Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

(Mến tặng luật sư Võ An Đôn, người vừa bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam thu hồi thẻ luật sư)

Hiểu một cách ngắn gọn thì vai trò của luật sư là bảo vệ thân chủ trước Tòa và bổn phận của luật sư là bảo vệ công lý dựa trên lẽ phải. Luật pháp là một khế ước xã hội, là những cam kết và thỏa thuận của một hay nhiều cộng đồng đang cùng chung sống với nhau.

vad1

Vai trò của luật sư là bảo vệ thân chủ trước Tòa và bổn phận của luật sư là bảo vệ công lý dựa trên lẽ phải. Luật sư Võ An Đôn trong một vụ bào chữa - Ảnh minh họa

Luật pháp là sự thể hiện của lẽ phải và công lý trong đời sống xã hội nên luật phải đúng và công minh. Cách đây 24 thế kỷ Plato đã từng nói ‘Luật không đúng không phải là luật’ và chính ông cũng từng nói ‘không có gì cao hơn lẽ phải, thượng đế mà không đúng thì cũng không cần nghe theo’. Không có gì có thể cao hơn luật pháp và không có ai có quyền đứng trên luật pháp. Thể chế chính trị là phương tiện để quản lý các công việc chung trong xã hội vì thế nó phải ở dưới pháp luật như mọi hoạt động khác. Trước pháp luật mọi công dân đều phải bình đẳng như nhau, nếu không như thế thì luật pháp không còn giá trị.

Việt Nam hiện tại có gần 10.000 luật sư đang hành nghề trên mọi lãnh vực. Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến các luật sư hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, là những người đã, đang và sẽ tham gia bào chữa cho các vụ án chính trị.

Trong tài liệu ‘Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư’ được thông qua tại ‘Hội nghị lần thứ Tám về Phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội của Liên Hợp Quốc’, họp tại Havana, Cuba từ ngày 27/8 đến 7/9/1990 (1) có qui định rõ ‘nhiệm vụ và trách nhiệm của luật sư’, ví dụ :

Điều 12 : Với tư cách là thành tố quan trọng trong thực hành tư pháp, luật sư phải luôn luôn gìn giữ danh dự và phẩm giá trong nghề nghiệp của họ.

Điều 14 : Trong khi bảo vệ các quyền của khách hàng và thúc đẩy sự nghiệp vì công lý, luật sư phải tìm cách đề cao các quyền tự do cơ bản của con người được pháp luật quốc gia và quốc tế công nhận. Luật sư phải luôn luôn hành động tự do, cần mẫn phù hợp với pháp luật và những tiêu chuẩn đạo đức đã được công nhận của nghề luật.

Kể từ năm 1976 Công ước quốc tế về Nhân quyền (2), gồm Tuyên ngôn Nhân quyền phổ cập, Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa - đã có giá trị của một bộ luật quốc tế mà mọi quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đều phải tôn trọng. Việt Nam đã ký kết vào các văn bản này.Trong bộ luật quốc tế này các quyền tự do cá nhân đã được định nghĩa rất rõ ràng tại các điều như 18, 19, 20, 21...

Hiến pháp hiện hành của Việt Nam cũng qui định rõ về các quyền tự do căn bản của người dân như quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, lập hội...

Dân chủ và nhân quyền là một, đó chỉ là cùng một khái niệm được thể hiện trên hai qui mô khác nhau. Dân chủ là nhân quyền trên qui mô quốc gia, nhân quyền là dân chủ trên qui mô cá nhân. Chính vì thế các luật sư không nên phân biệt đấu tranh cho nhân quyền và đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh cho nhân quyền trên thực tế đã là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất trong lịch sử thế giới.

Việc nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam chà đạp lên Hiến pháp và các Công ước quốc tế mà họ đã long trọng ký kết là rõ ràng như ban ngày tuy nhiên không vì thế mà giới luật sư cho phép mình hùa theo, bất chấp công lý và lẽ phải.

Trong các phiên tòa xét xử những người dân chủ như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga hay mới đây là Hội Anh Em Dân Chủ thì các cáo buộc mà viện kiểm soát đưa ra đều mơ hồ và hoàn toàn trái ngược với hiến pháp hiện hành. Ví dụ việc trao đổi với nhau qua Skype, đề nghị lấy kinh tế tư nhân làm nền tảng, xây dựng chế độ chính trị dân chủ đa đảng với hệ thống tam quyền phân lập, tư vấn giúp đỡ dân oan, tiếp xúc với những người cấp tiến trong đảng để thúc đẩy dân chủ hóa, vận động và nhận tài trợ kinh tế từ người Việt hải ngoại và các tổ chức NGO quốc tế, quảng bá về nhân quyền và dân chủ đến thanh niên và sinh viên, trả lời phỏng vấn đài báo nước ngoài, gặp gỡ nhân viên ngoại giao các nước dân chủ như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc, Thụy Điển... đều không vi phạm vào bất cứ điều luật gì của Việt Nam cũng như quốc tế.

Ai cũng biết là các bản án dành cho những người dân chủ đã có sẵn, dù có luật sư bào chữa hay không thì bản án cũng không thay đổi. Dù thế các luật sư cũng cần nói hết và nói đủ những gì cần nói, dựa trên Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế. Nhiệm vụ của luật sư trong các vụ án chính trị là làm cầu nối giữa họ và gia đình họ, mạnh mẽ khẳng định sự vô tội của họ để họ và gia đình được an ủi phần nào.

Một luật sư từng ngụy biện rằng ‘nhiệm vụ của luật sư là cố gắng giảm án cho thân chủ’, điều này chỉ đúng với các tội hình sự khi bị cáo đã phạm tội rõ ràng. Với các phiên tòa xử những người hoạt động dân chủ thì họ đâu có phạm tội mà khuyên họ nhận tội ? Việc khuyên họ nhận tội là cố tình hùa với chính quyền vu oan và chụp mũ cho họ, làm hoen ố hình ảnh, xúc phạm và làm mất sự chính danh của những người tranh đấu. Không có gì khiến chính quyền mừng hơn khi họ nhận tội.

Có lẽ, trong những nghề nghiệp bị chính quyền cộng sản coi thường và xúc phạm nhất đó là giới luật sư. Trong một chế độ dân chủ thì vai trò của các luật sư trong các phiên tòa phải tương đương và ngang bằng với viện kiểm sát. Các lý lẽ và chứng cứ của luật sư phải được lắng nghe và xem xét một cách khách quan.

Luật sư phải có quyền bào chữa, quyền được nhận quyết định tố tụng liên quan đến vụ án, quyền được tranh luận tại tòa, ý kiến luật sư phải được thể hiện trong bản án... và cuối cùng là kết quả phiên tòa phải dựa trên quá trình tranh tụng giữa luật sư và viện kiểm sát. Đó là những quyền cơ bản nhất nhưng hầu như đều bị các cơ quan tố tụng bỏ qua. Điều đó đã dẫn đến vô số bản án oan sai. Ngay cả ông Đinh La Thăng còn phải cay đắng thốt lên rằng : ‘ra tòa nếu càng nói, tội càng nặng, lại bị coi là quanh co, không thành khẩn’. (3)

Luật pháp Việt Nam có cũng như không, theo ông Nguyễn Gia Kiểng thì :

"Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm nhưng nếu có những thành phần phải chịu trách nhiệm hơn cả thì tập thể luật sư là một. Cứu cánh của nghề luật sư là bảo vệ công lý, nghĩa là góp phần để luật pháp ngày càng thể hiện lẽ phải một cách đúng hơn và được thi hành một cách trung thực hơn, nhưng cho đến một ngày gần đây tập thể luật sư đã làm gì ? Đã có bao nhiêu luật sư lên tiếng về sự mơ hồ và tùy tiện của các điều 79, 88, 258 của bộ luật hình sự ? Đã có bao nhiêu luật sư lên tiếng trước những phiên tòa bịp bợm được dàn dựng lên để bách hại những người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ? Cụ thể hơn đã có bao nhiêu luật sư dám nhận bào chữa cho họ, dù đó là trách nhiệm và đạo lý nghề nghiệp của các luật sư ?" (4).

Để Việt Nam thay đổi về hướng dân chủ thì vai trò của giới luật sư vô cùng quan trọng. Hơn ai hết, giới luật sư là những người hiểu rõ nhất về luật pháp vì đặc thù nghề nghiệp của họ. Chính họ phải là những thành phần cần lên tiếng mạnh mẽ và quả quyết vì sự tiến bộ và văn minh của dân tộc. Đã đến lúc các luật sư cần thể hiện sự chính danh của mình trong các phiên tòa lớn nhỏ. Không thể tiếp tục làm mỗi việc là ‘chạy án’ và làm vật ‘trang trí’ cho các phiên tòa. Đạo đức nghề nghiệp của nghề luật nếu không được giữ gìn thì sớm muộn các luật sư cũng sẽ bị ‘mất nghiệp’. Nếu các luật sư không tôn trọng ‘đạo đức nghề nghiệp’ của mình thì xã hội sẽ băng hoại và đổ vỡ. Xin xem thêm bài ‘Lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của các luật sư đâu ?’ của tác giả Việt Văn (5).

Đã đến lúc giới luật sư phải tham gia mạnh mẽ vào quá trình dân chủ hóa đất nước thông qua chính nghề nghiệp của mình bằng cách lên tiếng bảo vệ cho lẽ phải và công lý. Bảo vệ những người dân chủ trước các phiên tòa bất hợp pháp do chế độ dựng nên là bổn phận, trách nhiệm và là đạo đức nghề nghiệp của các luật sư chân chính. Phải luôn luôn nhớ đến nguyên tắc căn bản của nghề luật là ‘luật không đúng không phải là luật’.

Có hai tầng lớp cần phải tham gia đầy đủ và sớm nhất vào quá trình dân chủ hóa đất nước đó là giới ‘văn nghệ sĩ ‘ và các ‘nhà báo và luật sư’. Đây là hai tầng lớp có tư tưởng tiến bộ, có ảnh hưởng trong xã hội, có khả năng truyền thông và có nhu cầu tự do. Các văn nghệ sĩ thì cần có nhu cầu tự do để sáng tác. Giới luật sư và nhà báo là tấm gương phản ánh tâm hồn, trí tuệ và lẽ phải cho cả dân tộc... cứu cánh của họ là phục vụ con người, phục vụ nhân dân chứ không phải phục vụ chế độ. Đáng tiếc là cho đến giờ chỉ có một số nhỏ trong họ là dấn thân thực sự còn lại đa số vẫn bị tụt hậu, chưa nhập cuộc, mũ ni che tai, lựa thời và vô cảm... cho dù hơn ai hết họ là những thành phần bị chính quyền cộng sản xúc phạm và coi thường nhất.

Ai cũng chỉ sống được một lần, rồi ai cũng phải chết. Cọp chết để da, người chết để tiếng. Thay vì làm công cụ cho chế độ để người dân chê cười và nguyền rủa thì các luật sư nên làm những người tiên phong mở đường đi đến tương lai cho người dân và đất nước Việt Nam. Khi giới luật sư và văn nghệ sĩ nhập cuộc thì ‘cuộc chơi’ sẽ thay đổi nhanh chóng về hướng dân chủ.

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên luôn sẵn sàng để đồng hành cùng các bạn.

Việt Hoàng

(27/05/2018)

Chú thích :

(1) http://www.advocatenvooradvocaten.nl/wp-content/uploads/Basic-Principles-VN.pdf

(2) http://www.nhanquyen.vn/images/File/53sach%20tuyen%20ngon%20nhan%20quyen%201948.pdf

(3) https://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/ong-dinh-la-thang-toi-co-cam-giac-cang-noi-toi-cang-nang-3748188.html

(4) https://thongluan2016.blogspot.com/2017/12/nghe-luat-ly-ke-manh-va-song-xung-ang.html

(5) http://thongluan2016.blogspot.com/2018/05/luong-tam-va-ao-uc-nghe-nghiep-cua-cac.html

*****************

Phụ lục :

Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế, 1948

(Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948)

vad2

LỜI NÓI ĐẦU

Với nhận thức rằng :

Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hoà bình trên thế giới ;

Sự coi thường và xâm phạm các quyền con người đã dẫn đến những hành động tàn bạo xúc phạm tới lương tâm nhân loại, và việc xây dựng một thế giới trong đó con người được tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn phải chịu nỗi sợ hãi và nghèo khổ cùng cực, được coi là khát vọng cao nhất của loài người,

Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức.

Việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc là rất cần thiết.

Các dân tộc thuộc Liên Hợp Quốc đã tái khẳng định trong Hiến chương niềm tin vào các quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của mỗi con người, vào các quyền bình đẳng giữa nam và nữ, và đã bày tỏ quyết tâm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội cũng như xây dựng các điều kiện sống tốt hơn, với sự tự do rộng rãi hơn ;

Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người ;

Sự nhận thức thống nhất về các quyền và tự do kể trên là yếu tố quan trọng nhất để thực hiện đầy đủ cam kết này.

Do đó, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc công bố,

Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người này là thước đo chung cho tất cả các quốc gia và các dân tộc, và cho cả mọi cá nhân và tổ chức xã hội, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của mình mà, trên cơ sở luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người thông qua truyền bá và giáo dục ; cũng như thúc đẩy sự thừa nhận và tuân thủ chung và hữu hiệu các quyền đó không chỉ với người dân nước mình mà với cả các dân tộc ở các lãnh thổ thuộc quyền quản thác của nước mình, thông qua các biện pháp tích cực, kể cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

Điều 1.

Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em.

Điều 2.

Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.

Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào với một người mà dựa trên địa vị chính trị, pháp lý hoặc quốc tế của quốc gia hoặc lãnh thổ mà người đó xuất thân, dù đó là lãnh thổ độc lập, uỷ trị, quản thác, chưa được tự quản hay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền.

Điều 3.

Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Điều 4.

Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm.

Điều 5.

Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6.

Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi.

Điều 7.

Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy.

Điều 8.

Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.

Điều 9.

Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện.

Điều 10.

Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.

Điều 11.

1. Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình.

2. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một phạm tội hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay có sự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện.

Điều 12.

Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.

Điều 13.

1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia.

2. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình.

Điều 14.

1. Mọi người đều có quyền tìm kiếm và được lánh nạn ở nước khác khi bị ngược đãi.

2. Quyền này không được áp dụng trong trường hợp đương sự bị truy tố về những tội phạm không mang tính chất chính trị hay vì những hành vi đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 15.

1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch của một nước nào đó.

2. Không ai bị tước quốc tịch hoặc bị khước từ quyền được đổi quốc tịch một cách tuỳ tiện.

Điều 16.

1. Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn.

2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.

3. Gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, được nhà nước và xã hội bảo vệ.

Điều 17.

1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở hữu chung với người khác.

2. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện.

Điều 18.

Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư.

Điều 19.

Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến ; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp ; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào,và không có giới hạn về biên giới.

Điều 20.

1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hoà bình.

2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.

Điều 21.

1. Mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn.

2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nước mình một cách bình đẳng.

3. Ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền ; ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.

Điều 22.

Với tư cách là một thành viên của xã hội, mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội cũng như được hưởng các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá không thể thiếu để bảo đảm nhân phẩm và tự do phát triển về nhân cách ; thông qua những nỗ lực quốc gia và sự hợp tác quốc tế ; phù hợp với hệ thống tổ chức và nguồn lực của mỗi quốc gia.

Điều 23.

1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp.

2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.

3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội.

4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình.

Điều 24.

Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương.

Điều 25.

1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối phó của họ.

2.Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26.

1. Mọi người đều có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng.

2. Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dục cũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc về duy trì hoà bình.

3. Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ.

Điều 27.

1. Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.

2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả.

Điều 28.

Mọi người đều có quyền được hưởng một trật tự xã hội và quốc tế mà trong đó các quyền và tự do cơ bản nêu trong bản Tuyên ngôn này có thể được thực hiện một cách đầy đủ.

Điều 29.

1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ.

2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 30.

Không được diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn này.

