Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. (Ảnh : Đăng Khoa)
Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm "cộng đồng chung vận mệnh" bằng "xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai" cho hai nước.
Không ai hiểu thâm ý của ông Tập về thay đổi ngôn từ này, nhưng nội dung vẫn hàm ý đặt Việt Nam vào trong "quỹ đạo" chiến lược toàn cầu của Trung Quốc, theo sáng kiến của nguyên Tổng bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào năm 2007.
Do đó, Tuyên bố chung đã viết : "Kế thừa và phát huy truyền thống hữu nghị "mối tình thắm thiết Việt - Hoa, vừa là đồng chí, vừa là anh em", tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, hai bên nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại".
Được đà, phía Việt Nam cam kết : "Ủng hộ việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại, Sáng kiến Phát triển toàn cầu, Sáng kiến An ninh toàn cầu và Sáng kiến Văn minh toàn cầu".
Hai bên còn cam kết : "Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng, lý tưởng niềm tin tương thông, con đường phát triển gần gũi, cùng chung chí hướng, chia sẻ tương lai chung, đều nỗ lực vì nhân dân hạnh phúc và đất nước giàu mạnh" (Chính phủ online, 13/12/2023).
Từ lâu, Việt Nam đã ngần ngại "gia nhập" sáng kiến "cộng đồng chung vận mệnh" do Bắc Kinh lãnh đạo vì tính lệ thuộc công khai của nhóm chữ. Nhưng lần này nhóm chữ "xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai" giữa hai nước được thay thế cho thấy tính "lệ thuộc" của Việt Nam vào Trung Quốc không thay đổi.
Hơn ai hết, người Việt Nam vẫn chưa quên những kinh nghiệm đau thương của 4 ngàn năm Việt Nam bị Bắc thuộc khiến nhiều người Việt Nam hoài nghi nhiều hơn thiện cảm với láng giếng khổng lồ Trung Quốc.
Lào, Campuchia, Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Brunei, Malaysia, và Indonesia đã tham gia "cộng đồng" này. Tuy nhiên, Singapore và Philippines còn đứng ngoài.
Vành đai Con đường
Nhưng lý do được nhắc lại cam kết cũ có vẻ như "vội vàng" lần này trong chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình, cho thấy phía Trung Quốc muốn hối thúc Việt Nam gia nhập sáng kiến "Vành đai và con đường" trong khuôn khổ "Hai hành lang, Một vành đai" do ông Tập đưa ra từ tháng 9/2013 trong chuyến thăm Kazakhstan.
Nhưng ai có lợi trong liên kết này ? Tất nhiên cái lợi nghiêng về phía Trung Hoa cả về kinh tế lẫn quốc phòng. Do đó, Bắc Kinh đã vuốt ve Việt Nam bằng cách nói trong Tuyên bố Chung rằng : "Phía Trung Quốc nhấn mạnh kiên trì chính sách hữu nghị với Việt Nam, coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng".
Phía Việt Nam đã đáp lễ khi : "Khẳng định luôn coi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam".
Trong thực tế, Việt Nam đã nhượng bộ Trung Quốc khi đồng ý cùng xây dựng "Hai hành lang, một vành đai" và "Vành đai và Con đường" … "Thúc đẩy kết nối đường sắt khổ tiêu chuẩn qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc, nghiên cứu thúc đẩy xây dựng đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, nghiên cứu về các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Đồng Đăng – Hà Nội, Móng Cái – Hạ Long – Hải Phòng vào thời điểm phù hợp".
Hai nước cũng : "Đẩy nhanh việc thúc đẩy kết nối xây dựng cơ sở hạ tầng biên giới, trong đó có xây dựng Cầu đường bộ qua sông Hồng thuộc khu vực biên giới Bát Xát (Việt Nam) - Bá Sái (Trung Quốc)".
Giao thông biên giới
Quan hệ chung biên giới dài 1449,566 km, đã giúp hai nước nối liền giao thông bằng đường sắt và đường bộ giữa và các tỉnh Tây Nam Trung Quốc với cảng Hải Phòng, Việt Nam.
Nhưng sau 15 năm giao hảo ở mức "chiến lược toàn diện", hai nước vẫn còn nhiều cách biệt về tăng cường vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam và mức nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan thì : "Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 175,65 tỷ USD, tăng 5,89% so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 57,7 tỷ USD, tăng 3,02% so với năm 2021. Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc hàng hóa trị giá 117,95 tỷ USD, tăng 7,35% so với năm 2021" (Tạp chí Công Thương, 13/10/2023).
Về phương diện địa lý, "7 tỉnh của Việt Nam từ Tây sang Đông là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh có biên giới với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây của Trung Quốc" (Bách khoa Toàn thư mở).
Mục đích của Trung Quốc là sử dụng đường giao thông huyết mạch này để xuất, nhập khẩu hàng hóa vì các tỉnh phía Nam và Tây Nam Trung Quốc không có đường ra biển.
Vì vậy, từ Việt Nam đã có quan ngại giao thông biên giới có lợi cho Trung Quốc hơn Việt Nam, nếu xẩy ra chiến tranh giữa hai nước. Lo ngại này không phải không có lý, sau khi Bắc Kinh lập lại tư tưởng "cộng đồng chung vận mệnh" để thúc đầy Việt Nam thỏa hiệp với Trung Quốc. Bằng chứng này đã thể hiện tại Hội nghị "Vành đai và con đường" giữa các nhà đầu tư từ ngày 17 đến 20/10/2023 tại Bắc Kinh.
Phái đoàn Việt Nam do ông Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước cầm đầu đã : "Khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi việc củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam".
"Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng khẳng định Trung Quốc luôn coi Việt Nam là phương hướng ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc" (Tuổi Trẻ online, 20/10/2023).
Biển Đông thứ yếu
Ông Tập nói vậy, nhưng ông đã phớt lờ những xung đột với Việt Nam ở Biển Đông. Trong Tuyên bố chung, hai nước cho biết : "Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực".
"…Nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, tăng cường cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc và các nhóm công tác trực thuộc ; tích cực tìm kiếm các biện pháp giải quyết cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, phù hợp với "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc", luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982)".
Trong cuộc họp với ông Tập, Chủ tịch nhà nước Việt Nam, Võ Văn Thưởng đã kêu gọi Trung Quốc gia tăng nhập khẩu hàng hóa, nông sản Việt Nam, đòng thời đề nghị : "Hai bên cần nỗ lực kiểm soát hiệu quả và xử lý thỏa đáng bất đồng trên biển, tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, cùng các nước liên quan xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển".
Nhưng ông Tập Cận Bình không trả lời vấn đề Biển Đông, ngược lại đã : "Đề nghị hai bên tăng cường kết nối sáng kiến "Vành đai và con đường" với khuôn khổ "Hai hành lang, Một vành đai", xây dựng quy hoạch hợp tác cụ thể".
Rõ ràng họ Tập chỉ muốn bàn đến vấn đề có lợi cho Bắc Kinh, nhưng liệu Việt Nam có cưỡng lại được không ?
Trước ngày ông Tập đến Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, ông Vương Nghị đã thăm Việt Nam ngày 1/12 (2023). Tại Hà Nội, họ Vương cũng khuyến nghị : "Hai bên tăng cường kết nối chiến lược giữa sáng kiến "Vành đai, Con đường" với khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" (VoV.vn, 1/12/2023).
Như vậy, âm mưu khống chế Việt Nam của Trung Quốc đã rõ ràng. Chuyến thăm Việt Nam trong hai ngày 12 và 13/12/2023 của ông Tập Cận Bình đã xiết cổ Việt Nam vào với Trung Quốc hơn bao giờ hết.
Phạm Trần
(13/12/2023)
Việt Nam - Trung Quốc cam kết tăng cường hợp tác chiến lược toàn diện, quản lý bất đồng ở Biển Đông
RFA, 01/12/2023
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đang ở thăm Việt Nam đã có các cuộc gặp với lãnh đạo cấp cao ở Hà Nội trong hai ngày qua để thảo luận một loạt các vấn để về hợp tác, cam kết tăng cường hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Ngoại trưởng Vương Nghị và Phó thủ tướng Trần Lưu Quang ở Hà Nội hôm 1/12/2023 - AFP
Truyền thông Nhà nước Việt Nam cho biết, ông Vương Nghị đã có các cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Thanh Sơn, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Võ Văn Thưởng và Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản VN Lê Hoài Trung.
Tại các cuộc gặp này, hai bên đã đánh giá cao những thành tựu đạt được trong quan hệ hai nước trong suốt 15 qua sau khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, mức cao nhất trong quan hệ ngoại giao song phương mà Việt Nam có được với các nước khác.
Theo Tuổi Trẻ, tại cuộc gặp với ông Lê Hoài Trung hôm 2/12, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tin tưởng với định hướng của lãnh đạo cao nhất, hai nước sẽ vượt qua mọi thách thức, thúc đẩy sự nghiệp của mỗi nước phát triển, đóng góp vào phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới.
Ông Trung khẳng định sự coi trọng cao độ và ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc, nhấn mạnh ý nghĩa định hướng chiến lược lâu dài của quan hệ hai Đảng và lãnh đạo cao nhất hai Đảng đối với sự phát triển của quan hệ hai nước trong thời kỳ mới.
Tại cuộc gặp với người đồng cấp Bùi Thanh Sơn hôm 1/12, hai bên thảo luận các vấn đề bao gồm việc Việt Nam đề nghị Trung Quốc tiếp tục mở rộng nhập khẩu hàng hóa, nông thủy sản của Việt Nam ; tăng cường kết nối hạ tầng giao thông, nhất là đường sắt và đường bộ.
Hai bên cũng thảo luận các vấn đề biên giới lãnh thổ, vấn đề Biển Đông. Truyền thông Nhà nước Việt Nam cho biết hai bên nhất trí thực hiện tốt nhận thức chung cấp cao về kiểm soát và xử lý thỏa đáng bất đồng trên biển, không để ảnh hưởng đến đà phát triển tốt đẹp của quan hệ hai Đảng, hai nước.
Tờ China Daily của Trung Quốc dẫn lời ông Vương Nghị thúc giục Việt Nam tiếp tục cải thiện lòng tin giữa hai nước, duy trì tham vấn và giữ gìn hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Theo truyền thông Việt Nam, tại cuộc gặp giữa hai bộ trưởng ngoại giao, hai bên cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ, thúc đẩy và phối hợp chuẩn bị chu đáo cho các hoạt động giao lưu, tiếp xúc cấp cao và các cấp trong thời gian tới.
Theo dự kiến, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ tới Việt Nam trong tháng này.
RFA, 02/12/2023
*************************
RFA, 01/12/2023
Khi tiếp đoàn đại biểu Ủy ban Chính pháp Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc hôm cuố tháng 11/2023, Trưởng Ban Nội chính Trung ương - Phan Đình Trạc đã đưa ra đề nghị phía Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam trong đào tạo cán bộ chuyên ngành nội chính, pháp luật, phòng, chống tham nhũng...
