Những gian lao của Thủ tướng Ngô Đình Diệm giành độc lập từ tay người Pháp
Tiếng hát của ca đoàn vang vang trong Thánh Đường buổi sáng hôm ấy. Nhà thờ ‘Chính tòa’ Sài Gòn (còn gọi là ‘Nhà thờ Đức Bà’) đã chật ních những giáo dân. Bầu không khí thật trang nghiêm, long trọng. Đã từ mấy tuần rồi, ca đoàn phải tập dượt cho thật kỹ một số nhạc khúc chọn lọc để hát vào một dịp lễ đặc biệt. Lần đầu tiên, một Hồng y Mỹ nổi tiếng, ông Francis Spellman, tới thăm viếng Việt Nam. Ông là thượng khách của tân thủ tướng chính phủ. Phần đông ca đoàn là những thanh niên vừa được tầu Mỹ chuyên chở từ miền Bắc di cư vào Nam mùa Hè 1954, trong đó có tác giả.
Ông Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, xuất hiện tại một hội chợ ở Sài Gòn năm 1957
Từ nơi bão lụt triền miên, chiến tranh loạn lạc, nay được hưởng bầu không khí thanh bình của miền Nam trù phú, chúng tôi hết sức lên tinh thần. Thành phố Sài Gòn văn minh, tráng lệ, đúng là ‘Viên Ngọc Trân Châu của Á Đông’. Hằng ngày đài phát thanh nói đến ‘Nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm’ từ Mỹ trở về. Bây giờ lại có Hồng y Giáo phận New York tới thăm. Thấy vậy, nhóm thanh niên chúng tôi tràn đầy hứng khởi.
Suy nghĩ của tuổi trẻ đơn sơ là như vậy. Có ngờ đâu vào vào thời gian ấy, những sự sắp xếp trên bàn cờ chính trị tại miền Nam đã thật là rối ren, nguy hiểm. Trông gương mặt của Thủ tướng Diệm, thấy ông lầm lầm, lỳ lỳ, ít cười nhưng bình tĩnh, khó ai biết được những khó khăn mà ông và trên thực tế, cả miền Nam, đang gặp phải.
Ý định ‘từ quan’ không thành
Trong quá vãng, Quốc trưởng Bảo Đại đã mời ông Diệm làm thủ tướng tới ba lần. Lần thứ tư ông mới chấp nhận. Lần thứ nhất là vào năm 1949 : sau khi ông Diệm đã đóng góp vào việc đưa ông Bảo Đại từ Hong Kong về làm Quốc trưởng, ông được mời làm thủ tướng. Hai lần sau là vào năm 1951 khi ông Diệm còn đang ở Mỹ. Cả ba lần ông Diệm đều từ chối vì cho rằng ông không thể làm được việc gì khi người Pháp còn dính líu vào chính trị Việt Nam. Tới năm 1954, sau khi Quốc hội Pháp đã thông qua Hiệp ước Độc lập (Treaty of Independence) ngày 4/6/1954, ông Diệm mới chấp nhận lời mời của ông Bảo Đại.
Ngày 16/6/1954 khi chỉ định ông Diệm, thoạt đầu thì ông Diệm đã từ chối. Trong cuốn hồi ký Con Rồng Việt Nam (1990), ông Bảo Đại đã ghi lại về câu chuyện này :
"Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ", Quốc trưởng Bảo Đại nói với ông Ngô Đình Diệm.
- Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ, ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…
- Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp :
- Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
Như vậy, giây phút ấy - ngày 16/6/1954 - là giây phút quyết định số mệnh của ông Ngô Đình Diệm. Ông muốn từ quan – không phải là để "lên non tìm động hoa vàng" nhưng là… để đi tu. Khi Quốc trưởng Bảo Đại nại đến sự tồn vong của đất nước và không cho ông được phép từ quan, ông mới lĩnh nhận sứ mạng, một sứ mạng đã đưa đến cho ông biết bao nguy hiểm, gian lao ngay từ đầu, để rồi tiếp tục cuộc hành trình chông gai đi tới cuối đường, nơi tử thần đã đứng sẵn để chờ đợi ông.
Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam, Bảo Đại
Bước gian truân ban đầu
Khi chỉ định ông Diệm, Quốc trưởng Bảo Đại chỉ hỏi ý kiến Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles, chứ không phải là "Mỹ đưa ông Diệm về Việt Nam làm Thủ tướng" như dư luận hay nói đến. Vì biết rõ uy tín của ông Diệm ở Việt Nam nên Mỹ rất ủng hộ ý kiến của ông Bảo Đại.
Nhưng sự ủng hộ cũng không kéo dài được bao lâu. Chỉ nội trong 10 tháng Thủ tướng Diệm cố gắng để thành lập một chính phủ trong hoàn cảnh rối ren 1954 của Sài Gòn, Mỹ đã muốn thay thế ông. Lý do chính yếu là sự vận động thành công của Pháp để loại trừ ông vì biết thành tích chống Pháp của gia đình Ngô Đình Khả.
Mỹ đã nghe những lời khuyến dụ của tướng Paul Ely (Tư lệnh Pháp ở Đông Dương) đánh giá ông Diệm không đủ khả năng lãnh đạo và không được dân chúng Miền Nam ủng hộ. Ely lại là bạn đồng liêu của tướng Mỹ John Collins trong Thế Chiến II. Bây giờ ông Collins là Đặc ủy (rồi Đại sứ) của Tổng thống Dwight Eisenhower tại miền Nam. Đầu tháng 4/1955 tướng Collins đề nghị rõ ràng về năm bước để loại bỏ ông Diệm (xem 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào', Chương 11).
Và Collins đã thành công : cuối tháng 4/1955 Washington đã có chỉ thị tối mật : thay thế Thủ tướng Diệm. Nhưng nhờ cơ may, ông Diệm đã lật ngược được thế cờ trong khoảnh khắc và Washington đã hủy mật lệnh này.
Với cái thế mạnh sau tháng 4/1955, Thủ tướng Diệm đã đẩy được người Pháp ra khỏi Việt Nam, thu hồi được độc lập cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, tài chánh, hoàn thành được giấc mộng mà gia đình Ngô Đình Khả đã nuôi dưỡng từ khi còn làm quan triều Nguyễn.
Hiệp Định Geneva (tháng 7/1954) chỉ là để phân chia ranh giới rút quân : quân đội Liên hiệp Pháp rút về bên dưới vĩ tuyến 17 chứ không phải là rút khỏi Việt Nam.
Ngày 20/5/1955 là mốc lịch sử vì hôm đó quân đội Pháp rút khỏi khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Tới tháng 7, số quân đội Pháp đã từ 175.000 xuống chỉ còn 30.000. Ông Diệm yêu cầu là cả quân đội lẫn huấn luyện viên người Pháp đều bắt buộc phải rời khỏi miền Nam vào mùa Xuân, 1956.
Ông Diệm đã thật vất vả và chấp nhận nhiều nguy hiểm khi đi tới quyết định này. Sau cùng, vào tháng 8/1955, Pháp đồng ý đóng cửa cơ quan quản lý thuộc địa, gọi là "Bộ các quốc gia liên kết".
Về phía Mỹ thì Đại sứ Collins, người nghe lời tướng Pháp Paul Ely vốn đã muốn lật đổ Thủ tướng Diệm, cũng bị thuyên chuyển. Ngày 14/5/1955, ông rời Việt Nam sang nhận trách nhiệm mới tại NATO. Đại sứ G. Frederick Reinhardt sang thay Collins. Tân đại sứ liền tuyên bố ngày 27/5 :
"Tôi tới đây với chỉ thị là thi hành chính sách của Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ hợp pháp của Thủ tướng Ngô Đình Diệm".
Sang Thu 1955, uy tín của Thủ tướng Diệm lên cao. Đối nội, ông đã nối kết lại được một quốc gia đang bị phân tán nặng nề, khuất phục được sự chống đối của viên Tổng tham mưu quân đội (thân Pháp) Nguyễn Văn Hinh, chấm dứt được sự đe dọa của cảnh sát ; quân đội quốc gia đã tuân lệnh ông quét sạch lực lượng Bình Xuyên, rồi được Đại hội các đoàn thể chính đảng nhất mực ủng hộ. Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần một triệu người di cư.
Đối ngoại thì ông Diệm đã cương quyết chống trả và khuất phục được mưu đồ của Pháp và kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ely-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ. Nhiều nhà quan sát quốc tế bình luận : "ông Diệm đã làm được những việc như phép lạ".
Với cái thế ấy, ngày 26/10/1955, Thủ tướng Diệm tuyên bố thành lập một chế độ ‘cộng hòa’, và trở thành Tổng thống đầu tiên. Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ ‘Quốc Gia Việt Nam’ sang ‘Việt Nam Cộng Hòa,’ nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi.
Quốc hội đầu tiên : tháng 3/1956
Cao ủy Pháp Henri Hoppenot (phải) chúc mừng Tổng thống Đình Ngô Diệm ngày thành lập đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tháng 10/1955
Ngày 4/3/1956, cột trụ của chính thể cộng hòa được xây dựng. Nhân dân Miền Nam đi bầu một Quốc hội Lập hiến. Với một dân số là 12 triệu người, gần 80% số người được đi bầu đã thực sự tham gia để chọn 123 dân biểu trong số 405 ứng cử viên. Dù tới gần một phần ba số ứng cử viên được chính phủ đề cử đã không trúng cử, đa số những người được bầu là ‘thân chính’.
Tuy không phải là một cuộc bầu cử lý tưởng vì chắc chắn đã có những vận động, sắp xếp không chính đáng, hoặc gian lận, như các phe đối lập tố cáo, nó cũng là bước đi đầu tiên của một hành trình lâu dài để xây dựng nền cộng hòa. ‘Res Publica’ quan niệm của nhà triết học Plato từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, có nghĩa là ‘sự việc hay cơ chế của nhân dân,’ ta dịch là ‘Cộng hòa’. Nòng cốt của cơ chế này là một thể chế đại diện cho nhân dân để làm ra luật pháp. Mục đích của Quốc hội năm 1956 là soạn thảo một hiến pháp. Với sự cố vấn của ông J.A.C. Grant, một chuyên gia hiến pháp người Mỹ, một Hiến pháp thành hình, đặt nặng nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp giống như hiến pháp Hoa Kỳ, ít nhất là về mặt lý thuyết.
Bầu xong Quốc hội Lập hiến, vào hè 1956, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ gửi một Bản ghi nhớ cho Tổng Tham mưu Liên quân thông báo ‘ý định của Tổng thống Dwight Eisenhower, các cơ quan có thẩm quyền về quân sự phải cổ vỏ giới quân sự Việt Nam để làm một kế hoạch song song và phù hợp với kế hoạch dựa trên căn bản chính sách của Hoa Kỳ để đối phó với những tấn công của Cộng sản. Và một cách kín đáo, phải thông báo cho họ biết rằng Hoa Kỳ sẽ yểm trợ nước Việt Nam tự do để đương đầu với bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài vào".
Tổng thống Eisenhower hết mực ủng hộ. Riêng đối với Ngoại trưởng Dulles thì sau chuyến viếng thăm Tổng thống Diệm vào ngày 14/5/1956, ông lại càng thêm tin tưởng. Điều trần tại một Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ sau ngày trưng cầu dân ý, ông Dulles khẳng định :
"Ông Diệm đã làm được một việc quá tốt đẹp, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của chúng ta, là quét sạch được các lực lượng phe phái… và quyền bính của ông bây giờ được đại chúng chấp nhận. Ông đã được Hoa Kỳ yểm trợ để đào tạo và võ trang một quân đội quốc gia, và quân đội ấy đã chiến đấu một cách trung thành và hữu hiệu, mang được quyền bính của trung ương tới mọi nơi trong nước tới mức độ thật ngạc nhiên…
Nhân dân miền Nam đã có được một cuộc trưng cầu dân ý khoáng đại. Ngày tôi rời Việt Nam, họ đã bắt đầu có những cuộc họp để sửa soạn cho cuộc bầu một quốc hội đầu tiên, như vậy nền móng đã được đặt xuống để xây dựng một chính phủ đại diện cho quốc dân.
Ông Bảo Đại đã bị loại bỏ đi rồi và nhân dân Việt Nam hiện có khả năng xây dựng một chính thể chống cộng mạnh mẽ và hữu hiệu tại một nơi mà đã có lúc coi như sắp bị tan rã vì hai lý do : hậu quả của việc Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, và những điều khoản bất lợi của một hiệp định đình chiến (Hiệp định Geneva)".
Ngày 26/10/1956 Quốc hội Lập hiến trở thành Quốc hội Lập pháp sau khi Hiến pháp được ban hành (và năm 1959, Quốc hội được bầu lại lần thứ hai).
Tổng thống Dwight Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles đón Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tới Washington năm 1957
"Một quốc gia tự do vừa ra đời"
Tháng 5/1957, Tổng thống Eisenhower mời tân Tổng thống nước Cộng hòa Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ ba tuần. Ông gửi máy bay riêng Columbine III sang tận Honolulu để chở Tổng thống Diệm tới Washington, một hành động rất hãn hữu. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường National (bây giờ là phi trường Reagan) thì chính Tổng thống Eisenhower đã có mặt để đón chào. Đây là lần thứ hai trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống mà ông Eisenhower đã đích thân ra tận phi trường để đón quốc khách. Lần đầu là đón quốc vương Saud xứ Saudi Arabia.
Sau khi trao đổi với Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Diệm được cả Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ mời tới Quốc hội để diễn thuyết. Nghị sĩ, dân biểu cả lưỡng đảng đều có mặt đầy đủ. Cho tới lúc ấy thì chưa có lãnh đạo Á Đông nào có cái vinh dự này. Những tràng pháo tay nổ ran khi ông Diệm nói tới "ước nguyện của nhân dân Việt Nam chỉ là được sống trong hòa bình, tự do và họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tự do và độc lập của mình, chỉ yêu cầu nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ cho họ về phương tiện và vật chất". Một cách gián tiếp, ông muốn gửi thông điệp là chúng tôi chỉ cần sự yểm trợ vật chất, các ông chớ có mang quân vào Việt Nam.
Rồi ông nhấn mạnh đến quyền lợi hỗ tương của cả hai nước dựa trên căn bản miền Nam là tiền đồn của Thế giới tự do. Ông nói thẳng bằng tiếng Anh chứ không qua thông dịch viên. Theo một người bạn chúng tôi lúc ấy làm ở đài VOA (bác Trịnh Văn Chẩn) được cử đi làm phóng sự, ông Diệm nói với âm hưởng Huế, có câu các dân biểu, nghị sĩ không hiểu rõ, nhưng cứ đứng lên vỗ tay vang vang thật lâu, và đứng lên nhiều lần.
Tại New York, Thị trưởng Robert F. Wagner tổ chức một cuộc diễn hành để chào mừng vị Tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Ít quốc khách nào được đón tiếp như vậy. Dù ít người ở thành phố này biết đến ông Diệm, nhưng dân chúng đã đổ xô ra đường phố để hoan hô. Từ các cao ốc, những cánh hoa đủ mầu sắc được rắc xuống chiếc xe limousine mở mui chở ông Diệm đi qua. Báo chí đồng loạt ca tụng, nói đến "Một quốc gia tự do vừa ra đời". Tờ New York Times gọi Tổng thống Diệm là "một người giải phóng Châu Á" ; Tuần báo Life : "Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam" (A tough miracle man of Vietnam). Sau này Phó Tổng thống Lyndon Johnson (thời Tổng thống Kennedy) còn gọi ông Diệm là "Churchill của Châu Á".
Phản ứng tại Quốc hội Mỹ hết sức thuận lợi. Các nghị sĩ, dân biểu thay nhau khen ngợi. Nghị sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York) tuyên bố : "Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do". Nghị sĩ Mike Mansfield (Montana), người đã ủng hộ ông Diệm trong những giờ phút nguy hiểm, giờ đây hết sức vui mừng, ca ngợi Tổng thống Diệm là con người có quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực, "một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn". Nghị sĩ (sau là tổng thống) John F. Kennedy (Massachussets) còn tuyên dương về Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Diệm : "Việt Nam là nền tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á, là đỉnh vòm của vòng cung (keystone to the arch), là ngón tay trên con đê (finger in the dyke)".
Cuối hè 1957, những hình ảnh tiếp đón Tổng thống Diệm linh đình tại thành phố New York và thủ đô Washington được chiếu thật lớn trên màn ảnh tại các rạp xi nê ở Sài Gòn cũng như các đô thị, sau phần tin tức nhộn nhịp về thể thao. Bầu không khí lúc ấy thật là phấn khởi. Sinh viên, học sinh chúng tôi hết sức vui vẻ "xuống đường" liên tục, chăng biểu ngữ đi biểu tình để "chào mừng Tổng thống đầu tiên, ủng hộ Quốc hội Lập hiến".
Mỗi buổi sáng, tiếng kèn trống của ban quân nhạc oang oang trên đài phát thanh cử hành lễ chào cờ, tiếp theo là bài tung hô Ngô Tổng thống : "Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…".
Ngày 28/4/1956, những người lính Pháp cuối cùng đã rời Việt Nam.
Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp ước Patenôtre do Triều đình Huế ký với Pháp năm 1884 tới đây đã hoàn toàn chấm dứt trên thực tế.
Buổi bình minh của nền Cộng hòa thực là huy hoàng rực rỡ.
Nguyễn Tiến Hưng
Nguồn : BBC, 31/10/2022
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ. Ông đã xuất bản bộ sách : Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
Tượng đài và con đường Ngô Đình Diệm
Ở Bangladesh có một con đường mang tên Ngô Đình Diệm
Con đường mang tên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Con đường có pho tượng Tổng thống giơ tay vẫy chào trước thời gian bất biến
Hai bên tượng đài là hoa sen Việt Nam, đúng nghĩa quốc hoa
Cô Tổng thống Ngô Đình Diệm của miền Nam Việt Nam - Ảnh Life, 1960
Không phải tự nhiên mà xứ sở người ta
Thuộc lòng câu tục ngữ "ăn cây nào rào cây nấy"
Năm 1960 Bangladesh bị nạn đói hoành hành
Dân chúng phải ăn thịt lẫn nhau như loài thú dại
Đúng lúc ấy Việt Nam Cộng Hòa đã giúp đỡ cho nước Nam Á này gói cứu trợ không hoàn lại
Gồm 200 ngàn tấn gạo, 5 triệu đô la và hỗ trợ y tế kịp thời
Một đất nước sửa soạn bị diệt vong vì chết đói
Bỗng hồi sinh bằng lòng nhân ái cầm hơi
Sau 1975 "nhiễu điều phủ lấy giá gương" ở trong nước bỏ đi chơi
Nhưng ở nước ngoài người ta nhớ "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ"
Người ta biết Việt Nam có câu "uống nước nhớ nguồn"
Có câu "ăn trái nhớ kẻ trồng cây" nhớ ngày gian khổ
Sau 1975 bọn "ăn cháo đá bát" ở Việt Nam đá nhân dân thành man rợ
Nhưng tại Banglades nghĩa tình kia đã để quốc tang khi Ngô Tổng Thống mất 7 ngày
Chỉ cần một lần hàm ơn là mắc nợ
Là đặt tên đường, dựng tượng đài ân nhân đứng vẫy tay
Tôi làm bài thơ về sự kiện ít người Việt Nam biết đến hôm nay
Rằng tại một xứ sở không xa người ta vẫn vinh danh Ngô Tổng Thống
Rằng bọn bạo chúa độc tài đàn áp bóc lột nhân dân cũng sẽ có ngày
Được báo đáp đền ơn bằng những sợi dây thòng lọng !
Bùi Chí Vinh
(09/11/2022)
*************************
Việt Nam Tự Do : Phép lạ hiện đại
John W O’Daniel, Trần Quốc Việt dịch
Tháng Ba 1959
Vào ngày 3 tháng Sáu, 1958, trong cuộc viếng thăm 30 ngày miền Nam Việt Nam Tự Do, tôi đi đến thị xã Bạc Liêu cách Sài Gòn 160 cây số về hướng đông nam. Cùng với các viên chức viện trợ người Mỹ và người Việt, tôi chứng kiến cuộc chuyển giao khoảng 240.000 mẫu Anh đất từ những đại điền chủ sang những tá điền, khởi đầu chương trình cải cách điền địa. Chính phủ Việt Nam mua đất của những đại điền chủ rồi bán lại mỗi lô khoảng bảy mẫu Anh cho những nông dân nhỏ.
Tổng thống Ngô Đình Diệm họp với ban tham mưu quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam - Ảnh tư liệu
Viện trợ Mỹ đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho chương trình có ảnh hướng lớn lao này trở thành hiện thực. Người Việt nghiên cứu kế hoạch cải cách điền địa cùng với các chuyên viên của chúng ta và sự ủng hộ tài chánh của chúng ta.
Chương trình này cuối cùng sẽ tạo ra sinh kế đủ sống cho ba triệu người Việt dựa trên tư hữu ruộng đất, và cho họ hưởng lợi ích thật sự trong tương lai và trong nền độc lập của quốc gia họ.
Đây chỉ là một phần của phép lạ hiện đại đang diễn ra ở Đông Nam Á, tại Việt Nam Cộng Hòa, tiền đồn của Thế giới Tự do trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc cộng sản.
Quốc gia can trường này, ngay lúc giành độc lập vào 1954 sau cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, đã phải đối mặt với có lẽ là những trở ngại đáng sợ nhất mà một quốc gia mới độc lập từng đương đầu. Những trở ngại này là những vật cản đường cực kỳ lớn mà người Việt Tự do phải vượt qua để vẫn tồn tại :
1. Sự tàn phá của cuộc chiến tranh tám năm giữa thực dân Pháp và Việt Minh do cộng sản lãnh đạo.
2. Chế độ thực dân và trước kia chế độ phong kiến Phương Đông truyền thống đã áp đặt tình trạng cô lập bắt buộc với những lợi ích của khoa học và kỹ thuật hiện đại.
3. Khu vực cộng sản ở miền Bắc công khai đe dọa xâm lăng, kết hợp với tất cả những kỹ thuật lật đổ và phá hoại mà đặc trưng cho mối đe dọa cộng sản từ bên trong đối với bất kỳ quốc gia mới nào.
4. Dòng người gần một triệu người Việt tỵ nạn ở miền Bắc chạy trốn vào Việt Nam Tự do sau Hội nghị Geneva vào 1954. Với dân số 11 triệu người ở miền Nam, điều này giống như Hoa Kỳ nhận vào cả toàn bộ dân số Canada trong vòng chưa đầy một năm.
5. Cuộc phiến loạn vũ trang của các giáo phái chính trị được thiết lập dưới chế độ thực dân Pháp và lực lượng quân đội của họ đã gia nhập cuộc đấu tranh chống cộng sản nhưng về sau, qua giấc mơ của đế quốc, đã tiến hành cuộc nội chiến chống lại chính quyền mới.
6. Mối đe dọa kinh tế suy sụp do hậu quả chiến tranh ; thiếu kỹ nghệ (hầu như tất cả các nhà máy và hầm mỏ của Việt Nam đều ở miền Bắc cộng sản) ; thiếu nghiêm trọng các nhà chuyên môn, nhà quản lý và thương gia ; và sự rút vốn nhanh chóng của người Pháp.
7. Tinh thần chủ bại hiện diện khắp nơi trong Thế giới Tự Do : hầu như tất cả các "chuyên gia" đều tiên đoán sự diệt vong mau chóng của Chính phủ Việt Nam Tự Do, mà vào lúc đầu, chỉ có thể trông chờ vào sự ủng hộ nhỏ nhoi của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên Việt Nam Tự Do vẫn tồn tại và thịnh vượng. Vì sao phép lạ này đã có thể xảy ra ? Là người đã quan sát trực tiếp và kỹ càng trong thời gian khai sinh và phát triển của Việt Nam Tự Do, tôi biết rõ ràng những nhân tố đã chứng tỏ là những nhân tố quyết định.
Những nhân tố này là :
1. Lòng can đảm, sức mạnh và sức sống của nhân dân Việt Nam. Vì họ đã chịu đựng bao hậu quả tai hại của chính sách khủng bố của cộng sản và bất công của thực dân, nên tình yêu tự do mãnh liệt của họ sống mãi và đấy ý nghĩa. Họ đã hy sinh rất nhiều mới giành được tự do ; họ sẵn sàng cứu tự do khỏi ách chuyên chế của Mạc Tư Khoa hay Bắc Kinh.
2. Quan trọng nhất đối với sự sinh tồn của Việt Nam Tự Do là sự lãnh đạo khôn khéo, quả quyết và nhìn xa trông rộng của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thật là vô cùng may mắn cho Việt Nam và cho toàn thể Thế giới Tự do là trong thời khắc nguy cấp nhất Việt Nam Tự do đã sản sinh ra nhà lãnh đạo rất năng động. Tổng thống Ngô Đình Diệm từ lâu đã nổi tiếng trong dân chúng là người quên mình vì tự do. Ngay từ năm 1932 ông đã từ bỏ chức vụ cao trong chính quyền vì nhà cầm quyền thực dân từ chối cho phép ông đưa ra những cải cách rất cần thiết cho nhân dân ông. Ông cũng đã cự tuyệt một cách khinh bỉ những lời đề nghị của quân đội chiếm đóng Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế chiến. Nhưng ông cũng nổi tiếng không kém là cương quyết chống lại cộng sản mà đã giam cầm ông và giết anh ông. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm và nhân dân Việt Nam Tự do tự mình không thể nào tồn tại nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ và hào phóng của Chính phủ Hoa Kỳ và nhân dân Mỹ.
Khi Ngô Đình Diệm về Việt Nam vào năm 1954, nước ông gần như là vô chính phủ. Mặc dù ông là người yêu nước liêm khiết rất nổi tiếng, nhưng nhân vật lãnh đạo cộng sản đầy mờ ám, Hồ Chí Minh, đang hiện ra to lớn hơn nhiều trên chính trường Việt Nam.
