Hầu như có sự đồng thuận chung rằng Eo biển Đài Loan đã nổi lên như điểm nóng dễ xảy ra chiến tranh nhất trên thế giới. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã tăng cường đáng kể quy mô và cường độ các hoạt động quân sự xung quanh Đài Loan, để đáp trả những gì họ cho là sự khiêu khích từ chính quyền hòn đảo này và Mỹ. Đáp lại, Đài Loan đã tăng ngân sách quốc phòng và nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, trong khi Mỹ cũng tăng tốc các hoạt động quân sự trong khu vực. Các chuyên gia, học giả, và thậm chí cả các quan chức chính phủ đã đưa ra một loạt kịch bản thảm khốc liên quan đến Đài Loan, từ phong tỏa kinh tế làm sụp đổ nền kinh tế toàn cầu đến chiến tranh hạt nhân giữa các siêu cường, cho dù được kích hoạt bởi một cuộc xâm lược có chủ ý hay một vụ va chạm ngẫu nhiên giữa các loại tàu và máy bay. Trong một cuộc điện đàm năm 2022 với Tổng thống Mỹ Joe Biden, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra lời cảnh báo cứng rắn về hòn đảo này : "Những kẻ đùa với lửa sẽ bị thiêu rụi".
Không có gì ngạc nhiên khi cảm giác về sự diệt vong sắp xảy ra này đã tạo ra một loạt các giải pháp chính sách để tránh thảm họa. Một số người đã kêu gọi Mỹ đưa ra cam kết rõ ràng về việc bảo vệ Đài Loan (bao gồm cả bằng vũ khí hạt nhân, nếu cần) và tuyên bố rằng hòn đảo này không phải là một phần của Trung Quốc. Những người khác tập trung vào việc tăng cường khả năng phòng thủ của Đài Loan, đưa ra những phép ẩn dụ sống động như biến hòn đảo thành một "con nhím" khó nuốt trôi hoặc tạo ra một "chiến hào sôi sục" không thể vượt qua xung quanh hòn đảo. Một số lượng nhỏ hơn nhiều các nhà phân tích đã chủ trương thỏa thuận với Bắc Kinh, trong đó Washington chấm dứt cam kết bảo vệ Đài Loan và hòn đảo này sẽ bị bỏ mặc để tự bảo vệ mình. Mặc dù những người ủng hộ mỗi phương án đều mạnh dạn khẳng định tính ưu việt trong cách tiếp cận của họ, nhưng thực tế là tất cả những đề xuất này đều chứa đầy rủi ro và sự bất định. Tất cả đều đưa ra những đánh đổi khó khăn giữa các lợi ích và giá trị đối nghịch nhau của Mỹ.
Làm thế nào mà Mỹ lại rơi vào tình thế khó khăn này, và liệu việc hiểu rõ hơn về quá khứ có giúp họ vạch ra một lộ trình tương lai vượt qua thực tế đầy rẫy chông gai hay không ? Đây là câu hỏi thúc đẩy cuốn sách mới gợi nhiều suy nghĩ của Sulmaan Wasif Khan, Cuộc đấu tranh cho Đài Loan. Khan, một nhà sử học, đã đưa ra câu trả lời rõ ràng ngay từ đầu, lập luận rằng "cần phải hiểu đầy đủ về mối quan hệ tay ba giữa Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan nếu chúng ta muốn tránh thảm họa".
Trong phần trình bày về mối quan hệ đó, Khan lập luận rằng "sự nhầm lẫn đã đóng vai trò chủ đạo trong câu chuyện ngay từ đầu". Ông giải thích thêm rằng các chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với Đài Loan hầu như không được đề cập trong các chiến lược tổng thể hay thậm chí là việc lên kế hoạch. Theo quan điểm của ông, câu chuyện thực sự ở đây là các cơ hội bị bỏ lỡ lặp đi lặp lại của tất cả các bên. Ông chỉ trích các tổng thống của cả hai đảng vì đã không hành động táo bạo để giải quyết dứt điểm tình trạng của Đài Loan, một kết quả mà ông tin rằng sẽ xoa dịu vĩnh viễn những căng thẳng đã đeo bám mối quan hệ Mỹ-Trung. Giải pháp đó có vẻ hấp dẫn khi nhìn nhận lại quá khứ. Nhưng Khan đã đánh giá thấp cách Washington sử dụng sự mơ hồ và thỏa hiệp để quản lý mối quan hệ căng thẳng của mình với Bắc Kinh. Không những không tạo ra xung đột, sự bất định đã tạo điều kiện cho nhiều thập kỷ hòa bình và thịnh vượng ở Đông Á.
Điều gì có thể đã xảy ra ?
Câu chuyện của Khan về những sai lầm của Mỹ bắt đầu từ hội nghị Cairo năm 1943. Chính tại đó, khi các nhà lãnh đạo Đồng minh lên kế hoạch cho thế giới thời hậu chiến, Tổng thống Franklin Roosevelt đã hứa trao Đài Loan, khi đó vẫn bị Nhật Bản chiếm đóng, cho Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo Quốc dân đảng Trung Quốc. Roosevelt thay vào đó đã có thể thúc đẩy chế độ ủy thác của Liên Hợp Quốc hoặc Mỹ, mà theo Khan, sẽ ngăn Đài Loan trở thành một quả bóng chính trị trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia theo Tưởng và những người Cộng sản của Mao Trạch Đông. Từ đó, Khan nhận thấy một loạt các sai lầm tiếp theo. Tổng thống Harry Truman quyết định trung lập giữa các tuyên bố cạnh tranh của Tưởng và Mao, không làm hài lòng bên nào trong Chiến tranh Triều Tiên và tạo tiền đề cho những căng thẳng kéo dài giữa Mỹ và Trung Quốc. Chính quyền "chia rẽ, bối rối" của Tổng thống Dwight Eisenhower đã đưa ra chính sách Đài Loan bị đánh giá là "một mớ hỗn độn của sự thiếu quyết đoán và chủ nghĩa quân phiệt", dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội thỏa hiệp về Đài Loan, trong đó Mỹ sẽ công nhận sự kiểm soát của những người cộng sản đối với Trung Quốc đại lục.
Ngay cả Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger, những người thường được ca ngợi vì tài năng của họ trong việc dàn xếp cho việc mở cửa của Mỹ với Trung Quốc, cũng bị khiển trách vì thiếu sự rõ ràng về chiến lược. Khan chỉ trích Thông cáo Thượng Hải, một tuyên bố chung được đưa ra vào cuối chuyến đi năm 1972 của Nixon tới Trung Quốc, vì "né tránh vấn đề Đài Loan". Bằng cách không tuyên bố công khai những gì Kissinger đã đảm bảo riêng với người Trung Quốc – rằng Mỹ sẽ không cản trở sự phát triển chính trị có khả năng xảy ra của Đài Loan theo hướng thống nhất với đại lục – Khan cho rằng Washington đã bỏ lỡ "cơ hội tốt nhất để trả lại hòn đảo" cho Bắc Kinh và giải quyết vấn đề này một lần và mãi mãi. Chỉ có Tổng thống Jimmy Carter được khen ngợi vì "sự quyết đoán" của ông trong việc hủy bỏ hiệp ước phòng thủ của Mỹ với Đài Loan để ủng hộ việc công nhận Trung Quốc Cộng sản. Nhưng Quốc hội đã kéo ông lại khi thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979, khẳng định rằng bất kỳ mối đe dọa nào đối với Đài Loan sẽ là "mối quan ngại nghiêm trọng đối với Mỹ" và quy định tiếp tục bán vũ khí cho hòn đảo này. Đối với Khan, đạo luật này khiến Washington "hoàn toàn bối rối về mức độ cam kết thực sự đối với việc bảo vệ Đài Loan".
Theo quan điểm của Khan, sai lầm chết người trong chính sách của Mỹ là không hoàn toàn ủng hộ hoặc hoàn toàn phản đối nền độc lập của Đài Loan. Đã có những cơ hội để chọn một bên, nhưng chúng đã bị bỏ qua. Trong một bản ghi nhớ vào tháng 7 năm 1949, nhà ngoại giao Mỹ George Kennan lập luận rằng Mỹ (một mình hoặc với những nước khác) nên buộc Quốc dân đảng rời khỏi Đài Loan và thiết lập một chế độ quốc tế nhằm tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để xác định tương lai của hòn đảo – một ý tưởng đã được đưa ra hai năm trước đó bởi đặc phái viên của Truman ở Trung Quốc, Tướng Albert Wedemeyer. Kế hoạch này chưa bao giờ thành hiện thực, nhưng Khan lập luận rằng những người Cộng sản có thể đã đồng ý với nó. Ông viết : "Nó có vẻ cực đoan vào thời điểm đó, nhưng chắc chắn sẽ dễ dàng hơn là đối phó với những gì sẽ xảy ra sau đó".
Khan cũng chỉ trích các nhà lãnh đạo Trung Quốc vì những sai lầm lặp đi lặp lại. Ông trích dẫn việc họ tiếp tục khăng khăng rằng Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc, mặc dù họ từ lâu đã chấp nhận nền độc lập của Mông Cổ, nơi cũng từng là một tiền đồn của triều đại nhà Thanh. Ông cũng chỉ ra những lời đe dọa thiếu tế nhị đối với người dân Đài Loan do Chu Dung Cơ, thủ tướng Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2003, đưa ra, điều này chỉ củng cố thêm lập luận của những người Đài Loan phản đối việc thống nhất với Trung Quốc. Khan viết : "Nếu Bắc Kinh tránh những lời đe dọa và khoe khoang, thì có thể họ đã đạt được sự thống nhất trong hòa bình".
Khan phác thảo một loạt các giả định ngược lại có thể dẫn đến một kết quả rõ ràng hơn - và theo ông, ổn định hơn. Ông dường như không quan tâm lắm đến việc mọi thứ đã diễn ra theo hướng nào, miễn là Washington đã chọn một cách dứt khoát. Đối với ông, nếu Mỹ hoàn toàn chấp nhận nền độc lập của Đài Loan (tại Cairo hoặc trong Nội chiến Trung Quốc) hoặc hoàn toàn chấp nhận yêu sách của Bắc Kinh (vào thời điểm những người Cộng sản chiến thắng năm 1949 hoặc trong thời kỳ xích lại gần nhau vào những năm 1970), thì họ đã tránh được tình thế khó xử mà họ phải đối mặt ngày nay : phản đối những nỗ lực của Trung Quốc nhằm ép buộc thống nhất nhưng lại e ngại cam kết bảo vệ Đài Loan và có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Bắc Kinh. Khan đặc biệt chỉ trích nhiều lần các chính quyền Mỹ đã không thể nói lên một tiếng nói chung về chính sách Đài Loan, chưa kể đến những lộn xộn hơn nữa khi Quốc hội cũng tham gia vào vấn đề này.
Tất nhiên, đối với những người bảo vệ chính sách của Mỹ, sự không chắc chắn là một đức tính, chứ không phải là một thói xấu. Thường bị chế giễu là "mơ hồ chiến lược", cách tiếp cận của Washington trên thực tế là một chiến lược tinh tế đã thúc đẩy sự thận trọng ở cả hai bờ eo biển Đài Loan, bằng cách từ chối nêu rõ trong những trường hợp nào họ có thể can thiệp quân sự vào cuộc xung đột giữa Đài Bắc và Bắc Kinh. Theo đó, chính sách của Mỹ đối với Đài Loan thiếu các nghĩa vụ tuyệt đối. Không có cam kết phòng thủ tập thể, tương tự như Điều 5 của NATO hoặc hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật. Thay vào đó, theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan, Mỹ cam kết coi "bất kỳ nỗ lực nào nhằm xác định tương lai của Đài Loan bằng các biện pháp phi hòa bình" là "mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của khu vực Tây Thái Bình Dương và là mối quan ngại nghiêm trọng đối với Mỹ". Đạo luật này cũng yêu cầu Mỹ cung cấp thiết bị quân sự phòng thủ cho Đài Loan.
Đạo luật Quan hệ Đài Loan là cốt lõi của chính sách "một Trung Quốc" lâu đời của Mỹ. Theo chính sách này, Washington không công nhận ngoại giao chính thức đối với Đài Loan, nhưng các quan chức Mỹ hợp tác chặt chẽ với các đối tác Đài Loan của họ về nhiều vấn đề, từ y tế công cộng và kinh tế đến, với một mức độ ngày càng tăng, các vấn đề quân sự và an ninh. Đạo luật không ủng hộ việc Đài Loan gia nhập Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc tế mà "cương vị quốc gia" là một tiêu chí, nhưng nó chủ trương để hòn đảo đóng một vai trò tích cực trong nhiều thỏa thuận đa phương và khuyến khích các quốc gia khác có quan hệ ngoại giao đầy đủ với Đài Loan ngay cả khi Mỹ không làm vậy. Có lẽ quan trọng nhất, chính sách này được xây dựng trên nguyên tắc rằng tình trạng cuối cùng của Đài Loan phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình và được người dân của hòn đảo này ủng hộ.
Bảo vệ sự mơ hồ
Khan không phải là người duy nhất bận tâm về sự mơ hồ chiến lược ; ngày càng nhiều chuyên gia và cựu quan chức cũng kêu gọi chuyển sang chính sách hỗ trợ quân sự và ngoại giao rõ ràng hơn. Bản thân Biden đã nhiều lần tuyên bố rõ ràng rằng Mỹ sẵn sàng can thiệp quân sự để bảo vệ Đài Loan, mặc dù sau đó các quan chức khác đã xác nhận những tuyên bố đó, nhưng họ cũng khẳng định rằng không có thay đổi nào trong chính sách của Mỹ.
Khan có lý khi đặt câu hỏi về cách tiếp cận của Mỹ. Sự mơ hồ có cái giá của nó. Như nhà hoạt động chính trị và chuyên gia người Texas, Jim Hightower đã từng nhận xét, "Không có gì ở giữa đường ngoài những vạch kẻ màu vàng và xác của những con tatu". Loay hoay, tránh né, thỏa hiệp - tất cả đều có thể dễ dàng được coi là bằng chứng của việc thiếu rõ ràng về chiến lược, chiến thuật để vượt qua trong ngắn hạn mà bỏ qua hậu quả lâu dài của sự thiếu quyết đoán. Sự mơ hồ có thể khuyến khích kẻ thù và khiến bạn bè bất an.
Nhưng nói rằng sự mơ hồ thường sai không có nghĩa là nó luôn luôn sai. Có điều gì đó đúng với câu cách ngôn của nhà văn H. L. Mencken : "Đối với mỗi vấn đề phức tạp, đều có một câu trả lời rõ ràng, đơn giản và sai". Đặc biệt là khi Mỹ có nhiều lợi ích bị đe dọa, đơn giản là không thể tạo ra một chính sách tối đa hóa tất cả chúng. Washington có lợi ích hấp dẫn trong việc hỗ trợ những ai đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ, như những công dân dũng cảm của Đài Loan đã làm trong nhiều thập kỷ, trước tiên là chống lại các chính phủ Quốc dân đảng độc tài và giờ là trước áp lực từ Bắc Kinh. Mỹ có lợi ích mạnh mẽ trong việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và bác bỏ sự ép buộc về chính trị, kinh tế và quân sự. Và họ đúng khi lo ngại về khả năng kiểm soát của Trung Quốc đối với vùng biển chiến lược xung quanh Đài Loan và bản thân Đài Loan. Nhưng Mỹ cũng có lợi ích hấp dẫn trong việc tránh chiến tranh, hoặc thậm chí chỉ là sự gián đoạn kinh tế sâu sắc sẽ xảy ra do tranh chấp leo thang với Trung Quốc. Và nhiều thách thức toàn cầu, từ biến đổi khí hậu đến sức khỏe cộng đồng đến rủi ro của AI, đòi hỏi sự hợp tác của Mỹ với Trung Quốc.
Khan quay trở lại lịch sử để lập luận rằng Đài Loan chưa bao giờ thực sự là một phần của Trung Quốc, trái ngược với những tuyên bố chính thức của Trung Quốc ngày nay khẳng định rằng nó "là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời cổ đại". Thay vào đó, ông cho rằng, hòn đảo này chỉ đơn thuần là thuộc địa của triều đại nhà Thanh và do đó, lẽ ra nên được hưởng lợi từ cam kết theo chủ nghĩa Wilson của Mỹ về quyền tự quyết dân tộc và phong trào phi thực dân hóa rộng lớn hơn sau Chiến tranh thế giới II. Đó là một điểm tranh luận hay, có sức cộng hưởng đáng kể ở một quốc gia ra đời bằng cách từ bỏ ách thống trị thuộc địa. Nhưng Mỹ luôn dao động trong việc ủng hộ các phong trào ly khai. Ví dụ, hãy so sánh việc họ chính thức công nhận nền độc lập của Kosovo vào năm 2008 với việc họ tiếp tục từ chối ủng hộ tuyên bố tương tự của người Kurd ở Iraq. Thông thường, các nhà lãnh đạo Mỹ ủng hộ quyền tự trị chính trị hơn là độc lập trên thực tế như một sự lựa chọn thận trọng hơn.
