Những năm gần đây, công nhân ở các nhà máy, công xưởng tại Việt Nam tổ chức nhiều cuộc đình công và biểu tình. Những cuộc đình công, biểu tình của công nhân nhiều nhà máy từ khắp trong Nam ra ngoài Bắc nổ ra ngày càng nhiều.
Nhiều cuộc đình công và biểu tình. Những cuộc đình công, biểu tình của công nhân nhiều nhà máy từ khắp trong Nam ra ngoài Bắc nổ ra ngày càng nhiều. Ảnh minh họa
Mới đây, sáng ngày 17/2/2020 hàng ngàn công nhân công ty JY Hà Nam (xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) mang theo nhiều băng rôn tập trung trước khu vực cổng công ty để phản đối việc cho các chuyên gia người Trung Quốc sang làm việc. Ngoài ra, họ còn dương biểu ngữ đòi hỏi chủ không được kỷ luật, sa thải người vô lý cũng như các yêu cầu khác về lương bổng và chế độ của họ.
Theo dõi quá trình phát triển của công nhân Việt Nam thời gian mấy chục năm gần đây, chúng ta thấy có những thay đổi rất rõ ràng về vai trò của Đảng cộng sản.
Vai trò của đảng trong các cuộc đình công, biểu tình trước đây
Chủ nghĩa Mác – Lenin định nghĩa : "Đảng Cộng sản là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân, của liêm minh công nông" mà giai cấp công nhân được định nghĩa là giai cấp ưu tú nhất, tiến bộ nhất và cách mạng nhất trong mọi tầng lớp nhân dân, chỉ vì đó là giai cấp vô sản nhất, có thể đi theo đảng đến cùng trong cuộc đấu tranh khi "không có gì để mất mà được thì được tất cả".
Do vậy, trước đây trong thời thực dân, phong kiến, cũng như thời kỳ Đảng cộng sản hoạt động bí mật tại Miền Nam Việt Nam dưới chế độ cộng hòa, đảng là tổ chức đứng ra để tập trung, kích động cũng như ủng hộ công nhân đòi hỏi quyền lợi của mình, từ tăng lương, giảm giờ làm cho đến đình công làm đình trệ mọi hoạt động kinh tế trong các nhà máy, công xưởng, từ mỏ than cho đến các cơ sở sản xuất khác nhau.
Thực chất, những cuộc biểu tình và gây khó khăn cho giới chủ trong thời kỳ đó, đảng cộng sản đã lợi dụng nó để phát triển tổ chức của mình và lôi kéo đội ngũ công nhân, tầng lớp bần cùng trong xã hội đứng về phía mình lật đổ chế độ, cướp chính quyền.
Không chỉ những cuộc đình công, biểu tình của giới công nhân, mà mọi thành phần xã hội đều được đảng kích động để làm rối loạn xã hội và hệ thống chính trị thời bấy giờ như bãi thị, bãi khóa, sinh viên xuống đường…
Những khi đó, hệ thống tuyên truyền của đảng luôn miệng kêu gào : Vì quyền lợi người lao động, vì hạnh phúc của công, nông dân…
Khi đó, Hồ Chí Minh đã viết : "Giai cấp công nhân mà không có một chính đảng cách mạng lãnh đạo thì khác nào con thuyền không có người cầm lái, dễ mất phương hướng. Còn Đảng Cộng sản không mang bản chất giai cấp công nhân, đứng trên lập trường giai cấp công nhân thì không còn là một đảng tiên phong cách mạng".
Thay đổi
Thế nhưng, kể từ khi cướp được chính quyền về tay mình, tổ chức một nhà nước bao cấp, một nền kinh tế theo kế hoạch tập trung, vai trò của người công nhân được định nghĩa là "những ông chủ, những người làm chủ tập thể"… Do vậy, việc đình công, biểu tình là điều không được phép xảy ra. Bởi theo lý thuyết cộng sản, chẳng có ông chủ nào lại đi biểu tình, đình công đòi hỏi quyền lợi cho chính mình từ ông chủ là mình.
Dù cho khi đó, chế độ bao cấp đã đem lại một nền kinh tế sa sút và suy kiệt, đời sống người công nhân lao động leo lắt bám vào vài thứ tem phiếu để mua mỗi tháng mấy lạng thịt và mấy cân lương thực mốc meo, nhưng việc đòi hỏi quyền lợi cho mình là điều không tưởng.
Thế rồi từ đó hình thành một chế độ mà theo ngôn ngữ dân gian thì "Đường sữa phát từ trên xuống, cuốc xẻng phát từ dưới lên". Cả xã hội làm việc theo một mô hình tập thể và chẳng ai có trách nhiệm. Về quyền lợi, đảng ban gì được hưởng nấy, đảng nắm vững cái dạ dày và hầu bao người dân bằng chế độ tem phiếu và kiểm soát mọi hoạt động, tư tưởng cũng như suy nghĩ của người dân. Tất cả nhất nhất theo ý đảng.
Kết quả là đem đến một xã hội mà chỉ riêng việc lo cho đủ bữa ăn hàng ngày đã là một "nhiệm vụ chính trị" hết sức nặng nề không thể hoàn thành.
