Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Những gian lao của Thủ tướng Ngô Đình Diệm giành độc lập từ tay người Pháp

Tiếng hát của ca đoàn vang vang trong Thánh Đường buổi sáng hôm ấy. Nhà thờ ‘Chính tòa’ Sài Gòn (còn gọi là ‘Nhà thờ Đức Bà’) đã chật ních những giáo dân. Bầu không khí thật trang nghiêm, long trọng. Đã từ mấy tuần rồi, ca đoàn phải tập dượt cho thật kỹ một số nhạc khúc chọn lọc để hát vào một dịp lễ đặc biệt. Lần đầu tiên, một Hồng y Mỹ nổi tiếng, ông Francis Spellman, tới thăm viếng Việt Nam. Ông là thượng khách của tân thủ tướng chính phủ. Phần đông ca đoàn là những thanh niên vừa được tầu Mỹ chuyên chở từ miền Bắc di cư vào Nam mùa Hè 1954, trong đó có tác giả.

ngo01

Ông Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, xuất hiện tại một hội chợ ở Sài Gòn năm 1957

Từ nơi bão lụt triền miên, chiến tranh loạn lạc, nay được hưởng bầu không khí thanh bình của miền Nam trù phú, chúng tôi hết sức lên tinh thần. Thành phố Sài Gòn văn minh, tráng lệ, đúng là ‘Viên Ngọc Trân Châu của Á Đông’. Hằng ngày đài phát thanh nói đến ‘Nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm’ từ Mỹ trở về. Bây giờ lại có Hồng y Giáo phận New York tới thăm. Thấy vậy, nhóm thanh niên chúng tôi tràn đầy hứng khởi.

Suy nghĩ của tuổi trẻ đơn sơ là như vậy. Có ngờ đâu vào vào thời gian ấy, những sự sắp xếp trên bàn cờ chính trị tại miền Nam đã thật là rối ren, nguy hiểm. Trông gương mặt của Thủ tướng Diệm, thấy ông lầm lầm, lỳ lỳ, ít cười nhưng bình tĩnh, khó ai biết được những khó khăn mà ông và trên thực tế, cả miền Nam, đang gặp phải.

Ý định ‘từ quan’ không thành

Trong quá vãng, Quốc trưởng Bảo Đại đã mời ông Diệm làm thủ tướng tới ba lần. Lần thứ tư ông mới chấp nhận. Lần thứ nhất là vào năm 1949 : sau khi ông Diệm đã đóng góp vào việc đưa ông Bảo Đại từ Hong Kong về làm Quốc trưởng, ông được mời làm thủ tướng. Hai lần sau là vào năm 1951 khi ông Diệm còn đang ở Mỹ. Cả ba lần ông Diệm đều từ chối vì cho rằng ông không thể làm được việc gì khi người Pháp còn dính líu vào chính trị Việt Nam. Tới năm 1954, sau khi Quốc hội Pháp đã thông qua Hiệp ước Độc lập (Treaty of Independence) ngày 4/6/1954, ông Diệm mới chấp nhận lời mời của ông Bảo Đại.

Ngày 16/6/1954 khi chỉ định ông Diệm, thoạt đầu thì ông Diệm đã từ chối. Trong cuốn hồi ký Con Rồng Việt Nam (1990), ông Bảo Đại đã ghi lại về câu chuyện này :

"Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ", Quốc trưởng Bảo Đại nói với ông Ngô Đình Diệm.

- Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ, ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…

- Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.

Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp :

- Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.

Như vậy, giây phút ấy - ngày 16/6/1954 - là giây phút quyết định số mệnh của ông Ngô Đình Diệm. Ông muốn từ quan – không phải là để "lên non tìm động hoa vàng" nhưng là… để đi tu. Khi Quốc trưởng Bảo Đại nại đến sự tồn vong của đất nước và không cho ông được phép từ quan, ông mới lĩnh nhận sứ mạng, một sứ mạng đã đưa đến cho ông biết bao nguy hiểm, gian lao ngay từ đầu, để rồi tiếp tục cuộc hành trình chông gai đi tới cuối đường, nơi tử thần đã đứng sẵn để chờ đợi ông.

ngo2

Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam, Bảo Đại

Bước gian truân ban đầu

Khi chỉ định ông Diệm, Quốc trưởng Bảo Đại chỉ hỏi ý kiến Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles, chứ không phải là "Mỹ đưa ông Diệm về Việt Nam làm Thủ tướng" như dư luận hay nói đến. Vì biết rõ uy tín của ông Diệm ở Việt Nam nên Mỹ rất ủng hộ ý kiến của ông Bảo Đại.

Nhưng sự ủng hộ cũng không kéo dài được bao lâu. Chỉ nội trong 10 tháng Thủ tướng Diệm cố gắng để thành lập một chính phủ trong hoàn cảnh rối ren 1954 của Sài Gòn, Mỹ đã muốn thay thế ông. Lý do chính yếu là sự vận động thành công của Pháp để loại trừ ông vì biết thành tích chống Pháp của gia đình Ngô Đình Khả.

Mỹ đã nghe những lời khuyến dụ của tướng Paul Ely (Tư lệnh Pháp ở Đông Dương) đánh giá ông Diệm không đủ khả năng lãnh đạo và không được dân chúng Miền Nam ủng hộ. Ely lại là bạn đồng liêu của tướng Mỹ John Collins trong Thế Chiến II. Bây giờ ông Collins là Đặc ủy (rồi Đại sứ) của Tổng thống Dwight Eisenhower tại miền Nam. Đầu tháng 4/1955 tướng Collins đề nghị rõ ràng về năm bước để loại bỏ ông Diệm (xem 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào', Chương 11).

Và Collins đã thành công : cuối tháng 4/1955 Washington đã có chỉ thị tối mật : thay thế Thủ tướng Diệm. Nhưng nhờ cơ may, ông Diệm đã lật ngược được thế cờ trong khoảnh khắc và Washington đã hủy mật lệnh này.

Với cái thế mạnh sau tháng 4/1955, Thủ tướng Diệm đã đẩy được người Pháp ra khỏi Việt Nam, thu hồi được độc lập cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, tài chánh, hoàn thành được giấc mộng mà gia đình Ngô Đình Khả đã nuôi dưỡng từ khi còn làm quan triều Nguyễn.

Hiệp Định Geneva (tháng 7/1954) chỉ là để phân chia ranh giới rút quân : quân đội Liên hiệp Pháp rút về bên dưới vĩ tuyến 17 chứ không phải là rút khỏi Việt Nam.

Ngày 20/5/1955 là mốc lịch sử vì hôm đó quân đội Pháp rút khỏi khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Tới tháng 7, số quân đội Pháp đã từ 175.000 xuống chỉ còn 30.000. Ông Diệm yêu cầu là cả quân đội lẫn huấn luyện viên người Pháp đều bắt buộc phải rời khỏi miền Nam vào mùa Xuân, 1956.

Ông Diệm đã thật vất vả và chấp nhận nhiều nguy hiểm khi đi tới quyết định này. Sau cùng, vào tháng 8/1955, Pháp đồng ý đóng cửa cơ quan quản lý thuộc địa, gọi là "Bộ các quốc gia liên kết".

Về phía Mỹ thì Đại sứ Collins, người nghe lời tướng Pháp Paul Ely vốn đã muốn lật đổ Thủ tướng Diệm, cũng bị thuyên chuyển. Ngày 14/5/1955, ông rời Việt Nam sang nhận trách nhiệm mới tại NATO. Đại sứ G. Frederick Reinhardt sang thay Collins. Tân đại sứ liền tuyên bố ngày 27/5 :

"Tôi tới đây với chỉ thị là thi hành chính sách của Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ hợp pháp của Thủ tướng Ngô Đình Diệm".

Sang Thu 1955, uy tín của Thủ tướng Diệm lên cao. Đối nội, ông đã nối kết lại được một quốc gia đang bị phân tán nặng nề, khuất phục được sự chống đối của viên Tổng tham mưu quân đội (thân Pháp) Nguyễn Văn Hinh, chấm dứt được sự đe dọa của cảnh sát ; quân đội quốc gia đã tuân lệnh ông quét sạch lực lượng Bình Xuyên, rồi được Đại hội các đoàn thể chính đảng nhất mực ủng hộ. Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần một triệu người di cư.

Đối ngoại thì ông Diệm đã cương quyết chống trả và khuất phục được mưu đồ của Pháp và kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ely-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ. Nhiều nhà quan sát quốc tế bình luận : "ông Diệm đã làm được những việc như phép lạ".

Với cái thế ấy, ngày 26/10/1955, Thủ tướng Diệm tuyên bố thành lập một chế độ ‘cộng hòa’, và trở thành Tổng thống đầu tiên. Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ ‘Quốc Gia Việt Nam’ sang ‘Việt Nam Cộng Hòa,’ nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi.

Quốc hội đầu tiên : tháng 3/1956

ngo3

Cao ủy Pháp Henri Hoppenot (phải) chúc mừng Tổng thống Đình Ngô Diệm ngày thành lập đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tháng 10/1955

Ngày 4/3/1956, cột trụ của chính thể cộng hòa được xây dựng. Nhân dân Miền Nam đi bầu một Quốc hội Lập hiến. Với một dân số là 12 triệu người, gần 80% số người được đi bầu đã thực sự tham gia để chọn 123 dân biểu trong số 405 ứng cử viên. Dù tới gần một phần ba số ứng cử viên được chính phủ đề cử đã không trúng cử, đa số những người được bầu là ‘thân chính’.

Tuy không phải là một cuộc bầu cử lý tưởng vì chắc chắn đã có những vận động, sắp xếp không chính đáng, hoặc gian lận, như các phe đối lập tố cáo, nó cũng là bước đi đầu tiên của một hành trình lâu dài để xây dựng nền cộng hòa. ‘Res Publica’ quan niệm của nhà triết học Plato từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, có nghĩa là ‘sự việc hay cơ chế của nhân dân,’ ta dịch là ‘Cộng hòa’. Nòng cốt của cơ chế này là một thể chế đại diện cho nhân dân để làm ra luật pháp. Mục đích của Quốc hội năm 1956 là soạn thảo một hiến pháp. Với sự cố vấn của ông J.A.C. Grant, một chuyên gia hiến pháp người Mỹ, một Hiến pháp thành hình, đặt nặng nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp giống như hiến pháp Hoa Kỳ, ít nhất là về mặt lý thuyết.

Bầu xong Quốc hội Lập hiến, vào hè 1956, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ gửi một Bản ghi nhớ cho Tổng Tham mưu Liên quân thông báo ‘ý định của Tổng thống Dwight Eisenhower, các cơ quan có thẩm quyền về quân sự phải cổ vỏ giới quân sự Việt Nam để làm một kế hoạch song song và phù hợp với kế hoạch dựa trên căn bản chính sách của Hoa Kỳ để đối phó với những tấn công của Cộng sản. Và một cách kín đáo, phải thông báo cho họ biết rằng Hoa Kỳ sẽ yểm trợ nước Việt Nam tự do để đương đầu với bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài vào".

Tổng thống Eisenhower hết mực ủng hộ. Riêng đối với Ngoại trưởng Dulles thì sau chuyến viếng thăm Tổng thống Diệm vào ngày 14/5/1956, ông lại càng thêm tin tưởng. Điều trần tại một Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ sau ngày trưng cầu dân ý, ông Dulles khẳng định :

"Ông Diệm đã làm được một việc quá tốt đẹp, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của chúng ta, là quét sạch được các lực lượng phe phái… và quyền bính của ông bây giờ được đại chúng chấp nhận. Ông đã được Hoa Kỳ yểm trợ để đào tạo và võ trang một quân đội quốc gia, và quân đội ấy đã chiến đấu một cách trung thành và hữu hiệu, mang được quyền bính của trung ương tới mọi nơi trong nước tới mức độ thật ngạc nhiên…

Nhân dân miền Nam đã có được một cuộc trưng cầu dân ý khoáng đại. Ngày tôi rời Việt Nam, họ đã bắt đầu có những cuộc họp để sửa soạn cho cuộc bầu một quốc hội đầu tiên, như vậy nền móng đã được đặt xuống để xây dựng một chính phủ đại diện cho quốc dân.

Ông Bảo Đại đã bị loại bỏ đi rồi và nhân dân Việt Nam hiện có khả năng xây dựng một chính thể chống cộng mạnh mẽ và hữu hiệu tại một nơi mà đã có lúc coi như sắp bị tan rã vì hai lý do : hậu quả của việc Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, và những điều khoản bất lợi của một hiệp định đình chiến (Hiệp định Geneva)".

Ngày 26/10/1956 Quốc hội Lập hiến trở thành Quốc hội Lập pháp sau khi Hiến pháp được ban hành (và năm 1959, Quốc hội được bầu lại lần thứ hai).

ng4

Tổng thống Dwight Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles đón Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tới Washington năm 1957

"Một quốc gia tự do vừa ra đời"

Tháng 5/1957, Tổng thống Eisenhower mời tân Tổng thống nước Cộng hòa Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ ba tuần. Ông gửi máy bay riêng Columbine III sang tận Honolulu để chở Tổng thống Diệm tới Washington, một hành động rất hãn hữu. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường National (bây giờ là phi trường Reagan) thì chính Tổng thống Eisenhower đã có mặt để đón chào. Đây là lần thứ hai trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống mà ông Eisenhower đã đích thân ra tận phi trường để đón quốc khách. Lần đầu là đón quốc vương Saud xứ Saudi Arabia.

Sau khi trao đổi với Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Diệm được cả Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ mời tới Quốc hội để diễn thuyết. Nghị sĩ, dân biểu cả lưỡng đảng đều có mặt đầy đủ. Cho tới lúc ấy thì chưa có lãnh đạo Á Đông nào có cái vinh dự này. Những tràng pháo tay nổ ran khi ông Diệm nói tới "ước nguyện của nhân dân Việt Nam chỉ là được sống trong hòa bình, tự do và họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tự do và độc lập của mình, chỉ yêu cầu nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ cho họ về phương tiện và vật chất". Một cách gián tiếp, ông muốn gửi thông điệp là chúng tôi chỉ cần sự yểm trợ vật chất, các ông chớ có mang quân vào Việt Nam.

Rồi ông nhấn mạnh đến quyền lợi hỗ tương của cả hai nước dựa trên căn bản miền Nam là tiền đồn của Thế giới tự do. Ông nói thẳng bằng tiếng Anh chứ không qua thông dịch viên. Theo một người bạn chúng tôi lúc ấy làm ở đài VOA (bác Trịnh Văn Chẩn) được cử đi làm phóng sự, ông Diệm nói với âm hưởng Huế, có câu các dân biểu, nghị sĩ không hiểu rõ, nhưng cứ đứng lên vỗ tay vang vang thật lâu, và đứng lên nhiều lần.

Tại New York, Thị trưởng Robert F. Wagner tổ chức một cuộc diễn hành để chào mừng vị Tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Ít quốc khách nào được đón tiếp như vậy. Dù ít người ở thành phố này biết đến ông Diệm, nhưng dân chúng đã đổ xô ra đường phố để hoan hô. Từ các cao ốc, những cánh hoa đủ mầu sắc được rắc xuống chiếc xe limousine mở mui chở ông Diệm đi qua. Báo chí đồng loạt ca tụng, nói đến "Một quốc gia tự do vừa ra đời". Tờ New York Times gọi Tổng thống Diệm là "một người giải phóng Châu Á" ; Tuần báo Life : "Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam" (A tough miracle man of Vietnam). Sau này Phó Tổng thống Lyndon Johnson (thời Tổng thống Kennedy) còn gọi ông Diệm là "Churchill của Châu Á".

Phản ứng tại Quốc hội Mỹ hết sức thuận lợi. Các nghị sĩ, dân biểu thay nhau khen ngợi. Nghị sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York) tuyên bố : "Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do". Nghị sĩ Mike Mansfield (Montana), người đã ủng hộ ông Diệm trong những giờ phút nguy hiểm, giờ đây hết sức vui mừng, ca ngợi Tổng thống Diệm là con người có quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực, "một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn". Nghị sĩ (sau là tổng thống) John F. Kennedy (Massachussets) còn tuyên dương về Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Diệm : "Việt Nam là nền tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á, là đỉnh vòm của vòng cung (keystone to the arch), là ngón tay trên con đê (finger in the dyke)".

Cuối hè 1957, những hình ảnh tiếp đón Tổng thống Diệm linh đình tại thành phố New York và thủ đô Washington được chiếu thật lớn trên màn ảnh tại các rạp xi nê ở Sài Gòn cũng như các đô thị, sau phần tin tức nhộn nhịp về thể thao. Bầu không khí lúc ấy thật là phấn khởi. Sinh viên, học sinh chúng tôi hết sức vui vẻ "xuống đường" liên tục, chăng biểu ngữ đi biểu tình để "chào mừng Tổng thống đầu tiên, ủng hộ Quốc hội Lập hiến".

Mỗi buổi sáng, tiếng kèn trống của ban quân nhạc oang oang trên đài phát thanh cử hành lễ chào cờ, tiếp theo là bài tung hô Ngô Tổng thống : "Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…".

Ngày 28/4/1956, những người lính Pháp cuối cùng đã rời Việt Nam.

Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp ước Patenôtre do Triều đình Huế ký với Pháp năm 1884 tới đây đã hoàn toàn chấm dứt trên thực tế.

Buổi bình minh của nền Cộng hòa thực là huy hoàng rực rỡ.

Nguyễn Tiến Hưng

Nguồn : BBC, 31/10/2022

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ. Ông đã xuất bản bộ sách : Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).

Published in Tư liệu

Tượng đài và con đường Ngô Đình Diệm 

Bùi Chí Vịnh, 09/11/2022

Ở Bangladesh có một con đường mang tên Ngô Đình Diệm

Con đường mang tên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa

Con đường có pho tượng Tổng thống giơ tay vẫy chào trước thời gian bất biến

Hai bên tượng đài là hoa sen Việt Nam, đúng nghĩa quốc hoa

diem1

Cô Tổng thống Ngô Đình Diệm của miền Nam Việt Nam - Ảnh Life, 1960

Không phải tự nhiên mà xứ sở người ta

Thuộc lòng câu tục ngữ "ăn cây nào rào cây nấy"

Năm 1960 Bangladesh bị nạn đói hoành hành

Dân chúng phải ăn thịt lẫn nhau như loài thú dại

 

Đúng lúc ấy Việt Nam Cộng Hòa đã giúp đỡ cho nước Nam Á này gói cứu trợ không hoàn lại

Gồm 200 ngàn tấn gạo, 5 triệu đô la và hỗ trợ y tế kịp thời

Một đất nước sửa soạn bị diệt vong vì chết đói

Bỗng hồi sinh bằng lòng nhân ái cầm hơi

 

Sau 1975 "nhiễu điều phủ lấy giá gương" ở trong nước bỏ đi chơi

Nhưng ở nước ngoài người ta nhớ "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ"

Người ta biết Việt Nam có câu "uống nước nhớ nguồn"

Có câu "ăn trái nhớ kẻ trồng cây" nhớ ngày gian khổ

 

Sau 1975 bọn "ăn cháo đá bát" ở Việt Nam đá nhân dân thành man rợ

Nhưng tại Banglades nghĩa tình kia đã để quốc tang khi Ngô Tổng Thống mất 7 ngày

Chỉ cần một lần hàm ơn là mắc nợ

Là đặt tên đường, dựng tượng đài ân nhân đứng vẫy tay

 

Tôi làm bài thơ về sự kiện ít người Việt Nam biết đến hôm nay

Rằng tại một xứ sở không xa người ta vẫn vinh danh Ngô Tổng Thống

Rằng bọn bạo chúa độc tài đàn áp bóc lột nhân dân cũng sẽ có ngày

Được báo đáp đền ơn bằng những sợi dây thòng lọng !

 

Bùi Chí Vinh

(09/11/2022)

*************************

Việt Nam Tự Do : Phép lạ hiện đại 

John W O’Daniel, Trần Quốc Việt dịch 

Tháng Ba 1959

Vào ngày 3 tháng Sáu, 1958, trong cuộc viếng thăm 30 ngày miền Nam Việt Nam Tự Do, tôi đi đến thị xã Bạc Liêu cách Sài Gòn 160 cây số về hướng đông nam. Cùng với các viên chức viện trợ người Mỹ và người Việt, tôi chứng kiến cuộc chuyển giao khoảng 240.000 mẫu Anh đất từ những đại điền chủ sang những tá điền, khởi đầu chương trình cải cách điền địa. Chính phủ Việt Nam mua đất của những đại điền chủ rồi bán lại mỗi lô khoảng bảy mẫu Anh cho những nông dân nhỏ.

tongthong1

Tổng thống Ngô Đình Diệm họp với ban tham mưu quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam - Ảnh tư liệu

Viện trợ Mỹ đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho chương trình có ảnh hướng lớn lao này trở thành hiện thực. Người Việt nghiên cứu kế hoạch cải cách điền địa cùng với các chuyên viên của chúng ta và sự ủng hộ tài chánh của chúng ta.

Chương trình này cuối cùng sẽ tạo ra sinh kế đủ sống cho ba triệu người Việt dựa trên tư hữu ruộng đất, và cho họ hưởng lợi ích thật sự trong tương lai và trong nền độc lập của quốc gia họ.

Đây chỉ là một phần của phép lạ hiện đại đang diễn ra ở Đông Nam Á, tại Việt Nam Cộng Hòa, tiền đồn của Thế giới Tự do trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc cộng sản.

Quốc gia can trường này, ngay lúc giành độc lập vào 1954 sau cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, đã phải đối mặt với có lẽ là những trở ngại đáng sợ nhất mà một quốc gia mới độc lập từng đương đầu. Những trở ngại này là những vật cản đường cực kỳ lớn mà người Việt Tự do phải vượt qua để vẫn tồn tại :

1. Sự tàn phá của cuộc chiến tranh tám năm giữa thực dân Pháp và Việt Minh do cộng sản lãnh đạo.

2. Chế độ thực dân và trước kia chế độ phong kiến Phương Đông truyền thống đã áp đặt tình trạng cô lập bắt buộc với những lợi ích của khoa học và kỹ thuật hiện đại.

3. Khu vực cộng sản ở miền Bắc công khai đe dọa xâm lăng, kết hợp với tất cả những kỹ thuật lật đổ và phá hoại mà đặc trưng cho mối đe dọa cộng sản từ bên trong đối với bất kỳ quốc gia mới nào.

4. Dòng người gần một triệu người Việt tỵ nạn ở miền Bắc chạy trốn vào Việt Nam Tự do sau Hội nghị Geneva vào 1954. Với dân số 11 triệu người ở miền Nam, điều này giống như Hoa Kỳ nhận vào cả toàn bộ dân số Canada trong vòng chưa đầy một năm.

5. Cuộc phiến loạn vũ trang của các giáo phái chính trị được thiết lập dưới chế độ thực dân Pháp và lực lượng quân đội của họ đã gia nhập cuộc đấu tranh chống cộng sản nhưng về sau, qua giấc mơ của đế quốc, đã tiến hành cuộc nội chiến chống lại chính quyền mới.

6. Mối đe dọa kinh tế suy sụp do hậu quả chiến tranh ; thiếu kỹ nghệ (hầu như tất cả các nhà máy và hầm mỏ của Việt Nam đều ở miền Bắc cộng sản) ; thiếu nghiêm trọng các nhà chuyên môn, nhà quản lý và thương gia ; và sự rút vốn nhanh chóng của người Pháp.

7. Tinh thần chủ bại hiện diện khắp nơi trong Thế giới Tự Do : hầu như tất cả các "chuyên gia" đều tiên đoán sự diệt vong mau chóng của Chính phủ Việt Nam Tự Do, mà vào lúc đầu, chỉ có thể trông chờ vào sự ủng hộ nhỏ nhoi của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên Việt Nam Tự Do vẫn tồn tại và thịnh vượng. Vì sao phép lạ này đã có thể xảy ra ? Là người đã quan sát trực tiếp và kỹ càng trong thời gian khai sinh và phát triển của Việt Nam Tự Do, tôi biết rõ ràng những nhân tố đã chứng tỏ là những nhân tố quyết định.

Những nhân tố này là :

1. Lòng can đảm, sức mạnh và sức sống của nhân dân Việt Nam. Vì họ đã chịu đựng bao hậu quả tai hại của chính sách khủng bố của cộng sản và bất công của thực dân, nên tình yêu tự do mãnh liệt của họ sống mãi và đấy ý nghĩa. Họ đã hy sinh rất nhiều mới giành được tự do ; họ sẵn sàng cứu tự do khỏi ách chuyên chế của Mạc Tư Khoa hay Bắc Kinh.

2. Quan trọng nhất đối với sự sinh tồn của Việt Nam Tự Do là sự lãnh đạo khôn khéo, quả quyết và nhìn xa trông rộng của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thật là vô cùng may mắn cho Việt Nam và cho toàn thể Thế giới Tự do là trong thời khắc nguy cấp nhất Việt Nam Tự do đã sản sinh ra nhà lãnh đạo rất năng động. Tổng thống Ngô Đình Diệm từ lâu đã nổi tiếng trong dân chúng là người quên mình vì tự do. Ngay từ năm 1932 ông đã từ bỏ chức vụ cao trong chính quyền vì nhà cầm quyền thực dân từ chối cho phép ông đưa ra những cải cách rất cần thiết cho nhân dân ông. Ông cũng đã cự tuyệt một cách khinh bỉ những lời đề nghị của quân đội chiếm đóng Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế chiến. Nhưng ông cũng nổi tiếng không kém là cương quyết chống lại cộng sản mà đã giam cầm ông và giết anh ông. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm và nhân dân Việt Nam Tự do tự mình không thể nào tồn tại nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ và hào phóng của Chính phủ Hoa Kỳ và nhân dân Mỹ.

Khi Ngô Đình Diệm về Việt Nam vào năm 1954, nước ông gần như là vô chính phủ. Mặc dù ông là người yêu nước liêm khiết rất nổi tiếng, nhưng nhân vật lãnh đạo cộng sản đầy mờ ám, Hồ Chí Minh, đang hiện ra to lớn hơn nhiều trên chính trường Việt Nam.

Hơn nữa, Ngô Đình Diệm không phải là người có sức lôi cuốn lớn đối với đám đông. Do bản tính và ý thích, ông không bao giờ có thể dùng công cụ của những kẻ mị dân. Cho đến ngày nay, những bài diễn văn của ông có vẻ thuyết trình hơn là diễn thuyết. Ngô Đình Diệm nghiêm khắc dạy nhân dân ông hãy làm việc cần cù hơn và nhắc cho họ nhớ về thực tại ở đây-và-bây giờ, chứ không phải về viễn cảnh tươi đẹp của thiên đường không tưởng.