Courtesy dcs.vn
Đề nghị trên của ông trưởng ban Nội chính gặp không ít sự "tranh luận" của giới thạo tin trong và ngoài nước. Hôm 1/12, khi được hỏi về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ ở Na Uy nói với RFA :
"Có hai vấn đề trong câu chuyện này. Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn sao chép mô hình chính trị từ Trung Quốc từ rất lâu. Việc đề xuất nhờ đào tạo cán bộ chống tham nhũng là một bước trong quá trình sao chép chính sách và kinh nghiệm xây dựng mô hình chính trị từ nước láng giềng".
Thứ hai, việc đưa ra một lời kêu gọi như vậy đồng nghĩa với việc Việt Nam gửi đi một thông điệp về phía Trung Quốc rằng chúng tôi vẫn luôn ngưỡng mộ và học hỏi mô hình của các anh, và chúng tôi sẽ tiếp tục ở trong quỹ đạo của các anh".
Ngoài việc nhờ "đồng chí tốt" hỗ trợ phòng, chống tham nhũng, ông Phan Đình Trạc còn yêu cầu hai nước VN-TQ tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin, ủng hộ quan điểm, lập trường tại các diễn đàn đa phương về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp và các lĩnh vực liên quan giữa hai đảng...
Từ Hà Nội hôm 1/12/2023, cựu trung tá quân đội Vũ Minh Trí chia sẻ ý kiến của ông với RFA rằng, việc Việt Nam nhờ Trung Quốc huấn luyện thì ngay từ thời xưa đã có, nhiều người được đào tạo ở các học viện, tại các trường đảng của Trung Quốc như ở Quảng Châu... nhưng sau một thời gian không còn nữa. Tuy nhiên theo ông Trí, khoảng 20 năm trở lại đây thì việc này lại tiếp tục. Ông Trí nói tiếp :
"Tôi có theo dõi tương đối sát và thấy dư luận có phần bức xúc về việc này. Ví dụ như việc Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng sang một thành phố của Trung Quốc để bế giảng lớp hợp tác đào tạo cán bộ chủ chốt của thành ủy Hà Nội. Nhưng mà nếu theo dõi kỹ một chút thì tôi nghĩ rằng chuyện đấy cũng là bình thường, như là đi thực tế tham quan, có lẽ dừng ở mức độ đấy. Tôi thấy ta cũng không nên quá lo ngại, vì rõ ràng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, hay thiết lập chuyên chính vô sản, duy trì quyền lực của đảng cộng sản... thì rõ ràng Đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay đang làm tốt hơn Đảng cộng sản Việt Nam, kể cả về phát triển kinh tế, phát triển khoa học...".
Riêng về lĩnh vực chống tham nhũng và đặc biệt với đề nghị mới đưa ra hôm cuối tháng 11/2023 như vừa nêu ở trên, ông Vũ Minh Trí cho rằng "cũng là thỏa đáng". Ông lý giải :
"Bởi vì trong thời gian vừa qua, Trung Quốc có nhiều kết quả nổi bật về công tác phòng chống tham nhũng, những cán bộ bị bắt của họ như Chu Vĩnh Khang, nguyên Ủy viên thường vụ Bộ chính trị và phụ trách công tác nội chính của Trung Quốc mà còn bị sờ đến, thì rõ ràng họ khá quyết tâm, khá mạnh tay trong việc đấy. Và qua các vụ đánh án, họ bắt một lúc hai Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương là Quách Bá Hùng và Từ Tài Hậu, và họ bắt một loạt tướng... Thì thấy chắc chắn về mặt điều tra, về mặt chuyên môn nghiệp vụ của họ, có kết quả tương đối nổi bật, đáng để Việt Nam học tập. Tôi nghĩ việc ông Phan Đình Trạc đề nghị lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam chống tham nhũng thì cũng là khá thỏa đáng".
Tuy nhiên, nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già khi trả lời RFA từ Sài Gòn hôm 1/12/2023 lại cho rằng, thoạt nhìn thì thấy Đảng cộng sản Trung Quốc cũng giống Đảng cộng sản Việt Nam và việc Trung Quốc chống tham nhũng thành công thì Việt Nam cũng hy vọng sẽ chống tham nhũng thành công. Nhưng, theo ông Già, nếu xét kỹ hơn sẽ thấy nhiều khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam trong việc chống tham nhũng :
"Thứ nhất, Trung Quốc thành công trong việc chuyển từ chế độ độc đảng toàn trị sang độc tài toàn trị, còn Việt Nam cho đến nay vẫn dậm chân tại chỗ với chế độ độc đảng toàn trị. Điều này có nghĩa ông Tập Cận Bình xuất hiện từ trong nước đến nước ngoài thì gần như tuyệt đối với vai trò thống lĩnh thiên hạ tại Trung Quốc. Tôi cho rằng ông Tập Cận Bình đã gầy dựng hình ảnh đúng như Khổng Tử nói, tức là ‘tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ’... Còn ở phía Việt Nam cho đến nay, không một nhân vật nào làm được gì hết... tu thân, tề gia không xong thì lấy gì trị quốc, còn bình thiên hạ thì xin lỗi miễn bàn".
Khác biệt thứ hai theo nhà báo Nguyễn Ngọc Già chính là văn hóa. Ông Già cho rằng thoạt nhìn Việt Nam và Trung Quốc cũng giống nhau, vì cùng xuất thân từ nền văn hóa nông nghiệp lạc hậu, nhưng Trung Quốc đến nay đã gần như bức phá, thoát khỏi nền văn hóa nông nghiệp lạc hậu với sự thành công về kinh tế khiến cả thế giới kinh ngạc và có phần e dè. Còn Việt Nam, theo ông Già, tính từ năm 1975 tới nay đã gần nửa thế kỷ mà vẫn là nền văn hóa nông nghiệp lạc hậu, với đặt trưng ‘đất lề quê thói’... đúng với tục ngữ xưa ‘một người làm quan, cả họ được nhờ’. Ông Nguyễn Ngọc Già nói tiếp :
"Xét ở khía cạnh văn hóa chống tham nhũng, tại Việt Nam chống tham nhũng là chống lại lòng tham, tức là chống lại bản chất của chế độ đã gầy dựng lên sự nghiệp cho Đảng cộng sản Việt Nam, bằng chứng là đa số quan chức cao cấp dính tham nhũng đều vô cùng giàu có và ăn theo họ là hàng hàng lớp lớp những người có liên quan, như câu tục ngữ tôi vừa thưa. Trong khi đó ở Trung Quốc, những nhân vật dính đến tham nhũng đều có mang màu sắc chính trị. Còn ở Việt Nam nói một cách mỉa mai, là tham nhũng thuần khiết".
Yếu tố khác biệt thứ ba theo ông Nguyễn Ngọc Già là yếu tố pháp luật, khi việc thực thi pháp luật ở Trung Quốc có sự xuyên suốt rõ ràng, còn ở Việt Nam việc thực thi pháp luật trong vấn đề chống tham nhũng là theo thời cuộc, lúc này lúc khác, rất nghiệp dư... Ông Già nêu dẫn chứng :
"Ví dụ như vụ tày trời mới nhất đó là bà Trương Mỹ Lan, với hàng triệu tỷ đồng, chưa xét xử gì mà báo chí đã phóng tin với dư luận rằng ‘những người liên quan mà không mưu lợi thì được miễn truy tố’.
Yếu tố khác biệt thứ tư là yếu tố an ninh quốc gia trong lĩnh vực chống tham nhũng. Yếu tố này Trung Quốc đặt lên hàng đầu. Còn ở Việt Nam nó nhục nhã lắm, những quan chức tham nhũng không quan tâm đến an ninh quốc gia, mờ mắt chỉ biết tiền, không cần quan tâm danh dự của Đảng cộng sản Việt Nam thì nói gì đến an ninh quốc gia".
Vị nhà báo độc lập này cho rằng còn một yếu tố nữa khiến Việt Nam-Trung Quốc khác biệt đó là yếu tố nhân tâm. Ông giải thích :
"Nhân tâm của người Việt Nam hiện nay người ta không phục, không tin vào vấn đề chống tham nhũng của Đảng cộng sản Việt Nam. Bởi vì họ thấy cách chống tham nhũng trong hàng chục năm qua mang đậm màu sắc thanh trừng, hơn là vì dân vì nước".
Theo nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già, việc Việt Nam muốn mời Trung Quốc "dạy" chống tham nhũng thành công... là suy nghĩ nông cạn và những người muốn mời chỉ xét một cách phiến diện bằng phương châm ‘bốn tốt, 16 chữ vàng’ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Và điều nguy hại hơn theo ông Già là Việt Nam không lường trước được vấn đề an ninh quốc gia có thể bị đe dọa và bắt làm con tin chính trị, khi Trung Quốc dạy Việt Nam cách chống tham nhũng.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Già cho rằng, cách suy nghĩ nông cạn này càng tự bộc lộ ra trong nội bộ của cấp cao và cấp cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, đang có một sự phân rã mãnh liệt.
RFA, 01/12/2023
Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc Việt Nam không nên quên "nguyện ước ban đầu", chung tay đi lên xã hội chủ nghĩa
RFA, 20/10/2023
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói với Chủ tịch Việt Nam Võ Văn Thưởng không quên "mục đích ban đầu" của quan hệ hữu nghị hai nước.
Chủ tịch Việt Nam Võ Văn Thưởng và Chủ tịch TQ Tập Cận Bình bắt tay nhau tại Bắc Kinh hôm 20/10/2023 - Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc
Theo Reuters, ông Tập Cận Bình nói điều này tại cuộc gặp ông Thưởng tại Bắc Kinh hôm 20/10 nhân Diễn đàn Cấp cao Hợp tác quốc tế "Vành đai và Con đường"
"Đối mặt với tinh hình thế giới liên tục thay đổi và những nhiệm vụ về phát triển trong nước đầy khó khăn, hai nước không nên quên nguyện ước ban đầu trong quan hệ hữu nghị truyền thống" - Reuters trích lời Chủ tịch Tập Cận Bình nói với Chủ tịch Võ Văn Thưởng tại cuộc gặp.
Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc trang tiếng Việt dẫn lời ông Tập Cận Bình nói thêm rằng hai bên "ghi nhớ lý tưởng và sứ mệnh chung, chung tay đi trên con đường xã hội chủ nghĩa, tạo dựng Cộng đồng cùng chung vận mệnh có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo quan hệ hai nước luôn đi trên làn đường nhanh cùng có lợi, cùng thắng, tay trong tay cùng phát triển".
Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950. Tuy nhiên, hai nước trong nhiều thập kỷ qua cũng có những căng thẳng mà nổi bật nhất là cuộc chiến biên giới năm 1979 và những tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông. Việt Nam trong các năm qua đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động lấn lướt của Trung Quốc ở hai quần đảo đang tranh chấp ở Biển Đông là Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Tập Cận Bình nói với ông Thưởng rằng "hai bên nên tuân thủ nguyên tắc tham vấn chung" và rằng Việt Nam nên tận dụng cơ hội về sự gần gũi địa lý giữa hai nước và bổ trợ về công nghiệp cho nhau.
Truyền thông Nhà nước hôm 20/10 cũng đồng loạt đưa tin và hình ảnh về cuộc gặp giữa ông Tập Cận Bình và ông Võ Văn Thưởng nhưng không đề cập đến nội dung cụ thể được bàn thảo giữa hai bên.