Mấy chục năm trong thời bao cấp tập trung dưới bàn tay của đảng, đất nước có những bước thụt lùi và tụt hậu. Đời sống người dân leo lắt, tổng sản phẩm xã hội không đủ để chi dùng và lãnh đạo đất nước kiêm thêm nghề ăn mày - chuyên đi xin viện trợ lương thực - dù đây là một đất nước nông nghiệp đã có thời kỳ dài trong quá khứ xuất khẩu lương thực ra thế giới.
Khi kiếm miếng ăn chưa đủ, thì đất nước và con người không nghĩ gì được xa hơn bát cơm của mình.
Tuy vậy, đảng vẫn luôn mồm leo lẻo về thành tích và công lao cũng như luôn luôn rêu rao "Vì hạnh phúc của người lao động".
Lại thay đổi
Trước sự sụp đổ không tránh khỏi của hệ thống cộng sản trên toàn thế giới, trước tình cảnh đói nghèo không thể kiểm soát của người dân, đảng buộc phải chấp nhận những cá nhân, tổ chức dám "vượt rào" xóa bỏ bao cấp và bắt đầu mở cửa làm ăn với thế giới.
Kể từ khi mở cánh cửa mà đảng đã tự đóng và khóa lại chắc chắn bằng nhiều lớp khóa đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng trên toàn đất nước, một sức sống mới của người dân được khơi dậy và họ đã tự phải lo cho chính bản thân của mình. Kể từ đó, kinh tế đất nước được khởi sắc và đời sống xã hội đã vượt qua được nạn đói triền miên, đói kinh niên như một căn bệnh cố hữu của chế độ cộng sản.
Khi hội nhập phần nào với đời sống quốc tế trên nhiều lĩnh vực, sự hợp tác với các quốc gia mà trước đây đảng coi là chậm tiến, là phản động… nay đảng phải thừa nhận rằng đó là những đất nước văn minh và tiến bộ với nền sản xuất tiên tiến thì đời sống người dân cũng như bộ mặt xã hội lại có những diễn biến mới.
Hàng loạt các công ty nước ngoài được đảng kêu mời vào đầu tư tại Việt Nam nhằm khai thác cho đảng nguồn nhân công rẻ mạt và những ưu tiên hiếm có.
Nhiều nhà máy, công xưởng, công ty đã mọc lên khắp nơi từ trong Nam ra ngoài Bắc mà chủ yếu là nhắm vào nguồn đất đai và sức lao động rẻ mạt, dễ huy động bởi một chế độ đã mang lại nghèo đói quá lâu cho xã hội Việt Nam.
Những ông chủ mới của các nhà máy, công xưởng đã thay thế đảng để làm ra những sản phẩm của mình với hệ thống máy móc, công nghệ tiên tiến hơn, và qua đó, tầng lớp công nhân phát triển hơn, đông đúc hơn và tạo ra nhiều khu vực tập trung công nhân rất lớn.
Trách nhiệm của các ông chủ này, là tổ chức sản xuất, lại bóc lột công nhân và có nhiệm vụ cung phụng cho đảng tiền bạc qua hệ thống thuế má và hối lộ để đảng mặc sức tiêu xài phá phách.
Kể từ đó đảng trở thành đồng minh, và nhiều khi là ông chủ thực sự của những công nhân lao động.
Và cũng kể từ đó, đảng ra sức đồng lòng cùng giới chủ và thậm chí là tận tay mặc sức bóc lột người lao động không thương tiếc.
Và những cuộc đình công, biểu tình lại nổ ra.
Và vai trò của đảng trong các cuộc đình công, biểu tình đã thay đổi.
Thay vì tổ chức các cuộc đình công, biểu tình, đảng lại ra sức dập tắt biểu tình, đình công của công nhân lao động đòi quyền lợi của mình.
Thay vì đứng về phía công nhân lao động như lời thề hứa của mình, đảng trở mặt bảo vệ nồi cơm của đảng bằng cách bảo kê cho các ông chủ bóc lột thả sức người công nhân lao động.
Thay vì bảo vệ người công nhân, nông dân và bảo vệ đất nước của mình, đảng đứng hẳn về phía những người đã gây ra thảm họa cho đất nước qua những vụ đầu độc như Formosa và các cơ sở sản xuất độc hại khắp nơi.
Thay vì bảo vệ người công nhân là giai cấp của mình, người nông dân là giai cấp liên minh của mình, đảng sử dụng vũ lực với tất cả, miễn là đảm bảo được mối lợi cho đảng bằng mọi giá.
Và đảng đã hiện nguyên hình là một tầng lớp, một giai cấp bóc lột người công nhân thậm tệ nhất.
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn : RFA, 27/02/2020 (nguyenhuuvinh's blog)
Bộ Quốc phòng ‘ám hại’ Tổng bí thư và Bộ Chính trị
Trân Văn, VOA, 14/02/2020
Xét về bản chất, tuyên bố của Bộ Quốc phòng : Các tướng lĩnh quân đội bị xử lý không phải do tham nhũng (1) – chính là một kiểu hãm hại Tổng bí thư và các Ủy viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, hủy diệt "sinh mạng chính trị" của Tổng bí thư, uy tín của đảng, nhà nước, quốc hội, chính phủ…
Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và các tướng lĩnh lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đến dự Hội nghị Quân chính toàn quân, đánh giá kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019.