Hơn bất kỳ người nào khác mà tôi đã từng gặp, Tổng thống Ngô Đình Diệm biết nhân dân ông và quốc gia ông. Hầu như trong suốt cuộc đời trưởng thành của mình, ông đã đi khắp nơi từ thung lũng rất nhỏ đến núi cao và cao nguyên mênh mông. Ông thậm chí trò chuyện với bộ tộc miền núi bán khai bằng tiếng của họ.

Trong chuyến thăm viếng Việt Nam gần đây nhất của tôi, một người Mỹ kể cho tôi nghe chuyện một kỹ sư Mỹ trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm xem xét đồ án tổng quát cho hệ thống dẫn thủy nhập điền tại một vùng hẻo lánh của Việt Nam. Các chuyên gia có tài năng đã mất nhiều tháng trời để thực hiện các địa đồ này. Tổng thống nhìn chăm chú các địa đồ, ngẫm nghĩ một lát, rồi chỉ vào bàn đồ, nói : "Ông sẽ phải chuyển hồ chứa nước từ thung lũng này đến thung lũng đó vì chưa từng bao giờ có mưa ở thung lũng đầu tiên".

"Nhưng, thưa Tổng thống" viên kỹ sư nói, "xây hồ chứa nước ở thung lũng đầu tiên sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc, mà cũng chỉ cách nơi Tổng thống gợi ý có vài cây số. Làm sao Tổng thống có thể biết chỗ ấy không có mưa ?"

"Tôi đã đến đấy", Tổng thống nói và trong mắt ông hơi ánh lên vẻ thích thú. "Còn ông đến chưa ?"

"Chưa", viên kỹ sư đáp. "Các địa đồ của chúng tôi được vẽ từ các bản đồ không ảnh".

"Vậy bây giờ hãy đi đến đấy", Tổng thống nói xong liền quay trở lại làm việc.

Và người bạn Mỹ bảo tôi, "Ông biết không, Tổng thống hoàn toàn đúng. Khi kỹ sư ta đến đấy ông ấy mới phát hiện ra rằng thung lũng ấy đã không có mưa trong nhiều đời".

Nói không ngoa đây là một con người phi thường. Và phải cần người phi thường để đối phó với những thử thách đặt ra trong năm độc lập đầu tiên của Việt Nam.

Ngô Đình Diệm đã đấu tranh một cách can đảm ngoan cường chống lại các giáo phái đánh thuê lần lượt từng giáo phái một và đến đầu năm 1956 quyền lực của họ bị đập tan. Nơi nào cần ngoại giao và mưu chước thì Ngô Đình Diệm dùng đến những cách thức này. Nhưng khi chọn lựa duy nhất là lực lượng vũ trang, ông không ngần ngại thử thách lòng tin của ông vào quân đội quốc gia mới của Việt Nam bằng cách dàn trận đánh nhau với quân đội của các giáo phái.

Sau những thắng lợi quan trọng đầu tiên của Ngô Đình Diệm chống lại các giáo phái, Hoa Kỳ đồng ý viện trợ cho ông trực tiếp thay vì thông qua Pháp. Vào tháng Hai, 1955, Nhóm Cố vấn Trợ giúp Quân sự Hoa Kỳ, mà tôi vinh hạnh chỉ huy, bắt đầu giúp đào tạo Quân đội Việt Nam. Đến cuối năm ấy viện trợ Mỹ ủng hộ Việt Nam Tự do trên phạm vi lớn, chủ yếu để xây dựng quân đội hùng mạnh và tái định cư người tỵ nạn.

Vào tháng Sáu năm này, 1958, tôi thấy những tân binh luyện tập thiện xạ. Họ tài giỏi không thua kém bất kỳ ai tôi từng thấy ở bất kỳ đâu. Việt Nam hiện nay có mười sư đoàn bộ binh được huấn luyện kỹ, hầu hết họ đều đã qua thử thách chiến đấu.

Nhưng Ngô Đình Diệm không dừng lại ở đấy. Để chứng tỏ sự tận tâm của ông với độc lập và tự do, Ngô Đình Diệm kêu gọi trưng cầu dân ý toàn quốc vào ngày 23 tháng Mười. 1955 để chọn Quốc Trưởng. Trong cuộc bầu cử tự do phổ thông lần đầu tiên ở Việt Nam, Ngô Đình Diệm đánh bại Hoàng đế Bảo Đại với số phiếu hơn 98 phần trăm. Ba ngày sau ông tuyên bố Việt Nam là nước cộng hòa và trở thành vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam.

Vào tháng Ba, 1956, cuộc tổng tuyển cử được tổ chức để chọn các dân biểu cho Quốc Hội để thảo ra hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, mà được công bố vào tháng Mười sau đấy. Hiên pháp này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hiến pháp Hoa Kỳ.

"Hạn chót" Geneva nổi tiếng sẽ diễn ra vào tháng Bảy, 1956. Hai năm trước, ở cuộc đàm phán Geneva, bất chấp sự phản đối đáng lưu tâm của phái đoàn Việt Nam Tự Do và Hoa Kỳ, những người tham dự hội nghị đã đề nghị hai miền Nam Bắc Việt Nam đàm phán về một hiệp định thống nhất hai miền qua cuộc tổng tuyển cử. Họ đề nghị bầu cử diễn ra vào tháng Bảy, 1956. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ, người Việt Tự do từ chối tham gia cho đến khi nào có thể thực hiện bầu cử thật sự tự do ở miền Bắc mà có dân số lớn hơn miền Nam.

Khi Tổng thống Ngô Đình Diệm củng cố sức mạnh, ông càng ngày càng được dân chúng mến mộ. Đến 1956, cộng sản với mối đe dọa quân sự của một quân đội lớn gấp mấy lần lực lượng 150.000 người của Việt Nam Tự Do bắt đầu tấn công Việt Nam Tự Do trên mặt trận ngoại giao bằng những cuộc đả kích nặng nề Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng dần dần Thế giới Tự Do chuyển sang ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, và công nhận ông. Ngay cả Ấn Độ và Miến Điện trung lập cũng bắt đầu quan hệ thân hữu với Việt Nam Tự Do.

Rồi cộng sản phát động cuộc tấn công lớn về kinh tế kết hợp với những chiến dịch tuyên truyền và khủng bố tàn bạo. Số vốn khổng lồ của Nga và Trung Cộng đã đổ vào Bắc Việt (nhiều ước tính là lên tới hai tỷ đô la) để biến miền Bắc thành "tủ kính trưng bày chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á". Cùng với chiến dịch đàn áp và bây giờ tập thể hóa, họ đang xây dựng khu kỹ nghệ liên hợp ở Bắc Việt mà tất yếu khiến hầu hết mọi người Châu Á khâm phục.

Ngược lại, Tổng thống Ngô Đình Diệm và người Việt Tự do đã đặt cược chính quyền họ vào sáng kiến cá nhân. Chính tự do kinh doanh được hiến pháp Việt Nam bảo đảm. Vào tháng Ba 1957, Tổng thống đã làm một việc chưa từng có trong lịch sử cho Châu Á khi tuyên bố chính sách mới nhằm khuyến khích cả kinh doanh cá nhân và tư bản ngoại quốc ở Việt Nam Cộng Hòa. Trong vòng một năm rất nhiều kế hoạch đầu tư ngoại quốc cá nhân đã được Chính phủ chấp thuận với vốn từ Nhật, Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Hoa Kỳ và nguồn vốn từ cá ngân và chính phủ Việt Nam.

Như chính Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đầu tiên thừa nhận, phương pháp này tự nhiên chậm hơn những phương pháp của cộng sản dựa trên vũ lực và kiểm soát nhà nước. Nhưng đấy là sự chọn lựa có ý thức và khó khăn có lợi cho tự do hơn nhưng thiệt thòi, ít ra trong thương lai gần, cho sản xuất lớn. Nhưng Việt Nam Tự Do đang trong cuộc đua với địch thủ cộng sản cho nên họ không thể nào bị bỏ rơi quá xa ở phía sau. Hơn nữa Bắc Việt lại được ưu đãi hơn rất nhiều với quặng mỏ và nguyên liệu mà kỹ nghệ hóa có thể dựa vào. Miền Nam chủ yếu là nông nghiệp nhưng được may mắn là có nhiều ruộng đất và mưa cho nên đói kém không phải là vấn đề quan trọng.

Những tiến bộ Việt Nam Tự Do đã đạt được trong hai năm qua thật là phi thường. Hầu hết tất cả mọi người tỵ nạn từ miền Bắc đều có công việc sản xuất ổn định, hầu hết ở những vùng đất mới khai hoang ở miền trung. Viện trợ Mỹ đã góp phần đạt được điều này trong vòng chưa đầy hai năm.

Một lần nữa cũng với sự giúp đỡ của viện trợ Mỹ, hàng chục ngàn người Việt khác từ những vùng quá đông đúc đang được tái định cư ở Cao nguyên dọc theo biên giới Cao Miên. Tổng thống Ngô Đình Diệm, lại không nghe theo lời khuyên của các cố vấn thân cận, nhấn mạnh rằng công việc tái định cư này là một nhiệm vụ phi thường. Điều này tựa như thể toàn bộ phong trào khai khẩn của Mỹ đến định cư ở những vùng miền Tây của chúng ta đã bị rút xuống chỉ còn trong hai hay ba năm. Xe ủi đất và máy kéo do ICA cung cấp đang san bằng những khu vực rừng rậm rậm rạp và, ngay khi đất vừa vỡ hoang xong thì máy bay liền chở các gia đình đến. Khoảng 40.000 người đã được tái định cư trong những khu vực này trong năm đầu tiên. Hy vọng đến cuối năm thứ hai sẽ có 50.000 người khác đến.

Những nỗ lực cải cách điền địa đang được ủng hộ bởi những đề án của chính quyền nhằm cải thiện những phương pháp làm nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp ; bởi sự du nhập những phương tiện tiếp thị và tín dụng ; bởi các chương trình về y tế, xóa mù chữ, và các dịch vụ xã hội khác. Hoàn cảnh của nhân dân Việt Nam với hơn 80 phần trăm sống bằng nghề nông, đang thăng tiến ngoạn mục về mọi phương diện-mà chính mắt tôi đã nhìn thấy "trước và sau".

Vì nhiều lý do khác nhau sự phát triển trong lĩnh vực kỹ nghệ lại không nhanh chóng bằng. Trước tiên, bản thân người Việt hầu như không có vốn và kỹ năng quản lý cần thiết cho những công ty thương mại như thế. Họ cũng không có truyền thống đầu tư lâu dài. Thứ hai, có thể hiểu là họ do dự về sự đầu tư của Pháp, nguồn vốn khả thi nhất. Tuy nhiên sự đột phá đã diễn ra vào mùa đông qua.

Thứ ba, Chính phủ chúng ta đã không có điều khoản về giúp đỡ đầu tư lâu dài và đòi hỏi tất cả các công ty kỹ nghệ phải là tư nhân, cho dù không có nguồn vốn nào khác có sẵn. Rồi Quốc hội cũng đặt ra nhiều hạn chế về chương trình viện trợ đến nỗi những người ở thực địa thiếu sự linh hoạt để hoạt động nhanh hơn thường lệ. Những điều luật của Quốc hội thường yêu cầu những thủ tục và tiêu chuẩn mà không thực tế đối với quốc gia mới xuất hiện như Việt Nam Tự Do. Và những quan tâm thuần túy về kinh tế thắng thế.

Cuối cùng, tư bản tư nhân Mỹ đã không thật sự vội vàng đổ xô đến Việt Nam với túi tiền căng phồng. Dù sao, người Việt Nam vẫn hy vọng thu hút tư bản từ Hoa Kỳ, và họ coi công dân Mỹ là bạn hữu chứ không phải là kẻ bóc lột. Thật vậy, vào tháng Mười Một vừa qua, người Việt đã ký một loạt hiệp ước với Hoa Kỳ để bảo đảm tất cả đầu tư của tư nhân Mỹ không bị sung công và quốc hữu hóa, rủi ro chiến tranh và phong tỏa tiền tệ.

Một nguy cơ nghiêm trọng đối với sự phát triển vũng vàng ở Việt Nam là sự gia tăng khủng bố và cướp bóc gần đây ở những khu vực ngoại ô. Rõ ràng cộng sản đứng đằng sau những biến cố này và các gián điệp cộng sản từ Bắc Việt, Lào và Cao Miên đang xâm nhập qua biên giới để cung cấp tiền bạc và vũ khí cho những nhóm cướp và một vài người bất đồng chính kiến. Cộng sản thậm chí xúc tiến một chiến dịch nhằm tái nhóm các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo trên cơ sở quân sự thuần túy. Việc cộng sản đã từ bỏ những phương thức thuần túy chính trị để chọn khủng bố và phá hoại chứng tỏ rõ ràng sự thành công và ổn định của chế độ Ngô Đình Diệm.

Một vài các quan sát viên ngoại quốc (nhiều người có mục đích giấu kín) đã chỉ trích chính quyền Ngô Đình Diệm là không tiến bộ đủ nhanh trong lĩnh vực các quyền tự do dân sự. Sự chỉ trích này chứng tỏ một sự ngây thơ về chính trị đáng kinh ngạc khi ta nhận thức rằng Việt Nam hầu như không có truyền thống về các thể chế dân chủ và rằng cách đây bốn năm chẳng một ai tiên đoán quốc gia này sẽ còn tồn tại. Và như Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ ra, " Chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh. Cộng sản đã thề tiêu diệt chúng ta và chúng đang tập trung trên biên giới chúng ta. " Tạm thời, Tổng thống Ngô Đình Diệm không thể nào đánh liều với những người bất đồng chính kiến những người mà chứng tỏ rằng quyền lợi duy nhất của họ là quyền lực cá nhân và ai trả giá cao nhất thì có thể mua được lòng trung thành của họ.

Nhưng trên hết, trong cuộc đấu tranh toàn lực chống lại mối đe dọa cộng sản này, chúng ta nợ bản thân, con cháu và nhân loại cho nên chúng ta phải chiến đấu cho đến khi thắng trận. Việt Nam Tự Do, bất chấp bao khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua được, đang làm tròn vai trò của mình là một đồng minh khí phách và là thành trì của Thế giới Tự Do ở Đông Nam Á.

John W. O’Daniel

Nguyên tác : "Free Vietnam – Modern Miracle", The American Mercury, tháng 3/1959, pp. 146-152

Trần Quốc Việt dịch

Cựu Trung tướng quân đội Mỹ John W. O'Daniel là Chủ tịch hội American Friends of Vietnam. Ông từng là Tùy viên Quân sự ở Mạc Tư Khoa (1948-1950) ; Chỉ huy Quân đoàn Một ở Triều Tiên ; Chỉ huy Quân đội Thái Bình Dương (1952-1954) ; và Chỉ huy Nhóm Cố vấn Quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam (1954-1955). Ông góp phần quan trọng xây dựng nên Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

***********************

"Nhân dân không còn cam phận"

Ngô Đình Diệm, Trần Quốc Việt dịch 

Lời người dịch : Nhận lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm sang thăm Hoa Kỳ vào ngày 7/5/1957. Ông được tiếp đón trọng thể và đầy đủ danh dự dành cho bậc thượng khách của chính phủ Hoa Kỳ. Thành công của Tổng thống Ngô Đình Diệm trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam Cộng Hòa còn non trẻ, đặc biệt trong việc tái định cư thành công hơn 800 ngàn người tỵ nạn từ miền Bắc, đều được các báo uy tín hàng đầu của Mỹ coi là "phép lạ". Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower đã đích thân ra đón ông tại phi trường, và vợ chồng Tổng thống Eisenhower đã dự tiệc chiêu đãi được tổ chức tại tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Washington.

Trong thời gian thăm viếng Hoa Kỳ, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có vinh dự phát biểu trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ. Bài diễn văn của ông "tuy ngắn nhưng đầy xúc động" đã nhận được nhiều tràng pháo tay hoan hô của các vị dân biểu Mỹ.

Bài diễn văn đã được đăng toàn văn trên tờ báo New York Times vào ngày hôm sau. Toàn bộ tựa đề và các tiêu đề là của tờ báo này. Những phần trong ngoặc là từ biên bản của Quốc hội Hoa Kỳ. Và người dịch chân thành cảm ơn Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã gởi cho biên bản về bài diễn văn của Tổng thống Ngô Đình Diệm. (TQV)

****

tongthong2

Tổng thống Ngô Đình Diệm được Tổng thống Dwight Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles (thứ 2 từ trái sang) đón tại sân bay quốc gia Washington. Ảnh chụp : tháng 5 năm 1957

Thật là một vinh dự hiếm có cho tôi khi hôm nay có cơ hội phát biểu với quý vị. Phát biểu với quý vị trong tòa nhà Quốc hội này, nơi đã hun đúc nên số phận của một trong những quốc gia lớn trên thế giới.

Tôi tự hào mang đến quý vị dân biểu lỗi lạc của nước Cộng hòa Hoa Kỳ cao quý những lời chúc huynh đệ tốt đẹp nhất từ nhân dân Việt Nam. Tôi cũng mang đến đây sự bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam về sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của nhân dân Hoa Kỳ. Nhân dân chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng rất lớn lẫn ý nghĩa sâu sắc của sự trợ giúp này.

Kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh vừa qua, khi Châu Á phá tung xiềng xích, lương tâm của thế giới cuối cùng đã bừng tỉnh trước sự phát triển sâu sắc và tất yếu- sự ra đời của Châu Á độc lập. Từ đấy, nhận thức này đã đưa đến sự lên án bằng những lời lẽ cụ thể nhất chế độ bóc lột cũ mà, trong quá khứ, đã chi phối quan hệ giữa Đông và Tây.

Hiện nay thay thế vào đấy là những nỗ lực bền bỉ nhằm xác lập phương thức hợp tác quốc tế mới, thích hợp hơn với những nhu cầu thực sự của thế giới và với triết lý mới của Châu Á.

Chính cuộc chiến đấu giành độc lập, chính ý thức càng ngày càng sâu sắc của các dân tộc thuộc địa rằng nguồn gốc của sự nghèo khổ của họ là sự cản trở một cách có hệ thống sự phát triễn kỹ thuật, cùng với tinh thần dân tộc và xã hội ngày càng cao, tất cả đã kết hợp lại để tạo ra sự thay đổi toàn diện sâu sắc trong tâm trạng Châu Á và tất cả điều này đã cho dân chúng Châu Á sự năng động không thể nào cưỡng lại được.

Nhân dân không còn cam phận

Nhân dân Châu Á - vốn đã tủi nhục từ lâu trong nguyện vọng dân tộc của mình, nhân phẩm của họ đã bị tổn thương - giờ đây không còn cam phận và thụ động như trong quá khứ. Hiện giờ họ háo hức bồn chồn. Họ khao khát giảm bớt sự lạc hậu quá lớn về kỹ thuật. Họ đòi hỏi mạnh mẽ sự phát triễn kinh tế cấp bách và nhanh chóng, nền tảng tốt đẹp duy nhất cho sự độc lập chính trị dân chủ.

Các nhà lãnh đạo Châu Á - dù ý thức hệ của họ là gì chăng nữa- tất cả đều đối mặt với sự cấp bách bi kịch của những vấn đề xã hội và kinh tế. Dưới áp lực mạnh mẽ của nhân dân mình, họ buộc lòng chấp nhận kế hoạch kinh tế. Kế hoạch như thế nhất định gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng.

Chính vì lý do này chủ đề chính của các cuộc tranh luận chính trị trong nước ở các quốc gia Châu Á đều tập trung vào mức độ kế hoạch cần thiết, phương pháp cần phải có để tạo ra những kết quả thực tế cấp bách.

Phải chăng mọi thứ nên được kế hoạch ? Hay sự kế hoạch chỉ nên giới hạn vào các khu vực thiết yếu ? Phải chăng nên chấp nhận những phương pháp dân chủ hay những phương pháp toàn trị tàn bạo ?

Chính trong cuộc tranh luận này-ở tại nhiều nước không may bị ảnh hưởng bởi những lời hứa hẹn giả dối nhưng quyến rũ của chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa cộng sản-những nỗ lực đang nhằm gìn giữ nền dân chủ tự do qua viện trợ từ các nước công nghiệp Tây phương đóng vai trò rất quan trọng. Vì danh dự của con người, Hoa Kỳ đã đóng góp quan trọng nhất vào mục đích này.

Kính thưa quý vị trong Quốc hội, qua những điểm chính và khái quát chung, những điều này là những vấn đề các nước Châu Á đang đối mặt. Những điều này là những mục tiêu phải đạt được và là những phương cách phải được đề xuất. Những điều này cũng là những áp lực và cám dỗ trong nước mà các nhà lãnh đạo Châu Á đối mặt.

Khu vực nhạy cảm

Ở lục địa Châu Á rộng lớn, Việt Nam nhận thức mình ở khu vực nhạy cảm nhất. Mặc dù Việt Nam đối mặt với những vấn đề chung của các nước Châu Á khác, nhưng do vị trí địa lý chính trị nhạy cảm của mình những vấn đề của Việt Nam nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Nằm ở một trong những điểm tiếp cận chiến lược những nguyên liệu quan trọng của Đông Nam Á-sở hữu những nguyên liệu này mang tính chất rất quyết định- bị cản trở phát triễn bởi một trăm năm đô hộ nước ngoài, bị cạn kiệt bởi mười lăm năm chiến tranh và tàn phá, nửa miền bắc của lãnh thổ Việt Nam lại rơi vào tay Cộng sản, Việt Nam tự do hiện ở trong hoàn cảnh bị đe dọa và nghiêm trọng hơn các nước Châu Á khác.

Bằng sự hy sinh to lớn của con người và nhờ vào viện trợ từ nhân dân Mỹ hào phóng, trong thời gian kỷ lục, Việt Nam tự do đã khắc phục thành công những hỗn loạn do chiến tranh và hiệp định Geneva tạo ra. Sự kiến thiết và ổn định quốc gia mà đã đạt được ấy đã giúp hội nhập hơn 860.000 người tỵ nạn vào nền kinh tế của 11 triệu người khác ở Việt Nam tự do và đã giúp thông qua những cải cách chính trị và kinh tế quan trọng.

Tuy nhiên, vào lúc tất cả Châu Á đang chuyển từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, vào thời điểm khi tất cả các vấn đề quan trọng đều nảy sinh cùng một lúc đối với các nhà lãnh đạo và đều dường như đòi hỏi giải quyết cấp bách, vào lúc khi tất cả đều phải được thực hiện trong bầu không khí căng thẳng cách mạng ngày càng cao, hơn các quốc gia khác, Việt Nam càng thấy cần thiết phải thông qua một số nguyên tắc, đường lối chỉ đạo hành động nào đấy, không chỉ để bảo vệ mình khỏi những cám dỗ toàn trị mà còn, trước hết, để giúp cho mình đạt được độc lập thay vì hỗn loạn, để bảo vệ hòa bình mà không hy sinh độc lập, để đạt được tiến bộ kinh tế mà không hy sinh các quyền tự do của con người.

tongthong3

Diễn văn Tổng thống Ngô Đình Diệm đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 9/5/1957 – New York Times, 10/05/1957

Trích dẫn học thuyết năm 1956

Chính vì những lý do này - dựa vào các cội nguồn văn hóa Châu Á, và trong truyền thống dân chủ Việt Nam của chúng tôi - tôi đã có danh dự định rõ học thuyết này trong thông điệp đọc trước Quốc hội Lập hiến vào ngày 17 tháng 4 năm 1956. Tôi xin mạn phép trích dẫn từ thông điệp ấy những đoạn ý nghĩa nhất, vì chúng tạo thành nền tảng của hiến pháp chúng tôi.

Tôi trích :

"Trong hoàn cảnh những lực lượng trấn áp vật chất và chính trị quá mạnh thường xuyên đe dọa chúng ta, chúng ta cảm thấy, hơn các dân tộc khác, nhu cầu rất quan trọng đặt cuộc sống chính trị của chúng ta trên một nền tảng vững chắc và thúc đẩy một cách rất chính xác những bước kế tiếp trong hành động của mình theo những đường lối mà sẽ chắc chắn tạo ra mức độ tiến bộ dân chủ lớn nhất.

(Vỗ tay)

"Điều này chỉ có thể là duy linh, đường lối ấy con người theo đuổi trong hiện thực mật thiết của họ cũng như trong cuộc sống cộng đồng của họ, trong nghề nghiệp của họ cũng như trong sự theo đuổi tự do sự hoàn thiện trí tuệ, đạo đức, và tinh thần.

"Vì thế, chúng ta khẳng định niềm tin của mình vào giá trị tuyệt đối của con người-nhân phẩm của họ có trước xã hội và số phận của họ lớn hơn thời gian.

(Vỗ tay)

"Chúng ta khẳng định mục đích chính đáng duy nhất của nhà nước là bảo vệ quyền tồn tại, quyền phát triễn tự do cuộc sống trí tuệ, đạo đức và tinh thần căn bản của con người.

"Chúng ta khẳng định dân chủ không phải là hạnh phúc vật chất cũng không phải là quyền lực tối cao của thành viên. Dân chủ về cơ bản là một nỗ lực trường tồn nhằm tìm ra những phương tiện chính trị đúng để đảm bào cho tất cả mọi công dân quyền phát triễn tự do và quyền sáng kiến, trách nhiệm, và cuộc sống tinh thần cao nhất".

(Vỗ tay)

Chủ đề phát triển

Chúng tôi tin chắc rằng với những nguyên tắc chỉ đạo này như là chủ đề trọng tâm cho sự phát triển các thể chế chính trị của mình, Việt Nam sẽ có thể tạo ra chế độ chính trị và kinh tế mà không phải là một hệ thống đóng kín nhưng là hệ thống mở, càng ngày càng mở rộng cho đến khi nào hệ thống đạt đến các phương diện tự do của con người.

Việt Nam Cộng Hòa, nền cộng hòa non trẻ nhất ở Châu Á, chẳng bao lâu nữa sẽ tròn hai tuổi. Nền cộng hòa của chúng tôi sinh ra từ trong vô vàn đau khổ. Nền cộng hòa ấy đang can đảm đương đầu với cuộc cạnh tranh kinh tế với những người cộng sản, cho dù hoàn cảnh khó khăn và nghiêm trọng, mà mỗi ngày lại càng trở nên phức tạp hơn.

