Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Thể chế có vấn đề ?

Nguyễn Nam, VNTB, 18/06/2023

"Một nhà nước pháp quyền sao lại đặt vấn đề chủ nghĩa cá nhân trong công việc quản trị quốc gia ?"

theche1

Chính phủ đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết về khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm…

"Một nhà nước pháp quyền sao lại đặt vấn đề chủ nghĩa cá nhân trong công việc quản trị quốc gia" – đây là câu hỏi dễ bật ra khi người dân hiểu rằng với đề nghị này của chính phủ, có nghĩa lâu nay động từ ‘dám’ trong chuyện quản lý hành chính mới là điều quyết định, chứ không phải tuân thủ theo pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ mới là nguyên tắc chung.

Hệ quả của Đảng trị

Trong một hội luận cuối tuần của nhóm thân hữu đang cộng tác với trang Việt Nam Thời Báo, bàn luận chủ đề trên, nhiều ý kiến nhìn nhận sở dĩ phải lệ thuộc vào động từ "dám" vì rất nhiều trường hợp phía lãnh đạo Đảng đã đưa ra những "định hướng" mang tính chủ quan của "thượng tầng chính trị bảo thủ", nên phía thực hiện ở cấp dưới để làm tốt trách nhiệm công vụ, họ phải cần đến hành động gọi là "dám" của "dám chơi, dám chịu" cho việc mà Chính phủ đang muốn được "luật hóa" từ đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết về khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm.

Đơn cử tại phiên họp đầu tiên của chính phủ nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào sáng ngày 11/8/2021, trong diễn văn huấn thị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc lại về cung cách quản trị quốc gia của Đảng :

"Chúng ta biết rằng, hệ thống chính trị ở nước ta gồm có 3 bộ phận : Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chủ trương, phương hướng xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, mở rộng các quan hệ đối ngoại.

Nhà nước bao gồm Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp quản lý có nghĩa là Nhà nước tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, biến nó thành hiện thực. Nhân dân thông qua Mặt trận, các tổ chức quần chúng thành viên của Mặt trận làm chủ là chủ thể thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước và được thụ hưởng các thành quả do mình làm ra.

Riêng về các cơ quan nhà nước thì Quốc hội là cơ quan lập hiến, lập pháp, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng ; Chính phủ là cơ quan hành pháp, có trách nhiệm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện, biến luật pháp của Nhà nước, tức cũng là đường lối của Đảng thành hiện thực, tạo ra của cải vật chất, quản lý xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho toàn thể nhân dân, cho đất nước ; các cơ quan tư pháp gồm Tòa án, Viện Kiểm sát… là cơ quan bảo vệ pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn cho xã hội, cho nhân dân".

Thượng tầng chính trị bảo thủ đã khiến hạ tầng rối ren

Vẫn theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì mối quan hệ hữu cơ trên được ông nhìn nhận đầy phấn khích rằng :

"Hội nghị của chúng ta hôm nay diễn ra vào thời điểm có nhiều sự kiện lớn của đất nước, thể hiện sự phối hợp rất nhịp nhàng, ăn khớp của cả hệ thống chính trị ở nước ta ; sự đoàn kết nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ; một phương thức, cách làm rất bài bản, hợp lý, khoa học, theo tinh thần "Trên dưới đồng lòng", "tiền hô hậu ủng", "nhất hô bá ứng" và "dọc ngang thông suốt".

Vì sao tôi dám nói như vậy ? Tôi xin chứng minh : Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới bên cạnh thuận lợi cũng có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là phải đối phó với dịch bệnh Covid-19, chúng ta đã tiến hành rất thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (tháng 01/2021) ; tiếp theo đó là 3 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ; tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 với quy mô lớn nhất từ trước đến nay (tháng 5/2021) ; tiến hành Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XV (tháng 7/2021) để kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự và triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đại hội XIII và các nghị quyết hội nghị của Trung ương Đảng.

Các cấp, các ngành đã khẩn trương triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quyết định của Trung ương theo đúng tiến độ, kịp thời, với sự đồng thuận, nhất trí cao, dư luận quốc tế rất quan tâm. Chính phủ họp hôm nay cũng chỉ sau Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV có mấy ngày.

Tôi được biết, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đang tích cực, khẩn trương chuẩn bị để sẽ họp Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng sau Hội nghị này của Chính phủ. Rõ ràng, đây là sự phối hợp rất cần thiết, rất nhịp nhàng, bài bản, và thực tế cho thấy đây là cách làm hợp lý, cho kết quả tốt đẹp"…

Như vậy, với cách hiểu thông thường của tam đoạn luận, rõ ràng là một khi định hướng của đường lối – chủ trương từ Đảng thiếu rõ ràng, nặng tính duy ý chí, thì buộc cấp thừa hành nếu muốn quản trị tốt quốc gia, họ cần phải biết "dám" lên tiếng và "dám" hành động dứt khoát với những gì mà Đảng đã quá bảo thủ.

Nguyễn Nam

Nguồn : VNTB, 18/06/2023

****************************

Vì còn Đảng còn mình nên "Đảng bảo gì, làm đấy"

Thới Bình, VNTB, 18/06/2023

Chính phủ Phạm Minh Chính đang đề nghị Quốc hội ‘luật hóa’ việc "dám nghĩ – dám làm" bằng một nghị quyết…

theche2

"Sếp bảo gì làm đấy, cứ đều đều, cầm chừng cho an toàn !"

Có một vấn đề cần bàn luận cho đề nghị đó : nếu đã "còn Đảng thì còn mình" như nhắc nhở của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ở hội nghị của Bộ Công an hồi trung tuần tháng 6 vừa qua, thì một khi "Đảng bảo gì" cần "phải làm đấy" (!?).

Ông bạn của người viết bài này kể rằng khi sinh hoạt lúc trà dư tửu hậu ở Hiệp hội Khoa học hành chính Việt Nam, ông đã chứng kiến không ít cán bộ, kể cả người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị không dám ký các văn bản, nhất là liên quan đến đấu thầu, đầu tư, xây dựng, quản lý đất đai… do lo sợ nếu chẳng may có vấn đề sai phạm sẽ phải "vào tù".

"Có cán bộ rất có năng lực, trí tuệ nhưng khi tôi hỏi vì sao không dám làm đã thẳng thắn trả lời rằng "nếu làm chẳng may sau này sai dù không tư lợi, đều vì cái chung nhưng sẽ chẳng có ai bảo vệ, có thể bị kỷ luật, đi tù. Cho nên "sếp bảo gì làm đấy, cứ đều đều, cầm chừng cho an toàn". Nếu việc có chậm trễ, bị phê bình thì cùng lắm chỉ bị nhắc nhở, phê bình hay mất thi đua…" – người bạn này kể như vậy.

Quản trị quốc gia trong bối cảnh lệ thuộc vào ‘mệnh lệnh’ của các cấp từ Tổng bí thư tối cao cho đến những Bí thư Tỉnh/ Thành/ Đảng/ Đoàn sẽ đưa đến ranh giới giữa dám nghĩ, dám làm, đột phá với vi phạm pháp luật nhiều khi trở nên rất mong manh. Điều này khiến cán bộ chùn bước và mang trong mình tâm lý những gì pháp luật chưa quy định thì thôi không tham mưu, không làm.

Thậm chí đâu đó người ta vẫn nghe có cán bộ đã phát biểu công khai "nếu làm thì sợ sai nên chỉ làm việc cầm chừng để không có sai phạm, không bị xử lý".

Trong quá khứ từng xảy ra sự việc vì "dám nghĩ – dám làm" mà vướng lao lý, đến mức khi ấy Thủ tướng Võ Văn Kiệt biết rõ sự tình nhưng vẫn không cách gì xoay trở được sự cứng nhắc của người đứng đầu Bộ Chính trị lúc đó.

Đó là ông Vũ Ngọc Hải – cựu Bộ trưởng Năng lượng – đang chịu án tù nhưng được Thủ tướng Võ Văn Kiệt và 28 bộ trưởng, thứ trưởng tới thăm vì công lao lớn cho đường dây 500 KV.

Sau khi hoàn thành công trình xây dựng đường dây truyền tải điện Bắc Nam 500KV, ông bị khởi tố vì Bộ Chính trị cho rằng ông có những sai phạm trong dự án này. Ông bị án phạt 3 năm tù giam và được đặc xá sau khi thụ án 1 năm tại Trại Thanh Xuân (V26, Bộ Công an).

Thông thường, khi đặc xá mỗi phạm nhân phải viết một bản tường trình, trong đó phải viết "tôi đã nhận rõ tội lỗi" ; nhưng ông Vũ Ngọc Hải dứt khoát không viết như vậy.

Về sau, trong những dịp trò chuyện với báo chí, ông Vũ Ngọc Hải nhắc rằng, "Thủ tướng có nói với tôi, nếu đường dây 500KV không thành công thì ông sẽ từ chức. Tôi có nói với anh em ngành điện là ông Kiệt phát biểu như thế đấy. Ngoài ra, trong quá trình làm, có nhiều người ở miền Nam gọi điện ra nói là trong đó đang rất thiếu điện, càng giúp chúng tôi có thêm động lực để quyết tâm hơn".

Theo ông Hải, thực tế Thủ tướng Võ Văn Kiệt không phải chuyên gia ngành điện nhưng Thủ tướng hiểu rằng không có năng lượng, không có điện thì không thể phát triển kinh tế được. Do đó, Thủ tướng rất ủng hộ và được Thủ tướng hỗ trợ nên công trình gặp nhiều may mắn.

"Một lần, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi thăm công trường trên đèo Lò Xo. Khi thấy công nhân còn nhiều khó khăn, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đồng cảm và chỉ đạo Bộ Năng lượng và Bộ Y tế tính cơ chế riêng cho anh em kỹ sư, công nhân thực hiện công trình này để Thủ tướng giải quyết. Ngay sau đó, anh em làm việc trên rừng được bổ sung thêm thực phẩm, dinh dưỡng để đảm bảo sức khỏe làm việc, đẩy nhanh tiến độ cho công trình", ông Hải kể.

Trong hồi ức, ông Hải nói rằng đầu tiên là những ý kiến phản đối, vì cho rằng công trình sẽ gây lãng phí ngân sách. Một luồng ý kiến khác lại đề xuất bán điện sang Trung Quốc để thắt chặt mối quan hệ bang giao của hai nước.

Nhưng vướng mắc lớn nhất đó là kinh tế. Lúc bấy giờ kinh tế rất khó khăn, công trình quy hoạch là đến năm 1995 nhưng năm 1992 đã bắt đầu, cái này không có trong kế hoạch mà phải chi hàng trăm ngàn tỷ.

"Ngày 5/4/1992, giữa lúc Quốc hội đang có cuộc họp quan trọng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo khởi công công trình tại các cụm điểm : một vị trí ở Mãn Đức (Hòa Bình), một vị trí ở Hòa Sơn – Hòa Vang (Đà Nẵng) và một vị trí ở Phú Lâm" – ông Vũ Ngọc Hải nhắc lại.

Từ câu chuyện trên cho thấy trong yêu cầu "dám nghĩ, dám làm" ở hiện tại đang cần đến những chính khách "dám chơi, dám chịu" ở tầm đứng đầu Chính phủ như ông Võ Văn Kiệt hồi nào.

Thới Bình

Nguồn : VNTB, 18/06/2023

Published in Diễn đàn

Th chế có th s tr thành tr ngi ln đi vi vic hin thc hóa khát vng tr thành quc gia thu nhp cao vào năm 2045, mt báo cáo mi công b hôm 18/5 ca Ngân hàng Thế gii (WB) đưa ra nhn đnh.

theche1

Mt góc đường Hà Ni. Ngân hàng Thế gii cho rng trong 35 năm qua, Vit Nam đã trin khai thc thi nhng ưu tiên phát trin vi kết qu chưa được đng đu.

Theo WB, đ thc hin được mc tiêu trên, Vit Nam cn chuyn đi mô hình tăng trưởng và ci thin rõ rt năng lc trong phi hp và trin khai nhng ci cách chính sách kinh tế và đu tư công.

Báo cáo có tên "Đ tươi sc đào xuân - ci cách th chế hướng ti thc thi hiu qu" ca WB nói mô hình tăng trưởng truyn thng ca Vit Nam đang đi mt vi nhng thách thc ln do đi dch Covid-19, toàn cu hóa chng li và nguy cơ ngày càng d b tn thương đi vi nhng cú sc bên ngoài, trong đó có ri ro khí hu.