Hơn nữa, Ngô Đình Diệm không phải là người có sức lôi cuốn lớn đối với đám đông. Do bản tính và ý thích, ông không bao giờ có thể dùng công cụ của những kẻ mị dân. Cho đến ngày nay, những bài diễn văn của ông có vẻ thuyết trình hơn là diễn thuyết. Ngô Đình Diệm nghiêm khắc dạy nhân dân ông hãy làm việc cần cù hơn và nhắc cho họ nhớ về thực tại ở đây-và-bây giờ, chứ không phải về viễn cảnh tươi đẹp của thiên đường không tưởng.
Hơn bất kỳ người nào khác mà tôi đã từng gặp, Tổng thống Ngô Đình Diệm biết nhân dân ông và quốc gia ông. Hầu như trong suốt cuộc đời trưởng thành của mình, ông đã đi khắp nơi từ thung lũng rất nhỏ đến núi cao và cao nguyên mênh mông. Ông thậm chí trò chuyện với bộ tộc miền núi bán khai bằng tiếng của họ.
Trong chuyến thăm viếng Việt Nam gần đây nhất của tôi, một người Mỹ kể cho tôi nghe chuyện một kỹ sư Mỹ trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm xem xét đồ án tổng quát cho hệ thống dẫn thủy nhập điền tại một vùng hẻo lánh của Việt Nam. Các chuyên gia có tài năng đã mất nhiều tháng trời để thực hiện các địa đồ này. Tổng thống nhìn chăm chú các địa đồ, ngẫm nghĩ một lát, rồi chỉ vào bàn đồ, nói : "Ông sẽ phải chuyển hồ chứa nước từ thung lũng này đến thung lũng đó vì chưa từng bao giờ có mưa ở thung lũng đầu tiên".
"Nhưng, thưa Tổng thống" viên kỹ sư nói, "xây hồ chứa nước ở thung lũng đầu tiên sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc, mà cũng chỉ cách nơi Tổng thống gợi ý có vài cây số. Làm sao Tổng thống có thể biết chỗ ấy không có mưa ?"
"Tôi đã đến đấy", Tổng thống nói và trong mắt ông hơi ánh lên vẻ thích thú. "Còn ông đến chưa ?"
"Chưa", viên kỹ sư đáp. "Các địa đồ của chúng tôi được vẽ từ các bản đồ không ảnh".
"Vậy bây giờ hãy đi đến đấy", Tổng thống nói xong liền quay trở lại làm việc.
Và người bạn Mỹ bảo tôi, "Ông biết không, Tổng thống hoàn toàn đúng. Khi kỹ sư ta đến đấy ông ấy mới phát hiện ra rằng thung lũng ấy đã không có mưa trong nhiều đời".
Nói không ngoa đây là một con người phi thường. Và phải cần người phi thường để đối phó với những thử thách đặt ra trong năm độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Ngô Đình Diệm đã đấu tranh một cách can đảm ngoan cường chống lại các giáo phái đánh thuê lần lượt từng giáo phái một và đến đầu năm 1956 quyền lực của họ bị đập tan. Nơi nào cần ngoại giao và mưu chước thì Ngô Đình Diệm dùng đến những cách thức này. Nhưng khi chọn lựa duy nhất là lực lượng vũ trang, ông không ngần ngại thử thách lòng tin của ông vào quân đội quốc gia mới của Việt Nam bằng cách dàn trận đánh nhau với quân đội của các giáo phái.
Sau những thắng lợi quan trọng đầu tiên của Ngô Đình Diệm chống lại các giáo phái, Hoa Kỳ đồng ý viện trợ cho ông trực tiếp thay vì thông qua Pháp. Vào tháng Hai, 1955, Nhóm Cố vấn Trợ giúp Quân sự Hoa Kỳ, mà tôi vinh hạnh chỉ huy, bắt đầu giúp đào tạo Quân đội Việt Nam. Đến cuối năm ấy viện trợ Mỹ ủng hộ Việt Nam Tự do trên phạm vi lớn, chủ yếu để xây dựng quân đội hùng mạnh và tái định cư người tỵ nạn.
Vào tháng Sáu năm này, 1958, tôi thấy những tân binh luyện tập thiện xạ. Họ tài giỏi không thua kém bất kỳ ai tôi từng thấy ở bất kỳ đâu. Việt Nam hiện nay có mười sư đoàn bộ binh được huấn luyện kỹ, hầu hết họ đều đã qua thử thách chiến đấu.
Nhưng Ngô Đình Diệm không dừng lại ở đấy. Để chứng tỏ sự tận tâm của ông với độc lập và tự do, Ngô Đình Diệm kêu gọi trưng cầu dân ý toàn quốc vào ngày 23 tháng Mười. 1955 để chọn Quốc Trưởng. Trong cuộc bầu cử tự do phổ thông lần đầu tiên ở Việt Nam, Ngô Đình Diệm đánh bại Hoàng đế Bảo Đại với số phiếu hơn 98 phần trăm. Ba ngày sau ông tuyên bố Việt Nam là nước cộng hòa và trở thành vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam.
Vào tháng Ba, 1956, cuộc tổng tuyển cử được tổ chức để chọn các dân biểu cho Quốc Hội để thảo ra hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, mà được công bố vào tháng Mười sau đấy. Hiên pháp này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hiến pháp Hoa Kỳ.
"Hạn chót" Geneva nổi tiếng sẽ diễn ra vào tháng Bảy, 1956. Hai năm trước, ở cuộc đàm phán Geneva, bất chấp sự phản đối đáng lưu tâm của phái đoàn Việt Nam Tự Do và Hoa Kỳ, những người tham dự hội nghị đã đề nghị hai miền Nam Bắc Việt Nam đàm phán về một hiệp định thống nhất hai miền qua cuộc tổng tuyển cử. Họ đề nghị bầu cử diễn ra vào tháng Bảy, 1956. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ, người Việt Tự do từ chối tham gia cho đến khi nào có thể thực hiện bầu cử thật sự tự do ở miền Bắc mà có dân số lớn hơn miền Nam.
Khi Tổng thống Ngô Đình Diệm củng cố sức mạnh, ông càng ngày càng được dân chúng mến mộ. Đến 1956, cộng sản với mối đe dọa quân sự của một quân đội lớn gấp mấy lần lực lượng 150.000 người của Việt Nam Tự Do bắt đầu tấn công Việt Nam Tự Do trên mặt trận ngoại giao bằng những cuộc đả kích nặng nề Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng dần dần Thế giới Tự Do chuyển sang ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, và công nhận ông. Ngay cả Ấn Độ và Miến Điện trung lập cũng bắt đầu quan hệ thân hữu với Việt Nam Tự Do.
Rồi cộng sản phát động cuộc tấn công lớn về kinh tế kết hợp với những chiến dịch tuyên truyền và khủng bố tàn bạo. Số vốn khổng lồ của Nga và Trung Cộng đã đổ vào Bắc Việt (nhiều ước tính là lên tới hai tỷ đô la) để biến miền Bắc thành "tủ kính trưng bày chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á". Cùng với chiến dịch đàn áp và bây giờ tập thể hóa, họ đang xây dựng khu kỹ nghệ liên hợp ở Bắc Việt mà tất yếu khiến hầu hết mọi người Châu Á khâm phục.
Ngược lại, Tổng thống Ngô Đình Diệm và người Việt Tự do đã đặt cược chính quyền họ vào sáng kiến cá nhân. Chính tự do kinh doanh được hiến pháp Việt Nam bảo đảm. Vào tháng Ba 1957, Tổng thống đã làm một việc chưa từng có trong lịch sử cho Châu Á khi tuyên bố chính sách mới nhằm khuyến khích cả kinh doanh cá nhân và tư bản ngoại quốc ở Việt Nam Cộng Hòa. Trong vòng một năm rất nhiều kế hoạch đầu tư ngoại quốc cá nhân đã được Chính phủ chấp thuận với vốn từ Nhật, Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Hoa Kỳ và nguồn vốn từ cá ngân và chính phủ Việt Nam.
Như chính Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đầu tiên thừa nhận, phương pháp này tự nhiên chậm hơn những phương pháp của cộng sản dựa trên vũ lực và kiểm soát nhà nước. Nhưng đấy là sự chọn lựa có ý thức và khó khăn có lợi cho tự do hơn nhưng thiệt thòi, ít ra trong thương lai gần, cho sản xuất lớn. Nhưng Việt Nam Tự Do đang trong cuộc đua với địch thủ cộng sản cho nên họ không thể nào bị bỏ rơi quá xa ở phía sau. Hơn nữa Bắc Việt lại được ưu đãi hơn rất nhiều với quặng mỏ và nguyên liệu mà kỹ nghệ hóa có thể dựa vào. Miền Nam chủ yếu là nông nghiệp nhưng được may mắn là có nhiều ruộng đất và mưa cho nên đói kém không phải là vấn đề quan trọng.
Những tiến bộ Việt Nam Tự Do đã đạt được trong hai năm qua thật là phi thường. Hầu hết tất cả mọi người tỵ nạn từ miền Bắc đều có công việc sản xuất ổn định, hầu hết ở những vùng đất mới khai hoang ở miền trung. Viện trợ Mỹ đã góp phần đạt được điều này trong vòng chưa đầy hai năm.
Một lần nữa cũng với sự giúp đỡ của viện trợ Mỹ, hàng chục ngàn người Việt khác từ những vùng quá đông đúc đang được tái định cư ở Cao nguyên dọc theo biên giới Cao Miên. Tổng thống Ngô Đình Diệm, lại không nghe theo lời khuyên của các cố vấn thân cận, nhấn mạnh rằng công việc tái định cư này là một nhiệm vụ phi thường. Điều này tựa như thể toàn bộ phong trào khai khẩn của Mỹ đến định cư ở những vùng miền Tây của chúng ta đã bị rút xuống chỉ còn trong hai hay ba năm. Xe ủi đất và máy kéo do ICA cung cấp đang san bằng những khu vực rừng rậm rậm rạp và, ngay khi đất vừa vỡ hoang xong thì máy bay liền chở các gia đình đến. Khoảng 40.000 người đã được tái định cư trong những khu vực này trong năm đầu tiên. Hy vọng đến cuối năm thứ hai sẽ có 50.000 người khác đến.
Những nỗ lực cải cách điền địa đang được ủng hộ bởi những đề án của chính quyền nhằm cải thiện những phương pháp làm nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp ; bởi sự du nhập những phương tiện tiếp thị và tín dụng ; bởi các chương trình về y tế, xóa mù chữ, và các dịch vụ xã hội khác. Hoàn cảnh của nhân dân Việt Nam với hơn 80 phần trăm sống bằng nghề nông, đang thăng tiến ngoạn mục về mọi phương diện-mà chính mắt tôi đã nhìn thấy "trước và sau".
Vì nhiều lý do khác nhau sự phát triển trong lĩnh vực kỹ nghệ lại không nhanh chóng bằng. Trước tiên, bản thân người Việt hầu như không có vốn và kỹ năng quản lý cần thiết cho những công ty thương mại như thế. Họ cũng không có truyền thống đầu tư lâu dài. Thứ hai, có thể hiểu là họ do dự về sự đầu tư của Pháp, nguồn vốn khả thi nhất. Tuy nhiên sự đột phá đã diễn ra vào mùa đông qua.
Thứ ba, Chính phủ chúng ta đã không có điều khoản về giúp đỡ đầu tư lâu dài và đòi hỏi tất cả các công ty kỹ nghệ phải là tư nhân, cho dù không có nguồn vốn nào khác có sẵn. Rồi Quốc hội cũng đặt ra nhiều hạn chế về chương trình viện trợ đến nỗi những người ở thực địa thiếu sự linh hoạt để hoạt động nhanh hơn thường lệ. Những điều luật của Quốc hội thường yêu cầu những thủ tục và tiêu chuẩn mà không thực tế đối với quốc gia mới xuất hiện như Việt Nam Tự Do. Và những quan tâm thuần túy về kinh tế thắng thế.
Cuối cùng, tư bản tư nhân Mỹ đã không thật sự vội vàng đổ xô đến Việt Nam với túi tiền căng phồng. Dù sao, người Việt Nam vẫn hy vọng thu hút tư bản từ Hoa Kỳ, và họ coi công dân Mỹ là bạn hữu chứ không phải là kẻ bóc lột. Thật vậy, vào tháng Mười Một vừa qua, người Việt đã ký một loạt hiệp ước với Hoa Kỳ để bảo đảm tất cả đầu tư của tư nhân Mỹ không bị sung công và quốc hữu hóa, rủi ro chiến tranh và phong tỏa tiền tệ.
Một nguy cơ nghiêm trọng đối với sự phát triển vũng vàng ở Việt Nam là sự gia tăng khủng bố và cướp bóc gần đây ở những khu vực ngoại ô. Rõ ràng cộng sản đứng đằng sau những biến cố này và các gián điệp cộng sản từ Bắc Việt, Lào và Cao Miên đang xâm nhập qua biên giới để cung cấp tiền bạc và vũ khí cho những nhóm cướp và một vài người bất đồng chính kiến. Cộng sản thậm chí xúc tiến một chiến dịch nhằm tái nhóm các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo trên cơ sở quân sự thuần túy. Việc cộng sản đã từ bỏ những phương thức thuần túy chính trị để chọn khủng bố và phá hoại chứng tỏ rõ ràng sự thành công và ổn định của chế độ Ngô Đình Diệm.
Một vài các quan sát viên ngoại quốc (nhiều người có mục đích giấu kín) đã chỉ trích chính quyền Ngô Đình Diệm là không tiến bộ đủ nhanh trong lĩnh vực các quyền tự do dân sự. Sự chỉ trích này chứng tỏ một sự ngây thơ về chính trị đáng kinh ngạc khi ta nhận thức rằng Việt Nam hầu như không có truyền thống về các thể chế dân chủ và rằng cách đây bốn năm chẳng một ai tiên đoán quốc gia này sẽ còn tồn tại. Và như Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ ra, " Chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh. Cộng sản đã thề tiêu diệt chúng ta và chúng đang tập trung trên biên giới chúng ta. " Tạm thời, Tổng thống Ngô Đình Diệm không thể nào đánh liều với những người bất đồng chính kiến những người mà chứng tỏ rằng quyền lợi duy nhất của họ là quyền lực cá nhân và ai trả giá cao nhất thì có thể mua được lòng trung thành của họ.
Nhưng trên hết, trong cuộc đấu tranh toàn lực chống lại mối đe dọa cộng sản này, chúng ta nợ bản thân, con cháu và nhân loại cho nên chúng ta phải chiến đấu cho đến khi thắng trận. Việt Nam Tự Do, bất chấp bao khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua được, đang làm tròn vai trò của mình là một đồng minh khí phách và là thành trì của Thế giới Tự Do ở Đông Nam Á.
John W. O’Daniel
Nguyên tác : "Free Vietnam – Modern Miracle", The American Mercury, tháng 3/1959, pp. 146-152
Trần Quốc Việt dịch
Cựu Trung tướng quân đội Mỹ John W. O'Daniel là Chủ tịch hội American Friends of Vietnam. Ông từng là Tùy viên Quân sự ở Mạc Tư Khoa (1948-1950) ; Chỉ huy Quân đoàn Một ở Triều Tiên ; Chỉ huy Quân đội Thái Bình Dương (1952-1954) ; và Chỉ huy Nhóm Cố vấn Quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam (1954-1955). Ông góp phần quan trọng xây dựng nên Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
***********************
"Nhân dân không còn cam phận"
Ngô Đình Diệm, Trần Quốc Việt dịch
Lời người dịch : Nhận lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm sang thăm Hoa Kỳ vào ngày 7/5/1957. Ông được tiếp đón trọng thể và đầy đủ danh dự dành cho bậc thượng khách của chính phủ Hoa Kỳ. Thành công của Tổng thống Ngô Đình Diệm trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam Cộng Hòa còn non trẻ, đặc biệt trong việc tái định cư thành công hơn 800 ngàn người tỵ nạn từ miền Bắc, đều được các báo uy tín hàng đầu của Mỹ coi là "phép lạ". Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower đã đích thân ra đón ông tại phi trường, và vợ chồng Tổng thống Eisenhower đã dự tiệc chiêu đãi được tổ chức tại tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Washington.
Trong thời gian thăm viếng Hoa Kỳ, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có vinh dự phát biểu trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ. Bài diễn văn của ông "tuy ngắn nhưng đầy xúc động" đã nhận được nhiều tràng pháo tay hoan hô của các vị dân biểu Mỹ.
Bài diễn văn đã được đăng toàn văn trên tờ báo New York Times vào ngày hôm sau. Toàn bộ tựa đề và các tiêu đề là của tờ báo này. Những phần trong ngoặc là từ biên bản của Quốc hội Hoa Kỳ. Và người dịch chân thành cảm ơn Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã gởi cho biên bản về bài diễn văn của Tổng thống Ngô Đình Diệm. (TQV)
****
Tổng thống Ngô Đình Diệm được Tổng thống Dwight Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles (thứ 2 từ trái sang) đón tại sân bay quốc gia Washington. Ảnh chụp : tháng 5 năm 1957
Thật là một vinh dự hiếm có cho tôi khi hôm nay có cơ hội phát biểu với quý vị. Phát biểu với quý vị trong tòa nhà Quốc hội này, nơi đã hun đúc nên số phận của một trong những quốc gia lớn trên thế giới.
Tôi tự hào mang đến quý vị dân biểu lỗi lạc của nước Cộng hòa Hoa Kỳ cao quý những lời chúc huynh đệ tốt đẹp nhất từ nhân dân Việt Nam. Tôi cũng mang đến đây sự bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam về sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của nhân dân Hoa Kỳ. Nhân dân chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng rất lớn lẫn ý nghĩa sâu sắc của sự trợ giúp này.
Kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh vừa qua, khi Châu Á phá tung xiềng xích, lương tâm của thế giới cuối cùng đã bừng tỉnh trước sự phát triển sâu sắc và tất yếu- sự ra đời của Châu Á độc lập. Từ đấy, nhận thức này đã đưa đến sự lên án bằng những lời lẽ cụ thể nhất chế độ bóc lột cũ mà, trong quá khứ, đã chi phối quan hệ giữa Đông và Tây.
Hiện nay thay thế vào đấy là những nỗ lực bền bỉ nhằm xác lập phương thức hợp tác quốc tế mới, thích hợp hơn với những nhu cầu thực sự của thế giới và với triết lý mới của Châu Á.
Chính cuộc chiến đấu giành độc lập, chính ý thức càng ngày càng sâu sắc của các dân tộc thuộc địa rằng nguồn gốc của sự nghèo khổ của họ là sự cản trở một cách có hệ thống sự phát triễn kỹ thuật, cùng với tinh thần dân tộc và xã hội ngày càng cao, tất cả đã kết hợp lại để tạo ra sự thay đổi toàn diện sâu sắc trong tâm trạng Châu Á và tất cả điều này đã cho dân chúng Châu Á sự năng động không thể nào cưỡng lại được.
Nhân dân không còn cam phận
Nhân dân Châu Á - vốn đã tủi nhục từ lâu trong nguyện vọng dân tộc của mình, nhân phẩm của họ đã bị tổn thương - giờ đây không còn cam phận và thụ động như trong quá khứ. Hiện giờ họ háo hức bồn chồn. Họ khao khát giảm bớt sự lạc hậu quá lớn về kỹ thuật. Họ đòi hỏi mạnh mẽ sự phát triễn kinh tế cấp bách và nhanh chóng, nền tảng tốt đẹp duy nhất cho sự độc lập chính trị dân chủ.
Các nhà lãnh đạo Châu Á - dù ý thức hệ của họ là gì chăng nữa- tất cả đều đối mặt với sự cấp bách bi kịch của những vấn đề xã hội và kinh tế. Dưới áp lực mạnh mẽ của nhân dân mình, họ buộc lòng chấp nhận kế hoạch kinh tế. Kế hoạch như thế nhất định gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng.
Chính vì lý do này chủ đề chính của các cuộc tranh luận chính trị trong nước ở các quốc gia Châu Á đều tập trung vào mức độ kế hoạch cần thiết, phương pháp cần phải có để tạo ra những kết quả thực tế cấp bách.
Phải chăng mọi thứ nên được kế hoạch ? Hay sự kế hoạch chỉ nên giới hạn vào các khu vực thiết yếu ? Phải chăng nên chấp nhận những phương pháp dân chủ hay những phương pháp toàn trị tàn bạo ?
Chính trong cuộc tranh luận này-ở tại nhiều nước không may bị ảnh hưởng bởi những lời hứa hẹn giả dối nhưng quyến rũ của chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa cộng sản-những nỗ lực đang nhằm gìn giữ nền dân chủ tự do qua viện trợ từ các nước công nghiệp Tây phương đóng vai trò rất quan trọng. Vì danh dự của con người, Hoa Kỳ đã đóng góp quan trọng nhất vào mục đích này.
Kính thưa quý vị trong Quốc hội, qua những điểm chính và khái quát chung, những điều này là những vấn đề các nước Châu Á đang đối mặt. Những điều này là những mục tiêu phải đạt được và là những phương cách phải được đề xuất. Những điều này cũng là những áp lực và cám dỗ trong nước mà các nhà lãnh đạo Châu Á đối mặt.
Khu vực nhạy cảm
Ở lục địa Châu Á rộng lớn, Việt Nam nhận thức mình ở khu vực nhạy cảm nhất. Mặc dù Việt Nam đối mặt với những vấn đề chung của các nước Châu Á khác, nhưng do vị trí địa lý chính trị nhạy cảm của mình những vấn đề của Việt Nam nghiêm trọng hơn rất nhiều.
Nằm ở một trong những điểm tiếp cận chiến lược những nguyên liệu quan trọng của Đông Nam Á-sở hữu những nguyên liệu này mang tính chất rất quyết định- bị cản trở phát triễn bởi một trăm năm đô hộ nước ngoài, bị cạn kiệt bởi mười lăm năm chiến tranh và tàn phá, nửa miền bắc của lãnh thổ Việt Nam lại rơi vào tay Cộng sản, Việt Nam tự do hiện ở trong hoàn cảnh bị đe dọa và nghiêm trọng hơn các nước Châu Á khác.
Bằng sự hy sinh to lớn của con người và nhờ vào viện trợ từ nhân dân Mỹ hào phóng, trong thời gian kỷ lục, Việt Nam tự do đã khắc phục thành công những hỗn loạn do chiến tranh và hiệp định Geneva tạo ra. Sự kiến thiết và ổn định quốc gia mà đã đạt được ấy đã giúp hội nhập hơn 860.000 người tỵ nạn vào nền kinh tế của 11 triệu người khác ở Việt Nam tự do và đã giúp thông qua những cải cách chính trị và kinh tế quan trọng.
Tuy nhiên, vào lúc tất cả Châu Á đang chuyển từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, vào thời điểm khi tất cả các vấn đề quan trọng đều nảy sinh cùng một lúc đối với các nhà lãnh đạo và đều dường như đòi hỏi giải quyết cấp bách, vào lúc khi tất cả đều phải được thực hiện trong bầu không khí căng thẳng cách mạng ngày càng cao, hơn các quốc gia khác, Việt Nam càng thấy cần thiết phải thông qua một số nguyên tắc, đường lối chỉ đạo hành động nào đấy, không chỉ để bảo vệ mình khỏi những cám dỗ toàn trị mà còn, trước hết, để giúp cho mình đạt được độc lập thay vì hỗn loạn, để bảo vệ hòa bình mà không hy sinh độc lập, để đạt được tiến bộ kinh tế mà không hy sinh các quyền tự do của con người.
Diễn văn Tổng thống Ngô Đình Diệm đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 9/5/1957 – New York Times, 10/05/1957
Trích dẫn học thuyết năm 1956
Chính vì những lý do này - dựa vào các cội nguồn văn hóa Châu Á, và trong truyền thống dân chủ Việt Nam của chúng tôi - tôi đã có danh dự định rõ học thuyết này trong thông điệp đọc trước Quốc hội Lập hiến vào ngày 17 tháng 4 năm 1956. Tôi xin mạn phép trích dẫn từ thông điệp ấy những đoạn ý nghĩa nhất, vì chúng tạo thành nền tảng của hiến pháp chúng tôi.
Tôi trích :
"Trong hoàn cảnh những lực lượng trấn áp vật chất và chính trị quá mạnh thường xuyên đe dọa chúng ta, chúng ta cảm thấy, hơn các dân tộc khác, nhu cầu rất quan trọng đặt cuộc sống chính trị của chúng ta trên một nền tảng vững chắc và thúc đẩy một cách rất chính xác những bước kế tiếp trong hành động của mình theo những đường lối mà sẽ chắc chắn tạo ra mức độ tiến bộ dân chủ lớn nhất.
(Vỗ tay)
"Điều này chỉ có thể là duy linh, đường lối ấy con người theo đuổi trong hiện thực mật thiết của họ cũng như trong cuộc sống cộng đồng của họ, trong nghề nghiệp của họ cũng như trong sự theo đuổi tự do sự hoàn thiện trí tuệ, đạo đức, và tinh thần.
"Vì thế, chúng ta khẳng định niềm tin của mình vào giá trị tuyệt đối của con người-nhân phẩm của họ có trước xã hội và số phận của họ lớn hơn thời gian.
(Vỗ tay)
"Chúng ta khẳng định mục đích chính đáng duy nhất của nhà nước là bảo vệ quyền tồn tại, quyền phát triễn tự do cuộc sống trí tuệ, đạo đức và tinh thần căn bản của con người.
"Chúng ta khẳng định dân chủ không phải là hạnh phúc vật chất cũng không phải là quyền lực tối cao của thành viên. Dân chủ về cơ bản là một nỗ lực trường tồn nhằm tìm ra những phương tiện chính trị đúng để đảm bào cho tất cả mọi công dân quyền phát triễn tự do và quyền sáng kiến, trách nhiệm, và cuộc sống tinh thần cao nhất".
(Vỗ tay)
Chủ đề phát triển
Chúng tôi tin chắc rằng với những nguyên tắc chỉ đạo này như là chủ đề trọng tâm cho sự phát triển các thể chế chính trị của mình, Việt Nam sẽ có thể tạo ra chế độ chính trị và kinh tế mà không phải là một hệ thống đóng kín nhưng là hệ thống mở, càng ngày càng mở rộng cho đến khi nào hệ thống đạt đến các phương diện tự do của con người.