***
Bộ Quốc phòng vừa đưa ra tuyên bố vừa kể sau khi cử tri thành phố Đà Nẵng yêu cầu các đại biểu của họ tại Quốc hội thay mặt họ chất vấn Bộ Quốc phòng, đòi cơ quan này xác định Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng phải chịu trách nhiệm như thế nào khi có hàng loạt cán bộ, tướng lĩnh của quân đội vi phạm pháp luật.
Theo Bộ Quốc phòng, các sĩ quan cao cấp của quân đội vi phạm pháp luật và đã bị kỷ luật chỉ là vì "buông lỏng lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các quy định của nhà nước, của quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng" và những vi phạm ấy "tập trung chủ yếu ở các nhiệm kỳ 2005 - 2010, 2010 – 2015".
Có bao nhiêu người tin rằng việc các ông tướng là chỉ huy đủ mọi quân chủng (lục quân, hải quân, không quân), quân khu, quân đoàn,… thi nhau bán công thổ dành cho quốc phòng với giá rẻ như cho, khiến công quỹ mất hết ngàn tỉ đồng này đến ngàn tỉ đồng khác đều chỉ là "buông lỏng lãnh đạo, thiếu trách nhiệm" đối với "đất quốc phòng" ?
Tại sao quân đội "xem xét, xử lý một cách nghiêm minh, thận trọng, chặt chẽ, thấu đáo, có lý, có tình, đúng người, đúng khuyết điểm và không có ‘vùng cấm’, không có ‘ngoại lệ’ rõ đến đâu xử lý đến đó" mà "số quân nhân bị xử lý do tham nhũng rất ít" và "chủ yếu là cán bộ cấp phân đội và quân nhân chuyên nghiệp" ?
***
Tuyên bố của Bộ Quốc phòng về trách nhiệm của Đại tướng Ngô Xuân Lịch, cũng như nỗ lực "xây dựng, chỉnh đốn đảng, kiểm soát quyền lực, ngăn chặn - đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ‘lợi ích nhóm’, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ trong nội bộ" của Bộ Quốc phòng, khuyến khích thắc mắc :
- Nếu ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không từ chối đề nghị công bố bản kê khai tài sản của các ông tướng nói riêng và những viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam nói chung để toàn dân giám sát như trước nay thiên hạ vẫn làm, không xem chuyện công bố bản kê khai tài sản của những viên chức này là "rất khó, rất nhạy cảm" (2)… thì có ông tướng nào "buông lỏng lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các quy định của nhà nước, của quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng" thoát khỏi các cuộc điều tra – truy cứu trách nhiệm hình sự không ?
- Nếu Bộ Chính trị đừng lắc đầu khi Quốc hội thỉnh thị ý kiến về việc áp dụng các biện pháp trừng phạt (truy cứu trách nhiệm hình sự, tịch thu sung công những tài sản không thể giải trình về nguồn gốc,…) những viên chức "giàu có bất minh" và không thể giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản cá nhân, gia đình như tinh thần Công ước Chống tham nhũng (3), thành ra sau một thời gian dài nâng lên, đặt xuống, Quốc hội loại bỏ toàn bộ các biện pháp trừng phạt "làm giàu bất chính" ra khỏi cả Luật Hình sự, lẫn Luật Phòng – chống tham nhũng thì làm gì có chuyện, rất ít "cán bộ cấp phân đội và quân nhân chuyên nghiệp" bị Bộ Quốc phòng xử lý vì tham nhũng !
***
Việc Bộ Quốc phòng đã khẳng định : Các tướng lĩnh quân đội bị xử lý không phải do tham nhũng mà còn khẳng định thêm rằng, việc xem xét, kỷ luật các ông tướng bán rẻ công thổ, mang quyền sử dụng công thổ đặt vào tay nhiều cá nhân, doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp ngoại quốc, góp phần… "củng cố, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với quân đội", chứng tỏ trí lực, tư cách của các ông tướng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam đặc biệt… khác thường.
Cho dù có hàng chục ông tướng là chỉ huy đủ mọi quân chủng (lục quân, hải quân, không quân), quân khu, quân đoàn,… "buông lỏng lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các quy định của nhà nước, của quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng" nhưng theo Bộ Quốc phòng, quân đội vẫn "hoàn thành toàn diện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng" chính là một trong những bằng chứng cho thấy yếu tố đặc biệt… khác thường về trí lực, tư cách của các ông tướng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam
Không chỉ có thế, thông qua văn bản trả lời cử tri thành phố Đà Nẵng, các ông tướng lãnh đạo Bộ Quốc phòng còn tỏ ra hết sức… dũng cảm khi chỉ cho cử tri Đà Nẵng nói riêng và cử tri Việt Nam nói chung, cùng thấy thực chất của công cuộc chỉnh đốn đảng, phòng – chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm,… mà Tổng bí thư và Bộ Chính trị đã khởi xướng cũng như đang triển khai, giám sát. Nên ghi công hay lên án Bộ Quốc phòng, xem văn bản vừa kể là một âm mưu thâm độc chống lại "đảng ta" ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 14/02/2020
Chú thích :
*******************
Có đúng các tướng quân đội bị kỷ luật không phải do tham nhũng ?
RFA, 13/02/2020
Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa khẳng định với cử tri Đà Nẵng qua văn bản trả lời ngày 12 tháng 2 rằng trong số những quân nhân cấp tướng bị xử lý kỷ luật, không có người nào bị xử lý vì tham nhũng.
Ảnh minh họa : Các vị tướng, tá quân đội nhân dân Việt Nam trong một buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam. AFP
Thật sự có phải như lời Bộ Quốc phòng ?