"GDP theo đu người ca Vit Nam đã tăng gp năm ln sau ba thp k qua, trong khi th chế ca quc gia chưa thích ng vi tc đ thay đi đó k t thi k Đi mi vào cui thp k 1980", bà Carolyn Turk, Giám đc Quc gia Ngân hàng Thế gii ti Vit Nam, nhn đnh trong thông cáo đưa ra hôm 18/5.

Theo bà Carolyn Turk, "Ci cách th chế đng b có th giúp quc gia tránh by thu nhp trung bình qua nâng cao hiu qu ng phó vi nhng thách thc mi và phc tp phát sinh trong nước và trên toàn cu".

WB cho rng trong 35 năm qua, Vit Nam đã trin khai thc thi nhng ưu tiên phát trin vi kết qu chưa được đng đu. Mc dù quc gia Đông Nam Á đã m ca thương mi và hòa nhp xã hi, nhưng vn chưa đt kết qu mong mun v đy mnh tăng trưởng xanh và nâng cp h tng cơ bn ca quc gia.

Đ đt được mc tiêu tr thành quc gia thu nhp cao vào năm 2045, WB cho rng có 5 ci cách th chế quan trng mà Vit Nam cn trin khai. Các ci cách này bao gm : to nn tng th chế vng chc cho tng ưu tiên phát trin nhm biến nhng ưu tiên phát trin đó thành hành đng c th ; hài hòa các quy trình, th tc hành chính đ nâng cao hiu qu ca chính quyn các cp ; s dng các công c th trường đ to đng lc cho các bên liên quan trong khu vc nhà nước và tư nhân ; thc thi hiu lc các quy đnh và quy tc nhm nâng cao đng lc, lòng tin và công bng ; áp dng các quy trình có s tham gia đ đm bo nâng cao minh bch và trách nhim gii trình.

Ngân hàng Thế gii nói Vit Nam cn tiếp tc ci cách th chế vi quy mô như tng được trin khai trong thi k Đi mi ca thp k 1980 và thành công như trin khai m ca thương mi trong hai thp k qua.

Theo d báo ca WB, nn kinh tế Vit Nam có th tiến ti mc tăng trưởng GDP trước đi dch là 6,0 đến 6,5% t năm 2022 tr đi. Tuy d báo này được cho là tích cc nhưng vn thp hơn 4.5% so vi mc tăng trưởng GDP bình quân ca Vit Nam trong thi k trước đi dch Covid-19.

Published in Việt Nam

Tóm tắtBài viết này sẽ điểm lại những nghiên cứu liên quan đến thể chế chính trị của các chính thể ở miền Trung Việt Nam thời kỳ cổ – trung đại thông qua những nghiên cứu về thể chế chính trị của vương quốc Champa, từ những quan điểm cho rằng Champa là một vương quốc theo kiểu tập quyền đến quan điểm coi đây là một liên bang (hoặc liên hiệp). Sau đó, chúng tôi trình bày những công trình về thể chế liên bang Champa khi ý tưởng này đã được chấp thuận rộng rãiNhững nghiên cứu về thể chế chính trị của liên bang Champa giúp chúng ta có những tiếp cận tham chiếu về nguồn gốc và những đặc thù của thể chế chính trị ở miền Trung thời kỳ Chúa Nguyễn.

Đổng Thành Danh

champa1

Quần thể Thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam

1. Dẫn nhập

Những thể chế chính trị tại miền Trung Việt Nam trong quá khứ vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ hay trở thành một đối tượng nghiên cứu nghiêm túc trên bình diện học thuật. Thể chế chính trị của khu vực này vốn chỉ được nhìn nhận một cách tương đối, bắt đầu từ thể chế Đàng Trong, một thực thể vốn chỉ hình thành từ khoảng 500 năm trước, tức là kể từ khi Nguyễn Hoàng rời đất Bắc di chuyển về phương Nam nhận lãnh trách nhiệm Trấn thủ Thuận – Quảng năm 1558 [1]. Nhưng nếu ta chỉ nhận thức về lịch sử miền Trung và thể chế chính trị của khu vực này bắt đầu từ thời điểm ấy thì ta sẽ bỏ cả một khoảng trống lịch sử kéo dài hơn hàng ngàn năm trước đó. Vậy thì lý do gì khiến chúng ta vẫn hình dung ý niệm về thể chế chính trị của miền Trung bắt đầu từ thực thể xứ Đàng Trong chứ không phải là xa hơn thế nữa ? Phải chăng chỉ vì những thể chế chính trị trước đó không phải do người Việt tạo nên ?

Nhưng dù lý do là gì đi nữa, những ý niệm này là chưa hoàn chỉnh, bởi vì như bất kỳ một chuyên khảo nào nghiên cứu về xứ Đàng Trong, các học giả không thể bỏ qua những tiền đề hình thành khu vực này cũng như bản chất chính trị của thực thể ấy trong suốt thời kỳ chúa Nguyễn. Trong những nghiên cứu đó, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, những yếu tố liên quan đến vương quốc Champa [2] cổ vẫn luôn được nhắc đến như những di sản mà từ đó người Việt thừa hưởng để xây dựng nên các đặc thù của xứ Đàng Trong, trong đó có cả những thiết chế chính trị [3]. Đó là những thiết chế được manh nha từ thời kỳ hình thành các nhà nước tiền Champa, được củng cố trong suốt thời kỳ tồn tại của vương quốc Champa, được tiếp thu và vận dụng linh hoạt dưới thời kỳ các chúa Nguyễn.

Trong tinh thần đó, để có thể nhận thức tường tận các thể chế chính trị đã từng tồn tại ở miền Trung Việt Nam trong lịch sử, thiết nghĩ những nghiên cứu học thuật hiện nay không nên chỉ dừng lại ở thể chế Đàng Trong thời chúa Nguyễn, mà nên lùi xa hơn đến thể chế chính trị Champa trong quá khứ. Bài viết này sẽ không đi sâu vào phân tích các đặc thù của thể chế ấy, nhưng điểm lại những quan điểm của giới học thuật trong quá trình nghiên cứu về thể chế chính trị của vương quốc Champa, một vương quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tiến trình lịch sử Việt Nam. Và biết đâu từ đó, ta có thể hiểu biết hơn về những đặc trưng của thể chế chính trị miền Trung trong suốt cả tiến trình lịch sử từ cổ đại đến trung đại.

champa2

Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam

2. Những quan điểm tranh luận về thể chế chính trị của Champa

Những nghiên cứu đầu tiên về thể chế chính trị của vương quốc Champa bắt đầu từ những tranh luận về chính thể tập quyền hay liên bang của vương quốc này. Nhưng ít ai biết rằng nguồn gốc của những tranh luận này lại bắt nguồn từ những tài liệu sơ cấp khác nhau mà các nhà Champa học tiếp cận, có thể kể ra ba nhóm tư liệu chính : các bia ký viết bằng chữ Phạn và chữ Chăm cổ [4] ; các biên niên sử của Trung Hoa và Việt Nam có đề cập đến Champa [5] ; các thư tịch cổ bằng giấy hoặc lá buông của người Chăm viết bằng chữ Chăm đương đại hiện được lưu giữ trong các gia đình người Chăm hoặc được lưu trữ tại các bảo tàng, thư viện trong và ngoài nước [6].

Étienne Aymonier là một trong những nhà Champa học đầu tiên đã có những tiếp cận và đối sánh giữa các nguồn tư liệu như văn bia và thư tịch Chăm để nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của người Chăm. Xuất phẩm đáng chú ý của ông là một chuyên khảo đầy đủ về Biên niên sử hoàng gia Chăm, một tư liệu lịch sử nằm trong nhóm thư tịch chép tay của người Chăm [7]. Trong công trình này, khi đối chiếu với các nguồn tư liệu từ bia ký hay các biên niên sử của Trung Hoa, Đại Việt, Aymonier nhận thấy những sai lệch về niên đại trị vì của các vị vua Champa, từ đó ông cho rằng những tư liệu này chỉ mang tính chất huyền sử chứ không hề có giá trị về mặt lịch sử [8].

Mười lăm năm sau đó, năm 1905, trong một bài viết đăng trên tập san của trường Viễn Đông Bác cổ, E. Durand [9] lại đưa ra những quan điểm ngược lại về Biên niên sử Chăm. Ông cho rằng những biên niên sử này là có giá trị về mặt lịch sử, vì nó không ghi nhận gia phả của các vị vua đóng đô ở phía Bắc Champa như các bia ký hay văn bản Trung Hoa và Đại Việt, ngược lại, những văn bản này chỉ ghi nhận danh sách các vị vua đóng đô ở phía Nam, thuộc vùng Panduranga (tức Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay) [10]. Nếu giả thuyết của E. Durand là chính xác, thì trong thực tế có đến hai vương triều Champa trong lịch sử : một đóng đô ở phía Bắc, một đóng đô ở phía Nam, và quan điểm này cần phải được xem xét hay đặt câu hỏi một cách nghiêm túc : phải chăng Champa là một vương quốc có hai chính thể khác biệt ?

Tiếc thay, những công trình sau đó về lịch sử Champa không hề để ý đến câu hỏi này để rồi lại đi vào lối mòn của Aymonier. Năm 1928, G. Maspero xuất bản một công trình nghiên cứu về Champa nhưng chỉ dựa vào các văn bia và biên niên sử của Trung Hoa, Đại Việt, chứ không hề sử dụng các thư tịch Chăm, trong đó có Biên niên sử hoàng gia Chăm, cũng không để ý đến giả thuyết mà Durand đã nêu ra [11]. Cũng vì thế, Maspero chỉ đề cập đến lịch sử Champa thông qua các vương triều đóng đô ở phía Bắc, mà không hề nhắc đến sự tồn tại của một triều đình khác ở phía Nam Champa, cũng không hề quan tâm đến việc có hay không một chính thể liên bang hay liên hiệp nhiều tiểu quốc của Champa, mà chỉ xem vương quốc này là một quốc gia thống nhất, theo thể chế tập quyền như Trung Hoa hay Đại Việt. Có chăng ông chỉ nhắc đến các địa hạt thuộc vương quốc Champa như Amaravati, Vijaya, Panduranga [12].

Năm 1965, một công trình lịch sử nữa của Champa được xuất bản bởi Dohamide và Dorohiem [13]. Nhưng dường như hai tác giả của công trình này cũng không hề quan tâm đến giả thuyết của Durand. Thay vào đó, họ đi theo quan điểm của Aymonier, tức là chỉ xem Biên niên sử hoàng gia Chăm như là những văn bản không có giá trị lịch sử, theo như cách nói của họ : "nội dung của các câu truyện cổ [các biên niên sử hoàng gia Chăm]… cũng tùy thuộc vào hứng khởi, trí tưởng tượng, khiến hậu thế khó mà vịn vào đó để tìm sự thật… lắm lúc được tô thêm ít huyền thoại…" [14]. Cũng chính vì vậy, như Maspero, hai tác giả này chỉ khắc họa lịch sử Champa như một vương quốc với một triều đình duy nhất, không hề đề cập đến một triều đình khác ở phía Nam, hay nói cách khác, hai tác giả này cũng xem Champa như một quốc gia có chính thể tập quyền.

Năm 1978, Po Dharma xem xét nghiêm túc giả thuyết của Durand, tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về các Biên niên sử hoàng gia Chăm và đi đến kết luận rằng các văn bản này là có giá trị về mặt lịch sử, nhưng sở dĩ nó không trùng khớp với niên đại của các vị vua ở Bắc Champa vì nó chỉ là danh sách các vị vua của Panduranga ở phía Nam, do đó ông gọi tên các văn bản này là Biên niên sử hoàng gia Panduranga [15]. Trên cơ sở này, Po Dharma lập luận trong một công trình được xuất bản sau đó rằng Champa có đến hai tiểu quốc là Vijaya và Panduranga. Vijaya thì thất thủ sau năm 1471, trong khi Panduranga vẫn tồn tại cho đến tận năm 1832 [16]. Sau đó không lâu, trong một hội thảo quốc tế về Champa, Po Dharma tiếp tục phát triển ý tưởng này và đi đến khẳng định Champa là một quốc gia theo thể chế liên bang bao gồm 5 tiểu quốc Indrapura, Amarawati, Vijaya, Kauthara và Panduranga [17].