Việt Nam Cộng Hòa, nền cộng hòa non trẻ nhất ở Châu Á, chẳng bao lâu nữa sẽ tròn hai tuổi. Nền cộng hòa của chúng tôi sinh ra từ trong vô vàn đau khổ. Nền cộng hòa ấy đang can đảm đương đầu với cuộc cạnh tranh kinh tế với những người cộng sản, cho dù hoàn cảnh khó khăn và nghiêm trọng, mà mỗi ngày lại càng trở nên phức tạp hơn.
Việt Nam, tuy nhiên, có lý do chính đáng để tin tưởng và hy vọng. Nhân dân Việt Nam thông minh, tháo vát và can đảm. Họ cũng có thêm được sức mạnh nhờ sự giúp đỡ vật chất và tinh thần họ nhận được từ thế giới tự do, đặc biệt sự giúp đỡ từ nhân dân Mỹ.
Trong hoàn cảnh căng thẳng quốc tế và áp lực cộng sản ở Đông Nam Á ngày càng gia tăng tôi không thể nào lập lại biết bao nhiêu lần cho đủ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam trước sự giúp đỡ của Mỹ và nhân dân Việt Nam ý thức rất cao về tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, và số lượng của sự giúp đỡ này.
Quả thực, chưa bao giờ lúc nào trong lịch sử những cuộc xung đột phát sinh giữa các dân tộc lại quan hệ cấp bách như thế đến nền văn minh như những cuộc xung đột ngày nay.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp phái đoàn cố vấn Mỹ năm 1955
Sự đóng góp kịp thời của Hoa Kỳ
Chính qua những đóng góp kịp thời và đầy đủ cho sự kiến thiết cuộc sống kinh tế và kỹ thuật của chúng tôi-nhờ đấy tạo ra mức sống cao hơn-thế giới tự do, dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, đang khẳng định sự thành công của hệ thống hợp tác quốc tế mới.
Hành động này đã góp phần bảo vệ Đông Nam Á và ngăn cản những nguyên liệu trong vùng này không rơi vào tay Cộng sản.
Mặc dù nền kinh tế chúng tôi bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh, tàn phá, và chủ nghĩa thực dân, nhưng bây giờ nhân dân Việt Nam đang tăng gia đóng góp vào quốc gia mình. Cách đây vài tháng Quốc hội Lập hiến đã bỏ phiếu thông qua nhiều thuế mới và cao hơn nhằm mang lại thu nhập cần thiết cho ngân sách quốc gia. Mới đây sắc lịnh quân dịch quốc gia đã được ban hành và cách đây hai tháng chúng tôi đã đưa ra bản tuyên bố toàn diện về chính sách nhằm mục đích khích lệ đầu tư tư nhân từ nước ngoài.
Chính trên bình diện đạo đức cao cả này chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ rộng rãi và quên mình mà chúng tôi đã nhận được từ nhân dân Hoa Kỳ. Chính trên cũng bình diện này quyền lợi của Việt Nam hoàn toàn giống với quyền lợi của nhân dân thế giới tự do.
(Vỗ tay)
Chính trên bình diện này cuộc chiến đấu của các bạn và cuộc chiến đấu của chúng tôi đều chỉ là một và giống nhau. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản.
(Vỗ tay)
Chính trong niềm xác tín này và chính trong sự ghi nhớ sâu sắc và không bao giờ phai nhạt trong lòng về việc nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ đã theo dõi những nỗ lực của chúng tôi với tất cả sự thấu hiểu cảm thông chí tình tôi xin kết thúc, và lần nữa tôi cảm ơn Tổng thống, Chủ tịch Hạ Viện và quý vị trong Quốc hội về vinh dự đã dành cho tôi và cảm ơn quý vị đã ân cần lắng nghe.
(Mọi người đứng lên vỗ tay)
Ngô Đình Diệm
Trần Quốc Việt dịch
Tham khảo :
1. Tạp chí New York Times, ngày 10 tháng 5, 1957. Tựa đề do New York Times đặt
2. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ- HeinOnline -103 Congressional Record 6699 1957 & 103 Congressional Record 6700 1957
**********************
Những lời phát biểu của Tổng thống Ngô Đình Diệm
Trần Quốc Việt sưu tầm
Nhân dịp năm mươi chín năm ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu bị sát hại trong cuộc đảo chính đẫm máu vào ngày 2/11/1963, chúng tôi sưu tầm và trích dịch một số lời phát biểu sau của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm - Ảnh minh họa
Phát biểu tại National Press Club ở Washington, Hoa Kỳ với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á thích chủ nghĩa trung lập, tức phong trào không liên kết, Tổng thống Ngô Đình Diệm nói :
"Vì cộng sản không trung lập, chúng ta không thể trung lập".
New York Times, ngày 11/5/1957
Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp kỷ niệm 7 năm ngày cầm quyền tại Sài Gòn :
"Liệu ta có thể vẫn còn trung lập khi đối diện với sự quyết tâm hủy diệt có hệ thống này ? Ta phải cương quyết bác bỏ và chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản cuồng tín hiếu chiến, kẻ thù của nhân loại, thay vì để cho mình bị tê liệt bởi sự tuyên truyền dối trá của cộng sản".
New York Times, ngày 8/7/1961
Tổng thống Ngô Đình Diệm :
"Mục đích duy nhất của tôi là nước Việt Nam độc lập thật sự".
New York Times, ngày 12/5/1957
Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Hội đồng Thương mại và Công nghiệp Viễn Đông-Hoa Kỳ ở Detroit về chương trình cải cách ruộng đất qua đó ruộng đất được cấp cho những nông dân không có ruộng :
"Qua chương trình này, chúng tôi đáp lại những lời tuyên bố dối trá của cộng sản về cải cách ruộng đất. Chúng tôi cấp ruộng đất cho nông dân và chúng tôi thực hiện được điều này mà không cần đến những cách thức cưỡng chế và tịch thu vô nhân đạo".
Harrison E. Salisbury, New York Times, ngày 15/5/1957
Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Sài Gòn vào ngày 29/3/1957 nhân dịp đón tiếp các đoàn đại biểu tham dự Đại hội lần thứ ba của Liên Minh Các Nhân Dân Chống Cộng Châu Á :
"Đối diện với nỗ lực phá hoại của cộng sản, chúng ta phải tuyên bố rằng những quy luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại không chỉ mang tính chất kinh tế, rằng sự tiến bộ như thế cũng và trên hết được chi phối bởi những quy luật về đạo đức.
Chúng ta hãy dùng tình thương để chống lại sự căm thù mà cộng sản rao giảng. Lịch sử dạy chúng ta rằng sớm hay muộn cuối cùng chính sẽ thắng tà, sự thật sẽ thắng dối trá, tình thương sẽ thắng hận thù".
Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17/9/1955 :
"Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia chúng ta và để đảm bảo tự do của nhân dân chúng ta. Cuộc đời của chúng ta, tự do của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời, tự do, và hạnh phúc của con cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc chiến đấu này. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình".
Major Policy Speeches by President Ngo Dinh Diem, Vietnam Center and Archive.
*************
Phụ lục :
1. Cộng sản vui mừng trước cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm
"Nhà báo Úc Wilfred Burchett kể rằng những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam chào đón cuộc đảo chánh như "món quà". "Người Mỹ đã làm chuyện mà chúng tôi đã không thể nào làm được trong chín năm trời, đó là loại bỏ Diệm".
Mark Moyar, JFK and the Seeds of Disaster in Vietnam, The Wall Street Journal, 11/01/ 2013
2. Lời cảm ơn của Đạt Lai Lạt Ma về sự giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng với sáu chục ngàn người Tây Tạng vượt núi Himalaya sang tị nạn ở Ấn Độ vào năm 1959 sau khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng
"Các tổ chức cứu trợ thiện nguyện ở nhiều nước đã giúp đỡ tiền bạc, hay thực phẩm, áo quần, hay thuốc men. Chính phủ các nước Anh, Mỹ, Úc, và Tân Tây Lan đã gởi quà để giúp chúng tôi giáo dục trẻ em, và chính phủ Nam Việt Nam đã gởi cho chúng tôi gạo. Chúng tôi rất cảm ơn tất cả những tấm lòng nhân ái này".
"My Land and My People", Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala Corporation, New York 1962, trang 225.
Ngô Đình Diệm
Trần Quốc Việt sưu tầm và dịch
***********************
Không có thử nghiệm - Chỉ có sống hay chết
Charles W. Wiley, Ngô Đình Diệm, Trần Quốc Việt dịch
Lời người dịch : Ngày 19/6/1962 ông Charles W. Wiley, đại diện tạp chí Mỹ National Review, đã có cuộc phỏng vấn riêng với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm trong ba giờ. Vì lý do nào đấy bài phỏng vấn này không được phép đăng báo. Sau khi Tổng thống bị sát hại cùng với bào đệ Ngô Đình Nhu vào ngày 2/11/1963, tạp chí National Review quyết định đăng lại trích đoạn sau của cuộc phỏng vấn. (TQV)
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm bị ám sát ngày 1/11/1963
Wiley : Thưa Tổng thống Diệm, ông có thể ngăn chặn cộng sản ở Việt Nam ?
Ngô Đình Diệm : Chúng tôi có thể làm được và sẽ làm được. Cuộc đấu tranh tuy lâu dài và gian khổ, nhưng thời kỳ nguy hiểm nhất đã qua. Về mức độ nào đấy, vấn đề của chúng tôi ở đây chỉ là một phần của bức tranh rộng lớn hơn. Cộng sản-kẻ thù chung của chúng ta-suy nghĩ theo chiến lược toàn cầu. Và điều này cũng hợp lý. Thế giới Tự do mất hết nước này đến nước khác do quyền lợi xung đột và do không nhận ra cuộc đấu tranh toàn cục này. Khi cộng sản chiếm Cuba, tình hình của chúng tôi ở đây càng trở nên khó khăn hơn. Nếu họ xâm chiếm một nước ở Đông Nam Á thì Berlin lại yếu hơn.
Wiley : Cho phép tôi nói thật : đã có nhiều tố cáo cho rằng cộng sản có lợi từ những khuyết điểm trong chính quyền ông-tố cáo có hối lộ...
Ngô Đình Diệm : Ông Wiley, đúng là có những vụ hối lộ trong chính quyền. Nhưng những người này đã bị trừng phạt. Và còn bị trừng phạt nặng hơn ở các nước khác ở Châu Á. Chúng tôi phạm sai lầm-chúng tôi là con người. Nhưng những người hay chỉ trích chúng tôi không những chỉ ra những sai lầm nhỏ nhặt nhất của chúng tôi, mà họ còn bịa đặt ra những sai lầm khác. Tôi bị lăng nhục với tư cách cá nhân và nguyên thủ quốc gia ; người thân trong gia đình tôi bị bêu xấu. Còn cộng sản lại cố tìm kiếm từng mẩu bình luận bất lợi của người Mỹ. Đây không phải là lần đầu tiên một đồng minh của các ông bị đối xử như thế này. Khi số phận của Trung Hoa lục địa lâm nguy, những câu chuyện giống như vậy về Tổng thống Tưởng Giới Thạch được truyền nhau trong thành phần nào đó của báo chí. Đôi khi tưởng đâu Hoa Kỳ có mặc cảm tự tử.
Những nhà báo các ông là "những người tiến bộ" và họ dùng chiêu trò là họ chỉ trích vì chính quyền chống cộng không đủ hiệu quả. Cách dễ dàng đo lường hiệu quả của chính quyền : cộng sản có tấn công chính quyền không ? Và họ càng tấn công thì chính quyền càng hiệu quả.
Wiley : Ông dùng từ " hững người tiến bộ" hàm nghĩa gì ?
Ngô Đình Diệm : "Những người tiến bộ" kết án tư bản coi trọng vật chất, nhưng không nhận ra chủ nghĩa duy vật của cộng sản. Họ làm bộ không biết bản chất vô thần của cộng sản, mà thích coi cộng sản trong thế kỷ hai mươi giống như công giáo vào thế kỷ thứ nhất. Những người này không muốn sống dưới chế độ cộng sản-nhưng họ mơ tưởng về cộng sản từ xa.
Một loại người tiến bộ khác là người giàu mang mặc cảm tội lỗi do thừa kế. Họ sẽ làm hay hơn bằng cách cho tiền người nghèo, nhưng thích sống bình an và tiện nghi trong khi sám hối tội lỗi của mình bằng cách thân cộng.
Wiley : Thưa Tổng thống, những người chỉ trích ông nói cộng sản có thể tổ chức quân đội du kích đông đảo ở đây tại Việt Nam, vì nhân dân đã không còn ủng hộ ông.
Ngô Đình Diệm : Điều này không đúng. Cộng sản kiểm soát phần lớn quốc gia khi người Nhật ra đi vào năm 1945, và rồi họ xây dựng sức mạnh trong chín năm tới trong khi người Pháp chỉ kiểm soát những trung tâm và quốc lộ chính. Người dân phải hợp tác với cộng sản, và cộng sản tuyển mộ lính từ dân chúng địa phương ở cả bắc lẫn nam. Những cán bộ này không bao giờ rút lui, và sẵn sàng chiến đấu khi nhận lệnh. Chính quyền tôi gánh vác quốc gia mà đã hoàn toàn bị cộng sản sắp đặt sẵn các tổ chức-với quân đội bên trong biên giới của chúng tôi. Đây là di sản của tôi. Nhân dân rốt cuộc ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa vì những tiến bộ và sự tôn trọng cá nhân. Cộng sản mất chứ không đạt được sức mạnh, cho nên chính vì sự thành công của chúng tôi mà họ đã bắt đầu mở ra cuộc chiến tranh tổng lực vào tháng Hai 1960.
Wiley : Ông dường như rất giận những người chỉ trích ông. Ông có nghĩ tất cả họ đều là cộng sản hay thân cộng ?
Ngô Đình Diệm : Không, không. Kẻ thù rất quỷ quyệt. Khi họ muốn thực hiện chính sách, họ mượn tay những người ở Thế giới Tự do đẩy mạnh nó.
Wiley : Còn những lời góp ý từ những người không cộng sản về cách cải thiện tình hình ở đây thì sao ? Họ tố cáo ông bỏ qua nhiều góp ý hay.
Ngô Đình Diệm : Ở Hoa Kỳ nhiều người nói về những vấn đề ở ngoại quốc mà không có sự hiểu biết đúng đắn để hiểu chúng. Nước ông rất giàu và có rất nhiều người tài được đào tạo rất tốt. Các ông có thể tiến hành những thử nghiệm táo bạo-và nếu chúng thất bại thì thay thế những người đứng đầu và sửa những thiệt hại. Những nước nhỏ không có những người thay thế cũng như không có ngân quỹ dự trữ. Các ông không thể đưa những phương pháp Mỹ vào Việt Nam là nước vừa kém phát triển lại vừa phải đối diện với nguy cơ trước mắt. Ở đây không có thử nghiệm-chỉ có sống hay chết. Một sai lầm lớn là tất cả mọi thứ đều không còn.
Charles W. Wiley
Nguyên tác : "Diem from the Grave", National Review, 19/11/1963, trang 426. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
***********************
Ngọc nát còn hơn ngói lành
Thomas A. Lane, Trần Quốc Việt dịch
Tướng Tôn Thất Đính mở cuộc tấn công vào Dinh Gia Long vào ngày 1 tháng 11, 1963. Tổng thống Diệm gọi Đại sứ Lodge để hỏi chính sách Hoa Kỳ về cuộc phản loạn này. Lodge đáp, "Tôi muốn đưa ông rời khỏi nước an toàn".
Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu
Lực lượng tấn công hẹn cho Tổng thống đến 8 giờ sáng mai phải đầu hàng. Trong đêm ấy ông Diệm và ông Nhu thoát ra khỏi dinh đến nhà một người bạn ở Chợ Lớn. Họ nhận được nhiều đề nghị tỵ nạn từ nhiều đại sứ sẵn sàng giúp đỡ, nhưng anh em nhà họ Ngô không phải là hạng người trốn tránh đồng bào mình ở trong tòa đại sứ ngoại quốc.
Vào sáng hôm sau họ đến nhà thờ Cha Tam tham dự thánh lễ. Hôm ấy là ngày Lễ Các Đẳng Linh hồn, ngày mà người Công giáo dành ra để cầu nguyện cho những người đã qua đời. Họ cầu nguyện.
Họ báo cho Hội đồng Quân nhân biết nơi họ đang ở. Những chiếc xe quân đội đến đưa họ về bộ Tổng tham mưu. Họ bị còng tay và bị đẩy lên xe. Trên đường đến bộ Tổng tham mưu, họ bị Đại úy Nguyễn Văn Nhung hạ sát. Nhung là sĩ quan tùy viên của Tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân – mà mới vào ngày hôm trước đó thôi còn là cố vấn quân sự cho Tổng thống Diệm.
Tướng Minh khôn hay hèn ? Phải chăng ông không có can đảm đối diện với người mà đã ban vinh dự cho ông nhưng cũng là người mà ông đã phản bội. Hay ông biết rằng chừng nào ông Diệm còn sống thì nhân dân sẽ không chấp nhận bất kỳ nhà lãnh đạo nào khác. Tướng Minh về sau nói với Marguerite Higgins : "Diệm không thể nào được phép sống vì những người chất phác, cả tin ở vùng quê, đặc biệt người Công giáo và người tỵ nạn hết sức kính mến ông ta".
Trần Văn Hương, cựu Đô trưởng Sài Gòn và Thủ tướng (1964-1965) nói về cuộc đảo chánh :
"Những kẻ sợ hãi nhất chính là những tướng lãnh cao nhất quyết định giết Tổng thống Diệm và bào đệ ông. Những tướng lãnh này biết rất rõ rằng họ không có tài, cũng chẳng có đức, chẳng có sự ủng hộ nào cả của dân chúng, cho nên họ không thể nào ngăn cản nổi sự trở lại ngoạn mục của Tổng thống và ông Nhu nếu như hai người còn sống".
Bi kịch sâu sắc của sự phản bội này được thể hiện rất rõ ang qua tư cách của những người tham dự. Về những phẩm chất căn bản của con người như tài năng, đạo đức, chính trực và sáng suốt thì Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu cao hơn rất nhiều những người đề ra chính sách của chính quyền Kennedy mà đã tiêu diệt họ. Chính sách Mỹ phản ánh không những sự yếu kém về đạo đức và thiếu nhất quán mà còn những nhận thức hoàn toàn sai lầm về những vấn đề sinh tử. Đây là bi kịch lâu đời về quyền lực giết chết đức độ.
Ngô Đình Diệm là một trong những người đích thực vĩ đại của Thế kỷ Hai mươi. Về sự sáng suốt, về cốt cách đạo đức, về thành tựu lớn lao vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua được, về tài năng lãnh đạo và lòng yêu nước của ông thì hết thảy đều thuộc tầng cao nhất. So ra, tài năng của những người Mỹ đề ra chính sách của cả hai ngành Hành pháp và Lập pháp của chính quyền Mỹ là tầm thường.
Khi ông nhậm chức thủ tướng vào năm 1954, Ngô Đình Diệm nói với nhân dân ông : "Tôi tiến hãy theo tôi ! Tôi lui hãy giết tôi ! Tôi chết hãy trả thù cho tôi !"
Luật tạo hóa bất di bất dịch đã trả thù cho cái chết của ông qua một phần tư triệu thanh niên Mỹ thương vong trong độ tuổi thanh xuân. Có cái giá cho sự nhân nhượng. Nhân dân Mỹ đang trả giá cho tư cách và tài năng của giới lãnh đạo họ đã bầu lên.
Thomas A. Lane (cựu thiếu tướng Mỹ)
Nguyên tác : "America on Trial : The War for Vietnam", nhà xuất bản Arlington House, New Rochelle, New York, 1971, trang 139-141.Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
************************
Gian hùng gặp anh hùng
Time, Trần Quốc Việt dịch
Trong suốt Đệ Nhị Thế Chiến và theo sau hậu quả của cuộc chiến, người Nhật, người Pháp và phe cộng sản của Hồ Chí Minh tất cả đều đánh lẫn nhau vì Đông Dương ; tất cả đều muốn đạt được sự ủng hộ của Diệm, người Quốc gia, nhưng ông từ chối tất cả bọn họ vì chẳng ai trong họ ủng hộ "nền độc lập thực sự".
Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh trên tuần báo Times - Ảnh minh họa
Vào năm 1945, quân cộng sản của Hồ đánh vào dòng họ Ngô Đình phe Quốc gia, cộng sản bất ngờ tấn công vào dinh thự của họ ở Huế và đốt cháy toàn bộ bộ sưu tập sách gồm 10.000 cuốn của Diệm. Cộng sản bắt Diệm ; họ giam cầm người anh đáng kính của ông là Ngô Đình Khôi và chôn sống anh ông. Nhưng chỉ bốn tháng sau đó Hồ Chí Minh quyết định ông cần sự ủng hộ của nhiều người quốc gia thuần túy, cho nên đưa Diệm từ trong tù đến gặp ông.
Hồ nói với Diệm : "Ông hãy đến ở chung với tôi trong phủ".
Diệm : Ông giết anh tôi. Ông là tội phạm".
Hồ : Tôi chẳng biết gì về anh ông... Ông buồn phiền và tức giận. Ông hãy đến ở với tôi. Chúng ta phải cùng nhau đấu tranh chống Pháp.
Diệm : Tôi không tin ông hiểu tôi là loại người như thế nào. Ông hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là người sợ hãi không ?
Hồ : Không.
Diệm : Tốt. Vậy tôi đi ngay.
Hồ thả ông ra.
Theo Time
Nguyên tác : "The Beleaguered Man", Time, số 14, bộ 65, ra ngày 4/4/1955. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
VOA : Theo một công bố mới về băng ghi âm và ghi chép của Tòa Bạch Ốc, Tổng thống John F. Kennedy ủng hộ việc lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1963 hơn là được ghi nhận trước đó. Việc lật đổ Tổng thống Diệm bằng một cuộc đảo chánh quân sự có ảnh hưởng lớn đến chính sách của Mỹ và sự can dự ngày càng tăng của Mỹ vào Việt Nam đã điễn ra cách đây 57 năm. Ngay cả bây giờ những quan điểm của Tổng thống Kennedy và một số phụ tá hàng đầu của ông về cuộc đảo chánh đã bị che phủ vì những tài liệu không đầy đủ đã khiến cho các học giả chú trọng nhiều hơn đến thái độ của những thuộc cấp của Tổng thống. Tuy nhiên vào lúc này, Văn khố An ninh Quốc gia, một viện nghiên cứu và thư viện độc lập phi chính phủ tại Trường Đại học George Washington ở Washington D.C., lần đầu tiên đưa ra những tài liệu của các văn khố Mỹ và Việt Nam mở rộng các cửa về sự kiện quan trọng này qua phần trình bày của hai tác giả Luke A. Nichter và John Prados qua bài viết "New Light in a Dark Corner : Evidence on the Diem Coup in South Vietnam, November 1963" (Ánh sáng mới trong góc tối : Bằng chứng về cuộc đảo chánh ông Diệm tại Nam Việt Nam, tháng 11/1963)
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
***
Vào năm 1963, nửa đường trong cuộc dính líu của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam, các nhà hoạch định chính sách của chính quyền Kennedy cảm thấy tiến thoái lưỡng nan. Nam Việt Nam, một phần của nước Việt Nam trước kia, được Mỹ ủng hộ, vẫn còn đang dấn sâu vào cuộc nội chiến giữa chính phủ chống cộng được Mỹ hỗ trợ và du kích quân cộng sản được Bắc Việt đỡ đầu.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm dưới nhãn quan người Mỹ
Các lực lượng chính phủ dường như không biết làm cách nào đối phó với Mặt Trận Giải phóng Miền Nam. Quân đội và các cơ quan tình báo Mỹ tranh cãi về sự tiến triển của chiến tranh. Trong khi phủ nhận những nhận xét của báo chí là Hoa Kỳ đang sa lầy tại Việt Nam, chính quyền Kennedy nhận thức được những vấn đề trong chiến tranh và nỗ lực áp dụng mọi biện pháp để truyền sinh lực cho Việt Nam.
Một vấn đề lớn nằm tại Sài Gòn, thủ đô miền Nam, với ngay chính phủ Việt Nam. Đầy dẫy tham nhũng, mưu đồ chính trị, tranh chấp nội bộ liên tục, miền Nam Việt Nam thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau.
Quan tâm chính của người Mỹ là cuộc chiến chống du kích Mặt trận Giải phóng Miền Nam, Nam Việt Nam hứa cộng tác nhưng thi hành rất ít. Còn có những khó khăn khác bắt nguồn từ cách thức chính phủ Việt Nam được thành lập lúc ban đầu, và phương cách Mỹ giúp tổ chức quân đội Nam Việt Nam trong những năm 1950, nhưng tất cả những yếu tố đó không trực tiếp quan hệ đến biến cố năm 1963.
Chính phủ Sài Gòn do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Ông là một nhà lãnh đạo độc tài, gia đình trị, đánh giá cao quyền lực hơn là các quan hệ với người dân Việt Nam hay tiến bộ trong cuộc chiến chống cộng sản. Ông Diệm lúc đầu lên cầm quyền bằng những phương tiện hợp pháp, ông được bổ nhiệm làm thủ tướng chính phủ có từ năm 1954, và sau đó ông củng cố quyền hành bằng một loạt các cuộc đảo chánh quân sự, bán đảo chánh, tái tổ chức chính phủ, trưng cầu dân ý và cuối cùng là một loạt các cuộc bầu cử tổng thống được dàn dựng.
Ông Diệm gọi Nam Việt Nam là một nước Cộng hòa và ông giữ chức vụ Tổng thống, nhưng ông cấm các đảng phái chính trị, ngoài đảng của ông và từ chối cho phép đối lập hợp pháp. Từ năm 1954 trở về sau, Hoa Kỳ thúc đẩy ông Diệm cải cách chính trị, và ông Diệm liên tục hứa cải cách nhưng không bao giờ thi hành.