Việt Nam, tuy nhiên, có lý do chính đáng để tin tưởng và hy vọng. Nhân dân Việt Nam thông minh, tháo vát và can đảm. Họ cũng có thêm được sức mạnh nhờ sự giúp đỡ vật chất và tinh thần họ nhận được từ thế giới tự do, đặc biệt sự giúp đỡ từ nhân dân Mỹ.

Trong hoàn cảnh căng thẳng quốc tế và áp lực cộng sản ở Đông Nam Á ngày càng gia tăng tôi không thể nào lập lại biết bao nhiêu lần cho đủ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam trước sự giúp đỡ của Mỹ và nhân dân Việt Nam ý thức rất cao về tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, và số lượng của sự giúp đỡ này.

Quả thực, chưa bao giờ lúc nào trong lịch sử những cuộc xung đột phát sinh giữa các dân tộc lại quan hệ cấp bách như thế đến nền văn minh như những cuộc xung đột ngày nay.

tongthong8

Thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp phái đoàn cố vấn Mỹ năm 1955

Sự đóng góp kịp thời của Hoa Kỳ 

Chính qua những đóng góp kịp thời và đầy đủ cho sự kiến thiết cuộc sống kinh tế và kỹ thuật của chúng tôi-nhờ đấy tạo ra mức sống cao hơn-thế giới tự do, dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, đang khẳng định sự thành công của hệ thống hợp tác quốc tế mới.

Hành động này đã góp phần bảo vệ Đông Nam Á và ngăn cản những nguyên liệu trong vùng này không rơi vào tay Cộng sản.

Mặc dù nền kinh tế chúng tôi bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh, tàn phá, và chủ nghĩa thực dân, nhưng bây giờ nhân dân Việt Nam đang tăng gia đóng góp vào quốc gia mình. Cách đây vài tháng Quốc hội Lập hiến đã bỏ phiếu thông qua nhiều thuế mới và cao hơn nhằm mang lại thu nhập cần thiết cho ngân sách quốc gia. Mới đây sắc lịnh quân dịch quốc gia đã được ban hành và cách đây hai tháng chúng tôi đã đưa ra bản tuyên bố toàn diện về chính sách nhằm mục đích khích lệ đầu tư tư nhân từ nước ngoài.

Chính trên bình diện đạo đức cao cả này chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ rộng rãi và quên mình mà chúng tôi đã nhận được từ nhân dân Hoa Kỳ. Chính trên cũng bình diện này quyền lợi của Việt Nam hoàn toàn giống với quyền lợi của nhân dân thế giới tự do.

(Vỗ tay)

Chính trên bình diện này cuộc chiến đấu của các bạn và cuộc chiến đấu của chúng tôi đều chỉ là một và giống nhau. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản.

(Vỗ tay)

Chính trong niềm xác tín này và chính trong sự ghi nhớ sâu sắc và không bao giờ phai nhạt trong lòng về việc nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ đã theo dõi những nỗ lực của chúng tôi với tất cả sự thấu hiểu cảm thông chí tình tôi xin kết thúc, và lần nữa tôi cảm ơn Tổng thống, Chủ tịch Hạ Viện và quý vị trong Quốc hội về vinh dự đã dành cho tôi và cảm ơn quý vị đã ân cần lắng nghe.

(Mọi người đứng lên vỗ tay)

Ngô Đình Diệm

Nguyên tác : "The Text of President Diem's Address to Congress ; People No Longer Resigned" ; New York Times, 10/5/1957

Trần Quốc Việt dịch

Tham khảo :

1. Tạp chí New York Times, ngày 10 tháng 5, 1957. Tựa đề do New York Times đặt

2. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ- HeinOnline -103 Congressional Record 6699 1957 & 103 Congressional Record 6700 1957

**********************

Những lời phát biểu của Tổng thống Ngô Đình Diệm 

Trần Quốc Việt sưu tầm

Nhân dịp năm mươi chín năm ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu bị sát hại trong cuộc đảo chính đẫm máu vào ngày 2/11/1963, chúng tôi sưu tầm và trích dịch một số lời phát biểu sau của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

tongthong4

Gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm - Ảnh minh họa

Phát biểu tại National Press Club ở Washington, Hoa Kỳ với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á thích chủ nghĩa trung lập, tức phong trào không liên kết, Tổng thống Ngô Đình Diệm nói :

"Vì cộng sản không trung lập, chúng ta không thể trung lập".

New York Times, ngày 11/5/1957

Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp kỷ niệm 7 năm ngày cầm quyền tại Sài Gòn :

"Liệu ta có thể vẫn còn trung lập khi đối diện với sự quyết tâm hủy diệt có hệ thống này ? Ta phải cương quyết bác bỏ và chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản cuồng tín hiếu chiến, kẻ thù của nhân loại, thay vì để cho mình bị tê liệt bởi sự tuyên truyền dối trá của cộng sản".

New York Times, ngày 8/7/1961

Tổng thống Ngô Đình Diệm :

"Mục đích duy nhất của tôi là nước Việt Nam độc lập thật sự".

New York Times, ngày 12/5/1957

Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Hội đồng Thương mại và Công nghiệp Viễn Đông-Hoa Kỳ ở Detroit về chương trình cải cách ruộng đất qua đó ruộng đất được cấp cho những nông dân không có ruộng :

"Qua chương trình này, chúng tôi đáp lại những lời tuyên bố dối trá của cộng sản về cải cách ruộng đất. Chúng tôi cấp ruộng đất cho nông dân và chúng tôi thực hiện được điều này mà không cần đến những cách thức cưỡng chế và tịch thu vô nhân đạo".

Harrison E. Salisbury, New York Times, ngày 15/5/1957

Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Sài Gòn vào ngày 29/3/1957 nhân dịp đón tiếp các đoàn đại biểu tham dự Đại hội lần thứ ba của Liên Minh Các Nhân Dân Chống Cộng Châu Á :

"Đối diện với nỗ lực phá hoại của cộng sản, chúng ta phải tuyên bố rằng những quy luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại không chỉ mang tính chất kinh tế, rằng sự tiến bộ như thế cũng và trên hết được chi phối bởi những quy luật về đạo đức.

Chúng ta hãy dùng tình thương để chống lại sự căm thù mà cộng sản rao giảng. Lịch sử dạy chúng ta rằng sớm hay muộn cuối cùng chính sẽ thắng tà, sự thật sẽ thắng dối trá, tình thương sẽ thắng hận thù".

Wilson Center Digital Archive

Tổng thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17/9/1955 :

"Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia chúng ta và để đảm bảo tự do của nhân dân chúng ta. Cuộc đời của chúng ta, tự do của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời, tự do, và hạnh phúc của con cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc chiến đấu này. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình".

Major Policy Speeches by President Ngo Dinh Diem, Vietnam Center and Archive.

*************

Phụ lục :

1. Cộng sản vui mừng trước cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

"Nhà báo Úc Wilfred Burchett kể rằng những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam chào đón cuộc đảo chánh như "món quà". "Người Mỹ đã làm chuyện mà chúng tôi đã không thể nào làm được trong chín năm trời, đó là loại bỏ Diệm".

Mark Moyar, JFK and the Seeds of Disaster in Vietnam, The Wall Street Journal, 11/01/ 2013

2. Lời cảm ơn của Đạt Lai Lạt Ma về sự giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng với sáu chục ngàn người Tây Tạng vượt núi Himalaya sang tị nạn ở Ấn Độ vào năm 1959 sau khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng

"Các tổ chức cứu trợ thiện nguyện ở nhiều nước đã giúp đỡ tiền bạc, hay thực phẩm, áo quần, hay thuốc men. Chính phủ các nước Anh, Mỹ, Úc, và Tân Tây Lan đã gởi quà để giúp chúng tôi giáo dục trẻ em, và chính phủ Nam Việt Nam đã gởi cho chúng tôi gạo. Chúng tôi rất cảm ơn tất cả những tấm lòng nhân ái này".

"My Land and My People", Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala Corporation, New York 1962, trang 225.

Ngô Đình Diệm

Trần Quốc Việt sưu tầm và dịch

***********************

Không có thử nghiệm - Chỉ có sống hay chết

Charles W. Wiley, Ngô Đình Diệm, Trần Quốc Việt dịch

Lời người dịch : Ngày 19/6/1962 ông Charles W. Wiley, đại diện tạp chí Mỹ National Review, đã có cuộc phỏng vấn riêng với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm trong ba giờ. Vì lý do nào đấy bài phỏng vấn này không được phép đăng báo. Sau khi Tổng thống bị sát hại cùng với bào đệ Ngô Đình Nhu vào ngày 2/11/1963, tạp chí National Review quyết định đăng lại trích đoạn sau của cuộc phỏng vấn. (TQV)

tongthong5

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm bị ám sát ngày 1/11/1963

Wiley : Thưa Tổng thống Diệm, ông có thể ngăn chặn cộng sản ở Việt Nam ?

Ngô Đình Diệm : Chúng tôi có thể làm được và sẽ làm được. Cuộc đấu tranh tuy lâu dài và gian khổ, nhưng thời kỳ nguy hiểm nhất đã qua. Về mức độ nào đấy, vấn đề của chúng tôi ở đây chỉ là một phần của bức tranh rộng lớn hơn. Cộng sản-kẻ thù chung của chúng ta-suy nghĩ theo chiến lược toàn cầu. Và điều này cũng hợp lý. Thế giới Tự do mất hết nước này đến nước khác do quyền lợi xung đột và do không nhận ra cuộc đấu tranh toàn cục này. Khi cộng sản chiếm Cuba, tình hình của chúng tôi ở đây càng trở nên khó khăn hơn. Nếu họ xâm chiếm một nước ở Đông Nam Á thì Berlin lại yếu hơn.

Wiley : Cho phép tôi nói thật : đã có nhiều tố cáo cho rằng cộng sản có lợi từ những khuyết điểm trong chính quyền ông-tố cáo có hối lộ...

Ngô Đình Diệm : Ông Wiley, đúng là có những vụ hối lộ trong chính quyền. Nhưng những người này đã bị trừng phạt. Và còn bị trừng phạt nặng hơn ở các nước khác ở Châu Á. Chúng tôi phạm sai lầm-chúng tôi là con người. Nhưng những người hay chỉ trích chúng tôi không những chỉ ra những sai lầm nhỏ nhặt nhất của chúng tôi, mà họ còn bịa đặt ra những sai lầm khác. Tôi bị lăng nhục với tư cách cá nhân và nguyên thủ quốc gia ; người thân trong gia đình tôi bị bêu xấu. Còn cộng sản lại cố tìm kiếm từng mẩu bình luận bất lợi của người Mỹ. Đây không phải là lần đầu tiên một đồng minh của các ông bị đối xử như thế này. Khi số phận của Trung Hoa lục địa lâm nguy, những câu chuyện giống như vậy về Tổng thống Tưởng Giới Thạch được truyền nhau trong thành phần nào đó của báo chí. Đôi khi tưởng đâu Hoa Kỳ có mặc cảm tự tử.

Những nhà báo các ông là "những người tiến bộ" và họ dùng chiêu trò là họ chỉ trích vì chính quyền chống cộng không đủ hiệu quả. Cách dễ dàng đo lường hiệu quả của chính quyền : cộng sản có tấn công chính quyền không ? Và họ càng tấn công thì chính quyền càng hiệu quả.

Wiley : Ông dùng từ " hững người tiến bộ" hàm nghĩa gì ?

Ngô Đình Diệm : "Những người tiến bộ" kết án tư bản coi trọng vật chất, nhưng không nhận ra chủ nghĩa duy vật của cộng sản. Họ làm bộ không biết bản chất vô thần của cộng sản, mà thích coi cộng sản trong thế kỷ hai mươi giống như công giáo vào thế kỷ thứ nhất. Những người này không muốn sống dưới chế độ cộng sản-nhưng họ mơ tưởng về cộng sản từ xa.

Một loại người tiến bộ khác là người giàu mang mặc cảm tội lỗi do thừa kế. Họ sẽ làm hay hơn bằng cách cho tiền người nghèo, nhưng thích sống bình an và tiện nghi trong khi sám hối tội lỗi của mình bằng cách thân cộng.

Wiley : Thưa Tổng thống, những người chỉ trích ông nói cộng sản có thể tổ chức quân đội du kích đông đảo ở đây tại Việt Nam, vì nhân dân đã không còn ủng hộ ông.

Ngô Đình Diệm : Điều này không đúng. Cộng sản kiểm soát phần lớn quốc gia khi người Nhật ra đi vào năm 1945, và rồi họ xây dựng sức mạnh trong chín năm tới trong khi người Pháp chỉ kiểm soát những trung tâm và quốc lộ chính. Người dân phải hợp tác với cộng sản, và cộng sản tuyển mộ lính từ dân chúng địa phương ở cả bắc lẫn nam. Những cán bộ này không bao giờ rút lui, và sẵn sàng chiến đấu khi nhận lệnh. Chính quyền tôi gánh vác quốc gia mà đã hoàn toàn bị cộng sản sắp đặt sẵn các tổ chức-với quân đội bên trong biên giới của chúng tôi. Đây là di sản của tôi. Nhân dân rốt cuộc ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa vì những tiến bộ và sự tôn trọng cá nhân. Cộng sản mất chứ không đạt được sức mạnh, cho nên chính vì sự thành công của chúng tôi mà họ đã bắt đầu mở ra cuộc chiến tranh tổng lực vào tháng Hai 1960.

Wiley : Ông dường như rất giận những người chỉ trích ông. Ông có nghĩ tất cả họ đều là cộng sản hay thân cộng ?

Ngô Đình Diệm : Không, không. Kẻ thù rất quỷ quyệt. Khi họ muốn thực hiện chính sách, họ mượn tay những người ở Thế giới Tự do đẩy mạnh nó.

Wiley : Còn những lời góp ý từ những người không cộng sản về cách cải thiện tình hình ở đây thì sao ? Họ tố cáo ông bỏ qua nhiều góp ý hay.

Ngô Đình Diệm : Ở Hoa Kỳ nhiều người nói về những vấn đề ở ngoại quốc mà không có sự hiểu biết đúng đắn để hiểu chúng. Nước ông rất giàu và có rất nhiều người tài được đào tạo rất tốt. Các ông có thể tiến hành những thử nghiệm táo bạo-và nếu chúng thất bại thì thay thế những người đứng đầu và sửa những thiệt hại. Những nước nhỏ không có những người thay thế cũng như không có ngân quỹ dự trữ. Các ông không thể đưa những phương pháp Mỹ vào Việt Nam là nước vừa kém phát triển lại vừa phải đối diện với nguy cơ trước mắt. Ở đây không có thử nghiệm-chỉ có sống hay chết. Một sai lầm lớn là tất cả mọi thứ đều không còn.

Charles W. Wiley

Nguyên tác : "Diem from the Grave", National Review, 19/11/1963, trang 426. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

***********************

Ngọc nát còn hơn ngói lành

Thomas A. Lane, Trần Quốc Việt dịch 

Tướng Tôn Thất Đính mở cuộc tấn công vào Dinh Gia Long vào ngày 1 tháng 11, 1963. Tổng thống Diệm gọi Đại sứ Lodge để hỏi chính sách Hoa Kỳ về cuộc phản loạn này. Lodge đáp, "Tôi muốn đưa ông rời khỏi nước an toàn".

tongthong6

Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu

Lực lượng tấn công hẹn cho Tổng thống đến 8 giờ sáng mai phải đầu hàng. Trong đêm ấy ông Diệm và ông Nhu thoát ra khỏi dinh đến nhà một người bạn ở Chợ Lớn. Họ nhận được nhiều đề nghị tỵ nạn từ nhiều đại sứ sẵn sàng giúp đỡ, nhưng anh em nhà họ Ngô không phải là hạng người trốn tránh đồng bào mình ở trong tòa đại sứ ngoại quốc.

Vào sáng hôm sau họ đến nhà thờ Cha Tam tham dự thánh lễ. Hôm ấy là ngày Lễ Các Đẳng Linh hồn, ngày mà người Công giáo dành ra để cầu nguyện cho những người đã qua đời. Họ cầu nguyện.

Họ báo cho Hội đồng Quân nhân biết nơi họ đang ở. Những chiếc xe quân đội đến đưa họ về bộ Tổng tham mưu. Họ bị còng tay và bị đẩy lên xe. Trên đường đến bộ Tổng tham mưu, họ bị Đại úy Nguyễn Văn Nhung hạ sát. Nhung là sĩ quan tùy viên của Tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân – mà mới vào ngày hôm trước đó thôi còn là cố vấn quân sự cho Tổng thống Diệm.

Tướng Minh khôn hay hèn ? Phải chăng ông không có can đảm đối diện với người mà đã ban vinh dự cho ông nhưng cũng là người mà ông đã phản bội. Hay ông biết rằng chừng nào ông Diệm còn sống thì nhân dân sẽ không chấp nhận bất kỳ nhà lãnh đạo nào khác. Tướng Minh về sau nói với Marguerite Higgins : "Diệm không thể nào được phép sống vì những người chất phác, cả tin ở vùng quê, đặc biệt người Công giáo và người tỵ nạn hết sức kính mến ông ta".

Trần Văn Hương, cựu Đô trưởng Sài Gòn và Thủ tướng (1964-1965) nói về cuộc đảo chánh :

"Những kẻ sợ hãi nhất chính là những tướng lãnh cao nhất quyết định giết Tổng thống Diệm và bào đệ ông. Những tướng lãnh này biết rất rõ rằng họ không có tài, cũng chẳng có đức, chẳng có sự ủng hộ nào cả của dân chúng, cho nên họ không thể nào ngăn cản nổi sự trở lại ngoạn mục của Tổng thống và ông Nhu nếu như hai người còn sống".

Bi kịch sâu sắc của sự phản bội này được thể hiện rất rõ ang qua tư cách của những người tham dự. Về những phẩm chất căn bản của con người như tài năng, đạo đức, chính trực và sáng suốt thì Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu cao hơn rất nhiều những người đề ra chính sách của chính quyền Kennedy mà đã tiêu diệt họ. Chính sách Mỹ phản ánh không những sự yếu kém về đạo đức và thiếu nhất quán mà còn những nhận thức hoàn toàn sai lầm về những vấn đề sinh tử. Đây là bi kịch lâu đời về quyền lực giết chết đức độ.

Ngô Đình Diệm là một trong những người đích thực vĩ đại của Thế kỷ Hai mươi. Về sự sáng suốt, về cốt cách đạo đức, về thành tựu lớn lao vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua được, về tài năng lãnh đạo và lòng yêu nước của ông thì hết thảy đều thuộc tầng cao nhất. So ra, tài năng của những người Mỹ đề ra chính sách của cả hai ngành Hành pháp và Lập pháp của chính quyền Mỹ là tầm thường.

Khi ông nhậm chức thủ tướng vào năm 1954, Ngô Đình Diệm nói với nhân dân ông : "Tôi tiến hãy theo tôi ! Tôi lui hãy giết tôi ! Tôi chết hãy trả thù cho tôi !"

Luật tạo hóa bất di bất dịch đã trả thù cho cái chết của ông qua một phần tư triệu thanh niên Mỹ thương vong trong độ tuổi thanh xuân. Có cái giá cho sự nhân nhượng. Nhân dân Mỹ đang trả giá cho tư cách và tài năng của giới lãnh đạo họ đã bầu lên.

Thomas A. Lane (cựu thiếu tướng Mỹ)

Nguyên tác : "America on Trial : The War for Vietnam", nhà xuất bản Arlington House, New Rochelle, New York, 1971, trang 139-141.Tựa đề tiếng Việt của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

************************

Gian hùng gặp anh hùng

Time, Trần Quốc Việt dịch 

Trong suốt Đệ Nhị Thế Chiến và theo sau hậu quả của cuộc chiến, người Nhật, người Pháp và phe cộng sản của Hồ Chí Minh tất cả đều đánh lẫn nhau vì Đông Dương ; tất cả đều muốn đạt được sự ủng hộ của Diệm, người Quốc gia, nhưng ông từ chối tất cả bọn họ vì chẳng ai trong họ ủng hộ "nền độc lập thực sự".

tongthong7

Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh trên tuần báo Times - Ảnh minh họa

Vào năm 1945, quân cộng sản của Hồ đánh vào dòng họ Ngô Đình phe Quốc gia, cộng sản bất ngờ tấn công vào dinh thự của họ ở Huế và đốt cháy toàn bộ bộ sưu tập sách gồm 10.000 cuốn của Diệm. Cộng sản bắt Diệm ; họ giam cầm người anh đáng kính của ông là Ngô Đình Khôi và chôn sống anh ông. Nhưng chỉ bốn tháng sau đó Hồ Chí Minh quyết định ông cần sự ủng hộ của nhiều người quốc gia thuần túy, cho nên đưa Diệm từ trong tù đến gặp ông.

Hồ nói với Diệm : "Ông hãy đến ở chung với tôi trong phủ".

Diệm : Ông giết anh tôi. Ông là tội phạm".

Hồ : Tôi chẳng biết gì về anh ông... Ông buồn phiền và tức giận. Ông hãy đến ở với tôi. Chúng ta phải cùng nhau đấu tranh chống Pháp.

Diệm : Tôi không tin ông hiểu tôi là loại người như thế nào. Ông hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là người sợ hãi không ?

Hồ : Không.

Diệm : Tốt. Vậy tôi đi ngay.

Hồ thả ông ra.

Theo Time

Nguyên tác : "The Beleaguered Man", Time, số 14, bộ 65, ra ngày 4/4/1955. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

Published in Tư liệu

Thêm h sơ gii mt : Thái đ ca Tổng thống Kennedy v v đo chánh Tổng thống Ngô Đình Dim

VOA : Theo mt công b mi v băng ghi âm và ghi chép ca Tòa Bch c, Tng thng John F. Kennedy ng h vic lt đ Tng thng Ngô Đình Dim ti min Nam Vit Nam vào cui năm 1963 hơn là được ghi nhn trước đó. Vic lt đ Tng thng Dim bng mt cuc đo chánh quân snh hưởng ln đến chính sách ca M và s can d ngày càng tăng ca M vào Vit Nam đã đin ra cách đây 57 năm. Ngay c bây gi nhng quan đim ca Tng thng Kennedy và mt s ph tá hàng đu ca ông v cuc đo chánh đã b che ph vì nhng tài liu không đy đ đã khiến cho các hc gi chú trng nhiu hơn đến thái đ ca nhng thuc cp ca Tng thng. Tuy nhiên vào lúc này, Văn kh An ninh Quc gia, mt vin nghiên cu và thư vin đc lp phi chính ph ti Trường Đi hc George Washington Washington D.C., ln đu tiên đưa ra nhng tài liu ca các văn kh M và Vit Nam m rng các ca v s kin quan trng này qua phn trình bày ca hai tác gi Luke A. Nichter và John Prados qua bài viết "New Light in a Dark Corner : Evidence on the Diem Coup in South Vietnam, November 1963" (Ánh sáng mi trong góc ti : Bng chng v cuc đo chánh ông Dim ti Nam Vit Nam, tháng 11/1963)

diem1

C Tng Thng Ngô Đình Dim

***

Vào năm 1963, na đường trong cuc dính líu ca M vào chiến tranh Vit Nam, các nhà hoch đnh chính sách ca chính quyn Kennedy cm thy tiến thoái lưỡng nan. Nam Vit Nam, mt phn ca nước Vit Nam trước kia, được M ng h, vn còn đang dn sâu vào cuc ni chiến gia chính ph chng cng được M h tr và du kích quân cng sn được Bc Vit đ đu.

Chính ph Việt Nam Cộng Hòa thi Tổng thống Ngô Đình Dim dưới nhãn quan người M

Các lc lượng chính ph dường như không biết làm cách nào đi phó vi Mt Trn Gii phóng Min Nam. Quân đi và các cơ quan tình báo M tranh cãi v s tiến trin ca chiến tranh. Trong khi ph nhn nhng nhn xét ca báo chí là Hoa K đang sa ly ti Vit Nam, chính quyn Kennedy nhn thc được nhng vn đ trong chiến tranh và n lc áp dng mi bin pháp đ truyn sinh lc cho Vit Nam.

Mt vn đ ln nm ti Sài Gòn, th đô min Nam, vi ngay chính ph Vit Nam. Đy dy tham nhũng, mưu đ chính tr, tranh chp ni b liên tc, min Nam Vit Nam thường xuyên bt đng ý kiến vi nhau.

Quan tâm chính ca người M là cuc chiến chng du kích Mt trn Gii phóng Min Nam, Nam Vit Nam ha cng tác nhưng thi hành rt ít. Còn có nhng khó khăn khác bt ngun t cách thc chính ph Vit Nam được thành lp lúc ban đu, và phương cách M giúp t chc quân đi Nam Vit Nam trong nhng năm 1950, nhưng tt c nhng yếu t đó không trc tiếp quan h đến biến c năm 1963.

Chính ph Sài Gòn do Tng thng Ngô Đình Dim lãnh đo. Ông là mt nhà lãnh đo đc tài, gia đình tr, đánh giá cao quyn lc hơn là các quan h vi người dân Vit Nam hay tiến b trong cuc chiến chng cng sn. Ông Dim lúc đu lên cm quyn bng nhng phương tin hp pháp, ông được b nhim làm th tướng chính ph có t năm 1954, và sau đó ông cng c quyn hành bng mt lot các cuc đo chánh quân s, bán đo chánh, tái t chc chính ph, trưng cu dân ý và cui cùng là mt lot các cuc bu c tng thng được dàn dng.

Ông Dim gi Nam Vit Nam là mt nước Cng hòa và ông gi chc v Tng thng, nhưng ông cm các đng phái chính tr, ngoài đng ca ông và t chi cho phép đi lp hp pháp. T năm 1954 tr v sau, Hoa K thúc đy ông Dim ci cách chính tr, và ông Dim liên tc ha ci cách nhưng không bao gi thi hành.

Đường li lãnh đo đc tài ca ông Dim không làm dân chúng Nam Vit Nam hài lòng và dân chúng càng ngày càng không thích ông Dim. Mt cuc đo chánh quân s chng ông Dim vào tháng 11/1960 nhưng ông thoát him do có chia r trong gii lãnh đo quân đi. Ông Dim khai thác vic này đ to ra các phe phái chng đi ln nhau giúp ông vn ti v.