Published in Quan điểm

Phiên tòa xử 6 người trong Hội Anh Em Dân Chủ là Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển, Trương Minh Đức và cô Lê Thu Hà đã kết thúc chóng váng trong ngày mồng 5/4/2018 tại Hà Nội với các bạn án vô cùng nặng nề : 6 người đã bị tuyên án 66 năm tù giam ! Trong đó nặng nhất là luật sư Nguyễn Văn Đài 15 năm, thấp nhất là Nguyễn Văn Trội 7 năm. Hôm 10/4 ông Nguyễn Văn Túc (Thái Bình) bị kết án 13 năm tù. Hôm 12/4 thêm ba người nữa bị kết án là Nguyễn Viết Dũng (Nghệ An) 7 năm tù, cô Trần Thị Xuân (Hà Tĩnh) 9 năm tù và thầy giáo Vũ Văn Hùng 1 năm tù.

aedc1

Cộng đồng người Việt khắp nơi phản đối chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp Hội Anh Em Dân Chủ

Chúng tôi luôn khẳng định rằng, những người trên là hoàn toàn vô tội, họ chỉ làm những việc bình thường trong khuôn khổ luật pháp hiện hành. Việc chính quyền Việt Nam kết tội họ "Lật đổ chính quyền" là hoàn toàn bịa đặt và vu khống. Họ không hề dùng bạo lực và kêu gọi bạo lực, họ không có vũ khí và không có quân đội thì làm sao có thể lật đổ được chính quyền ? Cũng chưa có cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam mà cụ thể ở đây là quốc hội định nghĩa thế nào là ‘lật đổ chính quyền". Việc thành lập Hội và phát biểu quan điểm của họ hoàn toàn không vi phạm bất cứ điều luật nào của pháp luật Việt Nam.

Sự dã man, áp đặt và bất hợp pháp của phiên tòa xử những người dân Việt Nam yêu nước, quan tâm đến xã hội của các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ chúng tôi đã trình bày trong nhiều bài viết. Trong bài viết này chúng tôi muốn đưa ra những ý kiến để những người dấn thân tranh đấu có thể rút ra cho mình những bài học cần thiết sau phiên tòa này.

Điều đầu tiên mà chúng ta có thể thấy được qua phiên tòa này là bản chất khủng bố không cần che giấu của chính quyền cộng sản. Những người vừa bị kết án nặng nề trên có đe dọa đến sự tồn vong hay an toàn của đảng cộng sản không ? Chắc chắn là không. Thế tại sao chính quyền vẫn kết án họ với những bản án kinh khủng như vậy ? Có mấy lý do.

- Khủng bố tinh thần người dân Việt Nam. Trước sự bất mãn và phản kháng ngày càng dâng cao trong mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt là những người dân oan mất đất thì nhu cầu khủng bố càng cấp bách nhằm đe dọa và trấn áp người dân. Đảng cộng sản phải luôn tạo ra "kẻ thù" và hiện nay thì họ xem chính người dân là kẻ thù. Tuy nhiên mục tiêu này hoàn toàn thất bại. Tất cả những người bị kết án đều ngẩng cao đầu, không ai van xin hoặc nhận tội. Đa số dư luận Việt Nam có hiểu biết hoàn toàn ủng hộ và đồng lòng với những người bị nạn. Không ai ủng hộ chính quyền kể cả báo đài chính thống của nhà nước.

- Khủng bố người dân để che giấu những bất ổn và bối rối trong nội bộ đảng. Nhà nước sắp hết tiền, họ đã phải bán đi cả những con bò sữa như Công ty Bia rượi Sài Gòn hoặc Vinamilk. Cắt giảm tối đa cán bộ công chức trong đó có cả Bộ Công an. Sắp tới sẽ giải tán nhiều hội đoàn ăn lương nhà nước thuộc mặt trận tổ quốc. Đảng cộng sản không chỉ khủng bố người dân mà còn khủng bố ngay cả trong nội bộ đảng. Họ khủng bố người dân trước để rảnh tay khủng bố trong nội bộ. Đinh La Thăng, Phan Văn Vĩnh là những ví dụ.

Thời gian của đảng cộng sản đã hết, họ không thể tự thay đổi về dân chủ nên chỉ còn mỗi cách là đàn áp và khủng bố để tồn tại. Nga, Trung Quốc cũng đều thế cả. Chính quyền cộng sản không cần giấu giếm bản chất khủng bố của họ nữa. Đàn áp sẽ gia tăng cho đến lúc sụp đổ.

Trong hoàn cảnh đó những người tranh đấu cho nền dân chủ Việt Nam cần cảnh giác và thận trọng hơn. Con đường đến đích tuy không còn quá xa nhưng trong lúc này mọi người cần cân nhắc hiệu quả của những việc mình làm. Đành rằng khi đã dấn thân thì phải chấp nhận chuyện tù đày, bắt bớ… Nhưng làm thế nào để sự hy sinh của mình mang lại hiệu quả cao nhất là vấn đề cần suy tính. Có lẽ vấn đề đầu tiên là nên đi vào thực chất, bớt phô trương và ồn ào.

Tất nhiên là mỗi người dấn thân tranh đấu đều có lý tưởng và phương pháp của riêng mình và đó là quyền của mỗi người. Tuy nhiên có một điều dễ thấy nhất là ít người, ít hội nhóm có lộ trình cụ thể để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đa số vẫn còn tranh đấu vì lương tâm, vì cảm tính, vì bức xúc thay vì lý trí. Có những người vô tình (hoặc cố tình) gây tiếng vang để nhận được sự tung hô của một đám đông nhỏ mà chúng tôi gọi là "đám đông mì ăn liền". Đám đông này luôn kêu gào "hành động", càng ồn ào càng tốt mà không cần quan tâm đến sự chuẩn bị và chắc chắn là không cả quan tâm đến kết quả, miễn là có những hành động thực địa để đăng ảnh, đăng tin là được rồi, v.v.

Có một điều mà những người tranh đấu đều đồng ý với nhau là chúng ta tranh đấu bằng phương pháp "bất bạo động", mà đã bất bạo động thì lời nói và lý luận là "hành động" quan trọng nhất. Hành động xuống đường biểu tình là giai đoạn cuối cùng của cuộc vận động dân chủ sau khi mọi việc khác đã chuẩn bị xong. Xuống đường biểu tình cũng không phải là "hành động" duy nhất và quan trọng nhất trong lúc này. Việc đầu tiên cần làm hiện nay là một cuộc "vận động tư tưởng". Người dân Việt Nam cần được hướng dẫn là họ phải làm gì ? Và làm như thế nào ? Công việc này đòi hỏi sự kiên nhẫn, bao dung và càng ít ồn ào càng tốt. Internet và các mạng xã hội là công cụ tuyệt vời giúp chúng ta mang những giá trị dân chủ đến với người dân. Lý thuyết phải đi trước hành động. Người dân cần được giải thích và hướng dẫn rõ ràng rằng, chế độ dân chủ trong nay mai như thế nào ? Mỗi người sẽ có chổ đứng ra sao ? Lộ trình nào để đi đến đích ? Bằng những phương tiện gì ?... Nói tóm lại phải động viên được người dân để họ sẵn sàng, trước khi kêu gọi họ "hành động".

"Nhưng làm thế nào để động viên quần chúng ? Mọi nghiên cứu và kinh nghiệm đều cho thấy một quần chúng dù bất mãn tới đâu cũng chỉ nổi dậy đấu tranh nếu có đủ ba điều kiện :

Một là : mọi người cảm thấy gắn bó trong một số phận chung và chỉ có thể có lối thoát chung chứ mỗi người không thể luồn lách để tìm giải pháp cá nhân ; mặt khác mọi người đồng ý rằng thảm kịch chung đến từ một tập thể được nhận diện rõ rệt. Nói cách khác phải có ý thức về hai tập thể rõ rệt, một "tập thể ta" nạn nhân của một "tập thể địch". Trong trường hợp Việt Nam điều kiện này có nghĩa là quần chúng Việt Nam ý thức rằng Đảng Cộng Sản là nguyên nhân của tình trạng tệ hại hiện nay và chỉ có thể có giải pháp chung cho cả đất nước chứ mỗi người không thể luồn lách để tìm một giải pháp cá nhân.

Hai là : có một tổ chức để động viên và lãnh đạo quần chúng ; vai trò cốt lõi của tổ chức là để giữ nguyên khí thế đấu tranh, tránh những sai lầm gây chán nản. Quần chúng không kiên nhẫn. Cố gắng động viên quần chúng sẽ thất bại nếu có những tổ chức khác nhau đưa ra những lời kêu gọi khác nhau, hay nếu có chia rẽ trong tổ chức lãnh đạo.

Ba là : tổ chức lãnh đạo phải đủ mạnh để quần chúng tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi. Quần chúng không lãng mạn (Dự án Chính trị : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Một quan điểm khá sai lầm của nhiều người tranh đấu là họ cho rằng phải ở trong nước thì mới là đấu tranh còn ở nước ngoài là "người ngoài cuộc". Trước một chế độ cực kỳ hung bạo và chuyên khủng bố như đảng cộng sản thì các tổ chức, hội đoàn muốn thành lập công khai thì cơ quan lãnh đạo phải đặt ở bên ngoài, là những nơi an toàn để tránh sự bắt bớ và đàn áp. Các kế hoạch, đường lối của tổ chức nên được hoạch định từ bên ngoài. Nhờ có mạng internet mà mọi thông tin có thể gửi về trong nước một cách nhanh chóng và an toàn. Trước mắt cần giữ bí mật, khi nào điều kiện cho phép khi đó hãy công khai mọi thứ. Nên nhớ Đảng cộng sản khủng bố không chừa một ai, bất kể già trẻ, gái trai, con nhỏ, có tổ chức hay không… Khi chính quyền càng khủng bố mạnh thì chúng ta lại càng cần linh hoạt, uyển chuyển để họ không túm được. Nhu để khắc cương.

Hơn nữa như đã trình bày, nhiệm vụ chính trước mắt của phong trào dân chủ Việt Nam là "vận động tư tưởng" để tạo ra một sự đồng thuận chung về lộ trình tranh đấu và thiết lập một mô hình cho chế độ mới. Việc vận động tư tưởng này là những lời nói (các clip video), bài viết… qua đó hướng dẫn người dân để họ hiểu về chính trị, về các giá trị dân chủ mà chúng ta đang hướng tới. Những việc này thì bất cứ ai, dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất, nếu có ưu tư và quan tâm đến đất nước, đều có thể làm được. Không nên phân biệt người trong nước hay ngoài nước mà nên ghi nhận những gì mà họ làm được cho phong trào dân chủ.

Xin nhắc lại bốn điều kiện cần và đủ của một cuộc cách mạng dân chủ theo quan điểm của tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên :

"Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.

Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.

Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.

Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới" (Dự án Chính trị : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Hai điều kiện đầu xem như đã có, phong trào dân chủ Việt Nam cần vận động người dân để hai điều kiện sau sớm đạt được đó là thuyết phục người dân Việt Nam "đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới" và "có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới". Khi các điều kiện trên đã hội tụ đầy đủ thì chỉ cần một biến cố nhỏ là cũng có thể động viên người dân xuống đường làm một cuộc cách mạng dân chủ. Cũng như những trái cây, khi đã chín muồi, chỉ cần một cơn gió thoảng cũng rụng xuống đất.

Tâm lý nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn, xem nhẹ vai trò của tổ chức và tư tưởng dân chủ, đề cao các hành động ồn ào gây tiếng vang nhất thời… vẫn còn trong suy nghĩ của nhiều người, nhiều nhóm. Không ít người vẫn cho rằng cần "hành động" thay vì lý thuyết suông ?!

Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga và bây giờ là Hội Anh Em Dân Chủ đã "hành động" hết mình và đã phải nhận những bản án vô cùng khắc nghiệt, rồi sao nữa ?

Dư luận ồn ào một lúc rồi lắng xuống bởi các sự kiện mới luôn xuất hiện và lại cuốn hút mọi người vào vòng xoáy mới. Nếu không có các tổ chức liên tục lên tiếng nhắc nhở dư luận thì họ rất dễ bị lãng quên và sự hy sinh của họ thật là uổng phí.

Hy vọng qua phiên tòa của Hội Anh Em Dân Chủ những người tranh đấu sẽ rút ra được những bài học cho chính mình và tổ chức mình.

Việt Hoàng

(10/05/2018)

 

 

Published in Quan điểm
mercredi, 25 avril 2018 09:39

Phải làm gì bây giờ ?

Một bài viết thẳng thắn và hiếm hoi của một trí thức nói về tầng lớp trí thức vừa được BBC đăng tải, đó là bài viết của ông Nguyễn Viện, sống tại Sài Gòn : Trí thức làm gì với thời cuộc (1) ? Đây là một câu hỏi không chỉ nhức nhối mà còn rất cấp bách hiện nay.

trithuc1

Vai trò của trí thức là soi sáng và dẫn đường dư luận và quần chúng - Ảnh minh họa 

Tác giả hiểu rõ vấn đề của tầng lớp mình khi viết : "Nếu hiểu trí thức như những người có ý thức về vai trò của mình trong xã hội đối với sự hưng vong của một dân tộc thì dường như trong suốt một thời gian dài, Việt Nam đã thiếu vắng hẳn những con người đạt đến chuẩn mực về khả năng dẫn dắt quần chúng, hay phản biện xã hội, biểu tượng cho lương tâm dân tộc". Điều này có lẽ ai cũng biết nhưng không mấy ai thừa nhận.

Ông cũng rất thẳng thắn và dũng cảm nhìn nhận rằng : "Nhìn chung, phong trào tranh đấu cho tự do và dân chủ đến nay vẫn còn rời rạc, thiếu đồng bộ. Người trí thức chưa tập hợp được quần chúng sau lưng mình, thậm chí ngược lại, họ theo đuôi quần chúng trong những việc như tham gia biểu tình chống Trung Quốc, hoặc các dân oan bị cướp đất…".

Ông và các trí thức bạn ông đặt câu hỏi : "Phải làm gì bây giờ ?" và ông cho rằng đây là một câu hỏi khó. Vì sao lại khó ? Khó đến mức độ nào ? Làm sao để khắc phục được khó khăn này ?

Câu trả lời của ông là các "tổ chức xã hội dân sự" và các "nhà báo công dân". Cuối cùng, cũng như nhiều "trí thức" khác, ông mong chờ vào sự thay đổi của Đảng cộng sản Việt Nam và hy vọng họ sẽ "có những bước đi thích hợp cho một xu thế tất yếu, tự do hơn, dân chủ hơn trước khi quá muộn".

Điều đầu tiên chúng tôi muốn nhắc lại là đảng cộng sản không thể nào tự thay đổi được. Lý do chủ quan là chưa có một chế độ tham nhũng nào tự thay đổi để hết tham nhũng. Sỡ dĩ bộ máy chính quyền Việt Nam vận hành được là nhờ tham nhũng, chỉ cần một ngày không tham nhũng là bộ máy sẽ dừng hoạt động. Thực tế là phe nào trong đảng thắng thì người dân cũng thế thôi. Các loại thuế phí vẫn tiếp tục tăng mạnh trong thời gian qua và trong thời gian tới. Các bản án hà khắc dành cho những người hoạt động xã hội, ví dụ Hội Anh Em Dân Chủ vẫn được tuyên đều. Quan trọng hơn là từ lý do khách quan, khi không có một tổ chức đối lập nào có đủ tầm vóc và sức mạnh để gây sức ép lên đảng cộng sản thì không có lý do gì khiến họ phải thay đổi.

Đã 73 năm trôi qua, rất nhiều cơ hội để đảng cộng sản thay đổi nhưng điều đó đã không xảy ra. Nhìn lại những thảm kịch và đổ vỡ mà đảng cộng sản gây ra cho dân tộc Việt Nam thì không còn lý do gì để chúng ta trông chờ vào việc "cải tiến" hay "cải cách" của chế độ cộng sản.