Khi nhìn vào những gì đã xảy ra ở Đài Loan trong 80 năm qua mà Khan ghi lại, thật khó hiểu tại sao ông và những người chỉ trích khác lại coi chính sách Đài Loan của Mỹ là một thất bại. Trong giai đoạn đó, Đài Loan được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản, vượt qua chế độ độc tài và trải qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chóng mặt. Hòn đảo này hiện có một nền dân chủ sôi động, đứng thứ 14 trên toàn cầu về thu nhập bình quân đầu người và dẫn đầu thế giới trong một trong những lĩnh vực quan trọng nhất là sản xuất chất bán dẫn. Đúng là tình hình hiện nay rất nguy hiểm, nhưng nhìn từ góc độ của năm 1943, nơi Khan bắt đầu câu chuyện của mình, thật khó để lập luận rằng kết quả không phải là khá tốt cho Đài Loan - và Mỹ.
Một trường hợp điển hình mạnh mẽ chứng minh giá trị của cách tiếp cận được điều chỉnh của Mỹ đối với Đài Loan đã xảy ra vào năm 1995 và 1996, khi Trung Quốc bắn tên lửa gần Đài Loan để đe dọa các nhà lãnh đạo của hòn đảo này. Để ngăn chặn Bắc Kinh mà không khiêu khích họ, Tổng thống Bill Clinton đã điều các nhóm tàu sân bay Mỹ đến gần Đài Loan nhưng không đi vào eo biển Đài Loan. Khan thừa nhận rằng phản ứng này đã xoa dịu thành công cuộc khủng hoảng. Ông viết: "Nếu Mỹ đưa các tàu sân bay vào eo biển Đài Loan trong cuộc khủng hoảng (như thường bị nhớ nhầm), Bắc Kinh có thể đã thấy mình không thể lùi bước", đồng thời cho biết thêm rằng tình hình có thể "leo thang đến mức chiến tranh tổng lực". Thông qua phản ứng được đo lường này, cũng như việc tái khẳng định chính sách "một Trung Quốc" sau đó, chính quyền Clinton đã có thể tạo bối cảnh cho việc tái hợp tác với Trung Quốc. Điều đó, đến lượt nó, không chỉ dẫn đến mối quan hệ Mỹ-Trung ổn định hơn mà còn tạo điều kiện cho Đài Loan gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và tiếp tục theo đuổi các cải cách dân chủ.
Với lịch sử của sự mơ hồ chiến lược, không có gì ngạc nhiên khi chính sách này được các tổng thống của cả hai đảng theo đuổi, bao gồm cả Ronald Reagan, người khi nhậm chức đã từ bỏ sự ủng hộ trước đó của mình đối với việc khôi phục đảm bảo an ninh cho Đài Loan, và George W. Bush, người đã thực hiện một điều chỉnh lộ trình tương tự trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Mặc dù Khan đúng khi buộc người đọc phải suy nghĩ chín chắn về những lựa chọn trong quá khứ, nhưng nhìn chung, chính sách của Mỹ đối với Đài Loan chắc chắn xứng đáng được đánh giá cao, bất chấp tất cả những sai sót.
Thời gian đã hết ?
Nhưng hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo cho kết quả trong tương lai. Chính sách của Mỹ đã thành công một phần vì tất cả các bên đều bằng lòng trì hoãn một giải pháp dứt khoát cho tương lai, tin rằng thời gian đứng về phía họ. Trong nhiều thập kỷ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc hy vọng rằng sự năng động và thịnh vượng kinh tế ngày càng tăng của họ sẽ khiến việc thống nhất ngày càng hấp dẫn đối với người dân Đài Loan và được Mỹ chấp nhận nhiều hơn. Niềm tin này được củng cố bởi một nhận xét mà Kissinger đã đưa ra với người Trung Quốc trong cuộc gặp năm 1971 tại Bắc Kinh : "Là một sinh viên lịch sử, người ta phải dự đoán rằng sự phát triển chính trị có thể sẽ đi theo hướng mà Thủ tướng Chu Ân Lai đã chỉ ra cho tôi… Chúng tôi sẽ không cản trở sự tiến hóa cơ bản". Từ quan điểm của Mỹ, thời gian được cho là có khả năng thu hẹp sự khác biệt giữa Đài Loan và đại lục, để hai bên có thể đi đến một sự hiểu biết trong đó Đài Loan có thể duy trì nền dân chủ và tôn trọng nhân quyền của mình, có lẽ dưới cái tên "một quốc gia, hai chế độ".
Ngày nay, nhiều người cho rằng, tình hình đã khác xa, không bên nào trong ba bên tin rằng thời gian đứng về phía mình. Theo quan điểm của một số người ở Mỹ và Đài Loan, sức mạnh quân sự và kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc có nghĩa là Bắc Kinh sẽ sớm có khả năng giành chiến thắng trong một cuộc xung đột quân sự; ngay cả ngày nay, nhiều người cho rằng, việc bảo vệ thành công hòn đảo này sẽ là một vấn đề nan giải. Theo phe này, chỉ bằng cách tăng cường đáng kể khả năng răn đe thông qua cam kết rõ ràng đối với việc bảo vệ Đài Loan, bao gồm cả hỗ trợ quân sự và chính trị, mới có thể ngăn chặn được một cuộc thâu tóm. Từ góc độ của Trung Quốc, các xu hướng chính trị ở Đài Bắc và Washington đang đi sai hướng. Vào tháng 1, cử tri Đài Loan đã bầu Lại Thanh Đức làm tổng thống, một nhà lãnh đạo mà Bắc Kinh coi là ủng hộ độc lập hơn nhiều so với người tiền nhiệm của ông, Thái Anh Văn. Điều đó, cùng với sự ủng hộ ngày càng quyết liệt của Quốc hội đối với Đài Loan, có nghĩa là hòn đảo này có nguy cơ tuột khỏi tầm tay của Bắc Kinh. Giống như cuộc tranh luận ở Mỹ, những kẻ diều hâu ở Trung Quốc chủ trương tăng tốc khả năng quân sự của đất nước để khuất phục Đài Loan.
Chính sự phản chiếu này góp phần tạo nên cảm giác khủng hoảng hiện nay, một mô hình quen thuộc trong đó sự lo lắng và bất an khiến một bên thực hiện các biện pháp phòng ngừa gây ra càng nhiều sợ hãi hơn cho bên kia - điều mà các nhà lý luận quan hệ quốc tế gọi là "thế lưỡng nan an ninh" hoặc "mô hình xoắn ốc". Trung Quốc càng thể hiện sức mạnh của mình đối với Đài Loan, Mỹ càng thúc đẩy việc bán vũ khí và các chuyến thăm của Quốc hội tới Đài Loan để tăng cường khả năng răn đe. Và họ càng làm điều đó, Trung Quốc càng cảm thấy cần phải leo thang các mối đe dọa của mình để ngăn chặn các hành động trong tương lai.
Thật dễ dàng để khẳng định rằng việc tăng cường khả năng răn đe bằng cách cấp cho Đài Loan một đảm bảo quân sự vững chắc sẽ mang lại điều tốt nhất cho tất cả các bên, bảo vệ nền dân chủ của Đài Loan đồng thời tránh chiến tranh bằng cách thuyết phục Trung Quốc rằng bất kỳ hành động quân sự nào cũng sẽ thất bại. Có thể - giống như tất cả các giả định ngược lại, không thể bác bỏ - nhưng cũng có thể không. Lý thuyết này ngụ ý rằng Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng vũ lực nếu họ có thể chắc chắn rằng mình sẽ thắng, nhưng ai dám nói rằng khi đối mặt với khả năng thống nhất hòa bình ngày càng xa vời, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ không đơn giản là đánh bạc? Ngay cả khi Mỹ và Đài Loan kết luận rằng lực lượng kết hợp của họ đủ để đẩy lùi một cuộc tấn công, thì cũng khó có thể chắc chắn rằng các tướng lĩnh Trung Quốc sẽ chia sẻ đánh giá ảm đạm đó và truyền đạt nó cho những lãnh đạo dân sự. Quan trọng không kém, nếu Đài Loan tự tin hơn vào hiệu quả của sự răn đe, các nhà lãnh đạo của họ có thể cảm thấy tự do hơn trong việc thúc đẩy các giới hạn của chủ quyền và độc lập.
Giữ lấy hòa bình
Vì tất cả những lý do này, có những rủi ro một khi sự mơ hồ về cách Mỹ có thể phản ứng với các hành động khiêu khích của Trung Quốc bị xóa bỏ. Thay vào đó, Mỹ đã đúng khi tiếp tục chính sách lâu dài của mình là đưa ra một "mối đe dọa để lại điều gì đó cho sự may rủi", theo cách nói đáng nhớ của nhà kinh tế học và nhà lý luận trò chơi Thomas Schelling, tạo ra sự không chắc chắn ở bên này về cách bên kia sẽ phản ứng. Do đó, bất chấp sự mơ hồ của nó, có nhiều điều đáng khen ngợi trong việc các nhà lãnh đạo Đài Loan tập trung vào việc duy trì "hiện trạng", một thuật ngữ được Lại Thanh Đức sử dụng trong cả chiến dịch tranh cử và trong bài phát biểu nhậm chức của mình. Cách tiếp cận này hoàn toàn trái ngược với bài học mà Khan rút ra từ lịch sử. Nhưng không có gì ngạc nhiên khi đó là điều mà hầu hết người dân Đài Loan mong muốn. Trong một cuộc thăm dò vào tháng 2 năm 2024, hơn 80% số người được hỏi ủng hộ duy trì hiện trạng, dù là tạm thời hay vĩnh viễn.
Do tồn tại sự nghi ngờ ở tất cả các bên, việc duy trì hiện trạng không phải là điều dễ dàng. Trung Quốc đã miễn cưỡng chấp nhận cách tiếp cận như vậy, phản ánh việc họ ngày càng không sẵn lòng chấp nhận việc trì hoãn thống nhất vô thời hạn. Tuy nhiên, mỗi bên có thể thực hiện các bước cụ thể để củng cố hiện trạng. Trung Quốc có thể rút lại sự phản đối của mình đối với việc Đài Loan tham gia các tổ chức quốc tế mà không yêu cầu tư cách nhà nước và chấp nhận Đài Loan là một bên tham gia không chính thức trong các tổ chức yêu cầu tư cách nhà nước. (Bắc Kinh đã thực hiện cách tiếp cận đó trong quá khứ; họ đã chấp nhận Đài Bắc với tư cách quan sát viên trong Đại hội đồng Y tế Thế giới từ năm 2009 đến năm 2016 và với tư cách khách mời tại Đại hội đồng Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế vào năm 2013.) Đến lượt mình, Đài Loan có thể tạm dừng các nỗ lực đang giảm sút của mình để giành được sự công nhận ngoại giao chính thức từ các quốc gia khác. Mỗi bên có thể đồng ý tôn trọng các giới hạn ngầm, nếu không muốn nói là chính thức, đối với các hoạt động quân sự, chẳng hạn như duy trì hiện diện ở bên đường trung tuyến của mình ở eo biển Đài Loan khi tiến hành các hoạt động trên không. Quan trọng nhất, Trung Quốc có thể đồng ý nối lại đối thoại với chính phủ Đài Loan - đã bị dừng lại sau khi người tiền nhiệm của Lại Thanh Đức đắc cử vào năm 2016 - với cam kết đã nêu của Lại Thanh Đức đối với hiện trạng.
Có lẽ bài học có ảnh hưởng nhất trong cuốn sách của Khan liên quan đến năng lực. Khan liên tục nhắc nhở người đọc rằng con đường dẫn đến hiện tại không phải là không thể tránh khỏi mà là sản phẩm của những lựa chọn do các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh, Đài Bắc và Washington đưa ra. Lịch sử đó phải đóng vai trò vừa là câu chuyện cảnh báo vừa là động lực cho các nhà lãnh đạo ở cả ba thủ đô. Xung đột ở eo biển Đài Loan không phải là không thể tránh khỏi cũng không phải là không thể xảy ra, nhưng việc tránh xung đột phụ thuộc vào các lựa chọn chính sách thận trọng của mỗi bên trong ba chính phủ này. Như Khan và những người chỉ trích khác về chính sách của Mỹ đối với Đài Loan thường chỉ ra, nhiều thập kỷ mơ hồ và thỏa hiệp đã khiến cả Đài Loan, Trung Quốc và Mỹ đều không hoàn toàn hài lòng. Nhưng gần như theo định nghĩa, bất kỳ kết quả nào làm hài lòng hoàn toàn bên này sẽ không được bên kia chấp nhận, vì vậy mục tiêu của Washington phải là tìm ra một hiện trạng mà tất cả các bên có thể chấp nhận được. Đó là phương thức cân bằng tốt, nhưng đó là tất cả những gì mà ngoại giao hướng tới.
James B. Steinberg
Nguyên tác : "The Upside to Uncertainty on Taiwan", Foreign Affairs, 16/10/2024
Viên Đăng Huy biên dịch
Nguyễn Thế Phương hiệu đính
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 06/11/2024
James B. Steinberg là Trưởng khoa Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp của Đại học Johns Hopkins. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ từ năm 2009 đến năm 2011 và Phó Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ từ năm 1996 đến năm 2000.
Các đơn vị tên lửa Đài Loan đang tự tiết lộ vị trí của họ cho Trung Quốc
Quân đội Đài Loan vẫn chưa thích nghi với thời đại tình báo nguồn mở.
Dân chúng đi ngang qua một hệ thống tên lửa trong một cuộc trình diễn tại một căn cứ không quân ở Chiayi, Đài Loan, vào ngày 10/8/2024. Daniel Ceng/Anadolu qua Getty Images
Lại là một ngày bình thường ở Đài Loan, khi Trung Quốc phát động một đợt tập trận quân sự mới. Trong lúc các tàu chiến và máy bay của Trung Quốc một lần nữa hung hăng bay vòng quanh Đài Loan, Đài Bắc đã điều động quân đội của mình đến các vị trí phòng thủ trên khắp hòn đảo. Một trong số những vị trí quan trọng nhất là một nhóm các đơn vị mặt đất di động mang theo tên lửa chống hạm để ngăn chặn các tàu Trung Quốc xâm lược. Tuy nhiên, người Đài Loan không biết rằng các hoạt động của họ đã bị lộ, và những nơi ẩn náu được cho là bí mật của họ đã bị tình báo Trung Quốc theo dõi một cách dễ dàng. Nếu đây là một cuộc chiến thực sự, họ sẽ chỉ còn cách sự hủy diệt vài giây.
Đó chính là những gì đã xảy ra vào tháng 5, chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức nhậm chức vào ngày 20/05. Bắc Kinh cáo buộc Lại Thanh Đức và Đảng Dân Tiến của ông theo đuổi độc lập cho Đài Loan – nhưng ngày nay, chỉ cần một hành động nhỏ cũng đủ để khiêu khích Trung Quốc tiến hành một loạt các cuộc tập trận xung quanh hòn đảo mà họ tuyên bố là một phần lãnh thổ của mình.
Cụ thể, vào ngày 23/5, Đài Bắc đã điều động quân đội để đối đầu với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) trên không và trên biển như trước đây, dù một lần nữa, không có phát súng nào được bắn ra. Các cuộc tập trận của Trung Quốc sớm kết thúc, và chính quyền Đài Loan đã ăn mừng chiến thắng, tuyên bố rằng quân đội của họ đã kiểm soát được mọi thứ và mọi người nên yên tâm.
Nhưng chỉ vài ngày sau, vào tháng 6, một bài viết xuất hiện trên WeChat, nền tảng truyền thông xã hội lớn nhất của Trung Quốc. Bài viết được xuất bản bởi Công nghệ Bắc Kinh Lam Đức, một công ty Trung Quốc có trụ sở tại Bắc Kinh, chuyên cung cấp "dịch vụ nghiên cứu và tư vấn" trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Bài viết có thể truy cập công khai trên WeChat đã chứng minh khả năng thu thập thông tin tình báo về quân đội Đài Loan của công ty này.
TVBS, một đài truyền hình cáp lớn của Đài Loan, đã công bố những bức ảnh dân sự, đi kèm mô tả vị trí của đơn vị tên lửa Hải Phong của quân đội Đài Loan được phát hiện ở Đài Trung vào tháng 5. © Hình ảnh được chia sẻ bởi một cư dân địa phương, công bố qua TVBS.