Trao đổi với RFA hôm 13/2, Nhà văn Phạm Đình Trọng, từng công tác nhiều năm trong lực lượng quân đội, nhận xét :
"Theo tôi, việc đấy là họ nói tránh đi để họ bảo vệ danh dự của họ thôi, chứ nhân dân ai cũng biết, các tướng tá đó đều tham nhũng đất đai, chứ không phải là không có tham nhũng".
Trong khi đó, theo Bộ Quốc phòng Việt Nam thì vi phạm của những quân nhân cấp tướng quân đội Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là do buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các qui định của Nhà nước, của Quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
Bộ Quốc phòng Việt Nam còn nhấn mạnh những sai phạm của các vị tướng quân đội tập trung vào thời điểm các nhiệm kỳ 2005-2010 và 2010 đến 2015.
Đại úy Võ Minh Đức, người từng phục vụ quân đội hơn 10 năm, trong trả lời RFA hôm 13/2, nói :
"Về việc quản lý đất đai, tưởng mấy ông đó lên tới cấp tướng mà không biết gì… nó tất tần tật là vì tiền… chung chi, đút lót, để nó cho người này được dự án, người kia được dự án, rồi lấy đất quốc phòng đổi chác, bán tùm lum… Không chỉ cấp tướng, cỡ đồng trang lứa như tôi, là cấp thượng tá, không ai mà nhà tranh vách lá, toàn là ít nhất 3 tầng, 4 bánh hay có người là biệt phủ. Toàn nhà cao cửa rộng, tiền ở đâu ra, lương quân đội so với ngành khác là cao ngất ngưỡng rồi đó, nhưng chưa đủ để có cơ ngơi như thế".
Theo Đại úy Võ Minh Đức, đó là bề nổi, chưa kể bề chìm là đưa con đi học nước ngoài, mua nhà ở nước ngoài thì tiền ở đâu ra ? Đó chính là tiền bổng lộc chức quyền đem lại trong quản lý đất đai và các mảng khác.
Còn theo Trung tá Vũ Minh Trí, trước khi về hưu công tác tại Cục Kỹ thuật, Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng, có thể nhìn rõ các tướng tá trong quân đội có tham nhũng hay không qua những tài sản mà họ có. Ông nói với RFA hôm 13/2 :
"Tôi từng ở trong quân đội, với mức lương được cấp phát, để đủ sống ở thành phố đã khó, chưa nói đến chuyện mua sắm xe cộ nhà cửa. Thế nhưng tôi thấy xung quanh tôi, không đến cấp tướng đâu, mà đến cấp tá thôi, cũng nhiều người giàu có rất là bất thường. Tôi nghĩ rằng với vị trí công tác như vậy, tính chất công việc, thời gian như vậy, không thể có cách kiếm tiền nào khác ngoài tham nhũng".
Người giữ chức vụ cao nhất trong quân đội Việt Nam bị xử lý kỷ luật tính đến thời điểm hiện nay là cựu Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, nguyên Thứ trưởng quốc phòng, Tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Vào ngày 22 tháng 10, Cơ quan Điều tra Hình sự Bộ Quốc phòng phối hợp với Viện Kiểm Sát Quân sự Trung ương thi hành quyết định khởi tố bị can, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Nguyễn Văn Hiến về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 điều 360 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015.
Biện pháp khởi tố ông Nguyễn Văn Hiến được tiến hành trong quá trình điều tra mở rộng vụ án Đinh Ngọc Hệ, Bùi Văn Nga và những tòng phạm về tội vi phạm các qui định về quản lý đất đai theo khoản 3 điều 229 ; và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 174 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015.
Trung tá Vũ Minh Trí, nói tiếp :
"Ở Việt Nam có câu thành ngữ ‘Nó lú có Chú nó khôn’, tức là bản thân ông tư lệnh hải quân, ở dưới có rất nhiều cơ quan hay cá nhân tham mưu giúp việc, nếu bản thân ông ta có nhầm lẫn hay sai sót, sẽ có một hệ thống cảnh báo, ngăn chặn… kể cả cấp trên. Thế nhưng để ra sai phạm lớn như vậy, tôi nghĩ họ không lầm đâu mà họ biết làm vậy là sai phạm… nhưng họ cố tình làm sai, vì liên quan hàng ngàn tỷ đồng thì ai cũng có thể thấy. Ví dụ ra chợ, mớ rau 5 ngàn 3 ngàn còn phải mặc cả, đằng này đây, những khối tài sản cực kỳ lớn, rõ ràng họ phải biết, nếu chênh lệch thì cũng chỉ có thể chút ít thôi chứ không phải như vậy".
Thượng tướng Lê Chiêm, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, khi trả lời báo chí trong nước trước đây từng thừa nhận, vẫn có một số đơn vị trong quân đội không quan tâm đến công tác phòng chống tham nhũng, khi cho rằng đơn vị mình không có tham nhũng. Đến khi phát hiện có tham nhũng thì xử lý lúng túng.
Từ đầu năm 2019 đến nay, đã có hàng chục tướng, tá quân đội và công an bị kỷ luật, xử lý vì để xảy ra những vi phạm trong công tác quản lý đất đai. Điển hình như trường hợp của Đô đốc Nguyễn Văn Hiến.