Chế độ cộng sản không thể thay đổi mà chỉ có thể thay thế bằng một thể chế dân chủ đa nguyên.

Ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng : "Đừng mất thì giờ và công sức cho những kiến nghị với Đảng, hay trăn trở tìm cách chấn chỉnh Đảng. Vô ích và vô duyên. Giải pháp cho đất nước chỉ có thể tìm thấy ngoài đảng cộng sản" (2).

Trong bài viết đó, cách đây 6 năm (Đảng cộng sản Việt Nam đã chết) ông Nguyễn Gia Kiểng đã nhận định : "Cũng có thể là Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị loại trong thời gian tới. Ông quá tệ. Nhưng nếu như thế thì kết quả cũng chỉ là thay thế chính quyền của ông Dũng bằng chính quyền của một người hay một nhóm người khác. Vai trò đảng cộng sản cũng sẽ không thay đổi vì không thể thay đổi. Đó vẫn là một vai trò của một xác chết chưa chôn. Đảng cộng sản đã chết, chết đứng". Thực tế diễn đúng ra như vậy.

Ông Nguyễn Viện đặt niềm tin vào xã hội dân sự Việt Nam. Vậy xã hội dân sự ở Việt Nam là những ai ? Mục đích của họ là gì ? Khả năng của họ đến đâu ? Ai cũng thấy một điều rằng xã hội dân sự đã rất phát triển ở Việt Nam thời gian qua. Có hơn 20 tổ chức Xã hội Dân sự được biết đến.

"Xã hội dân sự là toàn thể các giáo hội, hiệp hội, câu lạc bộ, các tổ chức thiện nguyện, các nghiệp đoàn, hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp. Nói chung, đó là tất cả các kết hợp của người dân, được thành lập ngoài chính quyền để cùng theo đuổi một số mục đích chung và không nhắm tranh giành quyền lực chính trị".

Xã hội dân sự còn được gọi là các "Tổ chức phi chính phủ" (NGO) vì chúng không phụ thuộc vào bất cứ chính phủ nào. Mọi quốc gia văn minh đều phải đặt nền tảng trên xã hội dân sự.

Theo quan điểm của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên thì "Cần cảnh giác với một ngộ nhận cho rằng chỉ cần tập trung mọi cố gắng xây dựng các tổ chức xã hội dân sự. Không ai phủ nhận sự cần thiết của xã hội dân sự nhưng phải nhìn đúng vai trò của nó. Mỗi tổ chức xã hội dân sự đúng nghĩa chỉ có thể dành quan tâm đặc biệt cho một vấn đề của xã hội và vì thế có tiếng nói uy tín trên vấn đề đó nhưng, ngược lại, không quán triệt mọi vấn đề của xã hội và cũng không thể có tham vọng chính trị. Mỗi tổ chức phơi bày những sai trái của chế độ độc tài và gây áp lực trên một địa hạt mà mình đặc biệt quan tâm và đã trải nghiệm nên có tiếng nói thẩm quyền. Sức mạnh của các tổ chức xã hội dân sự chính là ở chỗ chúng có mục tiêu nhất định rõ rệt. Chúng là những hỗ trợ quý báu cho cuộc vận động dân chủ nhưng chúng không có chức năng lãnh đạo cuộc đấu tranh cho dân chủ. Đó là chức năng của các tổ chức chính trị" (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Cũng trong Dự án Chính trị đó chúng tôi đưa ra Bốn điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng dân chủ tại Việt Nam :

"Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.

Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.

Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.

Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới" (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Việt Nam đã có được hai điều kiện đầu, đó là hai điều kiện có được do khách quan. Hai điều kiện còn lại là chủ quan, phải do chính trí thức Việt Nam đảm nhiệm bởi vì ‘hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng’ luôn luôn là trách nhiệm và nghĩa vụ của giới trí thức trong mọi thời đại và trong bất kỳ thời điểm nào của lịch sử. Trí thức bao giờ cũng phải là người phát ngôn, là tâm hồn và trí tuệ của đất nước. Tư tưởng của trí thức cũng là tư tưởng của quần chúng. Thực tế là suốt trong dòng lịch sử của dân tộc, trí thức Việt Nam chưa bao giờ xây dựng được cho mình và đất nước một tổ chức chính trị thật sự với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết và một tư tưởng chính trị trong sáng, lành mạnh chuyên chở các giá trị của thời đại. Trí thức Việt Nam cần biết rằng không có ‘tư tưởng chính trị’ thì không thể có các tổ chức chính trị. Không có Kinh thì không thể có Đạo.

"Trong đoạn đường còn lại, xây dựng một tập hợp chính trị làm tụ điểm cho khát vọng dân chủ, cũng là đoạn đường cam go nhất. Lý do là vì chúng ta gặp phải một liên minh gắn bó giữa, một bên, là chính sách đàn áp thô bạo của một đảng cầm quyền cực kỳ lì lợm và, bên khác, là sự thụ động của một dân tộc đã rã hàng sau quá nhiều thất vọng và thương tổn, một sự thụ động được khuyến khích bởi chính sự thiếu vắng một kết hợp dân chủ có tầm vóc" (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Không ít ý kiến và suy nghĩ cho rằng cần đặt vai trò lãnh đạo quần chúng lên các tôn giáo, ví dụ các linh mục công giáo. Đây là một ngộ nhận. Các linh mục công giáo Việt Nam đã phải làm những việc quá sức của họ, ví dụ như việc lãnh đạo các cuộc biểu tình chống Formosa thời gian qua. Chúng ta cần phải biết rằng các tôn giáo cũng chỉ là các tổ chức xã hội dân sự chứ không phải các tổ chức chính trị. Họ chỉ đấu tranh trên một vài mục tiêu cụ thể, như đòi tự do cho tôn giáo mình và đòi hỏi quyền lợi cho giáo dân của mình chứ họ không bao giờ đòi "lật đổ chính quyền" như sự tuyên truyền của chính quyền và sự ngộ nhận của một số người dân thiếu hiểu biết. Chính họ cũng cần được hướng dẫn tranh đấu bởi một tổ chức chính trị.

Như vậy, việc đấu tranh với đảng cộng sản để thiết lập một thể chế dân chủ đa nguyên là nhiệm vụ của các tổ chức chính trị. Tầng lớp trí thức Việt Nam phải ý thức rõ điều đó để tham gia vào một tổ chức dân chủ mà mình tâm đắc nhất. Nếu không thì phải liên kết với những người đồng quan điểm để thành lập ra các tổ chức chính trị mới.

Việc tối thiểu mà mỗi một người trí thức cần làm (nếu không làm được hai việc trên) đó là tìm hiểu các dự án chính trị của các tổ chức để rồi lên tiếng ủng hộ cho một tổ chức nào đó.

Ý kiến của một thân hữu cho rằng lý do trí thức Việt Nam không lên tiếng ủng hộ hay tham gia vào tổ chức nào vì họ sợ. Chúng tôi không nghĩ như vậy. Văn hóa Khổng giáo vẫn còn đè nặng lên tâm hồn giới trí thức Việt Nam. Với văn hóa Khổng giáo thì tầng lớp sĩ phu (ngày trước) hay giới trí thức (ngày nay) được sinh ra là để làm tôi tớ, phục dịch cho tầng lớp thống trị thay vì "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng" như bổn phận và nghĩa vụ đích thực của nó. Nên nhớ, bây giờ là năm 18 của thế kỷ 21, đã đến lúc đoạn tuyệt với thứ văn hóa nô lệ đó.

Nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà báo Bùi Tín… đã lên tiếng ủng hộ cho Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai cho dù còn nhiều điều chưa đồng ý hay mới đây là dịch giả, nhà văn Phạm Nguyên Trường lên tiếng ủng hộ cho thể chế "dân chủ đại nghị và tản quyền" của ông Nguyễn Gia Kiểng, người lãnh đạo Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Đâu có vì lý do đó mà họ bị chính quyền làm khó dễ thêm ? Lên tiếng ủng hộ một cuốn sách như Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đâu phải là lý do để chính quyền kết tội ?

Trí thức Việt Nam vẫn biết và luôn kêu gọi đoàn kết, vì chỉ có đoàn kết mới có thể chống được "thù trong, giặc ngoài", tuy nhiên làm sao kêu gọi được người dân đoàn kết khi bản thân tầng lớp trí thức không đoàn kết, không tập hợp lại được với nhau, không có cùng một tiếng nói, một quan điểm ?

Như vậy câu trả lời cho câu hỏi : "Phải làm gì bây giờ ?" không phải không có, vấn đề là trí thức Việt Nam có muốn làm hay không mà thôi.

Việt Hoàng

(25/04/2018)

(1) https://www.thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/7109-tri-th-c-lam-gi-v-i-th-i-cu-c

(2) https://thongluan2016.blogspot.com/2016/12/ang-cong-san-viet-nam-chet-nguyen-gia.html

Published in Quan điểm
dimanche, 15 avril 2018 22:34

Một phiên tòa bất hợp pháp !

Ngày mồng 5/4/2018 vừa qua, chính quyền Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử 6 người trong Hội Anh Em Dân Chủ là luật sư Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển, Trương Minh Đức và cô Lê Thu Hà.

bat1

6 người trong Hội Anh Em Dân Chủ trong phiên tòa ngày 4/5/2018 tại Hà Nội

Dù đã lường trước rằng các bản án rất nặng sẽ được đưa ra nhưng khi tòa tuyên án thì mọi người đều cảm thấy bàng hoàng và phẫn nộ bởi sự vô pháp, vô lương tâm và mất hết lý trí của nhà nước cộng sản. 6 người đã bị tuyên án 66 năm tù giam ! Trong đó nặng nhất là luật sư Nguyễn Văn Đài 15 năm, thấp nhất là Nguyễn Văn Trội 7 năm.

Dư luận Việt Nam phải dứt khoát khẳng định và cần biết rằng những anh chị em này không vi phạm bất cứ một điều luật nào, dù là của thế giới hay của luật pháp Việt Nam. Họ hoàn toàn vô tội. Chính quyền không chỉ phải trả tự do cho họ mà còn phải bồi thường thỏa đáng vì những mất mát của họ, cả tinh thần lẫn vật chất.

Trong thông báo phản đối phiên tòa này của EU có đoạn : "Các cá nhân này đã vận động một cách ôn hòa cho việc phát huy và bảo vệ nhân quyền như đã được đảm bảo bởi Hiến pháp Việt Nam, Tuyên ngôn Phổ cập về Quyền con người và bởi Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Việc tuyên án họ là sự vi phạm trực tiếp các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, và Liên minh Châu Âu mong muốn Việt Nam tôn trọng hoàn toàn các nghĩa vụ đó".

bat0

Một phiên tòa chống lại hiến pháp là một phiên tòa bất hợp pháp.

Mặc dù phiên tòa được công bố là xét xử công khai nhưng cũng giống như các vụ án tương tự, tất cả những ai muốn vào dự đều phải có giấy phép của tòa và rất ít người được cấp kể cả người thân của họ. Những người dân chủ muốn tham gia phiên tòa đều bị canh gác hoặc bắt bớ khi đến gần tòa. Như vậy đây là một phiên tòa "xử chui", vì vậy nó bất hợp pháp.

Sự qui chụp tùy tiện của chính quyền là điều ai cũng thấy rõ. Những người trên bị buộc tội "Lật đổ chính quyền" theo điều 79, tuy nhiên thế nào là "lật đổ chính quyền" thì chưa có bất cứ văn bản nào của cơ quan Lập pháp là Quốc hội qui định. Khi tội danh chưa được định nghĩa một cách rõ ràng mà vẫn kết án hồ đồ thì đó là phiên tòa bất hợp pháp.

Tòa và Viện kiểm soát buộc tội các bị cáo là "tuyên truyền đa nguyên, đa đảng" và "lập hội khi chưa có luật"… đây là sự vu khống và áp đặt khiên cưỡng. Hiến pháp Việt Nam qui định "mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và lập hội", và luật pháp cũng qui định là "người dân có quyền làm mọi việc mà luật pháp không cấm"… Như vậy việc chưa có luật về Hội là lỗi của chính quyền chứ không phải lỗi của người dân. Hơn nữa rất nhiều Hội đoàn của nhà nước như Hội Phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh, Hội nhà báo, nhà văn… thuộc Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã ra đời và hoạt động mấy chục năm nay mà đâu có cần đến luật về Hội ? Ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng tự thành lập bên Trung Quốc rồi về Việt Nam cướp chính quyền chứ có theo qui định nào của pháp luật đâu ? Một phiên tòa áp đặt và chống lại hiến pháp là một phiên tòa bất hợp pháp.

Tòa buộc tội các anh chị em trong "Hội anh em dân chủ" dựa vào kết luận của cái gọi là "Ủy ban Giám định tư tưởng của Bộ Thông tin và Truyền thông". Ai, luật pháp nào qui định chức năng và nhiệm vụ cho ủy ban này ? Luật nào cho phép họ ‘giám định tư tưởng" của người dân ? Chắc chắn là không bao giờ có luật cho phép ủy ban này hoạt động vì nó vi phạm nghiêm trọng các quyền căn bản tối thiểu của con người, đó là những quyền như : không bị xâm phạm tới cơ thể, gia đình, tài sản ; không bị cấm đoán phát biểu lập trường, thu nhận và phổ biến thông tin ; không bị cấm cản thành lập và tham gia các tổ chức, ứng cử và bầu cử.v.v. Những quyền này qui định một không gian cá nhân mà nhà nước hay bất cứ ai không thể xâm phạm. Đó là những quyền tự do căn bản. Hiến pháp Việt Nam đảm bảo các quyền căn bản này của người dân.

Nếu ủy ban này có chính danh và lẽ phải thì họ phải có mặt trong phiên tòa để đối chất với các đương sự, đã không có một ai có mặt ở phiên tòa. Khi tòa kết tội không dựa trên luật pháp, không có nhân chứng, vật chứng… thì phiên tòa đó là bất hợp pháp.

Các thẩm phán tham gia xét xử phiên tòa kết tội "Hội anh em dân chủ" đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp và cả lương tâm. Đành rằng ai cũng biết là họ (những thẩm phán trên) chỉ đọc những bản kết tội đã có sẵn của công an nhưng chức năng và nhiệm vụ của các thẩm phán là ‘xét xử một cách công minh, theo đúng luật pháp và lẽ phải’. Không có bất cứ một lý lẽ nào có thể bênh vực cho những thẩm phán này như "phải làm nhiệm vụ được giao"… Họ có thể từ chối vì "nhiệm vụ" sai luật, trái với lương tâm và nghề nghiệp. Khi biết phải đọc một bản án oan sai nhằm kết tội người yêu nước mà họ vẫn làm thì chính họ là đồng phạm và đồng lõa với tội ác. Không có điều luật nào bắt họ phải đọc những bản kết tội đã có sẵn của công an. Họ không phải và không xứng đáng là thẩm phán vì thế phiên tòa là bất hợp pháp.

Các luật sư tham gia biện hộ đã ý thức được trách nhiệm và bổn phận của những người bảo vệ công lý. Chỉ có mỗi luật sư Tuấn là yêu cầu giảm nhẹ bản án cho Nguyễn Văn Trội (điều này gián tiếp thừa nhận thân chủ có tội trong khi sự thật không phải như vậy) các luật sư còn lại đều nói rõ là không ai trong số họ là phạm tội và yêu cầu tòa trả tự do cho họ không điều kiện. Dù chưa nói đúng và nói đủ những gì cần nói nhưng các luật sư đã mạnh mẽ khẳng định sự vô tội của các bị cáo, đây là một bước tiến đáng kể trong ý thức và bổn phận của giới luật sư Việt Nam. Trước đây, trong những vụ án tương tự, đã có những luật sư khuyên thân chủ nhận tội để giảm nhẹ hình phạt. Đây là một sự xúc phạm lớn với những người tranh đấu cho dân chủ Việt Nam. Khi các luật sư đồng lòng đứng về phía các bị can thì có thể nói phiên tòa là bất hợp pháp.