Trọng tâm vụ việc là một hạm đội các đơn vị tên lửa trên bộ của quân đội Đài Loan và các hoạt động của họ trong cuộc tập trận của Trung Quốc vào tháng 5. Các đơn vị Hải Phong, có nghĩa là "gió biển", là một trong những bộ phận quan trọng nhất về mặt chiến lược trong hệ thống phòng thủ của Đài Loan. Được Hải quân Trung Hoa Dân Quốc (RoC) vận hành trên đất liền, Hải Phong chuyên triển khai các tên lửa chống hạm bản địa của Đài Loan, gồm tên lửa cận âm Hùng Phong II (HF-II) và tên lửa siêu thanh Hùng Phong III (HF-III), vốn là tuyến phòng thủ cuối cùng của hòn đảo này trước cuộc xâm lược đổ bộ của Trung Quốc. Họ cũng sẽ vận hành các tên lửa Harpoon do Mỹ sản xuất, dù việc giao hàng đã bị trì hoãn liên tục.
Bài viết của công ty Trung Quốc đã cung cấp tọa độ chính xác của 12 căn cứ nơi các đơn vị Hải Phong đóng quân. Các chuyên gia cho biết không khó để tìm ra các căn cứ cố định, và quân đội Đài Loan cho rằng Bắc Kinh đã biết vị trí của chúng, đó là lý do tại sao các lực lượng cơ động như Hải Phong được thiết kế – để họ có thể phân tán khắp Đài Loan và sống sót sau đợt tấn công ban đầu trong một cuộc chiến, chí ít là trên lý thuyết.
Vị trí các căn cứ và bệ phóng của đơn vị tên lửa chống hạm Hải Phong, như được tiết lộ bởi một công ty Trung Quốc. © Paul Huang
Một đơn vị Hải Phong điển hình bao gồm ít nhất ba đến bốn bệ phóng tên lửa, được hộ tống bởi một số xe hỗ trợ. Ý tưởng cơ bản là Trung Quốc sẽ khó có thể theo dõi các đơn vị này một khi họ đã lên đường. Họ có thể lựa chọn các địa điểm ngẫu nhiên trên khắp Đài Loan, nâng bệ phóng, rồi bắn một loạt tên lửa chống hạm vào các hạm đội Trung Quốc và phân tán trước khi PLA kịp phản công – một chiến thuật quân sự được gọi là "bắn rồi chạy".
Nhưng điều đáng báo động là bài báo của Trung Quốc đã tiết lộ một số địa điểm chính xác trên khắp Đài Loan, nơi các đơn vị Hải Phong đã được triển khai trong tư thế sẵn sàng bắn vào ngày 23/5. Các bức ảnh cho thấy các đơn vị này với bệ phóng được nâng lên và sử dụng lưới ngụy trang. Một đơn vị được bố trí tại bãi đậu xe của một khách sạn nghỉ dưỡng ven biển ở Nghi Lan, phía tây bắc Đài Loan, một đơn vị khác ở bãi đậu xe của một thủy cung gần cảng Đài Trung, thành phố lớn thứ hai của Đài Loan. Ở mũi cực nam của Đài Loan, một đơn vị khác nữa đã ở trong một bãi đậu xe bên trong Vườn quốc gia Khẩn Đinh.
Thời báo Tự do, một tờ báo lớn của Đài Loan, đã công bố những bức ảnh dân sự, đi kèm mô tả vị trí của đơn vị tên lửa Hải Phong của quân đội Đài Loan được phát hiện ở Nghi Lan vào tháng 5. © Hình ảnh được chia sẻ bởi một cư dân địa phương, công bố trên Thời báo Tự do.
Hóa ra, công ty Trung Quốc đã không sử dụng bất kỳ thông tin rò rỉ bí mật hay tin tặc tiên tiến nào. Tất cả các đơn vị này đều đã bị chính người Đài Loan phát hiện và tiết lộ – một số do các nhà báo và một số khác do người dân trong khu vực đăng ảnh lên mạng xã hội. Johnson Liu, phóng viên của tờ Liên Hợp Báo của Đài Loan, người đã đăng một bài viết về tên lửa, đã xác nhận với tôi rằng đây không phải là một "ảnh chụp có kế hoạch" (photo-op) nhưng anh ấy cùng các phóng viên khác đã được các nguồn tin địa phương "nhìn thấy đoàn xe quân sự tiến vào khu vực này" báo tin.
"Bộ Quốc phòng không bao giờ nói với chúng tôi bất cứ điều gì", Liu chia sẻ, "nhưng tôi đã thấy các đơn vị tên lửa sử dụng bãi đậu xe đó trong các cuộc tập trận trước đây và biết ngay họ sẽ đi về đâu". Dù các phương tiện truyền thông Đài Loan hoặc cư dân mạng không đi xa đến mức nêu rõ địa điểm chính xác, nhưng tất cả những gì các nhà nghiên cứu Trung Quốc cần là điều tra trên web, sử dụng các nguồn công khai như Google Maps để tìm kiếm và xác định chính xác địa điểm từ những bức ảnh có sẵn. Người Trung Quốc thậm chí còn tính được cả các tuyến đường và thời gian di chuyển cần thiết.
Liên Hợp Báo, một tờ báo lớn tại Đài Loan, đã công bố hình ảnh và vị trí đơn vị tên lửa Hải Phong của quân đội Đài Loan được phát hiện tại bãi đậu xe của Vườn quốc gia Khẩn Đinh vào tháng 5. © Johnson Liu/ Liên Hợp Báo
Khi điện thoại thông minh và mạng xã hội được sử dụng rộng rãi trong những thập kỷ gần đây, tình báo nguồn mở (open-source intelligence, OSINT) đã trở thành điều thường thấy, như được chứng minh một cách sống động trong chiến tranh Nga-Ukraine. Trước sức mạnh tên lửa của Trung Quốc, Đài Loan đã không áp dụng mức độ an ninh cần thiết để giữ an toàn cho các đơn vị của mình.
Một tên lửa Đông Phong được phóng từ tỉnh Phúc Kiến hoặc Giang Tây của Trung Quốc có thể tấn công bất cứ nơi nào ở Đài Loan chỉ trong vòng năm đến bảy phút. Đài Loan có một số nguồn cảnh báo sớm từ hệ thống radar PAVE PAWS khổng lồ cùng các radar phòng không khác, với khả năng dự đoán nơi tên lửa đạn đạo có thể hạ cánh chí ít là trước khi chính các radar bị phá hủy. Nhưng "sương mù" của chiến tranh và độ trễ trong liên lạc giữa các lực lượng có nghĩa là những cảnh báo này khó có thể đến tay các đơn vị dã chiến kịp thời.
Công ty Trung Quốc đứng sau bài viết trên WeChat dường như là một công ty thương mại. Trang web của công ty này tự hào có hàng trăm bài nghiên cứu về các vấn đề quân sự và an ninh toàn cầu, một vài trong số đó liên quan đến Đài Loan. Công ty này và công ty mẹ của nó nằm trong danh sách các công ty đã nhận được hỗ trợ vườn ươm khởi nghiệp từ Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc vào năm 2022, nhưng họ không thuộc sở hữu của chính phủ Trung Quốc. Dù công ty không liệt kê khách hàng của mình, các chuyên gia mà tôi đã liên hệ đánh giá rằng báo cáo của công ty về quân đội Đài Loan – qua đó giới thiệu năng lực của họ với công chúng – có thể là một nỗ lực nhằm thu hút thêm sự quan tâm và hợp đồng từ chính phủ hoặc quân đội Trung Quốc.
Điều này không quá khác biệt so với cộng đồng tình báo và Bộ Quốc phòng Mỹ ngày nay, những người cũng được hỗ trợ bởi một loạt các công ty tư vấn và nhà thầu dân sự, được gọi là "tình báo thuê ngoài". Nhưng giống như ở Mỹ, các công ty Trung Quốc và hoạt động nghiên cứu OSINT của họ chỉ đại diện cho cấp độ thấp nhất trong năng lực tình báo, giám sát, và trinh sát tổng thể của Trung Quốc, vì chắc chắn rằng ở cấp độ chính phủ và quân đội, Trung Quốc sở hữu các công cụ mạnh mẽ, đắt tiền, và bí mật hơn rất nhiều.
Ví dụ, hệ thống vệ tinh viễn thám thương mại Cát Lâm-1 của Trung Quốc được cho là đã đạt số lượng khoảng 138 vệ tinh vào năm 2023, và có thể từ trên không gian chụp ảnh của bất kỳ địa điểm nào trên Trái Đất sau mỗi 10 phút. Ngoài ra, PLA và tình báo Trung Quốc còn có quyền truy cập vào các đội vệ tinh do thám mạnh mẽ và bí mật hơn bao gồm hàng trăm vệ tinh Dao Cảm và Cao Phân.
Có lẽ vẫn là hơi quá khi nói rằng Trung Quốc ngày nay có thể theo dõi mọi khu vực của Đài Loan mọi lúc. Nhưng tiết lộ này là bằng chứng cho thấy năng lực của Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng, được hỗ trợ bởi sự bất lực của Đài Loan trong việc che giấu bí mật trong thời đại truyền thông xã hội. Quân đội Đài Loan phải hoạt động với sự siêng năng và linh hoạt về mặt chiến thuật, nếu không, họ có thể chứng kiến các tài sản phòng thủ quan trọng nhất của mình dễ dàng bị Trung Quốc phá hủy ngay từ khi bắt đầu cuộc chiến.
Trương Kinh, một nhà phân tích quốc phòng tại Hiệp hội Nghiên cứu Chiến lược có trụ sở tại Đài Bắc và là cựu đại úy Hải quân RoC, nhận định các hoạt động của đơn vị Hải Phong ngày hôm đó có thể là một nỗ lực để vào vị trí bắn, nhưng lại được thực hiện một cách liều lĩnh và không quan tâm đến đảm bảo an toàn cho chiến dịch.
Các chuyên gia cũng đặt câu hỏi tại sao các đơn vị tên lửa không di dời ngay lập tức trong ngày hôm đó sau khi vị trí của họ bị truyền thông và mạng xã hội tiết lộ rõ ràng. James Huang, một trung tá đã nghỉ hưu của Quân đội RoC và một nhà bình luận về các vấn đề quốc phòng, nói với tôi rằng trong khi lý lẽ thông thường và học thuyết quân sự đòi hỏi một phản ứng ngay lập tức, thì các đơn vị này nhiều khả năng vẫn ở nguyên vị trí vì các chỉ huy thực địa của họ đã được sở chỉ huy "giao cho" những vị trí đó và những người này không có trực giác hoặc khả năng sáng tạo để di chuyển các đơn vị của họ đến nơi an toàn. Huang mô tả điều đó là điển hình cho mô hình chỉ huy và kiểm soát theo kịch bản định sẵn, từ trên xuống dưới của quân đội Đài Loan.
Những cựu quân nhân như Trương và Huang nói rằng các đơn vị Hải Phong có nhiều địa điểm "chờ" hơn trên khắp Đài Loan vẫn chưa được tiết lộ cho công chúng, và những gì bài báo của Trung Quốc tiết lộ chỉ là một phần nhỏ trong tổng số lực lượng. Tuy nhiên, với mỗi địa điểm tiềm năng bị tiết lộ và ghi lại, "bức tranh mục tiêu" của Trung Quốc lại càng trở nên chính xác, PLA có thể theo dõi các hoạt động của họ bằng vệ tinh và các công cụ khác một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn, và viễn cảnh sống sót của các đơn vị Đài Loan này càng trở nên ảm đạm hơn khi chiến tranh xảy ra.
Ngay cả Cơ quan Thông tấn Trung ương Đài Loan cũng thường xuyên công bố hoặc quảng bá tin tức và hình ảnh dân thường phát hiện các đơn vị tên lửa di động trên đường để củng cố tinh thần quốc gia, đôi khi thậm chí còn cung cấp lộ trình chi tiết và thời gian di chuyển. Các chuyên gia nhận xét sự thiếu nhận thức về an ninh này của chính phủ và quân đội là ngu ngốc và tự làm hại bản thân.
Các phương tiện truyền thông nhà nước của Đài Loan như Cơ quan Thông tấn Trung ương thường xuyên tiết lộ các hoạt động của quân đội nước này. Đây là một bài viết vào tháng 7/2024 chia sẻ bức ảnh của một thường dân chụp lại các đơn vị tên lửa Hải Phong ở Đài Đông, cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và tuyến đường. © Cơ quan Thông tấn Trung ương Đài Loan
"Đài Loan quá nhỏ để che giấu bất cứ điều gì. Người dân và thậm chí cả viên chức chính phủ nói chung đều thiếu nhận thức về việc bảo vệ thông tin nhạy cảm, điều này càng khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn", Trương nói.
Các đơn vị tên lửa di động được cho là một trong những đơn vị quân sự bền bỉ và khó theo dõi nhất. Các chuyên gia của Mỹ cũng như Lầu Năm Góc đã nhiều lần kêu gọi Đài Loan mua và triển khai thêm tên lửa chống hạm Harpoon. Đánh giá quốc phòng bốn năm một lần năm 2021 của Bộ Quốc phòng Đài Loan cũng liệt kê tên lửa chống hạm là vũ khí chính trong số những vũ khí được cho là "bất đối xứng", nghĩa là chúng "tàng hình, di động, và khó phát hiện".
Tuy nhiên, nếu những vũ khí này không được vận hành một cách thông minh, chúng có thể dễ thấy và dễ bị tổn thương hơn các loại vũ khí thông thường như xe tăng và máy bay chiến đấu, Lyle Goldstein, chuyên gia về PLA và là giáo sư tại Đại học Brown, nhận xét.
Goldstein nói thêm "Nhiều người cho rằng chiến lược phòng thủ của Đài Loan nên dựa trên những vũ khí được cho là không đối xứng này, nhưng họ đã bỏ qua điểm yếu lớn của Đài Loan trong thời đại hỏa lực chính xác tầm xa". Ông chỉ ra rằng bên cạnh tên lửa, Trung Quốc còn đang triển khai một đội quân lớn các loại đạn dược trên không như máy bay không người lái tự sát, vốn có thể được sử dụng để tấn công Đài Loan trong một cuộc chiến.
Ở Ukraine, Nga đang ngày càng thành công trong việc định vị và phá hủy các đơn vị tên lửa di động của Ukraine như bệ phóng HIMARS do Mỹ cung cấp, dù người Ukraine vận hành chúng với sự bảo mật và bí mật cực độ. Trong khi đó, Đài Loan nhỏ hơn Ukraine đến 17 lần, nên tình báo Trung Quốc có thể dễ dàng lập bản đồ và theo dõi mọi thứ hơn rất nhiều.
Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy chính quyền và giới lãnh đạo quân đội Đài Loan hiện tại không muốn hoặc không có khả năng đối mặt với thực tế. Trong những tuần sau khi bài viết của công ty Trung Quốc được công bố, nó nhận được rất ít sự chú ý ở Đài Loan và chỉ một số ít phương tiện truyền thông chịu đưa tin, trong đó xem nhẹ nó là trò "tuyên truyền". Truyền thông nhà nước Đài Loan thậm chí còn trích lời một "chuyên gia" có liên hệ với bộ quốc phòng, khoe khoang rằng "người Trung Quốc sợ tên lửa của chúng ta".
Theo một cựu nhân viên cấp cao tại Hội đồng An ninh Quốc gia Đài Loan dưới thời chính phủ tiền nhiệm Thái Anh Văn (yêu cầu giấu tên), sự kiêu ngạo này và thái độ từ chối thừa nhận sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung Quốc chính là thái độ phổ biến ở cấp cao nhất của Bộ Quốc phòng và lãnh đạo an ninh quốc gia Đài Loan.
"Mọi người – kể cả người Mỹ – chỉ quan tâm đến những vũ khí hào nhoáng mà Đài Loan mua và giả vờ rằng chúng ta càng có nhiều vũ khí thì chúng ta càng an toàn. Họ đã sai hoàn toàn", nhân viên này nói, bình luận về sự yếu kém của các đơn vị tên lửa di động của Đài Loan. "Không có lượng vũ khí nào có thể khắc phục được những thiếu sót và sự bất tài ở cấp độ chiến thuật và chiến dịch, nhưng hầu như chẳng ai quan tâm đến những cải cách mà chúng ta thực sự cần".
"Bất kỳ sai lầm nào có thể xảy ra sẽ xảy ra, và bất kỳ đơn vị quân đội nào đã bị lộ trước kẻ thù trong thời bình sẽ bị phá hủy trong thời chiến", nhân viên này tuyên bố. "Chúng ta sẽ chứng kiến điều này trong một cuộc chiến trừ phi có những thay đổi cơ bản ở cấp lãnh đạo và chúng ta nên bắt đầu đối xử với chiến tranh như nó vốn có, chứ không phải như chúng ta mong muốn".