Ngoài ra, trong danh sách tướng, tá quân đội bị kỷ luật vì đất đai còn có Thượng tướng Phương Minh Hòa, Trung tướng Nguyễn Văn Thanh, Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Đại tá Trương Thanh Nam, Đại tá Nguyễn Hải Châu, Đại tá Phạm Ngọc Dũng.v.v…
Máy bay Sukhoi Su-30MK2 của không quân Việt Nam tại sân bay quân sự Biên Hòa, Đồng Nai hôm 21/10/2015. AFP
Ngoài tham nhũng trong đất đai, việc mua sắm trang thiết bị, vũ khí cho Bộ quốc phòng cũng được nêu lên nhiều dấu hỏi về những khoảng ‘lại quả’ ‘hoa hồng’…
Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, Việt Nam nằm trong top 10 nước mua nhiều thiết bị quân sự nhất trên thế giới. Cụ thể trong giai đoạn từ 2014 tới 2018, số vũ khí nhập khẩu của Việt Nam chiếm 2,9% tổng số vũ khí bán ra trên toàn cầu. Chỉ trong năm 2016, chi tiêu quốc phòng của Việt Nam là 5 tỷ đô la và dự kiến sẽ tăng lên hơn 6 tỷ đô la vào năm 2020.
Liên quan vấn đề này, Trung tá Vũ Minh Trí cho biết ý kiến của mình :
"Tôi không có thông tin thật cụ thể nhưng nghe nói nhiều, nhưng tôi có thể suy ra từ những việc nhỏ, ví dụ như mua giấy văn phòng, xe công, hay quà cáp… thì đề có tình trạng ăn hoa hồng hay kê giá cao lên. Nên tôi nghĩ việc mua vũ khí thì rất khó tránh khỏi tham ô. Đặc biệt khi không có giám sát của cơ quan chức năng, với lý do bảo mật, an ninh quốc phòng…".
Nhận xét về việc đòi hoa hồng trong mua sắm thiết bị quốc phòng, ông Phạm Đình Trọng nói :
"Cái đó thì gần như là đương nhiên ở cái lệ mua bán ở Việt Nam, không cần phải nói thì ai cũng biết là họ có đi đêm. Ví dụ mua vũ khí của Mỹ thì họ đòi đến 25% chẳn hạn, chính vì thế không mua được vũ khí của Mỹ mà phải mua của những nước tham nhũng như Nga, Ấn Độ… vì Mỹ quy định chặt chẽ, quan chức khó tham nhũng được".
Vào năm 2017, trang tin Shephard Media trích dẫn một nguồn tin quốc phòng của Mỹ cho biết, các giới chức quốc phòng Việt Nam thông báo cho phái đoàn của Mỹ biết trong một cuộc họp ở Hà Nội, rằng các thương vụ mua bán vũ khí phải được "lại quả" 1/4 của tổng giá trị. Sau khi phía Việt Nam đưa ra yêu cầu đó, cuộc họp đã "đột ngột dừng lại".
Theo Nhà văn Phạm Đình Trọng, nguyên nhân của vấn nạn này ai cũng biết, đó là do một chế độ tham nhũng, đối với một chế độ cộng sản thì không thể hạn chế tham nhũng được. Vì người dân không có quyền kiểm soát nhà nước thì làm sao hạn chế được.
******************
Bộ Quốc phòng Việt Nam nói các tướng bị kỷ luật không phải do tham nhũng
RFA, 12/02/2020
Bộ Quốc phòng Việt Nam khẳng định trong số những quân nhân cấp tướng bị xử lý kỷ luật, không có người nào bị xử lý vì tham nhũng.
Hình minh họa. Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng - Courtesy : Ảnh internet
Khẳng định vừa nêu được mạng báo Thanh Niên loan đi ngày 12/02 dẫn văn bản của Bộ Quốc phòng Việt Nam trả lời cho kiến nghị của cử tri thành phố Đà Nẵng về trách nhiệm của người đứng đầu Bộ Quốc phòng trong công tác phòng chống tham nhũng, khi mà vừa qua rất nhiều cán bộ, tướng lĩnh của ngành quân đội vi phạm pháp luật.
Theo Bộ Quốc phòng Việt Nam thì vi phạm của những quân nhân cấp tướng quân đội Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là do buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các qui định của Nhà nước, của Quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
Bộ Quốc phòng Việt Nam còn nhấn mạnh những sai phạm của các vị tướng quân đội tập trung vào thời điểm các nhiệm kỳ 2005/2010 và 2010 đến 2015.
Người giữ chức vụ cao nhất trong quân đội Việt Nam bị xử lý kỷ luật tính đến thời điểm hiện nay là cựu Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, nguyên Thứ trưởng quốc phòng, Tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Ông Nguyễn Văn Hiến vào tháng 6 năm ngoái bị Bộ Chính Trị Đảng cộng sản Việt Nam kỷ luật bằng biện pháp cách hết các chức vụ.
Đến ngày 3 tháng 9, ông Nguyễn Văn Hiến bị Thủ tướng Chính phủ Hà Nội kỷ luật với hình thức xóa tư cách nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Vào ngày 22 tháng 10, Cơ quan Điều tra Hình sự Bộ Quốc phòng phối hợp với Viện Kiểm Sát Quân sự Trung ương thi hành quyết định khởi tố bị can, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Nguyễn Văn Hiến về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 điều 360 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015.