Vào tháng 2/1962, hai phi công bt mãn th bom dinh Đc lp nhm giết ông Dim và có lãnh đo mi nhưng lúc đó ông không có mt ti khu vc b đánh bom. Ông Dim tái phi trí li các sĩ quan đ ci thin an ninh cho ông nhưng ông vn không ci t chính tr.

Chính quyn tng thng Kennedy t năm 1961 đến năm 1963 liên tc gia tăng mc vin tr quân s cho Sài Gòn, tài tr vic gia tăng các lc lượng vũ trang Vit Nam. Quân đi M và tình báo quân đi M, chú trng đến vic ci thin, đến t s ln mnh gia chính ph và du kích tiếp sau vic gia tăng lc lượng và cho rng cuc chiến thành công. Các nhà ngoi giao và các gii chc vin tr bi quan hơn. Cơ quan Tình báo Trung ương M CIA được lnh đánh giá tình báo vào mùa xuân năm 1963, đã cho phép quan đim ca h b quân đi tác đng và đưa ra mt đánh giá v tình báo quc gia, h gim vic ông Dim yếu kém v chính tr. Tng thng Kennedy nghe nhng cnh cáo t các gii chc B Ngoi giao và nhng hình nh màu hng ca quân đi, và cm thy an tâm v nhng đánh giá ca CIA.

Cm tưởng ca Tòa Bch c b tiêu tan bt đu vào ngày 8/5 khi lc lượng an ninh Nam Vit Nam, hành đng theo lnh ca mt trong nhng anh em ca ông Dim bn vào mt đám đông Pht t tun hành k nim Pht Đn 2527 năm. Lý l đ gii tán cuc tun hành này không quan trng hơn vic các Pht t bt chp mt lnh cm treo c Phật giáo ngoài c Nam Vit Nam. Mt người anh ca ông Dim là Giám mc Công Giáo La Mã trong cùng khu vc ti Nam Vit Nam đã treo c mà không b trng pht ch vài tun trước khi ông được thăng chc trong giáo hi. Người Pht t có th được khuyến khích bng hành đng này nên nghĩ rng hành đng ca h cũng được cho phép như vy. Vic đàn áp cuc tun hành ca Pht t ti c đô Huế đã to nên mt cuc khng hong chính tr có tên là "cuc khng hong Phật giáo" bùng n ti Sài Gòn trong sut mùa hè và mùa thu năm 1963.

Tuy nhiên hai anh em ông Dim liên h đến cuc đàn áp ti Huế không phi là vn đ chính ca lãnh đo ti Sài Gòn. Ông Ngô Đình Nhu ngi trong Dinh Đc lp vi tư cách là c vn, người lôi kéo công lun, phái viên và người git giây ca chính ph Sài Gòn. Ông Ngô Đình Nhu được người dân Nam Vit Nam xem là mi đe da hơn ông Dim. Ông điu khin đng ca ông Dim, mt s cơ quan tình báo, và Lc lượng Đc bit được thành lp theo mt trong nhng chương trình vin tr ca M.

Ông Nhu có mt quan đim rt tiêu cc v nhng rc ri do Phật giáo gây ra. Ông Dim đi phó vi cuc khng hong Phật giáo. Có lúc ông bác b nhng chuyn đã xy ra và ha ci cách chính tr và tôn giáo và thương thuyết v mt tm ước vi các Pht t được thc hin ti Sài Gòn. Tuy nhiên ông Nhu khuyến cáo nhà lãnh đo Nam Vit Nam rút li tha thun và mt ln na ông không ban hành nhng nhượng b v chính tr như đã tha thun.

Nhng cuc biu tình ca Phật giáo đến Sài Gòn vào cui tháng 5 và hu như tr thành hàng ngày. Vào ngày 11/6 chng đi chính ph đt mt mc đ mi sau khi mt nhà sư t thiêu ti ng tư mt đường ph đông người như là cao đim ca cuc biu tình. Hình nh cuc t thiêu làm c thế gii kinh hoàng và lm cho cuc khng hong Phật giáo tr thành mt vn đ ti M đi vi tng thng Kennedy, hin phi đi phó vi nhng vn đ gay go trong vic vin tr kinh tế và quân s cho mt chính ph rõ ràng vi phm nhân quyn đi vi người dân ca h.

CIA thêm vào mt ph lc trong bn đánh giá tình báo trước đây v vin nh chính tr ca ông Dim, và tình báo B Ngoi giao đưa ra mt phúc trình tiên đoán nhng rc ri chính ti Sài Gòn.

Tình hình ti t thêm ca Tng thng Dim khiến ông phi tuyên b thiết quân lut vào tháng 8/1963 và vào ngày 21/8, dùng quyn hn thiết quân lut đ b ráp chùa chin ca nhng nhóm đng đng sau các cuc biu tình. Ông Nhu tiến hành cuc b ráp như th là các ch huy quân đi đng đng sau nhng cuc b ráp đó và s dng lc lượng do CIA tài tr đ thc hin cuc b ráp.

Đo chánh quân s

Theo tài liu ca Thư vin Tng thng John F. Kennedy và ca Cơ quan An ninh Quc gia thì Giám đc CIA lúc by gi là John A. McCone đã thuyết trình cho Tng thng Kennedy trong vòng 24 gi sau khi mt tướng lãnh quân đi Min Nam Vit Nam tiếp xúc vi nhân viên tình báo M Lucien Conein ti Sài Gòn. Tướng Trn Văn Đôn nói vi ông Conein vào ngày 8/7/1963 là có nhng kế hoch ca quân đi lt đ Tng thng Dim, nhưng ông không cho biết ngày gi rõ rt, ch nói là trong vòng 10 ngày. Ông cho biết là tt c tướng lãnh, tr mt hay hai người, đng ý vi kế hoch đo chánh. Tướng Đôn nói thêm là quân đi cn phi hành đng đ ngăn Vit Cng li dng cuc khng hong Phật giáo đang tiếp din. Ngoài ra ông McCone còn nói là còn có mt âm mưu khác do Bác sĩ Trn Kim Tuyến, cu giám đc mt v ca ông Dim d trù thc hin vào ngày 10/7 vi s hp tác ca mt s thành phn trong quân đi. Nhưng cui cùng ông Tuyến được c làm đi s Vit Nam ti Ai Cp. Trong mt bn ghi nh gi Tng Thng Kennedy ngay trước phiên hp 4 gi chiu ng ày 27/8/1963, ông Michael V. Forrestal, ph tá hàng đu ca C vn An ninh Quc gia, McGeorge Bundy, nói có báo cáo v mt âm mưu đo chánh do ông Trn Quc Bu, ch tch Tng liên đoàn Lao công Vit Nam, đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tng thng nếu thành công.

diem2

Trích xut công đin "ti mt" ngày 9 tháng By, 1963 : "Nam Vit Nam vn tiếp tc cng đu đi vi vn đ Pht Giao chưa th gii quyết và mt âm mưu đo chánh ngày càng gia tăng chc chn".

V phn M, Tng thng Kennedy quyết đnh thay đi s M ti Sài Gòn là Frederick E. Nolting và c ông Henry Cabot Lodge thay thế. Ngày 18/8/1963, đi s Cabot Lodge gp Tng Thng Kennedy ti Phòng Bu dc Tòa Bch c. Tng thng Kennedy bày t ý kiến là cn phi làm mt chuyn gì đó đi vi ông Dim nhưng ông chưa chc chn là ngoài ông Dim, M có th ng h ai ti Sài Gòn. Tng thng Kennedy mun ông Cabot Lodge đánh giá vic này. Trước khi đi Vit Nam ông Lodge đã có gp ông bà Trn Văn Chương, Đi s Vit Nam ti M và là b m ca bà Trn L Xuân, v ông Ngô Đình Nhu. Đi s Cabot Lodge đến Vit Nam trình y nhim thư lên Tng thng Dim ngày 26/8/1963.

Ti Tòa Bch c, trong 3 ngày 26, 27 và 28/8/1963, Tng thng Kennedy hp vi các ph tá, c vn, Hi đng An ninh quc gia, gii chc cao cp B Ngoi giao, B Quc phòng, Cơ quan Trung ương tình báo đ tho lun v yêu cu đo chánh ti Vit Nam.

Vào lúc này, Đi s Cabot Lodge ti Sài Gòn đã nhn được đin văn ca ông Roger Hilsman, Tr lý Ngoi trưởng M ph trách Vin Đông S v thường được gi là DepTel 243 đ tr li cuc tiếp xúc gia Tướng Trn Văn Dôn và gii chc CIA cao cp ti Sài Gòn Lucien Conein ngày 23/8, nêu rõ lp trường ca chánh ph M là loi b ông Ngô Đình Nhu và nếu ông Dim t chi thì ông Dim cũng s chu chung s phn.

diem3

Công đin ti mt ca B Ngoi Giao M yêu cu "có hành đng lp tc", có đon "bây gi thì đã rõ có phi quân đi đ ngh lnh thiết quân lut hay ông Nhu nh h vào cái by y…"

Cuc tho lun trong 3 ngày cui tháng 8 xoay quanh vn đ liu có xác nhn nhng ch th trong đin văn ca ông Hilsman hay không. Ti các cuc tho lun này có hai phe rõ rt. Các ông Hilsman, Averell Hariman, th trưởng ngoi giao ph trách chính tr s v và viên chc Hi đng An ninh Quc gia Michael Forestall đng ý v đo chánh, trong khi mt s người chng đi đng v phía cu đi s Nolting. Chng đi v phía quân đi có Đi tướng Maxwell Taylor, ch tch y ban Tham mưu Hn hp và Tướng Krulak. Ngoài ra phe chng đi còn có Giám đc CIA John McCone và William Colby, Trưởng ban Vin Đông ca CIA. Tng thng Kennedy đóng vai điu hp các cuc tho lun. Ông cũng xem B trưởng Quc phòng Robert McNamara và em ông, B trưởng Tư pháp Robert F. Kennedy, là nhng người chng đi khác.

Các gii chc M cũng bt đng ý kiến v người lãnh đo sau khi hai ông Dim, Nhu b lt đ. Không như cu Đi s Nolting cho rng không có ng c viên nào c thì Văn phòng Tình báo và Nghiên cu B Ngoi giao (INR) đưa ra mt danh sách dài và nhn mnh rng "Chúng tôi tin là Vit Nam không phi đi mt vi bt c s thiếu vng nào v người lãnh đo hu hiu không Cng Sn". Ông Thomas L. Hughes, giám đc INR ngày nay vn t hào v danh sách các chuyên gia ca ông tp hp vào năm 1963.

diem4

Công đin mt 25/10/1963 : Danh sách các nhân vt dân s được xem là có th thay thế tng thng Ngô Đình Dim hu đo chánh.

Ngày kế tiếp, INR son tho mt tài liu v "vn đ ông Nhu" trong đó các nhà phân tích nói rng theo nhn xét ca người min Nam Vit Nam thì ông Nhu đã tr nên mt quyn lc chế ng ti Sài Gòn, hành x "mt nh hưởng bt di bt dch, không đếm xa gì đến ông Dim".

Trong mt phúc trình đ ngày 24/7/1963 v mt cuc gp vi ông Ngô Đình Nhu, văn phòng trưởng CIA ti Sài Gòn, John Richarson, nói ông Nhu cho rng các Pht t tuyên truyn cho cng sn và che du cán b cng sn trong s các nhà sư ti mt s chùa quan trng nht. Ông Nhu cũng bt đu tiếp xúc hàng tun vi các tướng lãnh Quân đi Vit Nam Cng hòa (ARVN) và nói v cuc đo chánh-và ông nói vi CIA rng đây là mt cuc "phân tích tâm lý" nhm làm cho các sĩ quan này tiết l ý đnh ca h. Phúc trình ông Richardson đưa ra nhn xét là ông Nhu đang chun b cho mt cuc đo chánh trong mt trường hp nào đó chng li ông Dim và ông là người lãnh đo cuc đo chánh.

diem5

Báo cáo ca CIA ngày 24/07/1963 trong đó đ cp đến các nhn đnh ca ông Ngô Đình Nhu v vn đ Vit Cng xâm nhp Phật giáo.

Nhng người thân cn vi Tng thng Kennedy kết lun là ông Nhu phi ra đi và nếu ông Dim t chi loi b ông Nhu thì ông Dim cũng s phi ra đi.

Qua đến tháng 9/10, Washington tìm cách nêu lên lp trường bng cách cu xét vic di tn công dân M, rút quân và ngưng vin tr ca CIA cho lc lựơng đc bit Vit Nam. Tng thng Kennedy mun hiu tình hình cn k hơn nên đã c nhiu toán nghiên cu đến Sài Gòn, trong đó có ông Huntington Seldon ca CIA, b trưởng Robert McNamara, tướng Maxwell Taylor, tướng Krulak và ông Joseph Mendenhall. Tt c các toán này tường trình cho Tng thng Kennedy, xác nhn nhng điu INR đã viết trong tài liu "vn đế ông Nhu".

Vào ngày 15/9 Ngoi trưởng Dean Rusk gi đin cnh báo đi s Cabot Lodge là v đo chánh nêu trong đin tín ca ông Hilsman "hoàn toàn ngưng li" và không nên có n lc nào đ khơi đng bt c âm mưu đo chính nào. Chưa có quyết đnh nào được Washington đưa ra. Cùng lúc đó đi s Cabot Lodge dính líu đến mt v tranh chp vi CIA v vic thay đi người đng đu CIA ti Sài Gòn. Trong khung cnh này, Tướng Trn Thin Khiêm yêu cu có cuc gp vi CIA. Cuc tiếp xúc và cuc hp sau đó báo cho M biết là ông Nhu đang tìm cách tiếp xúc vi Hà Ni và nhc li kế hoch đo chánh vn còn và thông báo vi CIA là quân đi đang ch ông Dim tr li đòi hi ca quân đi có chân trong ni các.

Vào ngày 5/10, tướng Dương Văn Minh gp ông Conein vi tư cách là người cm đu cuc đo chính nhc li li yêu cu vào tháng 8 là M bày t s ng h cuc đo chánh và đm bo vi nhân viên CIA là cuc đo chánh s xy ra trong tương lai gn và phác ha mt vài gii pháp đo chánh. Tướng Minh nói gii pháp "d nht" là ám sát hai người em ca ông Dim và vn gi ông Dim là mt người lãnh đo không thc quyn.

Sau đó, Tòa Đi s M và văn phòng CIA Sài Gòn đóng vai trò tích cc hơn trong tư cách quan sát viên ca vic đo chánh ti Min Nam Vit Nam. T đó có thêm nhiu cuc tiếp xúc vi các tướng lãnh Vit Nam.

Theo tài liu ca CIA, t ngày 23/8 đến 23/10/1963, các tướng lãnh Vit Nam đã gp nhân viên CIA tt c 21 ln đ chuyn đt tin tc v cuc đo chánh và dò xét thái đ ca M đi vi đo chánh. Phn ln nhng cuc hp này ch có mt hay hai tướng đi din trong đó có các tướng Trn Văn Đôn, Trn Thin Khiêm, Nguyn Khánh, Tôn Tht Đính, Lê Văn Kim và Dương Văn Minh. Riêng ln gp ngày 29/8, ngoài các tướng lãnh còn có mt người không thuc gii quân nhân là ông Bùi Dim, thuc Đng Đi Vit, tháp tùng Tướng Lê Văn Kim trong cuc tiếp xúc vi phía M.

doem6

Mt h sơ gii mt được gii mt liên quan đến tài liu v ám sát tng thng Kennedy.

Ngày 29/10/1963, Tng thng Kennedy triu tp mt phiên hp vi các c vn có s tham d ca Phó Tng thng Johnson, B trưởng Quc phòng McNamara, Tướng Tay lor và Tướng Krulak đ duyt li mt ln na v vic có nên hay không nên ng h đo chánh ca các tướng lãnh Vit Nam. Trong phiên hp này ngoi trưởng Dean Rush lo ngi v kh năng giao tranh kéo dài gia hai phe ng h và chng đo chánh có th làm nhiu người chết. Mt lo ngi khác na ca ông là trường hp mt hay c hai bên đu kêu gi M ng h thì phi gii quyết ra sao. B trưởng Tư pháp Robert Kennedy thì cho rng v quan đim ca M thì cuc đo chánh không có ý nghĩa vì đt tương lai c Vit Nam và ca Đông Nam Á vào tay nhng người M không biết rõ. M ch biết ông Dim là mt người tranh đu và s tranh đu đến cùng. Ông kết lun là M phi đóng mt vai trò chính trong vic tìm hiu kế hoch ca phe đo chính ra sao và nh hưởng đ cuc đo chánh có nên din ra hay không. Ông ch ra rng dù M có làm hay không làm thì M v n b đ li cho kết qu. Tng thng Kennedy khuyến cáo là phe đo chánh nên được có ưu thế v quân s. Tng thng giao cho Đi s Cabot Lodge tìm hiu xem lp trường ca các đơn v quân đi chính đi vi cuc đo chính như thế nào.

Cuc đo chánh thc s bùng n ngày 1/11/1963 và anh em ông Dim Nhu b giết ngày 2/11/1963. Trước đó, vào lúc 4 gi rưỡi chiu ngày 1/11/1963, Tng thng Ngô Đình Dim gi cho Đi s Cabot Lodge yêu cu cho biết v thái đ ca M đi vi cuc đo chánh. Đi s Lodge tr li là ông có nghe tiếng súng n, nhưng ông không biết rõ các s kin và không có thông tin đy đ đ tr li. V li ti Washington là 4 gi rưỡi sáng nên chính ph M không th nào có quan đim chính thc vào lúc này. Ông Cabot Lodge bày t s lo ngi v an toàn ca tng thng Dim và hi thêm là tng thng có biết phe đo chánh đ ngh hai anh em ông ra nước ngoài nếu ông t chc hay không thì ông Dim tr li không biết. Ông Cabot Lodge kết thúc câu chuyn bng cách ha là ông s làm đ mi cách có th được đ bo đm an toàn cho ông Dim nếu ông Dim gi cho ông.

diem7

Tài liu ghi li cuc nói chuyn ca Tổng thống Ngô Đình Dim và Đi s Cabot Lodge, 1/11/1963, ngày đo chánh : "4 gi 30 chiu ngày 1 tháng 11, 1963, ph Tng thng liên lc tư dinh chúng tôi. Tổng thống Dim đòi nói chuyn vi đi s [Lodge]".

Ti Washington, khi nhn được tin này, tng thng Kennedy không tin là hai ông Dim Nhu t t vì c hai là tín đ Công Giáo.

Báo cáo ca CIA gi v Washington nói rng h tin hai anh em Dim Nhu b giết thay vì t t như mt s tin. Đi s Cavot Lodge lái xe chy vòng quanh Sài Gòn và được hoan hô. Không có ch du cho thy có tình cm chng M. CIA cho rng vic chng ni dy s gp tr ngi tm thi vì p chiến lược và chương trình bán quân s do ông Nhu điu hành b gii tán.

Nguồn : VOA, 14/11/2022

Published in Tư liệu

Da trên các đon băng ghi âm ca Nhà Trng mi được công b, Cơ quan Lưu tr An ninh Quc gia đt ti Đi hc George Washington th đô ca Hoa K hôm 1/11 nhn đnh rng hi cui năm 1963, Tng thng John F. Kennedy "có khuynh hướng ng h vic phế trut Tng thng Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Dim hơn người ta nghĩ trước đây".

diem1

Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp Tướng Maxwell Taylor, cố vấn cao cấp về quân sự của Tổng thống Kennedy trong cuộc gặp ở Sài Gòn

T chc phi chính ph trên đưa ra đánh giá như vy đúng ngày đánh du 57 năm xy ra cuc đo chính đã khiến ông Dim và em trai mt mng.

Theo Cơ quan Lưu tr An ninh Quc gia, quan đim ca ông Kennedy v vic loi b ông Dim tr nên rõ ràng hơn trong các đon thu âm cuc gp ca nguyên th M và tân Đi s Hoa K Sài Gòn Henry Cabot Lodge Jr vào gia tháng Tám năm 1963, ngay trước khi nhà ngoi giao mi được b nhim này lên đường đi nhn nhim v.

Cơ quan này nhn đnh thêm rng cá nhân ông Kennedy biết v quan đim ng h ông Dim ca ông Frederick E. Nolting, người tin nhim ca tân Đi s Lodge.

Ngoài ra, vin nghiên cu và lưu tr tài liu trên cho biết rng đánh giá ca h cũng da trên các h sơ công b ngày 1/11, trong đó có bn ghi cuc hp ca Hi đng An ninh Quc gia ca Nhà Trng và báo cáo t min Nam Vit Nam ca CIA, cho thy vai trò ca các quan chc tình báo và ngoi giao M ti thc đa.

Hi cui tháng Mười năm 2017, hãng AP dn tài liu được gii mt khi đó nói rng Tng thng Lyndon B. Johnson tin là người tin nhim John F. Kennedy đng đng sau v ám sát ông Dim vài tun trước khi ông qua đi và v ám sát ông Kennedy là s báo ng.

Hãng M này trích tài liu đưa tin rng Giám đc Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa K Richard Helms cho biết trong mt phiên ly li khai vào năm 1975 rng ông Johnson "đã tng lan truyn tin tc nói rng lý do ông Kennedy b ám sát là vì ông y đã cho giết Tng thng Ngô Đình Dim và đây là s công bng ca công lý".

Đây không phi là ln đu tiên cái gi là "thuyết Johnson" được nêu ra. Mt cun sách ca tác gi Max Holland, vi ta đ "Các đo n ghi âm v v ám sát Kennedy", có trích dn li ông Johnson nói rng ông Kenney đã chết vì "qu báo".

Theo AP, ông Johnson được cho là đã nói : "Ông y đã cho sát hi ông Dim và sau đó chính mình li b giết".

Theo ông Ken Hughes, nhà s hc Trung tâm Miller thuc Đi hc Virginia, vai trò ca ông Kennedy trong v ám sát ông Dim vn còn gây tranh cãi.

Published in Tư liệu

Hôm 2/11, Giám mục Hoàng Đc Oanh nói vi VOA sau khi cùng vi các linh mc và hàng trăm tín đồ công giáo đã làm l cu nguyn cho c Tng thng Ngô Đình Dim nhân ngày gi th 55 ti Nghĩa trang Lái Thiêu tnh Bình Dương rng ngài Tng thng xng đáng được an ngh ti mt nơi đàng hoàng hơn.

diem1

Giám mục Hoàng Đức Oanh (phải) và các linh mục cầu nguyện cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày 2/11/2018. Photo : Thanh niên Công giáo

Từ Sài gòn, Giám mc Hoàng Đc Oanh cho biết ông đã cùng các linh mc dâng l cu nguyn cho người sáng lp nn Vit Nam Cng Hòa, người mà ông nói "luôn được mi người yêu quý, kính trng và sng mãi trong lòng người".

"Chúng tôi đến tưởng nh công ơn ca Ngài vì Ngài đã là mu gương tuyt vi cho chúng tôi v mt đo đc. Ngài là mt tín hu công giáo gương mu, mt lãnh đo yêu dân tc, yêu đt nước, yêu quê hương Vit Nam, đã đu tranh kiên cường cho nn đc lp Vit Nam. Ngài đã b giết mt cách thảm khc. Chúng tôi yêu mến Ngài và tưởng nh công ơn ca Ngài".

Giám mục Hoàng Đc Oanh nói dù bui l din ra suông s nhưng ông cho biết chính quyn đa phương vn luôn cho an ninh theo dõi và ghi hình.

"Ngày hôm nay tôi thấy (an ninh) khá yên tĩnh, không như nhng ln trước, không b phá phách. Vic b theo dõi thì đương nhiên ri !".

Linh mục Lê Ngc Thanh thuc Dòng Chúa Cu thế Sài Gòn viết trên Facebook : "Ti 300 người tham d, không k an ninh mt v khong 50 người !".

Tổng thng Ngô Đình Dim và em trai Ngô Đình Nhu b ám sát vào ngày 2/11/1963, sau một cuc đo chánh do các tướng lĩnh min Nam Vit Nam thc hin.

Một tài liu gii mt ca CIA vào tháng 10 năm 2017 cho biết cu Tng thng M Lyndon B. Johnson tin rng người tin nhim John F. Kennedy đng đng sau v ám sát ông Ngô Đình Diệm vài tun trước khi ông qua đi và cho rng v ám sát ông Kennedy là mt ‘qu báo’.

Cựu Giám mc Kontum nói ông ước mong có mt nơi đàng hoàng hơn đ c lãnh đo Vit Nam Cng Hòa an ngh :

"Chúng tôi ước mong có mt nơi dành cho Tng thng Ngô Đình Dim và bào đ ca Ngài – mt nơi xng đáng hơn, phù hp hơn. Có nhiu lãnh t người ta càng tô đim bao nhiêu thì càng xấu by nhiêu nhưng hình nh ca ông Ngô Đình Dim, cho đến gi phút này, ngày cng ta sáng thêm và càng huy hoàng hơn. Ông chính là ht lúa miến đã gieo vào lòng đt ca Vit Nam, nay đã tr thành cây lúa ln, và s mang li nhiu hoa trái cho dân tc".

Theo trang Kienthuc.net.vn, sau khi bị ám sát ngày 2/11/1963, ông Ngô Đình Dim và em trai được chôn ct khu đt phía sau B Tng tham mưu Quân lc chính quyn Sài Gòn. Được mt thi gian ngn, chính quyn Sài Gòn di m sang nghĩa trang Mc Đĩnh Chi ở Quận Nht. Vào năm 1985, chính quyn thành ph H Chí Minh gii ta nghĩa trang Mc Đĩnh Chi đ xây công viên Lê Văn Tám, các ngôi m phi chuyn v nghĩa trang Lái Thiêu.

Theo Linh mục Thanh, vào cui thánh l, Giám mc Hoàng Đc Oanh mong mun mt t chc nào đó ca người Vit hay thu thập tư liu và làm h sơ xin Tòa thánh Vatican nhìn nhn cá nhân anh hùng và gương sáng đc tin ca c Dim. Ông nói : "C xng đáng được người Công giáo tôn kính".

Vào tháng 3/2018, Chính quyền Vit Nam ln đu tiên m trưng bày s liu v biến c cuc đi ông Ngô Đình Diệm, Tng thng đu tiên ca Vit Nam Cng hòa, ti khuôn viên dinh Thng Nht thành ph H Chí Minh.