Theo truyền thông Nhà nước, chuyến công tác của ông Thưởng tới Bắc Kinh lần này "góp phần tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước đạt được trong chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cuối tháng 10/2022. Thông qua duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao, góp phần tăng cường tin cậy chính trị và hợp tác thiết thực giữa hai nước".
Ngoài ra, chuyến công tác của ông Thưởng cũng "nhằm khẳng định Việt Nam luôn ủng hộ các sáng kiến có lợi cho hòa bình, hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới".
Trước chuyến thăm của ông Thưởng, đã có thông tin về khả năng ông Tập Cận Bình sẽ sang thăm Việt Nam vào năm nay. Tuy nhiên thông tin sau cuộc gặp của hai lãnh đạo không đề cập gì đến chuyến thăm sắp tới của ông Tập Cận Bình.
Ông Tập nói Việt Nam chớ quên cội nguồn tình hữu nghị
VOA, 20/10/2023
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói với Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng hôm 20/10 rằng cả hai nước không được quên "ý định ban đầu" về tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước, theo Reuters.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bắt tay Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng hôm 20/10
Trung Quốc và Hoa Kỳ đang tranh giành ảnh hưởng với các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, quốc gia vào tháng 9 vừa qua đã nâng mối quan hệ với Washington lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, ngang hàng với Bắc Kinh và Moscow.
"Đối mặt với tình hình quốc tế luôn thay đổi và nhiệm vụ phát triển trong nước đầy gian khổ, hai nước không được quên ý định ban đầu về tình hữu nghị truyền thống", ông Tập nói với ông Thưởng tại Bắc Kinh.
"Hai bên nên tiếp tục đưa người dân, các địa phương, nhất là giới trẻ của hai nước xích lại gần nhau hơn, để tình hữu nghị truyền thống hai nước được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác", đài CRI của Trung Quốc dẫn lời ông Tập nói với ông Thưởng.
Ông Thưởng, nhân vật số 2 của Việt Nam sau Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, có cuộc hội đàm với ông Tập sau khi tham dự Diễn đàn Vành đai và Con đường (BRI) tại Bắc Kinh.
Lưu ý rằng Trung Quốc và Việt Nam đã phát triển mối quan hệ hữu nghị sâu sắc "tình đồng chí và tình anh em", ông Tập cho biết cả hai nước đều đang thúc đẩy sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của mình, cả hai đều coi mối quan hệ song phương là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, theo Tân Hoa Xã.
Ông Tập đề xuất : "Hai bên nên tuân thủ nguyên tắc tham vấn chung", đồng thời cho biết thêm rằng Trung Quốc và Việt Nam nên tận dụng sự gần gũi về mặt địa lý và sự bổ sung về mặt công nghiệp.
"Việt Nam luôn coi sự phát triển của Trung Quốc là cơ hội, ủng hộ Trung Quốc tiếp tục phát triển lớn mạnh, đạt được mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh theo đúng thời hạn, tin rằng Trung Quốc sẽ đóng góp nhiều hơn vào việc thúc đẩy hòa bình và phát triển của thế giới" ông Thưởng đáp lại, theo CRI. "Việt Nam kiên định kiên trì chính sách một Trung Quốc, sẵn sàng tăng cường trao đổi chiến lược giữa nhà lãnh đạo cấp cao với Trung Quốc, không ngừng làm phong phú thêm nội hàm của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc trong tình hình mới".
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh viết trên trang X, trước đây là Twitter, sau cuộc hội kiến giữa ông Tập và ông Thưởng : "Trung Quốc và Việt Nam đều đang xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa hiện đại. Trung Quốc và Việt Nam đều coi sự phát triển của nhau là cơ hội cho sự phát triển của đất nước mình".
Truyền thông Việt Nam hôm 20/10 đăng một số hình ảnh về cuộc gặp này, nhưng không nêu chi tiết nội dung trao đổi giữa hai nhà lãnh đạo.
Vào đầu tháng 10, Reuters đưa tin rằng các quan chức Việt Nam và Trung Quốc đang chuẩn bị cho chuyến thăm có thể của ông Tập tới Hà Nội vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11, trích dẫn những người quen thuộc với kế hoạch này. Truyền thông hai nước chưa loan tin về chuyến thăm này.
Trung Quốc có mối quan hệ truyền thống chặt chẽ với Việt Nam kể từ khi quan hệ ngoại giao được thiết lập vào năm 1950, dù hai nước có giao tranh vào năm 1979. Bắc Kinh ủng hộ cuộc chiến của Hà Nội chống lại cựu thuộc địa Pháp, và sau đó là chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.
Nguồn : VOA, 20/10/2023
************************
Chủ tịch Trung Quốc nhắc Việt Nam về tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước
Thanh Hà, RFI, 20/10/2023
Dẫn đầu phái đoàn Việt Nam dự diễn đàn tại Bắc Kinh kỷ niệm 10 năm dự án Vành Đai và Con Đường, chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng hôm nay, 20/10/2023, hội kiến chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Tiếp lãnh đạo Việt Nam, ông Tập Cận Bình đã nhắc Hà Nội về "ý nghĩa ban đầu" của tình hữu nghị giữa hai nước.
Chủ tịch Trung Quốc nói với chủ tịch nước Việt Nam, "chớ quên ý nghĩa ban đầu của tình hữu nghị truyền thống" giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Theo hãng tin Anh Reuters, chủ tịch Trung Quốc nói với chủ tịch nước Việt Nam, "trong tình bối cảnh tình hình quốc tế đang có những biến động chưa từng có và trước những thách thức về đối nội", hai nước "chớ quên ý nghĩa ban đầu của tình hữu nghị truyền thống" giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Đầu tháng 10/2023, cũng Reuters tiết lộ là Việt Nam và Trung Quốc dường như đang ráo riết chuẩn bị cho chuyến công du Hà Nội của chủ tịch Tập Cận Bình cuối tháng này hay vào đầu tháng 11. Trước mắt, Bắc Kinh chưa xác nhận tin chủ tịch Trung Quốc đã nhận lời mời thăm Việt Nam.
Hãng tin Reuters nhắc lại Trung Quốc và Hoa Kỳ đang tranh giành ảnh hưởng đối với nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tháng 9/2023, Hà Nội và Washington vừa nâng quan hệ song phương lên mức cao nhất, đó là Đối Tác Chiến Lược Toàn Diện.
Thanh Hà
Nguồn : RFI, 20/10/2023
Ngày 17/10, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng sẽdẫn đầu đoàn đại biểu cao cấp Việt Nam tham dự Diễn đàn "Vành đai và Con đường" lần thứ 3 tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trao Huân chương hữu nghị tới Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh : TTXVN.
Sáng kiến "Vành đai và con đường" là một cấu thành vật chất có gắn liền với một khái niệm tinh thần rộng lớn là "Cộng đồng chung vận mệnh – Community of Common Destiny, gọi tắt là CCD".
Tập Cận Bình thăm Việt Nam và CCD
Tháng 4/2023, khi thăm Trung Quốc, thường trực ban bí thư Trương Thị Mai đã trân trọng chuyển lời mời của Tổng bí thư và Chủ tịch nước Việt Nam đến chủ tịch Tập Cận Bình, thăm Việt Nam trong năm 2023, nhân dịp kỷ niệm 15 năm hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Theo Reuters, ông Tập Cận Bình sẽ đến Hà Nội cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11. Theo thông lệ, sau chuyến thăm sẽ có một tuyên bố chung. Tuyên bố đó có nhắc đến cụm từ"Cộng đồng chung vận mệnh" hay không đang là chuyện mà các nhà ngoại giao hai bên đang ráo riết thảo luận.
Nhân dân Việt Nam và cả những nhà ngoại giao Mỹ vừa tham dự chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden đến Việt Nam vào tháng trước cũng hết sức quan tâm đến chủ đề này. Cụ thể là sau khi nâng cấp quan hệ lên chiến lược toàn diện (Comprehensive Strategic Partners - CSP) với Hoa Kỳ, thì chuyến thăm của Tập Cận Bình sắp tới, nếu có, sẽ tạo áp lực gì cho Việt Nam ? Hành động của Việt Nam như thế nào để thể hiện bản lĩnh "độc lập, tự chủ" trong mối quan hệ quốc tế giữa một thế giới đang chia phe rõ rệt.
Phản ứng của Việt Nam ra sao đối với mầm cây "niềm tin chiến lược mới" với Hoa Kỳ vừa mới được "gieo" xuống ? liệu có trổ sinh hoa trái giữa phong ba ? Đặc biệt khi nó được ẩn dấu sau những ngôn từ hoa mỹ tương tự như một sáng kiến phát xít Nhật đã nêu ra ngày 29 tháng 6 năm 1940 ?
Cộng đồng chung vận mệnh là gì ?
Thuật ngữ"Cộng đồng chung vận mệnh" (Community of Common Destiny - CCD) lần đầu tiên được đề cập bởi Tập Cận Bình vào năm 2012 ngay khi ông được bầu làm Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Kể từ đó nó đã đã trở thành một yếu tố quan trọng trong đường lối ngoại giao của Trung Quốc.
Khái niệm này cũng đã có trong Hiến pháp Trung Quốc sửa đổi năm 2018 và thường được xuất hiện trong các bài phát biểu như một phần của tầm nhìn Trung Quốc về một viễn cảnh thế giới trong tương lai. Nó trở thành một chủ đề thường xuyên gắn liền với các sáng kiến như Vành đai và Con đường (BRI), Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) và các đề xuất của Trung Quốc trên diễn đàn toàn cầu.
Theo tác giả Nadege Rolland, đăng trênDiễn đàn Châu Á, thì chỉ trong hai năm (2013 và 2014), ông Tập đã 60 lần đề cập đến khái niệm này. Còn theo tác giả Hoàng Thị Hà, tại trung tâm nghiên cứu Asean thì đến 2020, Chủ tịch Tập Cận Bình đã nhắc đến cụm từ này gần 100 lần kể từ năm 2012, kể cả tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 70 (2015), Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos (WEF tháng 1/2017) hội nghị khai mạc sáng kiến Vành đai và Con đường (tháng 5/2017) và Đại hội đảng lần thứ 19 (tháng 10/2017).
Nội dung chính của khái niệm này là "duy trì tinh thần cởi mở, khoan dung, nơi tất cả các nước to hay nhỏ, mạnh hay yếu, giàu hay nghèo, đều bình đẳng". Nó được coi là một sáng kiến nhằm tạo ra một Trung Quốc là trung tâm của Châu Á để đảo ngược tiến trình phương tây hoá và thách thức sự chi phối của Mỹ, đặc biệt trong khu vực Châu Á và các nước láng giềng của Trung Quốc. Cách tiếp cận của Trung Quốc là đi từ tầm thế giới, đến khu vực (như ASEAN) và sau đó là trực tiếp đến từng quốc gia.
Tuy nhiên theo nhiều chuyên gia về chính trị quốc tế thì khái niệm này"được ban hành từ trên xuống và còn mập mờ và thiếu tính cụ thể". Nó sẽ thực sự khó được chấp nhận vì sự hoài nghi về lòng chân thành và nỗi lo sợ về bá quyền Trung Quốc đang thường trực trên khắp địa cầu.
