. Và giống như lần trước, lý do khiến công chúng bày tỏ sự lo ngại đặc biệt về ảnh hưởng của dự luật đối với an ninh quốc gia và tương lai giống nòi cũng chính là Trung Quốc, quốc gia láng giềng phương bắc to xác và xấu bụng của Việt Nam.
Đặc khu kinh tế của Việt Nam, mối quan tâm của Trung Quốc
Theo Cổng Thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh, ngày 20/3/2014, tại thành phố Hạ Long, Ban Chỉ đạo Tổ chức Hội thảo quốc tế tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) và Trung tâm Nghiên cứu Đặc khu Kinh tế Trung Quốc thuộc Đại học Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế mang tên "Phát triển Đặc khu kinh tế - Kinh nghiệm và Cơ hội". Tham dự cuộc hội thảo, ngoài một số "yếu nhân" từ Hà Nội do Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân dẫn đầu, còn có lãnh đạo các tỉnh Quảng Ninh (nơi có Vân Đồn), Khánh Hòa (nơi có Bắc Vân Phong), Kiên Giang (nơi có Phú Quốc) và Lâm Đồng.
Trước đó 7 tháng, ngày 21/8/2013, thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh đã có buổi làm việc với đoàn chuyên gia Trung tâm nghiên cứu đặc khu kinh tế Trung Quốc thuộc Trường Đại học Thâm Quyến để chuẩn bị cho cuộc hội thảo. Phía Trung Quốc thậm chí còn "sát sao" đến mức thảo luận với phía Việt Nam về cả kinh phí tổ chức hội thảo. Hai ngày sau, ngày 23/8/2013, với sự hiện diện của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Phạm Minh Chính, tỉnh Quảng Ninh và Trung tâm Nghiên cứu Đặc khu Kinh tế Trung Quốc thuộc Trường Đại học Thâm Quyến đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác tổ chức cuộc hội thảo.
Tháng 8/2012, sau khi đề nghị với trung ương để phát triển Móng Cái, Vân Đồn thành đặc khu kinh tế, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Phạm Minh Chính (nay là Trưởng ban Tổ chức trung ương, Phó ban Chỉ đạo quốc gia về Xây dựng các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt) thậm chí còn đề xuất cho thuê đất đặc khu với thời hạn lên tới… 120 năm.
Sự hiện diện của lãnh đạo Khánh Hòa và Kiên Giang tại cuộc hội thảo "Phát triển Đặc khu kinh tế - Kinh nghiệm và Cơ hội" diễn ra ở Hạ Long cho thấy Bắc Kinh không chỉ quan tâm đến Vân Đồn, mà cả Bắc Vân Phong và Phú Quốc. "Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán." Song cái sự "tính toán" của họ lại chẳng đem đến điều gì tốt lành cho Việt Nam ngoài những hiểm họa "đặc sắc Trung Quốc".
Hiểm họa "đặc khu kinh tế Vân Đồn"
Bài học Crimea của Ukraine hoàn toàn có thể lặp lại với Việt Nam trong trường hợp Vân Đồn trở thành đặc khu kinh tế. Vân Đồn chỉ cách Trung Quốc vài chục km, và làn sóng người Trung Quốc di cư sang đây rồi sinh đẻ con đàn cháu đống hết thế này đến thế hệ khác là một viễn cảnh mà ai cũng có thể nhìn thấy.
Đến thời điểm nào đó, khi số lượng người Hoa tại Vân Đồn đông hơn cả người Việt, họ có thể đưa ra yêu sách ly khai hòng tạo cớ cho Bắc Kinh can thiệp quân sự.
Chưa hết, khi chiến tranh nổ ra, nếu kiểm soát được Vân Đồn, nơi có một sân bay quốc tế đang được Sun Group xây dựng, kết hợp với sân bay quân sự trên đảo Hải Nam, Bắc Kinh sẽ dễ dàng khống chế được toàn bộ vùng trời vùng Biển Đông Bắc Việt Nam.
Hiểm họa "đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong"
Vân Phong là khu vực có địa thế "núi thò chân ra biển", tức là một bên là núi, một bên là biển. Quốc lộ 1A là tuyến đường duy nhất nối liền giao thông Bắc - Nam chạy qua đây. Vì thế, khi hữu sự, chỉ cần một lực lượng tại chỗ vừa phải là đủ sức khiến giao thông Bắc - Nam bị chia cắt, tê liệt.