Những công bố của Po Dharma đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong nhận thức về thể chế chính trị của vương quốc Champa, trường phái "xét lại" (revisionist), theo cách gọi của Bruce M. Lockhart [18], đã giành được sự chấp thuận của các nhà Champa học về sau. Kể từ đó, vương quốc Champa không còn được xem như một quốc gia thống nhất với chế độ quân chủ tập quyền như Trung Hoa hay Đại Việt nữa, thay vào đó nó được thừa nhận là một quốc gia liên bang, bao gồm 5 tiểu quốc Indrapura (Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay), Amaravati (Thừa Thiên, Quảng Nam), Vijaya (Quảng Ngãi, Bình Định), Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa) và Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận). Trong đó có một tiểu quốc giữ vai trò chủ đạo (trước thế kỷ thứ 10 là Amarawati, từ thế kỷ 10 – 15 là tiểu quốc Vijaya), vua của tiểu quốc đó cũng chính là vua của liên bang, thường được gọi là Rajadiraja (vua của các vị vua) [19].

Tuy nhiên, cho đến tận những năm gần đây, cuộc tranh luận về việc Champa thật sự có theo thể chế liên bang hoặc liên hiệp vẫn còn tiếp diễn. Năm 2004, trong một chuyên khảo về lịch sử Champa, Giáo sư Lương Ninh đặt nghi vấn về thể chế này, với kết luận : "nếu đem áp dụng [lý thuyết Mandala tức liên bang] ở đây [Champa], tôi chỉ tán đồng một nửa" [20]. Quan điểm này nhanh chóng vấp phải sự phản ứng của một số các học giả. M. S. Bertrand ngay lập tức đã viết bài phản biện cuốn sách của Lương Ninh trong đó có phản bác quan điểm này [21]. Hay gần đây hơn là những tranh luận về thể chế chính trị của Champa xung quanh bài trao đổi của Lâm Thị Mỹ Dung với Nhà Nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông [22].

3. Những quan điểm và giả thuyết về thể chế liên bang của Champa

Một khi quan điểm về một Champa theo thể chế liên bang đã được chấp nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu, thì các học giả lại đi vào xem xét bản chất của thể chế này trong suốt tiến trình lịch sử Champa. Các nhà Champa học muốn lý giải xem thể chế liên bang này vận hành như thế nào ? Điều gì tác động đến cách vận hành của hệ thống đó ? Vai trò của chính quyền trung ương và các tiểu quốc, cũng như mối quan hệ của chúng, trong hệ thống liên bang hay những đặc trưng của thể chế liên bang ở Champa… Nhiều câu hỏi, nhiều vấn đề đã đặt ra và lôi cuốn giới học giả vào truy tìm lời giải. Chính trong tinh thần đó, những công trình, bài viết nghiên cứu về liên bang Champa ngày một xuất hiện nhiều trên các diễn đàn khoa học, nhất là ở trong nước.

Từ những năm 1970 – 1980, cùng với sự phát triển về quan điểm liên bang trong thể chế chính trị của Champa, những nhà nghiên cứu về mô hình các nhà nước Đông Nam Á thời cổ đã phát triển nhiều lý thuyết mang tính bước ngoặc, điều được các học giả về sau khi nghiên cứu về thể chế chính trị của Champa tiếp thu. Đó là các mô hình về đặc trưng và bản chất của những nhà nước Đông Nam Á thời cổ – trung. Nổi bật trong các mô hình đó là mô hình "chính thể ngân hà" của Tambiah [23], mô hình Mandala [24] do O. W. Wolters đề xuất, hay mô hình "không gian văn hóa – chính trị quần đảo" của Keith Taylor [25], trong số đó mô hình Mandala được đông đảo các Nhà nghiên cứu về nền chính trị Champa áp dụng [26].3

Trần Kỳ Phương có thể là người đầu tiên công bố những quan điểm về sự hình thành, cấu trúc và cách thức tổ chức của từng tiểu quốc thuộc liên bang Champa. Trong một công bố năm 1991, Trần Kỳ Phương và đồng sự đã nêu giả định rằng mỗi tiểu quốc trong vương quốc Champa có thể được hình thành dựa vào năm yếu tố phong thủy như : 1) Núi thiêng, tượng trưng thần Siva ; 2) Sông thiêng, tượng trưng nữ thần Ganga vợ thần Siva ; 3) Cửa biển thiêng ; nơi giao dịch buôn bán, trung tâm hải thương ; 4) Thành phố thiêng, nơi cư ngụ của vua và hoàng tộc, trung tâm vương quyền ; 5) Ðất thiêng, nơi thờ tự thần linh và tổ tiên, trung tâm thần quyền. Theo đó, tiểu quốc Amaravati ở vùng Quảng Nam được hình thành dựa trên những yếu tố sau : Núi thiêng là Mahaparvata hay núi Mỹ Sơn/Răng Mèo ; Sông thiêng là sông Thu Bồn ; Cửa biển thiêng là Cửa Ðại Chiêm/Hội An ; Thành phố thiêng là Simhapura/Thành Sư Tử tại Trà Kiệu ; Ðất thiêng là khu đền thờ Srisanabhadresvara tại Mỹ Sơn. Ranh giới của mỗi mandala có lẽ được ấn định bởi những ngọn đèo, nhưng đây chỉ là ranh giới có tính chất tượng trưng vì đất đai được cai quản bởi thần linh [27].

Giáo sư Trần Quốc Vượng, cùng thời gian đó, cũng đã công bố những nghiên cứu liên quan đến thể chế liên bang của Champa. Theo ông khi chấp nhận Champa như một Mandala thì một "vùng", một "tiểu quốc" ở Champa sẽ được quy hoạch theo mô hình : Núi (nơi đặt thánh địa) – đồng bằng (nơi đặt thành thị) – duyên hải (nơi đặt cảng thị) – đảo ven bờ (cũng giữ vai trò thương mại) tất cả được phân bố theo một trục sông chảy từ núi ra biển theo hướng Tây – Đông. Lấy ví dụ, ở Quảng Nam : thánh địa Mỹ Sơn ở núi Chúa – thành Trà Kiệu ở đồng bằng – cảng Hội An ở ven biển – xa hơn là đảo Cù Lao Chàm, 4 yếu tố này đều quy hoạch theo trục sông Thu Bồn, kết nối núi và biển. Giáo sư Trần Quốc Vượng, sau đó tiếp tục mở rộng vùng khảo sát để phát triển giả thuyết của mình khắp miền Trung với các mô hình tương tự mà ông nêu ra là ở Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên, Bình Định, Khánh Hòa và Đồng Nai… Tuy nhiên, việc áp dụng giả thuyết này trong trường hợp tiểu quốc Panduranga vẫn chưa được ông nhắc đến và được xem như một khác biệt [28].

Một nghiên cứu khác cũng rất đáng chú ý liên quan đến thể chế Mandala Champa của Giáo sư Momoki Shiro, đó là bài viết liên quan đến thể chế liên bang của Champa thông qua việc tham chiếu các nguồn thư tịch của Trung Hoa liên quan đến vương quốc này. Khi dẫn các nguồn tài liệu của Trung Hoa, Giáo sư cho rằng Champa có ít nhất hơn 10 nước lớn nhỏ như Xinzhou, Jiuzhou, Wuli, Rili, Yueli, Weirui, Bintonglong, Wumaba, Longrong, Puluowuliang, Baopiqi… Do vậy, theo Giáo sư Shiro, khái niệm về một liên bang Champa bao gồm 4 hoặc 5 tiểu quốc được đề xuất bởi Po Dharma và được nhiều học giả tiếp nối cần phải được đánh giá lại [29].

Mặt khác, khi nghiên cứu về thể chế chính trị của nhà nước liên bang Champa, các học giả cũng quan tâm đến một mô hình cấu thành và vận hành của các tiểu quốc trong liên bang này, đó là mô hình "hệ thống trao đổi ven sông/riverine exchange network" của B. Bronson [30]. Trần Kỳ Phương là người đầu tiên áp dụng mô hình này vào trường hợp cụ thể của sông Thu Bồn chảy qua Quảng Nam. Dòng sông này được xem như một cầu nối từ vùng cao của tỉnh nơi có đông đảo người Katu bản địa cư trú đến vùng đồng bằng, đổ ra cửa Đại, nơi có cảng thị Đại Chiêm hoặc xa hơn nữa ra đến Cù Lao Chàm. Từ đây, các hàng hóa từ vùng cao xuống tận đồng bằng sẽ được đưa vào hệ thống mậu dịch khu vực và quốc tế. Điều này khiến cho sông Thu Bồn trở thành một trục lộ quan trọng không chỉ trong hoạt động thương mại và liên kết vùng, mà còn góp phần cấu thành tiểu quốc Amaravati, trở thành điển hình cho hệ thống trao đổi ven sông trong lịch sử Champa [31].

Tiếp đến, W. Southworth cũng áp dụng mô hình "hệ thống trao đổi ven sông" vào trường hợp nghiên cứu không chỉ từ dòng sông Thu Bồn, mà còn bước đầu gợi mở việc áp dụng mô hình này với cả miền Trung Việt Nam. Khác với Trần Kỳ Phương và nhiều nhà nghiên cứu khác sau này, việc áp dụng mô hình trao đổi ven sông vào trường hợp Champa của Southworth chủ yếu tham chiếu các tư liệu về khảo cổ học từ thời Sa Huỳnh cho đến các phế tích, đền đài, bia ký thành lũy ở khắp miền Trung Việt Nam hiện nay như thành Trà Kiệu (Quảng Nam), phế tích đền tháp Po Dam (Bình Thuận), bia ký Chợ Dinh (Phú Yên)… Tất nhiên những nghiên cứu này chỉ mang tính gợi mở bước đầu, chứ chưa áp dụng mô hình của Bronson vào một trường hợp cụ thể nào như Trần Kỳ Phương (trước đó) hay Đỗ Trường Giang (sau này) [32].

Đỗ Trường Giang đã áp dụng mô hình trao đổi ven sông này với trường hợp dòng sông Côn chảy qua Bình Định. Theo Đỗ Trường Giang dòng sông này bắt nguồn từ Bắc Tây Nguyên, chảy qua các làng mạc, vùng đồi trung du và đồng bằng trù phú, cuối cùng đổ ra biển ở Vịnh Thị Nại, nơi có một thương cảng sầm uất. Như vậy, cũng như sông Thu Bồn ở phía Bắc, sông Côn giữ vai trò nối kết các bản làng trên cao nguyên qua vùng đồng bằng ra đến thương cảng Thị Nại để từ đó tham gia vào hệ thống thương mại. Vì lẽ đó, dòng sông này trở thành một trục lộ then chốt cấu thành tiểu quốc Vijaya, một trong những tiểu quốc giữ vai trò chủ đạo trong Mandala Champa [33].

Gần đây, Nguyễn Hữu Thông cũng áp dụng mô hình trao đổi ven sông với trường hợp con sông Ba chảy qua Gia Lai và Phú Yên. Theo Nguyễn Hữu Thông, dòng sông này trải rộng qua nhiều vùng, nhiều tỉnh từ miền cao đến đồng bằng và cuối cùng đổ ra biển, chính vì vậy dòng sông này đã tạo ra một tuyến thủy hệ quan trọng nối kết các hàng hóa từ cao nguyên đến tận cửa biển Phú Yên. Từ đó, dòng sông này không chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc liên kết các vùng mà còn góp phần hình thành tiểu quốc Hoa Anh, một tiểu quốc đã xuất hiện trong biên niên sử Việt Nam, nhưng cho đến nay vị trí cụ thể của nó vẫn rất mơ hồ [34].

4. Tạm kết

Chúng tôi vừa điểm lại một số những nghiên cứu liên quan đến thể chế chính trị của vương quốc Champa, một quốc gia theo thể chế liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc. Kể từ khi mà các nhà nghiên cứu Champa bắt đầu quan tâm đến thể chế của vương quốc này trong lịch sử không phải là không có những tranh luận trái chiều. Đầu tiên là những cuộc tranh luận xung quanh tính lịch sử và phi lịch sử của biên niên sử Champa, cho đến khi quan điểm xem Champa như là một quốc gia liên bang chính thức ra đời và được bảo vệ trong hội thảo quốc tế (ở Copenhague, Đan Mạch) bởi Po Dharma và cộng sự, và gần đây hơn là ý kiến trái chiểu với quan điểm ấy của Giáo sư Lương Ninh. Dù vậy, cho đến nay, quan điểm cho rằng Champa theo thể chế liên bang đã được chấp thuận rộng rãi trong học giới.