Các anh chị em trong Hội anh em dân chủ đã rất mạnh mẽ và dũng cảm. Không ai xin khoan hồng và nhận tội. Họ ý thức thức hoàn toàn việc họ làm và họ khẳng định là họ không vi phạm bất cứ điều luật nào của luật pháp Việt Nam hiện hành và những việc họ làm phù hợp với các công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Chỉ có mình Nguyễn Văn Trội là nói không còn tham gia phong trào dân chủ và Hội nữa vì có mẹ già con thơ. Tuy vậy tòa vẫn kết án Trội 7 năm. Khi các bị cáo đều mạnh mẽ và kiên quyết phủ nhận mọi cáo buộc của tòa thì phiên tòa đó hoàn toàn thất bại và bất hợp pháp.

Người dân Việt Nam có thể thấy được các bản án kết tội những người đấu tranh cho dân chủ ngày càng dã man và tùy tiện. Chính quyền kết tội họ bằng những lập luận vu vơ, lúc thì "tuyên truyền chống phá nhà nước", lúc thì "lật đổ chính quyền nhân dân"… mà không hề đưa ra một bằng chứng nào. Có lẽ chính quyền không cần và không thể dấu diếm bản chất khủng bố được nữa nên không cần đến lý lẽ. Cách đây không lâu chính quyền đã bỏ tù hai phụ nữ có hai con nhỏ với những bản án dã man không kém 9-10 năm tù là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và Trần Thị Nga. Ngày hôm nay (10/4/2018) tòa án Thái Bình tiếp tục kết án anh Nguyễn Văn Túc, một thành viên Hội anh em dân chủ và là một dân oan một bản án khủng không kém : 13 năm tù và 5 năm quản chế.

Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục thách thức lương tri người Việt Nam. Một thông điệp cứng rắn và rõ ràng gửi đến dân tộc Việt Nam là họ sẽ dùng bạo lực và khủng bố để bảo vệ đến cùng một thể chế chính trị lạc hậu, lỗi thời và toàn trị. Sẽ không có bất cứ một thay đổi nào về hướng dân chủ. Chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng chỉ là đấu đá và tranh giành quyền lợi giữa các phe nhóm trong nội bộ đảng. Người dân Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng không còn lý do gì để ủng hộ hay hy vọng bất cứ một điều gì ở chế độ này.

Việt Hoàng

(15/4/2018)

Published in Quan điểm

Giá bất động sản từ Đà Nẵng đến Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục tăng giá mạnh từ khoảng giữa năm 2017 đến nay (cuối tháng 3/2018). Đặc biệt tại điểm nóng Đà Nẵng, có những khu vực giá đất tăng lên gấp 4-5 lần. Khu An Thượng, quận Ngũ Hành Sơn, một miếng đất hơn 200 mét vuông được chào bán với giá 45 tỉ đồng (khoảng 2 triệu USD, 1 mét vuông bằng 10.000 USD). Một người bạn có miếng đất 90 mét vuông tại An Thượng 3, mua cách đây hơn 1 năm giá 3,5 tỉ đồng, hiện tại giá của nó là 15,5 tỉ đồng.

danang1

Khu An Thượng, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng có một vị trí đẹp và gần biển

Việc giá bất động sản tăng giá cao như vậy chủ yếu là do thổi giá và đầu cơ. Những người tham gia vào thị trường này đều là dân đầu cơ, tức là những người có tiền rảnh rỗi và không (chưa) biết đầu tư vào đâu. Dân thường không có khả năng, kể cả những người có nhu cầu thực sự. Như vậy, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản như đất nền, chung cư, văn phòng, resort, nghĩ dưỡng… chỉ là một bộ phận nhỏ có điều kiện và kinh tế của xã hội Việt Nam. Dù vậy sự tăng giá liên tục của bất động sản lại có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ người dân và nền kinh tế Việt Nam.

Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem những cái được và mất từ việc giá bất động sản tăng giá chóng mặt như thời gian vừa qua.

1. Những cái được :

- Bộ mặt các khu đô thị trở nên khang trang và to đẹp hơn vì được qui hoạch lại một cách đồng bộ và có hạ tầng tốt, nhất là tại các dự án mới. Một bộ phận người dân có điều kiện được sống trong một không gian hiện đại và tiện nghi. Họ có nhiều lựa chọn cho mình và gia đình hơn.

- Một số ngành nghề liên quan đến công nghệ và phụ liệu xây dựng cũng như nội thất nhà ở có cơ hội phát triển như xi măng, gạch, đá, bàn ghế, giường tủ… Tuy nhiên một số ý kiến cho rằng đa số phụ liệu xây dựng và đồ nội thất đều do nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng không đáng kể cho chuỗi công nghệ xây dựng này.

- Tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Bất cứ ai cũng có thể tham gia vào thị trường lao động xây dựng. Có chuyên môn thì lương cao, không có chuyên môn thì làm lao động chân tay.

- Khi thị trường bất động sản phát triển thì nhà nước sẽ thu được thêm nhiều thuế, đặc biệt là tiền thuế từ việc chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất thổ cư.

2. Những cái mất :

- Bất động sản tăng giá sẽ làm cho việc cải tạo và nâng cấp hạ tầng đô thị trở nên vô cùng đắt đỏ vì phải đền bù giải phóng mặt bằng với giá quá cao. Rất nhiều dự án nâng cấp hạ tầng đô thị gặp trở ngại vì không thể thỏa thuận được giá đền bù. Nhiều dự án mở đường, tiền đền bù chiếm hơn 2/3 tổng số tiền đầu tư. Với sự thiếu minh bạch trong quá trình đền bù giải tỏa nên một số tiền lớn đã bị tham nhũng và thất thoát.

Việt Nam nổi tiếng với những con đường đắt nhất hành tinh như đoạn Kim Liên-Ô Chợ Dừa, 550 mét hết hơn 642 tỉ đồng (28 triệu USD, tức hơn 51 triệu USD/1 km) hay đoạn đường Hoàng Cầu-Voi Phục dài 2,2km hết 7.800 tỉ đồng (342 triệu USD, tức 155 triệu USD/1km). Để so sánh, giá xây dựng trung bình 1 km xa lộ đầy đủ tiện nghi và an toàn tại Pháp là 7 triệu USD, tại Tây ban Nha là 3 triệu USD, đắc nhất là tại Thụy Sĩ với gần 16 triệu/1 km (vì phải xây trên những vùng núi đá hoa cương).

- Trái với nhận định hời hợt của một số người khi cho rằng bất động sản phát triển sẽ kéo theo nền kinh tế phát triển. Điều này không đúng. Bất động sản là hệ quả của nền kinh tế, có nghĩa là khi kinh tế phát triển, người dân kiếm được nhiều tiền thì họ sẽ có nhu cầu mua bất động sản để sinh sống hoặc giữ tiền.

Thị trường bất động sản Việt Nam không ổn định và không bền vững vì không có khách hàng tiềm năng, là những người lao động bình thường, vốn chiếm số đông. Khách hàng của thị trường bất động sản như đã nói ở trên, chỉ bao gồm một tầng lớp nhỏ có tiền, các dự án chủ yếu bán đi bán lại giữa các nhà đầu cơ với nhau. Chỉ cần thị trường đóng băng là hết giao dịch vì các nhà đầu tư… hết tiền.

Đây cũng là một hình thức "bán nước" trá hình vì chỉ những "cư dân bất hợp pháp" Trung Quốc mới đủ khả năng bỏ tiền ra mua để "hợp thức hóa" sự hiện diện của họ trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là tại những địa điểm "đắc lợi" hay "phong thủy hài hòa" như dọc các trục lộ giao thông, trong trung tâm thành phố, dọc bờ biển, quanh những hải cảng và giang cảng, hoặc cạnh những trung tâm hay vị trí có thắng cảnh đẹp và nổi tiếng của Việt Nam.

- Bất động sản tăng giá làm nền kinh tế phát triển chậm lại vì các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nhu cầu thực sự về nhà xưởng, kho tàng, bến bãi sẽ gặp khó khăn khi phải thuê hoặc mua lại bất động sản với giá cao.

Trong khi đó, đáng lẽ số tiền này dành để đầu tư vào thiết bị máy móc. Việc những doanh nhân làm ăn chân chính thường xuyên gặp phải đủ các thứ phiền hà từ bộ máy nhũng nhiễu của chính quyền trong khi việc kinh doanh bất động sản lại quá dễ dàng và thu lợi cao. Điều này khiến các doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất chán nản và quay sang đầu tư vào bất động sản. Hậu quả cuối cùng là không mấy ai đầu tư vào sản xuất nên mọi mặt hàng đều phải nhập khẩu kể cả nông sản thực phẩm. Chảy máu ngoại tệ và nền kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu sẽ sinh ra lạm phát và mất cân bằng nghiêm trọng, hậu quả là khôn lường cho nền kinh tế Việt Nam.

- Bất động sản đã và đang tạo ra nhiều hệ lụy nguy hiểm cho xã hội Việt Nam. Do mối lợi khủng khiếp mà bất động sản đem lại cộng thêm chính sách về đất đai mù mờ, nhất là việc hiến pháp Việt Nam đến nay vẫn không công nhận quyền sở hữu đất đai của người dân đã khiến các quan chức nhà nước cấu kết với các thế lực tài phiệt thu hồi đất vô tội vạ của người dân với giá rẻ mạt để làm dự án hoặc phân lô bán nền.

Hàng triệu dân oan mất đất trên khắp đất nước đang phải sống lang thang vật vờ với những tiếng oán than ngút trời. Rất nhiều nhà tỉ phú, triệu phú đôla giàu lên nhờ đất đai. Sự giàu có vô độ của những người làm giàu từ đất đai khiến họ chi tiêu thả phanh và làm ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả các loại hàng hóa tiêu dùng cũng như các dịch vụ cơ bản phục vụ người dân. Hố ngăn cách giàu nghèo càng lớn thì sự bất mãn và đối kháng càng cao và có nguy cơ làm bùng nổ xã hội.

- Bất động sản tăng giá quá cao làm suy giảm niềm tin của người dân vào tương lai. Khi giá lương trung bình của người dân Việt Nam vẫn còn thấp như hiện nay thì giấc mơ sở hữu một ngôi nhà hay một căn hộ tử tế mãi mãi là một giấc mơ xa vời.

Khi không có niềm tin và mọi ước mơ vào tương lai bị thui chột, khi ước mơ chính đáng và giản dị để có "ngôi nhà và những đứa trẻ" bị gạch bỏ thì làm sao người dân có thể yên tâm làm việc và cống hiến ?

Một số người, nhất là thanh niên không còn động lực để làm ăn chân chính mà sẵn sàng phạm pháp để sớm có tiền và "đạt được" giấc mơ của mình. Khi người dân phải lừa đảo hay phạm tội để có tiền mua sắm nhà cửa thì chất liệu nền tảng cấu tạo xã hội Việt Nam coi như đã đổ vỡ hoàn toàn.

- Sự tham gia sâu và nhiệt tình của các ngân hàng Việt Nam vào thị trường bất động sản là thấy rõ và chính điều đó sẽ đe dọa tính ổn định của các ngân hàng mỗi khi có biến động về thị trường này. Nhiều ngân hàng đã mất khả năng thanh toán dẫn đến việc bị sát nhập hoặc ngân hàng nhà nước phải bỏ tiền ngân sách ra mua lại với giá 0 đồng (ngân hàng vỡ nợ). Có nhiều lý do trong đó lý do quan trọng là khối nợ xấu từ bất động sản. Khi gần như toàn bộ nguồn tín dụng từ ngân hàng và cả ngân sách đều dành cho bất động sản thì nên kinh tế sẽ èo uột và không có tương lai, rất khó phát triển một cách lành mạnh.

Kết luận

Sỡ dĩ thị trường bất động sản tăng giá liên tục là do chính sách vĩ mô của nhà nước. Chưa có một lĩnh vực nào thông thoáng và dễ dãi như kinh doanh bất động sản tại Việt Nam. Không cần biết nguồn tiền từ đâu ra, không phải đóng đủ các loại thuế như khi kinh doanh các mặt hàng khác. Những đại gia cấu kết với những quan chức tham nhũng để sở hữu bao nhiêu đất đai cũng được, kiếm tiền dễ nhất, nhanh nhất và hợp pháp nhất… Các yếu tố này khiến bong bóng thị trường bất động sản của Việt Nam phình to và không biết sẽ nổ bùng vào lúc nào.

Trong khi đó, chỉ cần đánh thuế những ngôi nhà hoặc căn hộ thứ hai trở lên là thị trường bất động sản có thể giảm nhiệt ngay lập tức. Không phải chính quyền Việt Nam không biết điều đó, dự định đánh thuế người có nhiều bất động sản đã được soạn thảo từ lâu nhưng vì các nhóm lợi ích quá mạnh nên luật này không thể thông qua và áp dụng.

Câu hỏi được đặt ra là khối lượng tiền khổng lồ thu được từ thị trường bất động chui vào túi ai ? Rất dễ trả lời. Tất nhiên chúng chui vào túi của những nhóm lợi ích có khả năng vẽ ra chính sách về qui hoạch đô thị, sau đó là các nhà tài phiệt có tiền và có quan hệ mật thiết với các nhóm lợi ích trên. Số tiền này đã được chuyển ra nước ngoài để đầu tư vào các lĩnh vực an toàn hoặc bất động sản, chủ yếu là Mỹ và các nước Phương Tây dân chủ.

Còn những người dân có chút tiền đầu tư vào bất động sản thì sao ? Những người này cần phải tỉnh táo vì số tiền có được của nhiều người là do tích lũy, chắt góp hoặc kinh doanh trong nhiều năm. Bất cứ sự đổ vỡ nào của thị trường bất động sản cũng khiến nhà đầu tư mất mát rất lớn. Không có bất cứ một mặt hàng nào là tăng giá mãi mãi, tất cả đều theo hình sin, có lúc lên và có lúc xuống. Ngay cả nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới là Mỹ cũng đã gánh chịu cuộc khủng hoảng bất động sản năm 2007 và sau đó lan ra toàn thế giới.

Những người kinh doanh bất động sản không nên vay mượn ngân hàng hoặc xuống tiền tất tay cho các phi vụ tưởng là thắng lớn và ngon ăn. Nên đầu tư 2/3 số tiền của mình có, còn 1/3 tiền mặt nên giữ để phòng thân. Không nên tham. Sau đỉnh cao sẽ là vực sâu.

Việt Hoàng

(11/04/2018)

Published in Quan điểm

Người Việt Nam có lẽ ai cũng biết câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Câu này có nghĩa là khi đất nước hưng thịnh hay suy vong, dù là một người dân bình thường cũng phải có trách nhiệm. Câu này càng đúng nếu chúng ta xem đất nước là của chung của tất cả mọi người Việt Nam.

trithuc1

Hãy lên tiếng trước những bất công và cảnh báo các nguy cơ đang đe dọa người dân và đất nước

Nếu một người "thất phu" cũng đáng trách khi đất nước lâm nguy thì những người được xem là "trí thức" càng đáng trách hơn rất nhiều lần vì trí thức luôn là đại diện, là tiếng nói phản ánh tâm hồn và trí tuệ của dân tộc Việt Nam.

Thật ra, người dân thường (thất phu) không đáng trách vì họ mải lo kiếm sống, họ không đủ thời gian và nhận thức để lo việc nước. Trí thức phải làm việc đó. Đáng buồn là trí thức Việt Nam đã không đảm đương và làm tròn bổn phận của mình đó là ‘hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng’. Sỡ dĩ cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa có dân chủ là vì trí thức Việt Nam vẫn im lặng và vô cảm trước bất công. Theo báo chí Việt Nam thì :

"Nếu như năm 2000, đội ngũ trí thức cả nước chỉ có 1.322.691 người (từ cao đẳng trở lên) thì đến năm 2013, con số này đã tăng lên là 6.550.234 (gấp 4,95 lần) ;  số thạc sĩ từ 10.000 lên 118.653 người (tăng 11,86 lần), còn số tiến sĩ thì tăng từ 12,691 lên  đến 24.667 người (tăng 1.94 lần). Ngoài trí thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 người trí thức Việt kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ" (1).