CCD với Việt Nam ?
Việt Nam là một quốc gia mà CCD nhắm tới. Trong các cuộc trao đổi gần đây với nhà lãnh đạo Việt Nam, Tập Cận Bình nhiều lần nhấn mạnh rằng Trung Quốc và Việt Nam là một Cộng đồng chung vận mệnh.
Lần thứ nhất là trong chuyến thăm Việt Nam năm 2015, khi hội đàm hai bên ông Tập nói với Nguyễn Phú Trọng "Trung Quốc và Việt Nam là cộng đồng chung vận mệnh có ý nghĩa chiến lược". Cũng trong chuyến thăm đó, phát biểu trước quốc hội Việt Nam, Tập Cận Bình nói :"Chúng ta không chỉ là bạn bè tốt, Láng giềng tốt mà quan trọng hơnlà một khối chung có cùng sinh mạng"
Lần thứ 2, khi gửi điện mừng Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử Tổng bí thư vào năm 2016, ông Tập lại nêu :"Trung Quốc và Việt Nam là hai nướccó hệ thống chính trị tương đồng, con đường phát triển giống nhau, tương lai và vận mệnh tương đồng, là một cộng đồng chung vận mệnh có ý nghĩa chiến lược".
Vào ngày 12/01/2017, khi hội kiến với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Bắc Kinh, Tổng bí thư Tập Cận Bình lại nhấn mạnh :"Trung Quốc và Việt Nam đều là hai nước xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo, là cộng đồng cùng chung vận mệnh có ý nghĩa chiến lược".
Vào năm 2021, Tập Cận Bìnhgửi điện mừng cho Nguyễn Phú Trọng nêu rõ "Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng hữu nghị xã hội chủ nghĩa, là cộng đồng có chung vận mệnh có ý nghĩa chiến lược"
Việt Nam chưa công khai đề cập đến khái niệm"Cộng đồng chung vận mệnh với Trung Quốc" mà chỉ đề cập đến quan niệm "xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại" của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Lần đề cập "gần" nhất với khái niệm này là "Việt Nam đánh giá cao Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại do Trung Quốc đưa ra" nằm trongThông cáo báo chí chung Việt Nam- Trung Quốc nhân chuyến thăm của thủ tướng Phạm Minh Chính vào tháng 6 năm nay.
Tuy nhiên, gần đây báo chí Việt Nam đưa đậm hàng tít về việc Trung Quốc ký kế hoạch hành động xây dựng "Cộng đồng chung vận mệnh với Campuchia" nhân dịp Thủ tướng Hun Manet đi thăm Trung Quốc vào giữa tháng 9 vừa qua.
Cảnh giác với một "Đại Đông Á" của Trung Hoa ?
Chúng ta sẽ không khỏi giật mình khi nhìn thấy thấp thoáng đâu đó khái niệm Cộng đồng chung vận mệnh mà Trung Quốc đang cổ suý so với "Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á – Greater East Asia Co-prosperity Sphere" của Nhật bản đề xướng vào cuối thập niên 1930s.
Nhìn vào nội dung của của Khối thịnh vượng Chung Đại Đông Á do Tokyo đề xướng bao gồm các niềm tin cốt lõi như :Ổn định lâu dài, Láng giềng hữu nghị, Công lý Quốc tế, Phát triển văn hoá, Kết nối kinh tế, Thúc đẩy hòa bình thế giới… ta thấy dường như đang quay trở trong các văn bản về một Cộng đồng chung vận mệnh mà Trung Quốc đang tìm mọi cách thực hiện.
Nếu như hơn 80 năm trước, Chính quyền Nhật bản mong muốn thiết lập một"Trật tự thế giới mới" nhằm cạnh tranh với các quốc gia phương tây thì bây giờ Trung Quốc cũng không dấu diếm ý đồ về cộng đồng mà Trung Hoa sẽ dẫn dắt để không lệ thuộc vào chủ nghĩa tư bản và sự thống trị của Phương Tây, mà cụ thể ở đây là Hoa Kỳ.
Nhưng thực chất của học thuyết Đại Đông Á trong quá khứ là để kích động sự hận thù của nhân dân Châu Á đối với Phương Tây bằng các luận điệu như "láng giềng", tương quan", "máu đỏ da vàng"… để mưu đồ đặt Châu Á dưới ách thống trị của mình. Bây giờ Trung Quốc đã đặt nó trong một bối cảnh rộng lớn hơn, mang tính dung nạp hơn bằng một ngôn ngữ uyển chuyển hơn, đối với toàn nhân loại.
Tuy nhiên, khi nhìn thấy những biểu hiện dịch chuyển quan trọng và ngôn từ của Cộng đồng Chung Vận Mệnh nhân loại đang dần dần được đưa vàođối với những nước láng giềng, chúng ta không thể không lo ngại về một chủ nghĩa bành trướng đang dần được thể hiện để trói buộc các nước láng giềng vào giá trị Trung Hoa.
Nằm ngay cạnh một Trung Quốc đang trỗi dậy, Việt Nam càng phải tỉnh táo hơn bao giờ hết. Đảng cộng sản VN có thể tự coi mình là "đỉnh cao trí tuệ" nhưng không thể đại diện đất nước trong lúc cần ra những quyết định lớn.
Chỉ có mở rộng không gian dân sự, thúc đẩy dân chủ, thành tâm lắng nghe ý kiến từ nhân dân, đặt tổ quốc lên trên hết, mới ra được những quyết định đúng để giữ vững được đất nước. Mà trước hết là bằng mọi cách tỉnh táo lánh xa khái niệm"Cộng đồng chung vận mệnh với Trung Quốc" trong chuyến đi sắp tới, nếu có, của Tập Cận Bình.
Lê Quốc Quân
Nguồn : VOA, 16/10/2023
Việt Nam và Mỹ cảnh báo việc "sử dụng vũ lực" ở Biển Đông
Thu Hằng, RFI, 11/09/2023
Ngày 11/09/2023, trong ngày công du thứ hai, tổng thống Joe Biden ca ngợi quan hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam đã "bước vào một thời kỳ mới". Hai nước cảnh báo "mọi mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực" ở Biển Đông, dù không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng đây là một thông điệp rõ ràng gửi tới Bắc Kinh.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính tiếp tổng thống Mỹ Joe Biden, tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 11/09/2023. Reuters – Evelyn Hockstein
Ngoài ra, Hoa Kỳ "cam kết tiếp tục ủng hộ sự phát triển của Việt Nam về năng lực phòng vệ" trong bối cảnh Trung Quốc đòi chiếm gần hết Biển Đông, thường xuyên quấy nhiễu tầu thuyền và hoạt động của các nước láng giềng có tranh chấp chủ quyền. Đây là một trong những điểm chính trong Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên tầm "Đối tác Chiến lược Toàn diện" được tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và tổng thống Mỹ Joe Biden thông báo ngày 10/09/2023.
Thông tín viên RFI Frédéric Noir tại thành phố Hồ Chí Minh tường trình :
"Cuối cùng Việt Nam đã quyết định dấn thân và trao cho Hoa Kỳ quy chế "đối tác chiến lược toàn diện". Đây là mức cao nhất trong lĩnh vực ngoại giao mà cho tới giờ Việt Nam mới chỉ dành cho bốn nước : Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc. Một thông báo mang tính biểu tượng cao đi cùng với hàng loạt thỏa thuận thương mại, trong đó có lĩnh vực linh kiện bán dẫn.
Về chủ đề nhân quyền nhạy cảm, được nêu trong thông cáo chung, không ai lại trông đợi đến những tiến bộ lớn như vậy. Cuối cùng Việt Nam đã chấp nhận trả tự do cho một nhà đối lập chính trị.
Nhưng ngoài những thông báo về thiện chí và các mối quan hệ hợp tác khác nhau, chẳng ai ngây thơ cả : mục đích của Mỹ là chống lại những tham vọng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây là một chủ đề quan trọng đối với Việt Nam, nước thường xuyên lên án tầu thuyền Trung Quốc thâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tuy vậy, Việt Nam cũng thận trọng không quay lưng lại với nước láng giềng khổng lồ, đồng thời vẫn trung thành với chính sách ngoại giao được gọi là "ngoại giao cây tre" được đích thân tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng định nghĩa : "gốc phải khỏe, thân phải chắc nhưng cành phải mềm dẻo". Hà Nội sẽ phải giữ cân bằng vì muốn trở thành đối tác đáng tin cậy của Hoa Kỳ, nhưng vẫn khôn khéo với Trung Quốc, đối tác thương mại chính của Việt Nam".
Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt - Mỹ bao trùm nhiều chủ đề, như chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại - đầu tư, hợp tác số, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục - đào tạo, hợp tác khí hậu, năng lượng, môi trường và y tế, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, hợp tác văn hóa - giao lưu nhân dân - thể thao - du lịch, hợp tác quốc phòng - an ninh, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Tuy nhiên, trong ngày công du thứ nhất, tổng thống Joe Biden khẳng định chuyến thăm Việt Nam của ông không nhằm mục đích khơi mào một "cuộc chiến tranh lạnh" với Trung Quốc mà thể hiện mối quan hệ bền chặt hơn với Hà Nội tạo lập "nền tảng cho sự ổn định" toàn cầu qua việc xây dựng các mối quan hệ của Mỹ ở khắp Châu Á.
Thu Hằng
************************
Báo chí Trung Quốc : Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ "chỉ mang tính tượng trưng"
Phan Minh, RFI, 11/09/2023
Ngay khi tới thăm Việt Nam, tổng thống Mỹ Joe Biden đã hội đàm với tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vào hôm qua 10/09/2023 và hai bên quyết định nâng cấp quan hệ song phương lên mức "Đối tác chiến lược toàn diện" - theo xếp hạng quan hệ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Joe Biden và tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại trụ sở Đảng cộng sản Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. AP - Evan Vucci
Bắc Kinh đương nhiên theo dõi sát chuyến thăm Việt Nam ở cấp Nhà nước của nguyên thủ Mỹ. Và báo chí chính thức Trung Quốc giảm thiểu tầm quan trọng của sự kiện này. Theo trang mạng của Hoàn Cầu Thời Báo (Global Times), hôm qua 10/09, một số chuyên gia Hoa Lục cho rằng chuyến thăm của lãnh đạo Mỹ chỉ mang tính tượng trưng với những kết quả hạn chế, bởi mối quan hệ giữa hai Đảng cộng sản, Việt Nam và Trung Quốc, không thể được thay thế bằng mối quan hệ giữa hai Nhà nước, giữa Nhà nước Việt Nam với một quốc gia khác.
Theo các chuyên gia Trung Quốc, Hoa Kỳ đang tìm cách lôi kéo Việt Nam trở thành một quốc gia "bán đồng minh" khi tuyên bố mang lại cho Hà Nội một số lợi ích về kinh tế và quân sự.
Tuy nhiên, Hoàn Cầu Thời Báo cho rằng Việt Nam sẽ không "đi quá xa" vì nước này không đặt quan hệ Trung-Việt làm đối trọng với quan hệ Mỹ-Việt. Ngày 05/09, khi tiếp Lưu Kiến Siêu, trưởng ban Đối ngoại Đảng cộng sản Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh luôn luôn "coi trọng và ưu tiên hàng đầu phát triển quan hệ Việt-Trung".