Dù cuộc trin lãm có nhan đ là "T dinh Norodom đến dinh Đc Lp 1868-1966", ban t chc đã dành mt gian riêng tng hai mt tòa nhà trong khuôn viên dinh Thống Nht, dùng đ gii thiu din biến ca cuc đi Tng thng Vit Nam Cng hòa Ngô Đình Dim, t ngày ông làm quan nhà Nguyn thi vua Bo Đi ri tr thành tng thng đu tiên ca min Nam Vit Nam.

Nguồn : VOA, 02/11/2018

***************

Người Việt ở Biển Hồ bị ‘di dồn’ và những lời hứa tại Bali (VOA, 02/11/2018)

Rắn rít, nước ngp, không điện, không nước, không nhà v sinh, không đường b… là nhng khó khăn mà người dân tm cư gc Vit huyn Boribo, tnh Kampong Chhnang, Campuchia gp phi khi h chuyn nhà thuyn ra khi khu Bin H t đu tháng 10 cho đến nay. Vì cuc sng khu tm quá bp bênh, khc nghit cho nên đêm đêm, hàng chc gia đình tìm cách thoát khi nơi đây, tìm đi nơi khác nương náu hoc đi ghe thng ra sông cái ln tìm đường v c hương. Thế nhưng người tha phương không d dàng chy thoát, mt s gia đình nói h bị viên chức đa phương chn li và "làm tin" và thm chí có gia đình mun v Vit Nam nhưng không có tin "lót tay" cho chính quyn.

diem2

i t ạm cư m ới của ngư dân g ốc Việt trên Biển Hồ, cách xa làng bè cũ khoảng 5 km, thuộc huyện Boribo, tỉnh Kampong Chhnang, Campuchia, ngày 1/11/2018. Ảnh do ông Trần Văn Tuấn cung cấp.

Trong tháng qua, kể t khi chính quyn Campuchia gii ta trng khu nhà bè trên Bin H hôm 1/10 đã có hơn 600 h trong s 800 hộ đã ra đi vì không kham ni cuc sng cơ cc nơi tái đnh cư. Các ngư dân gc Vit cho VOA biết trong khi nhng người còn li ch biết kêu cu và mong ch s tr giúp nhưng chính quyn li "né tránh, ha suông".

‘Di dồn’ ngư dân

Ông Nguyễn Văn Hiếu, 49 tuổi, mt di dân gc Vit đến Bin H cùng vi cha m năm ông 13 tui đ đánh bt cá, nói vi VOA rng hi đu tháng 10 có đến hơn 800 gia đình tng sng trên bè ni Bin H đã phi di chuyn thuyn bè đến nơi tm cư mi theo lnh gii ta ca chính quyền, nhưng cuc sng nơi mi thì thiếu thn đ th :

"Chính quyền Campuchia đui tt c chúng tôi vào trong rng. H ha s làm đường l, chy nước nhưng không biết có làm hay không. trên vt rng này rn rít bò lên nhà làm cho dân tình rt s. Không có đường đi, không nước sinh hot, không nhà v sinh nên gây mùi hôi thi".

Ông Tống Văn Sến, 37 tui, sinh ra ti vùng Bin H, cũng ging như hàng ngàn ngư dân khác cho đến nay vn chưa có quc tch Campuchia, nói vi VOA :

"Hai vợ chng em có hai đa con, cuc sng vô cùng khc kh, làm ăn đây rt khó khăn, không biết s ra sao khi không có đin – nước… Không có cái gì c. Nhà thì ni trên đt lùm, đt chìm, không có b. Ti em bàn tính đ đi, ch không li. Mình xin đi ra thì họ không cho. Ai đi mà b bt thì h pht, và h tước giy t. H ly luôn c giy mà mình đã đóng phí 250 ngàn rieh đ có được trước đây".

Từ tháng 12 năm ngoái, khi chính ph Campuchia thu hi giy t cũ được cho là cp sai qui đnh, một s người Việt cho biết h được h tr tr khon phí đăng ký giy t mi 250 ngàn rieh (khong 1,4 triu đng), được gi là th thường trú ngoi kiu, do các hi đoàn gc Vit ti Campuchia tài tr cùng vi s thu xếp ca cơ quan ngoi giao Vit Nam.

diem3

Trẻ em tại khu tạm cư m ới. Photo VOV.

Theo quy định hin hành ca chính ph Campuchia, người gc Vit dù đến Campuchia vào thi đim nào, min trước 2012, đu phi đăng ký 3 ln, c hai năm mt ln, cho đến năm th 7 thì có th xin vào quc tch Campuchia.

Theo các ngư dân, chưa ai trong s họ có quốc tch Campuchia và nếu như h quyết đnh chy thoát và không may b chn li và b tch thu giy đăng ký ngoi kiu, thì con đường mưu sinh trên đt Campuchia li càng thêm chông gai, tương lai càng mù mt.

Ông Hiếu chia s :

"Những người nào bè thì b đui đi hết. Người Campuchia thì còn được chuyn đến phía bên ngoài, gn đường l và gn mé sông, còn người Vit Nam thì b đui vô đây hết. đây ging như trong rng ngp nước, phía dưới nhà thì đy gai gc, cây đi lên sàn nhà, ghe bị thng chìm".

Ô nhiễm, bnh tt

Các ngư dân cho biết nơi tp kết mi là vùng đt trũng ngp nước, nhà ni ca h hin phía trên khu vc rng cây mai dương, nước ngp không có đường đi li, gây nh hưởng rt ln v sinh hot, môi trường. "Ch còn một vài ngày na thôi, khi nước rút xung thì cây ci s đâm thng thuyn bè". ông Hiếu lo lng.

Sau một tháng b dn đến nơi đm ly hoang dã, ngư dân Trn Văn Tun, 53 tui, chia s :

"Chính quyền di dn, đui dân lên đt cây, lên rng rm, nơi nguy him không có nước sinh hot, không nơi cha nước thi, b ô nhim. Bà con phi tm git bng nước dơ mang mm bnh. Thm chí ông sư thy tr trì chùa hơn 50 năm va chết vì sanh bnh cách nay hai ngày".

Ông Hiếu cho biết có hơn 600 gia đình bỏ nơi tm cư mi ra đi và gia đình ông cũng mun chy thoát nhưng chưa thc hin được.

Ông nói sống đó như b giam lng :

"Họ không cho chúng ta ra ngoài. Nhng người ra đi lin b h áp ti vô tr li và b h pht rt nhiu tin. Tôi cũng mun ra ngoài nhưng không đi được. Nếu h không cho ra thì ch còn khong 2-3 ngày na nước rút xung thì chúng tôi b mc cn, không kéo nhà ra được. Chúng tôi ngày đêm lo lng, bàn tính chc s b nhà bè mà đi, ch không còn đâu được".

Ngài Đại s "làm không xu"

Trong một email phn hi VOA hôm 30/10, ông Vũ Quang Minh, Đi s Vit Nam ti Campuchia, cho biết công vic chun b cho tái đnh cư cho người gc Vit ca chính quyn Phnom Penh "chưa được t chc tt".

Hôm 29/10, phát biểu khi đến thăm các h dân gc Việt thuộc din di di huyn Boribo, Đi s Vũ Quang Minh cho biết Chính ph Vit Nam cũng như cng đng người Campuchia gc Vit luôn ng h ch trương di di người dân sng trên Bin H ca Chính ph Campuchia, "v nguyên tc, đây là ch trương đúng đn đ gii quyết vn đ môi trường, n đnh đi sng lâu dài cho người dân", theo đài VOV.

Ông cũng ghi nhận rng khu vc di di chưa đm bo các điu kin h tng cn thiết như : Đin, đường, nước sinh hot, đc bit là h thng thoát nước và cht thi.

diem4

Đại sứ Việt Nam Vũ Quang Minh nói chuyện với các ngư dân ng ười Việt tại nơ i t ạm cư , ngày 29/10/2018. Photo VOV .

Hôm 1/11, ông Hiếu nói Đi s Vũ Quang Minh có đến thăm nơi tái đnh cư mi ca làng bè, cách nơi cũ khong 4-5 km, và nhà ngoi giao Vit Nam có v tht vng trước nhng li ha ca chính quyn Campuchia.

Ông Tuấn nói các nhà ngoi giao Vit Nam "làm không xuể" trước vic mnh tay gii ta và b mc ca chính quyn tnh Kampong Chhnang.

Bất lc trước cnh này, ông Sến nói nếu tình hình không thay đi thì gia đình ông cũng như các gia đình khác s thu dn đ đc xung ghe v lãi mà quyết chy trn.

"Cho đến nay vẫn chưa nghe đến vic được h tr gì. Đã kh ri ! Mình lên xin hoài mà người ta c kêu ch, mình ch hoài t 1/10 đến bây gi, c tháng ri !".

Hôm 1/11, ông Tuấn nói ông mạnh mẽ lên án việc chính quyền Thủ tướng Hunsen hứa hẹn và cam kết hỗ trợ ngư dân không thực hiện.

"Thủ tướng Hunsen có ha vi Th tướng Vit Nam Nguyn Xuân Phúc ti Indonesia hôm 11/10 là s làm đường, dn đin, có trm xá, trường hc đ bà con n đnh lâu dài ri mi di di bà con lên. Nhưng bên này không giữ li ha, chính quyn đa phương tráo tr. Hunsen nói là ch đo xung nhưng chính quyn đây thì làm ngơ. Đi s Vũ Quang Minh xin gp tnh trưởng đ yêu cu h tr, nhưng h nói bn, hơn mt tun nay chưa gp được".

Bên lề cuc gp các nhà lãnh đo ASEAN (ALG) và Hi ngh Thường niên ca Qu Tin t Quc tế và Ngân hàng Thế gii (IMF - WB) ti Bali, Indonesia, ông Hun Sen nói đã trc tiếp ch đo Tnh trưởng Kampong Chhnang x lý đ ngh ca ông Phúc v vic bo đm di di có thi gian quá đ phù hp, tránh làm xáo trn đi sng người dân trên Bin H.

VOA đã liên lạc vi B Ngoi giao và B Ni v Campuchia, và chính quyn tnh Kampong Chhnang, nhưng chưa được phn hi.

Gia đình ông Tuấn, ông Hiếu và ông Sến, cũng như hàng trăm gia đình b di di, khn thiết đ ngh chính quyn Campuchia cho phép h di chuyển ti đa đim tm cư mi đ điu kin sng ti thiu, bo đm v sinh môi trường và có th mưu sinh trong thi gian ch đi chính quyn tìm các bin pháp cho bà con tái đnh cư lâu dài, hoc nếu chưa có đa đim phù hp thì cho phép h quay tm tr li nơi cũ.

Vào cuối tháng 9, Nht báo Phnom Penh Post dn li thng đc tnh Kampong Chhnang, ông Chhour Chandoeun, nói rng vic di di là cn thiết đ "duy trì cht lượng nước", vì các làng ni đã gây ô nhim và tàn phá h sinh thái trong h.

Bộ Thông Tin Cambodia dẫn li mt gii chc đa phương khác cho hay, nhng người sng trên đon sông Tonle Sap chy qua Thành ph Kampong Chhnang, th ph tnh cùng tên, s được di di ti mt khu đt rng 40 héc ta, nhưng dường như đây ch là mt khu đt hoang ngập nước.

Trong các cuộc gp vi lãnh đo cp cao ca Campuchia vào cui tun trước, bà Trương Th Mai, Trưởng ban Dân vn Trung ương, đã nhc li các đ ngh ca Th tướng Nguyn Xuân Phúc trước đó v vic đm bo h tng thiết yếu và không làm xáo trn đi sống người dân tái đnh cư, nhưng hu như chưa nhn được phn hi tích cc t phía Campuchia.

Vi phạm nhân quyn

Nhiều gia đình, trong đó phn đông là người Vit, chn Bin H làm nơi sinh sng t lâu đi. Kế sinh nhai ch yếu ca h da vào vic nuôi cá và ngun cá đánh bt được trong h nên có ý kiến cho rng khi b gii ta lên đt lin, h s mt ngun thu nhp chính và không biết sng da vào đâu.

Các tổ chc nhân quyn đã lên án v di di là tàn nhn, và nhiu người cho rng quyết đnh ca nhà cm quyn Cambodia có nguyên nhân sâu xa v chng tc.

diem5

Khu tạm cư mi ca ngư dân gc Vit. Photo VOV.

Ông Tuấn nói ông và nhiu ngư dân Bin H đã gi thư cho Cao y Nhân quyn LHQ t cáo rng vic chính quyn Campuchia đi x bt công vi người gc Vit là vi phm nhân quyn, phân bit chng tc.

"Họ luôn nói tôn trng nhân quyn, không phân bit chng tộc, nhưng hành đng trong tháng chng t rng h vi phm nhân quyn, đi k vi mình là người Vit Nam. H đàn áp và xem thường người Vit Nam".

Hàng ngàn người Vit Campuchia đã phi tr v Vit Nam bng thuyn và hin đang tm cư trong tình trng nghèo kh và vô t quc ti h Du Tiếng Tây Ninh, cũng như các tnh Long An, An Giang, Đng Tháp, Đng Nai và Kiên Giang.

Khi trò chuyện vi VOA cũng là lúc màn đêm buông xung khu tm cư ca người Vit vùng Bin H, ông Sến khăn gói các vt dng cn thiết sn sàng cho mt hành trình hi hương nếu có cơ hi, trong khi đó ông Hiếu thì dn con r xem ti nay nh châm thêm du vào máy đin, đ mt vào my cc nhn cây mai dương dưới sàn nhà ni, còn v ông đang kim tra xem bn nước ung có đ cho c thy by người hay không.

An Hải

Nguồn : VOA, 02/11/2018

Published in Việt Nam

Khi Bảo Đại đưa ông Diệm về làm Thủ tướng, một trận đấu đá đã xảy ra

Trong cuốn "Việt Nam Máu lửa Quê hương tôi" do Đỗ Mậu đứng tên, được Văn Nghệ xuất bàn tại Weatminster, California, năm 1993, nhóm viết cuốn sách này đã dựa theo những tài liệu truyền truyền của CSViệt Nam, cho rằng có ba cuộc vận động đưa ông Diệm về làm Thủ Tướng : Hồng Y Spellman, Ngoại Trưởng Foster Dulles và Phong Trào Bình Dân Thiên Chúa Giáo Pháp (MRP).

diem1

Quốc trưởng Bảo Đại

Nhưng trong cuốn "Vietnam, A history", một cuốn sách viết về lịch sử chiến tranh Việt Nam nổi tiếng của Mỹ, sử gia Stanley Karnow, lại viết hoàn toàn khác :

"Khi cuộc các cuộc thương thuyết tại Geneva gần kết thúc, cuối cùng Bảo Đại nhận thức rằng địa vị của ông treo mỏng manh như sợi tóc, ông ta mời ông Diệm đến. Người ăn chơi và nhà đạo đức không thích hợp nhau, nhưng họ có thể dùng nhau. Diệm coi Bảo Đại là con đường đưa đến chính quyền. Còn Bảo Đại nhìn thấy hai cái lợi ở ông Diệm. Thứ nhất Ngô Đình Nhu, em ruột ông Diệm, đã thành lập được Mặt trận Cứu nguy Dân tộc ở Sài Gòn, một cơ cấu xem ra được coi là một liên minh chính trị đáng tin cậy. Thứ hai Bảo Đại nghĩ rằng Diệm đã từng ở Hoa Kỳ, có thể đưa Mỹ vào chính trường Việt Nam thay thế Pháp mà sự có mặt sẽ chấm dứt trong những ngày gần đây. 

"Nhưng trái với chuyện hoang đường cho rằng (Ngoại trưởng) Foster Dulles, Hồng y Spellman và nhiều người Mỹ khác vận động đưa ông Diệm lên, Hoa Kỳ lúc ấy vẫn chưa chấp nhận Diệm. Quả thật các viên chức ngoại giao Mỹ tại Geneva đã từ chối khéo ông Luyện, em ông Diệm, khi ông thúc đẩy họ tiếp kiến ông Diệm. Trong khi đó chính phủ Pháp nhìn Diệm với sự thờ ơ."

(Stanley Karnow, Vietnam a History, Penguin Book 1984, tr. 234).

Bảo Đại nói rõ lý do đưa ông Diệm về

Trong cuốn hồi ký "Le Dragon d’Annam" do Plon, Paris, xuất bản năm 1980, Quốc trưởng Bảo Đại đã trình bày tình hình chính trị và những lý do cá nhân khiến ông mời ông Diệm làm thủ tướng với toàn quyền quân sự và dân sự như sau : 

"Chúng tôi không còn có thể trông cậy vào người Pháp được nữa. Tại bàn hội nghị Geneva, chỉ còn người Mỹ là đồng minh của chúng ta. Trước tình thế đang biến chuyển, họ muốn dựng nên một hệ thống phòng thủ mới tại Đông Nam Á. Họ có thể giúp chúng tôi tiếp tục cuộc chiến đầu chống cộng sản. Tại Sài Gòn thủ tướng chính phủ (Bửu Lộc) gặp phải sự chống đối mãnh liệt của những thành phần quốc gia được kết hợp lại trong phòng trào Đoàn Kết Quốc Gia do Ngô Đình Nhu lãnh đạo. Những thành phần này tiên thiên chống lại những quyết định sẽ được đạt đến tại Geneva. Tôi bèn triệu tập đến Cannes các lãnh tụ của tất cả các xu hướng chính trị và tôn giáo của Việt Nam để tham khảo ý kiến. Tôi giải thích cho họ những gì sẽ xảy ra, tôi cho họ biết tất cả đã được sắp xếp, kể cả việc phân chia đất nước. Tôi gợi ra sự cần thiết phải đem lại cho nước Việt Nam một hướng đi rõ rệt hơn, và đề nghị thay thế Hoàng thân Bửu Lộc trong chức vụ thủ tướng bởi ông Ngô Đình Diệm. Tất cả những người có mặt đã nồng nhiệt chấp thuận đề nghị của tôi".

Quốc trưởng Bảo Đại viết tiếp :

"Biết trước mình khó lòng theo đuổi được con đường đã vạch, Bửu Lộc đệ đơn xin từ nhiệm cho cả chính phủ.

"Sau khi thảo luận với ông Foster Dulles, để cho ông ta biết ý định ấy, tôi cho mời ông Ngô Đình Diệm và bảo ông ta :

- Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.

- Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu...

- Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.

Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp :

- Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.

"Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá, tôi bảo ông ta :

- Đây Chúa của ông đây. Ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.

"Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu rồi nhìn tôi, sau khi nhìn lên thánh giá, ông nói với một giọng nghẹn ngào :

- Tôi xin thề.

(Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, Plon, Paris 1980, tr. 514 - 515)

Ngày 16/06/1954 Thủ tướng Bửu Lộc từ chức. Bảo Đại ký Sắc lệnh số 38-QT cử Ngô Đình Diệm thành lập tân chính phủ.

Bốn mươi tám giờ đồng hồ sau, ông Diệm trở về Sài Gòn cùng với Hoàng thân Bửu Lộc để bàn giao quyền hành. Trước khi ra đi, Bảo Đại đã trao cho ông một đạo Dụ ủy cho ông mọi quyền hành về hành chánh cũng như quân sự. Nhưng khi ông Diệm vừa rời Paris thì một nhóm người Pháp thuộc Ngân hàng Đông Dương (Bank de l’Indochine) đã đến phản đối Bảo Đại về việc cử ông Diệm làm Thủ tướng. Họ sợ rằng ông Diệm sẽ gạt bỏ mọi quyền lợi về kinh tế và văn hoá của Pháp tại Việt Nam. Nguyễn Đệ, Đổng lý Văn phòng Quốc trưởng, và một số người thân cận với Bảo Đại cũng không đồng ý việc cử ông Diệm. Họ sợ ông thâu tóm hết mọi quyển hành.

Ngày 24/06/1954, ông đáp phi cơ hãng Air France rời Ba Lê và hai ngày sau đến Sài Gòn. Cùng đi với ông, có người em trai là Ngô Đình Luyện, ông Trần Chánh Thành, ông Nguyễn Văn Thoại, một giáo sư đại học tại Pháp,

Ông Diệm và các ông Luyện, Thành, Thoại đều vui vẻ hân hoan ra mặt. Ngày 26/06/1954, phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Ngoài số người đón tiếp tại phi trường, nhiều nhóm dân chúng chờ đợi hai bên các con đường mà đoàn xe chở thủ tướng Ngô Đình Diệm đi qua, như nhân chứng Đại tá Edward Lansdale thuật lại, chứ không phải họ tránh né như ông Joseph Buttinger đã viết. Nhưng đoàn xe chở Thủ tướng Diệm chạy nhanh làm dân chúng không thấy rõ mặt thủ tướng, theo nhận xét của Trung tá Lansdale.

Ông Diệm gặp nhiều khó khăn khi lên cầm quyền

Bảo Đại nói rằng công việc của ông Diệm không dễ dàng. Việc ông đến Sài Gòn chẳng ai hoan nghênh. Người ta cần phải động viên tinh thần của mọi người đang rơi vào tình trạng hoang mang. Ngày 30/06/1954 ông đến Hà Hội. Những điều ông thấy không thể tưởng tượng được. Chẳng còn ai nghỉ đến chống lại cộng sản. Hàng trăn ngàn người đau khổ, trong đó có những người công giáo mà ông tin rằng sẽ ủng hộ ông, đang tìm đường chạy vào miền Nam. Thật quá chậm trể để không còn hành động gì được nữa. Ông trở về Sài Gòn.

diem2

Thủ tướng Ngô Đình Diệm

Việc thành lập chính phủ rất khó khăn vì có sự tranh chấp của các đảng phái và giáo phái, nhưng rồi ngày 6/7/1954, ông Diệm cũng đã ban hành Sắc Lệnh số 43-CP công bố thành phần chính phủ và ngày 7/7/1954 chính phủ Ngô Đình Diệm bắt đầu chấp chánh.

Ngày 20/07/1954 đại diện Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia cắt đất nước làm đôi, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ và đọc một bài diễn văn chống lại sự bất công của Hiệp Định Genève đã trao cả miền Bắc cho Cộng Sản và thêm 4 tỉnh miền Trung. Thủ tướng nói : "Chúng tôi không thể đặt vào vòng nô lệ hàng triệu đồng bào trung thành với chủ nghĩa quốc gia...". Từ trên sự đổ nát và hổn loạn, ông Diệm đã đưa được khoảng một triệu người từ miền Bắc vào miền Nam, ổn định tình miền Nam và xây dựng chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.

Mặc dầu tuyên bố chính thức chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm không nằm được bao nhiêu quyền hành. Người thật sự có quyền lúc đó là tướng Pháp Paul Ely, Cao ủy Pháp kiểm Tổng Tư lệnh Quân đội Pháp, đóng tại dinh Norodom của Toàn quyền Pháp ngày trước tại Sài Gòn. Tướng Ely cầm đầu luôn cả guồng máy dân sự.

Chỉ có Bộ Tư lệnh Pháp có quyền điều động "Quân đội quốc gia Việt Nam" và chỉ huy tác chiến. Pháp cử tướng Nguyễn Văn Hinh, con cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, "Hùm Xám Cai Lậy", làm Tham mưu trưởng "Quân đội Quốc gia". 

Ông Diệm căn cứ vào các thỏa ước mà Pháp đã ký kết về việc thừa nhận và hoàn thành nền độc lập của Việt Nam, để đòi Pháp trao trả các quyền và tài sản của một quốc gia độc lập mà Pháp còn sử dụng hay nắm giữ. Hai tháng sau, Pháp mới chịu giao trả dinh Norodom cũng như Phủ Toàn quyền tại Hanoi.

Mỹ chớp thời cơ nhảy vào cuộc

Khi nhận thấy tình hình đang thuận lợi, ngày 20/08/1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã họp và ban hành các nghị quyết nói về chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp định Genève (US policies toward post-Geneva Vietnam), đồng thời phái Trung tá Lansdale thuộc cơ quan OSS (tiền thân của CIA) đến hướng dẫn ông Diệm thi hành.

Nghị Quyết số NSC 5429/2 ngày 20/08/1954 và Nghị Quyết số NSC 5429/3 ngày 19/11/1954 nhận định rằng Pháp đã mất ý chí chiến đấu tại Việt Nam và Mỹ phải đưa ra kế hoạch để đảm đương vai trò của Pháp trên đất nước này. Ngoài phần nhận định, sau đây là những điểm chính của hai Nghị Quyết :

1) Pháp phải trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam ;

2) Truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai) ;

3) Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội và soạn thảo hiến pháp ;

4) Thành lập một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) ;

5) Kết hợp việc cải cách ruộng đất với việc định cư người tỵ nạn và

6) Xây dựng những lực lượng quân sự có thể bảo đảm an ninh quốc nội.

Tuy đã có nghị quyết như vậy, việc thì hành không dễ dàng vì tình hình miền Nam lúc đó rất phức tạp, đặc biệt là mức sống và dân trí còn quá thấp và thiếu đoàn kết. Quyền hành về chính trị và quân sự lại vẫn còn nằm trong tay người Pháp, nên việc hình thành một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) như Mỹ muốn để ổn định tình hình và thống nhất miền Nam rất khó. Một cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Pháp đã xảy ra.

Trong thời gian chiến tranh, ngoài quân đội chính quy, Pháp phải xử dụng những tổ chức tự lâp để bảo vệ những khu vực mà Pháp không chiếm giữ được. Hai lực lược Bình Xuyên và giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo được Pháp coi như là Phụ lực quân (Supplétifs). Bình Xuyên giữa phía Nam Sài Gòn, còn Hòa Hảo giữ một số vùng ở miền Tây. Trong khi đó, giáo phái Cao Đài lại hình thành một lực lượng riêng để vừa chống Việt Minh vừa chống Pháp. Nay thấy Mỹ muốn xử dụng chính phủ Ngô Đình Diệm do Bảo Đại mới thành lập để hất chân Pháp ra khỏi Đông Dương, dĩ nhiên là Pháp phải chống lại để khi quân đội Pháp không còn ở đây nữa, ảnh hưởng về chính trị, kinh tế và văn hóa của Pháp vẫn còn. Vì thế Pháp đã dùng mọi cách để phá sập chính phủ Ngô Đình Diệm.