Biện pháp khởi tố ông Nguyễn Văn Hiến được tiến hành trong quá trình điều tra mở rộng vụ án Đinh Ngọc Hệ, Bùi Văn Nga và những tòng phạm về tội vi phạm các qui định về quản lý đất đai theo khoản 3 điều 229 ; và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 174 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015.
Đảng cộng sản cứu nguy cho dân tộc
An Viên, VNTB, 07/02/2020
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2020), Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tuyên bố : Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn…
Đảng cộng sản có ‘trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà chính đảng cộng sản có thể ‘bản lĩnh’ thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân để ‘thỉnh nguyện tâm ý nhân dân’ và làm căn cứ chứng tỏ các quan điểm trên là đúng đắn.
Không ai nghi ngờ về điều đó, khi mà nguyên tắc kiểm soát quyền lực của đảng luôn đặt mục tiêu, bóp nát mọi lực lượng chính trị thứ ba ngay trong lòng trứng. Gần đây, thời kỳ ông Nguyễn Phú Trọng nắm giữ nhiệm kỳ 2 Tổng bí thư (2016) và kiêm nhiệm thêm chức vụ Chủ tịch nước, yếu tố lực lượng thứ ba về mảng xã hội (xã hội dân sự) cũng đứng trước nguy cơ bị phá vỡ hoàn toàn sau một thời gian dài lăn lộn ngóc ngách trong xã hội, lịch sử Việt Nam sau 1975.
Không ai có thể nghi ngờ rằng, đảng cộng sản là duy nhất khi triệt tiêu các đảng phái chính trị thứ ba, và dồn nén – kiểm soát các lực lượng xã hội dân sự.
Thế nhưng, điều duy nhất đó không có nghĩa là bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước.
Không có bất kỳ căn cứ nào để cho thấy ‘bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà những quan điểm này xuất phát một cách hời hợt, chủ quan, trịch trượng và có phần phô trương của người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam.
Thực ra, có thể dễ dàng chứng minh đảng cộng sản có ‘trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo’ khi mà chính đảng cộng sản có thể ‘bản lĩnh’ thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân để ‘thỉnh nguyện tâm ý nhân dân’ và làm căn cứ chứng tỏ các quan điểm trên là đúng đắn.
Hãy mơ đi ! Đó là chuyện không bao giờ xảy ra. Một câu chuyện huyền hoặc, đầy viển vông, bởi đảng sẽ chẳng bao giờ đủ ‘bản lĩnh’ làm một thủ tục đơn giản đó, dù rằng, đảng sở hữu nhà tù, cảnh sát, và toà án, cộng với hơn 5 triệu đảng viên.
Thế nhưng, chính vì đảng cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất tồn tại trên mảnh đất này, và khi lực lượng xã hội dân sự bị kiềm soát đến mức vai trò của nó chỉ là hình thức thì một vấn đề khó tin lại diễn ra.
Đảng cộng sản trở thành nhân tố quan trọng trong thay đổi vận mạng của một dân tộc, một quốc gia.
Trong ‘Nhật Bản Duy Tân 30 năm, của Đào Trinh Nhất, (1936)’ có đề cập đến ba yếu tố mà theo tác giả là ‘đổi thay vận mạng của một dân tộc.’
Trước hết là nhờ ‘có bọn đương quyền khôn ngoan sáng suốt và bọn chí sĩ thức thời làm hướng đạo tiên phong, nhưng cũng phải nhờ nơi dân tâm dân khí có biết hăm hở tấn hóa tự cường mới được.’
Trường hợp, ‘nếu chí sĩ có, dân tâm có, nhưng vô phước mà bị đám cầm quyền là lũ đầu óc ngu dại, cứ ngồi lỳ trên cao, lấy quyền to sức mạnh của chúng để đè ép cản trở ý muốn tấn hóa của dân, thì việc quốc gia đại kế cũng không trông mong gì làm nổi.’
Và khi gặp ‘cảnh ngộ’ như thế, thì ‘kết quả đố khỏi hoặc là trong nước nổi lên một phen cách mạng đổ máu gớm ghê, hoặc là bị mất nước với người ta ; nếu không cũng bị lợi dụng và yếu hèn mãi.’
Đó là tương lai của dân tộc này, và bản thân những nhân sự trong đại hội 13 lần này phải tự ‘soi mình vào’. Thoát khoei những luận điệu ‘quan liêu, lỗi thời’ để tự cứu nguy cho chính mình và chính bản thân đảng của mình, đồng thời tạo điều kiện thay đổi vận mạng dân tộc.
Cụ thể hơn, nếu ai kế vị chức vụ Tổng bí thư, thì nên kế tục tinh thần dân quyền từ thời ông Hồ Chí Minh, thay vì ‘người đốt lò’. Bởi chỉ khi kế tục ‘tinh thần dân quyền’ thì đầu óc mới không còn ngu dại (quan liêu), không còn ngồi lì trên cao (tham quyền, cố vị), chỉ ưa dùng hạ sách để trị quốc gia (lấy quyền to sức mạnh của chúng để đè ép cản trở ý muốn tấn hóa của dân), đè nén quyền dân, o ép không gian dân sự – chính trị của người dân. Chỉ khi kế tục và thực thi ‘tinh thần dân quyền’ thì khi đó giáo hoá người dân mới được mở ra, bản lĩnh và trí tuệ của chính đảng mới được ghi nhận, và khả năng lãnh đạo của đảng mới thực sự được kiểm chứng và có khả năng được kiểm chứng.