Từ Bắc Vân Phong chạy theo quốc lộ 26 chỉ chừng 130km là đã tới Tây Nguyên, nóc nhà Đông Dương, nơi mà các nhà quân sự từng ví von là ai làm chủ được nó thì sẽ làm chủ được cả Đông Dương. Tại đây, một loạt "quả bom bùn đỏ" của hai dự án khai thác bauxite ở Nhân Cơ (Đak Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) đều do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu đang sẵn sàng chờ Bắc Kinh kích hoạt. Cả vùng Đông Nam Bộ có thể bị nhấn chìm trong biển bùn đỏ nếu các quả bom này được kích nổ.
Cách Tây Nguyên không xa là Campuchia, nơi đội quân nằm vùng của Trung Quốc núp dưới vỏ bọc các "dự án kinh tế" đã túc trực và áp sát biên giới Việt Nam từ lâu.
Vịnh Vân Phong là vùng biển có độ sâu trung bình từ 20-27m, đủ sức đón mọi loại tàu bè lớn nhỏ. Đặc biệt, nhờ sự che chắn của các đảo và bán đảo, nên đây là một vịnh kín gió, có giá trị chẳng khác gì một Cam Ranh thứ hai. Diện tích mặt biển vịnh Vân Phong thậm chí còn lớn gấp 3 lần vịnh Cam Ranh.
Khi hữu sự, đội quân nằm vùng tại Bắc Vân Phong sẽ kết hợp với lực lượng từ ngoài biển ồ ạt đánh vào, lực lượng bên kia biên giới thần tốc đánh sang, Việt Nam sẽ bị chia cắt và mất kiểm soát từ Tây Nguyên xuống Vân Phong.
Kiểm soát được vịnh Vân Phong, Trung Quốc có thể uy hiếp được tàu bè ra vào vịnh Cam Ranh ("bảo bối" lợi hại nhất của Việt Nam trong chiến lược bảo vệ Biển Đông và chỉ cách Cam Ranh chừng 65km), đồng thời đe dọa và vô hiệu hoá các cơ sở quân sự của Việt Nam và đồng minh tại Cam Ranh.
Hiểm họa "đặc khu kinh tế Phú Quốc"
Không ít người cho rằng trong 3 đặc khu kinh tế tương lai thì Vân Đồn bất an nhất vì gần Trung Quốc nhất (chỉ chừng 100km) và Phú Quốc an toàn nhất, bởi nó cách xa Trung Quốc hơn cả.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong khi Phú Quốc cách bờ biển Kiên Giang 46km thì nó lại chỉ cách bờ biển Campuchia vỏn vẹn 26km. Từ năm 2016, Phnom Penh đã cho Trung Quốc thuê 20% chiều dài bờ biển (90km) trong 99 năm để xây dựng căn cứ quân sự. Theo ông Geoff Wade, một chuyên gia về Châu Á từ Đại học Quốc gia Australia, cảng nước sâu mà Bắc Kinh đang xây dựng tại Campuchia có thể chứa hầu hết các tàu khu trục và chiến hạm khác của hải quân Trung Quốc.
Khi thời cơ đến, bên cạnh lựa chọn can thiệp quân sự để ủng hộ "yêu sách ly khai" của người Hoa ở Phú Quốc, Bắc Kinh còn một lựa chọn nữa là núp bóng quân đội Campuchia đánh chiếm hòn đảo để đòi chủ quyền cho Phnompenh.
Lúc này, sân bay Vân Đồn và sân bay Hải Nam sẽ giúp Trung Quốc khống chế toàn bộ vùng trời vùng Biển Đông Bắc Việt Nam, còn sân bay Phú Quốc cùng sân bay Hải Nam, sân bay Phú Lâm (Hoàng Sa) và sân bay Gạc Ma (Trường Sa) sẽ giúp họ kiểm soát nốt vùng trời vùng biển còn lại của Việt Nam.
Ngày 15/6 tới đây, Quốc hội Việt Nam sẽ bấm nút hoặc thông qua hoặc bác bỏ Luật Đặc khu. Tương lai Việt Nam đang thực sự đứng trước một thời khắc vô cùng hệ trọng.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 09/06/2018
Chuyến thăm Cộng hòa Pháp của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được truyền thông chính thống Việt Nam ca ngợi là diễn ra trong dịp kỷ niệm 45 ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và 5 năm năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.