Một trận đấu đá cạn tàu ráo máng

Vốn biết Bảo Đại là một tay ăn chơi trác táng, nên Pháp đã hướng dẫn Lê Văn Viễn, thường được gọi là Bảy Viễn, vốn là tướng cướp và là người chỉ huy lực lượng Bình Xuyên, tìm cách mua chuộc Bảo Đại để nắm chính quyền. Với sự giúp đỡ của Bảo Đại, kể từ năm 1951, Bình Xuyên trúng thầu sòng bạc Đại Thế Giới (Grand Monde) ở Chợ Lớn. Mỗi tháng Bảy Viễn nạp cho Bảo Đại 240.000 đồng như đã giao kết. Còn gái và rượu, Bảo Đại muốn bao nhiêu cũng có. Tính chung, tổng số thu nhập của Bảo Đại khoảng từ 110 đến 120 triệu đồng mỗi năm (tương đương 6 triệu Mỹ kim).

Ngày 22/04/1952, Bảo Đại ký Sắc lệnh phong cho Bảy Viễn làm Thiếu tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ngày 30/04/1954, Bảo Đại gởi về một công điện, cử người phụ tá quân sự của Bảy Viễn là Lai Hữu Sang, làm Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Quốc gia. Nhưng theo tướng Edward G.Lansdale, một nguồn tin từ người Pháp cho biết, Bảo Đại thiếu tiền ăn chơi ở Riviera, đã về bán chức Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Quốc gia cho Bảy Viển với giá 44.000.000 đồng, tương đương với 1.250.000 USD.

Thấy Bảy Viễn là người có thế lực, tướng Hinh đã liên kết với Bảy Viễn để loại bỏ ông Diệm. Ngày 11/09/1954, Thủ tướng Diệm cho tướng Hinh nghỉ phép 6 tuần và rời khỏi xứ trong vòng 24 giờ.

diem3

Ngày 17/09/1954, ông Diệm ký Sắc lệnh số 84/CP cử tướng Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng thay Luật sư Lê Ngọc Chấn. Ngày 20/09/1954, tướng Xuân đã nhận chức và ra lệnh cho tướng Hinh phải rời khỏi Việt Nam. Cũng trong ngày hôm đó. 9 trong số 15 tổng trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm từ chức. Tướng Hình liền gởi một điện văn cho Bảo Đại yêu cầu cất chức ông Diệm.

Ngày 23/09/1954, Bảo Đại gởi cho ông Diệm một công điện đồng ý để cho ông Diệm được trút bỏ gắng nặng do lời hứa trung thành. Đây là một cách yêu cầu từ chức nhẹ nhàng. Bảo Đại cũng gởi cho Tướng Nguyễn Văn Xuân một công điện ủy quyền cho tướng Xuân lập chính phủ. Tướng Xuân đã vào trình công điện này cho ông Diệm xem. Ngay lập tức, Đại sứ Heath gởi một công điện cho Bộ Ngoại giao, đề nghị tiếp xúc với Bảo Đại và yêu cầu hủy bỏ hay tạm đình hoãn ý định thay thế ông Diệm. Thứ Trưởng Ngoại Giao Smith liền chỉ thị cho Đại Sứ Dillon cử người gặp Bảo Đại, yêu cầu Bảo Đại nên khuyến khích ông Diệm cầm quyền.

Sau nhiều cuộc tranh luận kéo dài, sáng 28/03/1955 Bình Xuyên đã pháo kích vào Dinh Độc Lập. Cuộc chiến bắt đầu. Nhưng với sự quyết tâm chiến đấu của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sự cộng tác của giáo phái Cao Dài, mưu lược của ông Ngô Đình Nhu và sự vận động khôn khéo và quyết liệt của Tướng Lansdale, Pháp đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, chính phủ đã dẹp tan được các lực lượng của phiếm quân, thống nhất quân đội, truất phế Bảo Đại và thành lập một chính quyền bản xứ mạnh với một chế độc độc đảng theo mô thức của Trung Hoa Quốc Dân Đảng Đài Loan để chống cộng theo như sự đòi hỏi của chính phù Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, sau khi chế độ miền Nam đã ổn định, Mỹ muốn đổ quân vào để mở một cuộc chiến mới, ông Diệm từ chổi, Mỹ đã tổ chức một cuộc đảo chánh và ra lệnh giết ông Diệm. Đây là một bài học lịch sử quan trọng mà các nước trên thế giới đã học được mỗi khi quyết định làm đồng minh với Mỹ.

Bảo Đại nhìn nhận việc ông Diệm phải làm

Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại tại California, Bảo Đại sang thăm Mỹ lần đầu tiên với tư cách cá nhân, ông Cao Xuân Vỹ có hỏi Bảo Đại : "Ngài nghĩ thế nào về việc ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Ngài ?" Bảo Đại trả lời : "Việc thế thì phải thế thôi. Pháp đã quyết định trước rồi !".

Trong một bài phỏng vấn được đăng trên tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn số 104, xuấn bản ở Burke, Virginia, ký giả Phan văn Trường hỏi Bảo Đại : "Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô Đình Diệm để rồi bị ống ấy lật Ngài ?" Bảo Đại trả lời ngay :

"Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía CS đã được Liên Xô tích cực ủng hộ về mọi mặt, nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để ngăn chận sự bành trướng của CS. Việc ông ta lật đổ tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là người yêu nước, lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa và ông rất mộ đạo, là phải giữ miền Nam và nếu ông không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả lại quyền cho tôi. Nhưng rồi ông ta chết khi thi hành nhiệm vụ. Dù sao ông ta cũng cố sức giữ những lời cam kết ấy mà không được".

Bảo Đại không hay biết gì về nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ truất phế ông.

Ngày 30/10/2018

Lữ Giang

Published in Diễn đàn

Ông Lê Xuân Nhuận, một người chuyên đả kích Công giáo và chính phủ Ngô Đình Diệm, cho phổ biến cuốn "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Văn Bia trên diễn đàn của Phật Giáo (Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.), tôi đoán ngay anh này lại định chơi trò ném đá giấu tay nữa rồi, mượn Văn Bia để đánh phá. Quả đúng như vậy. Anh ta đã trích toàn những đoạn xuyên tạc lịch sử để bêu xấu ông Diệm và Công giáo. Đây là những chuyện hoàn toàn bịa đặt.

ngo1

Sách "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Lê Văn Bia

Những chuyện Văn Bia viết trong phần "IIa. Giai đoạn 1947…", như sau :

1. Chuyện ông Diệm ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế

Văn Bia viết :

"Riêng ở Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm đã nương thân trong nhà dòng Chúa Cứu Thế tại Huế trước khi tá túc trong nhà dòng ở Sài Gòn, và lần ở ngoài đó ổng đã lâm cảnh khốn đốn đến nỗi phải đội lốt ông già gánh cháo heo để thoát thân. Lần nào cũng vào lúc tôi có mặt tại chỗ mà không để ý" (trang 31)...

"Sau đó không bao lâu, cha Yến đưa tôi tới ông Diệm, nói là cụ Diệm muốn gặp tôi và cha khuyên tôi nên làm việc giúp cụ. Cuộc diện kiến diễn ra tại phòng ông Diệm trọ trong nhà dòng....

"Và càng ngạc nhiên hơn, là sau đó ông Diệm lại thâu dùng tôi, thường chuyện vãn với nhau thân mật. Nhiều lần ông còn nói với tôi :

- Anh làm thư ký cho tôi hỉ ?...".

Láo :

Ở Huế ông Diệm luôn ở nhà ông Ngô Đình Khả ở Phủ Cam chứ không bao giờ ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Gia đình ông Diệm thuộc loại giàu có ở Huế, có ruộng vườn làm nguồn lợi. Từ ngày ông thôi chức Thượng thư, đi đâu cũng đi bằng xe kéo có vài người đi theo. Ông Võ Văn Hải và ông Võ Như Nguyện thường được ông Diệm sai đi chuyện nọ chuyện kia. Ông Hải theo ông Diệm từ hồi còn làm Tuẫn Vũ, qua Pháp học đậu về Science Politique, trở về vẫn theo ông Diệm. Ông Võ Như Nguyện là giáo sư, từng giữ chức Giám Đốc Công An Trung Phần.

Ông Diệm chẳng bao giờ "lâm cảnh khốn đốn đến nỗi phải đội lốt ông già gánh cháo heo để thoát thân" như Văn Bia bịa đặt.

2. Chuyện ông Diệm ở Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn

Văn Bia viết :

"Nhà dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng Sài Gòn là nơi tôi gặp ông Ngô Đình Diệm lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một căn phòng nhỏ mà trước đó vài năm, chính tôi cũng đã có tạm trú đôi ngày, để chờ chuyến xe lửa ra Huế, đi học tu trở lại lần thứ hai…

"Ông Diệm ở ẩn trong một căn phòng, sống đời yên lặng của một tu sĩ, cũng luôn luôn mặc áo dài thâm quần trắng. Có ai tình cờ gặp chắc cũng tưởng đây là một người trong nhà dòng…

"Tôi hình dung cách ông được tiếp đãi ở đó giống như trước kia tôi đã hưởng qua trong mấy ngày, như vào giờ cơm được một thầy giúp việc mang ẩm thực đến, có chuông bấm gọi mỗi khi cần việc gì, v.v…

"Nhưng tôi nào biết nhà dòng cũng đang có cho ông Diệm nương náu, và cũng không rõ ông đã đến ẩn náu trong nhà dòng trước hay sau tôi… (các trang 21-22).

Láo :

Ngày 15/07/1944 mật thám Pháp bắt đầu đến vây nhà ông Khả ở Phủ Cam, Huế, để bắt ông Diệm, thấy chiếc xe kéo còn trước sân nên tin rằng ông Diệm vẫn còn trong nhà. Biết đang bị Pháp vây, trong nhà cho ông Trưng ra đứng bên xe giả như đang đợi đưa ông Diệm ra đi, rồi ông Diệm mặc bộ áo bà ba lụa cùng với ông Hoàng Văn Phẩm đi ra cửa sau phía đường Phan Châu Trinh và qua cầu Phủ Cam. Mật thám Pháp gác hai bên cầu, nhưng không nhận ra ông Diệm vì họ không ngờ ông đi bộ. Cả hai giả nói chuyện về làm vườn và đi đến phía nhà ông Lãnh sự Nhật gần Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Ông Phẩm cho biết ông Diệm đã vào nhà ông lãnh sự Nhật và ở đó ba ngày, rồi ngày 17/07/1944 Trung úy Kuga của Nhật đưa ông Diệm vào Đà Nẵng và lấy máy bay đưa ông Diệm đi Sài Gòn, rồi đưa ông đến ở trong trường Petrus Ký với vài nhà cách mạng khác, nơi đây đang bị Nhật chiếm làm căn cứ quân sự... Ít lâu sau, ông Diệm đi về Vĩnh Long ở với Giám mục Ngô Đình Thục, chớ không ở Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Chính Giám mục Thục đã tìm cách giúp ông Diệm liên lạc với các nhà cách mạng để thành lập các tổ chức chống Pháp.

Tháng 8 năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền ở Huế, các nhà cách mạng nhờ ông Diệm đi về Huế xem tình hình ra sao. Ông Diệm đi với ông Võ Văn Hãi đến Tuy Hòa thì vào cư ngụ tạm tại nhà Linh mục Đại. Việt Minh biết được đã đến bắt ông Diệm đưa ra Hà Nội. Võ Nguyên Giáp định đưa ông Diệm đi giam ở Tuyên Quang. Giám mục Lê Hữu Từ được tin đã đến can thiệp với Hồ Chí Minh. Ông Diệm được thả ra, đã lén về lại Vĩnh Long và tiếp tục hoạt động.

Giữa năm 1947, ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Tôn Hoàn thành lập Việt Nam Quốc gia Liên hiệp và ông Diệm thường về Sài Gòn họp. Mỗi lần lên Sài Gòn ông thường tạm trú tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Phải chăng đây là chuyện Văn Bia đã dựa vào đó để bịa đặt thêm ?

3. Chuyện ông Ngô Đình Diệm ở Mỹ

Văn Bia viết :

"Trong thời gian lưu vong ở Hoa Kỳ (1950-53), ông lặng lẽ sống suốt mấy năm nữa trong một nhà dòng khác, cũng làm người giúp việc khiêm nhường, hằng ngày lau quét dọn dẹp. Trong khi đó, ông vua cũ của ông là Bảo Đại lưu vong ở Hương Cảng rồi Pháp, sống đời trụy lạc".

Láo :

Để tránh sự theo dõi của Pháp, nhân dịp Năm Thánh năm 1950, ông Diệm và Dức Giám mục Ngô Đình Thục đã xin đi Roma dự Năm Thánh, nhưng khi đi lại đi vòng qua Nhật và Mỹ. Hai anh em ông Diệm đã đến Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1950, mang theo một giấy giới thiệu với Tổng Giám mục Paul Yu Pin, Viện Trưởng Học Viện Văn Hóa Trung Hoa ở Hoa Kỳ. Khi mới đến Hoa Kỳ, ông Diệm và Giám mục Thục đã cư ngụ tại Học viện Văn hóa Trung Hoa vài tháng và đi thăm nhiều nơi tại Hoa Kỳ.

Sau khi qua Roma dự Năm Thánh, ông Diệm đã đi một vòng viếng thăm Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ rồi trở lại Pháp, còn Giám mục Ngô Đình Thục trở về Việt Nam. Khi đó, ông Diệm đến cư ngụ tại nhà ông Tôn Thất Cẩn ở 28 Rue Kleynoff, 94250 Gentilly, Paris, phía sau khu Học Xá Đại Học Paris.

Vì ông liên lạc quá nhiều với các nhà cách mạng VN ở Pháp nên Pháp không muốn cho ông ở Pháp.

Không biết ai đã báo tin đó cho tu viện Mary Knoll ở New Jersey hay do một sự tình cờ, tu viện này đã viết thư mời ông Diệm trở lại Mỹ làm nhân viên giảng dạy đặc biệt cho tu viện, nên đầu năm 1951 ông Diệm trở lại Hoa Kỳ và lưu trú trong tu viện Mary Knoll ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey hay ở Ossining thuộc tiểu bang New York. Như vậy không thể có chuyện ông Diệm "cũng làm người giúp việc khiêm nhường, hằng ngày lau quét dọn dẹp" cho nhà dòng như Văn Bia bôi bác.

Kết luận

Cuốn "Những ngày bên Ngô Đình Diệm" của Văn Bia cũng như cuốn "Trong lòng địch"của Trần Trung Quân hay cuốn "Giặc thầy chùa" của Đặng Văn Nhâm trước đó, chỉ là những tiểu luận được viết theo cảm tính (emotion), tức viết theo điều họ nghĩ ra hay "nghe nói" (hearsay)... chứ không căn cứ vào sử liệu. Luật học cũng như sử học không chấp nhận "nghe nói" như là bằng chứng (hearsay evidence is inadmissible). Nói cách khác, đây không phải là sách viết về lịch sử mà chỉ là sách viết về huyền thoại nhằm bôi bác và xuyên tạc lịch sử. Nhìn chung, cuốn sách này có giá trị thấp về cả hình thức lẫn nội dung.

Những câu chuyện nói về cuộc đời của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và các nhà cách mạng khác của Việt Nam trước 1975 đã được nhiều người viết và chúng tôi cũng đã ghi lại đầy đủ trong cuốn "Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam". Chúng ta không thể chấp nhận những chuyện bôi bác và xuyên tạc lịch sử như thế này được.

Ngày 10/10/2018

Lữ Giang

Published in Diễn đàn

Về cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 chúng tôi đã viết nhiều bài đăng trên trên báo Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) cũng như phổ biến trên các diễn đàn trong các năm 2004 và 2007, căn cứ vào các tài liệu khác nhau. Nay một số độc giả trên Facebook đã yêu cầu chúng tôi nói rõ thêm về vai trò của Mỹ và nhóm Caravelle trong biến cố này. Điều này cho thấy độc giả bắt đầu nhận ra rằng chính Mỹ đã đứng đàng sau lèo lái toàn bộ cuộc chiến Việt Nam. Nếu không nắm vững chiến lược và chiến thuật của Mỹ, không thể hiểu được những chuyện đã xảy ra.

daochanh1

Cựu Đại sứ Eldridge Durbrow, người lèo lái cuộc đảo chánh 1960 thất bại - Ảnh 1979

Tài liệu căn bản cần tham khảo

Chúng tôi có khá đủ tài liệu của phía Mỹ cũng như Việt Nam liên hệ đến cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960, kể cả phúc trình điều tra của Đại tá Trần Khắc Kính, và đã viết một bài tổng kết 30 trang về biến cố này. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài được đưa ra, chúng tôi sẽ trình bày tóm lược dựa trên ba tài liệu chính sau đây :

(1) Foreign Relations of the United States, 1958-1960, Vietnam, Volume I, của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ.

(2) Bản cáo trạng (actes d’accusasion) mang số TTL 38.036 ngày 4/7/1963 của Ủy Viên Chính Phủ Tòa Án Quân Sự Cách Mạng. Đây là bản cáo trạng được Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một bị cáo, nhìn nhận rắng "phần trần thuật vụ án có lẽ dúng nhiều nhất với thực tế" (tr. 2818). Và phán quyết của tòa.

(3) Bộ "Việt sử khảo luận" của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, người tự nhận là một trong ba lãnh tụ của cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 gồm Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông và Hoàng Cơ Thụy. Bộ sách này xuất bản ở Pháp gồm 5 cuốn, dày đến 3238 trang nên rất ít người "vớ tới", kể cả những người viết sử. Biến cố 1960 được nói đến trong cuốn 5.

Khi Mỹ thay đổi chiến lược

Như chúng tôi đã nói trong bài "Khi Mỹ vẽ lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam", tháng 7 năm 1954, khi ông Diệm mới trở vế chấp chánh, Mỹ đã đưa Trung tá Lansdale, một viên chức OSS, đến giúp ông Diệm hình thành một chính quyền bản xứ mạnh (a strong indigenous government) để ổn định tình hình và loại bỏ chế độ cộng sản (to rid the country of communists). Những tiết lộ của Đại sứ Frederick Reinhardt và Trung tá Lansdale cho thấy Mỹ muốn ông Diệm hình thành một chế độ độc đảng giống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, Park Chung-hy (Phác Chánh Hy) ở Nam Hàn, Sukarno ở Nam Dương hay Lý Quang Diệu ở Singapore.

Đến năm 1957, Mỹ thay đổi chiến thuật, muốn đổ quân vào miền Nam để thực hiện mục tiêu của các nhóm tài phiêt quốc phòng là tiêu thụ hết lượng vũ khí tồn kho từ Thế chiến thứ II và thử nghiệm các loại vũ khí mới. Khi ông Diệm không đồng ý, Mỹ liền đưa ông Elbridge Durbrow đến làm Đại sứ thay thế ông Frederick Reinhardt để làm áp lực buộc ông Diệm phải thay đổi. Các tài liệu cho thấy một cuộc tranh luận gay cấn đã xẩy ra giữa Đại tá Lansdale và ông Durbrow, nhưng ông Durbrow cứ làm vì đó là lệnh của Washington.

Hình thành các tổ chức "xã hội dân sự"

Khi Mỹ muốn làm áp lực về vấn đề gì hay muốn thay đổi một chế độ, công tác đầu tiên là hình thành các tổ chức "xã hội dân sự" (civil society). Nghĩa thông thường của tổ chức dân sự là "nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung". Nấp dưới danh nghĩa đó, Mỹ yểm trợ thành lập và phát triển các tổ chức đối lập chống lại chính quyền sở tại. Ngày nay, các chính phủ có liên kết với Mỹ khi nghe Mỹ kêu gọi thành lập "xã hội dân sự" đều ở trong thế phòng vệ.

Sự xuất hiện của Đại sứ Durbrow làm giới đối lập tại miền Nam lên tinh thần. Ngày 6/5/1957, nhóm Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nghiêm Xuân Thiện và một số chính khách đã mở cuộc họp báo, tuyên bố thành lập Khối Liên minh dân chủ và xác định đây là một tổ chức đối lập hợp pháp với chính quyền. Sau đó tiến tới thành lập thành lập Khối Tự do tiến bộ quy tụ những chính khách nổi tiếng của miền Nam bất đồng ý kiến với chế độ.

1. Hình thành Khối Tự do tiến bộ (nhóm Caravelle)

Ông Trần Văn Văn cho biết vào tháng 3 năm 1960, theo lời mời của Bác sĩ Hồ Văn Nhựt, ông có đến hội kiến với một thương gia trong American Trading là ông Gouder. Đây là một nhân viên tình báo Mỹ hoạt động dưới hình thức một thương gia.

Cuộc hội kiến xoay quanh vấn đề thành lập những cơ cấu đối lập với chính phủ hiện hữu theo sáng kiến của ông Gouder. Tuy mọi người chưa biết nhiều về ông Gouder, nhưng biết ông ta quen biết nhiều ký giả và đại diện các hãng thông tấn ngoại quốc, nên muốn lợi dụng ông ta để phổ biến bản điều trần gởi Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Gouder có giới thiệu một số ký giả ngoại quốc. Ông Trần Văn Văn cũng có đi gặp một Mỹ kiều tên là Edward Chere để nhờ ông này vận động với chính quyền Mỹ tiếp tế cho dân chúng Đô thành và tìm cách kiềm chế bớt nhóm quân nhân.

Luật sư Trần Văn Tuyên cho biết vào khoảng tháng 5 năm 1960, ông Trần Văn Văn có mời một số người đến dự một cuộc họp tại nhà hàng Sinh Ký để thành lập Khối Tự do tiến bộ và bầu Ban thường vụ của khối. Vì nhóm này thường họp tại nhà hàng Caravelle nên được gọi là Nhóm Caravelle. Thành phần của Ban thường vụ được bầu gồm những nhân vật sau đây : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương, Trần Văn Lý, Phan Huy Quát và Trần Văn Tuyên. Ông Phan Khắc Sửu được bầu làm đại diện tinh thần của nhóm, thường được gọi là Trưởng khối. Hàng tuần Ban thường vụ họp một lần tại nhà ông Phan Huy Quát hay ông Nguyễn Lưu Viên.

2. Hoạt dộng của Khối Tự do tiến bộ

Do sự vận động của Khối Tự do tiến bộ, ngày 26/4/1960, 18 nhân vật miền Nam họp tại nhà hàng Caravelle và đưa ra một bản tuyên ngôn yêu cầu "chính quyền thay đổi gấp chính sách để cứu vãn tình thế..." và xây dựng một quốc gia "thanh bình và thịnh vượng trong tự do và tiến bộ". Nhóm này gồm các nhân vật chính sau đây : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và Linh mục Hồ Văn Vui.

Trên đây chỉ là mặt nổi. Bên trong, Nguyễn Bảo Toàn và một số đàn em, nhất là Tạ Chí Diệp, Phan Thông và một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đưa ra kế hoạch lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong cuộc họp tại nhà hàng Caravelle nói trên, Tạ Chí Diệp là người thuyết trình và điều khiển chương trình.

Tháng 6 năm 1960, Khối Tự do tiến bộ đã đệ trình Tổng thống Diệm hai bản kiến nghị yêu cầu ban hành tự do báo chí và chấm dứt việc bắt người trái phép. Sau đó, khối đã mở một cuộc họp báo tại nhà ông Trần Văn Đỗ để phổ biến bản kiến nghị này. Cuối tháng 7 năm 1960, Khối Tự do tiến bộ lại trình lên Tổng thống thư điều trần yêu cầu ngưng việc thành lập Khu trù mật.

Vào tháng 8 năm 1960, một số nhân vật trong Khối gồm các ông Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ, Phan Huy Quát và Trần Văn Tuyên đã góp tiền cho Phan Thông tổ chức một cuộc biểu tình chống chính phủ vào ngày 22/8/1960 tại Sài Gòn.

Âm mưu đảo chánh

Luật sư Hoàng Cơ Thụy tiết lộ rằng một hôm vào cuối tháng 10 năm 1960, ông có ướm hỏi ông George Carver, một nhân viên trung cấp Mỹ của CIA : "Nếu một nhóm người quốc gia chống cộng lật đổ được ông Diệm, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ có ủng hộ chính phủ Việt Nam mới đó hay không ?". Sau khi về hỏi thượng cấp, ông Carver đã trả lời : "Nếu nhóm ấy cướp hẵn được chính quyền ở Sài Gòn và thiết lập một chế độ thật sự dân chủ, thì Hoa Kỳ sẽ ủng hộ".

Theo Luật sư Thụy, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, Trung tá Vương Văn Đông và ông được coi như là nhóm tổ chức và lãnh đạo cuộc đảo chánh. Đại tá Nguyễn Chánh Thi chỉ mới được kéo vào sau khi cuộc đảo chánh đã được tiến hành. Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, đảng viên Đảng Đại Việt, là cháu của Luật sư Thụy. Luật sư Thụy cho biết sự liên lạc giữa ba người kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1960, nhưng cơ quan an ninh của chính phủ không hề hay biết. Nơi liên lạc thường là văn phòng của ông ở 81 đường Nguyễn Du, Quận 1, Sài Gòn, và có khi ngồi bàn trên xe đang chạy.

Các thành phần sẽ tham gia chính phủ mới gồm có Phan Khắc Sửu, Phan Bá Cầm, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Bảo Toàn, Bùi Lượng, v.v.

Tiến hành cuộc đảo chánh

Mặc dầu có những khó khăn, lệnh tấn công và chiếm giữ các mục tiêu trong Đô thành được thực hiện từ 3 giờ đến 3 giờ 30 sáng 11/11/1960. Các lực lượng đã được huy động để tham gia đảo chánh gồm có : 4 tiểu đoàn Nhảy dù, 3 đại đội Nhảy dù biệt lập, tiểu đoàn 3 Thủy quân lục chiến, 1 Đại đội Quân cảnh Quân khu Thủ đô và Tiểu đoàn 27 Pháo binh.

Các báo cáo liên tục gởi về Washington trong hai ngày 11 và 12/11/1960. Có nhiều báo cáo không chính xác, nó chỉ là những thứ "fake news" được dùng để đánh lừa Bộ ngoại giao.