Paul Huang
Nguyên tác : Taiwanese Missile Units Are Giving Away Their Positions to China", Foreign Policy, 21/10/2024
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 25/10/2024
Paul Huang là nghiên cứu viên của Quỹ Ý kiến Công chúng Đài Loan.
Tổng thống Lại Thanh Đức nói về tuổi đời của nền cộng hòa dân quốc của Đài Loan
Hôm nay ngày 10 tháng 10 năm 2024, hòn đảo Đài Loan tổ chức lễ quốc khánh mà đài báo địa phương còn gọi là ‘sinh nhật lần thứ 113’.
Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức và phu nhân Ngô Mai Như, cùng chủ tịch Quốc Hội Hàn Quốc Du (Han Guo-yu) và phó tổng thống Tiêu Mỹ Cầm (Hsiao Bi-khim) trong ngày Quốc khánh Đài Loan, Đài Bắc, 10/10/2024. AP - Chiang Ying-ying
Thông tín viên Nguyễn Giang tường trình từ Đài Bắc :
Đài Loan tính ngày lập quốc là từ sự kiện Cách mạng Tân Hợi ở Trung Hoa, lật đổ nhà Thanh năm 1911, lập ra Trung Hoa Dân quốc, chứ không tính từ ngày chính quyền Quốc Dân Đảng dựng lại cơ đồ ở đảo Đài Loan năm 1949 sau khi thua phe cộng sản của Mao Trạch Đông ở đại lục.
Ngày 10 tháng 10 còn gọi là lễ Song Thập, với hình hai chữ thập nối nhau màu xanh dương và trắng của lá cờ Thanh thiên Bạch nhật, quốc kỳ của Trung Hoa Dân quốc, được phổ biến tại các lễ khác và trên cả các trang web song ngữ Trung-Anh.
Trước Phủ Tổng thống ở Đài Bắc có các lễ hội và kết thúc bằng màn bắn pháo hoa từ ngọn tháp Đài Loan 101 từ 8 giờ tối.
Điều thú vị là Quốc khánh dân được nghỉ lễ và công sở đóng cửa nhưng nhiều hàng quán vẫn mở. Người ta vẫn ra vào mua sắm, ăn uống bình thường. Tại các công viên, trên những lối đi bộ ven sông và trên núi, nhiều gia đình người Đài Loan coi đây là ngày dã ngoại cho khỏe nên có nhóm đi xe đạp, có nhiều hội chơi thể thao, và các đoàn leo núi vẫn hoạt động bình thường. Ngay từ cuối tuần trước, trong một lễ trước Quốc khánh, ông Lại Thanh Đức đã chúc người dân "làm ăn chăm chỉ, yên vui" và tăng quỹ trợ giúp lũ lụt sau bão Krathon lên 55 tỷ Đài tệ, tương đương 1,7 tỷ USD, chỉ trong năm 2025. Quỹ trợ giúp này là bằng chứng cho thấy quốc gia này duy ít dân (23 triệu) nhưng vẫn giàu có. Theo một cách tính được công bố hôm 7/10 thì Đài Loan có thu nhập bình quân đầu người thứ 16 trên toàn thế giới, và đứng thứ sáu ở Châu Á.
Tổng thống Lại Thanh Đức cũng nói Đài Loan "là quốc gia có chủ quyền" và Trung Hoa Dân quốc còn có tuổi lâu hơn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vốn chỉ thành lập năm 1949, nên nói là Đài Loan "thuộc về Trung Quốc" là không đúng.
Những ngôn từ tự tin này chắc chắn không tác động gì đến chính sách của Trung Quốc muốn một ngày sẽ "thống nhất lãnh thổ, đưa Đài Loan về với Đại lục" nhưng ít ra nó đang khiến cho một phần đông dư luận Đài Loan thêm niềm tự hào về cả mức sống, về truyền thống của nền cộng hòa và về bản sắc riêng của họ, giữa các biến động địa chính trị toàn cầu.
Trong bài phát biểu mừng quốc khánh, được AFP trích dẫn, tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức khẳng định : "Trung Quốc không có quyền đại diện cho Đài Loan", đồng thời ông nhấn mạnh rằng sẽ "kháng cự" trước ý định sáp nhập của Bắc Kinh.
Trước các tuyên bố này, hôm nay, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ninh đã lên án "quan điểm cứng đầu" của tổng thống Đài Loan về chủ quyền của hòn đảo, làm leo thang căng thẳng hai bên eo biển Đài Loan, "vì lợi ích cá nhân có động cơ chính trị".
Nhiều chuyên gia cho rằng Bắc Kinh có thể coi phát biểu của ông Lại Thanh Đức là cái cớ để thực hiện các cuộc tập trận quân sự răn đe gần hòn đảo.
Nguyễn Giang
Nguồn : RFI, 10/10/2024
Ngôn từ được sử dụng trong đạo luật 45 năm tuổi của Mỹ đã mang lại cho Trung Quốc cơ hội ở Eo biển Đài Loan.
Tập Cận Bình và Joe Biden đã tìm ra các kênh ngoại giao mới để gửi tin nhắn cho nhau vào ngày 10 tháng 4. Tập dùng cựu tổng thống Đài Loan để thực hiện lời nói của mình, trong khi Biden lên tiếng bằng cách tiếp đón các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Philippines. (Nguồn ảnh của Getty Images và Tân Hoa Xã/Kyodo)
Gần chín năm sau hội nghị thượng đỉnh lịch sử vào năm 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và cựu Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu đã bắt tay nhau một lần nữa tại Bắc Kinh hồi tuần trước.
Hôm đó là ngày 10/04, và trong cùng ngày tại Washington, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đón tiếp Thủ tướng Nhật Fumio Kishida tại Nhà Trắng.
Phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi các cuộc thảo luận chính trị này được tổ chức trong cùng một ngày ở hai bên bờ Thái Bình Dương ?
"Chìa khóa quan trọng ở đây là hãy nhớ lại ý nghĩa của ngày 10/04", một chuyên gia về lịch sử quan hệ Mỹ-Trung và Mỹ-Đài cho biết.
Vào ngày 10/04/1979, Đạo luật Quan hệ Đài Loan đã được Tổng thống Mỹ lúc đó là Jimmy Carter ký duyệt thành luật, chỉ vài tháng sau khi Washington thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.
Mỹ và Trung Quốc từng chung tay chống lại kẻ thù chung là Liên Xô, và đạt được sự xích lại gần nhau mang tính lịch sử. Tuy nhiên, những lo ngại trong Quốc hội Mỹ rằng việc công nhận Trung Quốc có thể gây tổn hại đến an ninh của Đài Loan, đã dẫn đến sự ra đời của Đạo luật Quan hệ Đài Loan, trong đó quy định rằng Mỹ sẽ giúp hòn đảo này duy trì khả năng tự vệ.
Ferdinand Marcos Jr. (trái), Joe Biden, và Fumio Kishida tổ chức hội nghị thượng đỉnh Philippines-Mỹ-Nhật đầu tiên vào ngày 11/04, tại Nhà Trắng ở Washington. Biden có lẽ đã biết thời điểm tổ chức sự kiện là một ngày sau lễ kỷ niệm 45 năm Đạo luật Quan hệ Đài Loan được ký thành luật © Reuters
Rất có khả năng Biden đã lên lịch gặp Kishida khi biết rõ những gì đã xảy ra 45 năm trước. Đây là lần đầu tiên sau chín năm, một thủ tướng Nhật Bản được chào đón tới Mỹ với tư cách quốc khách. Duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – bao gồm Eo biển Đài Loan, Biển Hoa Đông, và Biển Đông – là chủ đề chính trong cuộc thảo luận của Kishida và Biden.
Điều quan trọng hơn nữa về mặt ngoại giao với Trung Quốc là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo Nhật, Mỹ, và Philippines, diễn ra vào ngày hôm sau, khi Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. đến gặp những người đồng cấp của ông tại Nhà Trắng.
Cuộc gặp diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Philippines và Trung Quốc tại khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông, nơi các tàu của chính phủ Trung Quốc bị cáo buộc quấy rối các tàu Philippines.
Trung Quốc đã biết trước rằng hội nghị thượng đỉnh Nhật-Mỹ sẽ trùng với dịp kỷ niệm 45 năm ban hành Đạo luật Quan hệ Đài Loan, và tiếp đến là hội nghị thượng đỉnh Nhật-Mỹ-Philippines. Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đáp trả những sắp xếp của Biden.
Một biện pháp đối phó cũng là cần thiết nếu Tập muốn giữ thể diện trước người dân trong nước. Theo truyền thông Đài Loan, cuộc gặp Tập-Mã ban đầu được ấn định vào ngày 08/04, nhưng đã bị trì hoãn hai ngày. Dường như đây là một quyết định có chủ ý để khiến cuộc gặp gỡ giữa Tập và Mã sẽ trùng với thượng đỉnh Nhật-Mỹ.
Mã Anh Cửu (trái) bắt tay Tập Cận Bình tại Bắc Kinh vào ngày 10/04. Cuộc gặp của họ bị trì hoãn hai ngày, rất có thể là để nó trùng với hội nghị thượng đỉnh Nhật-Mỹ © AP
Đạo luật Quan hệ Đài Loan hiện đang cân nhắc tình hình an ninh của Đài Loan. Hồi tháng 2, hai ngư dân Trung Quốc đã thiệt mạng sau khi thuyền của họ bị lật úp ngoài khơi Đảo Kim Môn của Đài Loan. Tàu cá Trung Quốc được cho là đã lật úp khi đang bị lực lượng hải cảnh Đài Loan truy đuổi sau khi hoạt động trong một khu vực bị hạn chế.
Trung Quốc đổ lỗi cho Đài Loan về vụ việc, và khẳng định không tồn tại bất kỳ khu vực bị hạn chế nào. Từ đó đến nay, các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã thường xuyên tuần tra vùng biển xung quanh Đảo Kim Môn.
Vậy có nghĩa là Trung Quốc đang cố gắng thay đổi hiện trạng bằng cách loại bỏ "hiểu biết ngầm" giữa nước này và Đài Loan.
Kim Môn, hòn đảo lớn nhất trong nhóm đảo nhỏ ở Eo biển Đài Loan, nằm cách đảo chính của Đài Loan khoảng 200 km, trong khi các đảo nhỏ của Đài Loan nằm xung quanh Kim Môn chỉ cách Hạ Môn, một thành phố của Trung Quốc trên bờ biển tỉnh Phúc Kiến, vài km.
Hạ Môn là nơi Tập giữ chức phó thị trưởng vào giữa thập niên 1980 khi ông vẫn còn ở độ tuổi 30.
Nằm trên bờ biển Kim Môn là Cổ Ninh Đầu. Tháng 10/1949, ngay sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc thành lập "một Trung Quốc mới", Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các lực lượng cộng sản đã phát động một chiến dịch đổ bộ lên Cổ Ninh Đầu để chiếm đảo Kim Môn.
Tuy nhiên, họ đã phải đối mặt với một cuộc phản công dữ dội từ quân đội Quốc Dân Đảng đang đóng trên đảo. Sau vài ngày giao tranh, lực lượng cộng sản đành đầu hàng.
Tượng đài tưởng nhớ Trận Cổ Ninh Đầu lịch sử diễn ra vào năm 1949. Thất bại của quân xâm lược cộng sản nhiều thập niên trước vẫn là bài học cho đến ngày nay © Getty Images
Thất bại của phe cộng sản xảy đến ngay sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, khi các lực lượng vũ trang của họ đáng lẽ phải có khí thế hăng hái. Nhưng họ lại chẳng thể chiếm được hòn đảo nhỏ, chứng tỏ rằng hoạt động đổ bộ bằng tàu có lẽ rất khó.
Dù Trung Quốc ngày nay sở hữu các trang bị thiết bị hiện đại và tàu chiến tiên tiến, thất bại 75 năm trước vẫn là một bài học.
Rất lâu sau Trận Cổ Ninh Đầu, Đảo Kim Môn tiếp tục trở thành mục tiêu tấn công của pháo binh Trung Quốc. Nhưng hòa bình đã đến với Eo biển Đài Loan sau khi Mỹ và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1979 và Đạo luật Quan hệ Đài Loan được ban hành.
Giờ đây, khi Tập đang cố gắng thay đổi hiện trạng, ngôn từ được dùng trong đạo luật đó bắt đầu trở thành vấn đề.
Đạo luật này kế thừa từ Hiệp ước Phòng thủ Chung (nay đã hết hiệu lực) giữa Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc, tên chính thức của Đài Loan, nhằm biện minh cho những nỗ lực của Mỹ nhằm bảo vệ Đài Loan.
Nội dung văn bản có đề cập đến Quần đảo Bành Hồ, một quần đảo xa xôi của Đài Loan nằm cách đảo chính của Đài Loan 50 km về phía tây, nhưng nó không đề cập đến hai quần đảo Kim Môn và Mã Tổ, nằm cách xa đảo chính của Đài Loan.
Tổng thống đắc cử Lại Thanh Đức tại Đài Bắc vào ngày 13/12/2023. Dù người Tập nói chuyện hồi tuần trước là Mã Anh Cửu, nhưng những lời của Chủ tịch Trung Quốc là dành cho Lại. (Ảnh của Kento Awashima)
Bằng cách cố gắng thay đổi hiện trạng sau sự cố tàu đánh cá Trung Quốc hồi tháng 2, Trung Quốc cũng có thể thách thức Mỹ, nước có quan hệ với Đài Loan dựa trên đạo luật mà Jimmy Carter đã ký thành luật năm 1979.
Biden, người vào năm 1979 đã là thượng nghị sĩ được sáu năm, đã tiếp nhận thử thách này. Bằng việc tổ chức cuộc gặp với Kishida vào đúng dịp kỷ niệm 45 năm ban hành Đạo luật Quan hệ Đài Loan, và tiến hành hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản-Mỹ-Philippines đầu tiên ngay ngày hôm sau, Biden đã gửi một thông điệp mạnh mẽ tới Trung Quốc.
Tập cũng đã gửi thông điệp của riêng mình bằng cách chào đón Mã. Bức điện của ông được gửi tới Tổng thống sắp nhậm chức của Đài Loan Lại Thanh Đức, còn được gọi là William Lai, thuộc Đảng Dân Tiến cầm quyền của Đài Loan. Lại, 64 tuổi, sẽ tuyên thệ nhậm chức vào ngày 20/05, lên thay Tổng thống đương nhiệm Thái Anh Văn.
Đảng Dân Tiến vốn không tán thành một Trung Quốc thống nhất, và Tập muốn giữ cho quan điểm này không lan rộng hơn nữa ở Đài Loan.
Mã đã giữ chức tổng thống Đài Loan từ năm 2008 đến năm 2016. Năm 2015, ông từng có cuộc hội đàm lịch sử với Tập tại Singapore, hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa Trung Quốc cộng sản và Đài Loan.
Một năm sau, cử tri Đài Loan đã quyết định loại bỏ Quốc Dân Đảng (KMT) của Mã.
Trong cuộc gặp mới nhất với Mã, Tập nói "Không thế lực nào có thể chia cắt chúng ta", ám chỉ mối quan hệ xuyên eo biển. Đây là thông điệp – hay nói đúng hơn là cảnh báo – mà ông dành cho Lại.
Tình hình chính trị Đài Loan rất phức tạp. Quốc Dân Đảng đã thua trong cuộc bầu cử tổng thống mới nhất vào tháng 1, và sự sụp đổ của thỏa thuận liên minh do Mã làm trung gian là một đòn giáng nặng nề khác lên đảng đối lập chính.
Tuy nhiên, Quốc Dân Đảng đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử cơ quan lập pháp, trở thành phe lớn nhất trong Lập pháp Viện và do đó ngăn Đảng Dân Tiến cầm quyền giành được đa số độc đảng. Nhìn về cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo sau 4 năm nữa, Quốc Dân Đảng có thể hy vọng trở lại nắm quyền.
Chìa khoá nằm ở sự thay đổi thế hệ hiện đang diễn ra bên trong nội bộ Quốc Dân Đảng. Nhiều người trẻ trong đảng không hài lòng với cuộc gặp của Mã và Tập ở Bắc Kinh. Ngay trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 1, Mã đã nói rằng "phải tin tưởng" Tập trong mối quan hệ hai bờ eo biển, theo đó làm hoen ố hình ảnh của Quốc Dân Đảng.