Đón "cụ Tổng" tại sân bay là một... nhân viên lễ tân Bộ Ngoại giao.
Vậy nhưng, lễ đón tiếp chính thức mà chính phủ Pháp dành cho Nguyễn Phú Trọng và bầu đoàn lại không khỏi khiến người ta nghĩ rằng đây là một sự hạ nhục hữu ý nhằm vào người đứng đầu chính thể độc tài cộng sản Việt Nam. Trong khi đó, báo chí nhà nước Việt Nam vẫn gọi đây là "nghi lễ đón tiếp dành cho nguyên thủ quốc gia".
Đại diện chính phủ Pháp trong lễ đón tiếp "quốc khách" là Bộ trưởng Bộ Nhà ở, Đất đai, Quy hoạch và Đô thị và ngài... đội trưởng đội danh dự.
Tháp tùng "cụ Tổng" là cả một bầu đoàn hùng hậu
Lễ đón tiếp diễn ra tại Les Invalides, báo chí Việt Nam dịch là "Điện Invalides", nhưng thực ra nó là một quần thể được biết đến dưới cái tên Hôtel national des Invalides (The National Residence of the Invalids - Khu Dân cư quốc gia của các phế nhân) - mục đích ban đầu của nó là bệnh viện và nhà hưu dưỡng dành cho các cựu chiến binh.
Toàn cảnh... lễ đón tiếp
TTXVN phải cố làm mờ ảnh này để "cụ Tổng" đỡ ê chề, nhục nhã khi chỉ có 2 "ông Tây" góp mặt trong bức hình tại lễ đón tiếp.
Đây quả là một sự kiện hy hữu trong lịch sử ngoại giao quốc tế.
Lê Anh Hùng
Nguồn : leanhhung.com, 27/03/2018
Cách đây hơn một tháng, một loạt tờ báo "lề đảng" đã đưa tin về một sự kiện đáng chú ý : Tàu container liên vận Việt Nam - Trung Quốc bắt đầu hoạt động.
Biến "đối tượng" Trung Quốc thành "đối tác" là sai lầm chiến lược của Việt Nam ?
Theo thông tin trên các tờ báo, đoàn tàu gồm 33 container 40 feet chứa các loại hàng hoá như nội thất văn phòng, thực phẩm, phụ tùng linh kiện ô tô... xuất phát từ Nam Xương, Giang Tây ngày 22/11 và đến ga Yên Viên, Hà Nội ngày 25/11. Sau khi đến Việt Nam, đoàn tàu quay về cùng các hàng hóa như nông sản, khoáng sản, sản phẩm điện tử... Việc tổ chức chạy tàu giúp rút ngắn thời gian vận chuyển từ 15 ngày bằng đường biển xuống còn 4 ngày ; cước phí vận chuyển chỉ bằng một nửa so với đường bộ. Dự kiến, hai bên sẽ tiến hành chạy đều đặn với tần suất 1 chuyến/tuần, rồi nâng dần lên 3 chuyến/tuần.
"Ý đảng" trái "lòng dân"
Nếu sự kiện nói trên là bằng chứng cho thấy sự tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế láng giềng nào đấy thì chắc chắn đó là tin vui cho cả lãnh đạo lẫn nhân dân hai nước.
Tuy nhiên, điều này lại không đúng với hai quốc gia "núi liền núi, sông liền sông" Việt Nam - Trung Quốc. Và trong khi một số cơ quan truyền thông nhà nước đưa tin về sự kiện này với thái độ hồ hởi (một số khác tỏ ra bình thản) thì công chúng Việt Nam lại đón nhận thông tin trên vừa bất ngờ, vừa không khỏi âu lo.
Vì sao vậy ?
Câu trả lời tưởng không có gì khó hiểu. Đối với ban lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc là một đối tác như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, theo đường lối ngoại giao "Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy" của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Trong khi đó, đối với phần lớn người Việt, hai chữ Trung Quốc lại đồng nghĩa với hiểm hoạ, mà bằng chứng là từ lịch sử 4 nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng như từ những vấn nạn "made in China" trên khắp Việt Nam hiện nay. Nghĩa là với họ, Trung Quốc là một "đối tượng" cần thường xuyên đề cao cảnh giác.