Lúc 7 giờ ngày 11/11/1960, Đại sứ Durbrow đã gởi cho Bộ ngoại giao một công điện báo cáo sơ lược về tiến trình của cuộc đảo chánh. Ông cho biết Trung tá Vương Văn Đông, người lãnh đạo cuộc đảo chánh và các tướng lãnh đang thành lập chính phủ như Xuân, Chiểu, Big Minh, Đôn và Kim... Ông nói giả thiết những thông tin nói trên là đúng, ông định đưa ra lời tuyên bố với tư cách cá nhân rằng chính phủ mới đã lên cầm quyền ở Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ sẽ có những sự hợp tác chặt chẽ với chính phủ này, v.v. Ông đề nghị "Bộ soạn thảo một cách nhanh chóng để biểu lộ một cách công khai Hoa Kỳ ủng hộ tân chính phủ…".

Một công điện của ông Toland, Tùy viên không quân tại Việt Nam gởi cho ông White, Tham mưu trưởng không quân Hoa Kỳ lúc 11 giờ 55 đêm 11/11/1960 báo cáo rằng lúc này cuộc đảo chánh xem ra đang tiến bộ. Cuộc đảo chánh được nhóm phản loạn thực hiện tốt. Công điện viết : "AIRA tin rằng Diệm sẽ đầu hàng loạn quân hay sẽ tự sát trước khi đêm xuống" (It AIRA belief Diem will captulate to rebels or commit sucide before nightfall) !

Trong khi đó, sáng 11/11/1960, Trung tá Vương Văn Đông, người chỉ huy cuộc đảo chánh, cho biết Trung tá Nguyễn Triệu Hồng đã bị bắn chết và ông nhận được báo cáo của Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc cho biết không thể chiếm Dinh Độc Lập được vì bị kháng cự quá mạnh và không có thiết giáp yểm trợ. Thiếu tá Lộc xin tiếp viện. Điều này chứng tỏ những tin nói trên là không đúng.

Lúc 2 giờ 02 phút sáng ngày 12/12/1963, Bộ ngoại giao đã trả lời công điện số 775 của Tòa Đại sứ Sài Gòn, nói rằng nếu tình hình quả đúng như vậy thì có thể công bố tuyên bố cá nhân như đã nói, nhưng sửa đổi một số điểm, xác định "chính phủ mới mạnh mẽ chống cộng" và "chúng tôi tìm cách tiếp tục những sự quan hệ tốt với dân chúng và chính phủ Việt Nam".

Nhưng tình hình không tốt đẹp như Đại sứ Durbrow đã báo cáo.

Cuộc đảo chánh thất bại

Luật sư Thụy cho biết, vào khoảng 11 giờ ngày 12/11/1960, Sư đoàn 21 của tướng Trần Thiện Khiêm từ miền Tây kéo về bao vây và yêu cầu quân đảo chánh đầu hàng. Vương Văn Đông đến nhà tướng Mc Garr, Trưởng phái bộ Viện trợ quân sự (MAAG) yêu cầu tướng này và Đại sứ Durbrow thúc đẩy ông Diệm điều đình với Hội đồng cách mạng, nếu không sẽ đi tới đổ máu rộng lớn giữa quân đội. Để cứu nhóm đảo chánh, Đại sứ Durbrow đã yêu cầu ông Diệm, nhưng ông Diệm đã không làm theo ý ông Đại sứ.

Một sĩ quan Hoa Kỳ được Tòa Đại sứ Mỹ phái đến cạnh Hội đồng cách mạng từ chiều 11/11/1960 để theo dõi, cho biết một đơn vị thiết giáp đang tiến về Bộ Tổng tham mưu, quân đảo chánh đang bị bao vây. Thấy không thể cầm cự được, các sĩ quan tổ chức đảo chánh như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu… chạy về phía phi trường Tân Sơn Nhứt để tìm máy bay đi ra ngoại quốc.

Luật sư Hoàng Cơ Thụy cho biết ông cùng với vợ và đứa con trai tên Đức 15 tuổi đến trốn tại nhà ông Bùi Văn Lượng. Đến 20 giờ ngày 13/11/1960, lợi dụng trời tối, ông và đứa con trai đi xe taxi đến nhà ông bà Carvet ở đường Phan Đình Phùng. Nghe bấm chuông, bà Ruth, vợ ông Carver cầm súng lục ra xem, nhưng thấy Luật sư Thụy bà liền mở của cho ông vào, còn đứa con trở lại nhà ông Bùi Văn Lượng báo tin cho mẹ biết. Sau đó, người Mỹ đã đưa ông đến ở một ngôi biệt thự bỏ trống ở đường Ngô Đình Khôi và thỉnh thoảng lại thay đổi địa chỉ. Thường ông phải nằm trong một chiếc áo quan. Hôm 2/12/1960, ông có lén về nhà nhưng vợ ông đã đi trốn ở Chợ Lớn.

Hôm 4/12/1960, người Mỹ đã cho ông ngồi bó gối trong một bao bố lớn, cột dây lại thành một kiện hàng ngoại giao (une valise diplomatique), ôm lên xe rồi đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, đẩy lên một chiếc phi cơ quân sự của Mỹ và đưa ra khỏi Việt Nam.

Trước Tòa án quân sự đặc biệt

Bản cáo trạng của Ủy viên Chính thủ Tòa án quân sự đặc biệt cho biết ngoài một số sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều nhân vật thuộc hai Khối Liên minh dân chủ và tự do tiến bộ (tức nhóm Caravelle) đã tham gia cuộc đảo chánh này.

Ngày 11/7/1963, Tòa án quân sự đặc biệt đã xét xử 35 bị cáo dân sự liên quan đến cuộc đảo chánh : 20 người bị án cấm cố, trong đó có các ông Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Lê Kiên tự Bùi Lượng, Nguyễn Chữ, Trương Bảo Sơn, v.v. Có 14 người được tha bổng, trong đó có Trung tướng Nguyễn Thành Phương, ông bà Đinh Xuân Quảng, bà Trần Thị Kim Dung, v.v. Ông Nguyễn Tường Tam (đã uống thuốc độc tự tử hôm 7/7/1960) được tuyên bố vô tội. Đại úy Ủy viên chính phủ nói ông Nguyễn Tường Tam chỉ bị lợi dụng.

Ngày 12/7/1960, Tòa án quân sự đặc biệt đã xử khiếm diện 9 quân nhân và dân sự liên hệ đến cuộc đảo chánh : Tòa tuyên án tử hình Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương Văn Đông, các Thiếu tá Trần Văn Đô, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Huy Lợi, Phạm Văn Liểu, Nguyễn Quốc Tuấn, Luật sư Hoàng Cơ Thụy và ông Nguyễn Bảo Toàn.

Những "độc chiêu" tiếp theo

Vì Đại sứ Durbrow có nhiều tai tiếng trong vụ đảo chánh 1960, ngày 15/3/1961 Tổng thống Kennedy đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay thế ông Durbrow.

daochanh2

Cuộc họp mặt giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson ngày 9/5/1961

Phó Tổng thống Johnson đến Sài Gòn ngày 9/5/1961 yêu cầu Tổng thống Diệm cho Mỹ đổ quân Mỹ vào Việt Nam.

Sau cuộc đảo chánh 1960, Tổng thống Diệm rất tín nhiệm tướng Trần Thiện Khiêm và cho làm Tham mưu trưởng Liên quân. Mỹ liền tuyển mộ Khiêm làm nhân viên CIA.

Dùng lá bài các tổ chức đấu tranh chính trị năm 1960 thất bại, Mỹ quay qua dùng lá bài tôn giáo. Với một nước có trình độ văn hóa thấp như Việt Nam, Mỹ nghĩ đến việc sử dụng Phật giáo bằng cách kích động lòng hận thù tôn giáo, vì ông Diệm là người Công giáo. Chỉ cần tạo ra vụ nổ trước đài phát thanh Huế và vụ thiêu sống Thích Quảng Đức ở Sài Gòn, Mỹ đã đưa lòng hận thù tôn giáo của Phật giáo lên cao và làm cho tình hình trở nên căng thẳng, Mỹ liền ra lệnh cho tướng Trần Thiện Khiêm làm đảo chánh, chế độ Ngô Đình Diệm đã biến mất.

Có một điều rất quan trọng mà Khối Liên minh dân chủ, Khối Tự do tiến bộ, Giáo hội Phật giáo Ấn Quang và Đảng Việt Tân đều không biết, đó là sau khi làm công cụ cho Mỹ để phá sập một chế độ rồi, Mỹ cũng như cộng sản, sẽ không bao giờ dùng "trí, phú, địa, hào" để lãnh đạo đất nước, vì đó là những thành phần không thể sai khiến được. Mỹ cũng như cộng sản chỉ dùng đám "bần cố nông" (i-tờ-rít về chính trị) để dễ sai bảo như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu hay Đặng Văn Quang mà thôi.

Trên đây là những biến cố mà Đảng cộng sản Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã rút được bài học lịch sử để phòng thân, trong khi người Việt đấu tranh vẫn còn cầm cờ đứng nhìn ngơ ngác !

Ngày 9/11/2017

Lữ Giang

Published in Diễn đàn

Thấm thoát mà đã 54 năm k t biến c ngày 1/11/1963, mt s tướng tá quân đi Vit Nam Cng Hòa đã làm cuc đo chánh quân s và sát hi Tng thng Ngô Đình Dim và bào đ Ngô Đình Nhu, trong cương v c vn chính tr. Mc du lch s đã sang trang, song những di hi khi đi t biến c này đã là mt trong nhng nguyên nhân đưa đến thc tế ti t hôm nay : Min Nam t do mt vào tay Vit cng, nhân dân Vit Nam trên c nước đã phi sng dưới ách mt chế đ đc tài toàn tr cng sn đã 42 năm qua (1975-2017) và vẫn đang phi tiếp tc sng dưới chế đ tàn hi này chưa biết đến bao gi.

diem1

Cố Tổng thống Ngô Đình Dim.

Chính vì vậy mà nhiu người, trong đó có chúng tôi t hi : Nếu như ngày y Tng thng Dim không b lt đ và sát hi, Vit Nam có tránh được thc tế ngày càng ti t như hôm nay không ?

Bài viết ln lượt trình bày :

I. Từ một biến cộng sản lịch sử

Lịch s ghi nhn rng, ngày 1/11/1963, vi s gi ý, cho phép và ngm h tr, cam kết ca chính ph Hoa Kỳ, mt nhóm tướng tá Quân đi Vit Nam Cng Hòa đã thành công trong vic đo chánh lt đổ và sát hi Tng thng Ngô Đình Dim, đưa đến s cáo chung nn Đ Nht chế đ Vit Nam Cng Hòa (1956-1963), khai sinh nn Đ Nh Việt Nam Cộng Hòa (1963-1975) tại Min Nam Vit Nam. Cuc đo chánh quân s này đã đưa đến cái chết bi thm cho v Tng thng tiên khi ca chế đ Việt Nam Cộng Hòa, vn có tiếng là thanh liêm chính trc, có đo đc và tác phong lãnh đo. Cùng b sát hi vi Tng thng là bào đ Ngô Đình Nhu, c vn chính tr ca Tng thng, mt nhà chính tr uyên thâm, mưu lược và có vin kiến.

Lý do mà các tướng tám đảo chánh đưa ra là vì chế đ Ngô Đình Dim là chế đ đc tài gia đình tr, ch trương tiêu dit đi lp chính tr, kỳ th và đàn áp tôn giáo ; li có âm mưu trc tiếp thương lượng vi chế đ cộng sản Bc Vit v mt gii pháp chính tr cho Vit Nam (1), làm cho công cuộc chng cng sn Min Nam có th b lâm nguy. Vì vy cn phi lt đ chế đ Dim đ có điu kin cng c phát trin mt chế đ dân ch đích thc ti Min Nam ; đ công cuc chng cng Min Nam hu hiu và bo đm cho chiến thng cui cùng của chính nghĩa quốc gia Min Nam đi vi ngy nghĩa cng sn Bc Vit.

Thế nhưng, thc tế nhng tháng năm sau đó đã cho thy nhiu lý do ngy to hay xuyên tc (2) và các mc tiêu cuc đo chánh đưa ra đã không thc hin được : Chế đ dân ch đích thc Min Nam đã không cng c và phát trin được sau đo chánh mà đôi lúc còn tệ hi hơn nhiu so vi chế đ"độc tài gia đình tr" trước đó ; công cuc chng cng bo v Min Nam đã không hu hiu và bo đm hơn cho chiến thng cui cùng ; mà đo chánh đã m đu cho mt giai đon suy thoái chính tr, suy yếu quân s và suy đi toàn diện Min Nam, to điu kin thun li cho đi phương cộng sản Bắc Việt thôn tính Min Nam.

II. Đến một giả định lịch sử

Đứng trước mt thc trng đt nước ngày mt suy đi toàn din, k t sau ngày đo chánh lt đ, sát hi Tng thng Dim ; nht là thm trng ngày nay khoảng hơn 90 triu nhân dân Vit Nam đã và đang phi sng dưới ách chế đ đc tài toàn tr Vit cng, nhiu người đã t ra nui tiếc rng : Nếu như ngày y Tng thng Dim không b lt đ và sát hi, tình hình Min Nam Vit Nam phi khác, không thngày 30/4/1975 và lịch s Vit Nam đã biến chuyn theo mt chiu hướng khác, tt đp hơn cho đt nước và dân tc Vit. Vì sao ?

1. Chế đ Vit Nam Cng Hòa Min Nam Vit Nam s được ci thin tng bước, ngày mt vng mnh và tn ti cho đến hôm nay.

- Vì cái tội "độc tài gia đình tr" nếu có thì không th ln hơn s sng còn ca Min Nam Việt Nam trước him ha cng sn và hoàn toàn có th ci sa được bng phương cách khác hơn. Chng hn, dưới áp lc gia tăng va đ ca Hoa Kỳ, đng minh, đòi hi chính đáng của các chính đảng quc gia và qun chúng s buc được Tng thng Dim phi thay đi, sa cha các nhược đim. Người ta tin rng, mt nhà lãnh đo tài đc vi tâm đa "Tiết-Trc-Tâm Hư", hết lòng lo cho dân cho nước như Tổng thống Dim ; bên cnh li có mt c vn u lược là bào đ Ngô Đình Nhu, và nhiu người tài đc khác trong chính quyn, sm mun gì các nhược đim ca cá nhân và chính quyn ca Tổng thống Dim s được điu chnh, sa sai.

2. Chính trường Min Nam s dn dn n đnh, đi lp chính tr có tiếng nói, chế độ được dân ch hóa theo mt tiến trình phù hp vi tình trng đang có chiến tranh vi VC, nim tin ca dân vi chính quyn và sc mnh đoàn kết quân dân ngày mt cng c to thế và lc đương đu thng li vi quân cộng sản Bắc Việt xâm lăng.

- Với phương thc ci sa "Độc tài gia đình tr" ôn hòa, có thời gian và hu hiu, Min Nam Vit Nam s tránh được bt n, xáo trn nghiêm trng như đã xy ra sau đo chánh. Các tướng tá quân đi thì mi mê tranh giành quyn lc, b ng chiến trường, nếu lúc đó quân đi Hoa Kỳ không nhẩy vào thì Min Nam đã lâm nguy. Thêm nhiu đng phái được thành lp không phi đ to thế và lc mi cho mc tiêu chng cng mà ch ct đ có bng hiu, kết bè phái tranh thu chng cng hoc chia chác quyn hành vi phe nhóm được Hoa Kỳ chp nhn cho "Trúng thầu chng cng".

- Thượng tng kiến trúc chế đ Min Nam sau đo chánh thì băng hoi như vy, h tng cơ s chng cng thì b phá đ nhiu mng, ví như quc sách "Ấp Chiến Lược" dù có cố gng đi tên thành "Ấp Tân Sinh" vẫn không tránh khi tan rã. Quần chúng nhân dân thì b phân hóa bi óc kỳ th đa phương, tôn giáo chng phá ln nhau, nh hưởng nghiêm trng đến tinh thn đoàn kết và sc mnh chiến đu ca quân dân Min Nam ; nht là lc lượng ch lc là Quân Lc Vit Nam Cng Hòa. Tu chung Miền Nam Vit Nam sau đo chánh đã suy đi toàn din, rơi vào tình trng t do vô t chc, vô chính ph

3 - Chính nghĩa đấu tranh ca nhân dân Vit Nam s ngày mt sáng ngi trong nhân dân và trên trường quc tế.

- Vì đảo chánh ri, quân M t kéo vào trực tiếp tham chiến chng cng. Hoa Kỳ trc tiếp ch đo chiến tranh, cuc chiến đu cho chính nghĩa Dân Ch, T Do và đc lp Dân tc ca chính quyn và quân dân Min Nam b đi phương xuyên tc trong nhân dân hai min đ kích đng lòng ái quc chng ngoại xâm ; tuyên truyn trên trường quc tế đ cô lp chính quyn Việt Nam Cộng Hòa. Đây là điu Tng thng Dim cm k t lâu và đã có hành đng cn ngăn ngay c vic Hoa Kỳ mun m rng lc lượng "Cố vn M" trong các cấp chính quyn và quân đi Việt Nam Cộng Hòa. Điu này s không xẩy ra nếu còn Tổng thống Dim. Và cũng vì mun bo v ch quyn ca mt quc gia đc lp mà Tổng thống Dim đã b lt đ và sát hi thm thương như thế đó.

Nói cách khác, nếu không thì chính nghĩa đu tranh ca chính quyn và quân dân Việt Nam Cộng Hòa s bo đm cho thng lợi sau cùng. Vì đó là chính nghĩa quốc gia dân tc dân ch tt thng ngy nghĩa cng sn quc tế phi dân tc, phn dân ch. Cuc chiến tranh phi nghĩa ca công c cộng sản Bắc Việt nhm nhum đ Min Nam chc chn b tàn li, ý chí xâm lăng ca tp đoàn tay sai cng sn quốc tế là Cng đng Viêt Nam s b đp tan, mt khi chính nghĩa quc gia dân tc dân ch s cho nhân dân hai min thy rõ đâu là chính (Việt quc) đâu là tà (Việt cng). Thực cht ca cái gi là "Cuộc kháng chiến thn thánh chng M cu nước, gii phóng Miền Nam, thng nht đt nước trong Đc Lp-T Do-Hnh Phúc" mà cộng sản Bắc Việt lúc bây giờ tuyên truyên la m s b vch trn trước nhân dân và công lun thế gii. Mt khi nhân dân biết rõ mt tht, Vit cng s không còn huy đng được "sức người, sc ca" để làm "Chiến tranh gii phóng Min Nam" ; lại b cô lp trên trường quc tế, b quân dân Min Nam đánh tr quyết lit, vi s h tr tích cc, hu hiu ca nước bn đng minh Hoa Kỳ (theo đúng nghĩa) và hậu thun quc tế, cng sn Hà Ni s không còn con đường nào khác là phải rút v c th Min Bc, như cng sn Bc Hàn đã làm sau khi cuc xâm lăng Nam Hàn năm 1950-1953 b liên minh Hoa Kỳ và đng minh dưới ngn c Liên Hip Quc đánh bi.

4 - Sau cùng, nếu Min Nam không mun "Bc tiến" đ gii phóng Min Bc như ch trương ca các chính quyn quc gia đ tránh đ máu, thì ít ra cũng duy trì được tình trng tm thi qua phân như Bc Hàn và Nam Hàn hin nay, đ ch cơ may thng nht đt nước mt cách hòa bình, bng s ưu thng ca chế đ dân ch pháp tr Việt Nam Cộng Hòa giu mạnh Min Nam, trên chế đ đc tài đng tr cộng sản nghèo yếu Min Bc.

Đó chính là cơ may đã dến vi dân tc Đc quc năm 1989, đã thng nht đt nước mt cách hòa bình, vi phn ưu thng ca Tây Đc dân ch giu mnh trên Đông Đc đc tài cng sn nghèo yếu, đ có mt Nước Đc thng nht trong mt chế đ dân ch ngày nay. Vit Nam nht đnh đã có được tình trng song song tn ti hai chế đ đi nghch trên hai Min Đt nước như Nam-Bc Triu Tiên ngày nay, nếu Tng thng Dim không b lt đ và sát hi.

Điều này không có nghĩa là ch có Tng thng Dim mi to cho Đt nước có được tình trng và chiu hướng phát trin tt đp như thế. Và cũng không có nghĩa là Tng thng Dim s tn ti lâu dài trong ngôi v lãnh đo chính quyn Việt Nam Cộng Hòa cho đến hôm nay. Đến một lúc nào đó, Tổng thng Dim phi được thay thế và cn thiết phi thay thế cho phù hp vi th chế dân ch, nhưng không phi và chưa phi vào thi đim năm 1963.

Càng không phi và không cn thay thế Tổng thống Dim bng bo lc và sát hi tàn bo mt nhà ái quc như thế, mà xét ra trong chín năm cm quyn đã làm được nhiu điu tt đp cho dân, cho nước, dù cũng có nhng sai lm, khiếm khuyết v lãnh đo .Tuy nhiên vn có th ci sa bng phương pháp dân ch và phi đ cho ông có đ thi gian ci sa, đt nn móng cho chế đ Việt Nam Cộng Hòa vng mnh v chính tr, kinh tế, n đnh xã hi, tiến ti t túc t cường va chiến đu, va phát trin, như ch trương t túc t cường (tam túc, tam giác) mà Ông Cố vn Ngô Đình Nhu d hoch thc hin nhm chng li áp lc ngày mt gia tăng của Hoa Kỳ, to thế lc bo v ch quyn quc gia.

III. Kết luận

Tựu chung, nếu không có cuc đo chánh quân s lt đ và sát hi Tổng thống Dim vào ngày 1/11/1963, chc chn cộng sản Bc vit đã không cưỡng đot được Min Nam vào ngày 30/4/1975, xô đy nhân dân Việt Nam trên c hai min đt nước vào mt thm trng trong hòa bình : C nước trong mt thi gian dài đã phi sng đói nghèo cơm áo, đói nghèo t do dưới chế đ đc tài toàn tr cộng sản Việt Nam ; nhiu người dân đã phi trn chy b nước ra đi tìm t do bng mọi cách và bng mi giá, k c mng sng, nhiu người đã chết trong lòng bin c hay rng già biên gii trên đường tìm t do.

Nếu không có đo chánh lt đ và sát hi c Tng thng Dim, chế đ t do dân ch Vit Nam Cng Hòa vn tn ti Min Nam Vit Nam cho đến hôm nay, và trin vng thng nht đt nước bng s tt thng chế đ đc tài phn dân ch cộng sản Bc vit, đã phi là mt tt yếu, sm mun ch còn là vn đ thi gian.

Houston, Ngày 1/11/2017

Thiện Ý

Nguồn : VOA, 04/11/2017

Chú thích :

(1) và (2) : Sự tht v vic c vn chính tr Ngô Đình Nhu bí mt tiếp xúc vi Phm Hùng ca cộng sản Bắc Việt, theo nhn đnh ca chúng tôi có th ch là "đng tác gi", đ gián tiếp cnh cáo Hoa Kỳ đng xâm phm ch quyn Việt Nam Cộng Hòa quá sâu và áp lc ngày càng nng n trên chính quyn Ngô Đình Dim, nếu không họ s nói chuyn thng vi cộng sản Bắc Việt v mt gii pháp gia người Vit Nam cho vn đ Vit Nam.

Thực tế nhng tài liu kh tín t nhiu phía sau này cho thy ni dung cuc tiếp xúc bí mt mà không bí mt này (CIA có biết) không có gì làm mất Min Nam vào tay cộng sản Bắc Việt sớm hơn như nhiu người lm tưởng đưa ra như là lý do cn phi loi tr Dim-Nhu.

Sau đây là lời ca Ông Cao Xuân V, mt người thân cn ca Ông Nhu đã tháp tùng chuyến đi gp Phm Hùng ca Ông Nhu, trước khi chết đã tr li câu hi th 19 trong mt cuộc phng vn ca Phong Trn, tác gi bài viết "Cao Xuân V - "LI NÓI CA NGƯỜI TRÍ THC TRƯỚC KHI CHT" như sau (Xin trích nguyên văn) :

"19. Hỏi : Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phm Hùng Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người h bàn chuyn gì không ?

Đáp : Lúc ấy thì không. Ch biết chúng tôi cùng đến Qun Tánh Linh đây có mt vùng do Cng quân kim soát. Ban đu c tưởng đi săn cp như mi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bo chúng tôi ngoài, còn ông đi v phía trước đ vài trăm mét. Có Phm Hùng ch đó. Sau này v nhà tôi cũng không tin hi ông Nhu. Nhưng qua nhng gì ông t ý nói ra vào mt lúc nào đó thì, ni dung câu chuyn trên mt tiếng đng hồ, gm nhiu điu cho đến nay vn chưa được tiết l. Có mt điu mà phía h rt quan ngi, nếu không bo là s, rt s chương trình p Chiến Lược. H yêu cu cho biết ai là người ch trương và mc đích đ làm gì ? Ông Nhu tr li : đó ch là ch trương của chính phủ nhm bo v sinh mng và tài sn ca người dân, ngăn nga s xâm nhp, phá phách ca du kích các ông… Các ông bo cán b đng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi s b lut 10/59. Cán b các ông có th v sng vi dân lành ti các p…

Về các điều kin đ hip thương thì nhiu ln Tng thng Dim đã nói, phi có 6 giai đon :

-Bắt đu bng vic cho dân hai min trao đi thư tín t do.
- Rồ
i cho dân qua li t do.

- Thứ 3 là cho dân hai bên được t do chn đinh cư sang bên kia nếu mun.

- Thứ 4 mới đến giai đon trao đi kinh tế. Ví d min Nam đi go ly than đá ca min Bc chng hn.

- Qua được các giai đon đó ri mi tiến ti hip thương.
- Và sau cùng là tổ
ng tuyn c.

Có lần ông Nhu tính vi chúng tôi : Ông d đoán rng, nếu cho dân t do chn nơi đnh cư, thì căn c theo tình trng v t do dân ch ti t và kinh tế kit qu ca min Bc lúc y, s có khong 3 triu người dân s dn dn vào đnh cư min Nam. Vì vy "mình" phải chun b đt cho dân. Ông cũng tính rng hin dân s min Bc có ti 23 triu, trong khi dân s min Nam ch có 17 triu. Nếu có được 3 triu dân Bc vào đnh cư min Nam thì dân s 2 bên s cân bng. Bu c t do, vi s giám sát ca Quc Tế thì chắc mình s thng…".