Nhưng quan trọng hơn, khi kế tục ‘tinh thần dân quyền’, chính đảng sẽ đưa dân tộc gần hơn với các quốc gia văn minh, mở cửa cho bền vững trong phát triển và chế ngự được nạn lạm quyền, thụ quyền đời đời trong đảng. Ngăn được nguy cơ của một cuộc cách mạng ‘soán ngôi’ khiến chính đảng có thể bị đặt ra ngoài vĩnh viễn vòng pháp luật và lịch sử phát triển của quốc gia.
Và chỉ khi kế tục tinh thần dân quyền thì chính đảng mới dám tự đổi mới mình, hình thành đội ngũ nhân sự theo đúng Quy định 214, trong đó ‘có quan điểm khách quan, toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ thể, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược.’
An Viên
Nguồn : VNTB, 07/02/2020
*******************
90 năm gắn bó máu thịt ?
Nguyên Khang, VNTB, 06/02/2020
Đảng cộng sản Việt Nam có quan hệ xác thịt với nhân dân, nhưng nó phải là xác thịt thực sự chứ không phải máu thịt trong báo cáo. Hãy là một phần của đất nước, không cố tách rời và tìm cách cai trị nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục quấy rối và giam giữ những người bất đồng chính kiến, gọi họ là "tội phạm", buộc tội họ trong nhà tù khắc nghiệt hoặc nói xấu họ trên phương tiện truyền thông. Vậy đó có phải là gắn bó máu thịt ?
Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập vào ngày 3/2. Nhưng trong thập kỷ tới, liệu vẫn có thể tiếp tục tổ chức kỷ niệm trong thực tế ?
Hà Nội, trung tâm chính trị quốc gia, có thời tiết rất khác vào đêm giao thừa.
Sự bất thường của thời tiết thậm chí còn khiến người vô thần co rúm người lại, lắng nghe sự giận dữ của trời và đất.
Trong triều đại lịch sử, bất cứ khi nào thời tiết bất thường, đều cho thấy vì chính sách của triều đại quá độc đoán và bất nhân tâm. Do đó, giận dữ của trời và đất là không thể tránh khỏi, để lại nhiều bài học về sự trỗi dậy từ người dân, giữ gìn chính quyền cho người dân và xóa bỏ đau khổ.
Đảng cộng sản Việt Nam có lịch sử 90 năm tại đất nước này và đã đạt được nhiều thành tựu cho đất nước này. Tuy nhiên, với sự tham nhũng đảng, những thành tựu này ngày càng trở nên vô giá trị, và ngày càng rõ ràng rằng Đảng cộng sản Việt Nam đã giành được một số chiến thắng trong việc điều chỉnh đảng, nhưng đã rơi vào các cuộc chiến tranh đảng phái. Chính phủ. Trong ngắn hạn, điều này sẽ làm cho đảng mạnh hơn, nhưng về lâu dài, nó tước quyền của chính phủ trong việc lắng nghe người dân, do đó đặt ra tiêu chuẩn cho căn bệnh "kiêu ngạo cộng sản".
Trong một bài phát biểu vào ngày 3 tháng 3, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng Đảng cộng sản là máu thịt của nhân dân và Đảng cộng sản có sức mạnh vô địch. Nhưng câu hỏi là, Đảng cộng sản có thực sự gắn bó máu thịt không ? Hay tất cả những suy nghĩ này được viết và nghĩ ra từ trên tháp vàng, nơi những lời khen ngợi vây quanh nó, nhưng những tiếng nói của mọi người không thể chạm tới.
Nếu đảng gắn bó máu thịt với nhân dân cho nhân dân, không ai có thể nghi ngờ về câu chuyện về Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bách chiến, bách thắng trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, ngay cả tiếng nói xã hội đóng góp cho đảng thông qua các kỳ đại hội cũng bị đảng bác bỏ hoàn toàn với quy chụp, đó là một hệ tư tưởng phản động, chống Đảng và chống nhà nước, thế thì gắn bó máu thịt làm sao ?
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục quấy rối và giam giữ những người bất đồng chính kiến, gọi họ là "tội phạm", buộc tội họ trong nhà tù khắc nghiệt hoặc nói xấu họ trên phương tiện truyền thông. Vậy đó có phải là gắn bó máu thịt ?
Nếu chính sách hoặc chính sách của bên Đảng cộng sản Việt Nam sai, đảng coi đó là "bài học quý giá", nghĩa là Đảng cộng sản Việt Nam luôn tự coi mình là đúng. Không ai sẽ đổ lỗi cho một đảng chính trị không phạm sai lầm, nhưng những lỗi gây ra bởi việc từ bỏ những lời phê bình trực tiếp, trung thực đến mức rất khó nghe, thì đảng cần phải nhìn lại chính mình.
Định mệnh có liên quan, chúng ta hãy nhìn vào Trung Quốc. Những gì đã xảy ra ở Trung Quốc là một bài học đắt giá cho Việt Nam, và đây chính xác là những gì mà chính Đảng cộng sản Việt Nam nên làm để điều chỉnh quyền lực của mình.