Giờ đây, người ta lại càng bất mãn với Mã và lo sợ rằng chuyến đi mới nhất của ông tới Trung Quốc chỉ có lợi cho Đảng Dân Tiến cầm quyền. Không nhiều người Đài Loan sẽ nhìn nhận cuộc gặp của Mã với Tập ở khía cạnh tích cực, và họ cũng sẽ không coi đây là sứ mệnh ngăn chặn một cuộc đụng độ vũ trang giữa Trung Quốc và Đài Loan. Việc sự kiện được dời ngày vì lợi ích của Trung Quốc lại càng làm tăng thêm những cảm xúc này.
Xe tăng xếp hàng trên bãi biển Đảo Kim Môn, với các tháp pháo hướng về phía tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc, vào tháng 10/2023. Hòn đảo này nằm ở Eo biển Đài Loan, nơi Trung Quốc đang cố gắng thay đổi hiện trạng đã tồn tại hàng chục năm. © Kyodo
Sau khi trở về Đài Loan, Mã đã tổ chức một cuộc họp báo vào ngày 11/04 để khoe về những thành tựu của mình ở Bắc Kinh, nói rằng người dân ở cả hai bờ Eo biển Đài Loan thuộc về một "Trung Hoa Dân Quốc", trước khi sửa lại thành một "quốc gia Trung Quốc". Ông cũng đã phạm sai lầm tương tự và đã sửa chữa nó trong cuộc gặp với Tập ở Bắc Kinh.
Quốc Dân Đảng cho rằng Trung Hoa Dân Quốc, tên chính thức của Đài Loan, mới thực sự là Trung Quốc. Một chuyên gia hiểu rõ tính cách của Mã đã chắc chắn rằng "cựu tổng thống Đài Loan cố tình" lỡ miệng. Nếu điều này là đúng – và với việc chuyến đi Bắc Kinh của Mã không thực sự được đón nhận trong Quốc Dân Đảng – thì đó là một nhầm lẫn thú vị.
Trong khi đó, trên Đảo Kim Môn, một số động thái chưa từng có đã diễn ra.
Truyền thông Đài Loan đưa tin các cố vấn quân sự Mỹ giờ đây đã đóng quân thường trực tại quần đảo Kim Môn và Bành Hồ, trong khi lực lượng Mũ nồi Xanh của Mỹ đã đến các vị trí cố định ở Đài Loan.
Đã 75 năm trôi qua kể từ khi lực lượng cộng sản bị quân Quốc Dân Đảng đánh bại trong Trận Cổ Ninh Đầu năm 1949, và Đảo Kim Môn một lần nữa lại nằm ở vị trí trung tâm trong cuộc đối đầu Trung Quốc-Đài Loan – hay Trung Quốc-Mỹ.
Sự công nhận của Mỹ đối với Trung Quốc và Đạo luật Quan hệ Đài Loan đã cùng tồn tại trong thế cân bằng mong manh suốt 45 năm qua. Liệu sự cân bằng này sẽ bị phá vỡ hay được duy trì ? Chúng ta cần phải theo dõi sát sao trong thời gian tới.
Katsuji Nakazawa
Nguyên tác : Why Xi and Biden chose the same day to send a message on Taiwan", Nikkei Asia, 18/04/2024
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 22/04/2024
Katsuji Nakazawa là nhà báo và biên tập viên cấp cao của Nikkei, hiện sinh sống tại Tokyo. Ông đã dành bảy năm làm phóng viên thường trú ở Trung Quốc và sau đó trở thành trưởng văn phòng Trung Quốc. Ông đã nhận Giải Nhà báo Quốc tế Vaughn-Ueda năm 2014.
Vào tháng Giêng năm 2024, cử tri Đài Loan được mời gọi bầu chọn tổng thống và cơ quan lập pháp mới. Việc Bắc Kinh tăng cường các hoạt động quân sự xung quanh Đài Loan trong suốt năm nay làm dấy lên lời đồn thổi khả năng Trung Quốc chiếm đánh Đài Loan từ đây đến năm 2027. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng, về mặt tâm lý, cuộc chiến "xâm chiếm" Đài Loan của Trung Quốc đang diễn ra tốt đẹp.
Đài Loan sẽ bầu tân tổng thống vào tháng 1/2024-hình bốn ứng viên tổng thống khác nhau. Từ trái sang phải : Lại Thanh Đức, Hầu Hữu Nghĩa, Quách Đài Minh và Kha Văn Triết
Ba điều thay đổi cốt lõi
Chuyên gia về chính sách đối ngoại Christian Le Miere1 trước hết nhận định : Cuộc bầu cử 2024 là cột mốc quan trọng cho 75 năm quan hệ Trung – Đài và đây sẽ là tiền đề cho bốn năm sắp tới.
Thứ nhất, kỳ bầu cử này sẽ chứng kiến sự kết thúc thời kỳ điều hành của chính phủ tổng thống Thái An Văn, nữ tổng thống đầu tiên của hòn đảo, người đã gần như chấm dứt chính sách gắn kết, nối lại quan hệ xuyên eo biển của người tiền nhiệm Mã Anh Cửu.
Thứ hai, trong suốt 8 năm cầm quyền của đảng Dân Tiến, đảng của bà Thái Anh Văn, người ta ghi nhận có một sự thay đổi lớn trong văn hóa và cảm nhận của người dân Đài Loan đối với Trung Quốc. Các cuộc khảo sát thường xuyên về bản sắc và ưu tiên chính trị của người dân Đài Loan cho thấy có một xu hướng ủng hộ độc lập và tự nhận là người Đài Loan nhiều hơn là người Trung Quốc2, tăng từ 55% (2018) lên đến 65% trong năm 2023, và sự ủng hộ đối với việc duy trì nguyên trạng nhưng hướng tới độc lập – trong số sáu lựa chọn – tăng từ 13% lên hơn 25%.
Nhiều các đánh giá, điều này một phần là do chính sách của chính quyền Bắc Kinh. Các cuộc biểu tình lớn chống luật an ninh quốc gia ở Hồng Kông đã khẳng định rằng khẩu hiệu "một quốc gia, hai chế độ" đã mất ý nghĩa trong mắt cử tri Đài Loan, khi tỏ ra lo ngại rằng các cuộc biểu tình đó là một lời kêu gọi chính đáng cho quyền bầu cử và đại diện của dân.
Thứ ba là có một sự thay đổi rõ nét về những căng thẳng quân sự trong khu vực. Từ thời chính quyền Donald Trump, Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách kết hợp mang tính đối đầu hơn với Trung Quốc bao gồm cả việc can dự và hỗ trợ nhiều hơn cho Đài Loan cũng như là đã phá vỡ nhiều quy tắc bất thành văn như có các cuộc thăm viếng thường xuyên hơn của các chính trị gia cao cấp, sĩ quan quân đội và tầu hải quân Mỹ đến eo biển Đài Loan… Chính sách này còn được chính quyền Biden đẩy xa hơn khi lần đầu tiên đồng ý cho sử dụng nguồn quỹ Tài trợ Quân sự Nước ngoài (Foreign Military Financing – FMF) vào tháng 11/2023 để trang bị vũ khí cho Đài Loan.
Ngoài ra, Hoa Kỳ nỗ lực tái bố trí lực lượng sang Thái Bình Dương, xây dựng các mối quan hệ chiến lược chặt chẽ hơn với các đồng minh và đối tác trong khu vực như liên minh tầu ngầm AUKUS và Bộ Tứ - QUAD, cải thiện tư thế răn đe cũng như lực lượng sẵn sàng phản ứng nhanh trước khả năng xảy ra bất kỳ điều gì với Trung Quốc.
Đe dọa quân sự của Bắc Kinh
Những động thái này của Mỹ trong khu vực đã khiến Bắc Kinh giận dữ và đã có những phản ứng mạnh mẽ, đặc biệt là sau chuyến thăm của chủ tịch Hạ Viện lúc đó là bà Nancy Pelosi đến Đài Loan vào tháng 8/2022. Trung Quốc đáp trả bằng những cuộc tập trận hải – không quân quy mô lớn chưa từng có, thao dợt bao vây Đài Loan.
Kể từ đó, Trung Quốc về cơ bản loại bỏ đường phân chia không chính thức trước đây giữa Đài Loan và Hoa Lục, với việc máy bay quân sự thường xuyên băng qua đường trung tuyến ở eo biển, khiến đường phân chia ranh giới ảo này gần như trở nên dư thừa. Theo thông tín viên đài RFI, Adrien Simorre tại Đài Bắc, chỉ riêng trong tháng Chín, quân đội Đài Loan ghi nhận có đến 225 cuộc xâm nhập quanh không phận hòn đảo.
"Trên thực tế kể từ năm 2022, số vụ máy bay Trung Quốc xâm nhập không phận tiếp tục tăng lên. Theo tôi, có hai diễn biến chính : Thứ nhất là về tần suất. Với tư cách là một nhà báo ở Đài Loan, mỗi ngày chúng tôi đều nhận được thông cáo của bộ Quốc Phòng cùng với bản đồ đường đi của chiến đấu cơ Trung Quốc quanh Đài Loan. Số lượng các vụ xâm nhập trung bình cũng tăng lên, trung bình mỗi ngày có 5 vụ xâm nhập của máy bay Trung Quốc kể từ đầu năm.
Điểm khác biệt thứ hai là quỹ đạo và loại máy bay Trung Quốc điều đến cửa không phận Đài Loan. Người ta nhận thấy máy bay Trung Quốc thường xuyên vượt quá đường trung tuyến, đường ranh giới ảo phân cách giữa một bên là đảo Đài Loan và bên kia là các bờ biển Trung Quốc, hoặc thậm chí đi qua hẳn phía đông của đảo Đài Loan.
Xin nói rõ là Đài Loan nằm ở phía đông bờ biển Trung Quốc, và cho đến lúc này máy bay Trung Quốc chỉ hoạt động ở phía tây đảo Đài Loan, và giờ thì họ thực sự bay qua cả phía đông Đài Loan đôi khi với một quỹ đạo theo kiểu bao vây".
Chiếm Đài Loan : Viễn cảnh còn xa ?
Trong bối cảnh này, cuộc bầu cử sẽ được tổ chức, với một cuộc đua gay gắt giữa ba ứng viên : Lại Thanh Đức (Lai Ching-te) của đảng Dân Tiến (DPP) – đảng chính trị của bà Thái Anh Văn, hiện đang dẫn đầu các thăm dò ; Hầu Hữu Nghi của Quốc Dân Đảng (KMT) và Triệu Thiểu Khang (Jaw Shaw Kong) thuộc đảng Nhân dân Đài Loan (NPP).
Phe đối lập vốn dĩ nhấn mạnh đến sự tiết chế trong các chính sách chống Trung Quốc, kêu gọi người dân chọn lựa giữa "chiến tranh và hòa bình", một khẩu hiệu đã được đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng lại trong các luận điệu tuyên truyền. Trong khi đó, đảng Dân Tiến của bà Thái Anh Văn đặt các cử tri trước thách thức "dân chủ và chuyên chế". Phe đối lập cho rằng thắng lợi của DPP còn đồng nghĩa với việc căng thẳng tiếp tục gia tăng.
Nhưng giới chuyên gia dường như có chung một nhận xét, ít có khả năng Trung Quốc tiến hành thành công xâm chiếm Đài Loan. Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia Đài Loan Cố Lập Hùng (Wellington Koo) hồi tháng 11/2023 tỏ ra nghi ngờ Trung Quốc có thể phát triển khả năng đổ bộ vào năm 2027 theo như cảnh báo từ đô đốc Philip Davidson, cựu chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ.
Bắc Kinh rõ ràng mong muốn một thắng lợi của Quốc Dân Đảng, nhưng có lẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong những năm 1995 – 1996, khi các vụ thử tên lửa hiếu chiến ở eo biển Đài Loan trước cuộc bầu cử đã làm gia tăng sự ủng hộ của cử tri cho chính phủ đảng Dân Tiến đầu tiên trên đảo. Thế nên, trong tháng 11 vừa qua, Bắc Kinh đã bắt đầu giảm các hoạt động quân sự.
Nếu nhìn từ góc độ này, việc xâm chiếm Đài Loan có vẻ đầy rủi ro. Thế nhưng, tướng Charles Brown, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ gần đây từng nghĩ rằng Tập Cận Bình không thực sự muốn đánh chiếm Đài Loan bằng vũ lực. Bắc Kinh có khả năng "sử dụng những cách khác để làm điều này".
Chiến lược của Trung Quốc
Hai nhà nghiên cứu Thiếu Ngọc Nguyên (Shaoyu Yuan) và Quân Tương (Jun Xiang) 3, trên trang mạng The Diplomat (02/12/2023) khẳng định Trung Quốc có thể dựa vào nhiều biện pháp phi quân sự, nhẹ nhàng hơn để tác động đến số phận hòn đảo, khi dần tìm cách tước đi quyền tự trị của Đài Loan khi phân tích ba chiến lược tiềm năng của Trung Quốc.
Điểm thứ nhất là tiến hành chiến tranh tâm lý nhằm thao túng công luận, tác động đến sự lựa chọn của cử tri trong cuộc bầu cử sắp tới. Tiếp đến là cưỡng ép kinh tế gây khó khăn cho Đài Loan tiếp cận các nền thị trường hoặc nguyên liệu thô quan trọng, buộc hòn đảo trả giá đắt về mặt kinh tế cho sự kháng cự và phải có những nhượng bộ chính trị. Và sau cùng là cô lập ngoại giao, gây khó khăn cho Đài Bắc trong việc đàm phán các thỏa thuận quốc tế, tham gia các diễn đàn toàn cầu hay đảm bảo quan hệ đối tác chiến lược, đồng thời gây áp lực buộc Đài Loan phải cân nhắc thống nhất với Hoa Lục theo điều khoản có lợi cho Bắc Kinh.
Về điểm này, thông tín viên đài RFI tại Đài Bắc Adrien Simorre nhắc lại một số vụ việc :
"Từ góc độ kinh tế, Trung Quốc đã cấm nhập khẩu một số sản phẩm nông nghiệp của Đài Loan trong những năm gần đây và tại một số vùng nông nghiệp của Đài Loan, gần như 100% sản lượng, chẳng hạn như một số loại trái cây được xuất sang sang thị trường Trung Quốc. Vì vậy, đây là một đòn giáng rất đau, gây khó khăn cho nông dân.
Ngoài ra, còn có chiến tranh tâm lý hoặc thông tin với việc đưa tin giả, các cuộc tấn công mạng, ví dụ như màn hình của một nhà ga ở Đài Loan hồi năm 2022 đã bị tấn công để phát sóng tuyên truyền của Trung Quốc. Hoặc như tại một hòn đảo nằm gần Trung Quốc hơn, dây cáp điện đã bị cắt và do đó người dân không có điện trong vài ngày và Đài Loan nghi ngờ Trung Quốc đứng sau hành động phá hoại này.
Ở cấp độ địa chính trị, Trung Quốc tiến hành gây áp lực to lớn nhằm cô lập Đài Loan. Ngay khi cờ Đài Loan xuất hiện trong một sự kiện quốc tế, Bắc Kinh yêu cầu ban tổ chức xóa bỏ hoàn toàn tất cả các biểu tượng của Đài Loan. Những điều này khiến một số người Đài Loan nói rằng chiến tranh trên thực tế đã bắt đầu từ đâu đó, ngay cả khi tất nhiên hiện tại không có xung đột ở cấp độ quân sự".
Dù vậy, nhiều nhà phân tích nhận định, bất kể là Quốc Dân Đảng hay đảng Dân Tiến giành thắng lợi thì vẫn sẽ có căng thẳng đáng kể trong khu vực và giữa đôi bờ eo biển. Thông tín viên đài RFI ở Đài Bắc giải thích tiếp :
"Trên thực tế, nhiều nhà quan sát thắc mắc giả như đảng đối lập thắng cử lần này thì có thực sự giúp giảm bớt căng thẳng hay không, bởi vì trên thực tế, dù đảng này ủng hộ việc nối lại quan hệ nhưng vẫn phản đối việc sáp nhập với Hoa lục, và đây rõ ràng là mục tiêu của Trung Quốc.
Ông Tập Cận Bình nhắc lại rằng "chúng ta không được để lại gánh nặng cho thế hệ sau" nên trên thực tế, ngay cả khi đảng này chủ trương nối lại quan hệ với Bắc Kinh thì vẫn ủng hộ việc tăng cường phòng thủ Đài Loan và mối quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ. Thực ra, tôi nghĩ rằng, ở Đài Loan nói chung, sau sự kiện Ukraine, thực sự không ai dám nói chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ không ra tay".