Published in Diễn đàn

Năm 963 khi vua Ngô Xương Văn (tự là Nam tấn Vương) bị sát hại, Việt Nam rơi vào cảnh hỗn loạn Thập nhị sứ quân.

diem1

Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm : con trai ông là Ngô Xương Văn, tức Nam Tấn Vương đã cầm quyền được 15 năm rồi bị bắn chết ở vùng nay là Sơn Tây

Trong cuốn Việt Nam Sử Lược, nhà sử học Trần Trọng Kim viết : "Thế lực nhà Ngô bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc giã nổi lên khắp mọi nơi. Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái-Bình, không may bị tên bắn chết".

Sau khi vua Ngô Xương Văn chết đi thì "Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm... Trong số này có Tướng của thời nhà Ngô tên là Đỗ Cảnh Thạc cũng giữ một chỗ, xưng là Sứ quân".

Năm 1963 - đúng 1.000 năm sau, một nhà Ngô nữa bị sát hại và cảnh Thập nhị sứ quân lại tái diễn.

Tướng Charles de Gaulle đã từng nói "Après moi le deluge" (Sau ta là hồng thủy).

Tuy không nói ra nhưng chắc Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã nghĩ 'Sau ta là bão tố'.

Cơn lốc chính trị, quân sự, xã hội tại Miền Nam sau ngày đảo chính đã tàn phá Miền Nam đến mức nào thì nhiều độc giả (cao niên) còn nhớ.

Tình trạng rối ren ở Sài Gòn đã ảnh hưởng sâu xa tới tình hình quân sự. Trong một điện tín gửi về Washington, Đại sứ Henry Cabot Lodge đã kèm theo luôn một báo cáo của đại diện USOM ở tỉnh Long An (ngày 7 tháng 12, 1963) nói về tình hình an ninh suy giảm quá mạnh.

Rồi ông phàn nàn : "Tôi thật bối rối vì thấy thiếu quyết tâm chiến đấu : các thành viên của tập đoàn tướng lãnh cho tôi những câu trả lời thật tuyệt vời và rõ ràng, và nói cái gì cũng hay hết, nhưng những việc gì đang xảy ra thì chẳng có là bao nhiêu".

Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo ! Chỉ một tháng trước đó, vài ngày sau đảo chánh, ông Lodge đã báo cáo về Washington :

"Chúng ta không nên bỏ qua mà không để ý tới ý nghĩa của cuộc đảo chánh, đó là nó sẽ có thể giúp rút ngắn cuộc chiến này để cho người Mỹ được sớm trở về nuớc mình".

Nếu như tình hình ở Miền Nam bất ổn thì vào thời điểm này, tình hình chính trị tại Hoa Kỳ cũng trở nên phức tạp.

Đúng ba tuần sau cái chết của Tổng thống Diệm thì Tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas. Phó Tổng thống Lyndon Johnson lên kế vị.

diem2

Phó Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson (trái) và Tổng thống JF Kennedy (phải) đón Thủ tướng Nehru của Ấn Độ thăm Hoa Kỳ

Cơn khói lửa bùng lên

Ngay từ lúc còn làm Phó cho Tổng thống, ông Johnson đã cố vấn cho Tổng thống Kennedy rằng "Nếu chúng ta buông xuôi tại vùng Đông Nam Á thì phải rút tuyến quốc phòng của Hoa Kỳ về tận San Francisco".

Lên chức tổng thống, việc đầu tiên ông làm là tham khảo đại sứ Cabot Lodge về Việt Nam. Ông Lodge báo cáo về tình hình đen tối tại Sài Gòn.

Sau đảo chính, bây giờ lại khó khăn, rối ren hơn nhiều, và lãnh đạo ở Sài Gòn lại đang có khuynh hướng đi về hướng chính sách 'trung lập'.

Ông Lodge kết luận là cần phải có ngay những quyết định hết sức khó khăn "và Ngài phải lấy những quyết định ấy". Tổng thống Johnson tuyên bố không lưỡng lự :

"Tôi sẽ không để mất Việt Nam, tôi sẽ không là người Tổng thống đầu tiên để cho Đông Nam Á sụp đổ giống như lục địa Trung Hoa đã sụp đổ".

Ngày 8 tháng 3, 1965 thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng.

Cuộc chiến khói lửa bắt đầu bùng nổ.

Các góc cạnh của đảo chính

Về bối cảnh đưa tới đảo chính thì chúng tôi đã đề cập trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) dựa trên các chứng cớ là các văn kiện được giải mật ngày 13 tháng 6, 2011. Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại vài nét đại cương.

1960 - Bước ngoặt của bang giao Việt - Mỹ

Sau năm năm vàng son vừa phát triển vừa hòa bình (1955-1960), tình hình quân sự và chính trị Miền Nam bắt đầu chuyển hướng vào năm 1960.

Về quân sự thì lực lượng cộng sản đã bắt đầu tấn công vùng đồng bằng với những trận đánh vào dịp Tết tại Bến Tre và Tây Ninh ở tây bắc Sài Gòn. Về chính trị thì chính phủ Diệm càng ngày càng bị chỉ trích là độc tài, phe đảng và tham nhũng.

Cuối mùa Xuân 1960 một nhóm nhân sĩ họp ở Khách sạn Caravelle nhau kiến nghị Tổng thống Ngô Đình Diệm phải cải tổ toàn bộ chính phủ và chính sách ("Tuyên ngôn Caravelle"), nhưng ông Diệm cho rằng có Mỹ đứng đàng sau giật giây vì khuyến nghị này lại giống y như những lời cố vấn của Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow.

Sau này, ông Durbrow đã xác nhận là chuyện này có thật.

Tới mùa Thu 1960 thì có đảo chính : đạn bắn vào ngay phòng ngủ của Tổng thống Diệm. Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cố vấn ông nên điều đình với phe đảo chính. Sau khi đảo chính thất bại, Durbrow lại khuyên ông nên khoan hồng cho những sĩ quan liên quan.

Thế là từ bấy giờ giữa Dinh Độc Lập và Tòa Đại sứ Mỹ thì cơm chẳng còn lành và canh cũng chẳng còn ngọt.

1961 - Thuở ban đầu với tân Tổng thống John F. Kennedy

Mối giây liên lạc Việt - Mỹ đang căng thẳng cuối năm 1960 bỗng đổi chiều vào đầu năm 1961 khi Hoa Kỳ có Tổng thống mới.

Nghị sĩ John F. Kennedy lên kế vị Tổng thống Dwight Eisenhower. Ở tuổi 42, ông là tổng thống Mỹ trẻ nhất. Ngày đăng quang ông hùng biện tuyên bố một lập trường hết sức cứng rắn 'để bảo đảm sự sống còn và sự thành công của tự do'.

Tổng thống Diệm nhận được bức thư đầu tiên của Tổng thống Kennedy đề nghị Hoa Kỳ tiếp tay với ông để 'tăng cường nỗ lực chiến thắng và đẩy mạnh sự tiến bộ kinh tế và xã hội của Việt Nam'.

Ông Diệm hân hoan đáp ứng lời đề nghị này, nhưng đặt trên căn bản là "vì quyền lợi chung của cả hai nước" (chứ không phải chỉ vì quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa). Tình nghĩa hai bên thật nồng nàn, thắm thiết vào thuở ban đầu của nhiệm kỳ Kennedy.

1962 - Mỹ quyết định bỏ Lào

Mặc dù đã tuyên bố một lập trường rất cứng rắn, Tổng thống Kennedy đã quyết định bỏ Lào. Ông Diệm hết sức lo ngại : liệu những hành động quyết liệt của ông Kennedy có bền vững hay không ?

Lúc ấy thì tình trạng Lào đã tác động mạnh mẽ vào tâm lý của các lãnh đạo ở Đông Nam Á. Chính phủ Diệm rất nghi ngờ về ý chí của Hoa Kỳ.

diem3

Lực lượng cộng sản hành quân tại Lào. Quyết định của Kennedy "bỏ Lào" khiến chính quyền của Tổng thống Diệm nghi ngờ các cam kết của Mỹ

Chính tình báo Mỹ (NIE-National Intelligence Estimate) đã thẩm định rằng : "đã có những cảm nghĩ hết sức sâu đậm ở Đông Nam Á về những biến chuyển mới đây về khủng hoảng ở Lào. Các chính phủ nơi đây có khuynh hướng cho rằng cuộc khủng hoảng Lào là một thử thách tượng trưng giữa sức mạnh của Tây phương và Khối Cộng sản. Liệu Hoa Kỳ có tiếp tục bảo vể vùng này hay không ? Thử thách rõ ràng nhất là khả năng bền vững của chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam".

Ngày 21 tháng 4, trong một báo cáo, ông Edward Landsdale (CIA-Central Intelligence Agency) nhận xét về Việt Nam :

"Về tâm lý - Việt Nam luôn nghĩ mình mới là đối tượng chính - và họ tự hỏi 'khi tới lần chúng tôi, liệu sẽ có bị đối xử giống như Lào không'. Chính sách của Mỹ đã biến Lào thành nước 'trung lập' với một chính phủ liên hiệp, làm cho Tổng thống Diệm hết sức lo âu vì nghĩ rằng sau Lào thì Mỹ sẽ tính đến việc trung lập hóa Việt Nam và áp đặt một chính phủ liên hiệp với Cộng sản. Bởi vậy, Landsdale cho rằng việc chính là phải làm sao cho chính phủ Miền Nam tin tưởng rằng việc rút lui ở Lào không có nghĩa là sẽ rút khỏi Việt Nam".

Để làm tăng thêm sự tin tưởng vào Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Lyndon Johnson được gửi sang thăm viếng Tổng thống Diệm với sứ mệnh của Tổng thống Kennedy là phải 'tuyên bố sự ủng hộ mãnh liệt của Hoa Kỳ và lòng tin tưởng vào Tổng thống Diệm". Ông Johnson trao cho ông Diệm bức thư của tân Tổng thống Hoa Kỳ. Bức thư thuở ban đầu thật nồng nàn, thắm thiết.

Tuy nhiên, Tổng thống Diệm không hoàn toàn tin tưởng. Trong bức thư phúc đáp ông nói tới sự lo ngại về Lào :

"Những biến chuyển gần đây tại Lào đã làm nổi bật mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của (Việt Nam Cộng Hòa) với những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công…".

Để biết rõ suy nghĩ của Tổng thống Diệm, Đại sứ Nolting gặp ông Nguyễn Đình Thuần (Bộ trưởng Phủ Tổng thống) để tham khảo. Ông Thuần tiết lộ là đề nghị của Hoa Kỳ đã làm cho ông Diệm hết sức ưu phiền, "hay là Hoa Kỳ đang sửa soạn để bỏ rơi Việt Nam… như đã bỏ rơi Lào ?".

Đi tìm giải pháp hòa bình

1963 - Mùa Xuân : yêu cầu Mỹ rút cố vấn

diem4

Tháng 10/1955 : Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận lời chúc mừng từ Cao ủy Pháp Henri Hoppenot

Số cố vấn Mỹ vào Miền Nam ngày một tăng nhanh. Tháng 4/1963 : thêm 4,500 cố vấn và binh sĩ nữa.

Trạm trưởng CIA là ông William Colby sau này nhận xét : "Ngay từ đầu 1962 cơ quan CIA đã có những mối liên lạc và ảnh hưởng trên toàn lãnh thổ Miền Nam, từ cổng trước và cổng sau Dinh Độc Lập tới những xóm làng ở thôn quê…"

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post vào tháng 5 ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Báo chí thổi phồng lên, Tổng thống Kennedy phật lòng, tuyên bố sẵn sàng rút đi.

Suy nghĩ lại về giai đoạn này, Đại sứ Pháp Lalouette, người đã chứng kiến và tham gia vào nhiều biến cố tại Việt Nam đã cho rằng "quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn cấp tỉnh đã là lý do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm".

1963 - Mùa Hè : khủng hoảng Phật Giáo

Vào chính lúc Washington đang nhắm vào ông Nhu thì một cơn bão tố nữa lại ập tới : khủng hoảng Phật Giáo, bắt đầu vào Lễ Phật Đản ngày 8 tháng 5. Xáo trộn leo thang rất nhanh. Viên chức Bộ Ngoại giao buộc tội chính phủ Diệm đã 'phá nát chùa chiền'.

Để đánh giá lại chính phủ Diệm, một phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ do Dân biểu Clement Zablocki (Wisconsin) hướng dẫn gồm 8 thành viên đi Sài Gòn để thẩm định tình hình. Phái đoàn tiếp xúc với rất nhiều thành phần chống Tổng thống Diệm cũng như với Đại sứ Lodge và các quan chức Mỹ và báo chí ở Việt Nam. Trở về Washington, ông Zablocki đã nộp bản báo cáo bênh vực Tổng thống Diệm là người - tuy có nhiều khuyết điểm, chuyên quyền, và khoan dung cho hối lộ, áp bức, nhưng ông ta có khả năng bền bỉ và đang chiến thắng.

Mà cũng không ai thay thế được ông ta. Zablocki đặt nặng trách nhiệm của báo chí : "báo chí đã ngạo mạn, dễ bị kích động, thiếu khách quan, và không có những thông tin trung thực" trong những tin tức, bình luận về biến cố Phật Giáo cũng như về Tổng thống Diệm.

Mặc dù phái đoàn nhận xét như vậy, nhưng giới truyền thông vẫn tiếp tục tấn công. Cho nên tình hình Việt - Mỹ vào cuối hè 1963 đã trở nên căng thẳng tới mức có tin đồn là Nhà Ngô định ám sát tân Đại sứ Lodge.

1963 - Sang Thu : khả năng ông Nhu định điều đình với Bắc Việt

Trong tình huống sôi động ấy lại có tin ông Nhu định điều đình với Bắc Việt. Đại sứ Lodge (vừa tới Sài Gòn được một tuần) thông báo ngay về Washington rằng chính ông cũng có nghe như vậy.

Về sự việc này thì ngày nay ta đã có thêm tài liệu để soi sáng cho rõ hơn về ý định của hai ông Diệm và Nhu muốn đi tìm một giải pháp hòa bình vì biết trước sau rồi Mỹ cũng bỏ Miền Nam.

Nhưng vào lúc ấy thì sau điện tín của ông Lodge, ông Roger Hilsman (Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại Giao) đã bình luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu rồi đi tới kết luận :

"Ông Nhu đã quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, cho nên ta không thể nào tiếp tục con đường hòa giải với ông ta được nữa".

Tới đây, ông Nhu trở thành mục tiêu duy nhất của Hoa Kỳ

Trong một điện tín gửi cho Đại sứ Lodge (công điện số 272), Tòa Bạch Ốc nói về việc có nên thử nói với ông Diệm hãy loại bỏ ông bà Nhu hay không, đã kết luận rằng "sẽ không thành công nếu chỉ thuyết phục suông", trừ phi "đưa ra một lời răn đe dọa cắt viện trợ".

Thế nhưng nếu răn đe như vậy thì "có nguy cơ rất cao là ông Diệm sẽ coi đó là chỉ dấu sắp có hành động chống lại ông và ông bà Nhu đến nơi rồi, và tối thiểu rất có thể ông ta sẽ có biện pháp mạnh đối với các tướng lãnh hay thậm chí có hành động quái đản thí dụ như kêu gọi Bắc Việt yểm trợ để trục xuất người Mỹ đi".

Quá là nhanh, chiều ngày 31 tháng 8, ông Lodge báo cáo Washington ngay về việc này rằng chính ông ta cũng đã "có nghe tin ông Nhu đã bí mật giao thiệp với Hà Nội và Việt Cộng qua Đại sứ Pháp (Lalouette) và Ba Lan (Maneli), cả hai chính phủ các nước này đều tán thành một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam". Như vậy là đã trật đường ray !

Về việc điều đình hiệp thương Nam-Bắc, theo nghiên cứu của chúng tôi thì có hai nhân chứng khả tín là ông Mieczyslaw Maneli (Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến), người trực tiếp làm môi giới giữa Bắc-Nam và ông Cao Xuân Vỹ (Đặc trách Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa) là người đã cùng đi với ông Ngô Đình Nhu gặp ông Phạm Hùng. Bởi vậy, ta nên xem hai ông đã thuật lại như thế nào ?

Ông Cao Xuân Vỹ :

diem5

Giờ cầu nguyện của Thủy quân lục chiến Mỹ trên bãi biển gần Đà Nẵng

Đại cương : theo tác giả Minh Võ thì ông Vỹ đã kể lại trong một cuộc phỏng vấn như sau :

"Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn :

- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.

- Rồi cho dân qua lại tự do.

- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn định cư sang bên kia nếu muốn.

- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.

- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.

- Và sau cùng là tổng tuyển cử (để thống nhất trong hòa bình).

Ông Mieczyslaw Maneli nói gì ?

Ngày 15 tháng 2, 1975 (hai năm sau khi Hòa Đàm Paris ký kết) ông đã viết một bài tên tờ Washington Post với tựa đề : 'Vietnam : 63 and Now' và nói rằng giải pháp hòa bình do ông làm môi giới năm 1963 nếu thành công thì đã thuận lợi cho Miền Nam và Thế giới Tự Do hơn Hiệp định Paris đầu năm 1975 rất nhiều. Ông kể lại :

"Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và bào đệ của ông có nhờ tôi tìm hiểu với Chính phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện hòa bình hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đã thảo luận nhiều với giới lãnh đạo cao cấp nhất, kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là : trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam, những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới cộng sản ? Lãnh đạo Miền Bắc thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đã dựa vào đó để thảo luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc-Nam sẽ từ từ đi từng bước bắt đầu từ liên lạc bưu chính, kinh tế, văn hóa. Sản phẩm kỹ nghệ Miền Bắc sẽ được dùng để mua thóc gạo Miền Nam.

"Miền Bắc sẽ không đòi hỏi phải thống nhất nhanh chóng, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập tại Miền Nam. Tôi hỏi liệu ông Diệm có thể là lãnh đạo của chính phủ này hay không ? Tới mùa hè 1963 thì câu trả lời sau cùng là có. Sau đó, tôi lại hỏi thêm : nhưng làm sao phía Thế giới Tự do có thể tin rằng Hà Nội sẽ giữ lời hứa ? Câu trả lời là nếu Mỹ đồng ý rút, Miền Bắc sẽ sẵn sàng đưa ra những bảo đảm có thực chất, gồm cả việc Mỹ tham dự vào việc giám sát giải pháp hòa bình… ngoài ra Miền bắc cũng sẽ có quan hệ ngoại giao và thương mại với Thế giới Tự do, và sau cùng nhưng rất quan trọng, là quyền lực về kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ sẽ vẫn còn nguyên, không bị bớt đi vì cuộc chiến (cũng sẽ là một bảo đảm nữa)".

Chúng tôi cho rằng về phía Miền Bắc, rất có thể động cơ chính để điều đình là yếu tố kinh tế : đó là khủng hoảng thực phẩm năm 1963 tại miền Bắc. Tình hình thiếu hụt thực phẩm năm ấy đã trở nên khủng hoảng sau những cơn hạn hán rất nặng và bão tố kéo dài từ mùa Xuân 1961 tới mùa Đông 1962. Như chúng tôi đã có dịp phân tích trong cuốn Economic Development in Socialist Vietnam, 1955-1975 (New York : Praeger Publisher, 1977) : trong những năm không bị thiên tai như lụt lội, bão tố, hay hạn hán, Miền Bắc cũng vẫn phải dựa vào thóc gạo của Miền Nam thì mới đủ ăn.

Như vậy thì đại cương về những bước liên lạc hiệp thương, lập trường trung lập để đi tới thống nhất thì đại cương, điều ông Maneli viết cũng giống như những gì ông Vỹ kể lại.

Ông Roger Hilsman bình luận về hai mục tiêu của ông Nhu :

Ngày 16 tháng 9, ông Hilsman viết một Bản ghi nhớ, bình luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu :

- tối thiểu là sẽ "giảm mạnh số người Mỹ đang giữ những chức vụ chính yếu tại các tỉnh và trong chương trình Ấp Chiến Lược", và

- tối đa là ông ta sẽ "điều đình với Bắc Việt để ngưng chiến, rồi chấm dứt sự có mặt của Mỹ, đi tới một Miền Nam trung lập hoặc theo kiểu Tito (ở Nam Tư) nhưng vẫn là một phần đất riêng biệt".

diem6

Quân Mỹ giao tranh với lực lượng Bắc Việt ở Nam Việt Nam

Hilsman kết luận rằng "ông Nhu đã quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, và bởi vậy, không thể nào tiếp tục con đường hòa giải với ông ta bằng cách dùng ngoại giao và thuyết phục được nữa, mà phải theo con đường dùng áp lực.

Tướng Taylor và Bộ trưởng McNamara đổ thêm dầu vào lửa

Tiếp theo đó là chuyến viếng thăm Sài Gòn từ ngày 23 tháng 9 tới 2 tháng 10 của phái đoàn Taylor-McNamara. Khi trở về Washington hai ông báo cáo tình hình quân sự là tốt, bênh ông Diệm và cho rằng Hoa Kỳ không nên đôn đốc một cuộc đảo chính, và chỉ nên dùng áp lực viện trợ. Tuy nhiên, trong báo cáo, hai ông lại thêm một nhận xét là "Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) - cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa - cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ".

Ngày 5 tháng 10, ngày định mệnh của Tổng thống Diệm

Sau báo cáo Taylor-McNamara, thì có tới 7 sự việc không may xảy ra cho Tổng thống Diệm vào ngày này (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 21).

Thí dụ như lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, thêm một nhà sư nữa tự thiêu tại bùng binh Chợ Bến Thành lúc 12 giờ 25 trưa. Đó là Đại đức Thích Quảng Hương. Đây là vụ tự thiêu thứ sáu kể từ Hòa thượng Thích Quảng Đức. Washington cực lực phản đối về việc chính phủ Sài Gòn cấm cản báo chí chụp ảnh về vụ này. [Chúng tôi còn nhớ vào thời điểm ấy, báo chí và tivi Mỹ phổ biến rất rộng rãi những vụ tự thiêu, dân chúng hết sức xúc động. Câu chuyện ở Washington lúc ấy chỉ xoay quanh vụ này].

Thêm vào đó là áp lực chính phủ Diệm phải đặt những cuộc di chuyển của Lực lượng đặc biệt phòng vệ tổng thống, do Đại tá Tung chỉ huy dưới quyền của Bộ Tổng tham mưu quân đội. Như vậy là lực lượng này bị bó tay để hết ngăn chận đảo chính.

Tổng thống Diệm đã gặp nhiều sự may mắn vào tháng 10 trong những năm trước :

Tháng 10, 1954 : vào lúc khủng hoảng chính trị đang nóng bỏng ở Sài Gòn và Pháp đang âm mưu loại bỏ Thủ tướng Diệm, Tổng thống Eisenhower đã viết bức thư đầu tiên, thông báo quyết định của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Việt Nam thay vì qua chính phủ Pháp :

"Tôi đã chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Việt Nam để xem xét với Ngài, với tư cách Ngài là Lãnh đạo của Chính phủ, làm sao để một chương trình của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Chính phủ của Ngài có thể yểm trợ được nước Việt Nam trong giờ phút thử thách này…".

- Tháng 10, 1955 : Việt Nam Cộng Hòa khai sinh và ông Diệm trở nên tổng thống đầu tiên.

- Tháng 10, 1956 : cột trụ của chính thể mới là Hiến Pháp của nền Cộng Hòa bắt đầu có hiệu lực.

- Tháng 10, 1960 : Tổng thống Eisenhower viết thư cho Tổng thống Diệm ca ngợi thành quả của ông Diệm và nhân dân Miền Nam : "Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ thật nhanh chóng".

- Tháng 10, 1961, nhân dịp kỷ niệm sáu năm thành lập Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Kennedy viết cho Tổng thống Diệm : "Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất và được điều hành tốt nhất trong thời hiện đại".

Thế nhưng tháng 10 năm 1963 thì những sự khuyến khích và cơ may ấy đã không còn nữa : Tổng thống Diệm sửa soạn hành trình để đi về thế giới bên kia khi tháng 11 bắt đầu.

Ngày ám sát tổng thống

Buổi sáng hôm ấy, ngày 2/11/1963, khi tiếng chuông nhà thờ ngân vang khắp nơi, báo hiệu đã tới giờ đại lễ, các tín đồ Công giáo cầu xin Thiên Chúa xá tội để những người đã quá cố được sớm về cõi trường sinh. Lúc ấy, trong số những vong linh được cầu nguyện, đã có thêm hai linh hồn nữa. Họ vừa mới thoát khỏi chốn trần gian này mấy phút trước đó.

Kinh cầu ở các thánh đường vang lên : "Requiescat in pace" xin Thiên Chúa cho tất cả được an nghỉ.

Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chọn ngày 1 tháng 11 là ngày Quốc Khánh.

Hằng năm, khi tới ngày này, với tư cách tổng thống, ông Nguyễn Văn Thiệu, người đã tham gia đảo chính, mở tiệc khoản đãi ngoại giao đoàn và quan khách theo thủ tục ngoại giao.

diem7

Giáo hoàng Paul VI đón Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăm Vatican năm 1970.

Nhưng cùng ngày đó, trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ tại Dinh Độc Lập, hai vợ chồng Tổng thống Thiệu dự thánh lễ để tưởng niệm và cầu nguyện cho Tổng thống Diệm.

Vị linh mục làm lễ, Khổng Minh Giác hỏi về ý chỉ trong buổi lễ, và ông Thiệu đáp : "Xin cho linh hồn Người sớm được về nơi Diễm Phúc, và xin Người cầu cho chúng tôi trong giờ phút nguy khốn này".

Ông Thiệu an ủi ông Diệm nơi thế giới bên kia - nhưng ông cũng đang cầu nguyện vừa cho ông Ngô Đình Diệm vừa cho chính mình.

Tổng thống Diệm ra đi đã mang theo với ông viễn tượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn A Death in November, tác giả Ellen Hammer thuật lại lời của Đại sứ Pháp Lalouette nói với Đại sứ Maneli, người môi giới hiệp thương giữa Nam-Bắc :

"Nếu Mỹ lật đổ ông Diệm, cơ hội cuối cùng về hòa bình ở Việt Nam sẽ bị phá hủy. Vì bất cứ ai lên thay ông ta cũng sẽ phải lệ thuộc vào Mỹ. Chỉ mình ông Diệm là người độc lập đủ để may ra có thể vãn hồi được hòa bình".

Lịch sử miền Nam Việt Nam sau đó diễn ra thế nào thì chúng ta đã biết.

Nguyễn Tiến Hưng

Nguồn : BBC, 02/11/2017

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cCựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản hai cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016)

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2