Kể từ đó, những cuộc thảo luận về thể chế chính trị của vương quốc Champa chỉ còn xoay quanh các quan điểm, ý kiến và các mô hình giả định có thể áp dụng trong trường hợp liên bang này, cũng như cách thức mà các tiểu quốc thuộc liên bang ấy ra đời và tồn tại. Nếu như Trần Kỳ Phương, Trần Quốc Vượng, W. Southworth… xem Champa như là một Mandala điển hình, thì K. Taylor lại đề nghị xem liên bang Champa như là một điển hình của "không gian văn hóa – chính trị quần đảo", trong đó, mỗi tiểu quốc của Champa có thể được xem như một đảo nhỏ vận hành trong cơ cấu chung. Mặt khác, khi xem Champa như là một quốc gia liên bang, cuộc trao đổi vẫn tiếp diễn với cuộc thảo luận về đặc trưng của mỗi tiểu quốc trong liên bang ấy. Từ đây, học giới lại đi tìm cách thức mà một tiểu quốc trong liên bang hình thành, vận hành và liên kết với nhau. Mô hình được áp dụng phổ biến để lý giải vấn đề này là "hệ thống trao đổi ven sông" của B. Bronson.

Tuy nhiên, những thảo luận, thậm chí tranh luận về vấn đề này, chắc hẳn vẫn sẽ còn tiếp diễn, lôi cuốn giới nghiên cứu vào những hoạt động học thuật sôi động. Ở đây, có nhiều vấn đề vẫn còn phải bàn thêm : Nếu Champa là một liên bang, thì nó bao gồm bao nhiêu tiểu quốc ? Ý kiến của Po Dharma (có 4, 5 tiểu quốc) hay M. Shiro (có 10 tiểu quốc) chuẩn xác hơn ? Hoặc, nếu ta xem Champa như một Mandala điển hình, thì mô hình của một tiểu quốc như Trần Kỳ Phương và Trần Quốc Vượng đề xuất có thể áp dụng với toàn thể vương quốc hay không, nhất là khi các tiểu quốc ở miền Nam như Kauthara, Panduranga lại không phù hợp với mô hình ấy, hay đó là những ngoại lệ ? Mặt khác, nếu áp dụng mô hình trao đổi ven sông với Champa, ta có thể áp dụng nó với các dòng sông ở Nam miền Trung (các dòng sông ở Ninh Thuận, Bình Thuận) hay chỉ với các dòng sông ở Bắc miền Trung như Trần Kỳ Phương, Đỗ Trường Giang, Nguyễn Hữu Thông đã thí điểm hay không ?

Những câu hỏi đó vẫn còn chờ những nghiên cứu tiếp theo trả lời. Đây là một mảng nghiên cứu quan trọng không chỉ giúp chúng ta lý giải các vấn đề liên quan đến thể chế chính trị của vương quốc Champa mà còn cung cấp những gợi mở thú vị để nghiên cứu thể chế chính trị của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn. Cơ cấu và bản sắc chính trị của một vùng đất, dù có biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, theo từng chủ thể tiếp nối, nhưng chắc hẳn đều sẽ có những tiếp biến, tương tác và kế thừa. Miền Trung Việt Nam, từ khi thiết chế chính trị Đàng Trong được hình thành, chắc hẳn cũng phải trải qua những kế thừa, tương tác và tiếp biến đối với nền chính trị của vương quốc Champa trước đó. Những đặc trưng đó giúp chính quyền chúa Nguyễn khác với chính quyền chúa Trịnh, dù vẫn là người Việt, và cũng chính nó giúp chính quyền này tồn tại và giữ vị thế độc lập trước xứ Đàng Ngoài, cũng như trước cả quốc tế trong thời điểm bấy giờ. Tất nhiên, vẫn cần có những lý giải chuyên sâu về thể chế chính trị của xứ Đàng Trong, và trong đó, những yếu tố thừa hưởng từ nền chính trị Champa cũng cần nên được xem xét một cách đầy đủ.

Đổng Thành Danh

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 08/08/2020

Chú thích :

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 28 ; Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 53.

[2] Về vương quốc Champa cf. : G. Maspero (1828), Le Royaume de Champa, Les Éditions : G. Van Oest, Paris ; Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon ; T. Quach-Langlet (1988), "Le cadre historique de l’ancien Campa", in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, Travaux du CHCPI, Paris, pp. 27-47 ; Lương Ninh (2004), Lịch sửVương quốc Champa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội ; M. Vickery (2011), "Champa Revised", trong The Cham of Vietnam : History, Society, and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420 ; Pierre-Bernard. Lafont (2011), Vương quốc Champa : địa dư – dân cư – lịch sử, IOC – Champa, San Jose.

[3] Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon ; Taylor (1998), "Surface Orientations in Vietnam : Beyond histories of nation and Region", The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978 ; Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong : lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh ; Vũ Đức Liêm (2016), "Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.

[4] Về các bia ký Chăm xem : L. Finot (1903), "Notes d’épigraphie : III Stèle de Cambhuvarman a Mi Son", Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), tome 3, pp. 206 – 213 ; (1904), "Notes d’épigraphie : VI. Inscriptions du Quang Nam", BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115 ; (1904), "Notes d’épigraphie XI : Les inscriptions de Mi-Sơn", BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977 ; R. C. Majumdar (1985), Champa : History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far – East 2nd – 16th centuries AD, Book III : Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.

[5] Về các biên niên sử Trung Hoa có đề cập đến Champa xem : Lương Ninh (2004), op.cit, tr. 306 – 343. Về các biên niên sử Việt Nam xem : Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội ; Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế ; Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

[6] Về các thư tịch Chăm xem : Pierre-Bernard Lafont – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXIV, Paris ; Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris ; Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm tại Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[7] E. Aymonier (1890), "Légende historiques des Cham", Excursions et Reconnaissances XIV (32), pp. 145 – 206.

[8] Ibid, p. 149.

[9] E. Durand (1905), "Notes sur les Chams : La Chronique Royale", BEFEO V, pp. 377 – 382.

[10] Ibid, pp. 380 – 382.

[11] G. Maspero (1928), op.cit.

[12] Ibid, tr. 24 – 25.

[13] Dohamide – Dorohiem (1965), op.cit.

[14] Ibid, tr. 120.

[15] Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, Paris.

[16] Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris, pp. 60 – 61. Bản dịch của công trình này xem : Po Dharma (2013), Vương quốc Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka IOC – Champa, San Jose.

[17] Po Dharma (1988), "Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens", in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67 ; Po Dharma (1994), "Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam", in Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, p. 55. Cf : Po Dharma (2013), op.cit, tr. 53 – 54.

[18] Bruce M.Lockhart (2011), "Colonial and post-colonial constructions of ‘Champa’", in The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 1 – 53.

[19] Po Dharma (2013), op.cit, tr. 54 – 55.

[20] Lương Ninh (2004), op.cit, 152.

[21] M. S. Bertrand (2009), "Lương Ninh : Lịch sử Vương quốc Champa", trong Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 138 – 156.

[22] Cf : Nguyễn Hữu Thông (2009), Chưa hẳn đã có một vương quốc Champa hoàn chỉnh ở miền Trung Việt Nam (truy cập ngày 20/3/2017). Và bài trao đổi : Lâm Thị Mỹ Dung (2009), Những nhận thức thiếu cập nhật và sai lầm về vương quốc Champa (truy cập ngày 20/3/2017).

[23] J. Tambiah (1976), World Conqueror and World Renounser : A study of Buddhism and Polity in Thailand Against a Histotical background, Cambridge University Press.

[24] O.W.Wolters (1982), History,Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies. Theo Đỗ Trường Giang, Giáo sư O.W. Wolters là người đầu tiên đã giải thích Mandala như là một thuật ngữ để diễn tả một hệ thống chính trị kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông Nam Á. Thuật ngữ mandala cũng được sử dụng để miêu tả một trạng thái chính trị riêng biệt và thường là không ổn định trong một khu vực địa lý được xác định mơ hồ vì không có những đường ranh giới cố định, tại đó những trung tâm nhỏ hơn vì lý do an ninh nên có xu hướng vươn ra mọi phía, các mandala sẽ mở rộng hay thu hẹp lại theo cách thức này. Mỗi mandala bao gồm một số chính quyền chư hầu (tributary rulers), nhưng mỗi chư hầu như vậy có thể từ bỏ địa vị chư hầu của họ khi có cơ hội và nỗ lực xây dựng một mạng lưới chư hầu của riêng họ. Dẫn theo : Đỗ Trường Giang (2009), "Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế", tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 59 – 67.

[25] Keith W.Taylor (1992), "The early kingdoms", The Cambridge history of SoutheastAsiaVol.1, From early times to c.1800, Cambridge University Press, pp. 153 – 154.

[26] Nguyễn Hữu Thông (2008), "Từ mô hình Mandala nghĩ về cấu trúc xã hội của vương quốc Champa", trong Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, tháng 3, tr. 7 – 22.

[27] Tran Ky Phuong – Vu Huu Minh (1991)"Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th – 15th centuries", trong Ancient town ofHoi An, Foreign Languages Publishing House, Hanoi, pp. 77 – 81.

[28] Trần Quốc Vượng (1998), "Từ cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn", Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam, tr. 37 – 40 ; Xem thêm Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr. 332 – 338.

[29] Momoki Shiro (2011), "‘Mandala Champa’ seen from Chinese documents", trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 127 – 132.

[30] Theo mô hình này, "hệ thống trao đổi ven sông" có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch quốc tế. Ngoài ra, cũng có những trung tâm ở thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn hàng có gốc từ những vùng xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản xuất ở các vùng không họp chợ bởi các cư dân sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc thượng nguồn. Nguồn hàng này, chủ yếu là lâm sản, được tập trung trao đổi ở các chợ phiên vùng trung du, rồi vận chuyển về các khu chợ sầm uất hơn ở vùng hạ lưu gần cảng thi, sau đó lại được tập trung về cho các thương nhân cư trú ở cảng thị để xuất khẩu. Mỗi tiểu quốc trong liên bang có riêng một "hệ thống trao đổi ven sông" như vậy. Xem thêm : B. Bronson (1977), "Exchange at the upstream and downstream ends : Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia’, trong Economic exchange and social interaction inSoutheast Asia : Perspectives from prehistory, history,and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michiganpp. 39-52.

[31] Trần Kỳ Phương (2004), "Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam : Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam", Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế ;  xem thêm : Tran Ky Phương (2008), "Riverine exchange network" : An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam", in trong biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.

[32] W. Southworth (2011), "River Settlement and Coastal trax to wards a specific model of early state development in Champa", trong The Cham of Vietnam : History, Society, and arts, Bruce Lockhart and Tran Ky Phuong(ed), NUS Press, Singapore, pp. 102 – 119.

[33] Đỗ Trường Giang (2011), "Biển với lục địa – thương cảng Thị Nại Champa (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á (Thế kỷ XX – XV)", trong Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 285 – 314.

[34] Nguyễn Hữu Thông (2015), "Sông Ba : giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù", trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45.

Đọc thêm :

Nguyễn Văn Huy, Người Chăm tại Việt Nam, Thông Luận 2002.