Như vậy, những người có trình độ trên cao đẳng tại Việt Nam là gần 10 triệu, chiếm 10% dân số.

Có kiến thức (cao) không có nghĩa là người đó được xem là trí thức vì ‘Trí thức là những người có kiến thức, có hiểu biết, có quan tâm đến xã hội và dám nói dám làm những điều đúng đắn’. Trong gần 10 triệu người ‘có học’ (trên cao đẳng) nêu trên có bao nhiêu người thực sự quan tâm đến đất nước ? Chắc không đến 0,1% ! Nhiều người tham gia phong trào dân chủ Việt Nam không thuộc thành phần ‘có học’ trên.

Trước một xã hội bất công và một đất nước tụt hậu như Việt Nam ngày hôm nay thì trí thức có một trách nhiệm vô cùng lớn. Họ phải làm gì ? Có ba nấc để đánh giá một người trí thức có trách nhiệm với dân tộc :

1. Lên tiếng trước những bất công và cảnh báo các nguy cơ đang đe dọa người dân và đất nước. Có nhiều trí thức Việt Nam đã và đang làm điều này.

2. Lên tiếng chỉ trích sự yếu kém và bất lực của chính quyền. Đây là việc làm khó khăn đòi hỏi sự dũng cảm của mỗi người. Cũng có khá nhiều người làm được việc này.

3. Hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng đứng dậy đấu tranh. Đây là tiêu chí và nhiệm vụ quan trọng nhất của tầng lớp trí thức, tiếc thay trí thức Việt Nam chưa làm được.

Ai cũng thấy sự thối nát của chính quyền Việt Nam đã đạt đến tột đỉnh, ngay cả đến Đinh La Thăng, một trong các ông ‘vua tập thể’, đến khi ra tòa, vẫn không được đối xử như một con người. Thử hỏi gần 100 triệu người Việt Nam sẽ bị đối xử ra sao dưới chế độ này ?

Đành rằng di sản lịch sử và văn hóa Khổng giáo đã khiến tầng lớp sĩ phu (ngày trước) và trí thức Việt Nam (ngày nay) sinh ra chỉ để làm nô bộc cho vua chúa và cường quyền, tuy nhiên đã bước sang thế kỷ 21 mà thứ văn hóa đó của trí thức Việt Nam vẫn không thay đổi. Có ý kiến cho rằng trí thức Việt Nam không yêu nước và không yêu người Việt Nam nên họ không có trái tim để cùng đau, cùng chia sẻ với những bất hạnh của dân tộc.

Rất nhiều trí thức Việt Nam ‘hồn nhiên như cô tiên’ tuyên bố rằng họ ‘không làm chính trị’, họ ‘không quan tâm đến chính trị’ vì chính trị là nhơ bẩn và xấu xa. Không những thế, có kẻ còn lên tiếng bài bác và chỉ trích nnhững tổ chức chính trị đứng đắn như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên dù họ chẳng làm được gì. Càng có tí hiểu biết và kiến thức thì họ càng không ưa nhau, thậm chí thù ghét nhau. Tầng lớp khó đoàn kết và khó tìm được tiếng nói chung nhất chính là tầng lớp trí thức Việt Nam.

‘Chính trị’ tức là việc chung của đất nước, của mọi người vì vậy ‘làm chính trị’ là một phần quan trọng thuộc về trách nhiệm của công dân. Đa số trí thức Việt Nam khi nói rằng ‘tôi không quan tâm chính trị’ tức là họ đã chối bỏ trách nhiệm của mình đối với đất nước, xã hội, gia đình và bản thân. Họ cho rằng chỉ cần lo cho gia đình nhỏ của họ là đủ và tốt rồi, tuy nhiên dù họ không quan tâm đến chính trị nhưng chính trị lại tác động đến mọi mặt của đời sống, từ giá cả của cân gạo, cân thịt, lít xăng đến giá trông trẻ hay giữ xe đều do chính trị quyết định.

‘Không quan tâm đến chính trị’ không chỉ vô trách nhiệm với chính mình và gia đình mình mà còn là biểu hiện của sự hèn nhát và không lương thiện nếu không muốn nói là gián tiếp gây ra tội ác. Chúng ta đều biết ở các nước văn minh, không ngăn cản tội ác hay không cứu giúp người mắc nạn là một tội hình sự. Giữa kẻ phạm tội ác và kẻ biết đó là tội ác mà không ngăn cản thì nhiều lúc kẻ biết mà không ngăn cản tộc ác đáng bị lên án nghiêm khắc hơn. Trong nhiều trường hợp, có những người ‘phạm tội ác’ vì họ không ý thức được việc mình làm, có thể do khả năng hiểu biết có vấn đề hoặc do tâm thần. Trong những trường hợp này kẻ gây ra tội ác có thể ‘thông cảm và tha thứ’ nhưng những người biết rõ đó là tội ác mà không ngăn cản thì đáng trách và đáng bị lên án hơn nhiều lần. Tổng giám mục Desmond Tutu người Nam Phi, Nobel Hòa Bình 1984 có nói rằng ‘Trong trường hợp có bất công mà bạn không chọn đứng về phe nào, thì thực chất là bạn đã chọn đứng về phía áp bức’.

Câu hỏi quan trọng nhất lúc này cần đặt ra cho trí thức Việt Nam đó là : Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay những người "không làm chính trị" có lương thiện không? Trách nhiệm của người trí thức là gì ?

Có lẽ không thừa khi nhắc lại câu nói của Mục sư Martin Luther King rằng ‘cuộc đời chúng ta bắt đầu kết thúc kể từ khi chúng ta im lặng cho những điều mà đáng ra phải lên tiếng’ hay câu nói của Napoleon Bonaparte ‘thế giới chìm trong đau khổ không phải vì cái xấu, mà là bởi sự im lặng của những người tốt’.

Khi người tốt và tử tế quay lưng lại với chính trị thì kẻ xấu sẽ thao túng chính trị và đày đọa cả dân tộc. 73 năm cầm quyền của đảng cộng sản đã chứng minh cho điều đó. Và như đã nói ở trên đảng cộng sản không chỉ đày đọa dân tộc Việt Nam mà nó còn hành hạ tất cả thành viên của nó mà ông Đinh La Thăng là một ví dụ. Không một ai trong ban lãnh đạo đảng cộng sản dám lên tiếng bênh vực ông ta một lời, ngay cả ông Nguyễn Tấn Dũng. Có bao nhiêu đảng viên cộng sản và công chức nhà nước cảm thấy yên tâm và thoải mái dưới chế độ này ?

Trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, trí thức Việt Nam luôn đứng bên lề của thời cuộc. Các ông vua lập nên các triều đại mới như Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh), Lê Đại Hành (Lê Hoàn), Lý Thái Tổ (Lê Công Uẩn), Trần Thủ Độ (người dựng lên nhà Trần), Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Quang Trung (Nguyễn Huệ), Gia Long (nhà Nguyễn) đều là quan võ, anh hùng hảo hán chứ không phải quan văn hay xuất thân từ giới sĩ phu.

Suốt trong 80 năm đô hộ của thực dân Pháp thì trí thức Việt Nam dù được tiếp cận với văn minh của Châu Âu mà người Pháp mang đến cũng không khá hơn bao nhiêu. Đảng cộng sản (Việt Minh) một chi nhánh của Đệ tam quốc tế cộng sản, với chủ thuyết xóa bỏ biên giới quốc gia lại được trí thức và người dân ủng hộ nhiều nhất. Lý do dẫn đến thắng lợi của đảng cộng sản năm 1945 là vì sự hời hợt và vô cảm của giới trí thức Việt Nam lúc đó. Xin mời độc giả đọc lại bài viết ‘Nhìn lại Cách mạng tháng Tám’ của ông Nguyễn Gia Kiểng viết từ năm 1991 để hiểu thêm về các tổ chức chính trị và đảng phái thời đó (2).

Ngày hôm nay, có vẻ lịch sử năm 1945 đang lặp lại. Đất nước đang lâm nguy và đứng bên bờ vực thẳm nhưng tầng lớp trí thức Việt Nam vẫn tiếp tục đứng bên lề của thời cuộc. Họ thờ ơ và không quan tâm đến vận nước. Không ai nghĩ đến chuyện tham gia hay thành lập các tổ chức chính trị để tranh đấu một cách bài bản hay có một lộ trình cụ thể để thay đổi Việt Nam về hướng dân chủ.

Trí thức Việt Nam không chịu hiểu rằng đấu tranh chính trị là đấu tranh giữa các tổ chức chứ không phải đấu tranh cá nhân. Họ không thể nào kêu gọi người dân Việt Nam đoàn kết khi bản thân họ không tham gia hay ủng hộ cho bất cứ tổ chức chính trị dân chủ đối lập nào. Cũng không có một tổ chức nào ngoài Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đưa ra được một Dự Án chính trị cho đất nước. Ngay cả Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cũng gặp phải sự thờ ơ của tầng lớp trí thức Việt Nam. Không mấy ai lên tiếng phản đối hay ủng hộ cho dự án chính trị đó ngoài các bạn trẻ, là thế hệ sinh ra sau biến cố 30/4/1975.

Đừng quên rằng, từ xưa đến nay, tất cả các cuộc cách mạng đổi đời đều phải do giới trí thức lãnh đạo và dẫn dắt. Việt Nam tụt hậu và thua kém các dân tộc khác vì trong suốt dòng lịch sử, trí thức Việt Nam chưa bao giờ xây dựng được cho mình và đất nước một tổ chức chính trị thật sự với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết và một tư tưởng chính trị trong sáng, lành mạnh chuyên chở các giá trị của thời đại. Trí thức Việt Nam phải biết rằng không có ‘tư tưởng chính trị’ thì không thể có các tổ chức chính trị. Không có Kinh thì không thể có Đạo. Có những tổ chức ra đời nhưng vì không có tư tưởng chính trị nên không thể phát triển hoặc sớm tan rã.

Các chế độ độc tài trên thế giới đang co cụm lại để tự vệ nhưng dù cố gắng đến đâu chúng cũng sẽ bị làn sóng dân chủ thứ Tư tràn tới và quét đi. Các nước độc tài như Nga, Trung Quốc... đang chuyển từ chế độ tài đảng trị sang chế độ độc tài cá nhân trị với sự phong đế suốt đời cho Putin hay Tập Cận Bình và đây là quá trình tất yếu dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ độc tài. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Việt Nam đang đứng trước một khúc quanh trọng đại của lịch sử, một kỷ nguyên mới đang đến với dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của tự do và dân chủ. Trí thức Việt Nam cần ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trước vận mệnh và tương lai của đất nước. Việc làm cần nhất trong lúc này là tìm hiểu các dự án chính trị của các tổ chức dân chủ đối lập để rồi ủng hộ cho một tổ chức tâm đắc nhất. Không có các tổ chức chính trị dân chủ thì không thể có dân chủ cho Việt Nam.

Việt Hoàng

(03/04/2018)

----------------

(1). http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/tong-quan-ve-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-3317714/

(2). https://thongluan2016.blogspot.com/2017/08/nhin-lai-cach-mang-thang-tam-nguyen-gia.html

Published in Quan điểm

Giấc mơ là những hình ảnh hay câu chuyện không có thật, thường là đẹp, xảy ra trong lúc ngủ. Trong bài viết này ‘giấc mơ’ đồng nghĩa với ‘ước muốn’, tức là những mong ước đẹp về tương lai. Trong giấc ngủ thì giấc mơ có thể rất đẹp nhưng cũng có thể là ác mộng. Giấc mơ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là ‘giấc mơ giữa ban ngày’ vì thế giấc mơ này luôn là giấc mơ đẹp, được dẫn dắt bởi tình yêu và cả lý trí.

giacmo1

Một đất nước yên bình và thái hòa

Giấc mơ giữa ban ngày lúc nào cũng đẹp và mãnh liệt. Ai cũng có giấc mơ cho riêng mình dù người đó nghèo khổ hay giàu sang. Có thể nói rằng, nếu ai đó không còn ước mơ gì nữa thì cuộc đời coi như đã chấm dứt. Có bao nhiêu con người trên hành tinh này thì có bấy nhiêu giấc mơ và các giấc mơ này luôn khác nhau, thậm chí một trời một vực. Có người chỉ mong muốn đủ ăn đủ mặc, có người muốn sống khỏe sống lâu, có người muốn lưu danh thiên cổ...

Do khả năng của mỗi người mà giấc mơ của họ có thể trở thành hiện thực hay không, thực tế là rất ít người đạt được giấc mơ của mình. Tuy vậy ai cũng phải có giấc mơ, không có nó cuộc đời trở nên vô vị và buồn tẻ. Có những người mang theo giấc mơ của mình về thế giới bên kia để rồi những việc làm của họ chỉ được nhìn nhận và đánh giá đúng sau một thời gian.

Có những con người và những giấc mơ làm thay đổi thế giới. Chính những giấc mơ ‘điên rồ’ đã mang con người đến mặt trăng, bay lên trời, lặn sâu xuống đáy biển, chinh phục thiên nhiên và thay đổi hoàn toàn cuộc sống của con người. Chúng ta hay nghe nói đến các "quĩ đầu tư mạo hiểm" hay "khởi nghiệp"... đó là những khoản tiền khổng lồ dành cho các ý tưởng mới, càng điên rồ và mạo hiểm càng được quan tâm và chú ý. Trong một tương lai gần, cư dân của trái đất có thể dùng internet với vận tốc gấp 180 lần hiện nay từ vệ tinh với giá cước từ 10 USD, đây là sản phẩm của tỉ phú Mỹ, CEO của tập đoàn SpaceX : Elon Musk.

Hầu như tất cả các phát minh, sáng kiến và ý kiến chỉ có thể nảy nở ở những xứ sở tự do, nơi quyền con người được luật pháp bảo hộ và nhìn nhận. Tại các nước độc tài thì mọi ước mơ, dù tốt đẹp đến đâu, nhân văn đến đâu mà không được chính quyền đồng ý thì cũng bị tiêu diệt từ trong ý tưởng. Làm từ thiện là một ví dụ. Đây là một trong những điểm sáng, là niềm hy vọng hiếm hoi của xã hội Việt Nam thời kỳ nhiễu loạn. Không ít người, dù chưa phải quá giàu có và thành đạt nhưng họ đã biết chia sẻ sự may mắn của mình cho những người đồng bào kém may mắn. Những hành động nhân văn nay thay vì được nhà nước hỗ trợ và tôn vinh thì không ít trường hợp lại bị ghẻ lạnh và gây khó dễ đủ đường.

Ngày hôm nay người Việt Nam có giấc mơ gì ? Có thể nói là rất nhiều ! Ông Nguyễn Phú Trọng, Đảng cộng sản Việt Nam và những người đang hưởng lộc của chế độ thì mong muốn đảng của họ tiếp tục trường tồn để họ có thể làm giàu bằng cách tham nhũng và sống một cuộc đời viên mãn. Một số người Việt hải ngoại thì mong khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa để sống lại những ngày tháng thơ mộng và tự do. Những người dân oan mất đất thì mong ước đòi lại được tài sản của mình. Giới văn nghệ sĩ thì mong muốn được tự do để sáng tác mà không bị kiểm duyệt. Nhiều người thì mong sao thoát ra khỏi Việt Nam rồi đi đâu cũng được. Những đứa trẻ vô gia cư, đánh giầy, bán vé số thì chỉ mong ngày nào cũng "có cơm ăn, có áo mặc và được học hành". Có lẽ không ít người Việt đã không còn bất cứ giấc mơ nào, với họ tương lai là một màu đen tối, họ chỉ gắng sống và tồn tại cho qua ngày, đến đâu hay đến đấy và tìm vui qua những chén rượu, cốc chè...