Đường lối lãnh đạo độc tài của ông Diệm không làm dân chúng Nam Việt Nam hài lòng và dân chúng càng ngày càng không thích ông Diệm. Một cuộc đảo chánh quân sự chống ông Diệm vào tháng 11/1960 nhưng ông thoát hiểm do có chia rẽ trong giới lãnh đạo quân đội. Ông Diệm khai thác việc này để tạo ra các phe phái chống đối lẫn nhau giúp ông vẫn tại vị.
Vào tháng 2/1962, hai phi công bất mãn thả bom dinh Độc lập nhằm giết ông Diệm và có lãnh đạo mới nhưng lúc đó ông không có mặt tại khu vực bị đánh bom. Ông Diệm tái phối trí lại các sĩ quan để cải thiện an ninh cho ông nhưng ông vẫn không cải tổ chính trị.
Chính quyền tổng thống Kennedy từ năm 1961 đến năm 1963 liên tục gia tăng mức viện trợ quân sự cho Sài Gòn, tài trợ việc gia tăng các lực lượng vũ trang Việt Nam. Quân đội Mỹ và tình báo quân đội Mỹ, chú trọng đến việc cải thiện, đến tỉ số lớn mạnh giữa chính phủ và du kích tiếp sau việc gia tăng lực lượng và cho rằng cuộc chiến thành công. Các nhà ngoại giao và các giới chức viện trợ bi quan hơn. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA được lệnh đánh giá tình báo vào mùa xuân năm 1963, đã cho phép quan điểm của họ bị quân đội tác động và đưa ra một đánh giá về tình báo quốc gia, hạ giảm việc ông Diệm yếu kém về chính trị. Tổng thống Kennedy nghe những cảnh cáo từ các giới chức Bộ Ngoại giao và những hình ảnh màu hồng của quân đội, và cảm thấy an tâm về những đánh giá của CIA.
Cảm tưởng của Tòa Bạch Ốc bị tiêu tan bắt đầu vào ngày 8/5 khi lực lượng an ninh Nam Việt Nam, hành động theo lệnh của một trong những anh em của ông Diệm bắn vào một đám đông Phật tử tuần hành kỷ niệm Phật Đản 2527 năm. Lý lẻ để giải tán cuộc tuần hành này không quan trọng hơn việc các Phật tử bất chấp một lệnh cấm treo cờ Phật giáo ngoài cờ Nam Việt Nam. Một người anh của ông Diệm là Giám mục Công Giáo La Mã trong cùng khu vực tại Nam Việt Nam đã treo cờ mà không bị trừng phạt chỉ vài tuần trước khi ông được thăng chức trong giáo hội. Người Phật tử có thể được khuyến khích bằng hành động này nên nghĩ rằng hành động của họ cũng được cho phép như vậy. Việc đàn áp cuộc tuần hành của Phật tử tại cố đô Huế đã tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị có tên là "cuộc khủng hoảng Phật giáo" bùng nổ tại Sài Gòn trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1963.
Tuy nhiên hai anh em ông Diệm liên hệ đến cuộc đàn áp tại Huế không phải là vấn đề chính của lãnh đạo tại Sài Gòn. Ông Ngô Đình Nhu ngồi trong Dinh Độc lập với tư cách là cố vấn, người lôi kéo công luận, phái viên và người giật giây của chính phủ Sài Gòn. Ông Ngô Đình Nhu được người dân Nam Việt Nam xem là mối đe dọa hơn ông Diệm. Ông điều khiển đảng của ông Diệm, một số cơ quan tình báo, và Lực lượng Đặc biệt được thành lập theo một trong những chương trình viện trợ của Mỹ.
Ông Nhu có một quan điểm rất tiêu cực về những rắc rối do Phật giáo gây ra. Ông Diệm đối phó với cuộc khủng hoảng Phật giáo. Có lúc ông bác bỏ những chuyện đã xảy ra và hứa cải cách chính trị và tôn giáo và thương thuyết về một tạm ước với các Phật tử được thực hiện tại Sài Gòn. Tuy nhiên ông Nhu khuyến cáo nhà lãnh đạo Nam Việt Nam rút lại thỏa thuận và một lần nữa ông không ban hành những nhượng bộ về chính trị như đã thỏa thuận.
Những cuộc biểu tình của Phật giáo đến Sài Gòn vào cuối tháng 5 và hầu như trở thành hàng ngày. Vào ngày 11/6 chống đối chính phủ đạt một mức độ mới sau khi một nhà sư tự thiêu tại ngả tư một đường phố đông người như là cao điểm của cuộc biểu tình. Hình ảnh cuộc tự thiêu làm cả thế giới kinh hoàng và lảm cho cuộc khủng hoảng Phật giáo trở thành một vấn đề tại Mỹ đối với tổng thống Kennedy, hiện phải đối phó với những vấn đề gay go trong việc viện trợ kinh tế và quân sự cho một chính phủ rõ ràng vi phạm nhân quyền đối với người dân của họ.
CIA thêm vào một phụ lục trong bản đánh giá tình báo trước đây về viễn ảnh chính trị của ông Diệm, và tình báo Bộ Ngoại giao đưa ra một phúc trình tiên đoán những rắc rối chính tại Sài Gòn.
Tình hình tồi tệ thêm của Tổng thống Diệm khiến ông phải tuyên bố thiết quân luật vào tháng 8/1963 và vào ngày 21/8, dùng quyền hạn thiết quân luật để bố ráp chùa chiền của những nhóm đứng đằng sau các cuộc biểu tình. Ông Nhu tiến hành cuộc bố ráp như thể là các chỉ huy quân đội đứng đằng sau những cuộc bố ráp đó và sử dụng lực lượng do CIA tài trợ để thực hiện cuộc bố ráp.
Đảo chánh quân sự
Theo tài liệu của Thư viện Tổng thống John F. Kennedy và của Cơ quan An ninh Quốc gia thì Giám đốc CIA lúc bấy giờ là John A. McCone đã thuyết trình cho Tổng thống Kennedy trong vòng 24 giờ sau khi một tướng lãnh quân đội Miền Nam Việt Nam tiếp xúc với nhân viên tình báo Mỹ Lucien Conein tại Sài Gòn. Tướng Trần Văn Đôn nói với ông Conein vào ngày 8/7/1963 là có những kế hoạch của quân đội lật đổ Tổng thống Diệm, nhưng ông không cho biết ngày giờ rõ rệt, chỉ nói là trong vòng 10 ngày. Ông cho biết là tất cả tướng lãnh, trừ một hay hai người, đồng ý với kế hoạch đảo chánh. Tướng Đôn nói thêm là quân đội cần phải hành động để ngăn Việt Cộng lợi dụng cuộc khủng hoảng Phật giáo đang tiếp diễn. Ngoài ra ông McCone còn nói là còn có một âm mưu khác do Bác sĩ Trần Kim Tuyến, cựu giám đốc mật vụ của ông Diệm dự trù thực hiện vào ngày 10/7 với sự hợp tác của một số thành phần trong quân đội. Nhưng cuối cùng ông Tuyến được cử làm đại sứ Việt Nam tại Ai Cập. Trong một bản ghi nhớ gởi Tổng Thống Kennedy ngay trước phiên họp 4 giờ chiều ng ày 27/8/1963, ông Michael V. Forrestal, phụ tá hàng đầu của Cố vấn An ninh Quốc gia, McGeorge Bundy, nói có báo cáo về một âm mưu đảo chánh do ông Trần Quốc Bửu, chủ tịch Tổng liên đoàn Lao công Việt Nam, đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống nếu thành công.
Trích xuất công điện "tối mật" ngày 9 tháng Bảy, 1963 : "Nam Việt Nam vẫn tiếp tục cứng đầu đối với vấn đề Phật Giao chưa thể giải quyết và một âm mưu đảo chánh ngày càng gia tăng chắc chắn".
Về phần Mỹ, Tổng thống Kennedy quyết định thay đại sứ Mỹ tại Sài Gòn là Frederick E. Nolting và cử ông Henry Cabot Lodge thay thế. Ngày 18/8/1963, đại sứ Cabot Lodge gặp Tổng Thống Kennedy tại Phòng Bầu dục Tòa Bạch Ốc. Tổng thống Kennedy bày tỏ ý kiến là cần phải làm một chuyện gì đó đối với ông Diệm nhưng ông chưa chắc chắn là ngoài ông Diệm, Mỹ có thể ủng hộ ai tại Sài Gòn. Tổng thống Kennedy muốn ông Cabot Lodge đánh giá việc này. Trước khi đi Việt Nam ông Lodge đã có gặp ông bà Trần Văn Chương, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ và là bố mẹ của bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Đại sứ Cabot Lodge đến Việt Nam trình ủy nhiệm thư lên Tổng thống Diệm ngày 26/8/1963.
Tại Tòa Bạch Ốc, trong 3 ngày 26, 27 và 28/8/1963, Tổng thống Kennedy họp với các phụ tá, cố vấn, Hội đồng An ninh quốc gia, giới chức cao cấp Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Cơ quan Trung ương tình báo để thảo luận về yêu cầu đảo chánh tại Việt Nam.
Vào lúc này, Đại sứ Cabot Lodge tại Sài Gòn đã nhận được điện văn của ông Roger Hilsman, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Viễn Đông Sự vụ thường được gọi là DepTel 243 để trả lời cuộc tiếp xúc giữa Tướng Trần Văn Dôn và giới chức CIA cao cấp tại Sài Gòn Lucien Conein ngày 23/8, nêu rõ lập trường của chánh phủ Mỹ là loại bỏ ông Ngô Đình Nhu và nếu ông Diệm từ chối thì ông Diệm cũng sẽ chịu chung số phận.
Công điện tối mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ yêu cầu "có hành động lập tức", có đoạn "bây giờ thì đã rõ có phải quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hay ông Nhu nhử họ vào cái bẫy ấy…"
Cuộc thảo luận trong 3 ngày cuối tháng 8 xoay quanh vấn đề liệu có xác nhận những chỉ thị trong điện văn của ông Hilsman hay không. Tại các cuộc thảo luận này có hai phe rõ rệt. Các ông Hilsman, Averell Hariman, thứ trưởng ngoại giao phụ trách chính trị sự vụ và viên chức Hội đồng An ninh Quốc gia Michael Forestall đồng ý vụ đảo chánh, trong khi một số người chống đối đứng về phía cựu đại sứ Nolting. Chống đối về phía quân đội có Đại tướng Maxwell Taylor, chủ tịch Ủy ban Tham mưu Hỗn hợp và Tướng Krulak. Ngoài ra phe chống đối còn có Giám đốc CIA John McCone và William Colby, Trưởng ban Viễn Đông của CIA. Tổng thống Kennedy đóng vai điều hợp các cuộc thảo luận. Ông cũng xem Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và em ông, Bộ trưởng Tư pháp Robert F. Kennedy, là những người chống đối khác.
Các giới chức Mỹ cũng bất đồng ý kiến về người lãnh đạo sau khi hai ông Diệm, Nhu bị lật đổ. Không như cựu Đại sứ Nolting cho rằng không có ứng cử viên nào cả thì Văn phòng Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại giao (INR) đưa ra một danh sách dài và nhấn mạnh rằng "Chúng tôi tin là Việt Nam không phải đối mặt với bất cứ sự thiếu vắng nào về người lãnh đạo hữu hiệu không Cộng Sản". Ông Thomas L. Hughes, giám đốc INR ngày nay vẫn tự hào về danh sách các chuyên gia của ông tập họp vào năm 1963.
Công điện mật 25/10/1963 : Danh sách các nhân vật dân sự được xem là có thể thay thế tổng thống Ngô Đình Diệm hậu đảo chánh.
Ngày kế tiếp, INR soạn thảo một tài liệu về "vấn đề ông Nhu" trong đó các nhà phân tích nói rằng theo nhận xét của người miền Nam Việt Nam thì ông Nhu đã trở nên một quyền lực chế ngự tại Sài Gòn, hành xử "một ảnh hưởng bất di bất dịch, không đếm xỉa gì đến ông Diệm".
Trong một phúc trình đề ngày 24/7/1963 về một cuộc gặp với ông Ngô Đình Nhu, văn phòng trưởng CIA tại Sài Gòn, John Richarson, nói ông Nhu cho rằng các Phật tử tuyên truyền cho cộng sản và che dấu cán bộ cộng sản trong số các nhà sư tại một số chùa quan trọng nhất. Ông Nhu cũng bắt đầu tiếp xúc hàng tuần với các tướng lãnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN) và nói về cuộc đảo chánh-và ông nói với CIA rằng đây là một cuộc "phân tích tâm lý" nhằm làm cho các sĩ quan này tiết lộ ý định của họ. Phúc trình ông Richardson đưa ra nhận xét là ông Nhu đang chuẩn bị cho một cuộc đảo chánh trong một trường hợp nào đó chống lại ông Diệm và ông là người lãnh đạo cuộc đảo chánh.
Báo cáo của CIA ngày 24/07/1963 trong đó đề cập đến các nhận định của ông Ngô Đình Nhu về vấn đề Việt Cộng xâm nhập Phật giáo.
Những người thân cận với Tổng thống Kennedy kết luận là ông Nhu phải ra đi và nếu ông Diệm từ chối loại bỏ ông Nhu thì ông Diệm cũng sẽ phải ra đi.
Qua đến tháng 9/10, Washington tìm cách nêu lên lập trường bằng cách cứu xét việc di tản công dân Mỹ, rút quân và ngưng viện trợ của CIA cho lực lựơng đặc biệt Việt Nam. Tổng thống Kennedy muốn hiểu tình hình cặn kẻ hơn nên đã cử nhiều toán nghiên cứu đến Sài Gòn, trong đó có ông Huntington Seldon của CIA, bộ trưởng Robert McNamara, tướng Maxwell Taylor, tướng Krulak và ông Joseph Mendenhall. Tất cả các toán này tường trình cho Tổng thống Kennedy, xác nhận những điều INR đã viết trong tài liệu "vấn đế ông Nhu".
Vào ngày 15/9 Ngoại trưởng Dean Rusk gởi điện cảnh báo đại sứ Cabot Lodge là vụ đảo chánh nêu trong điện tín của ông Hilsman "hoàn toàn ngưng lại" và không nên có nỗ lực nào để khơi động bất cứ âm mưu đảo chính nào. Chưa có quyết định nào được Washington đưa ra. Cùng lúc đó đại sứ Cabot Lodge dính líu đến một vụ tranh chấp với CIA về việc thay đổi người đứng đầu CIA tại Sài Gòn. Trong khung cảnh này, Tướng Trần Thiện Khiêm yêu cầu có cuộc gặp với CIA. Cuộc tiếp xúc và cuộc họp sau đó báo cho Mỹ biết là ông Nhu đang tìm cách tiếp xúc với Hà Nội và nhắc lại kế hoạch đảo chánh vẫn còn và thông báo với CIA là quân đội đang chờ ông Diệm trả lời đòi hỏi của quân đội có chân trong nội các.
Vào ngày 5/10, tướng Dương Văn Minh gặp ông Conein với tư cách là người cầm đầu cuộc đảo chính nhắc lại lời yêu cầu vào tháng 8 là Mỹ bày tỏ sự ủng hộ cuộc đảo chánh và đảm bảo với nhân viên CIA là cuộc đảo chánh sẽ xảy ra trong tương lai gần và phác họa một vài giải pháp đảo chánh. Tướng Minh nói giải pháp "dễ nhất" là ám sát hai người em của ông Diệm và vẫn giữ ông Diệm là một người lãnh đạo không thực quyền.
Sau đó, Tòa Đại sứ Mỹ và văn phòng CIA ở Sài Gòn đóng vai trò tích cực hơn trong tư cách quan sát viên của việc đảo chánh tại Miền Nam Việt Nam. Từ đó có thêm nhiều cuộc tiếp xúc với các tướng lãnh Việt Nam.
Theo tài liệu của CIA, từ ngày 23/8 đến 23/10/1963, các tướng lãnh Việt Nam đã gặp nhân viên CIA tất cả 21 lần để chuyển đạt tin tức về cuộc đảo chánh và dò xét thái độ của Mỹ đối với đảo chánh. Phần lớn những cuộc họp này chỉ có một hay hai tướng đại diện trong đó có các tướng Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Dương Văn Minh. Riêng lần gặp ngày 29/8, ngoài các tướng lãnh còn có một người không thuộc giới quân nhân là ông Bùi Diễm, thuộc Đảng Đại Việt, tháp tùng Tướng Lê Văn Kim trong cuộc tiếp xúc với phía Mỹ.
Một hồ sơ giải mật được giải mật liên quan đến tài liệu vụ ám sát tổng thống Kennedy.
Ngày 29/10/1963, Tổng thống Kennedy triệu tập một phiên họp với các cố vấn có sự tham dự của Phó Tổng thống Johnson, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, Tướng Tay lor và Tướng Krulak để duyệt lại một lần nữa về việc có nên hay không nên ủng hộ đảo chánh của các tướng lãnh Việt Nam. Trong phiên họp này ngoại trưởng Dean Rush lo ngại về khả năng giao tranh kéo dài giữa hai phe ủng hộ và chống đảo chánh có thể làm nhiều người chết. Một lo ngại khác nữa của ông là trường hợp một hay cả hai bên đều kêu gọi Mỹ ủng hộ thì phải giải quyết ra sao. Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy thì cho rằng về quan điểm của Mỹ thì cuộc đảo chánh không có ý nghĩa vì đặt tương lai cả Việt Nam và của Đông Nam Á vào tay những người Mỹ không biết rõ. Mỹ chỉ biết ông Diệm là một người tranh đấu và sẽ tranh đấu đến cùng. Ông kết luận là Mỹ phải đóng một vai trò chính trong việc tìm hiểu kế hoạch của phe đảo chính ra sao và ảnh hưởng để cuộc đảo chánh có nên diễn ra hay không. Ông chỉ ra rằng dù Mỹ có làm hay không làm thì Mỹ vẫ n bị đổ lỗi cho kết quả. Tổng thống Kennedy khuyến cáo là phe đảo chánh nên được có ưu thế về quân sự. Tổng thống giao cho Đại sứ Cabot Lodge tìm hiểu xem lập trường của các đơn vị quân đội chính đối với cuộc đảo chính như thế nào.
Cuộc đảo chánh thực sự bùng nổ ngày 1/11/1963 và anh em ông Diệm Nhu bị giết ngày 2/11/1963. Trước đó, vào lúc 4 giờ rưỡi chiều ngày 1/11/1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm gọi cho Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu cho biết về thái độ của Mỹ đối với cuộc đảo chánh. Đại sứ Lodge trả lời là ông có nghe tiếng súng nổ, nhưng ông không biết rõ các sự kiện và không có thông tin đầy đủ để trả lời. Vả lại tại Washington là 4 giờ rưỡi sáng nên chính phủ Mỹ không thể nào có quan điểm chính thức vào lúc này. Ông Cabot Lodge bày tỏ sự lo ngại về an toàn của tổng thống Diệm và hỏi thêm là tổng thống có biết phe đảo chánh đề nghị hai anh em ông ra nước ngoài nếu ông từ chức hay không thì ông Diệm trả lời không biết. Ông Cabot Lodge kết thúc câu chuyện bằng cách hứa là ông sẽ làm đủ mọi cách có thể được để bảo đảm an toàn cho ông Diệm nếu ông Diệm gọi cho ông.
Tài liệu ghi lại cuộc nói chuyện của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đại sứ Cabot Lodge, 1/11/1963, ngày đảo chánh : "4 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11, 1963, phủ Tổng thống liên lạc tư dinh chúng tôi. Tổng thống Diệm đòi nói chuyện với đại sứ [Lodge]".
Tại Washington, khi nhận được tin này, tổng thống Kennedy không tin là hai ông Diệm Nhu tự tử vì cả hai là tín đồ Công Giáo.
Báo cáo của CIA gởi về Washington nói rằng họ tin hai anh em Diệm Nhu bị giết thay vì tự tử như một số tin. Đại sứ Cavot Lodge lái xe chạy vòng quanh Sài Gòn và được hoan hô. Không có chỉ dấu cho thấy có tình cảm chống Mỹ. CIA cho rằng việc chống nổi dậy sẽ gặp trở ngại tạm thời vì ấp chiến lược và chương trình bán quân sự do ông Nhu điều hành bị giải tán.
Nguồn : VOA, 14/11/2022
Dựa trên các đoạn băng ghi âm của Nhà Trắng mới được công bố, Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia đặt tại Đại học George Washington ở thủ đô của Hoa Kỳ hôm 1/11 nhận định rằng hồi cuối năm 1963, Tổng thống John F. Kennedy "có khuynh hướng ủng hộ việc phế truất Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm hơn người ta nghĩ trước đây".
Tổ chức phi chính phủ trên đưa ra đánh giá như vậy đúng ngày đánh dấu 57 năm xảy ra cuộc đảo chính đã khiến ông Diệm và em trai mất mạng.
Theo Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia, quan điểm của ông Kennedy về việc loại bỏ ông Diệm trở nên rõ ràng hơn trong các đoạn thu âm cuộc gặp của nguyên thủ Mỹ và tân Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn Henry Cabot Lodge Jr vào giữa tháng Tám năm 1963, ngay trước khi nhà ngoại giao mới được bổ nhiệm này lên đường đi nhận nhiệm vụ.
Cơ quan này nhận định thêm rằng cá nhân ông Kennedy biết về quan điểm ủng hộ ông Diệm của ông Frederick E. Nolting, người tiền nhiệm của tân Đại sứ Lodge.
Ngoài ra, viện nghiên cứu và lưu trữ tài liệu trên cho biết rằng đánh giá của họ cũng dựa trên các hồ sơ công bố ngày 1/11, trong đó có bản ghi cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia của Nhà Trắng và báo cáo từ miền Nam Việt Nam của CIA, cho thấy vai trò của các quan chức tình báo và ngoại giao Mỹ tại thực địa.
Hồi cuối tháng Mười năm 2017, hãng AP dẫn tài liệu được giải mật khi đó nói rằng Tổng thống Lyndon B. Johnson tin là người tiền nhiệm John F. Kennedy đứng đằng sau vụ ám sát ông Diệm vài tuần trước khi ông qua đời và vụ ám sát ông Kennedy là sự báo ứng.
Hãng Mỹ này trích tài liệu đưa tin rằng Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ Richard Helms cho biết trong một phiên lấy lời khai vào năm 1975 rằng ông Johnson "đã từng lan truyền tin tức nói rằng lý do ông Kennedy bị ám sát là vì ông ấy đã cho giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và đây là sự công bằng của công lý".
Đây không phải là lần đầu tiên cái gọi là "thuyết Johnson" được nêu ra. Một cuốn sách của tác giả Max Holland, với tựa đề "Các đo ạn ghi âm về vụ ám sát Kennedy", có trích dẫn lời ông Johnson nói rằng ông Kenney đã chết vì "quả báo".
Theo AP, ông Johnson được cho là đã nói : "Ông ấy đã cho sát hại ông Diệm và sau đó chính mình lại bị giết".
Theo ông Ken Hughes, nhà sử học ở Trung tâm Miller thuộc Đại học Virginia, vai trò của ông Kennedy trong vụ ám sát ông Diệm vẫn còn gây tranh cãi.
Hôm 2/11, Giám mục Hoàng Đức Oanh nói với VOA sau khi cùng với các linh mục và hàng trăm tín đồ công giáo đã làm lễ cầu nguyện cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm nhân ngày giỗ thứ 55 tại Nghĩa trang Lái Thiêu tỉnh Bình Dương rằng ngài Tổng thống xứng đáng được an nghỉ tại một nơi đàng hoàng hơn.
Từ Sài gòn, Giám mục Hoàng Đức Oanh cho biết ông đã cùng các linh mục dâng lễ cầu nguyện cho người sáng lập nền Việt Nam Cộng Hòa, người mà ông nói "luôn được mọi người yêu quý, kính trọng và sống mãi trong lòng người".
"Chúng tôi đến tưởng nhớ công ơn của Ngài vì Ngài đã là mẫu gương tuyệt vời cho chúng tôi về mặt đạo đức. Ngài là một tín hữu công giáo gương mẫu, một lãnh đạo yêu dân tộc, yêu đất nước, yêu quê hương Việt Nam, đã đấu tranh kiên cường cho nền độc lập Việt Nam. Ngài đã bị giết một cách thảm khốc. Chúng tôi yêu mến Ngài và tưởng nhớ công ơn của Ngài".
Giám mục Hoàng Đức Oanh nói dù buổi lễ diễn ra suông sẻ nhưng ông cho biết chính quyền địa phương vẫn luôn cho an ninh theo dõi và ghi hình.
"Ngày hôm nay tôi thấy (an ninh) khá yên tĩnh, không như những lần trước, không bị phá phách. Việc bị theo dõi thì đương nhiên rồi !".
Linh mục Lê Ngọc Thanh thuộc Dòng Chúa Cứu thế Sài Gòn viết trên Facebook : "Tới 300 người tham dự, không kể an ninh mật vụ khoảng 50 người !".
Tổng thống Ngô Đình Diệm và em trai Ngô Đình Nhu bị ám sát vào ngày 2/11/1963, sau một cuộc đảo chánh do các tướng lĩnh miền Nam Việt Nam thực hiện.
Một tài liệu giải mật của CIA vào tháng 10 năm 2017 cho biết cựu Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tin rằng người tiền nhiệm John F. Kennedy đứng đằng sau vụ ám sát ông Ngô Đình Diệm vài tuần trước khi ông qua đời và cho rằng vụ ám sát ông Kennedy là một ‘quả báo’.
Cựu Giám mục Kontum nói ông ước mong có một nơi đàng hoàng hơn để cố lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa an nghỉ :
"Chúng tôi ước mong có một nơi dành cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của Ngài – một nơi xứng đáng hơn, phù hợp hơn. Có nhiều lãnh tụ người ta càng tô điểm bao nhiêu thì càng xấu bấy nhiêu nhưng hình ảnh của ông Ngô Đình Diệm, cho đến giờ phút này, ngày cảng tỏa sáng thêm và càng huy hoàng hơn. Ông chính là hạt lúa miến đã gieo vào lòng đất của Việt Nam, nay đã trở thành cây lúa lớn, và sẽ mang lại nhiều hoa trái cho dân tộc".