Tài liệu tham khảo :

 

  1. Aymonier Étienne, "Légendes historiques des Chams" in Excursions et Reconnaissances, n° 14-32, 1889, pp. 145-206
  2. Bronson B. (1977), "Exchange at the upstream and downstream ends : Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia", in Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia : Perspectives from prehistory, history and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michigan, pp. 39-52.
  3. Bertrand M. S (2009), "Lương Ninh : Lịch sử Vương quốc Champa", trong Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 138 – 156.
  4. Durand Emile (1905), "Notes sur les Chams : La Chronique Royale", Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), tome 5, pp. 377 – 382.
  5. Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon.
  6. Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  7. Finot L (1903), "Notes d’épigraphie : III Stèle de Çambhuvarman à Mi Son", BEFEO, tome 3, pp. 206 – 213.
  8. Finot L (1904), "Notes d’épigraphie : VI. Inscriptions du Quang Nam", BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115.
  9. Finot L (1904), "Notes d’épigraphie XI : Les inscriptions de Mi-Sơn", BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977.
  10. Đỗ Trường Giang (2009), "Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế", tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
  11. Đỗ Trường Giang (2011), "Biển với lục địa – thương cảng Thị Nại Champa (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á (Thế kỷ XX – XV)", trong Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 285 – 314.
  12. Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon.
  13. Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
  14. Lafont Pierre-Bernard – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO C XIV, Paris.
  15. Lafont Pierre-Bernard (2011), Vương quốc Champa : địa dư – dân cư – lịch sử, trong Champaka, 05/11/2018, IOC – Champa, San Jose.
  16. Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong : lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
  17. Vũ Đức Liêm (2016), "Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.
  18. Maspero Gẻoges (1928), Le Royaume de Champa, Les Éditions : G. Van Oest, Paris.
  19. Majumdar R. C (1985), Champa : History and culture of an Indian colonial kingdom in The Far – East 2nd – 16th centuries AD, Book III : Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.
  20. Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Champa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  21. Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
  22. Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, Paris.
  23. Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris.
  24. Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris.
  25. Po Dharma (1988), "Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens", in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67.
  26. Po Dharma (1994), "Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam", in Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, 53 – 64.
  27. Po Dharma (2013), Vương quốc Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka IOC – Champa, San Jose.
  28. Tran Ky Phuong – Vu Huu Minh (1991), "Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th – 15th centuries", trong Ancient town of Hoi An, Foreign Languages Publishing House, Hanoi, 77-81.
  29. Trần Kỳ Phương (2004), "Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam : Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam", Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế.
  30. Trần Kỳ Phương (2008), "‘Riverine exchange network’ : An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam", in biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.
  31. Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm tại Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
  32. Quach-Langlet. T (1988), "Le cadre historique de l’ancien Campa", in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, Paris (Travaux du CHCPI), pp. 27 –
  33. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  34. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  35. Momoki Shiro (2011), "‘Mandala Champa’ seen from Chinese documents", trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, 127 – 132.
  36. Southworth W (2011), "River Settlement and Coastal trax to wards a specific model of early state development in Champa", in The Cham of Vietnam : History, Society, and arts, Bruce Lockhart and Tran Ky Phuong (ed), NUS Press, Singapore, pp. 102 – 119.
  37. Tambiah J. (1976), World Conqueror and World Renounser : A study of Buddhism and Polity in Thailand Against a Histotical background, Cambridge University Press.
  38. Keith W. Taylor (1992), "The early kingdoms", trong The Cambridge history of Southeast Asia, Vol.1, From early times to c.1800, Cambridge University Press.
  39. Keith W. Taylor (1998), "Surface Orientations in Vietnam : Beyond histories of nation and Region", The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978.
  40. Nguyễn Hữu Thông (2008), "Từ mô hình Mandala nghĩ về cấu trúc xã hội của vương quốc Champa", trong Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, tháng 3, tr. 7 – 22.
  41. Nguyễn Hữu Thông (2015), "Sông Ba : giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù", trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45
  42. Trần Quốc Vượng (1998), "Từ cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn", Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam, tr. 37 – 40.
  43. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
  44. Vickery M (2011), "Champa Revised", in The Cham of Vietnam : History, Society and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420.
  45. Wolters O.W. (1982), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies, New York.
Published in Tư liệu

5 chữ ‘tinh’ trong yêu cầu của công bộc

Mai Lan, VNTB, 28/06/2020

Trước hết là "tinh thông" trong công việc, "tinh nhuệ" trong hành động, "tinh gọn" về bộ máy, "tinh túy" về chất cán bộ, "tinh ý" trong hiểu người dân, doanh nghiệp.

tinh1

Báo chí đăng về yêu cầu 5 chữ ‘tinh’ ấy của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, khi ông đến dự và phát biểu chỉ đạo tại hội nghị "Hà Nội 2020 – hợp tác đầu tư và phát triển", diễn ra tại Hà Nội ngày 27/6/2020.

Xin cùng bàn tuần tự với 5 chữ ‘tinh’ trong thể chế chính trị hiện tại.

Trước hết, giả dụ như công việc làm tổng biên tập một tờ báo nào đó. Lâu nay ai cũng rõ trong hệ thống báo chí thuộc cơ quan Đảng bộ cấp tỉnh, thành, thì gần như cả 100% người ngồi vào chiếc ghế tổng biên tập/giám đốc là được Đảng cấp trên phân công dựa trên căn cứ về tư tưởng, không phải từ yêu cầu của tay nghề. Như vậy, yêu cầu "tinh thông" nghề báo là thứ yếu.

Tiếp theo về "tinh nhuệ". Cũng vị tổng biên tập/giám đốc được bổ nhiệm ấy, chắc chắn sẽ đáp ứng được yêu cầu "tinh nhuệ", nhưng đó là "tinh nhuệ" trong tìm mọi cách để đáp ứng đòi hỏi về ‘định hướng tư tưởng’ mà Đảng cấp trên yêu cầu ; không phải là "tinh nhuệ" trong nghiệp vụ báo chí với các yêu cầu ghi nhận đầy đủ tiếng nói của nhân dân, và cả sự tuân thủ pháp luật đến đâu của đảng viên, của tổ chức đảng được ghi rõ ở hiến định tại điều 4.3 : "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".

"Tinh gọn" về bộ máy của một tòa soạn ở tổng biên tập/giám đốc như nói trên, sẽ xảy ra ít nhất hai trường hợp : thứ nhất, vì không am tường nghề báo, vị tổng biên tập/giám đốc ấy cần đến đội ngũ thầy dùi cứng nghề. Trong trường hợp này thì yêu cầu "tinh" là có thể, nhưng không thể "gọn".

Thứ hai, sẽ có cả "tinh" và "gọn" nếu như phần lớn tòa soạn đều là ‘vây cánh’ của vị tổng biên tập/giám đốc ấy. Nhất hô bá ứng trong nội bộ thế này sẽ mang đến cảm giác của bộ máy "tinh gọn".

"Tinh túy về chất cán bộ" thì điều này cần được minh định là cán bộ của Đảng, hay cán bộ của dân? Khi là cán bộ thì cấp dưới phải răm rắp nghe theo lệnh của cán bộ cấp trên. "Tinh túy" trong hoàn cảnh đó sẽ được định nghĩa thế nào?

"Tinh ý" trong hiểu người dân, doanh nghiệp mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu, nếu đặt trong bối cảnh của 4 chữ ‘tinh’ trước đó thì lại phải thắc mắc là thế nào mới gọi ‘hiểu dân’ ?

Liệu trong đòi hỏi "tinh ý" này có phải cùng với ý của huấn thị "Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân" (1). "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" (2), "Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa" (3).

Mai Lan

Nguồn : VNTB, 28/06/2020

_________________

Chú thích :

(1) Hồ Chí Minh : Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 263.

(2) Hồ Chí Minh : Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 75.

(3) Hồ Chí Minh : Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 269.

*********************

Ngũ "tinh" của " Hà Nội không vội được đâu"

Hoài Nguyễn, VNTB, 28/06/2020

Cán bộ "tinh ý" đến mức "tinh nhuệ" nên họ hiểu cần "tinh gọn" ra sao để làm hài lòng bề trên; để bề trên gật gù cho sự nhanh nhạy "tinh thông" đó phù hợp với từng thời điểm, từng ngữ cảnh uyển chuyển khác nhau.

tinh2

Ngài thủ tướng nói rằng sở dĩ "Hà Nội không vội được đâu" đã là chuyện ‘xưa rồi Diễm’, vì Hà Nội hôm nay đã đủ 5 chữ "tinh" theo tuần tự: "tinh thông", "tinh nhuệ", "tinh gọn", "tinh túy", "tinh ý".

"Tinh thông". Một bài báo trên Infonet (chuyên trang của báo điện tử VietnamNet), viết: "Tình hình tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hà Nội vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, lĩnh vực tham nhũng rộng, tiềm ẩn trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, tài chính – Báo cáo kết quả phòng chống tham nhũng năm 2019 của UBND Thành phố Hà Nội nêu.

Đây là một trong những nội dung của báo cáo về Kết quả phòng chống tham nhũng năm 2019 do Phó chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Sửu vừa ký gửi hdn Thành phố Hà Nội trước kỳ họp thứ XI diễn ra trong ba ngày (từ hôm nay 3 đến 5/12)" (*).

Như vậy, ở đây cho thấy với những thủ đoạn ‘tinh vi’ trong tham nhũng ở Hà Nội, cho thấy những người tham nhũng ở Hà Nội đã ‘tinh thông’ các ngón nghề trong đối phó với pháp luật trong lãnh vực này.

"Tinh nhuệ". Cũng bài báo trên, có đoạn vào khúc kết nhấn lại tình hình, "Tuy nhiên, tình hình tham nhũng trên địa bàn Thành phố vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, lĩnh vực tham nhũng rộng, tiềm ẩn trong một số lĩnh vực : quản lý, sử dụng đất đai, giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng, tài chính", báo cáo nêu rõ". Chính nhận xét này cho thấy những người tham nhũng ở Hà Nội không chỉ "tinh thông" ngón nghề đối phó, mà họ đủ "tinh nhuệ" để đưa những nhà hoạch định chính sách vào mê hồn trận của bất lực.

"Tinh gọn". Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội, vào ngày 24/6/2020, đưa tin : "Đối với sắp xếp tổ chức bộ máy tổ chức hành chính, ở cấp Thành phố, tại thời điểm ngày 31/12/2016 có 24 sở. Tại thời điểm ngày 31/12/2019 có 23 sở. Đối với văn phòng, thanh tra, phòng chuyên môn, nghiệp vụ, chi cục và tổ chức tương đương (Ban) thuộc cơ cấu tổ chức của sở, tại thời điểm ngày 31/12/2016 có 191 tổ chức thuộc sở, tại thời điểm ngày 31/12/2019 có 188 tổ chức thuộc sở (giảm 65 phòng).

Đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, tại thời điểm ngày 31/12/2016 có 364 phòng, đến ngày 31/12/2019 có 361 phòng.

Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, tổng hợp số lượng đơn vị sự nghiệp công lập (bao gồm cả các Ban quản lý dự án) tại 2 thời điểm là ngày 31/12/2016 có 2.657 đơn vị và ngày 31/12/2019 có 2.633 đơn vị. Dự kiến việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập trong giai đoạn 2020 – 2021 là giảm 38 đơn vị" (**).

Với số liệu ở trên cho thấy nếu cho đó là kết quả của "tinh gọn", xem ra khó thuyết phục, ít ra là theo ý nghĩa của thống kê.

"Tinh túy". Từ hai bài báo dẫn chứng ở trên, cho thấy nếu thực sự có được đội ngũ công bộc "tinh túy", thì chẳng cần bận tâm đặt ra những chỉ tiêu cho "sắp xếp, tổ chức lại" làm gì để phí phạm nguồn lực được cho là "tinh túy" ấy.

"Tinh ý". Cái tinh này trong cụ thể ở đây có lẽ là bao trùm cho giải thích về 4 cái tinh" đề cập phần trên. Vì cán bộ "tinh ý" đến mức "tinh nhuệ" nên họ hiểu cần "tinh gọn" ra sao để làm hài lòng bề trên; để bề trên gật gù cho sự nhanh nhạy "tinh thông" đó phù hợp với từng thời điểm, từng ngữ cảnh uyển chuyển khác nhau.

Hoài Nguyễn

Nguồn : VNTB, 28/06/2020

______________

Chú thích :

(*)https://infonet.vietnamnet.vn/thoi-su/ha-noi-tham-nhung-dien-bien-phuc-tap-thu-doan-tinh-vi-54251.html

(**)http://thanglong.chinhphu.vn/da-sap-xep-to-chuc-giam-duoc-256-don-vi-su-nghiep-cong-lap

Published in Diễn đàn

Các cựu chính khách, nhà phản biện xã hội đã nói gì về thể chế chính trị của Việt Nam nhân dịp đầu năm mới Canh Tý ?

canbo1

Ông Phạm Minh Chính, ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Trung ương Đảng, trưởng Ban Tổ chức trung ương, trao giấy chứng nhận tốt nghiệp cho học viên lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng (28/10/2019) - Ảnh : TTXVN

Theo cách làm cũ sẽ không khơi dậy được nhân tài

Ông Nguyễn Đình Hương, cựu Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam, nhìn nhận trong danh sách gần 200 người được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 khóa XII đưa vào quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII vừa rồi đều có độ tuổi trên dưới 40. Như vậy là số này mới sinh ra và lớn lên sau năm 1975, phần lớn đã kinh qua hoạt động trong phong trào Đoàn thanh niên.