Theo nhận định của các chuyên gia Trung Quốc, mục tiêu của Mỹ là thúc đẩy các nước xung đột với Trung Quốc, song các nước như Việt Nam sẽ không muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành một cuộc xung đột với Trung Quốc.
Một số truyền thông của Mỹ coi chuyến đi này của tổng thống Biden là một phần trong nỗ lực của Washington chống lại ảnh hưởng của Bắc Kinh trong khu vực và giảm sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc bằng cách mở rộng chuỗi cung ứng thông qua Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ – Thái Bình Dương (IPEF). Thế nhưng, theo Hoàn Cầu Thời Báo, sự phát triển của khu vực cần đến sự hợp tác chặt chẽ trong chuỗi cung ứng giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Phan Minh
Tổng bí thư yêu cầu tỉnh Lạng Sơn tăng cường hợp tác với Trung Quốc
Tổng bí thư "bất ngờ" đến làm việc với tỉnh biên giới Lạng Sơn hôm 25/8.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hùng Ba tại Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị. Ảnh: Trí Dũng/TTXVN
Cùng đi có Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an ; Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ; Lê Minh Hưng, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng ; Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ; Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng lãnh đạo một số ban, bộ, ngành, Văn phòng Trung ương Đảng.
Một bản tin phát trên Thông tấn xã Việt Nam cho biết ở bài phát biểu tại tỉnh Lạng Sơn, người đứng đầu Đảng đưa ra yêu cầu từ trọng trách là "phên giậu quốc gia" về quốc phòng, an ninh, đồng thời cũng là "phên giậu về kinh tế", do vậy nên Lạng Sơn phải bảo vệ vững chắc thị trường nội địa cũng chính là bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế của đất nước.
Tổng bí thư yêu cầu Lạng Sơn phải đặc biệt coi trọng chăm lo xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.
Ông Nguyễn Phú Trọng nhắc lại là tỉnh cần thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định và phát triển ; chủ động thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội tỉnh, của vùng trung du, miền núi Bắc bộ và cả nước.
Nhìn chung thì những huấn thị của Tổng bí thư là mô-típ chung của các "diễn văn chỉ đạo" quen thuộc mà báo chí vẫn hay tường thuật ở mỗi lần "bề trên" về địa phương. Cái lạ ở đây là vì sao Tổng bí thư chọn Lạng Sơn, liệu có yếu tố nhạy cảm chính trị gì liên quan đến người hàng xóm Trung Quốc ?
Và một tình tiết đáng lưu tâm khác là tháp tùng cùng đi với Tổng bí thư và Đoàn công tác Trung ương có ông Hùng Ba, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam.
Theo ghi nhận của báo chí, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Đoàn của Tổng bí thư nghe lãnh đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn giới thiệu về cột mốc 1116, và báo cáo tình hình hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh qua khu vực cửa khẩu thời gian qua. Cũng tại đây, ông Nguyễn Phú Trọng đã tái khẳng định với ông Hùng Ba rằng, "tình hữu nghị truyền thống Việt Nam – Trung Quốc đã được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công xây dựng và vun đắp ; đây là tài sản vô cùng quý báu mà hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước phải kế thừa và phát huy".
Tổng bí thư bày tỏ mong muốn Đại sứ và Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam sẽ tiếp tục làm cầu nối hữu nghị và hợp tác, thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển tốt đẹp.
Tổng bí thư cùng Đoàn công tác đặc biệt khi trên đường phố Lạng Sơn, hình ảnh ghi nhận cho thấy chính quyền đã huy động dân chúng mặc trang phục đẹp ra đứng làm hàng chào hai bên đường khi xe của đoàn Tổng bí thư ngang qua.
Chuyến công cán Lạng Sơn của Tổng bí thư rất đáng tiếc ở chỗ đã không dành thời gian nào để đến tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 tại nhà bia chiến thắng Khánh Khê, bản Pa Pách, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn.
Giả dụ như có hình ảnh Tổng bí thư bên cột bia chiến thắng Khánh Khê, có lẽ sẽ là khéo léo nhắc với ngài Đại sứ Hùng Ba, rằng đây còn là cây cột thiêng để thờ và nhớ ơn các liệt sĩ đã ngã xuống.
Cột bia ấy còn là cột mốc mang ý nghĩa chốt chặn, là cột mốc cảnh giác trước quân thù. Không những thế, cột bia ấy còn là một biểu tượng mang tính răn đe với những kẻ vẫn còn mang dã tâm xâm lược, lấn chiếm đất đai của Việt Nam.
Và phải chi trong khung cảnh bi hùng đó, người ta nghe huấn thị văng vẳng của Tổng bí thư : Các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau không được quên lãng những bài học của lịch sử, không bao giờ quên những người đã đổ máu để giữ cho biên cương được bình yên, để làm nên tên tuổi của một dân tộc anh hùng….
Việt Nam muốn mở thêm tổng lãnh sự quán ở Trung Quốc, hứa không tiếp xúc chính thức với Đài Loan
Một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Việt Nam vừa đề nghị Trung Quốc tạo điều kiện để Việt Nam thành lập thêm tổng lãnh sự, tạo thuận lợi cho nông sản Việt Nam, cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển, và cam kết duy trì chính sách "một Trung Quốc", không tiếp xúc chính thức dưới bất kỳ hình thức nào với Đài Loan.
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ (trái) gặp Trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Nông Dung trong chuyến thăm Bắc Kinh từ ngày 9-10/8/2023. Ảnh : Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Những đề nghị trên được Thứ trưởng thường trực Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Minh Vũ, Tổng thư ký Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc, đưa ra trong chuyến thăm và làm việc tại Bắc Kinh từ ngày 9 – 10/8.
Truyền thông Việt Nam dẫn thông tin từ Bộ Ngoại giao cho biết hôm 11/8 rằng trong các cuộc làm việc với phía Trung Quốc, ông Nguyễn Minh Vũ đã đề nghị hai bên phối hợp triển khai các biện pháp thúc đẩy phục hồi kinh tế, tạo điều kiện thông quan thuận lợi cho nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc.
Ông cũng đề nghị Trung Quốc tạo điều kiện sớm thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Thành Đô và Hải Khẩu, hợp tác tháo gỡ những vướng mắc kéo dài của một số dự án hợp tác tại Việt Nam, đẩy nhanh các khoản viện trợ không hoàn lại dành cho Việt Nam.
Thứ trưởng Việt Nam cũng đề nghị Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi để sớm mở Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Trùng Khánh.
Phía Việt Nam nói hai bên đã "trao đổi ý kiến cởi mở, thẳng thắn" về vấn đề biên giới lãnh thổ qua việc đề xuất các biện pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề nảy sinh trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc các văn kiện chung về biên giới trên đất liền.
Riêng về vấn đề tranh chấp Biển Đông, hai bên thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, kiểm soát tốt bất đồng trên biển, cùng duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, Tuổi Trẻ và Thanh Niên tường thuật.
Trong cuộc gặp với Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Nông Dung hôm 10/8, Thứ trưởng Nguyễn Minh Vũ được Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn lời nói rằng Việt Nam sẽ duy trì chính sách một Trung Quốc và sẽ không tiếp xúc chính thức dưới bất kỳ hình thức nào với Đài Loan, theo Reuters.
Trung Quốc lâu nay luôn xem Đài Loan là thuộc chủ quyền của mình và chưa bao giờ từ bỏ ý định "thống nhất" hòn đảo dân chủ này kể cả bằng vũ lực.
Bắc Kinh luôn đề cập đến chính sách "một Trung Quốc" để gây áp lực buộc các quốc gia không được thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan.
Trong cuộc gặp với Thứ trưởng Việt Nam, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng cho biết thêm hai bên đã trao đổi những quan điểm sâu sắc về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm và nhất trí tăng cường liên lạc, cũng như bảo vệ lợi ích chung, vẫn theo Reuters.
Vẫn còn quá sớm để đánh giá thực chất thành bại của chuyến thăm ‘đa mục đích’ tới Trung Quốc của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính trong hạ tuần tháng 6/2023, tuy nhiên có thể khẳng định chưa có gì ‘đột phá’ về giải pháp liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong chuyện này, dường như Việt Nam vẫn chưa chủ động thúc đẩy một giải pháp pháp lý quốc tế, mà trái lại có thể đang bị động khi chờ một quốc gia khác trong khối ASEAN ‘đi kiện thay mình’ về tranh chấp với Trung Quốc ra tòa án quốc tế, một nhà quan sát, phân tích thời sự và an ninh Biển Đông, cũng như chính trị khu vực, ông Trương Nhân Tuấn từ Châu Âu nêu quan điểm riêng với Đài Á Châu Tự Do.
Reuters
Ý kiến cho rằng Bắc Kinh, qua chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính, "sẵn sàng làm việc" với Hà Nội về Biển Đông là một điều còn đáng hoài nghi, trong khi câu hỏi chính hay vấn đề cốt lõi cần đặt ra là liệu Trung Quốc có thực sự muốn "giải quyết" các tranh chấp ở Biển Đông với Việt Nam hay không, vẫn ý kiến trên quan điểm cá nhân của nhà quan sát từ Marseille, Cộng hòa Pháp chia sẻ với RFA Tiếng Việt trong phần tiếp theo của cuộc trao đổi, mà sau đây là nội dung.
RFA : Truyền thông Việt Nam liên quan chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính, cho hay "Bắc Kinh nói sẵn sàng làm việc với Việt Nam về Biển Đông", ông có bình luận gì về điều này, nhất là về độ tin tưởng đối với Trung Quốc ?
Trương Nhân Tuấn : Tôi hoài nghi về ý kiến cho rằng Trung Quốc "sẵn sàng làm việc với Việt Nam về Biển Đông". Vấn đề cốt lõi là Trung Quốc muốn "giải quyết" các tranh chấp ở Biển Đông với Việt Nam hay không ? Từ ba thập niên nay, qua nhiều hình thức, Trung Quốc sử dụng nhiều biện pháp từ chính trị nội bộ giữa hai đảng, cho đến các "chiến thuật vùng xám", tức các hành vi răn đe vũ lực (phi chiến tranh) trên thực địa để "được đằng chân lân đàng đầu", kiểu "tằm ăn dâu".
Điển hình là ở khu vực bãi Tư Chính, theo tôi thấy, trên danh nghĩa pháp lý và lịch sử, Trung Quốc không có bất kỳ lý do chính đáng nào để yêu sách vùng biển Tư chính của Việt Nam. Không hiểu tại sao Việt Nam chấp nhận thực tế cho rằng "có tranh chấp" ở vùng biển này ? Việt Nam phải yêu cầu Repsol rút giàn khoan, ngay cả phải bồi thường cho đối tác hàng trăm triệu, thậm chí cả tỉ đô la. Không lẽ Việt Nam đã nhìn nhận yêu sách của Trung Quốc là hợp lý ?