Từ "bá quyền", "xâm lược" đến "4 tốt", "16 chữ vàng"
Mối quan hệ Việt - Trung dưới thời cộng sản cũng lúc thăng lúc trầm giống như lịch sử hàng ngàn năm trước. Dù vậy, bất kể mối quan hệ đó đang thăng hay trầm, nồng ấm hay lạnh nhạt thì thực tế không bao giờ thay đổi là : Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính quốc gia láng giềng phương Nam – một "chân lý" đã được "kiểm nghiệm" qua hàng ngàn năm lịch sử.
"Đỉnh cao" của "chân lý" ấy là việc Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam suốt 10 năm liền, từ năm 1979 đến 1989. Xen giữa quãng thời gian đó là sự kiện Trung Quốc thảm sát 64 chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam ngày 14/3/1988. Hệ quả là trong Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam 1980, Trung Quốc bị vạch mặt, chỉ tên là một quốc gia "bá quyền", "xâm lược".
Cuối thập niên 1980, cuộc khủng hoảng chính trị - kinh tế - xã hội trầm trọng đã dẫn đến sự sụp đổ của một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Lo sợ cho số phận của mình, một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã quay sang cầu cứu lãnh đạo Trung Nam Hải. Và từHội nghị Thành Đô ngày 3/9/1990, hai nước từng bước bình thường hoá quan hệ.
Trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 25/2 đến 2/3/1999 của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" lần đầu tiên được đưa vào Tuyên bố chung của hai nước. Từ đấy về sau, "16 chữ vàng" ấy luôn xuất hiện trong các bản tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Chưa hết, trong chuyến công du Việt Nam từ ngày 31/10 đến 2/11/2005 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" đã được đưa vào Tuyên bố chung Việt - Trung. Và kể từ đó, "16 chữ vàng" và "4 tốt", những mỹ từ mô tả mối quan hệ giữa hai quốc gia, đã trở thành "một phần tất yếu" của các bản tuyên bố chung Việt - Trung.
Từ "đối tượng" đến "đối tác"
Ngược dòng lịch sử, trong bang giao với quốc gia láng giềng phương Bắc, các triều đại phong kiến Việt Nam thường áp dụng kế sách "trong đế ngoài vương", một sách lược ngoại giao mềm dẻo và sáng suốt.
Ở trong nước, các vị vua Việt Nam vẫn lên ngôi hoàng đế nhằm thể hiện tinh thần độc lập và bình đẳng với hoàng đế Trung Hoa, song bên ngoài họ lại để cho hoàng đế Trung Hoa phong vương và chấp nhận chế độ triều cống như một nước chư hầu. Những lời lẽ nhún nhường trong các tờ biểu mà hoàng đế Việt Nam dâng lên hoàng đế Trung Hoa hoàn toàn không ảnh hưởng đến vị thế độc lập của Việt Nam trước Trung Quốc, mà chỉ giúp cho các hoàng đế của "vương quốc trung tâm" tự mãn với danh hiệu "thiên triều", để không có cớ gây sự với Việt Nam.
Trong khi đó, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn coi quốc gia láng giềng phương bắc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, tức là "đối tượng" mà người Việt không được phép lơ là, mất cảnh giác.
Dưới thời cộng sản, cho dù các nhà lãnh đạo Việt Nam mô tả mối quan hệ Việt - Trung bằng những mỹ từ cao đẹp đến đâu đi nữa, họ cũng không thể che lấp được một sự thật là Trung Quốc vẫn luôn rình rập nhằm phá hoại và thôn tính Việt Nam.
Thậm chí, ngay trong những ngày tháng mặn nồng nhất của "mối tình cộng sản" Việt - Trung, Bắc Kinh đã đưa quân sang "giúp" Việt Nam làm đường theo kiểu "rất Tàu" như thế này : đặt mìn tiêu hủy "hòn đá Liễu Thăng" tại Lạng Sơn ; ở Côn Sơn, nơi ẩn cư của Trần Nguyên Đán và Nguyễn Trãi, họ đã đào xuyên ngang dọc quả núi thành đường hầm và bít cửa vào, không ai biết họ làm gì trong đó ; nhiều di tích như An Sinh, nơi gần đây mới xây đền thờ các vị vua Trần, hết thảy tượng đá thời Trần đều bị phạt cụt đầu hoặc bắn vào bụng ; ở Ngọa Vân am, tháp Phật Hoàng đựng xá lị Trần Nhân Tông và tháp Đoan Nghiêm cổ kính bị đào rỗng ruột, toàn bộ bài vị trong tháp bị đập nát, tấm bia do Trịnh Căn lập bị đập thành ba bảy mảnh, 13 ngọn tháp đứng thành một hàng chạy xuống phía Tây Nam đều bị phạt ngang, phía dưới có một đường hầm lộ thiên đào thông tháp nọ với tháp kia (nhằm phá long mạch nhà Trần lừng lẫy chiến công chống giặc phương Bắc, tức là phá long mạch Việt Nam chăng ?) ; khai thác trộm của cải, thăm dò ngầm tài nguyên, địa thế...