"Đại hội Đảng khóa XIII đang đến gần. Nếu công tác chuẩn bị nhân sự theo cách làm cũ thì không khơi dậy được nhân tài, mặt khác không chuyển tiếp các thế hệ để bảo đảm có cán bộ có kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý đất nước với số cán bộ trẻ có triển vọng vươn lên, thay thế" – ông Nguyễn Đình Hương nhận định.

Ông Nguyễn Đình Hương đề xuất việc chấm dứt "bó đũa chọn cột cờ" hay "cầm đuốc soi tìm cán bộ", theo đó, không nên quá cứng nhắc về tuổi đời, quá trình tham gia cách mạng dài hay ngắn ; không phân biệt và thành kiến với thành phần gia đình, thậm chí cả đảng viên trong thành phần kinh tế tư nhân.

"Ngay cả việc chọn lựa lãnh đạo chủ chốt của đất nước trong bối cảnh hiện nay cũng không nên quá cứng nhắc, nhất là tiêu chuẩn phải trải qua 2 khóa Bộ Chính trị mới được bầu vào vị trí lãnh đạo chủ chốt. Nếu cứng nhắc giữ cơ chế này, có thể việc chọn nhân sự chủ chốt sẽ sa vào tranh luận về những trường hợp đặc biệt mà không thể giải quyết được. Ngược lại, bỏ được cơ chế cũ, sẽ tạo cơ hội cho những người trẻ, không đủ 2 khóa Bộ Chính trị, kể cả ủy viên trung ương nhưng xứng đáng có thể đưa lên đảm nhiệm các chức danh chủ chốt. Như thế sẽ dài hơi hơn" - ông Nguyễn Đình Hương lập luận.

Tuy nhiên không khó để nhận ra rằng nếu tiếp tục thiếu động lực của cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị, thì dù có xoay trở cách nào đi nữa, vẫn là câu chuyện được gói gọn trong giới hạn của những đảng viên với nhau trong chuyện phân chia quyền lực trong cùng một bó đũa mà thôi.

"Quyền" của người dân cần phải được tôn trọng

Nhà phản biện xã hội Trương Nhân Tuấn khai bút đầu năm với yêu cầu mong sao "nhà nước của dân do dân và vì dân" được xác định cho rõ nghĩa.

Theo ông Tuấn, nếu đó là nhà nước của mọi người dân, nhà nước cho mọi người dân và nhà nước vì mỗi người dân thì mọi người dân phải được bình đẳng về "quyền". Thứ nhứt là quyền "chính trị". Đảng cộng sản Việt Nam không phải là lực lượng duy nhứt lãnh đạo "nhà nước và xã hội". Mọi người dân đều có quyền và trách nhiệm tham gia việc lãnh đạo nhà nước và xã hội.

Thứ hai là quyền tự do cơ bản của mỗi người dân theo đúng nội dung bản Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền, phải được luật pháp bảo vệ và tôn trọng.

Ông Lê Văn Sinh chia sẻ cảm nghĩ đầu năm mới bằng một liên tưởng : Một trận mưa rào kèm sấm sét rền vang như giữa mùa hạ vào chiều và đêm 30 Tết Canh Tý tại Hà Nội. Chính ngọ mùng một Tết, lại mưa rào và sấm. Nhiều người nói chưa từng chứng kiến điều này trong gần một thế kỷ qua.

"Thời quân chủ chuyên chế, theo lệ vào dịp đầu năm, các vua Việt Nam tế lễ ở Đàn Nam Giao tạ ơn Trời Đất và sám hối trước Thần Linh về những tội lỗi họ phạm phải. Nhà vua cầu xin đấng quyền uy siêu nhiên đừng giáng họa xuống thần dân của mình".

Ông Sinh nói và cho rằng, "với một nền chính trị coi bạo lực đẻ ra chính quyền như Việt Nam, thì nền chính trị đó là một nền chính trị vô đạo đức. Sớm muộn gì nó cũng phạm tội ác chống nhân loại và con đường bại vong là điều không tránh khỏi. Có rất nhiều gương soi từ lịch sử các xã hội loài người. Tiếc thay không phải ai cũng học được từ bài học nhân – quả !".

Luật sư Đặng Đình Mạnh đặt vấn đề : "Năm nay, tôi xin phép hoãn lại những lời cầu chúc về tài lộc, thăng tiến, sức khỏe… Vì lẽ, tôi vẫn mong hoài bão lớn nhất của dân tộc được chóng thành nên đã cầu chúc điều ấy. Tôi tin rằng, khi điều ấy thành tựu, thì chúng ta và con cháu cũng đều sẽ có mọi sự tốt lành trong cuộc đời và nhất là được sống, được thở, được nói, được hành xử đúng với phẩm giá làm người, giá trị mà nhiều dân tộc trên thế giới đã mặc nhiên sở hữu".

Thay lời kết

Qua ghi nhận một số ý kiến nêu trên, từ cựu quan chức cấp cao của đảng như ông Nguyễn Đình Hương, đến các công dân ‘ngoài đảng’, cho thấy có cùng điểm chung : Chế độ đảng cộng sản toàn trị mang đặc tính chuyên chế là nhà nước được miễn trừ khỏi các quy định pháp luật với việc duy trì bộ máy an ninh đông đảo, rộng khắp để kiểm soát mọi mặt cuộc sống của người dân.

Lạm dụng quyền lực hiện nay đang tạo ra xu hướng đáng lo ngại trong công luận. Nó có thể làm tổn hại đến nỗ lực cải cách thể chế hiện nay của chính độc đảng cầm quyền. Điều này cho thấy dùng quyền lực của đảng, nhà nước để chống tham nhũng được coi như ‘ta đánh ta’, ‘tự lấy đá ghè chân mình’, ‘đánh chuột không làm vỡ bình’… để giảm thiểu sự bất mãn từ dân chúng, mà không dựa vào dân bằng cơ chế dân chủ, khả thi là một hình thức biểu hiện của chuyên chế.

Chuyên chế trong chính trị tạo ra sự chống đối ngầm, bộ máy hành chính trì trệ, quan chức tuân lệnh nhưng ‘tâm không phục’. Nguy hại hơn, nếu chuyên chế trong các vấn đề dân sự, như các biến cố vừa xảy ra ở Đồng Tâm, ở Lộc Hưng…, có thể gây nên sự bất bình, mất niềm tin, thậm chí sự căm thù, đối đầu với chính quyền. Đây là căn nguyên bất ổn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ và xung đột xã hội.

Nguyễn Nam

Nguồn : VNTB, 26/01/2020

Published in Diễn đàn
vendredi, 27 décembre 2019 23:29

"Hèn" luôn đi liền với "hạ"

Khôi hài khi đề nghị trao huy chương vàng cho kinh tế và Thủ tướng Việt Nam !

Thanh Trúc, RFA, 27/12/2019

"Tiến sĩ Tuấn và huy chương zàng" là tựa bài viết của tác giả Nguyễn Tiến Tường trên trang mạng baotiengdan.com hôm 23/12 vừa qua.

ninh1

"Việt Nam nợ quá đến nỗi bị Moody's hạ mức tín nhiệm ; kinh tế vu mô loạn cào cào mà đòi đeo huy chương vàng cho nền kinh tế...", Nguyễn Tiến Tường (Hình minh họa -RFA edited from AFP photo) - AFP

Thay vì dùng từ ‘huy chương vàng’, tác giả dùng từ ‘huy chương zàng’ để nói về đề nghị mà giảng viên kinh tế Đại Học Fulbright, Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, đưa ra cho kinh tế và Thủ tướng Việt Nam trong năm qua.

Theo người viết Nguyễn Tiến Tường, khi đề nghị như vậy thì Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn đã ‘mang nhân dân và Thủ tướng ra bỡn cợt rất mất nết’.

Tác giả Nguyễn Tiến Tường viết : " Quốc gia đang gia tăng nợ, cần vay đến 459 nghìn tỷ Đồng để …đi trả nợ cũ, khác nào đi bốc bát họ để trả góp ngày, khác nào vay tín dụng đen để trả tiền FE Credit"

Ông nói Việt Nam nợ quá đến nỗi mới rồi bị Moody’s hạ mức tín nhiệm tín dụng xuống tiêu cực, rằng trong bối cảnh kinh tế vi mô loạn như cào cào và người lao động miệt mài một ngày công mà không mua nổi một ký thịt heo, thì đòi đeo huy chương vàng kinh tế là chơi khăm đất nước, miệt thị nhân dân, khác nào áo rách bị xúi đi nhảy đầm, húp cháo loãng mà bắt đeo nhân sâm giả vào cổ.

Không chỉ mai mỉa, tác giả còn suy diễn đề nghị của tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn là "mượn gió bẻ măng, mượn đao giết người, cả gan "gài" Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi ca ngợi về tầm nhìn 2045 mà ông chia sẻ, rằng giữa bốn bề thất bát mà anh đòi trao huy chương vàng cho Thủ tướng tức là mang Thủ tướng ra giải tỏa cái thói tư hữu tham lam của mình".

Qua tìm hiểu của RFA, bài viết đưa lên mấy hôm nay đã lôi kéo sự chú ý của nhiều giới, nhất là trên cộng đồng mạng,. Nhiều người cho rằng có thể coi đây là chuyện vui với nhau cuối năm 2019 này.

Từ Sài Gòn, một cây viết phản biện trên mạng, nhà báo Nguyễn Ngọc Già,cho biết :

"Tin tôi đọc trên VietnamNet, báo lề phải, thì tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn là người nổi tiếng của Đại Học Fulbright Vietnam có nói rằng thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xứng đáng được thưởng huy chương vàng thứ 100. Theo thiển ý của tôi đó là một câu cợt nhã hơn là lời nói thật.", Nhà báo Nguyễn Ngọc Già 

"Tin tôi đọc trên VietnamNet, báo lề phải, thì Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn là người nổi tiếng của Đại Học Fulbright Vietnam có nói rằng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xứng đáng được thưởng huy chương vàng thứ 100. Theo thiển ý của tôi đó là một câu cợt nhả hơn là lời nói thật."

Vậy Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn là ai, đề nghị của ông ta nghiêm túc hay chỉ là chuyện nói cho lấy được. Nếu nhìn trên góc độ nghiêm túc thì không riêng Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới người dân hay báo chí thường đem những khuôn mặt lãnh đạo ra để bàn tán, đánh giá, thậm chí châm biếm bằng những câu chuyện khôi hài, nửa đùa nửa thật miễn là không hại gì. Lại nữa, đôi khi phản ứng từ những câu chuyện ấy lại phản ảnh nếp nghĩ của người dân trước thực tế của đất nước, là khẳng định của tiến sĩ Vũ Ngọc Xuân, giảng viên kinh tế Đại Học Quốc Dân Hà Nội :

"Theo quan điểm của mình đây chỉ là một nhà kinh tế đơn lẻ thì không nói lên được điều gì. Nói đến góc độ huy chương là nói đến các đoàn thể thao đi tham dự thế vận hội hay khu vực mà đoạt huy chương, chứ còn về mặt kinh tế thì ta không nói đến chuyện huy chương hay không huy chương bởi vì nền kinh tế Việt Nam mới chỉ ở mức thu nhập trung bình và vẫn còn nhiều cái để mà lo ngại"

"Thủ tướng đã có một cái tổ tư vấn kinh tế toàn là chuyên gia hàng đầu rồi, ông đấy chỉ là một quan đểm mang tính cá nhân chứ không phải chính thức. Mà thực ra ông ấy cũng không có một góc độ gì để phát ngôn không hợp lý như vậy".

Một người từng là giảng viên Đại Học Fulbright trước tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn nhiều năm, ông Bùi Văn, hiện phụ trách kênh TV FBNC chuyên về kinh tế, cho rằng đây chẳng qua chỉ là chuyện đùa :

" Tôi nghĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn nửa đùa nửa thật, trong lúc thân tình thì anh nói thế. Đỗ Thiên Anh Tuấn là bạn tôi, khá thân, được học hành đào tạo đàng hoàng và là một giảng viên nghiêm túc. Mấy lần Thủ tướng đi dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Thụy sĩ thì đều mời anh này đi cùng. Nhưng mà anh này vẫn là một anh nghiên cứu kinh tế, anh thiên về Academic, là người đàng hoàng tử tế chứ không có ý đồ gì về chính trị hay làm quan chức đâu".