Hơn nữa, theo quan điểm của ông Christian Le Miere, Mỹ vẫn kiên quyết tăng cường khả năng phòng thủ cho Đài Loan và phát triển khả năng răn đe tổng hợp toàn diện trên khắp vùng Đông Á. Điều nghịch lý là người dân Đài Loan có thể không muốn xung đột nhưng họ ngày càng rời xa với khả năng thống nhất hòa bình, ít nhất là trong cuộc bầu cử lần này.
Do vậy, theo vị chuyên gia về chính sách đối ngoại người Anh này, bóng ma của một cuộc xâm lược quân sự vẫn sẽ còn. Bắc Kinh có thể đánh giá một chiến dịch chiếm đánh là không khả thi nhưng có thể dễ dàng gia tăng áp lực thông qua các biện pháp quân sự khác. Ngoài việc tăng cường các hoạt động tấn công vùng xám như tường thuật ở trên, thì Trung Quốc vẫn có thể tranh chấp đổ bộ lên các đảo ngoài khơi của Đài Loan trong vùng eo biển và ở Biển Đông, một chiến dịch như thế sẽ ít tốn kém hơn và có nhiều khả năng dẫn đến thành công hơn cho Trung Quốc.
Tóm lại, theo nhiều nhà phân tích, cuộc đấu tranh của người dân Đài Loan không chỉ giới hạn trên chiến trường, mà đó còn là một cuộc chiến cân não, trên thị trường và trong các phòng họp.
(The Straits Times, The Diplomat)
Minh Anh
Nguồn : RFI, 14/12/2023
Ghi chú :
1. Christian Le Miere, cố vấn chính sách đối ngoại, đồng thời là nhà sáng lập và chủ tịch Arcipel, một công ty tư vấn chiến lược có trụ sở tại Luân Đôn – Báo mạng The Straits Times ngày 09/12/2023
2. Kết quả cuộc thăm dò do trường đại học Quốc gia Chengchi (NCCU), Đài Loan, thực hiện – Trang mạng The Diplomat ngày 01/12/2023.
3. Thiếu Ngọc Nguyên (Shaoyu Yuan) và Quân Tương (Jun Xiang), là nhà nghiên cứu và giáo sư thuộc Khoa Các Vấn đề Toàn cầu, trường đại học Rutgers, bang New Jersey tại Mỹ.
Quân đội Đài Loan tham gia tập trận đa quốc gia tại Mỹ
Trọng Thành, RFI, 03/09/2023
Theo thông tin được đài Nhật Bản NHK tiết lộ hôm nay, 03/09/2023, Đài Loan cử quân nhân tham gia cuộc tập trận thường niên Northern Strike (Chiến dịch Phương Bắc) tại bang Michigan, miền đông bắc nước Mỹ.
Xe tăng CM-11 do Mỹ sản xuất khai hỏa trong cuộc tập trận quân sự "Han Kuang" (Han Glory) lần thứ 35 ở quận Bình Đông, miền nam Đài Loan vào ngày 30/08/2019 © Sam Yeh / AFP
NHK cho hay cuộc diễn tập đa quốc gia thường niên Northern Strike do Lực lượng Vệ binh Quốc gia bang Michigan tổ chức. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, mục tiêu của cuộc tập trận là nhằm huấn luyện và củng cố "năng lực tương tác giữa các lực lượng đồng minh". Cuộc diễn tập năm nay diễn ra từ ngày 23/07 đến ngày 19/08. Thông tin chi tiết về lực lượng Đài Loan chưa được tiết lộ.
Báo Đài Loan Taiwan News cho biết thêm, cuộc tập trận Northern Strike, thường bao gồm hai phần huấn luyện, trên không và trên mặt đất, được thiết kế để duy trì mức độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dự bị Hoa Kỳ. Đây là một trong những cuộc tập trận lớn nhất tại Mỹ. Northern Strike giúp đảm bảo lực lượng dự bị có khả năng tương tác với quân đội đồng minh giống như các lực lượng ở tiền tuyến.
Theo Detroit News, cuộc tập trận năm nay có sự tham gia của khoảng 7.000 binh sĩ từ 26 bang của nước Mỹ, và lực lượng dự bị từ bốn đối tác quốc tế. Ngoài Đài Loan, năm nay Latvia cũng tham gia. Theo Up North Live, một chi nhánh của ABC, "địa hình và khí hậu phía bắc bang Michigan tương tự như nhiều vùng của Trung Quốc và Nga".
Trong một phân tích đưa ra hồi tháng 3/2023, chuyên gia quân sự Mỹ Grant Newsham (Asia Times), nhận định "trong khoảng 40 năm qua, quân đội Đài Loan rất ít có các hoạt động phối hợp đáng kể với quân đội Mỹ, hoặc với bất cứ quốc gia nào khác". Gần đây Mỹ - Đài tổ chức hai cuộc diễn tập lực lượng lính thủy đánh bộ quy mô cấp trung đội, vào năm 2017 và vào năm 2021. Việc các đơn vị Đài Loan bắt đầu được huấn luyện tại Hoa Kỳ, cùng với Lực lượng Vệ binh Quốc gia bang Michigan, là "tin tức tốt lành", theo vị chuyên gia này. Số lượng binh sĩ Đài Loan được cử đến huấn luyện tại Mỹ có thể sẽ tăng lên quy mô cấp tiểu đoàn (với khoảng 600 quân) vào nửa cuối năm nay, theo một thông báo trên truyền thông Đài Loan hồi đầu 2023.
Trọng Thành
*************************
Đài Loan ủng hộ đối thoại giữa Vatican và Trung Quốc
Thanh Phương, RFI, 02/09/2023
Hôm 02/09/2023, Đài Loan tuyên bố ủng hộ những nỗ lực của Vatican để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, bày tỏ hy vọng là đối thoại giữa hai bên sẽ giúp giảm bớt "tình trạng suy thoái về quyền tự do tôn giáo và nhân quyền" ở Trung Quốc.
Tượng linh mục Dòng Tên người Ý Matteo Ricci, người xây dựng nhà thờ đầu tiên trong thời nhà Minh, ở lối vào của Nhà thờ Công giáo Nam Bắc Kinh, một nhà thờ Công giáo được chính phủ cho phép, ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 29/9/2018. Reuters – Jason Lee
Theo AFP, trong một thông cáo, Bộ Ngoại giao Đài Loan khẳng định : "Đất nước chúng tôi tôn trọng đầy đủ quyền tự do tôn giáo và ủng hộ các nỗ lực liên tục của Tòa thánh mở đối thoại với Trung Quốc để giải quyết các vấn đề tôn giáo của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc".
Hôm qua, khi phi cơ của ngài bay ngang qua Trung Quốc, giáo hoàng Francis đã gởi một bức điện với "những lời chúc tốt đẹp" đến chủ tịch Tập Cận Bình, kèm theo thông điệp "đoàn kết và hòa bình". Đáp lại thông điệp của giáo hoàng Francis, Bắc Kinh tuyên bố muốn "tăng cường sự tin cậy lẫn nhau" với Vatican và "thúc đẩy tiến trình cải thiện quan hệ song phương".
Vatican hiện là quốc gia duy nhất ở Châu Âu còn duy trì quan hệ ngoại giao với Đài Bắc và cho tới nay vẫn chưa thiết lập bang giao với Bắc Kinh. Trong khi đó Bắc Kinh vẫn xem Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc, sớm muộn gì cũng sẽ được thống nhất với Hoa lục, nếu cần sẽ dùng đến vũ lực.
Chuyến tông du của giáo hoàng Francis được xem là rất quan trọng trong tiến trình cải thiện quan hệ giữa Vatican với Trung Quốc. Nhưng việc cải thiện quan hệ giữa hai bên sẽ gây bất lợi cho Đài Loan, hiện đang mất dần các đồng minh ngoại giao vào tay Bắc Kinh. Hiện nay chỉ còn 13 quốc gia trên thế giới chính thức công nhận Đài Loan.
Thanh Phương
Hạ viện Mỹ thông qua dự luật chi tiêu quốc phòng kỷ lục
Reuters, VOA, 15/07/2023
Hạ viện Hoa Kỳ ngày 14/7 thông qua dự luật sâu rộng đề ra chính sách cho Bộ Quốc phòng, nhưng cơ hội để dự luật này trở thành đạo luật là không chắc chắn sau khi đảng Cộng hòa bổ sung một loạt sửa đổi mang tính bảo thủ.
Hạ viện Mỹ thông qua dự luật chi tiêu quốc phòng kỷ lục ngày 14/07/2023
Đạo luật ủy quyền quốc phòng năm tài khóa 2024, hay NDAA, đặt ra chính sách cho Ngũ Giác đài và cho phép chi tiêu 886 tỷ đô la, được thông qua với tỷ lệ 219-210 ở Hạ viện.
Dự luật ở Hạ viện bao gồm tăng lương cho các thành viên của quân đội, các sáng kiến để chống lại Trung Quốc và thêm 300 triệu đô la để hỗ trợ Ukraine đối phó với cuộc xâm lược của Nga.
Thượng viện dự kiến sẽ thông qua phiên bản NDAA của họ vào cuối tháng này, sau đó hai viện sẽ thương lượng để đưa ra phiên bản tương nhượng rồi biểu quyết vào cuối năm nay.
NDAA, một trong những đạo luật quan trọng duy nhất được Quốc hội thông qua hàng năm, được theo dõi chặt chẽ bởi nhiều ngành công nghiệp và các bên có lợi ích liên quan vì nó quyết định mọi thứ từ việc mua tàu và máy bay đến tăng lương cho binh lính và cách giải quyết các mối đe dọa địa chính trị.
Dân biểu Cộng hòa Marjorie Taylor Greene hôm 14/7 đã cảnh báo sẽ tìm cách xóa bỏ việc cho phép cấp tiền thêm cho Ukraine. "Đó là mục tiêu tối hậu của tôi," bà nói với báo chí. Tuy nhiên, các nhà đàm phán ở Thượng viện dự kiến sẽ tranh đấu hết mình để giữ lại khoản tài trợ đó.
(Reuters)
Nguồn : VOA, 15/07/2023
***********************
Mỹ cần tăng tốc giao vũ khí cho Đài Loan
Reuters, VOA, 15/07/2023
Mỹ và các đồng minh cần đẩy nhanh việc cung cấp vũ khí cho Đài Loan trong những năm tới để giúp hòn đảo này tự vệ, vị tướng hàng đầu của Hoa Kỳ kêu gọi hôm 14/7.
Tướng Mark Milley, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ
Hoa Kỳ là nhà cung cấp vũ khí quan trọng nhất của Đài Loan. Bắc Kinh đã nhiều lần yêu cầu dừng việc bán vũ khí của Hoa Kỳ cho Đài Loan, coi đó là sự hỗ trợ không chính đáng cho hòn đảo dân chủ mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.
"Tôi nghĩ tốc độ mà Hoa Kỳ hoặc các quốc gia khác hỗ trợ Đài Loan cải thiện khả năng phòng thủ có lẽ cần phải tăng tốc trong những năm tới", Tướng Mark Milley, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, nói với báo giới trong chuyến thăm Tokyo.
Ông Milley cho biết Đài Loan cần các vũ khí như hệ thống phòng không và những vũ khí có thể nhắm mục tiêu vào tàu từ đất liền.
"Tôi nghĩ điều quan trọng là quân đội Đài Loan và khả năng phòng thủ của họ phải được cải thiện," ông nói.
Kể từ năm ngoái, Đài Loan đã phàn nàn về sự chậm trễ trong việc chuyển giao vũ khí của Hoa Kỳ, chẳng hạn như tên lửa phòng không Stinger, khi các nhà sản xuất chuyển nguồn cung sang Ukraine trong lúc nước này chiến đấu chống Nga xâm lược. Vấn đề này đã khiến một số nhà lập pháp Hoa Kỳ lo ngại.
Đài Loan cho biết chi tiêu quốc phòng của họ trong năm nay sẽ tập trung vào việc chuẩn bị vũ khí và thiết bị cho một ‘cuộc phong tỏa toàn diện’ của Trung Quốc, bao gồm các bộ phận của máy bay chiến đấu F-16 và bổ sung vũ khí.
Trung Quốc đã tổ chức các cuộc tập trận xung quanh Đài Loan vào tháng 8, bắn tên lửa qua Đài Bắc và tuyên bố các vùng cấm bay, cấm tàu trong một cuộc mô phỏng cách họ sẽ tìm cách cắt đứt Đài Loan trong một cuộc chiến.
Trong những ngày gần đây, quân đội Trung Quốc đã thực hành các hoạt động phối hợp trên biển trước cuộc tập trận thường niên của Đài Loan vào cuối tháng này mà trong đó họ sẽ mô phỏng việc phá vỡ một cuộc phong tỏa của Trung Quốc.
Tướng Milley nói rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đang ở ‘điểm rất thấp’ và các cuộc gặp ngoại giao gần đây, bao gồm giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken và nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc Vương Nghị, rất quan trọng để giảm thiểu nguy cơ leo thang.
Ông Milley cho biết Hoa Kỳ đang xem xét liệu có cần thay đổi nơi đóng quân của một số lực lượng Hoa Kỳ ở Châu Á Thái Bình Dương hay không.
Phần lớn các lực lượng của Mỹ trong khu vực là ở Đông Bắc Á, bao gồm 28.500 quân ở Hàn Quốc và 56.000 quân ở Nhật Bản.
Tướng Milley nói : "Chúng tôi đang nghiêm túc xem xét các lựa chọn thay thế tiềm năng."
(Reuters)
Nguồn : VOA, 15/07/2023
Tại sao hầu hết người dân trên hòn đảo không muốn có một tuyên bố độc lập chính thức ?
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn phát biểu tại một cuộc mít tinh ở Đài Bắc, tháng 11/2022 - Ann Wang / Reuters
Đối với người dân Đài Loan, việc thống nhất với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ kém hấp dẫn như lúc này. Theo một cuộc khảo sát theo dõi của Đại học Quốc lập Chính trị, tỷ lệ cư dân Đài Loan muốn thống nhất ngay lập tức với đại lục luôn rất nhỏ, thường xuyên dưới 3%. Nhưng tỷ lệ phần trăm cho rằng Đài Loan cuối cùng nên tiến tới thống nhất – nghĩa là không nhất thiết phải thống nhất với chế độ Trung Quốc (cộng sản) hiện nay – đã giảm đáng kể, từ 20% năm 1996 xuống còn 5% ở thời điểm hiện tại. Trong hai cuộc bầu cử tổng thống vừa qua, Quốc Dân Đảng, đảng có truyền thống ủng hộ thống nhất, đã phải hứng chịu những thất bại nặng nề, cả hai lần đều không thể giành được 40% số phiếu bầu.
Cũng dễ hiểu vì sao thống nhất lại không được ưa chuộng. Trong bốn thập niên qua, Đài Loan đã chuyển mình thành một nền dân chủ tự do, khoan dung, đa nguyên trong khi Trung Quốc vẫn là một chế độ chuyên chế khắc nghiệt, phát triển một nhà nước giám sát xâm phạm quyền công dân, và còn tiến hành một cuộc diệt chủng nhắm vào chính người dân của mình. Thống nhất với Trung Quốc có nghĩa là chấm dứt gần như tất cả các quyền tự do chính trị mà Đài Loan khó khăn mới giành được, điều đã được thể hiện khi Trung Quốc cưỡng chế sáp nhập Hong Kong vào đại lục bất chấp lời hứa cho phép lãnh thổ này duy trì quyền tự trị theo một công thức gọi là "một quốc gia, hai chế độ". Nhiều, hoặc có lẽ là hầu hết, người dân Đài Loan sẽ không muốn thống nhất với Trung Quốc bất kể bản chất của chính phủ nước này. Bởi Đài Loan có lịch sử, văn hóa, bản sắc, và cảm giác tự hào dân tộc riêng.
Tuy nhiên, dù dữ liệu dư luận cho thấy rõ rằng đại đa số người dân Đài Loan không muốn bị Bắc Kinh cai trị, nhưng điều đó không có nghĩa là họ muốn tuyên bố độc lập chính thức. Trong cả công chúng và giới tinh hoa chính trị, định nghĩa nền độc lập đã phát triển đáng kể trong thế hệ vừa qua. Trong những thập niên trước, người ta tin rằng nền độc lập đòi hỏi một sự cắt đứt rõ ràng, chính thức với mọi ràng buộc pháp lý hoặc tuyên bố từ Trung Quốc. Nhưng ngày nay, một động thái như vậy được coi là không cần thiết. Đối với hầu hết mọi người, Đài Loan đã là một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, không chỉ đơn thuần là một hòn đảo tự trị tồn tại trong tình trạng lấp lửng. Không cần phải làm xáo trộn tình hình bằng cách tuyên bố độc lập chính thức, đặc biệt là vì Bắc Kinh chắc chắn sẽ có phản ứng dữ dội với một hành động như vậy. Và vì các chính trị gia Đài Loan phải đáp ứng được dư luận, giới tinh hoa chính trị ủng hộ độc lập phần lớn đã đi đến kết luận giống như người dân nước này ; thay vì thách thức nguyên trạng, hầu hết trong số họ đã quyết định rằng chẳng có khác biệt nào đáng kể giữa tình trạng lý tưởng và nguyên trạng – nên đây không phải là việc đáng để tranh đấu.