Hội nghị Thành Đô đã diễn ra trong bí mật.
Mặc dù "16 chữ vàng" và "4 tốt" đã được lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc xác định là "kim chỉ nam" cho mối quan hệ giữa hai bên, song suy cho cùng thì đó cũng chỉ là ngôn ngữ ngoại giao. Chúng chẳng khác gì mấy so với tinh thần của những tờ biểu mà các hoàng đế Việt Nam ngày xưa vẫn dâng lên hoàng đế Trung Hoa, hay những bức "điện mừng" mà nguyên thủ hai quốc gia láng giềng thù nghịch Toracanxi và Hopantomola vẫn cấp tập gửi cho nhau ngay trước khi lao vào nhau để quyết một phen sống mái. Và kể từ năm 1979 đến nay, Việt Nam vẫn bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu và tinh nhuệ thường trực tại các tỉnh biên giới phía bắc, mà lý do chủ yếu là để đề phòng đội quân xâm lược từ bên kia biên giới.
Vậy điều gì đã góp phần quyết định khiến các bản tuyên bố chung Việt - Trung thời gian sau này luôn kèm theo những thoả thuận hợp tác cụ thể và nguy hại, dẫn đến thực trạng báo động đỏ hiện nay là đâu đâu trên khắp Việt Nam người ta cũng thấy bàn tay lông lá của Tàu cùng những hiểm hoạ "made in China" lơ lửng trên đầu dân tộc ?
Thật trớ trêu, thủ phạm hoá ra lại là "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới" do Hội nghị Trung ương 8 khóa IX thượng tuần tháng 7 năm 2003 đề ra và Nghị quyết 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" do Hội nghị Trung ương 8 khoá XI ban hành. Chính xác hơn, đó là sự mơ hồ, ngây thơ và chủ quan khi định nghĩa khái niệm "đối tượng" và "đối tác", cũng như chủ trương biến đối tượng thành đối tác, trong hai văn kiện đóng vai trò "kim chỉ nam" cho hệ thống chính trị liên quan đến nhiệm vụ tối quan trọng là bảo vệ Tổ quốc.
Khi dẫn ra câu "không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn" trong hai nghị quyết nêu trên, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã (cố tình) bỏ qua điểm quan trọng nhất : người đầu tiên phát ngôn câu đó – Lord Palmerston – là một ngoại trưởng và về sau trở thành thủ tướng Anh, chứ không phải là một hoàng đế Việt Nam, và địa chính trị nước Anh hoàn toàn khác với địa chính trị Việt Nam. Tiền đề sai lầm đó đã dẫn đến hàng loạt sai lầm trong việc định nghĩa "đối tượng" và "đối tác", cũng như sự ngây ngô, duy ý chí trong chủ trương biến đối tượng thành đối tác.
Và kết cục tất yếu
Việc "đối tượng" Trung Quốc được ban lãnh đạo Việt Nam phù phép thành "đối tác" đã mở đường cho việc hai nước ký kết hàng loạt thoả thuận hợp tác nguy hại cho Việt Nam, đặc biệt là mỗi dịp lãnh đạo nước này thăm viếng nước kia, vốn diễn ra với tần suất xoành xoạch. Kết quả là vô số người Tàu lũ lượt theo chân hàng trăm "dự án kinh tế" – đến 90% dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – trên khắp Việt Nam, từ một Hà Nội ồn ào náo nhiệt đến những cánh rừng đầu nguồn biên giới xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là những vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng.
"Đối tượng" Trung Quốc đã trở thành "đối tác" nên Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cứ việc vô tưhợp tác với Bắc Kinh để họ đào tạo cán bộ cấp cao cho Việt Nam hay phó thác cho họ nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho một loạt tỉnh biên giới.