Chung một giấc mơ Việt Nam 

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cũng có một giấc mơ, đó là cũng khẩu hiệu (slogan) của chúng tôi : "Chung một giấc mơ Việt Nam". Tại sao không có nhiều giấc mơ mà chỉ có một giấc mơ thì như đã trình bày ở trên, có bao nhiêu người, bao nhiêu thành phần dân chúng thì có bấy nhiêu giấc mơ. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không thể nào thỏa mãn được tất cả mọi giấc mơ của tất cả mọi người dân Việt Nam. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chỉ có thể đưa ra một giấc mơ chung cho tất cả. Giấc mơ đó là gì ?

giacmo2

"Chung một giấc mơ Việt Nam" - Ảnh minh họa

Giấc mơ đó là một nước Việt Nam dân chủ đa nguyên, một đất nước mà mọi thành phần dân tộc đều được nhìn nhận và có chổ đứng như nhau. Một đất nước không còn hận thù và chia rẽ với một chính sách hòa giải dân tộc thật lòng và cương quyết.

Đất nước Việt Nam sẽ là của chung của tất cả mọi người, đất nước sẽ được quan niệm như là một dự án tương lai chung, một tình cảm và một không gian liên đới. Một đất nước của tình yêu, tình người, tình anh em tìm lại.

Chúng ta sẽ tôn vinhvà xiển dương các giá trị tiến bộ của nhân loại như tự do, dân chủ, hòa bình, công lý, bình đẳng, bác ái,bao dung và lương thiện.

Chúng ta cùng nhau chia sẻ sự vui buồn, hạnh phúc và thịnh vượng. Sẽ cùng nhau nâng đỡ những người bất hạnh và kém may mắn trong một xã hội dân sự năng động và một chính phủ có trách nhiệm. Sẽ không có ai bị gạt ra ngoài lề cuộc sống. Dù còn nhiều khó khăn trước mắt về kinh tế nhưng sẽ ấm áp tình người Việt Nam.

Mọi ý kiến và quan điểm đều được lắng nghe và tôn trọng miễn là chúng không kêu gọi bạo lực, chụp mũ và vu khống. Mọi người đều có quyền và có đủ không gian pháp lý để tự do theo đuổi và thực hiện những ước mơ và kế hoạch của đời mình. Sẽ không có bất cứ một ý kiến nào là cấm nêu ra và không có bất cứ chủ đề nào là không được bàn đến.

Chúng ta sẽ xây dựng đất nước Việt Nam lại từ đầu và cùng nhau làm cho đất nước trở nên hiền hòa nhân hậu để những người ngày hôm nay có thể hài lòng và những thế hệ sau có thể hãnh diện. Đất nước đó chính là ngôi nhà chung của 90 triệu người Việt Nam, để không còn ai phải bỏ nước ra đi.

Chúng ta sẽ cùng nhau mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, trang sử của kỷ nguyên hòa bình, dân chủ và tự do. Tất cả mọi người dân đều có quyền tự do và được nhà nước tôn trọng nhân phẩm theo đúng tinh thần của bản Tuyên ngôn Phổ cập về Quyền con người của Liên Hợp Quốc.

Xin chia sẻ với tất cả mọi người Việt Nam về Giấc mơ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên trong Dự án Chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai :

"Nước ta có khả năng trở thành một nước lớn và giàu mạnh nếu động viên được mọi trái tim, mọi khối óc, mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng tương lai chung. Tuy vậy thực tế đáng buồn là ngày hôm nay chúng ta vẫn còn đang phải đấu tranh cam go để có được điều mà hầu hết các dân tộc đã có : dân chủ.

Cuộc đấu tranh đã dài hơn chúng ta mong muốn vì ngoài những khó khăn đã được nhận diện còn thêm một lý do khác : đây là cuộc đấu tranh hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta. Từ trước đến nay chúng ta đã chỉ có những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực thống trị, hay những cuộc chiến chống ngoại xâm mà mục đích, xét cho cùng, cũng chỉ là để đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Lần này chúng ta chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai của lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ.

Đó là cuộc chiến đấu để đưa người Việt Nam và đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc chiến đấu thực sự xứng đáng để chiến đấu. Như vậy những con người Việt Nam hôm nay cần ý thức rằng họ đang đứng trước cơ hội để tạo ra biến cố lịch sử lớn nhất và vinh quang nhất, cơ hội mà các thế hệ mai sau sẽ không thể có.

Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng.

Chúng ta nhất định thành công. Dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh sau khi đã phải trả giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản dị nhưng mầu nhiệm như tự do, dân chủ, hòa bình, công lý, bao dung, cố gắng. Chúng ta đã nhuần thấm tình dân tộc nghĩa đồng bào trong sự tủi nhục chung vì thua kém. Chúng ta đã nhận ra rằng tất cả mọi người Việt Nam đều ràng buộc với nhau trong một số phận chung. Chúng ta đang có một đồng thuận dân tộc lớn nhất kể từ ngày ông cha mở nước. Đồng thuận ấy sẽ là vũ khí vô địch giúp chúng ta vượt mọi trở ngại.

Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố : một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai.

Lạc quan và hãnh diện vì cuộc đấu tranh của ta trong sáng. Nó không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, nó là cuộc đấu tranh để tôn vinh mọi người, tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc ta rất xứng đáng để có.     

Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của những cố gắng chung và của thành công chung.        

Chúng ta hãy nắm tay nhau cùng cất cao một lời nguyền :     

Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.     

Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.  

Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.

Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đó là di sản mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ mai sau. Đó là giấc mơ Việt Nam mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và ngày mai".

(Chương 9 : "Chung một giấc mơ Việt Nam", Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ hai).

Việt Hoàng

(25/3/2018)

Published in Quan điểm

Mì ăn liền là một dạng mì sấy khô đóng gói, cho nước sôi vào vài phút là có thể ăn ngay. Ưu điểm của ‘mì ăn liền’ là rẻ, nhanh và tiện lợi dù chất lượng dinh dưỡng không cao. Việt Nam là một quốc gia luôn tự hào về truyền thống ẩm thực, nhất là ẩm thực đường phố, tuy vậy mỗi năm người dân Việt Nam đã tiêu thụ khoảng 5 tỉ gói mì ăn liền. Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới về lượng mì tôm tiêu thụ, với giá trị hơn 1 tỉ USD.

mianlien1

Mỗi năm người dân Việt Nam đã tiêu thụ khoảng 5 tỉ gói mì ăn liền. Ảnh Cafebiz

Cuộc sống càng bận rộn thì nhu cầu dùng mì ăn liền càng lớn, hơn nữa các loại mì ăn liền luôn được các nhà sản xuất thay đổi và nâng cấp cho phù hợp với mọi tầng lớp. Các chế biến bằng cách cho thêm thịt, hải sản vào mì ăn liền cũng khiến chất lượng và khẩu vị món ăn dân dã này ngày càng thêm hấp dẫn. Bản thân tôi thỉnh thoảng mới dùng mì ăn liền vì chỉ 3-4 tiếng sau là đã thấy đói và do bạn bè khuyên nên hạn chế món này vì mì bị sấy quá kỹ nên bị khét và mất hết chất, nếu ăn phải chần qua nước sôi, đổ nước đó đi rồi hãy ăn…

Tôi không phải là một chuyên gia dinh dưỡng và ăn uống nên chỉ biết về mì ăn liền đến thế. Sỡ dĩ phải nhắc đến ‘mì ăn liền’ vì thấy nó liên quan mật thiết đến văn hóa người Việt chúng ta. Ông bà ta có câu tục ngữ đồng nghĩa với mì ăn liền là : ‘Ăn xổi, ở thì’. ‘Ăn xổi’ ở đây có nghĩa là ăn ngay, ăn luôn. ‘Ở thì’ có nghĩa là chỉ biết sống theo từng giai đoạn (thời gian) ngắn (thì) mà không cần nghĩ đến tương lai. Câu này có nghĩa chung là ‘chỉ tính và nghĩ đến chuyện tạm bợ trước mắt mà không suy tính đến chuyện lâu dài’.

Thiển cận, hời hợt, chỉ tính cái lợi nhỏ trước mắt mà không tính đến hậu quả trong tương lai là những tính cách khá phổ biến của người Việt chúng ta. Ví dụ thì vô vàn, một ví dụ, khi đánh bắt cá người nước ngoài thường dùng những loại lưới có kích cỡ đúng với loại cá đủ cân để bắt, những con cá nhỏ chừa lại lần sau bắt, còn ở Việt Nam thì nhiều người sẵn sàng dùng thuốc nổ để đánh cá, làm thế không chỉ hủy hoại môi trường mà còn tiêu diệt tất cả các sinh vật khác dù nhỏ hay lớn. Những người này không cần biết sau này sẽ đánh bắt cái gì, vì cá đâu còn để bắt.

Không chỉ người dân mà cả trí thức xã hội chủ nghĩa lẫn chính quyền cộng sản hiện nay cũng vậy, tất cả chỉ thích ‘ăn ngay và ăn luôn’. Bằng cấp thì đi mua khỏi cần học cho mất thời gian. Để tiến thân nhanh thì không ít người sẵn sàng đi bằng đầu gối. Quan chức chưa làm đã tính chuyện tham ô, tham nhũng, sẵn sàng vì mối lợi một đồng cho bản thân mà làm mất đi hàng trăm, hàng nghìn đồng của chung.

Chính quyền Việt Nam vì tham nhũng và muốn cho đầu tư nước ngoài vào làm ăn mà sẵn sàng bỏ qua mọi qui định về bảo vệ môi trường khiến hàng triệu người dân bị ảnh hưởng nặng nề, Formosa là một ví dụ. Đảng cộng sản cũng thừa biết là chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Mác-Lê đã lỗi thời và lạc hậu nhưng vì quyền lợi của cá nhân mà họ sẵn sàng dùng bạo lực và nhà tù để khuất phục mọi tiếng nói trái chiều nhằm duy trì một thể chế chính trị lạc hậu nhất trên quả đất, còn tương lai đất nước và người dân Việt Nam mặc kệ…

Luồn lách cũng là một biểu hiện của văn hóa mì ăn liền của người Việt. Ai cũng muốn được việc mình mà sẵn sàng đạp lên đầu người khác để đi, có người chỉ vì một cuốc taxi hay xe ôm mà ra tay đoạt mạng người khác. Trong những ngày đầu năm thì hàng vạn người trên khắp đất nước đổ xô về các chùa chiền để xin lộc và cầu may trong đó không ít các quan chức và doanh nhân. Đây cũng là tâm lý ‘ăn xổi ở thì’, thay vì tin vào bản thân mình, vào công việc của mình thì họ muốn giàu nhanh, thành công ngay nên van vái cầu xin đủ các loại thánh thần. Những người thiếu hiểu biết và nghèo khổ thì chỉ biết trông mong vào các thế lực siêu nhiên vì bất an và tuyệt vọng còn những kẻ giàu có thì sẵn sàng bỏ ra một đống tiền để mua một xuất định cư ở nước ngoài, những kẻ có học thì sẵn sàng hùa với chính quyền để nói những điều dối trá, đổi trắng thay đen, bất chấp sự thật…

mianlien2

Tất cả đều "ở thì", sống ngày nào biết ngày ấy.

Không ai nghĩ đến chuyện làm thế nào để thay đổi hiện tại ngày hôm nay và chắc chắn càng không mấy ai nghĩ đến chuyện tương lai cho Việt Nam. Tất cả đều "ở thì", sống ngày nào biết ngày ấy.

Bây giờ tôi sẽ đề cập đến phong trào dân chủ Việt Nam, đây là những người được xem là dũng cảm và có trách nhiệm nhất của đất nước. Họ đã làm được gì trong 43 năm qua sau biến cố 30/4/1975 ? Thành công nổi bật nhất của họ là làm lố bịch tư tưởng cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lê và làm xói mòn tính chính danh của đảng cộng sản. Nhiều người sẵn sàng thách thức và đương đầu với chính quyền dù phải chịu những bản án nặng nề… Tuy nhiên cái đích cuối cùng là thay đổi chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam thành một chế độ dân chủ vẫn còn rất xa vời.

Có thể nói rằng những sự hy sinh và dấn thân của anh chị em trong phong trào dân chủ Việt Nam thời gian qua đã làm thức tỉnh không ít người dân Việt Nam, ngày càng có nhiều người nhập cuộc và sẵn sàng thách thức chính quyền. Đa số trong số họ là dấn thân vì lương tâm và bị áp bức (như trường hợp bà Cấn Thị Thêu) chứ ít người trong họ tin là sẽ chiến thắng hay thay đổi được chế độ cộng sản. Chưa có ai trong số họ đưa ra được một lộ trình hay kịch bản để chiến thắng đảng cộng sản. Nhiều ‘ngôi sao dân chủ’, hay ‘ngôi sao FB’, sau một thời ‘oanh liệt’ đã bị hòa tan vào quần chúng hoặc quay về điểm xuất phát ban đầu. Họ không hiểu một điều căn bản rằng, đấu tranh chính trị luôn là giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải giữa các cá nhân. Thế giới gọi những người bị bỏ tù vì tranh đấu tại Việt Nam là ‘tù nhân lương tâm’ chứ không gọi ‘tù nhân chính trị’ là hoàn toàn đúng.

Thay đổi số phận của cả một dân tộc là một dự án vĩ đại và lớn lao vì dự án đó sai hay đúng sẽ ảnh hưởng lên gần 100 triệu con người. Dự án chính trị của đảng cộng sản Việt Nam khi cướp chính quyền hồi năm 1945 theo đường lối và tư tưởng Mác-Lênin đã không được giới trí thức Việt Nam lúc đó phân tích, bàn luận và định lượng để thấy cái sai, cái độc hại của nó nên Việt Nam mới tụt hậu và phải trả giá kinh khủng như ngày hôm nay.

Làm chính trị để thay đổi hoàn toàn thể chế chính trị và xây dựng lại một nước Việt Nam mới, khác hoàn toàn với chuyện đi săn bắt hay đánh bạc. Đây không phải là chuyện "chưa bắt được gấu đã đòi chia da", "thắng làm vua thua làm giặc" hay cứ đánh đổ cộng sản đi đã rồi tính tiếp…

Tâm lý mì ăn liền của người Việt tạo ra một đám đông cuồng nhiệt. Đám đông đó đã động viên, tung hô và kích thích cho các hành động ‘hy sinh’ hoặc gây được tiếng vang, dù nhất thời, của những người tranh đấu. Không ít người tranh đấu ‘hành động’ khi chưa có bất cứ một sự chuẩn bị nào hoặc biết chắc là sẽ thất bại. Họ, đôi lúc phải hành động vì bị đám đông cuồng nhiệt kêu gọi và chờ đợi hành động của họ. Khi họ thất bại, bị đi tù thì đám đông ‘mì ăn liền’ đó nhỏ vài giọt nước mắt, xong lại đi tìm một nhân vật mới… và tiếp tục tung hô người nọ, người kia lên tận mây xanh, rồi lại tiếp tục điệp khúc ‘Hành động đi ! Hành động đi’ !

Đám đông cuồng nhiệt này thời nào cũng có, quốc gia nào cũng có nhất là ở các nước kém phát triển. Đằng sau sự cuồng nhiệt và đôi lúc tỏ ra tử tế đó chính là sự giả dối, hèn nhát và trốn chạy. Tại sao không tự mình hành động mà cứ kêu gào người khác hành động ? Tại sao cứ muốn người khác phải hy sinh còn mình thì không ?... Càng nguy hiểm hơn khi trong đám đông này có sự tham gia cổ vũ của không ít người tự nhận mình là trí thức và tất nhiên là có cả bàn tay của chính quyền. Không gì khiến chế độ cộng sản thích bằng các hành động tự sát của các anh hùng thích ‘hành động’ hơn là ‘suy nghĩ’. Bạo lực và đàn áp là sở trường của chính quyền nên họ luôn muốn người dân đối đầu với họ bằng các hành động bạo lực để họ có thể trấn áp một cách nhanh chóng.