Con đường độc lập
Nhiều người phương Tây ngạc nhiên khi biết rằng nền độc lập của Đài Loan không chỉ bắt nguồn từ tình cảm chống Trung Quốc, và rằng nó không phải là một ý tưởng chỉ nảy sinh sau năm 1949 – thời điểm nhà lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch và một triệu rưỡi người ủng hộ ông chạy đến hòn đảo sau khi thua trong Nội chiến Trung Quốc. Năm 1895, khi Bắc Kinh nhượng Đài Loan cho Nhật Bản sau khi bị Tokyo đánh bại trong một cuộc chiến, cũng có tầm quan trọng như năm 1949. Ý thức về bản sắc dân tộc Đài Loan đã bắt đầu hình thành từ lúc đó, và đã có những lời kêu gọi tự trị và độc lập cho Đài Loan trong suốt thời kỳ là thuộc địa Nhật. Nhà hoạt động ủng hộ độc lập người Đài Loan Sử Minh thậm chí còn đẩy mốc thời gian đi xa hơn. Trong tác phẩm nổi tiếng năm 1962 của mình, Lịch sử 400 năm của Đài Loan, ông lập luận rằng Đài Loan đã là một quốc gia và xã hội riêng biệt kể từ khi người Hán di cư quy mô lớn đến hòn đảo này kể từ đầu những năm 1600. Đối với Sử Minh, lịch sử của Đài Loan được đánh dấu bằng những cuộc xâm lược và bóc lột lặp đi lặp lại của các thế lực ngoại bang khi người Hà Lan, Tây Ban Nha, những kẻ tranh giành ngai vàng của triều đại nhà Minh đang trên đà suy yếu, triều đại nhà Thanh, Nhật Bản, và Quốc Dân Đảng của Tưởng đều thiết lập các chế độ ở Đài Loan vì mục đích riêng – theo đó từ chối quyền kiểm soát vận mệnh của người dân Đài Loan.
Chế độ của Tưởng ở Đài Loan dựa trên ý tưởng rằng Trung Hoa Dân Quốc đã không thua trong nội chiến và vẫn là chính phủ chính danh của toàn bộ Trung Quốc. Dù Trung Hoa Dân Quốc đã định vị mình là một nền dân chủ, nhưng Quốc Dân Đảng không thể mạo hiểm trước các thách thức công khai đối với lập luận trên, và do đó, họ đã tuyên bố thiết quân luật. Các đại diện cấp quốc gia được giữ nguyên chức vụ mà không cần phải tái tranh cử, và chính phủ đã bịt miệng phe đối lập chính trị một cách có hệ thống. Quốc Dân Đảng kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước thông qua việc kiểm soát bộ máy nhà nước, đặc biệt là quân đội. Bất kỳ lời kêu gọi nào lấy Đài Loan làm trung tâm, đặc biệt là đòi độc lập cho Đài Loan, đều bị coi là sự chống đối trực tiếp đến tính chính danh của chế độ và đều bị đàn áp tàn nhẫn. Trong suốt thời kỳ chuyên chế của Quốc Dân Đảng, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là trở ngại chính đối với quyền lực chính trị và quyền tự trị của Đài Loan.
Kết quả là, những người theo chủ nghĩa dân tộc Đài Loan kết luận rằng, cách giải phóng người dân Đài Loan là phá bỏ toàn bộ cấu trúc chính trị này. Quốc Dân Đảng, Trung Hoa Dân Quốc, và bất kỳ mối quan hệ nào với Trung Quốc đều phải biến mất. Nhưng khi Đài Loan dân chủ hóa vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, những nhà hoạt động này phát hiện ra rằng tầm nhìn của họ chỉ có sức hấp dẫn hạn chế. Năm 1991, các quan chức lão thành cuối cùng đã bị buộc phải nghỉ hưu, và lần đầu tiên Đài Loan có thể bầu lại toàn bộ cơ quan đại diện cấp quốc gia vì mọi ghế đều trống trong Quốc hội, cơ quan có quyền bầu tổng thống và sửa đổi hiến pháp. (Cơ quan này sau đó đã bị bãi bỏ.) Đảng Dân Tiến – đảng đối lập chính của Quốc Dân Đảng – tự tin kêu gọi thay thế Trung Hoa Dân Quốc bằng một nước Cộng hòa Đài Loan chính thức độc lập. Đó là một thảm họa ; Đảng Dân Tiến chỉ giành được 23% số phiếu bầu. Phán quyết của cử tri là : tuyên bố độc lập chính thức là hành động quá cực đoan, và suốt một thế hệ sau đó, về chính trị, cả đất nước đều ngầm hiểu rằng, kêu gọi độc lập cho Đài Loan là "thuốc độc nơi thùng phiếu".
Tất nhiên, vào thời điểm đó, vẫn có khả năng Đài Loan cuối cùng sẽ thống nhất với đại lục. Suốt hàng chục năm, chế độ chuyên chế đã dạy người dân rằng sự thống nhất là đáng mong muốn và không thể tránh khỏi. Quá trình dân chủ hóa dần dần của Đài Loan không có sự tách biệt đột ngột với quá khứ, vì vậy Quốc Dân Đảng vẫn nắm quyền ngay cả sau khi người dân có thể bỏ phiếu, và những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc ủng hộ thống nhất vẫn giữ được ảnh hưởng lớn về văn hóa và chính trị. Trong khi đó, Trung Quốc đang trải qua kiểu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng mà Đài Loan đã trải qua trong nhiều thập niên trước đó – kiểu tăng trưởng đã giúp Đài Loan dân chủ hóa. Nhiều người Đài Loan tin rằng đại lục chắc chắn sẽ trải qua những cải cách chính trị tương tự với đất nước mình khi nền kinh tế của họ tiếp tục mở rộng. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc ở Đài Loan kỳ vọng rằng, một khi Trung Quốc thay đổi và hai quốc gia tái thống nhất, Đài Loan sẽ đóng một vai trò có ảnh hưởng (và có lẽ chiếm ưu thế) trong việc định hình tương lai chung của họ. Các phái đoàn không chính thức của hai bên thậm chí đã gặp nhau vào năm 1992 và 1993, thực hiện những bước đầu tiên để hướng tới việc thiết lập các kênh liên lạc thường xuyên. Câu hỏi chủ quyền vừa cho thấy niềm hy vọng về sự hợp tác thực tế, vừa minh chứng cho những khó khăn khi thỏa hiệp. Vì cả hai bên đều chấp nhận rằng không thể đưa ra một tuyên bố bằng văn bản, nên một cách không chính thức, các đại biểu đã đồng ý sẽ tự phát biểu theo ý mình trong sự kiện mà sau này (trớ trêu thay) được gọi là Đồng thuận năm 1992. Mỗi bên đều tuyên bố bằng miệng phiên bản của mình về nguyên tắc "một Trung Quốc", giả vờ không nghe thấy ý kiến của bên kia, và từ chối thừa nhận rằng có thể có một cách giải thích khác.
Nhưng niềm tin rằng hai bên sẽ dần dần trở nên tương đồng hơn và sẽ tiến tới một liên minh chính trị đồng thuận với nhau là một niềm tin bị đặt nhầm chỗ. Khi nền dân chủ của Đài Loan dần phát triển sâu rộng, những lời kêu gọi của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc ngày càng không được người dân trên đảo đón nhận. Đồng thời, thay vì dân chủ hóa khi trở nên giàu có và quyền lực hơn, Trung Quốc lại trở nên cứng nhắc và độc đoán hơn.
Tình hình sau Đồng thuận năm 1992 đã minh họa cho những hy vọng thất bại này. Sau khi thua Đảng Dân Tiến trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, Chủ tịch Quốc Dân Đảng Liên Chiến đã xây dựng lại đảng của mình với tầm nhìn làm cho Đài Loan trở nên giàu có, và đảm bảo hòa bình bằng cách hội nhập nền kinh tế của Đài Loan vào nền kinh tế của Trung Quốc. Để đảm bảo rằng các quan chức Trung Quốc sẵn sàng tiếp xúc với các đối tác Đài Loan của họ, Liên đã nghĩ ra một công thức dựa trên những gì hai bên được cho là đã đồng ý vào năm 1992 : "Một Trung Quốc, nhưng mỗi bên có cách giải thích của riêng mình". Các cử tri bình thường của Đài Loan đã được trấn an rằng hiện trạng sẽ được giữ nguyên, vì Đài Loan giải thích "một Trung Quốc" có nghĩa là Trung Hoa Dân Quốc. Công thức này đã đặt nền móng cho nhiệm kỳ tổng thống của chính khách Quốc Dân Đảng Mã Anh Cửu, thời kỳ diễn ra rất nhiều liên hệ chính thức với Trung Quốc và tương tác kinh tế. Nhưng Trung Quốc ngày càng nhấn mạnh rằng Đồng thuận năm 1992 đơn giản là có "một Trung Quốc" – tức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – và yêu cầu một tiến trình cụ thể hướng tới thống nhất. Họ không bao giờ thừa nhận phần "mỗi bên có cách giải thích của riêng mình" trong công thức, và vì vậy, thống nhất có nghĩa là Trung Hoa Dân Quốc không còn tồn tại. Điều này không chỉ bóp chết sự đồng thuận bằng cách tước đi tính mơ hồ hoặc linh hoạt, mà còn cho thấy rõ rằng Quốc Dân Đảng và Trung Hoa Dân Quốc không phải là đối tác bình đẳng – thậm chí không phải đối tác không bình đẳng – với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc xác định tương lai của Trung Quốc. Giấc mơ của Quốc Dân Đảng về việc tạo ra một Trung Quốc thống nhất hòa bình, thịnh vượng, và dân chủ đã hoàn toàn bị mất uy tín, và sự không tương thích giữa lập trường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với việc duy trì Trung Hoa Dân Quốc đã khiến thống nhất trở thành thứ thuốc độc mới nơi thùng phiếu.
Giữ nguyên trạng
Kể từ thất bại trong cuộc bầu cử năm 1991, Đảng Dân Tiến đã dần xa rời tuyên bố độc lập chính thức. Đến năm 2000, họ cho rằng Đài Loan đã là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, được đặt tên là Trung Hoa Dân Quốc, và không cần tuyên bố độc lập. Tổng thống Đài Loan hiện tại Thái Anh Văn, một thành viên Đảng Dân Tiến, đã phát triển ý tưởng về chủ quyền của Đài Loan một cách đầy đủ hơn : né tránh nền độc lập chính thức không phải là cách duy nhất khiến bà khác biệt với các nhà hoạt động đòi độc lập trước đó. Thái nhấn mạnh lịch sử chung, độc đáo của người dân Đài Loan, bao gồm cả giai đoạn "khủng bố trắng" (đàn áp bạo lực do chế độ chuyên chế của Quốc Dân Đảng thực hiện), bế tắc quân sự với Bắc Kinh, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, dân chủ hóa, thành tích thể thao, và thiên tai. Tuy nhiên, tầm nhìn của bà về người dân Đài Loan được xây dựng dựa trên 70 năm chứ không phải 400 năm trải nghiệm chung, vì vậy nó rõ ràng đã xem những người nhập cư thời hậu chiến như là một bộ phận cấu thành của dân số chứ không phải những kẻ thực dân. Bà thậm chí còn tự coi mình là người ủng hộ quân đội, thúc đẩy lại một thể chế từng là nền tảng của chế độ chuyên chế và là kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa dân tộc Đài Loan, xem quân đội như người bảo đảm cho sự toàn vẹn và chủ quyền của hòn đảo.
Ý tưởng của Thái đã không được lòng các nhà hoạt động vì độc lập truyền thống ; có rất nhiều người ủng hộ Đảng Dân Tiến mơ về một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập và cảm thấy hơi khó chịu khi bà tạo dáng với lá cờ Trung Hoa Dân Quốc. Nhưng quan điểm của bà là một quan điểm khá phù hợp với những gì mà hầu hết người dân Đài Loan mong muốn. Cuộc khảo sát của Đại học Quốc lập Chính trị về thái độ của công chúng đối với thống nhất và độc lập cho thấy, dù sự ủng hộ dành cho độc lập đã tăng lên theo thời gian, nhưng đa số người dân Đài Loan lại thích nguyên trạng hơn. Các cuộc thăm dò khác gợi ý rằng các cuộc khảo sát của Đại học Quốc lập Chính trị có thể đã đánh giá thấp mức độ ủng hộ nguyên trạng. Hai cuộc khảo sát sau bầu cử, một từ năm 1996 và một từ năm 2020, đã hỏi những người thích giữ nguyên hiện trạng liệu họ có ủng hộ thống nhất nếu các điều kiện chính trị, kinh tế, và xã hội ở Trung Quốc và Đài Loan là tương tự nhau (ví dụ, nếu Trung Quốc trở thành một nền dân chủ thịnh vượng), hoặc liệu họ có ủng hộ tuyên bố độc lập nếu hành động đó sẽ không kích động sự trả đũa từ Bắc Kinh. Tỷ lệ những người ủng hộ nguyên trạng sẵn sàng thống nhất, ngay cả trong những điều kiện giả tưởng trên đây, đã giảm mạnh từ 58% xuống 22%. Tỷ lệ những người ủng hộ nguyên trạng sẵn sàng tuyên bố độc lập được giữ ổn định, dao động từ 57% đến 54%.
Cả cuộc khảo sát theo dõi và phản hồi của những người ủng hộ nguyên trạng đều cho thấy rõ rằng : ngày nay có ít người muốn thống nhất hơn. Nhưng trước việc người ta ngày càng ủng hộ độc lập, điều quan trọng cần nhớ là ý nghĩa của nền độc lập đã thay đổi. Trên thực tế, một nghiên cứu năm 2020 cho thấy, hơn 70% người Đài Loan tin rằng đất nước của họ đã là một quốc gia có chủ quyền, và chỉ một phần rất nhỏ cảm thấy cần phải chính thức cắt đứt quan hệ với Trung Quốc. Do đó, sự ủng hộ ngày càng tăng đối với nền độc lập trong những thập niên vừa qua không nhất thiết chỉ ra rằng ngày càng có nhiều công dân kêu gọi tuyên bố độc lập.
Sự thay đổi quan điểm này không phải lúc nào cũng dẫn đến thành công trong bầu cử cho Đảng Dân Tiến. Trong hai cuộc bầu cử địa phương vừa qua, đảng này đã có kết quả thảm hại. Ngày 26/11, Thái buộc phải từ chức chủ tịch đảng sau khi Đảng Dân Tiến chỉ có thể thắng 5 trong số 22 cuộc bầu cử thị trưởng. Nhưng sẽ là một sai lầm nếu diễn giải những kết quả này là một sự thay đổi trong thái độ của công chúng : ủng hộ thống nhất, hoặc né tránh độc lập. Bầu cử địa phương chỉ xoay quanh các vấn đề của chính quyền địa phương như xây dựng đường xá, các chương trình phúc lợi và ứng phó với đại dịch – chứ không phải vấn đề Trung Quốc. Hiểu đúng nhất, hầu hết các cuộc bỏ phiếu này là các cuộc trưng cầu dân ý về thành tích của những thành viên Quốc Dân Đảng đương nhiệm đang tái tranh cử. Đáng chú ý, chủ quyền hoặc cách đối phó với Trung Quốc hầu như không có trong các cuộc thảo luận sau bầu cử của Đảng Dân Tiến về lý do dẫn đến kết quả tranh cử tồi tệ. Tương tự, không ai trong Quốc Dân Đảng tuyên bố rằng kết quả này có nghĩa là họ không còn phải lo lắng về việc bị tấn công với tư cách là một đảng ủng hộ thống nhất.
Dù Thái Anh Văn có thể không còn là chủ tịch đảng, nhưng tầm nhìn lớn của bà về tương lai Đài Loan – đưa Đài Loan vào cộng đồng dân chủ quốc tế, củng cố quân đội của đất nước và tăng cường hợp tác với các quân đội khác, dần dần đa dạng hóa nền kinh tế của Đài Loan, theo đuổi các chính sách phúc lợi xã hội tiến bộ, bảo vệ chủ quyền của Đài Loan, và một loạt các biện pháp khác – vẫn không bị thách thức bên trong nội bộ Đảng Dân Tiến. Trung Quốc chắc chắn sẽ xuất hiện trong cuộc bầu cử tổng thống và cơ quan lập pháp vào năm 2024. Trừ phi Đảng Dân Tiến liều lĩnh theo đuổi nền độc lập chính thức và đánh mất vị trí thống trị của mình với tư cách là người bảo vệ hiện trạng, nếu không thì một lần nữa đảng này sẽ có lợi thế bầu cử rõ rệt.