Chưa dừng lại ở đó, Việt Nam còn đang đứng trước làn sóng xâm lăng kinh tế mới của "đối tác tốt" Trung Quốc thông qua những phương thức như "tàu container liên vận", thương mại điện tử, mua bất động sản hay thâu tóm doanh nghiệp… bất chấp thực tế những gì mà các doanh nghiệp Trung Quốc đem đến cho người dân Việt Nam luôn "lợi bất cập hại".
Không còn nghi ngờ gì, chủ trương biến đối tượng thành đối tác trên thực tế đã trở thành sai lầm chiến lược vô cùng nguy hiểm của ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 02/01/2018
Sau ba tháng rưỡi đóng cửa vì phản ứng quyết liệt của giới tài xế, ngày 30/11 trạm thu phí dự án BOT Cai Lậy bắt đầu hoạt động trở lại, đồng thời giảm 30% giá vé qua trạm như một động thái nhằm xoa dịu phản ứng của dân chúng.
"Đồng tiền liền khúc ruột"
Tuy nhiên, giới tài xế dứt khoát không chấp nhận giải pháp lừa mị đó. Lý do họ đưa ra là giá vé giảm mà thời hạn thu phí lại kéo dài thì thực chất cũng chẳng khác gì. Trong khi đó, yêu cầu trước sau như một của họ là phải dời trạm thu phí khỏi quốc lộ 1A và đặt trên tuyến đường tránh, và những ai đi vào đường tránh thì mới phải trả tiền.
Ngày 30/11 trạm thu phí dự án BOT Cai Lậy bắt đầu hoạt động trở lại
Lần này, giới tài xế sáng tạo ra chiêu thức đưa tiền lẻ 25.100 VND rồi đòi nhân viên thu phí thối lại 100 VND, hoặc dùng tiền mệnh giá 500.000 VND để mua vé khiến nhân viên mất nhiều thời gian thối lại. Thậm chí họ còn nhất quyết đứng ì tại trạm, không chịu mua vé. Kết quả là chỉ trong vòng 5 ngày, từ 30/11 đến 4/12, chủ đầu tư đã phải xả trạm tới 24 lần để tránh ách tắc giao thông.
Vụ việc BOT Cai Lậy một lần nữa lại khiến dư luận cả nước lên cơn sốt. Và hầu như mọi tiếng nói đều ủng hộ giới tài xế, phản đối chính quyền và chủ đầu tư.
Thái độ dè dặt của Thủ tướng
Trước áp lực của dư luận, ngày 4/12, Thủ tướng chính phủ đã quyết định dừng thu phí từ 1-2 tháng để các bên làm rõ các vấn đề liên quan và đề xuất phương án xử lý.
Mặc dù dân chúng nói chung hoan nghênh quyết định của người đứng đầu chính phủ, song câu hỏi không thể không đặt ra ở đây là : Tại sao một vụ việc sai phạm rõ rành rành như vậy, công chúng phản đối mạnh mẽ và rộng khắp như vậy, mà Thủ tướng lại không sớm chỉ đạo giải quyết, dù nó đã khiến dư luận nóng sốt từ hơn 3 tháng trước, và khi lên tiếng chỉ đạo ông còn phải "mua" thời gian thêm 1-2 tháng ?
Lời giải đáp cho thắc mắc nói trên nằm trong bài "BOT Cai Lậy, ‘hoạ sỹ’ Hoàng Trung Hải và giao thông Việt Nam" trên VOA ngày 21/8/2017. Nội dung bài báo đã chỉ rõ, Hoàng Trung Hải là người chịu trách nhiệm cao nhất không chỉ trong dự án BOT đường tránh Cai Lậy mà còn trong tất cả các dự án BOT giao thông nói chung, bởi ông ta là Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế ngành kiêm Trưởng ban Chỉ đạo nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành giao thông - vận tải từ năm 2007 đến 2016. Ở dự án BOT Cai Lậy, chẳng hạn, ngay cả việc chỉ định thầu cũng phải được ngài (cựu) Phó Thủ tướng chỉ đạo qua công văn số 97/TTg-KTN ngày 15/1/2014 rồi Bộ GT-VT mới được thực hiện.
Điều đáng nói là, suốt mười mấy năm qua, Hoàng Trung Hải là một cái tên "bất khả xâm phạm" ở Việt Nam, bất chấp thực tế gắn liền với nhân vật này là vô số sai phạm đặc biệt nghiêm trọng và rõ rành rành, là bản lý lịch "made in China" nay đã trở thành một thứ "bí mật" mà ai ai cũng biết, là những đơn thư tố cáo ngập tràn trên không gian mạng…
Vì sao Ngô Văn Dụ ?