Đây cũng là giải thích gián tiếp của ông Bùi Văn khi nghe cư dân mạng kháo nhau rằng Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, không dưng nịnh bợ ông Nguyễn Xuân Phúc bằng đề nghị huy chương vàng, chẳng qua vì đang ngấm nghé chiếc ghế mà một tiến sĩ kinh tế khác là Tiến sĩ Nguyễn Đức Kiên, vừa được cất nhắc lên chức Tổ trưởng Tổ Tư Vấn cho Thủ tướng.

Nhà báo Nguyễn Ngọc Già vẫn tin rằng Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, kể cả người viết Nguyễn Tiến Tường trên baotiengdan.com, đều có ý bỡn cợt ngay từ đầu :

"Tôi nghĩ trong cách bỡn cợt, khen như vậy ông vẫn lách được. Trong giới gọi là Sĩ Phu Bắc Hà thì người ta có cách chửi thâm thúy là "khen cho mày chết". Không có gì ngạc nhiên khi ông tiến sĩ khen tặng ông Nguyễn Xuân Phúc với cái huy chương vàng. Không thể nào ông Đỗ Thiên Anh Tuấn không biết, huống chi ông là tiến sĩ kinh tế nổi tiếng của trường đại học Fulbright cơ mà. Đâu có thể làm gì ổng được đâu, ổng khen mà".

Về bài viết của ông Nguyễn Tiến Tường, nhà báo Nguyễn Ngọc Già diễn giải tiếp :

" Tôi nghĩ bài của ông Nguyễn Tiến Tường là một hình thức tương kế tựu kế, có thể ông ta hiểu được cái ý sâu xa của ông Đỗ Thiên Anh Tuấn và ông ta viết mang tính chất trào lộng thì cũng không có gì để ngạc nhiên".

Sau cùng, từ đề nghị của Tiến sĩ kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn thuộc Đại Học Fulbright cho đến bài viết phản bác của tác giả Nguyễn Tiến Tường trên baotiengdan.com, nhà hoạt động xã hội Trần Bang cho rằng tất cả như màn hài kịch :

" Ông Nguyễn Tiến Tường có kiến thức sâu và ông nói hài như thế cũng thấy hay. Có thể cái cách buộc phải dùng đại ngôn như vậy, mua vui cũng được một vài phút cho người đọc, nó buồn cười mà có cái gì đó rất thật, còn thực tế thì người ta sẽ thấy đau…"

Thanh Trúc

Nguồn : RFA, 27/12/2019

********************

Nịnh "thể chế"

Phùng Dương, VNTB, 26/12/2019

"Hèn" luôn đi liền với "hạ", trong một thể chế mà quyền đường nói thẳng và thật luôn bị cho là "nhạy cảm, xuyên tạc" thì một trí thức có thể "hèn" khi họ không đứng lên chống lại sự bất công, vô lý đó. Nhưng nếu trí thức đó "hạ" mình để nâng cái "đểu giả, vô lý" đó lên thành "chân lý", thì đó là một trí thức vứt đi.

ninh1

Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright nói cá nhân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xứng đáng được trao tấm huy chương vàng thứ 100 của Việt Nam tại buổi gặp mặt của Thủ tướng với doanh nghiệp.

Nhiều người nhận định quan điểm đó là "nịnh".

Facebooker Nguyễn Thiện, người trong chia sẻ sự kiện này cho rằng, dù ông không phải là một tri thức, nhưng ông "ngượng" vì phát ngôn của một tri thức như ông Tuấn.

Facebooker cũng dẫn lại một "tư cách luồn cúi" của một vị tri thức sau giải phóng trong Hồi ký của học giả Nguyễn Hiến Lê, tại trang 685 : tháng 8.1975, Đại hội trí thức yêu nước ở Nhà Hát Thành phố, tôi được mời dự với tư cách nhân sỹ. Hai người dìu cụ Trần Tuấn Khải – từng là chủ tịch danh dự lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc năm 1966 – 1967 – bước lên bàn chủ tọa trên sân khấu. Cụ ngồi yên, trước sau chỉ nói một câu đại ý : "Tôi đã tám mươi tuổi rồi, nhưng thực ra tôi mới một tuổi, mới sanh ngày giải phóng". Cử tọa im lặng, vì cảm động hay vì buồn cho Cụ".

"Phẩm gia của trí thức" có thể được xây dựng trong một thời gian dài nhưng dễ dàng bị phá nát bởi chữ "nịnh".

Câu chuyện "nịnh" nếu nhìn ở một góc cạnh khác là hình thức của một thời kỳ mà người nói ngay và thẳng luôn bị thiệt thòi. Thậm chí sâu hơn, những người nói thẳng đến mức gay gắt sẽ trở thành những người bất đồng chính kiến.

Và tất nhiên, kẻ biết nịnh trở thành "rường cột quốc gia" theo một nghĩa nào đó.

Đó phải chăng là lý do để "kết nạp" ông Nguyễn Đức Kiên, một "trí thức" biết cách diễn giải bằng mọi lối chính sách, chủ trương của nhà nước – dù cho sai lầm, vào "Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ" ?

"Hèn" luôn đi liền với "hạ", trong một thể chế mà quyền được nói thẳng và thật luôn bị cho là "nhạy cảm, xuyên tạc" thì một trí thức có thể "hèn" khi họ không đứng lên chống lại sự bất công, vô lý đó. Nhưng nếu trí thức đó "hạ" mình để nâng cái "đểu giả, vô lý" đó lên thành "chân lý", thì đó là một trí thức vứt đi.

Trong lịch sử, chúng ta có một Chu Văn An đứng thẳng giữa đám thần cúi đầu, khịu gối ; chúng ta cũng có một Nguyễn Trường Tộ dám đứng lên nói về tiên tiến Tây phương giữa đám cận thần hủ nho ; chúng ta cũng có một tướng Trần Độ bắn toạc sự giả dối về một chân lý xã hội chủ nghĩa.

Khác nhau về thời đại, chức vị, nhưng giống nhau ở hoàn cảnh lời thẳng thật không hề được lắng nghe, và đất nước cũng sớm rơi vào điêu tàn từ khi "thẳng" xuống và "nịnh" lên ngôi.

Khi nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nắm quyền 2 nhiệm kỳ, ông ghi dấu ấn với Quyết định 97/2009/QĐ-TTg, gián tiếp tán Viện nghiên cứu phát triển (IDS).

IDS hoạt động trên cơ chế độc lập và mở. Và kết quả của những tiếng nói độc lập, thẳng thắn lại là những phán xét từ phía "an ninh quốc gia" với những luận điệu không bao giờ cũ : nhận tiền nước ngoài, chống đối nhà nước.

Kết quả giáo dục, y tế, giáo dục nát trong giai đoạn 2009-2016, riêng nguồn tiền đổ vào ngành giáo dục trở thành trò chơi thử nghiệm về sách giáo khoa và đổi mới giáo dục.

Tư duy chuyên quyền khiến cho các góp ý thẳng thắn không còn đất sống. Nạn "chảy máu chất xám" diễn ra ngay trong cơ chế, và điều đáng đau xót, chất xám đó lại là chất xám của những trí thức dám đặt lợi quyền dân tộc lên trên hết.

Khi ông Nguyễn Xuân Phúc đưa 5 thành viên là các chuyên gia kinh tế từ các nước Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapore vào Tổ tư vấn kinh tế của mình, ông chắc chắn đang muốn "chỉnh đốn" lại nền kinh tế trì trệ từ người tiền nhiệm. 5 người là nguồn gió mới, đưa Tổ tư vấn Kinh tế thời kỳ Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc kế thừa một phần tinh thần "độc lập" của IDS. Và kết quả, chính sách này đã khiến nền kinh tế Việt Nam tươi hơn so với nhiệm kỳ trước đó.

Nhưng, giáo dục vẫn trì trệ, y tế có điểm sáng nhưng vẫn đang chịu sức ép nặng của hệ thống quan liêu hành chính. Do đó, cuộc cách mạng 4.0 hay Chính phủ kiến tạo chưa tiệm cận được 0.4.

Khoa học – công nghệ có vẻ đang dựa vào con bài chủ chốt – Vingroup. Doanh nghiệp nổi lên bất động sản và những sản phẩm ô-tô lẫn điện thoại, xe đạp điện còn lắm khuyết điểm nhưng lại thừa hiệu ứng PR "mãnh liệt tinh thần Việt".

Vào ngày 23-12-2019, Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với Doanh nghiệp nhằm "Phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp – hiệu quả, hội nhập, bền vững". Nhưng cả ba yếu tố "hiệu quả, hội nhập, bền vững" có tồn tại được hay không đều xuất phát từ cải cách thể chế, từ những tư vấn kinh tế… có tâm và tầm.

Tâm không thể xuất phát từ những ông Nguyễn Đức Kiên, tầm càng không thể xuất phát từ những người như thế. Và cải cách thành hay không càng không thể đến từ những "trí thức nịnh".

Khi nào viện IDS còn chưa được tái lập, chừng nào những trí thức như Trần Huỳnh Duy Thức còn ngồi trong tù, chừng nào Chính phủ ứng xử với những bất đồng chính kiến bằng nhà tù thì chừng đó, mảnh đất thể chế chỉ mọc lên những loài cỏ dại cơ hội. Và không sớm thì muộn, hiện tượng "nát" sẽ sớm trở lại với nền kinh tế – văn hóa – xã hội Việt Nam. Bởi lẽ, trong lời tri mệnh diệt chủng Việt Nam của cụ Phan Bội Châu cũng đề cập hành vi, "làm cho dân ta không biết phải trái đúng sai, chỉ biết luồn cúi, vâng lời giai cấp có tiền, kẻ cho tiền và bổng lộc, chỉ còn biết say mê vật chất, cúi đầu trước kẻ đè nén xác thịt người."

Phùng Dương

Published in Diễn đàn

Phó thủ tướng Chính phủ Việt Nam, ông Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ Đạo trong kết luận tại cuộc họp về Chính sách xã hội hôm 13/12, cảnh báo cần chú ý hai vấn đề xã hội mới nảy sinh. Đó là sự chênh lệch giàu - nghèo giữa các nơi ngày càng cao, và tình trạng trẻ em, người già bị rối loạn tâm lý ngày càng tăng.

theche1 - Copie

Một người bán hàng rong đi qua một tấm áp phích tuyên truyền cho Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam trên đường phố Hà Nội ngày 15 tháng 1 năm 2016.- AFP photo

Các nhà xã hội học đánh giá vấn đề này ra sao ?

‘Vấn đề xã hội mới nảy sinh’ ?

Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình, Giám đốc Trung tâm Xã hội học Việt Nam, có nhận định :

Tôi nghĩ đây là những vấn đề Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói trúng và đúng. Một vấn đề rất cơ bản và rường cột đó là phân hóa xã hội, việc hình hành các giai tầng mới, cũng như việc giãn ra ngày càng lớn hơn của các mức sống tầng lớp dân cư. Vấn đề khác là phần tử của các nhóm yếu thế tự đối diện với chính mình mà thiếu sự trợ giúp của xã hội dẫn đến các hành vi tự kỷ.

Tuy nhiên, theo Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Đức Long, Nguyên trung tá quân đội nhân dân Việt Nam, thì nhận định của ông Phó Thủ tướng Việt Nam không mới lạ.

Tôi nghĩ những vấn đề ông nêu lên chẳng có gì mới cả. Xã hội nào cũng có những vấn đề về người già và chênh lệch giàu nghèo, nhất là những nước có hệ thống an sinh xã hội chưa được điều chỉnh, cụ thể như Việt Nam.

Tiến sĩ Đinh Đức Long cho rằng biện pháp giải quyết bất cập của nhà nước mới là vấn đề cần tập trung. Ông nói :

Trên thực tế, nhà nước được coi là người đại diện cho nhân dân thì có làm đúng những gì họ được ủy nhiệm không ? Nếu không đúng thì nhân dân có hình thức nào để kiểm soát, chế tài, thậm chí là phế truất họ không ? Cái đấy mới quan trọng thì chẳng thấy ai bàn cả, đều tránh né.