Về vấn đề cấm biển hàng năm của Trung Quốc, khu vực biển phía bắc vĩ tuyến 12°. Rõ ràng khu vực biển Hoàng Sa là vùng biển "có tranh chấp". Lý do nào Việt Nam liên tục chịu trận từ hai thập niên nay, bất kể ngư dân Việt Nam phải chịu cảnh lầm than ? Trung Quốc có sẵn sàng "làm việc với Việt Nam" để giải quyết vấn đề chồng lấn vùng biển và khoanh vùng đánh cá ở vùng biển Hoàng Sa hay không ? Rồi Trung Quốc có sẵn sàng "làm việc" với Việt Nam để làm rõ các yêu sách của họ, ở những vùng thuộc phạm vi tài phán của Việt Nam, quy định theo luật Quốc tế về Biển hay không ?
Đâu phải khi họ nói họ "sẵn sàng làm việc" với mình thì đó là dấu hiệu tốt đâu ? Cốt lõi, vấn đề của mọi vấn đề, theo tôi, là họ có chịu "giải quyết" các tranh chấp trên nguyên tắc bình đẳng giữa hai quốc gia, bằng các phương tiện hòa bình hay không ?
RFA : Theo truyền thông Trung Quốc, hai Thủ tướng của Trung Quốc và Việt Nam trong dịp này có ‘trao đổi ý kiến sâu rộng’ về tăng cường hợp tác trong khuôn khổ "Sáng kiến Vành đai và Con đường", bên cạnh ‘tăng cường kết nối, ổn định’ chuỗi sản xuất và cung ứng, theo ông Việt Nam nên lưu ý gì nếu tham gia vào sáng kiến này hiện nay hay tới đây của Trung Quốc ?
Trương Nhân Tuấn : Theo tôi những gì ông Phạm Minh Chính thảo luận với ông Lý Cường, đặc biệt liên quan vấn đề Việt Nam hợp tác với Trung Quốc trong sáng kiến "vành đai con đường" của Trung Quốc, thì tất cả chỉ khai triển những gì mà ông TBT Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã cam kết với lãnh đạo Tập Cận Bình của Trung Quốc từ tháng 11 năm ngoái.
Theo đó, trong Phần 7 khoản 1 của Tuyên bố chung Việt Nam-TQ tháng 11 năm 2022, có nêu rõ rằng : "Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển hai nước, đẩy nhanh trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với Sáng kiến "Vành đai và Con đường", triển khai hợp tác năng lực sản xuất, hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng và kết nối giao thông, sớm hoàn thiện đánh giá Quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng".
Nếu chúng ta nhìn các quốc gia đã tham gia sáng kiến này của Trung Quốc, (ngay cả Malaysia) có thể thấy hiện nay tất cả đều phải đối diện với khả năng phá sản. Trung Quốc cho vay dễ dàng mà các quốc gia lại không xem xét các điều kiện đi kèm đằng sau. Một số các quốc gia Châu Phi phải tạm ‘nhượng lãnh thổ’ cho Trung Quốc để trừ nợ.
Theo tôi, đây là chuyện mà lãnh đạo Việt Nam phải suy nghĩ trước khi ký kết bất cứ điều gì với Trung Quốc.
RFA : Theo truyền thông Việt Nam, tại cuộc gặp giữa hai Thủ tướng Việt Nam và Trung Quốc tại Bắc Kinh, "hai bên thống nhất duy trì hòa bình, ổn định trên biển", thậm chí có đề cập vấn đề DOC và COC, ngoài ra là bàn hợp tác kinh tế, mậu dịch, thương mại, tháo gỡ một số khó khăn, phải chăng đây là một chuyến thăm hữu ích và đem lại hiệu quả cho cả hai bên, và có thể coi là thành công với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính ? Độ tin cậy giữa hai bên theo ông sẽ như thế nào và tính ổn định 'kéo dài' được bao lâu ?
Trương Nhân Tuấn : Theo tôi sẽ quá sớm để nói về thành công hay thất bại chuyến đi của thủ tướng Phạm Minh Chính.
Nhưng về về Biển Đông, tôi thấy không có điều gì đột phá (quan trọng) hết cả. Nếu ta xét nội dung các Tuyên bố chung Việt Nam và Trung Quốc từ năm 2000 đến nay, nội dung về Biển Đông không có nhiều thay đổi.
Hãy dẫn lại một đoạn trong Tuyên bố chung năm 2000, hai bộ trưởng bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và Đường Gia Triền, trong đó nêu rằng : "Hai bên khẳng định, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình để tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Trước khi vấn đề được giải quyết, với tinh thần dễ trước khó sau, hai bên tích cực bàn bạc, tìm kiếm khả năng và giải pháp triển khai hợp tác trên biển trong các lĩnh vực như : bảo vệ môi trường biển, khí tượng thuỷ văn, phòng chống thiên tai. Đồng thời, hai bên đều không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Hai bên cần bàn bạc kịp thời và giải quyết những bất đồng nảy sinh với thái độ bình tĩnh xây dựng, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước".
Thêm một đoạn nữa trong Tuyên bố chung 2016 giữa hai Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Lý Khắc Cường, trong đó nêu rõ : "Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông".
Và gần hơn, thêm một đoạn Tuyên bố chung giữa hai Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng và lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình 2017, cũng nêu rõ : "Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông". Nếu nhìn lại những gì được công bố tới nay qua chuyến thăm của Thủ tướng Chính tới Trung Quốc, thì theo tôi rõ ràng là về chính yếu, không có gì mới cả, nay nếu nói theo cách nói lái của dân gian trong tiếng Việt, thì đó là "Vũ Như Cẩn" (tức vẫn như cũ) mà thôi.
RFA : Chuyển sang tình hình láng giềng của Việt Nam ở Đông Nam Á có liên quan hợp tác và an ninh trên Biển Đông và khu vực, gần đây có ý kiến trong giới quan sát, phân tích và học giả theo dõi tình hình khu vực, trong đó có ý kiến của học giả Việt Nam, gợi ý rằng khi Philippines ‘đàm phán’ với Trung Quốc về lệnh cấm đánh cá, Philippines (có thể) đã có thể ‘nhìn nhận quyền tài phán của Trung Quốc’ trên những vùng biên liên quan ‘tranh chấp’ giữa hai bên, ý kiến của ông thế nào, nếu những điều này có cơ sở ?
Trương Nhân Tuấn : Theo dõi truyền thông quốc tế có sử dụng tiếng Việt hôm 22/6/2023 (*) gần đây, liên quan chủ đề Philippines đàm phán với Trung Quốc về lịnh cấm đánh cá, tôi thấy các học giả Việt Nam được dẫn ý kiến ở đó có thể đã có nhận định sai lầm và khá chủ quan về tính toán của Manila.
Cụ thể là theo tôi Tổng thống Marcos của Philippines không "dại" để ký với Trung Quốc những thỏa thuận mà sau đó Trung Quốc có thể cho rằng Philippines đã nhìn nhận quyền tài phán của Trung Quốc trên những vùng biển liên quan, (như nhận định của các học giả Việt Nam). Ngay cả khi Tổng thống Marcos có những hành vi sai lầm, làm lợi cho Trung Quốc, thì luật của Philippines có những điều khoản không cho phép chuyện này xảy ra.
Về chuyện Trung Quốc cấm đánh cá. Nếu ta có theo dõi những động thái của Philippines, từ giàn học giả tài giỏi và yêu nước của Philippines, cho đến các chính trị gia, nghị sĩ, dân biểu... từ nhiều năm nay về lệnh cấm biển của Trung Quốc, ta thấy rất có thể Philippines sẽ kiện Trung Quốc lần nữa, đối tượng kiện là những tranh chấp đến từ các việc "giải thích và cách áp dụng luật biển" ở vùng biển giới hạn từ vĩ tuyến 12° về phía bắc.
Hiện thời đã có các nghị sĩ Philippines yêu sách Bộ ngoại giao Philippines phải triệu tập Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, yêu cầu Đại Hội đồng này ra tuyên bố về cách xử sự của Trung Quốc trong vùng biển của Philippines.
Về ý kiến Tổng thống Marcos "đạt tiến bộ" trong đàm phán với Trung Quốc về việc cấm đánh cá, tôi cho rằng mục đích của ông Marcos là muốn tìm một "giải pháp", dầu là giải pháp tạm bợ, để bảo vệ ngư dân Philippines, những người bị ảnh hưởng về chuyện này.
Nên biết là ngư trường của Philippines gồm có 12 ngư trường. Chỉ có hai ngư trường bị "dính" vào lịnh cấm đánh cá của Trung Quốc.
Nếu ta tìm hiểu sâu, ta thấy rằng vùng biển chung quanh đá Scarborough (đá Hoàng Nham) là "ngư trường truyền thống" của Philippines, (kiểu như vùng biển Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam) mà đá này Trung Quốc yêu sách chủ quyền (và đã chiếm đóng).
Tức là hai ngư trường liên quan của Philippines có dính dáng tới đá Hoàng Nham. Quy chiếu theo Phán quyết của tòa PCA 13/7/2016, Tòa nhìn nhận vùng biển chung quanh đá Hoàng Nham là "vùng đánh cá truyền thống" của ngư dân ba quốc gia Trung Quốc, Việt Nam và Philippines.
Vấn đề (quan trọng) mà các học giả cũng bỏ qua, theo tôi, là ý nghĩa pháp lý của "vùng đánh cá truyền thống" và "quyền" của ngư dân trong vùng đánh cá này. Bài phỏng vấn các chuyên gia được truyền thông giới thiệu hôm 22/6 mà tôi đọc được, có nói về "đối sách" của Việt Nam. Tôi thấy qua bài này Việt Nam, không có đối sách nào cả.
Chính quyền và Đảng cộng sản Việt Nam, theo tôi, đã không làm gì cả để bảo vệ ngư dân Việt Nam, trước lịnh cấm biển của Trung Quốc. Vì vậy, một lần nữa, tôi hoài nghi và cho rằng chính quyền Việt Nam đang "há họng chờ sung" và họ chỉ chờ Philippines đi kiện để được hưởng lợi mà thôi.
Vấn đề là Tổng thống Marcos của Philippines chủ động cố gắng đi tìm một "giải pháp" cho ngư dân của họ. Vì đó là trách nhiệm của tổng thống, người lãnh đạo quốc gia. Còn Việt Nam thì sao ? Tôi cho rằng xúi dân "bám biển" không phải là giải pháp".
____
Trên đây là cuộc trao đổi trên quan điểm riêng từ Marseille, Cộng hòa Pháp của ông Trương Nhân Tuấn, nhà quan sát, phân tích thời sự, chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế, an ninh khu vực, Biển Đông, với Đài Á Châu Tự Do. Ông Trương Nhân Tuấn là nhà nghiên cứu độc lập về lịch sử chủ quyền Việt Nam và an ninh trên Biển Đông và là tác giả của cuốn biên khảo được biết đến với tựa đề : "Biên giới Việt Trung 1885-2000 : Lịch sử thành hình và những tranh chấp". Mời quý vị theo dõi phần đầu của cuộc trao đổi của RFA với nhà quan sát này ở đường dẫn.
Tham khảo :
(*) Philippines đàm phán với Trung Quốc về lệnh cấm đánh cá, và đối sách của Việt Nam
Dịch Covid-19 tác động trực tiếp và gián tiếp đến quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là tình hình ở Biển Đông. Sau một thời gian tạm ngừng, trao đổi thương mại giữa hai nước dần được nối lại. Tuy nhiên, tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng hơn do Bắc Kinh lợi dụng việc thế giới bận chống dịch để gia tăng hành động quân sự, củng cố yêu sách chủ quyền và chèn ép các nước có tranh chấp trong khu vực.