Trong quá khứ, văn hóa ‘mì ăn liền’ đã khiến người dân Việt Nam chọn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thay vì chọn con đường tranh đấu ôn hòa của Phan Chu Trinh. Bạo lực dù dã man và mất mát nhưng vẫn dễ được chọn hơn vì nó giải quyết bất đồng nhanh như… mì ăn liền. Trong khi đó thuyết phục một người thay đổi tư duy là cực kỳ khó khăn và mất nhiều thời gian nhất là những người mang nặng văn hóa Khổng giáo. Tư duy của những người này đã bị đóng khung vào một hệ tư tưởng độc hại đã bén rễ sâu trong tâm hồn, thế mới có câu ‘non sông dễ đổi, bản tính khó dời’.

Suốt 35 năm qua Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) đã phải nghe không biết bao nhiêu lần câu : Hành động đi ! Hành động đi ! Câu này cũng có nghĩa là : Hy sinh đi ! Gần đây có người còn cho rằng Tập Hợp đã thất bại vì đã 35 năm mà vẫn chưa thành công ? ! Người thì lấy làm lạ là không thấy chúng tôi ‘hành động’ gì ngoài viết, nói và bàn luận về ‘Dự án chính trị’ Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai…

Tôi tin là rất nhiều người Việt Nam, kể cả những người vốn được xem là trí thức… chưa hề đọc dự án chính trị đó của Tập Hợp. Vì nếu đọc rồi thì ắt họ phải lên tiếng ủng hộ hoặc phê phán. Một sự im lặng đáng sợ. Chúng tôi và những người, dù vẫn đang còn là số ít tìm đến với Tập Hợp hiểu rõ tâm lí ‘mì ăn liền’ đó của người Việt Nam. Thực tế cũng đã chứng minh là suốt mấy ngàn năm lịch sử, người Việt chưa có một công trình hay bất cứ một tác phẩm nào mang tầm cỡ thế giới. Tuyệt phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng phải vay mượn ý tưởng chẳng có gì đặc sắc của một nhà văn cũng không có gì đặc sắc bên Trung Quốc.

Tập Hợp đang làm một cuộc ‘cách mạng ngược’ với văn hóa mì ăn liền của người Việt, thay vì ‘ăn ngay và luôn’ chúng tôi chú trọng xây dựng cho mình và đất nước một dự án chính trị đầy đủ về mọi mặt, trên mọi lĩnh vực, cho hiện tại và cả tương lai rồi kiên nhẫn thuyết phục người dân Việt Nam đồng thuận với dự án chính trị đó, cuối cùng, khi nào nhận được tín hiệu và sự ủng hộ của đa số người Việt Nam thì chúng tôi mới ‘hành động’. ‘Hành động’ bằng cách xuống đường biểu tình là giai đoạn thứ 5 của Tập Hợp, hiện tại chúng tôi mới đang ở giai đoạn 2, tức là ‘xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt’. Chúng tôi nói rõ điều này để những người đang chờ đợi và mong muốn chúng tôi ‘hành động’ khỏi thất vọng. Điều đó còn rất lâu và rất xa.

Dù chưa nhận được sự ủng hộ của đa số người dân Việt Nam nhưng chúng tôi không sốt ruột và vội vàng để rồi kêu gọi hay ‘hành động’ bất chấp hậu quả. Chúng tôi hiểu để thay đổi văn hóa và tư duy của cả dân tộc không phải là chuyện dễ dàng. 35 năm so với lịch sử mấy ngàn năm chỉ là một cơn gió thoảng. Chúng tôi không biết khi nào mới nhận được sự ủng hộ của người dân Việt Nam. Chúng tôi cũng không oán trách hay than vãn gì cả mà chúng tôi chỉ cố gắng làm thật tốt công việc của mình, bổn phận của mình, trách nhiệm của một tổ chức chính trị dân chủ đối lập, kiên nhẫn thuyết phục người dân về một giải pháp mới thay thế cho giải pháp cộng sản.

Thành bại là do thời cuộc và lòng người, không phải do chúng tôi. Gần 100 năm về trước nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã ‘thất bại’, chúng tôi hy vọng và đặt niềm tin vào sự thức tỉnh của người dân Việt Nam ngày hôm nay.

Việt Hoàng

(12/3/2018) 

Published in Quan điểm

Khi ông Nguyễn Gia Kiểng viết bài "Cứu nguy phong trào dân chủ" (1) và chia sẻ nó trên trang FB thì đã tạo ra một cuộc tranh luận khá "sôi nổi". Nhiều ý kiến được đưa ra, có những bình luận rất thiếu "văn hóa tranh luận".

taphop0

Điều đó không quan trọng, quan trọng nhất là trong hàng trăm ý kiến đó đã không có ý kiến nào trả lời thẳng vào hai câu hỏi mà tác giả đặt ra :

1. Cứu cánh và bản chất của cuộc đấu tranh dân chủ là gì ?

2. Trong cuộc đấu tranh này những khả năng và đức tính nào là cần thiết, cần được nhận diện, tìm kiếm và trân trọng ?

‘Cứu cánh’ ở đây có nghĩa là ‘mục đích cuối cùng’. Chính vì không nắm rõ và ý thức được ‘mục đích cuối cùng’ của việc tranh đấu là gì nên phong trào dân chủ đã loay hoay và không thể tiến về phía trước.

Một thân hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp), là người hiểu rất rõ về phong trào dân chủ đã thẳng thắn nhận xét :

Phong trào đấu tranh dân chủ mới có 2 điểm. Điểm 1 : Dám lên tiếng phản biện trước những sai trái. Điểm 2 : Vì lẽ đó mà đi tù. Làm gì có một tư tưởng, đường lối, phương pháp đấu tranh nào. Chỉ toàn chạy theo các sự kiện và thụ động, bị dẫn dắt. Cái gọi là đấu tranh, thực chất chỉ là lên tiếng trước những bức xúc của xã hội để giải tỏa ẩn ức. Không có lấy một lần đấu tranh chủ động. Sự dấn thân và hi sinh của nhiều anh chị em suy cho cùng thật uổng phí và không có đóng góp cho việc thay đổi và xây dựng một xã hội dân chủ, đa nguyên. Ảo tưởng về sự đóng góp và hi sinh là một điều hết sức tệ hại vì nó giết chết chính mình và phong trào ’.

Mới đây lại xuất hiện một lá thư ngỏ gửi cho Mẹ Nấm và Thúy Nga mà chúng tôi đã có một bài ‘phản biện’ : ‘Có nên đi theo con đường của Mẹ Nấm và Thúy Nga ?’ (Hồng Việt) (2). Phải nói thẳng là người chấp bút cho lá thư ngỏ này quá cảm tính và hời hợt. Phong trào dân chủ Việt Nam đang thực sự có vấn đề.

Qua hai ví dụ trên, những tranh luận trên FB của ông Nguyễn Gia Kiểng và lá thư ngỏ gửi Mẹ Nấm và Thúy Nga thì cũng chính thân hữu trên nhận xét về phong trào dân chủ như sau :

Sự thật bao giờ cũng đau đớn và khó tiếp nhận. Không phủ nhận toàn bộ những vất vả, thua thiệt, công sức của nhiều anh em đấu tranh, nhưng chỉ những điều đó thôi là chưa đủ, không hề đủ. Thiếu nền tảng tri thức thì làm gì cũng nửa vời, sai sót, sau đó không chịu học, làm lại vẫn sai y chang. Cãi nhau không hồi kết chỉ vì không hiểu đúng, đủ về các khái niệm : dân chủ, tự do, đa nguyên, tự do ngôn luận... Nhưng khi có người viết đi viết lại về các khái niệm đó thì không chịu đọc, không chịu tìm hiểu, khi đọc thì cũng không chịu hiểu đúng mà vẫn cứ cãi lại cái định nghĩa mà cả thế giới đã chấp nhận.

Thiếu lòng quả cảm nên không dám dấn thân vào các kế hoạch dài hơi, chỉ đu bám theo sự kiện nhất thời, bị dẫn dắt bởi chính báo chí đảng mà không nhận ra. Ai nhắc thì liền bị chụp mũ, bị chửi cho ngập mặt. Thế nhưng lại dư sự liều mạng, dấn thân vào những việc mang tính bề nổi, sự kiện, phong trào để..làm truyền thông, không hề có chiều sâu. Không hề có tính tổ chức, không có tính bảo mật, không hề tuân thủ theo một nguyên tắc, quy định nào..để rồi bản thân bị đánh đập, bắt bớ, hư hại tài sản ’.

Không ít người chỉ trích Tập Hợp vì chúng tôi hay nói về ‘Dự án chính trị’của Tập Hợp, theo họ thì không cần bất cứ một ‘dự án’ nào cả mà chỉ cần ‘hành động’ nhưng hành động gì thì không thấy họ chỉ ra. Cũng có những người cho rằng đấu tranh là phải xuống đường biểu tình như kiểu đánh bạc là phải xuống tiền ?! Có người cho rằng cứ đánh đổ cộng sản trước đã rồi dân chủ tự khắc sẽ tới...

Tất nhiên là mỗi người mỗi ý, không ai suy nghĩ giống ai và xã hội vốn dĩ đa nguyên như vậy. Chúng tôi có phương pháp và lộ trình của chúng tôi và chúng tôi tin vào sự đúng đắn của mình. Có người khuyên chúng tôi rằng ‘khi không thấy dự án của mình khả thi thì cần thay đổi để phù hợp với quần chúng và thời cuộc, vì dự án của chúng tôi không được chấp nhận và chúng tôi đã thất bại’... Nếu cá nhân người đó nghĩ như vậy thì không sao nhưng nếu nói thay cho tất cả ‘mọi người’ thì chưa hẳn đã đúng.

Dự án chính trị của Tập Hợp chưa được chấp nhận rộng rãi và Tập Hợp chưa thành công là đúng nhưng không có nghĩa là đã thất bại. Chưa và không là khác nhau. Thay đổi tư tưởng và văn hóa Khổng giáo đã ăn sâu vào trong suy nghĩ người Việt hàng ngàn năm không phải là chuyện dễ dàng. Thay đổi cho phù hợp với thời thế là đúng nhưng không có nghĩa là ‘đẽo cày giữa đường’. Nếu một tổ chức mà không có lập trường và tư tưởng rõ ràng, thống nhất, nay thế này mai thế khác thì làm sao thuyết phục được người dân ?

Mỗi tổ chức chỉ là một cái ‘nhất nguyên’ trong xã hội ‘đa nguyên’ và không thể có chuyện ‘đồng phục tư tưởng’. Tập Hợp dù có cố gắng và thành tâm đến đâu đi nữa thì cũng chỉ thuyết phục được một bộ phận dân chúng chứ không thể là toàn bộ người dân Việt Nam được. Tập Hợp không độc quyền về tư tưởng. Tập Hợp chỉ đại diện cho một khuynh hướng chính trị và một số giá trị đạo đức mà chúng tôi cho là đúng đắn và cần thiết với xã hội Việt Nam như lương thiện, yêu nước, bao dung, thẳng thắn và tôn trọng lẽ phải...

Cứu cánh của Tập Hợp trong cuộc tranh đấu được nhìn nhận rằng :

Đây là cuộc đấu tranh để người Việt Nam được thực sự tôn trọng, được có những quyền đã được thế giới văn minh nhìn nhận, để đất nước được quản trị một cách lương thiện và hợp lý, từ đó vươn lên bắt kịp sự chậm trễ và chinh phục tương lai.

Đây là cuộc đấu tranh để đưa con người Việt Nam và đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh (…) Nó không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, nó là cuộc đấu tranh để tôn vinh mọi người, tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc Việt Nam rất xứng đáng để có.

Động cơ của nó như vậy là lòng yêu nước và yêu đồng bào, là tình yêu chứ không phải lòng thù hận ’ (3).

Ý thức được rằng phải thay đổi tận gốc rễ thể chế chính trị hiện nay tại Việt Nam thì người Việt Nam mới có cơ hội xây dựng lại đất nước phồn vinh và dân chủ. Tập Hợp tranh đấu để chiến thắng chứ không phải lấy tiếng vang và vì chọn con đường ‘bất bạo động’ nên tư tưởng và lý luận là tất cả. Một cuộc vận động tư tưởng phải đi trước dẫn đường cho một cuộc cách mạng. Ai chiến thắng về tư tưởng và lý luận thì sớm muộn gì cũng sẽ chiến thắng trong thực tế. Tất cả các cuộc đấu tranh (và cả chiến tranh) từ xưa đến nay đều là ‘đấu tranh chính trị’. Vũ khí và binh lính chỉ là một trong những giải pháp cuối cùng của đấu tranh chính trị mà thôi.

Muốn chiến thắng thì phải có lực lượng và lực lượng đó chính là một (vài) tổ chức chính trị đối lập dân chủ có tầm vóc. Chỉ có sức ép từ một liên minh các tổ chức đối lập (của phong trào dân chủ Việt Nam) thì mới có thể buộc đảng cộng sản thay đổi và ngồi vào đàm phán. Không ai có thể làm thay việc đó cho người dân Việt Nam chúng ta dù là Mỹ hay Liên Hợp Quốc.

Xây dựng các tổ chức chính trị dân chủ đối lập vì thế là việc làm bắt buộc, không thể né tránh và tiết kiệm. Muốn có dân chủ thì phải có đa đảng và muốn có đa đảng thì đầu tiên phải thành lập các đảng phải chính trị. Các cá nhân dù xuất chúng tới đâu cũng không thể là đối trọng của đảng cộng sản vì đấu tranh chính trị luôn là đấu tranh giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải là giữa các cá nhân. Các cá nhân không có tư cách để ‘đàm phán’ hay ‘đối thoại’ với bất cứ ai, dù là đảng cộng sản hay các đảng đối lập.

Các tổ chức chính trị chỉ có thể thành lập và phát triển nếu có một tư tưởng chủ đạo để làm chất keo kết dính các thành viên với nhau. Không có Kinh thì không thể có Đạo. Sự thực là cho đến bây giờ người Việt Nam vẫn chưa có được một chính đảng dân chủ thực sự có tầm vóc kể cả Tập Hợp. Cái này không phải lỗi hoàn toàn của chúng tôi mà là do di sản nặng nề của văn hóa Khổng giáo, một hệ tư tưởng bảo thủ, ngăn cấm mọi kết hợp và ép buộc người dân phải trung thành với một ông vua, dù là hôn quân.

Biết trước những khó khăn và thách thức đó anh em Tập Hợp vẫn tìm đến nhau, đồng thuận với nhau và xem nhau như là anh em trong một nhà và cùng nhau tiến bước. Trong cuộc tranh đấu này anh em chúng tôi sẵn sàng hy sinh cái tôi của mỗi người để tôn trọng nhau, kính trọng nhau và chia sẻ với nhau mọi điều, lắng nghe nhau và cả động viên nhau trong cuộc hành trình tranh đấu vốn buồn tẻ và cô đơn như những người vượt sa mạc. Kiên nhẫn, bao dung, thẳng thắn và lương thiện, tôn trọng lẽ phải... là những khả năng và đức tính mà chúng tôi tìm kiếm và trân trọng.

Chúng tôi ý thức được rằng không phải cũng chia sẻ với chúng tôi những giá trị đó. Và thật tình là chúng tôi cũng không biết bao giờ mới thành công, có bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ... Chúng tôi chỉ biết tin vào chính mình, tin vào lẽ phải và chân lý, còn khi nào thành công thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có hai yếu tố quan trọng là lòng dân và thời cơ. Nếu người dân không ủng hộ chúng tôi mà ủng hộ một giải pháp khác thì chúng tôi sẵn sàng chấp nhận và tiếp tục thuyết phục.