Theo trang Kienthuc.net.vn, sau khi bị ám sát ngày 2/11/1963, ông Ngô Đình Diệm và em trai được chôn cất ở khu đất phía sau Bộ Tổng tham mưu Quân lực chính quyền Sài Gòn. Được một thời gian ngắn, chính quyền Sài Gòn dời mộ sang nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ở Quận Nhứt. Vào năm 1985, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh giải tỏa nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để xây công viên Lê Văn Tám, các ngôi mộ phải chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu.
Theo Linh mục Thanh, vào cuối thánh lễ, Giám mục Hoàng Đức Oanh mong muốn một tổ chức nào đó của người Việt hay thu thập tư liệu và làm hồ sơ xin Tòa thánh Vatican nhìn nhận cá nhân anh hùng và gương sáng đức tin của cụ Diệm. Ông nói : "Cụ xứng đáng được người Công giáo tôn kính".
Vào tháng 3/2018, Chính quyền Việt Nam lần đầu tiên mở trưng bày sử liệu về biến cố cuộc đời ông Ngô Đình Diệm, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, tại khuôn viên dinh Thống Nhất ở thành phố Hồ Chí Minh.
Dù cuộc triển lãm có nhan đề là "Từ dinh Norodom đến dinh Độc Lập 1868-1966", ban tổ chức đã dành một gian riêng ở tầng hai ở một tòa nhà trong khuôn viên dinh Thống Nhất, dùng để giới thiệu diễn biến của cuộc đời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, từ ngày ông làm quan nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại rồi trở thành tổng thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.
Nguồn : VOA, 02/11/2018
***************
Rắn rít, nước ngập, không điện, không nước, không nhà vệ sinh, không đường bộ… là những khó khăn mà người dân tạm cư gốc Việt ở huyện Boribo, tỉnh Kampong Chhnang, Campuchia gặp phải khi họ chuyển nhà thuyền ra khỏi khu Biển Hồ từ đầu tháng 10 cho đến nay. Vì cuộc sống ở khu tạm cư quá bấp bênh, khắc nghiệt cho nên đêm đêm, hàng chục gia đình tìm cách thoát khỏi nơi đây, tìm đi nơi khác nương náu hoặc đi ghe thẳng ra sông cái lớn tìm đường về cố hương. Thế nhưng người tha phương không dễ dàng chạy thoát, một số gia đình nói họ bị viên chức địa phương chặn lại và "làm tiền" và thậm chí có gia đình muốn về Việt Nam nhưng không có tiền "lót tay" cho chính quyền.
Trong tháng qua, kể từ khi chính quyền Campuchia giải tỏa trắng khu nhà bè trên Biển Hồ hôm 1/10 đã có hơn 600 hộ trong số 800 hộ đã ra đi vì không kham nỗi cuộc sống cơ cực nơi tái định cư. Các ngư dân gốc Việt cho VOA biết trong khi những người còn ở lại chỉ biết kêu cứu và mong chờ sự trợ giúp nhưng chính quyền lại "né tránh, hứa suông".
‘Di dồn’ ngư dân
Ông Nguyễn Văn Hiếu, 49 tuổi, một di dân gốc Việt đến Biển Hồ cùng với cha mẹ năm ông 13 tuổi để đánh bắt cá, nói với VOA rằng hồi đầu tháng 10 có đến hơn 800 gia đình từng sống trên bè nổi ở Biển Hồ đã phải di chuyển thuyền bè đến nơi tạm cư mới theo lệnh giải tỏa của chính quyền, nhưng cuộc sống ở nơi mới thì thiếu thốn đủ thứ :
"Chính quyền Campuchia đuổi tất cả chúng tôi vào trong rừng. Họ hứa sẽ làm đường lộ, chạy nước nhưng không biết có làm hay không. Ở trên vạt rừng này rắn rít bò lên nhà làm cho dân tình rất sợ. Không có đường đi, không nước sinh hoạt, không nhà vệ sinh nên gây mùi hôi thối".
Ông Tống Văn Sến, 37 tuổi, sinh ra tại vùng Biển Hồ, cũng giống như hàng ngàn ngư dân khác cho đến nay vẫn chưa có quốc tịch Campuchia, nói với VOA :
"Hai vợ chồng em có hai đứa con, cuộc sống vô cùng khắc khổ, làm ăn ở đây rất khó khăn, không biết sẽ ra sao khi không có điện – nước… Không có cái gì cả. Nhà thì nổi trên đọt lùm, đất chìm, không có bờ. Tụi em bàn tính để đi, chứ không ở lại. Mình xin đi ra thì họ không cho. Ai đi mà bị bắt thì họ phạt, và họ tước giấy tờ. Họ lấy luôn cả giấy mà mình đã đóng phí 250 ngàn rieh để có được trước đây".
Từ tháng 12 năm ngoái, khi chính phủ Campuchia thu hồi giấy tờ cũ được cho là cấp sai qui định, một số người Việt cho biết họ được hỗ trợ trả khoản phí đăng ký giấy tờ mới 250 ngàn rieh (khoảng 1,4 triệu đồng), được gọi là thẻ thường trú ngoại kiều, do các hội đoàn gốc Việt tại Campuchia tài trợ cùng với sự thu xếp của cơ quan ngoại giao Việt Nam.
Theo quy định hiện hành của chính phủ Campuchia, người gốc Việt dù đến Campuchia vào thời điểm nào, miễn trước 2012, đều phải đăng ký 3 lần, cứ hai năm một lần, cho đến năm thứ 7 thì có thể xin vào quốc tịch Campuchia.
Theo các ngư dân, chưa ai trong số họ có quốc tịch Campuchia và nếu như họ quyết định chạy thoát và không may bị chặn lại và bị tịch thu giấy đăng ký ngoại kiều, thì con đường mưu sinh trên đất Campuchia lại càng thêm chông gai, tương lai càng mù mịt.
Ông Hiếu chia sẻ :
"Những người nào ở bè thì bị đuổi đi hết. Người Campuchia thì còn được chuyển đến phía bên ngoài, gần đường lộ và gần mé sông, còn người Việt Nam thì bị đuổi vô đây hết. Ở đây giống như ở trong rừng ngập nước, phía dưới nhà thì đầy gai gốc, cây đội lên sàn nhà, ghe bị thủng chìm".
Ô nhiễm, bệnh tật
Các ngư dân cho biết nơi tập kết mới là vùng đất trũng ngập nước, nhà nổi của họ hiện ở phía trên khu vực rừng cây mai dương, nước ngập không có đường đi lại, gây ảnh hưởng rất lớn về sinh hoạt, môi trường. "Chỉ còn một vài ngày nữa thôi, khi nước rút xuống thì cây cối sẽ đâm thủng thuyền bè". ông Hiếu lo lắng.
Sau một tháng bị dồn đến nơi đầm lầy hoang dã, ngư dân Trần Văn Tuấn, 53 tuổi, chia sẻ :
"Chính quyền di dồn, đuổi dân lên đọt cây, lên rừng rậm, nơi nguy hiểm không có nước sinh hoạt, không nơi chứa nước thải, bị ô nhiễm. Bà con phải tắm giặt bằng nước dơ mang mầm bệnh. Thậm chí ông sư thầy trụ trì chùa hơn 50 năm vừa chết vì sanh bệnh cách nay hai ngày".
Ông Hiếu cho biết có hơn 600 gia đình bỏ nơi tạm cư mới ra đi và gia đình ông cũng muốn chạy thoát nhưng chưa thực hiện được.
Ông nói sống ở đó như bị giam lỏng :
"Họ không cho chúng ta ra ngoài. Những người ra đi liền bị họ áp tải vô trở lại và bị họ phạt rất nhiều tiền. Tôi cũng muốn ra ngoài nhưng không đi được. Nếu họ không cho ra thì chỉ còn khoảng 2-3 ngày nữa nước rút xuống thì chúng tôi bị mắc cạn, không kéo nhà ra được. Chúng tôi ngày đêm lo lắng, bàn tính chắc sẽ bỏ nhà bè mà đi, chứ không còn ở đâu được".
Ngài Đại sứ "làm không xuể"
Trong một email phản hồi VOA hôm 30/10, ông Vũ Quang Minh, Đại sứ Việt Nam tại Campuchia, cho biết công việc chuẩn bị cho tái định cư cho người gốc Việt của chính quyền Phnom Penh "chưa được tổ chức tốt".
Hôm 29/10, phát biểu khi đến thăm các hộ dân gốc Việt thuộc diện di dời ở huyện Boribo, Đại sứ Vũ Quang Minh cho biết Chính phủ Việt Nam cũng như cộng đồng người Campuchia gốc Việt luôn ủng hộ chủ trương di dời người dân sống trên Biển Hồ của Chính phủ Campuchia, "về nguyên tắc, đây là chủ trương đúng đắn để giải quyết vấn đề môi trường, ổn định đời sống lâu dài cho người dân", theo đài VOV.
Ông cũng ghi nhận rằng khu vực di dời chưa đảm bảo các điều kiện hạ tầng cần thiết như : Điện, đường, nước sinh hoạt, đặc biệt là hệ thống thoát nước và chất thải.
Hôm 1/11, ông Hiếu nói Đại sứ Vũ Quang Minh có đến thăm nơi tái định cư mới của làng bè, cách nơi cũ khoảng 4-5 km, và nhà ngoại giao Việt Nam có vẻ thất vọng trước những lời hứa của chính quyền Campuchia.
Ông Tuấn nói các nhà ngoại giao Việt Nam "làm không xuể" trước việc mạnh tay giải tỏa và bỏ mặc của chính quyền tỉnh Kampong Chhnang.
Bất lực trước cảnh này, ông Sến nói nếu tình hình không thay đổi thì gia đình ông cũng như các gia đình khác sẽ thu dọn đồ đạc xuống ghe vỏ lãi mà quyết chạy trốn.
"Cho đến nay vẫn chưa nghe đến việc được hỗ trợ gì. Đã khổ rồi ! Mình lên xin hoài mà người ta cứ kêu chờ, mình chờ hoài từ 1/10 đến bây giờ, cả tháng rồi !".
Hôm 1/11, ông Tuấn nói ông mạnh mẽ lên án việc chính quyền Thủ tướng Hunsen hứa hẹn và cam kết hỗ trợ ngư dân không thực hiện.
"Thủ tướng Hunsen có hứa với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Indonesia hôm 11/10 là sẽ làm đường, dẫn điện, có trạm xá, trường học để bà con ổn định lâu dài rồi mới di dời bà con lên. Nhưng bên này không giữ lời hứa, chính quyền địa phương tráo trở. Hunsen nói là chỉ đạo xuống nhưng chính quyền ở đây thì làm ngơ. Đại sứ Vũ Quang Minh xin gặp tỉnh trưởng để yêu cầu hỗ trợ, nhưng họ nói bận, hơn một tuần nay chưa gặp được".
Bên lề cuộc gặp các nhà lãnh đạo ASEAN (ALG) và Hội nghị Thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới (IMF - WB) tại Bali, Indonesia, ông Hun Sen nói đã trực tiếp chỉ đạo Tỉnh trưởng Kampong Chhnang xử lý đề nghị của ông Phúc về việc bảo đảm di dời có thời gian quá độ phù hợp, tránh làm xáo trộn đời sống người dân trên Biển Hồ.
VOA đã liên lạc với Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ Campuchia, và chính quyền tỉnh Kampong Chhnang, nhưng chưa được phản hồi.
Gia đình ông Tuấn, ông Hiếu và ông Sến, cũng như hàng trăm gia đình bị di dời, khẩn thiết đề nghị chính quyền Campuchia cho phép họ di chuyển tới địa điểm tạm cư mới đủ điều kiện sống tối thiểu, bảo đảm vệ sinh môi trường và có thể mưu sinh trong thời gian chờ đợi chính quyền tìm các biện pháp cho bà con tái định cư lâu dài, hoặc nếu chưa có địa điểm phù hợp thì cho phép họ quay tạm trở lại nơi ở cũ.
Vào cuối tháng 9, Nhật báo Phnom Penh Post dẫn lời thống đốc tỉnh Kampong Chhnang, ông Chhour Chandoeun, nói rằng việc di dời là cần thiết để "duy trì chất lượng nước", vì các làng nổi đã gây ô nhiễm và tàn phá hệ sinh thái trong hồ.
Bộ Thông Tin Cambodia dẫn lời một giới chức địa phương khác cho hay, những người sống trên đoạn sông Tonle Sap chảy qua Thành phố Kampong Chhnang, thủ phủ tỉnh cùng tên, sẽ được di dời tới một khu đất rộng 40 héc ta, nhưng dường như đây chỉ là một khu đất hoang ngập nước.
Trong các cuộc gặp với lãnh đạo cấp cao của Campuchia vào cuối tuần trước, bà Trương Thị Mai, Trưởng ban Dân vận Trung ương, đã nhắc lại các đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trước đó về việc đảm bảo hạ tầng thiết yếu và không làm xáo trộn đời sống người dân tái định cư, nhưng hầu như chưa nhận được phản hồi tích cực từ phía Campuchia.
Vi phạm nhân quyền
Nhiều gia đình, trong đó phần đông là người Việt, chọn Biển Hồ làm nơi sinh sống từ lâu đời. Kế sinh nhai chủ yếu của họ dựa vào việc nuôi cá và nguồn cá đánh bắt được trong hồ nên có ý kiến cho rằng khi bị giải tỏa lên đất liền, họ sẽ mất nguồn thu nhập chính và không biết sống dựa vào đâu.
Các tổ chức nhân quyền đã lên án vụ di dời là tàn nhẫn, và nhiều người cho rằng quyết định của nhà cầm quyền Cambodia có nguyên nhân sâu xa về chủng tộc.
Khu tạm cư mới của ngư dân gốc Việt. Photo VOV.
Ông Tuấn nói ông và nhiều ngư dân Biển Hồ đã gửi thư cho Cao ủy Nhân quyền LHQ tố cáo rằng việc chính quyền Campuchia đối xử bất công với người gốc Việt là vi phạm nhân quyền, phân biệt chủng tộc.
"Họ luôn nói tôn trọng nhân quyền, không phân biệt chủng tộc, nhưng hành động trong tháng chứng tỏ rằng họ vi phạm nhân quyền, đối kỵ với mình là người Việt Nam. Họ đàn áp và xem thường người Việt Nam".
Hàng ngàn người Việt ở Campuchia đã phải trở về Việt Nam bằng thuyền và hiện đang tạm cư trong tình trạng nghèo khổ và vô tổ quốc tại hồ Dầu Tiếng ở Tây Ninh, cũng như các tỉnh Long An, An Giang, Đồng Tháp, Đồng Nai và Kiên Giang.
Khi trò chuyện với VOA cũng là lúc màn đêm buông xuống ở khu tạm cư của người Việt vùng Biển Hồ, ông Sến khăn gói các vật dụng cần thiết sẵn sàng cho một hành trình hồi hương nếu có cơ hội, trong khi đó ông Hiếu thì dặn con rễ xem tối nay nhớ châm thêm dầu vào máy điện, để mắt vào mấy cọc nhọn cây mai dương ở dưới sàn nhà nổi, còn vợ ông đang kiểm tra xem bồn nước uống có đủ cho cả thảy bảy người hay không.
An Hải
Nguồn : VOA, 02/11/2018
Khi Bảo Đại đưa ông Diệm về làm Thủ tướng, một trận đấu đá đã xảy ra
Trong cuốn "Việt Nam Máu lửa Quê hương tôi" do Đỗ Mậu đứng tên, được Văn Nghệ xuất bàn tại Weatminster, California, năm 1993, nhóm viết cuốn sách này đã dựa theo những tài liệu truyền truyền của CSViệt Nam, cho rằng có ba cuộc vận động đưa ông Diệm về làm Thủ Tướng : Hồng Y Spellman, Ngoại Trưởng Foster Dulles và Phong Trào Bình Dân Thiên Chúa Giáo Pháp (MRP).
Quốc trưởng Bảo Đại
Nhưng trong cuốn "Vietnam, A history", một cuốn sách viết về lịch sử chiến tranh Việt Nam nổi tiếng của Mỹ, sử gia Stanley Karnow, lại viết hoàn toàn khác :
"Khi cuộc các cuộc thương thuyết tại Geneva gần kết thúc, cuối cùng Bảo Đại nhận thức rằng địa vị của ông treo mỏng manh như sợi tóc, ông ta mời ông Diệm đến. Người ăn chơi và nhà đạo đức không thích hợp nhau, nhưng họ có thể dùng nhau. Diệm coi Bảo Đại là con đường đưa đến chính quyền. Còn Bảo Đại nhìn thấy hai cái lợi ở ông Diệm. Thứ nhất Ngô Đình Nhu, em ruột ông Diệm, đã thành lập được Mặt trận Cứu nguy Dân tộc ở Sài Gòn, một cơ cấu xem ra được coi là một liên minh chính trị đáng tin cậy. Thứ hai Bảo Đại nghĩ rằng Diệm đã từng ở Hoa Kỳ, có thể đưa Mỹ vào chính trường Việt Nam thay thế Pháp mà sự có mặt sẽ chấm dứt trong những ngày gần đây.
"Nhưng trái với chuyện hoang đường cho rằng (Ngoại trưởng) Foster Dulles, Hồng y Spellman và nhiều người Mỹ khác vận động đưa ông Diệm lên, Hoa Kỳ lúc ấy vẫn chưa chấp nhận Diệm. Quả thật các viên chức ngoại giao Mỹ tại Geneva đã từ chối khéo ông Luyện, em ông Diệm, khi ông thúc đẩy họ tiếp kiến ông Diệm. Trong khi đó chính phủ Pháp nhìn Diệm với sự thờ ơ."
(Stanley Karnow, Vietnam a History, Penguin Book 1984, tr. 234).
Bảo Đại nói rõ lý do đưa ông Diệm về
Trong cuốn hồi ký "Le Dragon d’Annam" do Plon, Paris, xuất bản năm 1980, Quốc trưởng Bảo Đại đã trình bày tình hình chính trị và những lý do cá nhân khiến ông mời ông Diệm làm thủ tướng với toàn quyền quân sự và dân sự như sau :
"Chúng tôi không còn có thể trông cậy vào người Pháp được nữa. Tại bàn hội nghị Geneva, chỉ còn người Mỹ là đồng minh của chúng ta. Trước tình thế đang biến chuyển, họ muốn dựng nên một hệ thống phòng thủ mới tại Đông Nam Á. Họ có thể giúp chúng tôi tiếp tục cuộc chiến đầu chống cộng sản. Tại Sài Gòn thủ tướng chính phủ (Bửu Lộc) gặp phải sự chống đối mãnh liệt của những thành phần quốc gia được kết hợp lại trong phòng trào Đoàn Kết Quốc Gia do Ngô Đình Nhu lãnh đạo. Những thành phần này tiên thiên chống lại những quyết định sẽ được đạt đến tại Geneva. Tôi bèn triệu tập đến Cannes các lãnh tụ của tất cả các xu hướng chính trị và tôn giáo của Việt Nam để tham khảo ý kiến. Tôi giải thích cho họ những gì sẽ xảy ra, tôi cho họ biết tất cả đã được sắp xếp, kể cả việc phân chia đất nước. Tôi gợi ra sự cần thiết phải đem lại cho nước Việt Nam một hướng đi rõ rệt hơn, và đề nghị thay thế Hoàng thân Bửu Lộc trong chức vụ thủ tướng bởi ông Ngô Đình Diệm. Tất cả những người có mặt đã nồng nhiệt chấp thuận đề nghị của tôi".
Quốc trưởng Bảo Đại viết tiếp :
"Biết trước mình khó lòng theo đuổi được con đường đã vạch, Bửu Lộc đệ đơn xin từ nhiệm cho cả chính phủ.
"Sau khi thảo luận với ông Foster Dulles, để cho ông ta biết ý định ấy, tôi cho mời ông Ngô Đình Diệm và bảo ông ta :
- Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.
- Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu...
- Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp :
- Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
"Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá, tôi bảo ông ta :
- Đây Chúa của ông đây. Ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.
"Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu rồi nhìn tôi, sau khi nhìn lên thánh giá, ông nói với một giọng nghẹn ngào :
- Tôi xin thề.
(Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, Plon, Paris 1980, tr. 514 - 515)
Ngày 16/06/1954 Thủ tướng Bửu Lộc từ chức. Bảo Đại ký Sắc lệnh số 38-QT cử Ngô Đình Diệm thành lập tân chính phủ.
Bốn mươi tám giờ đồng hồ sau, ông Diệm trở về Sài Gòn cùng với Hoàng thân Bửu Lộc để bàn giao quyền hành. Trước khi ra đi, Bảo Đại đã trao cho ông một đạo Dụ ủy cho ông mọi quyền hành về hành chánh cũng như quân sự. Nhưng khi ông Diệm vừa rời Paris thì một nhóm người Pháp thuộc Ngân hàng Đông Dương (Bank de l’Indochine) đã đến phản đối Bảo Đại về việc cử ông Diệm làm Thủ tướng. Họ sợ rằng ông Diệm sẽ gạt bỏ mọi quyền lợi về kinh tế và văn hoá của Pháp tại Việt Nam. Nguyễn Đệ, Đổng lý Văn phòng Quốc trưởng, và một số người thân cận với Bảo Đại cũng không đồng ý việc cử ông Diệm. Họ sợ ông thâu tóm hết mọi quyển hành.
Ngày 24/06/1954, ông đáp phi cơ hãng Air France rời Ba Lê và hai ngày sau đến Sài Gòn. Cùng đi với ông, có người em trai là Ngô Đình Luyện, ông Trần Chánh Thành, ông Nguyễn Văn Thoại, một giáo sư đại học tại Pháp,
Ông Diệm và các ông Luyện, Thành, Thoại đều vui vẻ hân hoan ra mặt. Ngày 26/06/1954, phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Ngoài số người đón tiếp tại phi trường, nhiều nhóm dân chúng chờ đợi hai bên các con đường mà đoàn xe chở thủ tướng Ngô Đình Diệm đi qua, như nhân chứng Đại tá Edward Lansdale thuật lại, chứ không phải họ tránh né như ông Joseph Buttinger đã viết. Nhưng đoàn xe chở Thủ tướng Diệm chạy nhanh làm dân chúng không thấy rõ mặt thủ tướng, theo nhận xét của Trung tá Lansdale.
Ông Diệm gặp nhiều khó khăn khi lên cầm quyền
Bảo Đại nói rằng công việc của ông Diệm không dễ dàng. Việc ông đến Sài Gòn chẳng ai hoan nghênh. Người ta cần phải động viên tinh thần của mọi người đang rơi vào tình trạng hoang mang. Ngày 30/06/1954 ông đến Hà Hội. Những điều ông thấy không thể tưởng tượng được. Chẳng còn ai nghỉ đến chống lại cộng sản. Hàng trăn ngàn người đau khổ, trong đó có những người công giáo mà ông tin rằng sẽ ủng hộ ông, đang tìm đường chạy vào miền Nam. Thật quá chậm trể để không còn hành động gì được nữa. Ông trở về Sài Gòn.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm
Việc thành lập chính phủ rất khó khăn vì có sự tranh chấp của các đảng phái và giáo phái, nhưng rồi ngày 6/7/1954, ông Diệm cũng đã ban hành Sắc Lệnh số 43-CP công bố thành phần chính phủ và ngày 7/7/1954 chính phủ Ngô Đình Diệm bắt đầu chấp chánh.
Ngày 20/07/1954 đại diện Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia cắt đất nước làm đôi, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ và đọc một bài diễn văn chống lại sự bất công của Hiệp Định Genève đã trao cả miền Bắc cho Cộng Sản và thêm 4 tỉnh miền Trung. Thủ tướng nói : "Chúng tôi không thể đặt vào vòng nô lệ hàng triệu đồng bào trung thành với chủ nghĩa quốc gia...". Từ trên sự đổ nát và hổn loạn, ông Diệm đã đưa được khoảng một triệu người từ miền Bắc vào miền Nam, ổn định tình miền Nam và xây dựng chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Mặc dầu tuyên bố chính thức chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm không nằm được bao nhiêu quyền hành. Người thật sự có quyền lúc đó là tướng Pháp Paul Ely, Cao ủy Pháp kiểm Tổng Tư lệnh Quân đội Pháp, đóng tại dinh Norodom của Toàn quyền Pháp ngày trước tại Sài Gòn. Tướng Ely cầm đầu luôn cả guồng máy dân sự.
Chỉ có Bộ Tư lệnh Pháp có quyền điều động "Quân đội quốc gia Việt Nam" và chỉ huy tác chiến. Pháp cử tướng Nguyễn Văn Hinh, con cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, "Hùm Xám Cai Lậy", làm Tham mưu trưởng "Quân đội Quốc gia".
Ông Diệm căn cứ vào các thỏa ước mà Pháp đã ký kết về việc thừa nhận và hoàn thành nền độc lập của Việt Nam, để đòi Pháp trao trả các quyền và tài sản của một quốc gia độc lập mà Pháp còn sử dụng hay nắm giữ. Hai tháng sau, Pháp mới chịu giao trả dinh Norodom cũng như Phủ Toàn quyền tại Hanoi.
Mỹ chớp thời cơ nhảy vào cuộc
Khi nhận thấy tình hình đang thuận lợi, ngày 20/08/1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã họp và ban hành các nghị quyết nói về chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp định Genève (US policies toward post-Geneva Vietnam), đồng thời phái Trung tá Lansdale thuộc cơ quan OSS (tiền thân của CIA) đến hướng dẫn ông Diệm thi hành.
Nghị Quyết số NSC 5429/2 ngày 20/08/1954 và Nghị Quyết số NSC 5429/3 ngày 19/11/1954 nhận định rằng Pháp đã mất ý chí chiến đấu tại Việt Nam và Mỹ phải đưa ra kế hoạch để đảm đương vai trò của Pháp trên đất nước này. Ngoài phần nhận định, sau đây là những điểm chính của hai Nghị Quyết :
1) Pháp phải trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam ;
2) Truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai) ;
3) Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội và soạn thảo hiến pháp ;
4) Thành lập một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) ;
5) Kết hợp việc cải cách ruộng đất với việc định cư người tỵ nạn và
6) Xây dựng những lực lượng quân sự có thể bảo đảm an ninh quốc nội.