Đảo Phú Lâm, nơi có miếu thần Hoàng Sa thời vua Minh Mạng, nay trở thành thủ phủ "thành phố Tam Sa". Ảnh vệ tinh của AMTI. © AMTI
Hà Nội đối phó như thế nào với chiến lược của Bắc Kinh ? Liệu đại dịch Covid-19 có trở thành cơ hội để Việt Nam thu hút thiện cảm của công luận quốc tế, đặc biệt là trước sự chèn ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc ở Biển Đông ?
RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp.
*****
RFI : Khi dịch Covid-19 xuất phát tại Trung Quốc, chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều biện pháp triệt để, trong khi nhiều nước vẫn do dự và tiếp tục cho công dân Trung Quốc nhập cảnh. Tương tự, ngay khi dịch có dấu hiệu tạm lắng, Việt Nam lại khẩn trương mở cửa biên giới, nối lại trao đổi thương mại với Trung Quốc. Phải hiểu quyết tâm này như thế nào ?
Laurent Gédéon : Trường hợp của Việt Nam rất đáng chú ý, chỉ có hơn 300 trường hợp nhiễm Covid-19 và không có ca tử vong nào. Kết quả này biến Việt Nam thành một quốc gia rất đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh. Và kết quả này gắn chặt với tinh thần cảnh giác, mau lẹ trong chiến lược chống dịch từ rất sớm của chính quyền.
Từ sự cảnh giác này, chính quyền Việt Nam đã đưa ra ba loạt biện pháp chính, trong đó có các biện pháp đóng cửa, như đóng cửa trường học, tạm ngừng các chuyến bay giữa hai nước và đóng cửa biên giới với Trung Quốc. Dĩ nhiên, quyết định này tác động nặng đến kinh tế, nhưng chính phủ Việt Nam chịu trách nhiệm về quyết định này.
Bắc Kinh từng xem những nước hạn chế nhập cảnh đối với công dân Trung Quốc là "thiếu thân thiện". Nhưng sau đó, quan điểm của họ dần thay đổi vì ngày càng có nhiều ca nhiễm virus corona chủng mới ngoài lãnh thổ Trung Quốc nên cần phải hạn chế tình trạng lây nhiễm giữa các cá nhân. Vì thế đến lượt Trung Quốc cấm nhập cảnh đối với công dân các nước bị dịch Covid-19, trong đó có Việt Nam, sau đó là Ý và nhiều nước Châu Âu khác.
Vì vậy, xét về mặt nào đó, những biện pháp được Việt Nam đưa ra không hẳn bị Bắc Kinh coi là tiêu cực mà nên hiểu ở đây là tùy vào tiến triển nhận thức về mức độ nghiêm trọng của dịch Covid-19, các nước phải chặn trước di chuyển của người dân từ nước này sang nước khác. Và tôi cho rằng đây là một yếu tố đặc biệt góp phần vào việc giữ gìn quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Nếu nhìn vào cán cân thương mại song phương, Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc. Việt Nam có lợi về mặt kinh tế vì giao thương với Trung Quốc được nối lại, không bị ngắt quãng quá lâu, do trao đổi thương mại với Trung Quốc góp phần quan trọng vào GDP của Việt Nam. Như vậy, cả Trung Quốc và Việt Nam đều có lợi khi biên giới giữa hai nước được mở cửa trở lại và trao đổi thương mại phát triển trong bối cảnh dịch bệnh đã ổn định và dĩ nhiên cả hai nước chẳng có lợi gì khi phải đóng cửa biên giới quá lâu.
RFI : Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có lợi sau đại dịch Covid-19 vì một số doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc có thể chuyển sang Việt Nam. Bắc Kinh nhìn nhận khả năng này như thế nào ? Liệu giữa hai nước có xuất hiện cạnh tranh nào đó không ?
Laurent Gédéon : Đúng là giả thuyết một số doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc chuyển sản xuất sang Việt Nam được nhắc đến, nhưng thiên về khía cạnh chính trị, do muốn đa dạng hóa nguồn cung cấp để tránh quá phụ thuộc vào một nước nào đó, cụ thể là Trung Quốc. Giả thuyết này cũng từng được nêu nhưng về khía cạnh kinh tế, không liên quan gì đến Covid-19, vì sản xuất tại Trung Quốc không còn lợi như trước do chi phí sản xuất cao hơn.
Nhưng theo tôi, phải nêu rõ là việc di dời doanh nghiệp sẽ cần đến sự hội tụ về lợi ích, giữa lợi ích chính trị của một nước với lợi ích riêng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi ích của khối tư nhân chưa hẳn đã giống với lợi ích của chính phủ nước họ. Tương tự, không phải những lợi ích về địa chính trị được Nhà nước ưu tiên lại phù hợp với lợi ích về kinh tế của doanh nghiệp.
Người ta vẫn thường xuyên nhắc đến sự phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, nhưng đây chưa chắc là vấn đề đối với một doanh nghiệp vì họ thấy lợi ích tài chính khi đầu tư vào Trung Quốc. Cho nên, tôi nghĩ rằng những rủi ro về dịch tễ hoặc an ninh phải kéo dài thì mới có thể đẩy các doanh nghiệp rời Trung Quốc.
Ngoài ra, việc di chuyển một dây chuyền sản xuất không thể tiến hành trong vài ngày hay vài tuần. Quá trình này cần đến việc hoạt động sản xuất phải được phát triển dần dần ở nước tiếp nhận mới và hoạt động sản xuất giảm dần ở nước cũ. Nếu không làm được điều này, sản xuất có nguy cơ bị ngưng trệ đột ngột. Để chiến lược này có khả năng thực hiện được đối với một doanh nghiệp, thì cần phải có một quy chế tài chính và quy định rất hấp dẫn, cũng như điều kiện cuộc khủng hoảng dịch tễ phải đủ kéo dài để đáng di dời sản xuất khỏi Trung Quốc.
Có một điểm lưu ý khác mà tôi cũng cho là quan trọng, đó là dịch Covid-19 không chỉ tác động đến mỗi Trung Quốc, mà cả thế giới đang phải hứng chịu, kể cả các nước phương Tây. Nếu nhìn theo quan điểm của một doanh nghiệp, rủi ro tại Trung Quốc không hẳn đã cao hơn so với những nước khác.
Chúng ta cũng nhận thấy là tình hình giữa các nước muốn "hồi hương" hoạt động sản xuất cũng không giống nhau và các nước tìm cách đưa các doanh nghiệp của họ ra khỏi Trung Quốc là để phục vụ lợi ích quốc gia. Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Trong khuôn khổ "Kế hoạch Tái thiết", Tokyo dành khoản ngân sách 2 tỉ euro cho các doanh nghiệp Nhật muốn chuyển hoạt động từ Trung Quốc về nước. Dĩ nhiên Bắc Kinh không hài lòng về thông báo của Tokyo.
Việt Nam nằm trong trường hợp thứ hai. Khác với trường hợp Tokyo muốn "hồi hương" doanh nghiệp Nhật, Hà Nội tìm cách thu hút công ty nước ngoài. Và quá trình này sẽ phức tạp hơn cho Việt Nam vì hai lý do. Thứ nhất, theo quan điểm của các doanh nghiệp phương Tây, thì về mặt địa lý, Việt Nam cũng xa như Trung Quốc. Như vậy, đây không hẳn là một lợi thế về địa-chính trị liên quan đến khoảng cách quá lớn giữa nhà cung cấp và khách hàng. Ví dụ, Pháp thường xuyên nêu vấn đề di dời các doanh nghiệp Pháp từ Trung Quốc về nước, thế nhưng, khu vực Bắc Phi lại thường được nhắc đến với ưu điểm là gần với Châu Âu.
Lý do thứ hai mang tính địa chính trị đối với Việt Nam và liên quan đến tình hình Biển Đông. Các nhà đầu tư có thể do dự vì chỉ cần Biển Đông bị cản trở thì hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sẽ gần như bị tê liệt hoàn toàn. Dĩ nhiên Trung Quốc cũng sẽ bị ảnh hưởng nhưng nước này có thể thoát dễ hơn.
Tóm lại là chính sách có chủ ý, tranh thủ thời dịch Covid-19 để thu hút các doanh nghiệm từ Trung Quốc sang Việt Nam, khiến Bắc Kinh không hài lòng và chắc chắn trở thành một yếu tố mới, tăng thêm trọng lượng cho sự cạnh tranh tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này có thể sẽ bị Bắc Kinh khai thác, trong giai đoạn căng thẳng, để cố làm mất uy tín chính sách của Hà Nội.
RFI : Phải hiểu như thế nào về những hoạt động cả về hành chính lẫn quân sự được Trung Quốc tiến hành với cường độ lớn ở Biển Đông ? Việt Nam có thể làm gì để đối phó, với tư cách là nước chủ tịch luân phiên ASEAN, cũng như với tư cách là một bên bị tác động vì các hành động của Trung Quốc ?
Laurent Gédéon : Chúng ta thấy nhiều yếu tố gây hấn khác nhau, có chủ ý từ phía Trung Quốc, ở Biển Đông. Ở đây, chúng ta có thể nghĩ là Trung Quốc đã lợi dụng tình hình dịch Covid-19 để thử một kiểu "đảo chính ngoại giao" ở Biển Đông và củng cố lập trường của họ.
Ngoài ra, người ta cũng có thể hoàn toàn nhận thấy là hình ảnh một đất nước Trung Hoa bị suy yếu vì đại dịch và phải tạm rút khỏi chính trường quốc tế đã bị truyền tải trong suốt nhiều tuần. Vì vậy, việc cử tầu sân bay Liêu Ninh tập trận ở Biển Đông cũng nhằm mục đích điều chỉnh lại hình ảnh này và để nhắc nhở rằng Trung Quốc là một cường quốc chủ động và vẫn đáng tin cậy cho các tác nhân khác, trong đó có các nước trong vùng, kể cả Việt Nam.
Dĩ nhiên Việt Nam có thể thử với chức chủ tịch luân phiên của ASEAN. Nhưng nội bộ khối này lại có rất nhiều bất đồng và một số nước thành viên lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc (như Lào và Thái Lan) và trở thành những đồng minh rất hữu hiệu cho Bắc Kinh. Vì thế, đối với Hà Nội, rất khó trực tiếp vận động được toàn khối ASEAN chống Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Việt Nam có thể làm được, đó là tranh thủ chức chủ tịch ASEAN để tăng cường nỗ lực đúc kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Đó là một dự án mà có thể tập trung được một số đồng thuận nhất định trong số các nước thành viên ASEAN. Đây là một kiểu đối đầu gián tiếp và tôi cho rằng đó là đòn bẩy hành động đúng đắn nhất.
RFI : Việt Nam cũng tiến hành "ngoại giao khẩu trang", trái ngược với chiến dịch tương tự của Trung Quốc bị xem là "kiêu ngạo", theo kiểu "cứu tinh". Liệu Hà Nội có thể trông đợi vào chiến lược này để nhận được ủng hộ của quốc tế về vấn đề Biển Đông không ?