Có một câu hỏi mà nhiều người muốn biết câu trả lời là ‘khi nào Tập Hợp hành động ? Khi nào Tập Hợp phất cờ khởi nghĩa ?’ Nếu mọi người xem việc suy nghĩ, học hỏi, nghiên cứu, lý luận, nói và viết...là ‘hành động’ thì chúng tôi vẫn đang ‘hành động’ mỗi ngày, mỗi giờ. Còn nếu có ai đó xem ‘hành động’ là phải ‘xuống đường biểu tình’ thì như chúng tôi đã trình bày rất rõ trong năm giai đoạn của một cuộc cách mạng, đó là giai đoạn cuối cùng khi bốn giai đoạn đầu đã chuẩn bị xong xuôi. Tức là khi Tập Hợp đã có tư tưởng chính trị, có đội ngũ hùng mạnh, phương tiện đầy đủ và cuối cùng là đã có sự đồng thuận và hưởng ứng của người dân. Khi chưa biết rõ người dân và trí thức Việt Nam ủng hộ và đồng thuận với chúng tôi đến mức độ nào thì chúng tôi không thể ‘phất cờ khởi nghĩa’ vì chúng tôi sẽ nhanh chóng bị chính quyền đè bẹp ngay lập tức. Chưa chuẩn bị xong mà đã hành động đó là tự sát mà chúng tôi thì không muốn tự sát.

Chúng tôi muốn, đã ‘hành động’ là phải chiến thắng vì mục đích cuối cùng của chúng tôi là chiến đấu để chiến thắng. Tổng thống Abraham Lincoln cho rằng khi làm bất cứ một việc gì thì quá trình chuẩn bị luôn đóng một vai trò rất quan trọng, nó quyết định cho sự thành bại. Ông nói ‘nếu cho tôi 6 giờ để chặt một cái cây, tôi sẽ dành 4 tiếng để mài rìu’, Tập Hợp sẽ ‘hành động’ đúng như vậy.

Việt Hoàng

24/2/2018)

  1. http ://thongluan2016.blogspot.com/2018/02/cuu-nguy-phong-trao-dan-chu-nguyen-gia.html
  2. http ://thongluan2016.blogspot.com/2018/02/co-nen-i-theo-con-uong-cua-me-nam-va.html
  3. Khai sáng Kỷ nguyên Thứ hai
Published in Quan điểm

Thế nào là một xã hội dân chủ ?

Có rất nhiều giải thích. Nhưng để giản dị hóa câu trả lời, một xã hội dân chủ phải hội tụ ít nhất ba đặc tính căn bản, đó là :

- Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tín ngưỡng.

- Tự do kết hợp, tức là tự do lập hội và tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự hoặc các đảng phái chính trị.

- Tự do bầu cử và ứng cử vào các cơ quan công quyền.

doilap1

Xây dựng tổ chức đối lập trong một chế độ độc tài là niềm hy vọng để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn

Nhưng ba đặc tính cơ bản này không phải tự nhiên mà có, và chỉ có thể trở thành hiện thực nếu không có một tổ chức chính trị làm đầu tàu. Cá nhân có thể góp phần để phát huy các quyền tự do đó, nhưng chỉ những tổ chức mới đủ khả năng biến chúng thành hiện thực.

Trong một quốc gia dân chủ bình thườn, vai trò của những tổ chức chính trị (đảng phái) là rất cần thiết. Khi một đảng chính trị hay một liên minh chính trị lên cầm quyền, sau khi thắng cử qua một cuộc đầu phiếu tự do, những đảng phái thất cử khác đương nhiên trở thành những đảng phái đối lập để theo dõi, phê bình đường lối và chính sách của phe cầm quyền, đồng thời xét duyệt lại đường lối và chính sách của mình để tranh thủ quần chúng trong những cuộc bỏ phiếu tương lai. Sự hiện diện của đảng phái đối lập là một đối trọng để đảng cầm quyền không thể tự tung tự tác trong và trên xã hội. Các chế độ dân chủ phương Tây đã trở nên hùng mạnh và giàu có nhờ theo phương cách sinh hoạt chính trị đó. Sống trong một xã hội nhờ đó càng thêm củng cố.

Trong các nhà nước hay chế độ độc tài, ba yếu tố của một xã hội dân chủ nói trên bị hạn chế, nếu không muốn nói bị cấm đoán, yêu cầu xây dựng những tổ chức chính trị đối lập lại càng cấp thiết hơn nữa.

Nói tóm lại, trong một nhà nước dân chủ thì không thể thiếu vắng các tổ chức chính trị đối lập. Tổ chức chính trị đối lập là một trong những yếu tố cơ bản để một quốc gia có thể phát triển và vươn lên, sinh hoạt chính trị trở nên lành mạnh và trong sáng hơn.

Chúng tôi đồng ý hoàn toàn với ý kiến cho rằng, để biết một nhà nước có dân chủ hay không thì chỉ cần nhìn vào các tổ chức đối lập. Đối lập càng mạnh thì đất nước càng có dân chủ, ngược lại những nước có đối lập yếu hoặc có cũng như không thì đất nước đó không có dân chủ. Một nhà nước mà chính quyền mạnh và lấn áp hoàn toàn đối lập thì đất nước đó không có dân chủ hoặc dân chủ rất hạn chế. Nga, Iran, Thổ… là những ví dụ.

Người Việt Nam, có lẽ, ai cũng muốn có dân chủ như các nước phát triển, tuy nhiên mong muốn đó dường như không tỉ lệ thuận với quyết tâm và sự dấn thân để đạt được mục đích. Quan tâm và đấu tranh cho dân chủ luôn luôn là lựa chọn và ưu tư của một bộ phận nhỏ dân chúng mà đại diện là tầng lớp trí thức chính trị tinh hoa.

Chính trị là "làm việc chung với nhau" để mang lại những lợi ích tốt nhất cho người dân. Hay nói một cách khác, làm chính trị là để cống hiến và phụng sự người dân chứ không phải làm chính trị là tranh giành, đấu đá để hưởng thụ vinh hoa phú quí. Chính vì không hiểu rõ bản chất thật sự của việc đấu tranh chính trị, do bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Khổng Giáo, mà người Việt chúng ta thường quay lưng với chính trị. Khi những người tốt xa lánh chính trị thì những kẻ xấu sẽ độc quyền thao túng chính trị để phục vụ cho quyền lợi của  họ và của phe nhóm.

Việt Nam là một trong những nước cuối cùng còn lại trên thế giới chưa có dân chủ. Tuy nhiên thực tế là trí thức Việt Nam chưa chuẩn bị cho tương lai, là ngày người dân Việt Nam được sống dưới một chế độ dân chủ. Biểu hiện dễ thấy nhất và quan trọng nhất của sự thiếu chuẩn bị đó là cho đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng đối lập dân chủ thật sự.

Nếu không có đối lập dân chủ thì làm sao có thể chuyển hóa Việt Nam về phía dân chủ ? Trong bất cứ một quốc gia nào cũng không thể không có chính quyền. Chính quyền là để đảm bảo an ninh trật tự và ổn định của một quốc gia. Nếu giả sử vì một lý do nào đó mà đảng cộng sản không còn nữa thì tổ chức nào sẽ đứng ra gánh vác trọng trách lãnh đạo đất nước lâm thời để chờ bầu cử ? Hoặc sớm muộn gì rồi đảng cộng sản cũng phải "đàm phán" với đối lập dân chủ vì một mình đảng cộng sản không thể nào tiếp tục lãnh đạo đất nước được nữa. Tấm gương của Venezuela sẽ là tương lai của Việt Nam.

Có ý kiến cho rằng, đừng có mà mơ, không bao giờ có chuyện đảng cộng sản "đàm phán" và chấp nhận đối lập dân chủ. Đúng là hiện tại chưa có chuyện đó thật nhưng tương lai là một chuyện khác. Đến khi đảng cộng sản cùng đường và bất lực (mà chuyện này chắc chắn sẽ đến rất nhanh) thì khi đó họ phải cần đến "đối lập dân chủ". Nếu trí thức Việt Nam không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì liệu đến lúc đó có kịp chuẩn bị nữa không ?

"Mùa xuân Ả rập" đã không mang lại thay đổi bao nhiêu cho cuộc sống người dân nơi đây. Sự hồ hởi của cộng đồng quốc tế về bà Ang San Suu Kyi, một biểu tượng và hy vọng của người dân Myanmar đã tan thành mây khói. Bà Suu Kyi không có bất cứ một dự án chính trị nào cho Miến Điện cho nên đã tỏ ra lúng túng không biết làm gì khi nắm quyền. Đối lập Venezuela đã từng chiến thắng và chiếm 2/3 số ghế trong quốc hội nhưng rồi cũng không biết phải làm gì nên đã tan vỡ và Venezuela tiếp tục chìm trong đói khổ và độc tài…

Những chuyện này trí thức Việt Nam không lạ gì vì báo chí nói đến mỗi ngày. Thế nhưng vì sao họ lại không tham gia hay thành lập bất cứ một tổ chức chính trị đối lập nào ? Nếu không giải mã và vượt qua được trở ngại tâm lý này thì không bao giờ Việt Nam có dân chủ.

Một lý do quan trọng, có thể do xuất phát từ văn hóa, đó là sự thiếu tự tin vào bản thân mình. Một trong biểu hiện của sự mất tự tin vào chính mình là sự trông chờ vào thế hệ con cháu hay ca ngợi, tôn sùng quá đáng vào người xưa. Tại sao chúng ta không cố gắng để làm những việc cần làm ngay bây giờ mà dồn hết gánh nặng lên cho con cháu ? Đã không ít lần chúng ta nghe các quan chức lãnh đạo Việt Nam nói rằng việc lấy lại Hoàng Sa sẽ chờ cho con cháu làm ! Nhiều ông bố bà mẹ luôn cố gắng để con mình học thật nhiều, thật giỏi để sau này làm ông nọ bà kia… Tại sao mình không cố gắng để làm điều đó mà cứ bắt con cái mình phải làm ?

"Chúng ta thần thánh hóa người xưa vì chúng ta không quí trọng chính mình : chúng ta không tin ở chính mình nên chúng ta đã không nhận ra được những hào kiệt ngay trong thời đại này, mặc dầu họ khá đông đảo, vì lý do giản dị là họ có nhiều điểm giống mình hoặc không hơn gì mình ; mà đã không hơn mình thì nhất định là phải tầm thường rồi.

Chúng ta chưa biết cách quản lý tổ tiên. Chúng ta cần tìm ra cách nào khác để quí trọng người xưa. Để vẫn yêu quí tổ tiên mà vẫn quí mình. Có quí mình chúng ta mới có thể nhìn ra những con người lỗi lạc ngay giữa chúng ta. Và chỉ có những hào kiệt của thời nay mới giúp được chúng ta. Trên đường chinh phục tương lai, chúng ta cần nhìn về đằng trước, chứ không thể chỉ nhìn đằng sau. Cũng như khi lái xe, chúng ta không thể chỉ nhìn kính chiếu hậu..." (Nguyễn Gia Kiểng).

Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết rằng :

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con.

Bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng ‘giấc mơ con’ đó vẫn đè nặng lên tâm hồn người Việt. Chúng ta không tin vào chính chúng ta vì thế chúng ta bế tắc không biết phải làm gì, trong khi đất nước và thời cuộc đang đòi hỏi rất nhiều việc cần phải làm ngay. Một trong những việc cần gấp đó là phải chung tay tạo dựng nên các tổ chức đối lập dân chủ có tầm vóc để làm đối trọng buộc đảng cộng sản chuyển hóa về hướng dân chủ.

Trí thức Việt Nam vẫn chọn con đường đấu tranh nhân sĩ, tức là hoạt động một mình thay vì tham gia vào một tổ chức chính trị nào đó. Họ nói và hành động vì lương tâm thay cho lý trí. Các cá nhân dù nổi tiếng đến đâu cũng không thể nào là đối trọng của đảng cộng sản. Chỉ có các tổ chức chính trị mới có tư cách để đàm phán và ‘nói chuyện’ với đảng cộng sản.

Không có niềm tin thì sẽ dẫn đến bế tắc. Các tổ chức chính trị đối lập của Việt Nam không thể hình thành cũng vì sự bế tắc đó. Không tin vào tương lai, không tin vào chiến thắng nên mọi người đã không chịu bỏ thời gian để nghiên cứu về chính trị và cách thức vận hành của một tổ chức chính trị.

Trong tài liệu ‘Văn hóa Tổ chức’ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chúng tôi có định nghĩa một vài khái niệm về tổ chức như sau :

Thế nào là một tổ chức ? Định nghĩa đơn giản nhất đó là : "Tổ chức là tập hợp của một nhóm người cùng theo đuổi một lý tưởng hay những mục tiêu chung. Trong tổ chức có sự phân công và có cấp bậc không bình đẳng".

Tổ chức chính trị là một tổ chức phức tạp nhất và cao nhất trong các hình thái của các tổ chức vì nó có nhiều mục tiêu khác nhau và có tham vọng cầm quyền để nhằm thực thi một dự án chính trị đã đề nghị trước đó.

Đặc tính của một người có văn hóa tổ chức là cảm thấy có nhu cầu tham gia vào một tổ chức và chấp nhận một cách dễ dàng những bó buộc của sinh hoạt tổ chức.

Những người không có, hoặc thiếu, văn hóa tổ chức thì hoặc không thể tham gia, hoặc không thể chịu đựng lâu dài những gò bó, bực bội và thất vọng không tránh khỏi trong một tổ chức.

Lý do hiện hữu và ý nghĩa thực sự của tổ chức là để thay đổi xã hội. Gia nhập một tổ chức là một biến cố vượt thoát diễn ra vào một thời điểm mà bỗng dưng con người nhìn thấy một khả năng biến mơ ước thành sự thực.

Định nghĩa thực sự của tổ chức : "Tổ chức là một nhịp cầu nối liền một thực tại không thể chấp nhận và một tương lai đáng mong muốn". (Một cách tương tự, tổ chức cũng có thể là phương tiện để ngăn cản một đe dọa thay đổi theo một hướng không thể chấp nhận).

Một hệ luận : Chính vì tổ chức, nhất là một tổ chức chính trị, trong bản chất thực sự của nó, là dụng cụ của thay đổi xã hội mà những người không thực sự quyết tâm thay đổi xã hội khó có thể tham gia lâu dài vào một tổ chức chính trị’.

Sau biến cố 1975, 43 năm đã trôi qua nhưng ngay tại hải ngoại thì cộng đồng người Việt vẫn chưa xây dựng được cho mình một vài tổ chức chính trị dân chủ đối lập thực sự có tầm vóc. Nhiều tổ chức nhanh chóng ra đời và nhanh chóng tan vỡ. Di hại lớn nhất của sự đổ vỡ này là làm cho nhiều người con ưu tú của Việt Nam mất niềm tin vào sự kết hợp trong cùng một tổ chức và rồi, hoặc họ rút lui hoặc hoạt động kiểu nhân sĩ. Lý do không phải do tổ chức, mà do người Việt chúng ta chưa chịu dành thì giờ để nghiên cứu về tổ chức và văn hóa tổ chức. Chúng ta tham gia một công việc mà chưa tìm hiểu kỹ về nó, cũng như một bác sĩ, chưa học xong nhưng đã vội hành nghề. Tai nạn và đổ vỡ là không thể tránh khỏi.

Trí thức luôn là đại diện, là tiếng nói phản ánh tâm hồn và trí tuệ của một dân tộc. Sỡ dĩ Việt Nam chưa có dân chủ là vì trí thức Việt nam vẫn loay hoay chưa biết phải làm gì và làm như thế nào ?

Trong nỗ lực và cố gắng để giải quyết vấn đề căn bản đó, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã ra đời như là một kết hợp của mọi con tim và khối óc của trí thức Việt Nam, đặc biệt là các trí thức trẻ sinh ra và lớn lên sau ngày 30/4/1975. Chúng tôi đã trình bày một kế hoạch xây dựng lại đất nước cũng như các bước đấu tranh dành thắng lợi cho phong trào dân chủ Việt Nam thông qua dự án chính trị : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai.

Chúng tôi trân trọng đề nghị trí thức Việt Nam tham khảo và chia sẻ với chúng tôi Dự án chính trị này.

Việt Hoàng

(02/02/2018)

Published in Quan điểm