Hồi đầu tháng, truyền thông "lề trái" đã phơi bày một sự thật : Ông chủ thật sự của BOT Cai Lậy, BOT Hoài Nhân... chính là Ngô Hồng Thắng, con trai của Ngô Văn Dụ, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Đảng khóa từ năm 2011 đến 2016. (Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng Bắc Ái nắm 65% cổ phần trong Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư QL1 Tiền Giang, pháp nhân đầu tư dự án BOT Cai Lậy, còn ông chủ của Bắc Ái lại là Ngô Hồng Thắng.)
Nguồn tin trên cho biết thêm là Bắc Ái còn là chủ đầu tư của nhiều dự án khủng từ bắc chí nam khác, và đặc biệt là "do tất cả các dự án của Bắc Ái thực hiện đều được Chính phủ, mà cụ thể là Hoàng Trung Hải, chỉ định thầu nên Bắc Ái phất lên nhanh chóng".
Ông Ngô Văn Dụ từng nằm trong Bộ chính trị
Bất kỳ ai là chủ nhân của BOT Cai Lậy thì người đó cũng nằm trong "nhóm lợi ích giao thông" do Hoàng Trung Hải cầm đầu. Dù vậy, người ta vẫn có lý do để "thắc mắc" là tại sao cái tên Ngô Văn Dụ lại xuất hiện ở đây ?
Câu trả lời tưởng như có thể nhìn thấy ngay. Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng là địa chỉ quan trọng đầu tiên mà những đơn thư tố cáo bản lý lịch "made in China" cũng như hàng loạt sai phạm nghiêm trọng và có hệ thống của (nguyên) Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tìm đến.
Vậy nhưng, thay vì lẽ ra phải làm đúng chức trách của mình để ngăn chặn vô số thảm hoạ mà "nhóm lợi ích Tàu" Hoàng Trung Hải gây ra cho đất nước, nhân vật đứng đầu bộ máy kiểm tra, kỷ luật của đảng giai đoạn 2011-2016 lại chọn cách "thiết thực" hơn là "ngậm miệng ăn tiền" hay chính xác hơn là "sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi".
"Tiếng nói là quyền lực"
Cùng ngày với quyết định của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tạm dừng thu phí BOT Cai Lậy, Kiểm toán Nhà nước cũng ban hành kế hoạch kiểm toán năm 2017, trong đó có 20 dự án BOT, vốn thuộc phạm vi trách nhiệm của (cựu) Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải.
Những động thái trên đây cho thấy, một phần "di sản" khổng lồ của Hoàng Trung Hải, nhân vật đang thống lĩnh bộ máy dân sự và quân sự của một Hà Nội "ngàn năm văn hiến", bắt đầu được các cơ quan chức năng "soi".
Dù vậy, thiết tưởng cũng cần nhắc lại là sau đại thảm hoạ môi trường do Formosa Hà Tĩnh gây ra tháng 4 năm 2016, mặc dù một loạt quan chức Bộ Tài nguyên - Môi trường và tỉnh Hà Tĩnh đã phải nhận những hình thức kỷ luật khác nhau, nhưng riêng cựu Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải – nhân vật đã "khai sinh" và dành cho Formosa Hà Tĩnh những ưu đãi "vô tiền khoáng hậu" – vẫn tiếp tục bình chân như vại.
Liên quan đến sự kiện chấn động dư luận đó, thậm chí không một tờ báo chính thống nào ở Việt Nam dám một lần nhắc đến tên ông ta, chứ đừng nói là đòi kỷ luật.
Như chúng tôi đã nhiều lần khẳng định, bất kỳ giải pháp nào cho tương lai Việt Nam, nếu muốn khả thi, đều cần kèm theo "lời giải" cho vấn đề Hoàng Trung Hải.
Chỉ có quyền lực mới chống lại được quyền lực. Vì vậy, muốn giúp nước nhà thoát khỏi tình cảnh "thù trong giặc ngoài" đang ngày một bủa vây hiện nay, trước hết chúng ta cần sử dụng quyền lực của tiếng nói chính nghĩa để góp phần xô đổ thành trì quyền lực của "con ngựa thành Troy" Hoàng Trung Hải.