‘Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo’ chỉ là khẩu hiệu

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại buổi tiếp xúc cử tri Cần Thơ hôm 26/11 khẳng định quyết tâm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện an sinh xã hội bằng chính sách của Nhà nước.

theche2 - Copie

Trẻ em dân tộc H'mông ăn trưa miễn phí tại một trường mầm non tại một tỉnh miền núi phía Bắc hôm 3/4/2015 AFP photo

Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình nhận định thu hẹp khoảng cách giàu nghèo không phải là một nỗ lực tuyệt vọng, nhưng là một bài toán có lời giải rất xa. Ông nói :

Tôi nghĩ chuyện nói rằng thu hẹp khoảng cách đấy cũng chỉ là một thông điệp, một khẩu hiệu hành động nhiều hơn là hoạt động trong thực tiễn. Bởi vì đấy là câu chuyện thế tất phải diễn ra. Đây là một thực tiễn khách quan không đảo ngược. Điều đó cũng phù hợp với mô hình tăng trưởng của xã hội các quốc gia phát triển trên thế giới chứ không hề xa lạ. Khi tôi nói điều đấy nghĩa là sự hòa nhập, sự xích lại gần gũi hơn với các quốc gia phát triển thì lớn hơn.

Trẻ em, người già và rối loạn tâm lý

Liên quan đến vấn đề rối loạn tâm lý ở trẻ em và người già, Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình cho rằng đây là tình trạng chung của mọi xã hội.

Vấn đề trẻ em tự kỷ và thành viên của nhóm yếu thế có vấn đề về tâm lý thì có lẽ là phổ quát trong lòng mọi thể chế, chứ không riêng ở Việt Nam. Đây là bài học và thực tiễn của một xã hội đang phát triển phải đối mặt.

Bác sĩ Đinh Đức Long có cùng quan điểm như trên và giải thích nguyên nhân :

Xã hội có nhiều mâu thuẫn, căng thẳng. Trẻ con không được bố mẹ quan tâm vì chạy theo kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận, chạy theo công việc. Trẻ em bị bỏ rơi, và người già cũng thế thôi. Tôi nghĩ ở nhiều nước phát triển, người già bị cho vào trại dưỡng lão, đâu được ở gia đình với con cháu. Vấn đề đó cũng gây ảnh hưởng ít nhiều tới tâm lý. Người già mà ở với con cháu thì khác hoàn toàn chứ.

Chúng tôi liên hệ một nhóm thiện nguyện độc lập ở Sài Gòn từ hơn 5 năm qua chăm lo đời sống cho gần 200 em thiếu nhi và 150 cụ già neo đơn sống tại các ngôi chùa, các mái ấm và được người đại diện chia sẻ thực tế hiện nay.

Thực sự đối với những đứa nhóc thì đang bị thiếu những hoạt động để được đi ra ngoài đường. Cái xã hội ở ngoài của tụi nhỏ là đi bệnh viện và đi chích ngừa. Còn người già thì gần như là bị bao bọc trong bốn bức tường. Họ rất vui khi tiếp xúc với người bên ngoài nhưng họ không có cơ hội. Đa phần là mọi người đang bị thiếu cơ hội tiếp xúc bên ngoài xã hội.

Người đại diện của nhóm đánh giá về tâm lý của trẻ em và người già trong các mái ấm, nhà tình thương ở Sài Gòn hiện nay.

Cơ bản em thấy là họ đang bị thiếu tình thương. Đa phần các nhóm công tác xã hội chỉ đến 1, 2 lần rồi ngưng. Thực sự là người ta cần dài hơn chứ không cần ngắn hạn. Em thấy tâm lý của những người cần giúp đỡ không phải là gắn bó vật chất nhiều hơn và cần về tinh thần nhiều hơn.

Thực tế cho thấy Việt Nam hiện nay có nhiều vấn đề tồn tại không chỉ riêng hai vấn đề ‘mới nảy sinh’ như Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc đến.

Tuy vậy, Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình chia sẽ quan điểm của ông rằng các vấn đề ấy dường như đều được gom lại vào một điểm ở tầng vĩ mô.

Có nhiều vấn đề liên quan đến manh áo mà cơ thể kinh tế xã hội này vốn đã từng vừa vặn nhưng nay không còn vừa vặn nữa. Tức là câu chuyện không tương thích giữa thể chế với sự phát triển mang tính cách khởi phát, đồng bộ, toàn thể để kích hoàn toàn bộ xã hội.

Tiến sĩ Bình ví von rằng thể chế chính trị hiện nay của Việt Nam như một manh áo chật, hiện không còn vừa vặn với một cơ thể đang vươn tới sự lớn rộng, và lời giải đáp cho vấn đề nằm ở ngay hình ảnh ấy.

Nguồn : RFA tiếng Việt, 15/12/2018

Published in Diễn đàn
mercredi, 12 septembre 2018 08:35

Chính trị và lòng heo

Chiều hôm qua, nói chuyện với H, một thanh niên trẻ tuổi từ Việt Nam qua Pháp tu nghiệp.

chinhtri1

Một quốc gia cũng phải có một chính phủ mạnh để bảo đảm trật tự, nếu không sẽ loạn !

H là sản phẩm của giáo dục "xã hội chủ nghĩa", từ nhỏ tới lớn, nhưng cũng quan tâm tới "chính trị", nhất là từ ngày ở trong nước "đi đâu cũng thấy Tàu". H nói "thỉnh thoảng có đọc bài của chú , muốn gặp để trao đổi".

H nhìn nhận ở Việt Nam thiếu tự do thực, "nhưng một quốc gia cũng phải có một chính phủ mạnh" để bảo đảm trật tự, nếu không sẽ loạn. Trả lời : nếu "chính phủ mạnh" đó tự cho mình toàn quyền sinh sát, trật tự đó là trật tự của nhà tù. Chỉ ở những nơi người ta coi dân như đàn cừu, cần phải chăn dắt, mới cần một đội ngũ công an, cảnh sát khổng lồ để canh gác, trừng trị những con cừu lớ ngớ ra khỏi bầy. Mới cần một chính phủ mạnh, ngày đêm rình rập, đàn áp. Cái chính phủ mạnh đó, nó chỉ mạnh để bảo vệ chính nó, không bảo vệ dân. Nó biết hết ai nghĩ gì, ai viết gì, ai hát gì, nhưng không biết ai buôn bán nội tạng, ai làm thuốc giả, ai bán thực phẩm hóa học, ai cướp đất, ai... làm mất bản đồ (bản đồ thành phố hay bản đồ quốc gia).

H không theo dõi báo chí, hay báo chí trong nước không đề cập tới, rất ngạc nhiên khi nghe trong một xứ dân chủ, nhiều khi, vì một lý do này hay lý do khác, không có chính phủ, việc nước vẫn chạy và không hề có hỗn loạn. Trường hợp phổ thông nhất là khi không có đảng nào chiếm đa số, cũng không kiếm được một đảng đồng minh để có đa số tại quốc hội, đủ để thành lập chính phủ. Đó là trường hợp đã xẩy ra ở rất nhiều nước Tây Phương, như Hòa Lan, Đức v.v.

chinhtri2

Trong một xứ dân chủ, nhiều khi, vì một lý do này hay lý do khác, không có chính phủ, việc nước vẫn chạy và không hề có hỗn loạn.

Gần đây, Tây Ban Nha đã trải qua một giai đoạn vô chính phủ 315 ngày, Belgique gần... một năm rưỡi ! (trên 540 ngày, nếu nhớ không lầm). Chuyện gì xẩy ra trong thời gian đó ? Guồng máy hành chánh vẫn hoạt động bình thường, trật tự xã hội không hề bị vi phạm, đời sống hàng ngày không hề gặp khó khăn, tội phạm không gia tăng, và kinh tế… thịnh vượng hơn bình thường.

Tại sao ? Bởi vì ở những xứ dân chủ, các cơ cấu xã hội vững mạnh, guồng máy hành chánh có quy củ, những người làm việc công có lương tâm, có ý thức trách nhiệm, không trơ tráo nhận mình là "đầy tớ dân "nhưng tìm mọi cơ hội để làm thịt dân. Không cần chính phủ sai bảo, ai vẫn làm việc nấy. Chỉ có những con chuột, suốt đời bị khủng bố, mới vui mừng nhẩy múa khi vắng mặt mèo.

Một dân tộc trưởng thành không cần dạy bảo, sai khiến, không cần cha già dân tộc. Có người nói thỉnh thoảng không có chính quyền cũng là một điều hay, cho xã hội nghỉ mệt. Một thí dụ : chỉ trong một nhiệm kỳ, quốc hội Pháp đã biểu quyết 450 luật mới, đa số do chính phủ đề nghị. Chưa nói tới trên 18.000 tu chính án.. Ông bộ trưởng nào cũng có tham vọng lưu tên tuổi mình cho hậu thế bằng một đạo luật : luật Pasqua, luật Marcellin… Cuối cùng, dân không biết đâu mà mò.

Tại một xứ độc tài, trước câu hỏi tại sao nhà nước bất tài, tham nhũng mà quốc gia vẫn chưa phá sản, có người trả lời, nửa đùa nửa thực : bởi vì dân xây dựng, khi chính phủ... ngủ.

Người bạn trẻ hỏi : như vậy "chính phủ để làm gì "? Ronald Reagan trả lời : chính phủ là một vấn đề, không phải là giải pháp. Đó là quan niệm của một người Tây phương gọi là "libéral" kiểu Mỹ, không phải ai cũng đồng ý.

Chính phủ, trái lại, có vai trò chính yếu là chọn một đường đi tốt cho quốc gia. Không phải chính phủ nào cũng chọn đúng, hay thực hiện nổi những điều hứa hẹn, nhưng ở xứ dân chủ, nếu dân không thỏa mãn, sẽ cho chính phủ về vườn, lựa chính phủ khác. Không phải suốt ngày chứng kiến "đi dô, đi ra, thằng cha khi nãy". Không phải suốt đời nghe mấy anh lãnh đạo tối dạ thi nhau ăn nói ngớ ngẩn.

H nói nếu thay đổi hoài, làm sao hữu hiệu ? Điều này thì H có lý : nếu muốn cai quản đất nước như một nhà tù lớn, các nước dân chủ thua xa Việt Nam, Bắc Hàn hay Tàu.

H nói đọc báo Pháp, coi TV, nghe radio, tiếng Tây còn loạng quạng chưa hiểu hết, nhưng thấy họ chỉ trích nhà nước suốt ngày ; thể chế này, xã hội này đâu phải là lý tưởng. Quả vậy. Thể chế nào cũng đầy những khuyết điểm. Xã hội nào cũng có những anh lem nhem. Chính trị (theo nghĩa mưu đồ chính trị) ở đâu cũng có những xì căng đan. Cái khác là ở xứ dân chủ, bất cứ ai phạm pháp cũng bị trừng trị, kể cả tổng thống, thủ tướng.

Khác với xứ độc tài, bọn có tội bỏ tù người khác. Édouard Herriot nói : "Chính tri cũng như món lòng heo, phải có mùi phân, nhưng đừng nhiều quá" (La politique, c’est comme l’andouillette, ça doit sentir un peu la merde, mais pas trop).

chinhtri3

Édouard Herriot nói : "Chính tri cũng như món lòng heo, phải có mùi phân, nhưng đừng nhiều quá"

Ở một xứ như Việt Nam không còn mùi lòng lợn, chỉ còn mùi phân sặc sụa. Anh nào thính mũi, ngửi thấy mùi phân là nó cho đi tù mục xương. Nhất là những anh không ý tứ, đã ngửi thấy mùì phân, còn la oáng lên giữa chợ.

Nói chuyện thể chế, không thể không nhắc một câu nổi tiếng mà người ta vẫn gán cho Churchill : dân chủ là thể chế tồi nhất, nếu không kể các thể chế khác. Cái khác nhau là ở xứ này, người ta có quyền chỉ trích và đòi sửa đổi. Những học giả chỉ trích thể chế dân chủ hăng nhất, có bài bản nhất, từ Alexis de Tocqueville tới Raymond Aron là những người đóng góp nhiều nhất cho sự vững mạnh của dân chủ.

Buổi trao đổi có làm thay đổi cách suy nghĩ của H hay không ? Chắc là không, theo nguyên tắc : đừng hy vọng gì làm thay đổi sự tin tưởng của người khác ngay trong buổi trao đổi đầu tiên. Nhất là những người đã bị nhồi sọ từ nhỏ.

Sự thay đổi sẽ đến, từ từ. Sống ở ngoại quốc, dần dần H sẽ tự tìm ra một phần sự thực. Trao đổi với người nghĩ khác mình không phải hoàn toàn vô bổ. Miễn là đừng sỉ vả nhau. Tổ chức nhậu nhẹt, nên chọn vài tên bạn nối khố, suy nghĩ như mình, nhưng xây dựng dân chủ, hay xây dựng lại một quốc gia, cần rất nhiều người.

Paris, 12/09/2018

Từ Thức

Published in Diễn đàn