Tuy đã có nghị quyết như vậy, việc thì hành không dễ dàng vì tình hình miền Nam lúc đó rất phức tạp, đặc biệt là mức sống và dân trí còn quá thấp và thiếu đoàn kết. Quyền hành về chính trị và quân sự lại vẫn còn nằm trong tay người Pháp, nên việc hình thành một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) như Mỹ muốn để ổn định tình hình và thống nhất miền Nam rất khó. Một cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Pháp đã xảy ra.
Trong thời gian chiến tranh, ngoài quân đội chính quy, Pháp phải xử dụng những tổ chức tự lâp để bảo vệ những khu vực mà Pháp không chiếm giữ được. Hai lực lược Bình Xuyên và giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo được Pháp coi như là Phụ lực quân (Supplétifs). Bình Xuyên giữa phía Nam Sài Gòn, còn Hòa Hảo giữ một số vùng ở miền Tây. Trong khi đó, giáo phái Cao Đài lại hình thành một lực lượng riêng để vừa chống Việt Minh vừa chống Pháp. Nay thấy Mỹ muốn xử dụng chính phủ Ngô Đình Diệm do Bảo Đại mới thành lập để hất chân Pháp ra khỏi Đông Dương, dĩ nhiên là Pháp phải chống lại để khi quân đội Pháp không còn ở đây nữa, ảnh hưởng về chính trị, kinh tế và văn hóa của Pháp vẫn còn. Vì thế Pháp đã dùng mọi cách để phá sập chính phủ Ngô Đình Diệm.
Một trận đấu đá cạn tàu ráo máng
Vốn biết Bảo Đại là một tay ăn chơi trác táng, nên Pháp đã hướng dẫn Lê Văn Viễn, thường được gọi là Bảy Viễn, vốn là tướng cướp và là người chỉ huy lực lượng Bình Xuyên, tìm cách mua chuộc Bảo Đại để nắm chính quyền. Với sự giúp đỡ của Bảo Đại, kể từ năm 1951, Bình Xuyên trúng thầu sòng bạc Đại Thế Giới (Grand Monde) ở Chợ Lớn. Mỗi tháng Bảy Viễn nạp cho Bảo Đại 240.000 đồng như đã giao kết. Còn gái và rượu, Bảo Đại muốn bao nhiêu cũng có. Tính chung, tổng số thu nhập của Bảo Đại khoảng từ 110 đến 120 triệu đồng mỗi năm (tương đương 6 triệu Mỹ kim).
Ngày 22/04/1952, Bảo Đại ký Sắc lệnh phong cho Bảy Viễn làm Thiếu tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ngày 30/04/1954, Bảo Đại gởi về một công điện, cử người phụ tá quân sự của Bảy Viễn là Lai Hữu Sang, làm Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Quốc gia. Nhưng theo tướng Edward G.Lansdale, một nguồn tin từ người Pháp cho biết, Bảo Đại thiếu tiền ăn chơi ở Riviera, đã về bán chức Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Quốc gia cho Bảy Viển với giá 44.000.000 đồng, tương đương với 1.250.000 USD.
Thấy Bảy Viễn là người có thế lực, tướng Hinh đã liên kết với Bảy Viễn để loại bỏ ông Diệm. Ngày 11/09/1954, Thủ tướng Diệm cho tướng Hinh nghỉ phép 6 tuần và rời khỏi xứ trong vòng 24 giờ.
Ngày 17/09/1954, ông Diệm ký Sắc lệnh số 84/CP cử tướng Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng thay Luật sư Lê Ngọc Chấn. Ngày 20/09/1954, tướng Xuân đã nhận chức và ra lệnh cho tướng Hinh phải rời khỏi Việt Nam. Cũng trong ngày hôm đó. 9 trong số 15 tổng trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm từ chức. Tướng Hình liền gởi một điện văn cho Bảo Đại yêu cầu cất chức ông Diệm.
Ngày 23/09/1954, Bảo Đại gởi cho ông Diệm một công điện đồng ý để cho ông Diệm được trút bỏ gắng nặng do lời hứa trung thành. Đây là một cách yêu cầu từ chức nhẹ nhàng. Bảo Đại cũng gởi cho Tướng Nguyễn Văn Xuân một công điện ủy quyền cho tướng Xuân lập chính phủ. Tướng Xuân đã vào trình công điện này cho ông Diệm xem. Ngay lập tức, Đại sứ Heath gởi một công điện cho Bộ Ngoại giao, đề nghị tiếp xúc với Bảo Đại và yêu cầu hủy bỏ hay tạm đình hoãn ý định thay thế ông Diệm. Thứ Trưởng Ngoại Giao Smith liền chỉ thị cho Đại Sứ Dillon cử người gặp Bảo Đại, yêu cầu Bảo Đại nên khuyến khích ông Diệm cầm quyền.
Sau nhiều cuộc tranh luận kéo dài, sáng 28/03/1955 Bình Xuyên đã pháo kích vào Dinh Độc Lập. Cuộc chiến bắt đầu. Nhưng với sự quyết tâm chiến đấu của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sự cộng tác của giáo phái Cao Dài, mưu lược của ông Ngô Đình Nhu và sự vận động khôn khéo và quyết liệt của Tướng Lansdale, Pháp đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, chính phủ đã dẹp tan được các lực lượng của phiếm quân, thống nhất quân đội, truất phế Bảo Đại và thành lập một chính quyền bản xứ mạnh với một chế độc độc đảng theo mô thức của Trung Hoa Quốc Dân Đảng Đài Loan để chống cộng theo như sự đòi hỏi của chính phù Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, sau khi chế độ miền Nam đã ổn định, Mỹ muốn đổ quân vào để mở một cuộc chiến mới, ông Diệm từ chổi, Mỹ đã tổ chức một cuộc đảo chánh và ra lệnh giết ông Diệm. Đây là một bài học lịch sử quan trọng mà các nước trên thế giới đã học được mỗi khi quyết định làm đồng minh với Mỹ.
Bảo Đại nhìn nhận việc ông Diệm phải làm
Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại tại California, Bảo Đại sang thăm Mỹ lần đầu tiên với tư cách cá nhân, ông Cao Xuân Vỹ có hỏi Bảo Đại : "Ngài nghĩ thế nào về việc ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Ngài ?" Bảo Đại trả lời : "Việc thế thì phải thế thôi. Pháp đã quyết định trước rồi !".
Trong một bài phỏng vấn được đăng trên tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn số 104, xuấn bản ở Burke, Virginia, ký giả Phan văn Trường hỏi Bảo Đại : "Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô Đình Diệm để rồi bị ống ấy lật Ngài ?" Bảo Đại trả lời ngay :
"Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía CS đã được Liên Xô tích cực ủng hộ về mọi mặt, nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để ngăn chận sự bành trướng của CS. Việc ông ta lật đổ tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là người yêu nước, lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa và ông rất mộ đạo, là phải giữ miền Nam và nếu ông không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả lại quyền cho tôi. Nhưng rồi ông ta chết khi thi hành nhiệm vụ. Dù sao ông ta cũng cố sức giữ những lời cam kết ấy mà không được".
Bảo Đại không hay biết gì về nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ truất phế ông.
Ngày 30/10/2018
Lữ Giang
Ông Lê Xuân Nhuận, một người chuyên đả kích Công giáo và chính phủ Ngô Đình Diệm, cho phổ biến cuốn "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Văn Bia trên diễn đàn của Phật Giáo (Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.), tôi đoán ngay anh này lại định chơi trò ném đá giấu tay nữa rồi, mượn Văn Bia để đánh phá. Quả đúng như vậy. Anh ta đã trích toàn những đoạn xuyên tạc lịch sử để bêu xấu ông Diệm và Công giáo. Đây là những chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Sách "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Lê Văn Bia
Những chuyện Văn Bia viết trong phần "IIa. Giai đoạn 1947…", như sau :
1. Chuyện ông Diệm ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế
Văn Bia viết :
"Riêng ở Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm đã nương thân trong nhà dòng Chúa Cứu Thế tại Huế trước khi tá túc trong nhà dòng ở Sài Gòn, và lần ở ngoài đó ổng đã lâm cảnh khốn đốn đến nỗi phải đội lốt ông già gánh cháo heo để thoát thân. Lần nào cũng vào lúc tôi có mặt tại chỗ mà không để ý" (trang 31)...
"Sau đó không bao lâu, cha Yến đưa tôi tới ông Diệm, nói là cụ Diệm muốn gặp tôi và cha khuyên tôi nên làm việc giúp cụ. Cuộc diện kiến diễn ra tại phòng ông Diệm trọ trong nhà dòng....
"Và càng ngạc nhiên hơn, là sau đó ông Diệm lại thâu dùng tôi, thường chuyện vãn với nhau thân mật. Nhiều lần ông còn nói với tôi :
- Anh làm thư ký cho tôi hỉ ?...".
Láo :
Ở Huế ông Diệm luôn ở nhà ông Ngô Đình Khả ở Phủ Cam chứ không bao giờ ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Gia đình ông Diệm thuộc loại giàu có ở Huế, có ruộng vườn làm nguồn lợi. Từ ngày ông thôi chức Thượng thư, đi đâu cũng đi bằng xe kéo có vài người đi theo. Ông Võ Văn Hải và ông Võ Như Nguyện thường được ông Diệm sai đi chuyện nọ chuyện kia. Ông Hải theo ông Diệm từ hồi còn làm Tuẫn Vũ, qua Pháp học đậu về Science Politique, trở về vẫn theo ông Diệm. Ông Võ Như Nguyện là giáo sư, từng giữ chức Giám Đốc Công An Trung Phần.
Ông Diệm chẳng bao giờ "lâm cảnh khốn đốn đến nỗi phải đội lốt ông già gánh cháo heo để thoát thân" như Văn Bia bịa đặt.
2. Chuyện ông Diệm ở Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn
Văn Bia viết :
"Nhà dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng Sài Gòn là nơi tôi gặp ông Ngô Đình Diệm lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một căn phòng nhỏ mà trước đó vài năm, chính tôi cũng đã có tạm trú đôi ngày, để chờ chuyến xe lửa ra Huế, đi học tu trở lại lần thứ hai…
"Ông Diệm ở ẩn trong một căn phòng, sống đời yên lặng của một tu sĩ, cũng luôn luôn mặc áo dài thâm quần trắng. Có ai tình cờ gặp chắc cũng tưởng đây là một người trong nhà dòng…
"Tôi hình dung cách ông được tiếp đãi ở đó giống như trước kia tôi đã hưởng qua trong mấy ngày, như vào giờ cơm được một thầy giúp việc mang ẩm thực đến, có chuông bấm gọi mỗi khi cần việc gì, v.v…
"Nhưng tôi nào biết nhà dòng cũng đang có cho ông Diệm nương náu, và cũng không rõ ông đã đến ẩn náu trong nhà dòng trước hay sau tôi… (các trang 21-22).
Láo :
Ngày 15/07/1944 mật thám Pháp bắt đầu đến vây nhà ông Khả ở Phủ Cam, Huế, để bắt ông Diệm, thấy chiếc xe kéo còn trước sân nên tin rằng ông Diệm vẫn còn trong nhà. Biết đang bị Pháp vây, trong nhà cho ông Trưng ra đứng bên xe giả như đang đợi đưa ông Diệm ra đi, rồi ông Diệm mặc bộ áo bà ba lụa cùng với ông Hoàng Văn Phẩm đi ra cửa sau phía đường Phan Châu Trinh và qua cầu Phủ Cam. Mật thám Pháp gác hai bên cầu, nhưng không nhận ra ông Diệm vì họ không ngờ ông đi bộ. Cả hai giả nói chuyện về làm vườn và đi đến phía nhà ông Lãnh sự Nhật gần Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Ông Phẩm cho biết ông Diệm đã vào nhà ông lãnh sự Nhật và ở đó ba ngày, rồi ngày 17/07/1944 Trung úy Kuga của Nhật đưa ông Diệm vào Đà Nẵng và lấy máy bay đưa ông Diệm đi Sài Gòn, rồi đưa ông đến ở trong trường Petrus Ký với vài nhà cách mạng khác, nơi đây đang bị Nhật chiếm làm căn cứ quân sự... Ít lâu sau, ông Diệm đi về Vĩnh Long ở với Giám mục Ngô Đình Thục, chớ không ở Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Chính Giám mục Thục đã tìm cách giúp ông Diệm liên lạc với các nhà cách mạng để thành lập các tổ chức chống Pháp.
Tháng 8 năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền ở Huế, các nhà cách mạng nhờ ông Diệm đi về Huế xem tình hình ra sao. Ông Diệm đi với ông Võ Văn Hãi đến Tuy Hòa thì vào cư ngụ tạm tại nhà Linh mục Đại. Việt Minh biết được đã đến bắt ông Diệm đưa ra Hà Nội. Võ Nguyên Giáp định đưa ông Diệm đi giam ở Tuyên Quang. Giám mục Lê Hữu Từ được tin đã đến can thiệp với Hồ Chí Minh. Ông Diệm được thả ra, đã lén về lại Vĩnh Long và tiếp tục hoạt động.
Giữa năm 1947, ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Tôn Hoàn thành lập Việt Nam Quốc gia Liên hiệp và ông Diệm thường về Sài Gòn họp. Mỗi lần lên Sài Gòn ông thường tạm trú tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Phải chăng đây là chuyện Văn Bia đã dựa vào đó để bịa đặt thêm ?
3. Chuyện ông Ngô Đình Diệm ở Mỹ
Văn Bia viết :
"Trong thời gian lưu vong ở Hoa Kỳ (1950-53), ông lặng lẽ sống suốt mấy năm nữa trong một nhà dòng khác, cũng làm người giúp việc khiêm nhường, hằng ngày lau quét dọn dẹp. Trong khi đó, ông vua cũ của ông là Bảo Đại lưu vong ở Hương Cảng rồi Pháp, sống đời trụy lạc".
Láo :
Để tránh sự theo dõi của Pháp, nhân dịp Năm Thánh năm 1950, ông Diệm và Dức Giám mục Ngô Đình Thục đã xin đi Roma dự Năm Thánh, nhưng khi đi lại đi vòng qua Nhật và Mỹ. Hai anh em ông Diệm đã đến Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1950, mang theo một giấy giới thiệu với Tổng Giám mục Paul Yu Pin, Viện Trưởng Học Viện Văn Hóa Trung Hoa ở Hoa Kỳ. Khi mới đến Hoa Kỳ, ông Diệm và Giám mục Thục đã cư ngụ tại Học viện Văn hóa Trung Hoa vài tháng và đi thăm nhiều nơi tại Hoa Kỳ.
Sau khi qua Roma dự Năm Thánh, ông Diệm đã đi một vòng viếng thăm Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ rồi trở lại Pháp, còn Giám mục Ngô Đình Thục trở về Việt Nam. Khi đó, ông Diệm đến cư ngụ tại nhà ông Tôn Thất Cẩn ở 28 Rue Kleynoff, 94250 Gentilly, Paris, phía sau khu Học Xá Đại Học Paris.
Vì ông liên lạc quá nhiều với các nhà cách mạng VN ở Pháp nên Pháp không muốn cho ông ở Pháp.
Không biết ai đã báo tin đó cho tu viện Mary Knoll ở New Jersey hay do một sự tình cờ, tu viện này đã viết thư mời ông Diệm trở lại Mỹ làm nhân viên giảng dạy đặc biệt cho tu viện, nên đầu năm 1951 ông Diệm trở lại Hoa Kỳ và lưu trú trong tu viện Mary Knoll ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey hay ở Ossining thuộc tiểu bang New York. Như vậy không thể có chuyện ông Diệm "cũng làm người giúp việc khiêm nhường, hằng ngày lau quét dọn dẹp" cho nhà dòng như Văn Bia bôi bác.
Kết luận
Cuốn "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Văn Bia cũng như cuốn "Trong lòng địch"của Trần Trung Quân hay cuốn "Giặc thầy chùa" của Đặng Văn Nhâm trước đó, chỉ là những tiểu luận được viết theo cảm tính (emotion), tức viết theo điều họ nghĩ ra hay "nghe nói" (hearsay)... chứ không căn cứ vào sử liệu. Luật học cũng như sử học không chấp nhận "nghe nói" như là bằng chứng (hearsay evidence is inadmissible). Nói cách khác, đây không phải là sách viết về lịch sử mà chỉ là sách viết về huyền thoại nhằm bôi bác và xuyên tạc lịch sử. Nhìn chung, cuốn sách này có giá trị thấp về cả hình thức lẫn nội dung.
Những câu chuyện nói về cuộc đời của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và các nhà cách mạng khác của Việt Nam trước 1975 đã được nhiều người viết và chúng tôi cũng đã ghi lại đầy đủ trong cuốn "Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam". Chúng ta không thể chấp nhận những chuyện bôi bác và xuyên tạc lịch sử như thế này được.
Ngày 10/10/2018
Lữ Giang
Về cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 chúng tôi đã viết nhiều bài đăng trên trên báo Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) cũng như phổ biến trên các diễn đàn trong các năm 2004 và 2007, căn cứ vào các tài liệu khác nhau. Nay một số độc giả trên Facebook đã yêu cầu chúng tôi nói rõ thêm về vai trò của Mỹ và nhóm Caravelle trong biến cố này. Điều này cho thấy độc giả bắt đầu nhận ra rằng chính Mỹ đã đứng đàng sau lèo lái toàn bộ cuộc chiến Việt Nam. Nếu không nắm vững chiến lược và chiến thuật của Mỹ, không thể hiểu được những chuyện đã xảy ra.
Cựu Đại sứ Eldridge Durbrow, người lèo lái cuộc đảo chánh 1960 thất bại - Ảnh 1979
Tài liệu căn bản cần tham khảo
Chúng tôi có khá đủ tài liệu của phía Mỹ cũng như Việt Nam liên hệ đến cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960, kể cả phúc trình điều tra của Đại tá Trần Khắc Kính, và đã viết một bài tổng kết 30 trang về biến cố này. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài được đưa ra, chúng tôi sẽ trình bày tóm lược dựa trên ba tài liệu chính sau đây :
(1) Foreign Relations of the United States, 1958-1960, Vietnam, Volume I, của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ.
(2) Bản cáo trạng (actes d’accusasion) mang số TTL 38.036 ngày 4/7/1963 của Ủy Viên Chính Phủ Tòa Án Quân Sự Cách Mạng. Đây là bản cáo trạng được Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một bị cáo, nhìn nhận rắng "phần trần thuật vụ án có lẽ dúng nhiều nhất với thực tế" (tr. 2818). Và phán quyết của tòa.
(3) Bộ "Việt sử khảo luận" của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, người tự nhận là một trong ba lãnh tụ của cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 gồm Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông và Hoàng Cơ Thụy. Bộ sách này xuất bản ở Pháp gồm 5 cuốn, dày đến 3238 trang nên rất ít người "vớ tới", kể cả những người viết sử. Biến cố 1960 được nói đến trong cuốn 5.
Khi Mỹ thay đổi chiến lược
Như chúng tôi đã nói trong bài "Khi Mỹ vẽ lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam", tháng 7 năm 1954, khi ông Diệm mới trở vế chấp chánh, Mỹ đã đưa Trung tá Lansdale, một viên chức OSS, đến giúp ông Diệm hình thành một chính quyền bản xứ mạnh (a strong indigenous government) để ổn định tình hình và loại bỏ chế độ cộng sản (to rid the country of communists). Những tiết lộ của Đại sứ Frederick Reinhardt và Trung tá Lansdale cho thấy Mỹ muốn ông Diệm hình thành một chế độ độc đảng giống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, Park Chung-hy (Phác Chánh Hy) ở Nam Hàn, Sukarno ở Nam Dương hay Lý Quang Diệu ở Singapore.
Đến năm 1957, Mỹ thay đổi chiến thuật, muốn đổ quân vào miền Nam để thực hiện mục tiêu của các nhóm tài phiêt quốc phòng là tiêu thụ hết lượng vũ khí tồn kho từ Thế chiến thứ II và thử nghiệm các loại vũ khí mới. Khi ông Diệm không đồng ý, Mỹ liền đưa ông Elbridge Durbrow đến làm Đại sứ thay thế ông Frederick Reinhardt để làm áp lực buộc ông Diệm phải thay đổi. Các tài liệu cho thấy một cuộc tranh luận gay cấn đã xẩy ra giữa Đại tá Lansdale và ông Durbrow, nhưng ông Durbrow cứ làm vì đó là lệnh của Washington.
Hình thành các tổ chức "xã hội dân sự"
Khi Mỹ muốn làm áp lực về vấn đề gì hay muốn thay đổi một chế độ, công tác đầu tiên là hình thành các tổ chức "xã hội dân sự" (civil society). Nghĩa thông thường của tổ chức dân sự là "nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung". Nấp dưới danh nghĩa đó, Mỹ yểm trợ thành lập và phát triển các tổ chức đối lập chống lại chính quyền sở tại. Ngày nay, các chính phủ có liên kết với Mỹ khi nghe Mỹ kêu gọi thành lập "xã hội dân sự" đều ở trong thế phòng vệ.
Sự xuất hiện của Đại sứ Durbrow làm giới đối lập tại miền Nam lên tinh thần. Ngày 6/5/1957, nhóm Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nghiêm Xuân Thiện và một số chính khách đã mở cuộc họp báo, tuyên bố thành lập Khối Liên minh dân chủ và xác định đây là một tổ chức đối lập hợp pháp với chính quyền. Sau đó tiến tới thành lập thành lập Khối Tự do tiến bộ quy tụ những chính khách nổi tiếng của miền Nam bất đồng ý kiến với chế độ.
1. Hình thành Khối Tự do tiến bộ (nhóm Caravelle)
Ông Trần Văn Văn cho biết vào tháng 3 năm 1960, theo lời mời của Bác sĩ Hồ Văn Nhựt, ông có đến hội kiến với một thương gia trong American Trading là ông Gouder. Đây là một nhân viên tình báo Mỹ hoạt động dưới hình thức một thương gia.
Cuộc hội kiến xoay quanh vấn đề thành lập những cơ cấu đối lập với chính phủ hiện hữu theo sáng kiến của ông Gouder. Tuy mọi người chưa biết nhiều về ông Gouder, nhưng biết ông ta quen biết nhiều ký giả và đại diện các hãng thông tấn ngoại quốc, nên muốn lợi dụng ông ta để phổ biến bản điều trần gởi Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Gouder có giới thiệu một số ký giả ngoại quốc. Ông Trần Văn Văn cũng có đi gặp một Mỹ kiều tên là Edward Chere để nhờ ông này vận động với chính quyền Mỹ tiếp tế cho dân chúng Đô thành và tìm cách kiềm chế bớt nhóm quân nhân.
Luật sư Trần Văn Tuyên cho biết vào khoảng tháng 5 năm 1960, ông Trần Văn Văn có mời một số người đến dự một cuộc họp tại nhà hàng Sinh Ký để thành lập Khối Tự do tiến bộ và bầu Ban thường vụ của khối. Vì nhóm này thường họp tại nhà hàng Caravelle nên được gọi là Nhóm Caravelle. Thành phần của Ban thường vụ được bầu gồm những nhân vật sau đây : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương, Trần Văn Lý, Phan Huy Quát và Trần Văn Tuyên. Ông Phan Khắc Sửu được bầu làm đại diện tinh thần của nhóm, thường được gọi là Trưởng khối. Hàng tuần Ban thường vụ họp một lần tại nhà ông Phan Huy Quát hay ông Nguyễn Lưu Viên.
2. Hoạt dộng của Khối Tự do tiến bộ
Do sự vận động của Khối Tự do tiến bộ, ngày 26/4/1960, 18 nhân vật miền Nam họp tại nhà hàng Caravelle và đưa ra một bản tuyên ngôn yêu cầu "chính quyền thay đổi gấp chính sách để cứu vãn tình thế..." và xây dựng một quốc gia "thanh bình và thịnh vượng trong tự do và tiến bộ". Nhóm này gồm các nhân vật chính sau đây : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và Linh mục Hồ Văn Vui.
Trên đây chỉ là mặt nổi. Bên trong, Nguyễn Bảo Toàn và một số đàn em, nhất là Tạ Chí Diệp, Phan Thông và một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đưa ra kế hoạch lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong cuộc họp tại nhà hàng Caravelle nói trên, Tạ Chí Diệp là người thuyết trình và điều khiển chương trình.
Tháng 6 năm 1960, Khối Tự do tiến bộ đã đệ trình Tổng thống Diệm hai bản kiến nghị yêu cầu ban hành tự do báo chí và chấm dứt việc bắt người trái phép. Sau đó, khối đã mở một cuộc họp báo tại nhà ông Trần Văn Đỗ để phổ biến bản kiến nghị này. Cuối tháng 7 năm 1960, Khối Tự do tiến bộ lại trình lên Tổng thống thư điều trần yêu cầu ngưng việc thành lập Khu trù mật.
Vào tháng 8 năm 1960, một số nhân vật trong Khối gồm các ông Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ, Phan Huy Quát và Trần Văn Tuyên đã góp tiền cho Phan Thông tổ chức một cuộc biểu tình chống chính phủ vào ngày 22/8/1960 tại Sài Gòn.
Âm mưu đảo chánh
Luật sư Hoàng Cơ Thụy tiết lộ rằng một hôm vào cuối tháng 10 năm 1960, ông có ướm hỏi ông George Carver, một nhân viên trung cấp Mỹ của CIA : "Nếu một nhóm người quốc gia chống cộng lật đổ được ông Diệm, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ có ủng hộ chính phủ Việt Nam mới đó hay không ?". Sau khi về hỏi thượng cấp, ông Carver đã trả lời : "Nếu nhóm ấy cướp hẵn được chính quyền ở Sài Gòn và thiết lập một chế độ thật sự dân chủ, thì Hoa Kỳ sẽ ủng hộ".