Laurent Gédéon : Đúng là cuộc chiến chống Covid-19 của Hà Nội đã tạo nên một hình ảnh rất tích cực về Việt Nam và được truyền tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông thế giới. Chính sách ngoại giao khẩu trang của Hà Nội cũng góp phần củng cố sự đánh giá tích cực về Việt Nam. Điều này diễn ra trong bối cảnh thuận lợi, mà tôi xin nhắc lại là liên quan đến việc ký kết thỏa thuận tự do trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu, có rất nhiều thông cáo được công bố trong tháng Giêng và tháng Hai 2020.
Chính vì vậy, việc thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Tô Anh Dũng, ngày 07/04, đã trao tặng cho đại sứ năm nước Châu Âu, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh Quốc, 550.000 chiếc khẩu trang được sản xuất tại Việt Nam cho thấy một hành động truyền thông mạnh mẽ và góp phần vào chiến lược "quyền lực mềm" của Việt Nam. Ngoài ra, Hà Nội cũng tặng khẩu trang cho các nước láng giềng.
Song song đó là chiến lược gây ảnh hưởng của Trung Quốc. Bắc Kinh cố không phạm một sai lầm nào trong việc xử lý khủng hoảng và đề cao mô hình chống dịch của Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh cũng tỏ lòng hào hiệp , thể hiện khả năng huy động sản xuất công nghiệp giúp các quốc gia khác vượt qua đại dịch. Trung Quốc tìm cách phổ biến hình ảnh một quốc gia nhân từ, trong khi Trung Quốc bị cáo buộc che giấu quy mô ban đầu của dịch cũng như nguồn gốc của virus corona chủng mới.
Trong bối cảnh này, chính sách ngoại giao khẩu trang của Việt Nam không đủ mạnh, theo nghĩa truyền thông, để chống lại chiến lược tầm quốc tế của Trung Quốc. Nhưng Hà Nội có thể kỳ vọng vào công luận của các nước phương Tây, chú ý hơn đến tình hình Biển Đông vì chủ đề này được đề cập ngày càng nhiều trong chương trình thời sự. Cách Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng dịch tễ để khẳng định lập trường thông qua các hoạt động quân sự cũng làm xấu hình ảnh của nước này.
Ngoài ra, cần phải bổ sung thêm một ý nữa, đó là những hành động trên của Trung Quốc diễn ra vào lúc, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngày 23/03 đã kêu gọi đình chiến trên thế giới để tập trung chống dịch Covid-19. Dĩ nhiên, tình hình ở Biển Đông không phải là cuộc chiến trực diện, nhưng có thể coi đó là những hành động quân sự gây hấn và xảy ra trong bối cảnh cả thế giới tập trung sức lực chống đại dịch. Và điều này không tương thích với hình ảnh "trấn an" mà Trung Quốc cố thể hiện. Tôi nghĩ rằng đó là những yếu tố mà Việt Nam có thể tranh thủ trong cuộc chiến tái lập lập trường riêng ở Biển Đông và thu hút sự ủng hộ của công luận thế giới trong đối sách của Hà Nội.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 18/05/2020
Dường như ‘nhắc nhở’ của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh chỉ nhằm muốn nói đến việc Việt Nam đang từng bước thực hiện việc đơn phương tạm đóng cửa khẩu biên giới với Trung Quốc (?).
Cửa khẩu quốc tế Việt-Trung Móng Cái - Ảnh minh họa
Một kịch bản đang hướng tới ?
Kịch bản về Việt Nam đơn phương tạm đóng cửa khẩu với Trung Quốc được căn cứ như sau, theo báo chí đưa tin : Chiều 30/1, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Y tế phối hợp Bộ Tư pháp chuẩn bị pháp lý sẵn sàng tuyên bố tình trạng khẩn cấp khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố tình trạng khẩn cấp y tế.
Rạng sáng (giờ Việt Nam) ngày 31/1, WHO tuyên bố sự bùng phát chủng virus Corona mới từ Trung Quốc là Tình trạng khẩn cấp y tế công cộng quốc tế (PHEIC).
Sáng ngày 31/1, Bộ Y tế và Bộ Tư pháp họp bàn về việc ban hành văn bản đảm bảo tính pháp lý để công bố tình trạng khẩn cấp về dịch do Coronavirus gây ra. Các bên liên quan sẽ báo cáo Thủ tướng, Chính phủ về việc công bố tình trạng dịch bệnh khẩn cấp tại Việt Nam.
Với ban bố PHEIC, trong ngày 31/1, WHO bắt đầu cấp hỗ trợ Việt Nam kít xét nghiệm chuẩn, sinh phẩm chẩn đoán virus corona.
Báo chí Việt Nam dồn dập cập nhật tin tức về dịch bệnh này, đặc biệt là nêu cụ thể các địa phương có liên quan đến ‘yếu tố’ Trung Quốc, trong đó có cả vụ "trước nguy cơ dịch bệnh do virus Corona gây ra, chuyến tàu khách liên vận quốc tế từ ga Gia Lâm (Hà Nội) đi Trung Quốc vẫn hoạt động bình thường", đăng trên báo điện tử Tiền Phong lúc 10g33 ngày 31/1.
Làn sóng công luận cũng phản ứng gay gắt trước một trích dẫn đăng trên tờ Zing ngày 30/1, "Về ý kiến có đóng cửa biên giới hay không, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh cho rằng đây là một mức độ khác. Mặt khác, Việt Nam và Trung Quốc có ký kết hiệp ước, nếu liên quan an ninh và dịch bệnh thì có thể đóng cửa nhưng phải có thỏa thuận giữa hai bên chứ Việt Nam không thể đơn phương" (1). Rất nhanh sau đó, mạng xã hội đã chỉ ra ở bản hiệp ước này có điều khoản về việc có thể đơn phương tạm đóng cửa biên giới nếu như tối thiểu 24 tiếng trước khi đóng cửa có công văn gửi cho Trung Quốc. Tuy nhiên mạng xã hội không phân tích về các nội dung pháp lý của thỏa thuận này.
Có bao nhiêu cửa khẩu sẽ đóng ?
Một luật gia tại Sài Gòn (ông cũng đồng thời là hội viên của Hội nhà báo độc lập Việt Nam), nói rằng cần cảm ơn về nhắc nhở của ông Phạm Bình Minh mà đồng nghiệp ở tờ Zing đã khéo léo thuật lại.
Tìm đọc thêm Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề mà Ngoại trưởng Phạm Bình Minh ‘nhắc nhở’ (2).
Theo phân tích của vị luật gia nói trên, thì "Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" được ký kết từ căn cứ quy định tại Điều 23, Chương VI của "Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa".
Hiệp định nói trên ký tại Bắc Kinh, ngày 18 tháng 11 năm 2009. Thời điểm ký kết, có 9 cặp cửa khẩu cụ thể như sau :
1. Ma Lù Thàng (tên cửa khẩu của Việt Nam) – Kim Thủy Hà (tên cửa khẩu của Trung Quốc). Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 66 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là xã Ma Ly Pho, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, Việt Nam và thị trấn Kim Thủy Hà, huyện Kim Bình, châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu song phương.
2. Lào Cai (đường bộ) – Hà Khẩu (đường bộ). Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 102, 103 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Việt Nam và thị trấn Hà Khẩu, huyện Hà Khẩu, châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu quốc tế.
3. Lào Cai (đường sắt) – Hà Khẩu (đường sắt). Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 102, 103 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Việt Nam và thị trấn Hà Khẩu, huyện Hà Khẩu, châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu quốc tế.
4. Thanh Thủy – Thiên Bảo. Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 261 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Việt Nam và thị trấn Thiên Bảo, huyện Ma Ly Pho, châu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu song phương.
5. Trà Lĩnh – Long Bang. Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 741, 742 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thị trấn Trà Lĩnh, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam và thị trấn Long Bang, huyện Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc, Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu song phương.
6. Tà Lùng – Thủy Khẩu. Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 943 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam và thị trấn Thủy Khẩu, huyện Long Châu, thành phố Sùng Tả, Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu song phương.
7. Hữu Nghị – Hữu Nghị Quan. Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 1116, 1117 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam và thị trấn Hữu Nghị, thành phố Bằng Tường, thành phố Sùng Tả, Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu quốc tế.
8. Đồng Đăng (đường sắt) – Bằng Tường (đường sắt). Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 1121, 1122 trên biên giới Việt –Trung. Hai bên cửa khẩu là thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam và thị trấn Hữu Nghị, thành phố Bằng Tường, Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu quốc tế.
9. Móng Cái – Đông Hưng. Cửa khẩu này nằm gần mốc giới số 1369 trên biên giới Việt – Trung. Hai bên cửa khẩu là thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam và thành phố Đông Hưng, thành phố cảng Phòng Thành, Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu này là cửa khẩu quốc tế.
"Nếu sắp tới đây phía Chính phủ Việt Nam đơn phương tạm đóng cửa khẩu từ biên giới Việt Nam thì cộng đồng cần kiểm tra xem có đóng đủ cả 9 cửa khẩu hay không ?" – vị luật gia lưu ý.
Chờ đợi… bản lĩnh chính trị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
Về quy định liên quan phần thủ tục của việc tạm đóng cửa khẩu, ở Điều 5.3 của Hiệp định ghi : "Để bảo vệ lợi ích xã hội, an ninh quốc gia hoặc vì lý do thiên tai nghiêm trọng, dịch bệnh truyền nhiễm lớn, dịch bệnh động thực vật và các trường hợp bất khả kháng khác, một Bên có thể tạm thời đóng hoặc hạn chế việc qua lại cửa khẩu. Tuy nhiên, cần phải thông báo cho phía Bên kia trước 5 ngày, trong trường hợp khẩn cấp không được ít hơn 24 giờ".
Như vậy, với ban bố PHEIC "Tình trạng khẩn cấp y tế công cộng quốc tế", kèm động thái ngày 31/1, hai bộ Y tế và Tư pháp của Việt Nam họp bàn về việc ban hành văn bản đảm bảo tính pháp lý để công bố tình trạng khẩn cấp về dịch do Coronavirus gây ra, cho thấy đã đủ căn cứ pháp lý để phía Chính phủ Việt Nam có công hàm thông báo về việc tạm đóng cửa khẩu biên giới đối với Trung Quốc.
Nói thêm, trong ngày 31/1, theo Thông tấn xã Việt Nam, ở cuộc họp có tên khá dài "Ban Bí thư để đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị 40 của Ban Bí thư về tổ chức Tết năm 2020 ; xem xét, quyết định về công tác cán bộ" do ông Nguyễn Phú Trọng chủ trì, đã đặt vấn đề "Trọng tâm, cấp bách chống virus Corona".
Tuy nhiên tất cả phân tích ở trên vẫn là lập luận mang tính giả định. Tất cả vẫn còn chờ đợi bản lĩnh chính trị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến đâu trong ‘cuộc chiến’ với dịch virus Corona này.
Lynn Huỳnh
Nguồn : VNTB, 01/02/2020
(1) https://news.zing.vn/pho-thu-tuong-chua-den-muc-dong-cua-bien-gioi-vi-virus-corona-post1041070.html