Nathan F. Batto
Nguyên tác : "Taiwan Is Already Independent," Foreign Affairs, 12/12/2022
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 16/12/2022
Nathan F. Batto là Nghiên cứu viên tại Viện Khoa học Chính trị, Academia Sinica, Đài Loan.
Nếu như thế giới phụ thuộc vào chip bán dẫn của Đài Loan thì hòn đảo này lại phụ thuộc nặng nề vào năng lượng nhập khẩu (90%). Căng thẳng tại eo biển Đài Loan dấy lên mối lo ngại về việc gián đoạn nguồn cung ứng cho thế giới về chất bán dẫn, nhưng nếu không có điện thì làm sao các nhà máy sản xuất được chip bán dẫn. Đối với Đài Loan, mối lo ngại làm sao tự chủ năng lượng có lẽ đứng trước các đơn hàng sản xuất chất bản dẫn.
Hình ảnh minh họa chip bán dẫn. © AFP
RFI xin giới thiệu bài phân tích trênThe Diplomat ngày 13/09/2022
Chuyến thăm của chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đến Đài Bắc vào đầu tháng 8, bất chấp phản đối của Bắc Kinh khiến căng thẳng trên eo biển Đài Loan leo thang. Trung Quốc tăng cường các cuộc tập trận, tiến sâu hơn, vượt qua đường trung tuyến không chính thức giữa Đại Lục và Đài Loan, gây bất ổn và đe dọa an ninh khu vực. Trung Quốc cũng đã đưa hàng trăm mặt hàng nhập khẩu từ Đài Loan vào danh sách cấm, hạn chế giao thương với hòn đảo.
Bắc Kinh cho biết các cuộc thao dượt bắn đạn thật, với quy mô chưa từng có là để thực hiện các hoạt động "phòng thủ" và "phong toả". Một số chuyên gia dự đoán rằng việc phong toả hoàn toàn Đài Loan khó có thể xảy ra, trừ khi Trung Quốc quyết chiếm Đài Loan bằng vũ lực, nhưng đây chỉ là phương kế cuối cùng vì Bắc Kinh cũng có thể phải chịu hậu quả nặng nề. Một số khác thì cho rằng Trung Quốc có thể phong toả các tuyến giao thông hàng không và hàng hải của Đài Loan nếu căng thẳng leo thang, hoặc phong toả có chọn lọc một số mặt hàng, làm suy yếu nền kinh tế Đài Loan, nhất là năng lượng.
Sự phụ thuộc lẫn nhau kinh tế - chính trị
Trước tiên, phải nói rằng Đài Loan vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, ngay cả khi Trung Quốc không ngừng đe dọa xâm lược, theo The Diplomat. Vào năm 2020, Đài Loan là nền kinh tế lớn thứ 22 trên thế giới và là nhà xuất khẩu đứng thứ 15 toàn cầu. Theo số liệu của viện nghiên cứu Chung-Hua Institution for Economic Research, kinh tế hòn đảo phục hồi nhanh sau đại dịch Covid-19. GDP tăng mạnh, từ 3,3% vào năm 2020 lên đến 6,5% năm 2021. Trong khi đó, cùng giai đoạn, kinh tế của Hoa Kỳ và Châu Âu lại suy giảm. Việc xuất khẩu chất bán dẫn chiếm khoảng 38% tổng xuất khẩu của Đài Loan. Các nhà sản xuất chip lớn như TSMC, UMC và các hãng khác đã giúp nền kinh tế Đài Loan vượt qua khủng khoảng.
Sự thịnh vượng của nền kinh tế Đài Loan phụ thuộc vào môi trường địa chính trị ổn định, đặc biệt là sự ổn định trên eo biển Đài Loan, ngăn cách hòn đảo với Hoa Lục - đối tác thương mại lớn của Đài Bắc. Về mặt địa chính trị, Đài Loan đặc biệt quan trọng không chỉ vì vị trí địa lý chiến lược, nằm trong chuỗi đảo đầu tiên, bảo đảm quyền tiếp cận ‘đi đến’ và ‘từ’ Tây Thái Bình Dương, mà còn vì thế giới phụ thuộc vào nguồn cung chất bán dẫn tiên tiến. Từ những chiếc Iphone cho đến các hệ thống phỏng thủ tiên tiến đều sử dụng chất bán dẫn. Nhu cầu về các sản phẩm điện tử tăng cao trong đại dịch đã gây ra tình trạng thiếu chip bán dẫn toàn cầu và buộc các nhà sản xuất ô tô hay các doanh nghiệp khác bị chậm lại, thậm chí phải ngừng sản xuất.
Nền kinh tế và khả năng sản xuất của hòn đảo phụ thuộc lớn vào nguồn cung ứng năng lượng ổn định và đáng tin cậy. Đài Loan sản xuất khoảng 65% chất bán dẫn của toàn thế giới, và khoảng 90% các loại chip tiên tiến nhất. Việc sản xuất các sản phẩm này tiêu thụ rất nhiều điện năng. Năm 2020, chỉ riêng tập đoàn TSMC đã chiếm 6% tổng điện năng tiêu thụ và có thể lên đến 12,5% vào năm 2025 nếu doanh nghiệp này tiếp tục xây dựng thêm các cơ sở sản xuất chip mới.
Những bất cập khiến Đài Loan khó tự chủ năng lượng
Đảo Đài Loan không có kết nối điện với các nước láng giềng. Thêm vào đó, hòn đảo cũng không có nhiều tài nguyên năng lượng. Thuỷ điện bị hạn chế vì thiếu hệ thống sông ngòi phù hợp. Điện lượng mặt trời khó có thể phát triển vì thiếu quỹ đất. Năng lượng địa nhiệt thì bị hạn chế vì địa điểm không phù hợp để xây dựng, cũng như những ý kiến từ dư luận. Đài Loan cũng không có nguồn nhiên liệu hóa thạch. Năng lượng hạt nhân và điện gió ở biển bị phản đối.
Ông Mark Williams, nhà kinh tế trưởng khu vực Châu Á tại Capital Economics, cho biết Đài Loan gần như có thể tự túc được các mặt hàng như gạo, thịt lợn và rau củ quả, the Wall Street Journal trích dẫn. Tuy nhiên, chỉ với 12% năng lượng được sản xuất trên hòn đảo, Đài Loan phụ thuộc vào việc nhập khẩu. Do chỉ có một số nhà cung cấp quen thuộc nên chuỗi cung ứng năng lượng của hòn đảo được cho là khá mong manh.
Năm 2021, Đài Loan nhập khẩu 43% dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ, 31% than đá và 18% khí đốt tự nhiên hóa lỏng. Dầu mỏ và các sản phầm từ dầu mỏ chủ yếu nhập từ Trung Đông. Úc là nhà cung cấp than đá lớn nhất của hòn đảo. Đồng minh của Trung Quốc , là Nga cung cấp 1% than và 10% khí đốt hóa lỏng (hợp đồng khí đốt giữa Đài Loan và Nga đã kết thúc vào tháng 3 /2022). Mỹ cung cấp khoảng 20% dầu thô và 10% khí đốt tự nhiên.
Kho dự trữ yếu kém
Các lỗ hổng trong hệ thống năng lượng của Đài Loan là mối quan ngại thường trực. Mặc dù chính phủ Đài Loan đã đưa ra các yêu cầu đặc biệt về các kho dự trữ năng lượng, nhưng lượng dự trữ dầu và than đá của hòn đảo tương đối thấp. Do đó, hệ thống năng lượng của Đài Loan khó có thể phục hồi nhanh, trước các nguy cơ bị gián đoạn nguồn cung. Theo Cục Năng lượng, thuộc Bộ Kinh tế Đài Loan, các kho dự trữ hiện đang cao hơn yêu cầu tối thiểu, nhưng không đáng kể : 39 ngày than, 146 ngày dầu và 11 ngày khí đốt tự nhiên. Nếu Trung Quốc phong tỏa toàn bộ hoặc thậm chí một phần, nền kinh tế Đài Loan sẽ phải chịu thiệt hại nghiêm trọng sau 11 ngày. Vì khí đốt tự nhiên chiếm khoảng 37% sản lượng điện, sản xuất điện từ dầu là không đáng kể, than đá trở thành nguồn cung cấp năng lượng cơ bản, kể từ khi Đài Loan lên kế hoạch loại bỏ dần các nhà máy điện hạt nhân.
Lưới điện Đài Loan vốn đã không ổn định
Nguồn cung điện ổn định cực kỳ quan trọng đối với ngành công nghiệp sản xuất ở Đài Loan, đặc biệt là ngành công nghiệp bán dẫn. Đài Loan đã phải trải qua tình trạng mất điện thường xuyên do gặp trục trặc ở đường dây cấp điện và trạm biến áp, thường là do cơ sở hạ tầng điện tập trung và cũ. Theo báo cáo gần đây nhất, TSMC lưu ý rằng nguy cơ mất điện hoặc gián đoạn đang tăng cao và tình trạng bất ổn của lưới điện có thể ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trên hòn đảo trong vòng 3 năm tới.
Rủi ro cho kinh tế Đài Loan
Một số bằng chứng đã chỉ ra rằng các hoạt động cua Trung Quốc có thể bắt đầu ảnh hưởng đến các dự án năng lượng lớn ở Đài Loan. Một số tổ chức tài chính quốc tế đã rút đầu tư khỏi dự án điện gió ngoài khơi được xây dựng ở bờ tây của Đài Loan. Các tổ chức khác thì đang đánh giá mức độ rủi ro nếu đầu tư vào các dự án ở hòn đảo. Những hành động của Trung Quốc đã làm nổi bật các điểm yếu của nền kinh tế Đài Loan, trước nguy cơ các tuyến đường hàng không và hàng hải bị gián đoạn.
Ủy ban Joint War Comitee gồm các công ty bảo hiểm, có trụ sở ở Luân Đôn, Anh Quốc, chuyên phân loại các vùng biển trên thế giới theo mức độ rủi ro. Theo tổ chức này, mặc dù một số đã chọn đi đường vòng, qua vùng biển phía đông của Đài Loan, nhưng hành động gây hấn của Trung Quốc vẫn chưa được xem là nguyên nhân khiến vùng biển Đài Loan tăng rủi ro. Tuy nhiên nếu tình trạng quân sự hóa gia tăng, mức độ rủi ro sẽ thay đổi.
Đài Loan "mất điện" – thảm họa của thế giới ?
Nếu Trung Quốc phong toả, hoặc gia tăng các cuộc tập trận trong không phận và các tuyến hàng hải xung quanh Đài Loan, các hoạt động xuất khẩu có thể bị chậm trễ hoặc gián đoạn, liên quan đến các mặt hàng như thực phẩm, năng lượng, khoáng sản và những sản phẩm thiết yếu khác, duy trì nền kinh tế Đài Loan. Trung Quốc cũng có thể áp dụng phong toả có chọn lọc, tức là chỉ cho phép một số mặt hàng có thể ra – vào Đài Loan. Nếu các hãng hàng không và các công ty vận chuyển bị buộc phải tìm đường thay thế, thì việc vận chuyển không những bị chậm trễ mà chi phí vận chuyển và bảo hiểm hàng hóa cũng bị đẩy lên cao, không chỉ ở Ấn Độ Dương mà trên toàn thế giới. Tầm quan trọng của Đài Loan trong thương mại toàn cầu, đặc biệt là trong ngành điện tử, liên quan đến chất bán dẫn, nếu bị gián đoạn, có thể trở thành thảm hoạ của thế giới.
The Diplomat kết luận rằng Đài Loan nên xem xét lại các chính sách năng lượng, đa dạng hóa nguồn cung, phát triển các kế hoạch dự trữ cũng như chính sách về điện hạt nhân.
Theo Jeff Kucharski
Minh Anh, RFI, 23/05/2022
Trung Quốc hôm 23/05/2022, lưu ý tổng thống Mỹ Joe Biden "không nên xem nhẹ quyết tâm" của Bắc Kinh trong việc "bảo vệ chủ quyền". Chính quyền Bắc Kinh đã có phản ứng cứng rắn ngay sau khi nguyên thủ Mỹ tuyên bố cam kết bảo vệ Đài Loan bằng quân sự trong trường hợp bị quân đội tấn công.
Trung Quốc muốn thôn tính Đài Loan bằng vũ lực. DW
Như vậy, theo AFP, với tuyên bố như trên trong cuộc họp báo chung với thủ tướng Nhật tại Tokyo, hôm nay, Hoa Kỳ đã phá vỡ chính sách mập mờ duy trì từ bao lâu nay. Nguyên thủ Mỹ nói rõ : "Hoa Kỳ đồng tình với chính sách một nước Trung Hoa duy nhất, Hoa Kỳ đã ký kết điều đó nhưng việc Đài Loan có thể bị chiếm lấy bằng vũ lực đơn giản là không phù hợp". Và chủ nhân Nhà Trắng cho rằng "Trung Quốc đang tỏ ra nguy hiểm khi cho bay quá gần không phận Đài Loan và với tất cả các cuộc tập trận mà họ đang tiến hành".
Ngay tức thì, Trung Quốc đã có phản ứng mạnh mẽ. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, Uông Văn Bân (Wang Wenbin), tuyên bố : "Không ai nên xem nhẹ quyết tâm cứng rắn, ý chí mạnh mẽ và năng lực hùng mạnh của dân tộc Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ".
Trong buổi họp báo, đại diện Bộ Ngoại giao tuyên bố "Trung Quốc yêu cầu Mỹ tránh đưa ra những tín hiệu xấu cho lực lượng đòi độc lập" ở Đài Loan.
Tuy nhiên, cũng trong buổi họp báo này, tổng thống Mỹ Biden cho biết thêm đang nghiên cứu khả năng dỡ bỏ các hàng rào thuế quan nhắm vào hàng hóa Trung Quốc khi viện dẫn rằng những biện pháp này không do chính quyền của ông áp đặt.
Minh Anh
*********************
Tổng thống Biden nói sẽ sẵn sàng sử dụng vũ lực để bảo vệ Đài Loan
VOA, 23/05/2022
Hôm 23/5, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden cho biết ông sẽ sẵn sàng sử dụng vũ lực để bảo vệ Đài Loan, theo Reuters.
Tổng thống Biden nói sẽ sẵn sàng sử dụng vũ lực để bảo vệ Đài Loan
Khi một phóng viên hỏi Tổng thống Biden trong cuộc họp báo chung với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida rằng liệu Hoa Kỳ có bảo vệ Đài Loan nếu hòn đảo này bị tấn công hay không, tổng thống Biden trả lời : "Có".
"Đó là cam kết mà chúng tôi đã thực hiện", ông Biden nói.
"Chúng tôi đồng ý với chính sách một Trung Quốc. Chúng tôi đã ký vào đó và tất cả các thỏa thuận dự định được thực hiện từ đó".
Ông Biden nói thêm rằng ông không mong muốn một sự kiện như vậy sẽ xảy ra hoặc cố làm như vậy.
Một quan chức Nhà Trắng sau đó cho biết không có thay đổi nào về chính sách đối với Đài Loan. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết Hoa Kỳ không nên bảo vệ nền độc lập của Đài Loan.
Vào tháng 10 năm ngoái, ông Biden đã đưa ra phát biểu tương tự về việc bảo vệ Đài Loan. Vào thời điểm đó, người phát ngôn của Nhà Trắng cho biết ông Biden không công bố bất kỳ thay đổi nào trong chính sách của Hoa Kỳ.
Bất chấp việc Nhà Trắng nhấn mạnh rằng phát biểu hôm 23/5 không đại diện cho sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ, ông Grant Newsham, một đại tá Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã nghỉ hưu và hiện là nghiên cứu viên tại Diễn đàn Nghiên cứu Chiến lược Nhật Bản, cho biết hàm ý này rất rõ ràng.
Ông Newsham nói : "Tuyên bố này đáng được thực hiện một cách nghiêm túc". Ông nói thêm : "Đó là một tuyên bố đủ rõ ràng rằng Hoa Kỳ sẽ không ngồi yên nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan".
Trong chuyến công du Châu Á này, ông Biden cũng dự kiến gặp các nhà lãnh đạo của Ấn Độ và Australia - những thành viên khác của Bộ tứ (Quad), một nhóm an ninh không chính thức được thành lập để chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.