Theo Luật sư Thụy, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, Trung tá Vương Văn Đông và ông được coi như là nhóm tổ chức và lãnh đạo cuộc đảo chánh. Đại tá Nguyễn Chánh Thi chỉ mới được kéo vào sau khi cuộc đảo chánh đã được tiến hành. Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, đảng viên Đảng Đại Việt, là cháu của Luật sư Thụy. Luật sư Thụy cho biết sự liên lạc giữa ba người kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1960, nhưng cơ quan an ninh của chính phủ không hề hay biết. Nơi liên lạc thường là văn phòng của ông ở 81 đường Nguyễn Du, Quận 1, Sài Gòn, và có khi ngồi bàn trên xe đang chạy.
Các thành phần sẽ tham gia chính phủ mới gồm có Phan Khắc Sửu, Phan Bá Cầm, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Bảo Toàn, Bùi Lượng, v.v.
Tiến hành cuộc đảo chánh
Mặc dầu có những khó khăn, lệnh tấn công và chiếm giữ các mục tiêu trong Đô thành được thực hiện từ 3 giờ đến 3 giờ 30 sáng 11/11/1960. Các lực lượng đã được huy động để tham gia đảo chánh gồm có : 4 tiểu đoàn Nhảy dù, 3 đại đội Nhảy dù biệt lập, tiểu đoàn 3 Thủy quân lục chiến, 1 Đại đội Quân cảnh Quân khu Thủ đô và Tiểu đoàn 27 Pháo binh.
Các báo cáo liên tục gởi về Washington trong hai ngày 11 và 12/11/1960. Có nhiều báo cáo không chính xác, nó chỉ là những thứ "fake news" được dùng để đánh lừa Bộ ngoại giao.
Lúc 7 giờ ngày 11/11/1960, Đại sứ Durbrow đã gởi cho Bộ ngoại giao một công điện báo cáo sơ lược về tiến trình của cuộc đảo chánh. Ông cho biết Trung tá Vương Văn Đông, người lãnh đạo cuộc đảo chánh và các tướng lãnh đang thành lập chính phủ như Xuân, Chiểu, Big Minh, Đôn và Kim... Ông nói giả thiết những thông tin nói trên là đúng, ông định đưa ra lời tuyên bố với tư cách cá nhân rằng chính phủ mới đã lên cầm quyền ở Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ sẽ có những sự hợp tác chặt chẽ với chính phủ này, v.v. Ông đề nghị "Bộ soạn thảo một cách nhanh chóng để biểu lộ một cách công khai Hoa Kỳ ủng hộ tân chính phủ…".
Một công điện của ông Toland, Tùy viên không quân tại Việt Nam gởi cho ông White, Tham mưu trưởng không quân Hoa Kỳ lúc 11 giờ 55 đêm 11/11/1960 báo cáo rằng lúc này cuộc đảo chánh xem ra đang tiến bộ. Cuộc đảo chánh được nhóm phản loạn thực hiện tốt. Công điện viết : "AIRA tin rằng Diệm sẽ đầu hàng loạn quân hay sẽ tự sát trước khi đêm xuống" (It AIRA belief Diem will captulate to rebels or commit sucide before nightfall) !
Trong khi đó, sáng 11/11/1960, Trung tá Vương Văn Đông, người chỉ huy cuộc đảo chánh, cho biết Trung tá Nguyễn Triệu Hồng đã bị bắn chết và ông nhận được báo cáo của Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc cho biết không thể chiếm Dinh Độc Lập được vì bị kháng cự quá mạnh và không có thiết giáp yểm trợ. Thiếu tá Lộc xin tiếp viện. Điều này chứng tỏ những tin nói trên là không đúng.
Lúc 2 giờ 02 phút sáng ngày 12/12/1963, Bộ ngoại giao đã trả lời công điện số 775 của Tòa Đại sứ Sài Gòn, nói rằng nếu tình hình quả đúng như vậy thì có thể công bố tuyên bố cá nhân như đã nói, nhưng sửa đổi một số điểm, xác định "chính phủ mới mạnh mẽ chống cộng" và "chúng tôi tìm cách tiếp tục những sự quan hệ tốt với dân chúng và chính phủ Việt Nam".
Nhưng tình hình không tốt đẹp như Đại sứ Durbrow đã báo cáo.
Cuộc đảo chánh thất bại
Luật sư Thụy cho biết, vào khoảng 11 giờ ngày 12/11/1960, Sư đoàn 21 của tướng Trần Thiện Khiêm từ miền Tây kéo về bao vây và yêu cầu quân đảo chánh đầu hàng. Vương Văn Đông đến nhà tướng Mc Garr, Trưởng phái bộ Viện trợ quân sự (MAAG) yêu cầu tướng này và Đại sứ Durbrow thúc đẩy ông Diệm điều đình với Hội đồng cách mạng, nếu không sẽ đi tới đổ máu rộng lớn giữa quân đội. Để cứu nhóm đảo chánh, Đại sứ Durbrow đã yêu cầu ông Diệm, nhưng ông Diệm đã không làm theo ý ông Đại sứ.
Một sĩ quan Hoa Kỳ được Tòa Đại sứ Mỹ phái đến cạnh Hội đồng cách mạng từ chiều 11/11/1960 để theo dõi, cho biết một đơn vị thiết giáp đang tiến về Bộ Tổng tham mưu, quân đảo chánh đang bị bao vây. Thấy không thể cầm cự được, các sĩ quan tổ chức đảo chánh như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu… chạy về phía phi trường Tân Sơn Nhứt để tìm máy bay đi ra ngoại quốc.
Luật sư Hoàng Cơ Thụy cho biết ông cùng với vợ và đứa con trai tên Đức 15 tuổi đến trốn tại nhà ông Bùi Văn Lượng. Đến 20 giờ ngày 13/11/1960, lợi dụng trời tối, ông và đứa con trai đi xe taxi đến nhà ông bà Carvet ở đường Phan Đình Phùng. Nghe bấm chuông, bà Ruth, vợ ông Carver cầm súng lục ra xem, nhưng thấy Luật sư Thụy bà liền mở của cho ông vào, còn đứa con trở lại nhà ông Bùi Văn Lượng báo tin cho mẹ biết. Sau đó, người Mỹ đã đưa ông đến ở một ngôi biệt thự bỏ trống ở đường Ngô Đình Khôi và thỉnh thoảng lại thay đổi địa chỉ. Thường ông phải nằm trong một chiếc áo quan. Hôm 2/12/1960, ông có lén về nhà nhưng vợ ông đã đi trốn ở Chợ Lớn.
Hôm 4/12/1960, người Mỹ đã cho ông ngồi bó gối trong một bao bố lớn, cột dây lại thành một kiện hàng ngoại giao (une valise diplomatique), ôm lên xe rồi đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, đẩy lên một chiếc phi cơ quân sự của Mỹ và đưa ra khỏi Việt Nam.
Trước Tòa án quân sự đặc biệt
Bản cáo trạng của Ủy viên Chính thủ Tòa án quân sự đặc biệt cho biết ngoài một số sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều nhân vật thuộc hai Khối Liên minh dân chủ và tự do tiến bộ (tức nhóm Caravelle) đã tham gia cuộc đảo chánh này.
Ngày 11/7/1963, Tòa án quân sự đặc biệt đã xét xử 35 bị cáo dân sự liên quan đến cuộc đảo chánh : 20 người bị án cấm cố, trong đó có các ông Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Lê Kiên tự Bùi Lượng, Nguyễn Chữ, Trương Bảo Sơn, v.v. Có 14 người được tha bổng, trong đó có Trung tướng Nguyễn Thành Phương, ông bà Đinh Xuân Quảng, bà Trần Thị Kim Dung, v.v. Ông Nguyễn Tường Tam (đã uống thuốc độc tự tử hôm 7/7/1960) được tuyên bố vô tội. Đại úy Ủy viên chính phủ nói ông Nguyễn Tường Tam chỉ bị lợi dụng.
Ngày 12/7/1960, Tòa án quân sự đặc biệt đã xử khiếm diện 9 quân nhân và dân sự liên hệ đến cuộc đảo chánh : Tòa tuyên án tử hình Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, các Thiếu tá Trần Văn Đô, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Huy Lợi, Phạm Văn Liểu, Nguyễn Quốc Tuấn, Luật sư Hoàng Cơ Thụy và ông Nguyễn Bảo Toàn.
Những "độc chiêu" tiếp theo
Vì Đại sứ Durbrow có nhiều tai tiếng trong vụ đảo chánh 1960, ngày 15/3/1961 Tổng thống Kennedy đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay thế ông Durbrow.
Cuộc họp mặt giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson ngày 9/5/1961
Phó Tổng thống Johnson đến Sài Gòn ngày 9/5/1961 yêu cầu Tổng thống Diệm cho Mỹ đổ quân Mỹ vào Việt Nam.
Sau cuộc đảo chánh 1960, Tổng thống Diệm rất tín nhiệm tướng Trần Thiện Khiêm và cho làm Tham mưu trưởng Liên quân. Mỹ liền tuyển mộ Khiêm làm nhân viên CIA.
Dùng lá bài các tổ chức đấu tranh chính trị năm 1960 thất bại, Mỹ quay qua dùng lá bài tôn giáo. Với một nước có trình độ văn hóa thấp như Việt Nam, Mỹ nghĩ đến việc sử dụng Phật giáo bằng cách kích động lòng hận thù tôn giáo, vì ông Diệm là người Công giáo. Chỉ cần tạo ra vụ nổ trước đài phát thanh Huế và vụ thiêu sống Thích Quảng Đức ở Sài Gòn, Mỹ đã đưa lòng hận thù tôn giáo của Phật giáo lên cao và làm cho tình hình trở nên căng thẳng, Mỹ liền ra lệnh cho tướng Trần Thiện Khiêm làm đảo chánh, chế độ Ngô Đình Diệm đã biến mất.
Có một điều rất quan trọng mà Khối Liên minh dân chủ, Khối Tự do tiến bộ, Giáo hội Phật giáo Ấn Quang và Đảng Việt Tân đều không biết, đó là sau khi làm công cụ cho Mỹ để phá sập một chế độ rồi, Mỹ cũng như cộng sản, sẽ không bao giờ dùng "trí, phú, địa, hào" để lãnh đạo đất nước, vì đó là những thành phần không thể sai khiến được. Mỹ cũng như cộng sản chỉ dùng đám "bần cố nông" (i-tờ-rít về chính trị) để dễ sai bảo như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu hay Đặng Văn Quang mà thôi.
Trên đây là những biến cố mà Đảng cộng sản Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã rút được bài học lịch sử để phòng thân, trong khi người Việt đấu tranh vẫn còn cầm cờ đứng nhìn ngơ ngác !
Ngày 9/11/2017
Lữ Giang
Thấm thoát mà đã 54 năm kể từ biến cố ngày 1/11/1963, một số tướng tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã làm cuộc đảo chánh quân sự và sát hại Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, trong cương vị cố vấn chính trị. Mặc dầu lịch sử đã sang trang, song những di hại khởi đi từ biến cố này đã là một trong những nguyên nhân đưa đến thực tế tồi tệ hôm nay : Miền Nam tự do mất vào tay Việt cộng, nhân dân Việt Nam trên cả nước đã phải sống dưới ách một chế độ độc tài toàn trị cộng sản đã 42 năm qua (1975-2017) và vẫn đang phải tiếp tục sống dưới chế độ tàn hại này chưa biết đến bao giờ.
Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Chính vì vậy mà nhiều người, trong đó có chúng tôi tự hỏi : Nếu như ngày ấy Tổng thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, Việt Nam có tránh được thực tế ngày càng tồi tệ như hôm nay không ?
Bài viết lần lượt trình bày :
I. Từ một biến cộng sản lịch sử
Lịch sử ghi nhận rằng, ngày 1/11/1963, với sự gợi ý, cho phép và ngầm hỗ trợ, cam kết của chính phủ Hoa Kỳ, một nhóm tướng tá Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã thành công trong việc đảo chánh lật đổ và sát hại Tổng thống Ngô Đình Diệm, đưa đến sự cáo chung nền Đệ Nhất chế độ Việt Nam Cộng Hòa (1956-1963), khai sinh nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa (1963-1975) tại Miền Nam Việt Nam. Cuộc đảo chánh quân sự này đã đưa đến cái chết bi thảm cho vị Tổng thống tiên khởi của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, vốn có tiếng là thanh liêm chính trực, có đạo đức và tác phong lãnh đạo. Cùng bị sát hại với Tổng thống là bào đệ Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị của Tổng thống, một nhà chính trị uyên thâm, mưu lược và có viễn kiến.
Lý do mà các tướng tá làm đảo chánh đưa ra là vì chế độ Ngô Đình Diệm là chế độ độc tài gia đình trị, chủ trương tiêu diệt đối lập chính trị, kỳ thị và đàn áp tôn giáo ; lại có âm mưu trực tiếp thương lượng với chế độ cộng sản Bắc Việt về một giải pháp chính trị cho Việt Nam (1), làm cho công cuộc chống cộng sản ở Miền Nam có thể bị lâm nguy. Vì vậy cần phải lật đổ chế độ Diệm để có điều kiện củng cố phát triển một chế độ dân chủ đích thực tại Miền Nam ; để công cuộc chống cộng ở Miền Nam hữu hiệu và bảo đảm cho chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa quốc gia ở Miền Nam đối với ngụy nghĩa cộng sản Bắc Việt.
Thế nhưng, thực tế những tháng năm sau đó đã cho thấy nhiều lý do ngụy tạo hay xuyên tạc (2) và các mục tiêu cuộc đảo chánh đưa ra đã không thực hiện được : Chế độ dân chủ đích thực ở Miền Nam đã không củng cố và phát triển được sau đảo chánh mà đôi lúc còn tệ hại hơn nhiều so với chế độ"độc tài gia đình trị" trước đó ; công cuộc chống cộng bảo vệ Miền Nam đã không hữu hiệu và bảo đảm hơn cho chiến thắng cuối cùng ; mà đảo chánh đã mở đầu cho một giai đoạn suy thoái chính trị, suy yếu quân sự và suy đồi toàn diện ở Miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho đối phương cộng sản Bắc Việt thôn tính Miền Nam.
II. Đến một giả định lịch sử
Đứng trước một thực trạng đất nước ngày một suy đồi toàn diện, kể từ sau ngày đảo chánh lật đổ, sát hại Tổng thống Diệm ; nhất là thảm trạng ngày nay khoảng hơn 90 triệu nhân dân Việt Nam đã và đang phải sống dưới ách chế độ độc tài toàn trị Việt cộng, nhiều người đã tỏ ra nuối tiếc rằng : Nếu như ngày ấy Tổng thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, tình hình Miền Nam Việt Nam phải khác, không thể có ngày 30/4/1975 và lịch sử Việt Nam đã biến chuyển theo một chiều hướng khác, tốt đẹp hơn cho đất nước và dân tộc Việt. Vì sao ?
1. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam sẽ được cải thiện từng bước, ngày một vững mạnh và tồn tại cho đến hôm nay.
- Vì cái tội "độc tài gia đình trị" nếu có thì không thể lớn hơn sự sống còn của Miền Nam Việt Nam trước hiểm họa cộng sản và hoàn toàn có thể cải sửa được bằng phương cách khác hơn. Chẳng hạn, dưới áp lực gia tăng vừa đủ của Hoa Kỳ, đồng minh, đòi hỏi chính đáng của các chính đảng quốc gia và quần chúng sẽ buộc được Tổng thống Diệm phải thay đổi, sửa chữa các nhược điểm. Người ta tin rằng, một nhà lãnh đạo tài đức với tâm địa "Tiết-Trực-Tâm Hư", hết lòng lo cho dân cho nước như Tổng thống Diệm ; bên cạnh lại có một cố vấn mưu lược là bào đệ Ngô Đình Nhu, và nhiều người tài đức khác trong chính quyền, sớm muộn gì các nhược điểm của cá nhân và chính quyền của Tổng thống Diệm sẽ được điều chỉnh, sửa sai.
2. Chính trường Miền Nam sẽ dần dần ổn định, đối lập chính trị có tiếng nói, chế độ được dân chủ hóa theo một tiến trình phù hợp với tình trạng đang có chiến tranh với VC, niềm tin của dân với chính quyền và sức mạnh đoàn kết quân dân ngày một củng cố tạo thế và lực đương đầu thắng lợi với quân cộng sản Bắc Việt xâm lăng.
- Với phương thức cải sửa "Độc tài gia đình trị" ôn hòa, có thời gian và hữu hiệu, Miền Nam Việt Nam sẽ tránh được bất ổn, xáo trộn nghiêm trọng như đã xẩy ra sau đảo chánh. Các tướng tá quân đội thì mải mê tranh giành quyền lực, bỏ ngỏ chiến trường, nếu lúc đó quân đội Hoa Kỳ không nhẩy vào thì Miền Nam đã lâm nguy. Thêm nhiều đảng phái được thành lập không phải để tạo thế và lực mới cho mục tiêu chống cộng mà chỉ cốt để có bảng hiệu, kết bè phái tranh thầu chống cộng hoặc chia chác quyền hành với phe nhóm được Hoa Kỳ chấp nhận cho "Trúng thầu chống cộng".
- Thượng tầng kiến trúc chế độ Miền Nam sau đảo chánh thì băng hoại như vậy, hạ tầng cơ sở chống cộng thì bị phá đổ nhiều mảng, ví như quốc sách "Ấp Chiến Lược" dù có cố gắng đổi tên thành "Ấp Tân Sinh" vẫn không tránh khỏi tan rã. Quần chúng nhân dân thì bị phân hóa bởi óc kỳ thị địa phương, tôn giáo chống phá lẫn nhau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần đoàn kết và sức mạnh chiến đấu của quân dân Miền Nam ; nhất là lực lượng chủ lực là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tựu chung Miền Nam Việt Nam sau đảo chánh đã suy đồi toàn diện, rơi vào tình trạng tự do vô tổ chức, vô chính phủ…
3 - Chính nghĩa đấu tranh của nhân dân Việt Nam sẽ ngày một sáng ngời trong nhân dân và trên trường quốc tế.
- Vì đảo chánh rồi, quân Mỹ ồ ạt kéo vào trực tiếp tham chiến chống cộng. Hoa Kỳ trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, cuộc chiến đấu cho chính nghĩa Dân Chủ, Tự Do và độc lập Dân tộc của chính quyền và quân dân Miền Nam bị đối phương xuyên tạc trong nhân dân hai miền để kích động lòng ái quốc chống ngoại xâm ; tuyên truyền trên trường quốc tế để cô lập chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Đây là điều Tổng thống Diệm cấm kỵ từ lâu và đã có hành động cản ngăn ngay cả việc Hoa Kỳ muốn mở rộng lực lượng "Cố vấn Mỹ" trong các cấp chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Điều này sẽ không xẩy ra nếu còn Tổng thống Diệm. Và cũng vì muốn bảo vệ chủ quyền của một quốc gia độc lập mà Tổng thống Diệm đã bị lật đổ và sát hại thảm thương như thế đó.
Nói cách khác, nếu không thì chính nghĩa đấu tranh của chính quyền và quân dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ bảo đảm cho thắng lợi sau cùng. Vì đó là chính nghĩa quốc gia dân tộc dân chủ tất thắng ngụy nghĩa cộng sản quốc tế phi dân tộc, phản dân chủ. Cuộc chiến tranh phi nghĩa của công cụ cộng sản Bắc Việt nhằm nhuộm đỏ Miền Nam chắc chắn bị tàn lụi, ý chí xâm lăng của tập đoàn tay sai cộng sản quốc tế là Cộng đảng Viêt Nam sẽ bị đập tan, một khi chính nghĩa quốc gia dân tộc dân chủ sẽ cho nhân dân hai miền thấy rõ đâu là chính (Việt quốc) đâu là tà (Việt cộng). Thực chất của cái gọi là "Cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước trong Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc" mà cộng sản Bắc Việt lúc bây giờ tuyên truyên lừa mị sẽ bị vạch trần trước nhân dân và công luận thế giới. Một khi nhân dân biết rõ mặt thật, Việt cộng sẽ không còn huy động được "sức người, sức của" để làm "Chiến tranh giải phóng Miền Nam" ; lại bị cô lập trên trường quốc tế, bị quân dân Miền Nam đánh trả quyết liệt, với sự hỗ trợ tích cực, hữu hiệu của nước bạn đồng minh Hoa Kỳ (theo đúng nghĩa) và hậu thuẫn quốc tế, cộng sản Hà Nội sẽ không còn con đường nào khác là phải rút về cố thủ Miền Bắc, như cộng sản Bắc Hàn đã làm sau khi cuộc xâm lăng Nam Hàn năm 1950-1953 bị liên minh Hoa Kỳ và đồng minh dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc đánh bại.
4 - Sau cùng, nếu Miền Nam không muốn "Bắc tiến" để giải phóng Miền Bắc như chủ trương của các chính quyền quốc gia để tránh đổ máu, thì ít ra cũng duy trì được tình trạng tạm thời qua phân như Bắc Hàn và Nam Hàn hiện nay, để chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hòa bình, bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa giầu mạnh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài đảng trị cộng sản nghèo yếu ở Miền Bắc.
Đó chính là cơ may đã dến với dân tộc Đức quốc năm 1989, đã thống nhất đất nước một cách hòa bình, với phần ưu thắng của Tây Đức dân chủ giầu mạnh trên Đông Đức độc tài cộng sản nghèo yếu, để có một Nước Đức thống nhất trong một chế độ dân chủ ngày nay. Việt Nam nhất định đã có được tình trạng song song tồn tại hai chế độ đối nghịch trên hai Miền Đất nước như Nam-Bắc Triều Tiên ngày nay, nếu Tổng thống Diệm không bị lật đổ và sát hại.
Điều này không có nghĩa là chỉ có Tổng thống Diệm mới tạo cho Đất nước có được tình trạng và chiều hướng phát triển tốt đẹp như thế. Và cũng không có nghĩa là Tổng thống Diệm sẽ tồn tại lâu dài trong ngôi vị lãnh đạo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho đến hôm nay. Đến một lúc nào đó, Tổng thống Diệm phải được thay thế và cần thiết phải thay thế cho phù hợp với thể chế dân chủ, nhưng không phải và chưa phải vào thời điểm năm 1963.
Càng không phải và không cần thay thế Tổng thống Diệm bằng bạo lực và sát hại tàn bạo một nhà ái quốc như thế, mà xét ra trong chín năm cầm quyền đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho dân, cho nước, dù cũng có những sai lầm, khiếm khuyết về lãnh đạo .Tuy nhiên vẫn có thể cải sửa bằng phương pháp dân chủ và phải để cho ông có đủ thời gian cải sửa, đặt nền móng cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa vững mạnh về chính trị, kinh tế, ổn định xã hội, tiến tới tự túc tự cường vừa chiến đấu, vừa phát triển, như chủ trương tự túc tự cường (tam túc, tam giác) mà Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu dự hoạch thực hiện nhằm chống lại áp lức ngày một gia tăng của Hoa Kỳ, tạo thế lực bảo vệ chủ quyền quốc gia.
III. Kết luận
Tựu chung, nếu không có cuộc đảo chánh quân sự lật đổ và sát hại Tổng thống Diệm vào ngày 1/11/1963, chắc chắn cộng sản Bắc việt đã không cưỡng đoạt được Miền Nam vào ngày 30/4/1975, xô đẩy nhân dân Việt Nam trên cả hai miền đất nước vào một thảm trạng trong hòa bình : Cả nước trong một thời gian dài đã phải sống đói nghèo cơm áo, đói nghèo tự do dưới chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam ; nhiều người dân đã phải trốn chạy bỏ nước ra đi tìm tự do bằng mọi cách và bằng mọi giá, kể cả mạng sống, nhiều người đã chết trong lòng biển cả hay rừng già biên giới trên đường tìm tự do.
Nếu không có đảo chánh lật đổ và sát hại cố Tổng thống Diệm, chế độ tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại ở Miền Nam Việt Nam cho đến hôm nay, và triển vọng thống nhất đất nước bằng sự tất thắng chế độ độc tài phản dân chủ cộng sản Bắc việt, đã phải là một tất yếu, sớm muộn chỉ còn là vấn đề thời gian.
Houston, Ngày 1/11/2017
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 04/11/2017
Chú thích :
(1) và (2) : Sự thật về việc cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu bí mật tiếp xúc với Phạm Hùng của cộng sản Bắc Việt, theo nhận định của chúng tôi có thể chỉ là "động tác giả", để gián tiếp cảnh cáo Hoa Kỳ đừng xâm phạm chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa quá sâu và áp lực ngày càng nặng nề trên chính quyền Ngô Đình Diệm, nếu không họ sẽ nói chuyện thẳng với cộng sản Bắc Việt về một giải pháp giữa người Việt Nam cho vấn đề Việt Nam.
Thực tế những tài liệu khả tín từ nhiều phía sau này cho thấy nội dung cuộc tiếp xúc bí mật mà không bí mật này (CIA có biết) không có gì làm mất Miền Nam vào tay cộng sản Bắc Việt sớm hơn như nhiều người lầm tưởng đưa ra như là lý do cần phải loại trừ Diệm-Nhu.
Sau đây là lời của Ông Cao Xuân Vỹ, một người thân cận của Ông Nhu đã tháp tùng chuyến đi gặp Phạm Hùng của Ông Nhu, trước khi chết đã trả lời câu hỏi thứ 19 trong một cuộc phỏng vấn của Phong Trần, tác giả bài viết "Cao Xuân Vỹ - "LỜI NÓI CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TRƯỚC KHI CHẾT" như sau (Xin trích nguyên văn) :
"19. Hỏi : Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không ?
Đáp : Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì ? Ông Nhu trả lời : đó chỉ là chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn :
-Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do.
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn.
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi : Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy "mình" phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng…".
Năm 963 khi vua Ngô Xương Văn (tự là Nam tấn Vương) bị sát hại, Việt Nam rơi vào cảnh hỗn loạn Thập nhị sứ quân.
Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm : con trai ông là Ngô Xương Văn, tức Nam Tấn Vương đã cầm quyền được 15 năm rồi bị bắn chết ở vùng nay là Sơn Tây
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược, nhà sử học Trần Trọng Kim viết : "Thế lực nhà Ngô bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc giã nổi lên khắp mọi nơi. Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái-Bình, không may bị tên bắn chết".
Sau khi vua Ngô Xương Văn chết đi thì "Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm... Trong số này có Tướng của thời nhà Ngô tên là Đỗ Cảnh Thạc cũng giữ một chỗ, xưng là Sứ quân".
Năm 1963 - đúng 1.000 năm sau, một nhà Ngô nữa bị sát hại và cảnh Thập nhị sứ quân lại tái diễn.
Tướng Charles de Gaulle đã từng nói "Après moi le deluge" (Sau ta là hồng thủy).
Tuy không nói ra nhưng chắc Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã nghĩ 'Sau ta là bão tố'.
Cơn lốc chính trị, quân sự, xã hội tại Miền Nam sau ngày đảo chính đã tàn phá Miền Nam đến mức nào thì nhiều độc giả (cao niên) còn nhớ.
Tình trạng rối ren ở Sài Gòn đã ảnh hưởng sâu xa tới tình hình quân sự. Trong một điện tín gửi về Washington, Đại sứ Henry Cabot Lodge đã kèm theo luôn một báo cáo của đại diện USOM ở tỉnh Long An (ngày 7 tháng 12, 1963) nói về tình hình an ninh suy giảm quá mạnh.
Rồi ông phàn nàn : "Tôi thật bối rối vì thấy thiếu quyết tâm chiến đấu : các thành viên của tập đoàn tướng lãnh cho tôi những câu trả lời thật tuyệt vời và rõ ràng, và nói cái gì cũng hay hết, nhưng những việc gì đang xảy ra thì chẳng có là bao nhiêu".
Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo ! Chỉ một tháng trước đó, vài ngày sau đảo chánh, ông Lodge đã báo cáo về Washington :
"Chúng ta không nên bỏ qua mà không để ý tới ý nghĩa của cuộc đảo chánh, đó là nó sẽ có thể giúp rút ngắn cuộc chiến này để cho người Mỹ được sớm trở về nuớc mình".
Nếu như tình hình ở Miền Nam bất ổn thì vào thời điểm này, tình hình chính trị tại Hoa Kỳ cũng trở nên phức tạp.
Đúng ba tuần sau cái chết của Tổng thống Diệm thì Tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas. Phó Tổng thống Lyndon Johnson lên kế vị.
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson (trái) và Tổng thống JF Kennedy (phải) đón Thủ tướng Nehru của Ấn Độ thăm Hoa Kỳ
Cơn khói lửa bùng lên
Ngay từ lúc còn làm Phó cho Tổng thống, ông Johnson đã cố vấn cho Tổng thống Kennedy rằng "Nếu chúng ta buông xuôi tại vùng Đông Nam Á thì phải rút tuyến quốc phòng của Hoa Kỳ về tận San Francisco".
Lên chức tổng thống, việc đầu tiên ông làm là tham khảo đại sứ Cabot Lodge về Việt Nam. Ông Lodge báo cáo về tình hình đen tối tại Sài Gòn.
Sau đảo chính, bây giờ lại khó khăn, rối ren hơn nhiều, và lãnh đạo ở Sài Gòn lại đang có khuynh hướng đi về hướng chính sách 'trung lập'.
Ông Lodge kết luận là cần phải có ngay những quyết định hết sức khó khăn "và Ngài phải lấy những quyết định ấy". Tổng thống Johnson tuyên bố không lưỡng lự :
"Tôi sẽ không để mất Việt Nam, tôi sẽ không là người Tổng thống đầu tiên để cho Đông Nam Á sụp đổ giống như lục địa Trung Hoa đã sụp đổ".
Ngày 8 tháng 3, 1965 thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng.
Cuộc chiến khói lửa bắt đầu bùng nổ.
Các góc cạnh của đảo chính
Về bối cảnh đưa tới đảo chính thì chúng tôi đã đề cập trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) dựa trên các chứng cớ là các văn kiện được giải mật ngày 13 tháng 6, 2011. Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại vài nét đại cương.
1960 - Bước ngoặt của bang giao Việt - Mỹ
Sau năm năm vàng son vừa phát triển vừa hòa bình (1955-1960), tình hình quân sự và chính trị Miền Nam bắt đầu chuyển hướng vào năm 1960.
Về quân sự thì lực lượng cộng sản đã bắt đầu tấn công vùng đồng bằng với những trận đánh vào dịp Tết tại Bến Tre và Tây Ninh ở tây bắc Sài Gòn. Về chính trị thì chính phủ Diệm càng ngày càng bị chỉ trích là độc tài, phe đảng và tham nhũng.
Cuối mùa Xuân 1960 một nhóm nhân sĩ họp ở Khách sạn Caravelle nhau kiến nghị Tổng thống Ngô Đình Diệm phải cải tổ toàn bộ chính phủ và chính sách ("Tuyên ngôn Caravelle"), nhưng ông Diệm cho rằng có Mỹ đứng đàng sau giật giây vì khuyến nghị này lại giống y như những lời cố vấn của Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow.
Sau này, ông Durbrow đã xác nhận là chuyện này có thật.
Tới mùa Thu 1960 thì có đảo chính : đạn bắn vào ngay phòng ngủ của Tổng thống Diệm. Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cố vấn ông nên điều đình với phe đảo chính. Sau khi đảo chính thất bại, Durbrow lại khuyên ông nên khoan hồng cho những sĩ quan liên quan.
Thế là từ bấy giờ giữa Dinh Độc Lập và Tòa Đại sứ Mỹ thì cơm chẳng còn lành và canh cũng chẳng còn ngọt.
1961 - Thuở ban đầu với tân Tổng thống John F. Kennedy
Mối giây liên lạc Việt - Mỹ đang căng thẳng cuối năm 1960 bỗng đổi chiều vào đầu năm 1961 khi Hoa Kỳ có Tổng thống mới.
Nghị sĩ John F. Kennedy lên kế vị Tổng thống Dwight Eisenhower. Ở tuổi 42, ông là tổng thống Mỹ trẻ nhất. Ngày đăng quang ông hùng biện tuyên bố một lập trường hết sức cứng rắn 'để bảo đảm sự sống còn và sự thành công của tự do'.
Tổng thống Diệm nhận được bức thư đầu tiên của Tổng thống Kennedy đề nghị Hoa Kỳ tiếp tay với ông để 'tăng cường nỗ lực chiến thắng và đẩy mạnh sự tiến bộ kinh tế và xã hội của Việt Nam'.
Ông Diệm hân hoan đáp ứng lời đề nghị này, nhưng đặt trên căn bản là "vì quyền lợi chung của cả hai nước" (chứ không phải chỉ vì quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa). Tình nghĩa hai bên thật nồng nàn, thắm thiết vào thuở ban đầu của nhiệm kỳ Kennedy.
1962 - Mỹ quyết định bỏ Lào
Mặc dù đã tuyên bố một lập trường rất cứng rắn, Tổng thống Kennedy đã quyết định bỏ Lào. Ông Diệm hết sức lo ngại : liệu những hành động quyết liệt của ông Kennedy có bền vững hay không ?
Lúc ấy thì tình trạng Lào đã tác động mạnh mẽ vào tâm lý của các lãnh đạo ở Đông Nam Á. Chính phủ Diệm rất nghi ngờ về ý chí của Hoa Kỳ.
Lực lượng cộng sản hành quân tại Lào. Quyết định của Kennedy "bỏ Lào" khiến chính quyền của Tổng thống Diệm nghi ngờ các cam kết của Mỹ
Chính tình báo Mỹ (NIE-National Intelligence Estimate) đã thẩm định rằng : "đã có những cảm nghĩ hết sức sâu đậm ở Đông Nam Á về những biến chuyển mới đây về khủng hoảng ở Lào. Các chính phủ nơi đây có khuynh hướng cho rằng cuộc khủng hoảng Lào là một thử thách tượng trưng giữa sức mạnh của Tây phương và Khối Cộng sản. Liệu Hoa Kỳ có tiếp tục bảo vể vùng này hay không ? Thử thách rõ ràng nhất là khả năng bền vững của chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam".
Ngày 21 tháng 4, trong một báo cáo, ông Edward Landsdale (CIA-Central Intelligence Agency) nhận xét về Việt Nam :
"Về tâm lý - Việt Nam luôn nghĩ mình mới là đối tượng chính - và họ tự hỏi 'khi tới lần chúng tôi, liệu sẽ có bị đối xử giống như Lào không'. Chính sách của Mỹ đã biến Lào thành nước 'trung lập' với một chính phủ liên hiệp, làm cho Tổng thống Diệm hết sức lo âu vì nghĩ rằng sau Lào thì Mỹ sẽ tính đến việc trung lập hóa Việt Nam và áp đặt một chính phủ liên hiệp với Cộng sản. Bởi vậy, Landsdale cho rằng việc chính là phải làm sao cho chính phủ Miền Nam tin tưởng rằng việc rút lui ở Lào không có nghĩa là sẽ rút khỏi Việt Nam".
Để làm tăng thêm sự tin tưởng vào Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Lyndon Johnson được gửi sang thăm viếng Tổng thống Diệm với sứ mệnh của Tổng thống Kennedy là phải 'tuyên bố sự ủng hộ mãnh liệt của Hoa Kỳ và lòng tin tưởng vào Tổng thống Diệm". Ông Johnson trao cho ông Diệm bức thư của tân Tổng thống Hoa Kỳ. Bức thư thuở ban đầu thật nồng nàn, thắm thiết.
Tuy nhiên, Tổng thống Diệm không hoàn toàn tin tưởng. Trong bức thư phúc đáp ông nói tới sự lo ngại về Lào :
"Những biến chuyển gần đây tại Lào đã làm nổi bật mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của (Việt Nam Cộng Hòa) với những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công…".
Để biết rõ suy nghĩ của Tổng thống Diệm, Đại sứ Nolting gặp ông Nguyễn Đình Thuần (Bộ trưởng Phủ Tổng thống) để tham khảo. Ông Thuần tiết lộ là đề nghị của Hoa Kỳ đã làm cho ông Diệm hết sức ưu phiền, "hay là Hoa Kỳ đang sửa soạn để bỏ rơi Việt Nam… như đã bỏ rơi Lào ?".
Đi tìm giải pháp hòa bình
1963 - Mùa Xuân : yêu cầu Mỹ rút cố vấn
Tháng 10/1955 : Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận lời chúc mừng từ Cao ủy Pháp Henri Hoppenot
Số cố vấn Mỹ vào Miền Nam ngày một tăng nhanh. Tháng 4/1963 : thêm 4,500 cố vấn và binh sĩ nữa.
Trạm trưởng CIA là ông William Colby sau này nhận xét : "Ngay từ đầu 1962 cơ quan CIA đã có những mối liên lạc và ảnh hưởng trên toàn lãnh thổ Miền Nam, từ cổng trước và cổng sau Dinh Độc Lập tới những xóm làng ở thôn quê…"
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post vào tháng 5 ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Báo chí thổi phồng lên, Tổng thống Kennedy phật lòng, tuyên bố sẵn sàng rút đi.
Suy nghĩ lại về giai đoạn này, Đại sứ Pháp Lalouette, người đã chứng kiến và tham gia vào nhiều biến cố tại Việt Nam đã cho rằng "quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn cấp tỉnh đã là lý do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm".
1963 - Mùa Hè : khủng hoảng Phật Giáo
Vào chính lúc Washington đang nhắm vào ông Nhu thì một cơn bão tố nữa lại ập tới : khủng hoảng Phật Giáo, bắt đầu vào Lễ Phật Đản ngày 8 tháng 5. Xáo trộn leo thang rất nhanh. Viên chức Bộ Ngoại giao buộc tội chính phủ Diệm đã 'phá nát chùa chiền'.
Để đánh giá lại chính phủ Diệm, một phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ do Dân biểu Clement Zablocki (Wisconsin) hướng dẫn gồm 8 thành viên đi Sài Gòn để thẩm định tình hình. Phái đoàn tiếp xúc với rất nhiều thành phần chống Tổng thống Diệm cũng như với Đại sứ Lodge và các quan chức Mỹ và báo chí ở Việt Nam. Trở về Washington, ông Zablocki đã nộp bản báo cáo bênh vực Tổng thống Diệm là người - tuy có nhiều khuyết điểm, chuyên quyền, và khoan dung cho hối lộ, áp bức, nhưng ông ta có khả năng bền bỉ và đang chiến thắng.
Mà cũng không ai thay thế được ông ta. Zablocki đặt nặng trách nhiệm của báo chí : "báo chí đã ngạo mạn, dễ bị kích động, thiếu khách quan, và không có những thông tin trung thực" trong những tin tức, bình luận về biến cố Phật Giáo cũng như về Tổng thống Diệm.
Mặc dù phái đoàn nhận xét như vậy, nhưng giới truyền thông vẫn tiếp tục tấn công. Cho nên tình hình Việt - Mỹ vào cuối hè 1963 đã trở nên căng thẳng tới mức có tin đồn là Nhà Ngô định ám sát tân Đại sứ Lodge.
1963 - Sang Thu : khả năng ông Nhu định điều đình với Bắc Việt
Trong tình huống sôi động ấy lại có tin ông Nhu định điều đình với Bắc Việt. Đại sứ Lodge (vừa tới Sài Gòn được một tuần) thông báo ngay về Washington rằng chính ông cũng có nghe như vậy.
Về sự việc này thì ngày nay ta đã có thêm tài liệu để soi sáng cho rõ hơn về ý định của hai ông Diệm và Nhu muốn đi tìm một giải pháp hòa bình vì biết trước sau rồi Mỹ cũng bỏ Miền Nam.
Nhưng vào lúc ấy thì sau điện tín của ông Lodge, ông Roger Hilsman (Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại Giao) đã bình luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu rồi đi tới kết luận :
"Ông Nhu đã quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, cho nên ta không thể nào tiếp tục con đường hòa giải với ông ta được nữa".
Tới đây, ông Nhu trở thành mục tiêu duy nhất của Hoa Kỳ
Trong một điện tín gửi cho Đại sứ Lodge (công điện số 272), Tòa Bạch Ốc nói về việc có nên thử nói với ông Diệm hãy loại bỏ ông bà Nhu hay không, đã kết luận rằng "sẽ không thành công nếu chỉ thuyết phục suông", trừ phi "đưa ra một lời răn đe dọa cắt viện trợ".
Thế nhưng nếu răn đe như vậy thì "có nguy cơ rất cao là ông Diệm sẽ coi đó là chỉ dấu sắp có hành động chống lại ông và ông bà Nhu đến nơi rồi, và tối thiểu rất có thể ông ta sẽ có biện pháp mạnh đối với các tướng lãnh hay thậm chí có hành động quái đản thí dụ như kêu gọi Bắc Việt yểm trợ để trục xuất người Mỹ đi".
Quá là nhanh, chiều ngày 31 tháng 8, ông Lodge báo cáo Washington ngay về việc này rằng chính ông ta cũng đã "có nghe tin ông Nhu đã bí mật giao thiệp với Hà Nội và Việt Cộng qua Đại sứ Pháp (Lalouette) và Ba Lan (Maneli), cả hai chính phủ các nước này đều tán thành một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam". Như vậy là đã trật đường ray !
Về việc điều đình hiệp thương Nam-Bắc, theo nghiên cứu của chúng tôi thì có hai nhân chứng khả tín là ông Mieczyslaw Maneli (Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến), người trực tiếp làm môi giới giữa Bắc-Nam và ông Cao Xuân Vỹ (Đặc trách Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa) là người đã cùng đi với ông Ngô Đình Nhu gặp ông Phạm Hùng. Bởi vậy, ta nên xem hai ông đã thuật lại như thế nào ?
Ông Cao Xuân Vỹ :
Giờ cầu nguyện của Thủy quân lục chiến Mỹ trên bãi biển gần Đà Nẵng
Đại cương : theo tác giả Minh Võ thì ông Vỹ đã kể lại trong một cuộc phỏng vấn như sau :
"Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn :
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do.
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn định cư sang bên kia nếu muốn.
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử (để thống nhất trong hòa bình).
Ông Mieczyslaw Maneli nói gì ?
Ngày 15 tháng 2, 1975 (hai năm sau khi Hòa Đàm Paris ký kết) ông đã viết một bài tên tờ Washington Post với tựa đề : 'Vietnam : 63 and Now' và nói rằng giải pháp hòa bình do ông làm môi giới năm 1963 nếu thành công thì đã thuận lợi cho Miền Nam và Thế giới Tự Do hơn Hiệp định Paris đầu năm 1975 rất nhiều. Ông kể lại :
"Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và bào đệ của ông có nhờ tôi tìm hiểu với Chính phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện hòa bình hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đã thảo luận nhiều với giới lãnh đạo cao cấp nhất, kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là : trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam, những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới cộng sản ? Lãnh đạo Miền Bắc thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đã dựa vào đó để thảo luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc-Nam sẽ từ từ đi từng bước bắt đầu từ liên lạc bưu chính, kinh tế, văn hóa. Sản phẩm kỹ nghệ Miền Bắc sẽ được dùng để mua thóc gạo Miền Nam.
"Miền Bắc sẽ không đòi hỏi phải thống nhất nhanh chóng, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập tại Miền Nam. Tôi hỏi liệu ông Diệm có thể là lãnh đạo của chính phủ này hay không ? Tới mùa hè 1963 thì câu trả lời sau cùng là có. Sau đó, tôi lại hỏi thêm : nhưng làm sao phía Thế giới Tự do có thể tin rằng Hà Nội sẽ giữ lời hứa ? Câu trả lời là nếu Mỹ đồng ý rút, Miền Bắc sẽ sẵn sàng đưa ra những bảo đảm có thực chất, gồm cả việc Mỹ tham dự vào việc giám sát giải pháp hòa bình… ngoài ra Miền bắc cũng sẽ có quan hệ ngoại giao và thương mại với Thế giới Tự do, và sau cùng nhưng rất quan trọng, là quyền lực về kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ sẽ vẫn còn nguyên, không bị bớt đi vì cuộc chiến (cũng sẽ là một bảo đảm nữa)".
Chúng tôi cho rằng về phía Miền Bắc, rất có thể động cơ chính để điều đình là yếu tố kinh tế : đó là khủng hoảng thực phẩm năm 1963 tại miền Bắc. Tình hình thiếu hụt thực phẩm năm ấy đã trở nên khủng hoảng sau những cơn hạn hán rất nặng và bão tố kéo dài từ mùa Xuân 1961 tới mùa Đông 1962. Như chúng tôi đã có dịp phân tích trong cuốn Economic Development in Socialist Vietnam, 1955-1975 (New York : Praeger Publisher, 1977) : trong những năm không bị thiên tai như lụt lội, bão tố, hay hạn hán, Miền Bắc cũng vẫn phải dựa vào thóc gạo của Miền Nam thì mới đủ ăn.
Như vậy thì đại cương về những bước liên lạc hiệp thương, lập trường trung lập để đi tới thống nhất thì đại cương, điều ông Maneli viết cũng giống như những gì ông Vỹ kể lại.
Ông Roger Hilsman bình luận về hai mục tiêu của ông Nhu :
Ngày 16 tháng 9, ông Hilsman viết một Bản ghi nhớ, bình luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu :
- tối thiểu là sẽ "giảm mạnh số người Mỹ đang giữ những chức vụ chính yếu tại các tỉnh và trong chương trình Ấp Chiến Lược", và
- tối đa là ông ta sẽ "điều đình với Bắc Việt để ngưng chiến, rồi chấm dứt sự có mặt của Mỹ, đi tới một Miền Nam trung lập hoặc theo kiểu Tito (ở Nam Tư) nhưng vẫn là một phần đất riêng biệt".
Quân Mỹ giao tranh với lực lượng Bắc Việt ở Nam Việt Nam
Hilsman kết luận rằng "ông Nhu đã quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, và bởi vậy, không thể nào tiếp tục con đường hòa giải với ông ta bằng cách dùng ngoại giao và thuyết phục được nữa, mà phải theo con đường dùng áp lực.
Tướng Taylor và Bộ trưởng McNamara đổ thêm dầu vào lửa
Tiếp theo đó là chuyến viếng thăm Sài Gòn từ ngày 23 tháng 9 tới 2 tháng 10 của phái đoàn Taylor-McNamara. Khi trở về Washington hai ông báo cáo tình hình quân sự là tốt, bênh ông Diệm và cho rằng Hoa Kỳ không nên đôn đốc một cuộc đảo chính, và chỉ nên dùng áp lực viện trợ. Tuy nhiên, trong báo cáo, hai ông lại thêm một nhận xét là "Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) - cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa - cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ".
Ngày 5 tháng 10, ngày định mệnh của Tổng thống Diệm
Sau báo cáo Taylor-McNamara, thì có tới 7 sự việc không may xảy ra cho Tổng thống Diệm vào ngày này (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 21).
Thí dụ như lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, thêm một nhà sư nữa tự thiêu tại bùng binh Chợ Bến Thành lúc 12 giờ 25 trưa. Đó là Đại đức Thích Quảng Hương. Đây là vụ tự thiêu thứ sáu kể từ Hòa thượng Thích Quảng Đức. Washington cực lực phản đối về việc chính phủ Sài Gòn cấm cản báo chí chụp ảnh về vụ này. [Chúng tôi còn nhớ vào thời điểm ấy, báo chí và tivi Mỹ phổ biến rất rộng rãi những vụ tự thiêu, dân chúng hết sức xúc động. Câu chuyện ở Washington lúc ấy chỉ xoay quanh vụ này].
Thêm vào đó là áp lực chính phủ Diệm phải đặt những cuộc di chuyển của Lực lượng đặc biệt phòng vệ tổng thống, do Đại tá Tung chỉ huy dưới quyền của Bộ Tổng tham mưu quân đội. Như vậy là lực lượng này bị bó tay để hết ngăn chận đảo chính.
Tổng thống Diệm đã gặp nhiều sự may mắn vào tháng 10 trong những năm trước :
Tháng 10, 1954 : vào lúc khủng hoảng chính trị đang nóng bỏng ở Sài Gòn và Pháp đang âm mưu loại bỏ Thủ tướng Diệm, Tổng thống Eisenhower đã viết bức thư đầu tiên, thông báo quyết định của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Việt Nam thay vì qua chính phủ Pháp :
"Tôi đã chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Việt Nam để xem xét với Ngài, với tư cách Ngài là Lãnh đạo của Chính phủ, làm sao để một chương trình của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Chính phủ của Ngài có thể yểm trợ được nước Việt Nam trong giờ phút thử thách này…".
- Tháng 10, 1955 : Việt Nam Cộng Hòa khai sinh và ông Diệm trở nên tổng thống đầu tiên.
- Tháng 10, 1956 : cột trụ của chính thể mới là Hiến Pháp của nền Cộng Hòa bắt đầu có hiệu lực.
- Tháng 10, 1960 : Tổng thống Eisenhower viết thư cho Tổng thống Diệm ca ngợi thành quả của ông Diệm và nhân dân Miền Nam : "Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ thật nhanh chóng".
- Tháng 10, 1961, nhân dịp kỷ niệm sáu năm thành lập Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Kennedy viết cho Tổng thống Diệm : "Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất và được điều hành tốt nhất trong thời hiện đại".
Thế nhưng tháng 10 năm 1963 thì những sự khuyến khích và cơ may ấy đã không còn nữa : Tổng thống Diệm sửa soạn hành trình để đi về thế giới bên kia khi tháng 11 bắt đầu.
Ngày ám sát tổng thống
Buổi sáng hôm ấy, ngày 2/11/1963, khi tiếng chuông nhà thờ ngân vang khắp nơi, báo hiệu đã tới giờ đại lễ, các tín đồ Công giáo cầu xin Thiên Chúa xá tội để những người đã quá cố được sớm về cõi trường sinh. Lúc ấy, trong số những vong linh được cầu nguyện, đã có thêm hai linh hồn nữa. Họ vừa mới thoát khỏi chốn trần gian này mấy phút trước đó.
Kinh cầu ở các thánh đường vang lên : "Requiescat in pace" xin Thiên Chúa cho tất cả được an nghỉ.
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chọn ngày 1 tháng 11 là ngày Quốc Khánh.
Hằng năm, khi tới ngày này, với tư cách tổng thống, ông Nguyễn Văn Thiệu, người đã tham gia đảo chính, mở tiệc khoản đãi ngoại giao đoàn và quan khách theo thủ tục ngoại giao.
Giáo hoàng Paul VI đón Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăm Vatican năm 1970.
Nhưng cùng ngày đó, trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ tại Dinh Độc Lập, hai vợ chồng Tổng thống Thiệu dự thánh lễ để tưởng niệm và cầu nguyện cho Tổng thống Diệm.
Vị linh mục làm lễ, Khổng Minh Giác hỏi về ý chỉ trong buổi lễ, và ông Thiệu đáp : "Xin cho linh hồn Người sớm được về nơi Diễm Phúc, và xin Người cầu cho chúng tôi trong giờ phút nguy khốn này".
Ông Thiệu an ủi ông Diệm nơi thế giới bên kia - nhưng ông cũng đang cầu nguyện vừa cho ông Ngô Đình Diệm vừa cho chính mình.
Tổng thống Diệm ra đi đã mang theo với ông viễn tượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn A Death in November, tác giả Ellen Hammer thuật lại lời của Đại sứ Pháp Lalouette nói với Đại sứ Maneli, người môi giới hiệp thương giữa Nam-Bắc :
"Nếu Mỹ lật đổ ông Diệm, cơ hội cuối cùng về hòa bình ở Việt Nam sẽ bị phá hủy. Vì bất cứ ai lên thay ông ta cũng sẽ phải lệ thuộc vào Mỹ. Chỉ mình ông Diệm là người độc lập đủ để may ra có thể vãn hồi được hòa bình".
Lịch sử miền Nam Việt Nam sau đó diễn ra thế nào thì chúng ta đã biết.
Nguyễn Tiến Hưng
Nguồn : BBC, 02/11/2017
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cCựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản hai cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016)