Gần đây, "Báo sạch" đã đăng tải một bài phát biểu của ông Xu Zhangrun, cựu giáo sư của Đại học Thanh Hoa (Trường đào tạo chính trị ưu tú Trung Quốc). Ông là một nhà phê bình thường xuyên đối với lãnh đạo Tập Cận Bình, người đã khẳng định trong một bài báo ngày 4 tháng 4 : "nhân dân phẫn nộ không còn sợ hãi nữa".
Bài viết của ông đề cập rằng "dịch bệnh lan tràn là vì một chế độ vô năng, đặc biệt là bại hoại về đạo đức, sẵn sàng hy sinh hàng triệu người dân để bảo vệ quyền lực của mình".
Ý thứ nhất, Chính trị bại hoại, đạo đức chính thể khánh tận. Bảo vệ gia nghiệp và quyền lực là tư duy cốt lõi của chính thể hiện nay.
Ý thứ hai, Chính trị nội đình lên ngôi vì sự tập trung hóa quyền lực, đảng làm thay chính phủ.
Ý thứ ba, Cai trị đất nước và khống chế người dân thông qua chủ nghĩa toàn trị dữ liệu lớn và chủ nghĩa khủng bố Wechat.
Những ý chính này dường như mô tả có phần chính xác vào những gì đang xảy ra ở Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Đồng Tâm vào ngày 9 tháng 1 và cách "chỉnh đốn đảng" thông qua quan điểm và chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn. Nó mô tả đầy đủ và chính xác bản chất và những thay đổi bên trong của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam vẫn có cơ hội vẫn kỷ niệm 100 năm thành lập nếu giới tinh hoa chính trị chú ý đến bản chất lâu dài của các quy định hiện hành của đảng, và xây dựng mô hình đạo đức và nhân văn của đảng. Phần lớn nguyên liệu để xây dựng đến từ cách các chính trị gia cấp cao đối thoại với những người bất đồng chính kiến, không khoan dung với tham nhũng và sửa sai với những sai lầm trong quá khứ.
Đảng cộng sản Việt Nam có quan hệ xác thịt với nhân dân, nhưng nó phải là xác thịt thực sự chứ không phải máu thịt trong báo cáo. Hãy là một phần của đất nước, không cố tách rời và tìm cách cai trị nhân dân.
Nguyên Khang
Nguồn : VNTB, 06/02/2020
******************
Đảng 90 xuân – Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng
Nguyễn Hùng, VOA, 06/02/2020
Vậy là chú Đảng đã 90 xuân. Gọi là chú vì ‘Bác Hồ’ sinh trước cả Đảng bốn thập niên mà cũng vẫn chỉ là hàng bác thôi.
Bảng so sánh thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và của quốc gia ASEAN nawm (thua cả Campuchia, chỉ hơn Lào và Myanmar).
Chú Đảng mới 15 tuổi đã đi cướp chính quyền lần một. Lúc lên 45 tuổi lại cướp thêm lần hai khi đánh chiếm Sài Gòn. Kể từ đó tới nay chú vẫn khư khư ôm của cướp được mà chưa trả lại cho người dân. Khi chú Đảng đi cướp lần một vào năm 1945, đất nước mới có trên 23 triệu dân. Vào lần cướp thứ hai hồi năm 1975 dân số tăng gấp đôi lên 46 triệu và giờ đã đạt gần 97 triệu. Gần 100 triệu người nay đứng nhìn đất nước chạy mướt mải mồ hôi mà còn phải nhiều năm nữa mới đuổi kịp các quốc gia ít dân số hơn như Thái Lan (70 triệu) hay Malaysia (32 triệu).
Theo các số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới mà số liệu chỉ có tới năm 2015, khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam với Thái Lan và Malaysia chưa bao giờ được thu hẹp mà ngày càng bị hai nước trong cùng khối ASEAN bỏ xa.
Vào năm 2005, thu nhập bình quân đầu người tính theo đô la Mỹ của Việt Nam, Thái Lan và Malaysia tương ứng là xấp xỉ 700, 2.900 và 5.600. Mười năm sau các con số tương ứng là xấp xỉ 2.000, 5.800 và 10.000.
Như vậy từ mức chỉ kém Thái Lan 2.200 đô la Mỹ hồi năm 2005, 10 năm sau thu nhập của dân Việt Nam đã thua Thái Lan 3.800 đô.
So với dân Malaysia, khoảng cách về thu nhập đã tăng từ mức 4.900 đô la hồi năm 2005 lên 7.000 đô la hồi năm 2015. Vậy mà chú Đảng tuyên truyền cứ như dân ta sắp vượt dân Thái Lan và Malaysia tới nơi.
Thật tình cờ là ở cả Malaysia và Thái Lan, dân chúng đều có hơn một đảng để lựa chọn dù họ cũng không phải là tấm gương sáng về dân chủ. Người dân Malaysia và Thái Lan liên tục có thể đổi đảng cầm quyền nếu họ thấy cuộc sống không được cải thiện theo ý nguyện của họ. Nếu như ở Việt Nam lập ra một đảng mới sẽ bị tù mọt gông như xưa kia các đảng viên cộng sản từng bị đày ra Côn Đảo, dân hai nước ASEAN đang khấm khá hơn Việt Nam có thể thoái mái lập đảng để cạnh tranh với đảng cầm quyền.
Vậy mới nói chú Đảng ở Việt Nam chỉ thích ngồi chơi xơi nước. Bạn hãy hình dung giải bóng đá thế giới chỉ có duy nhất một đội bóng tham gia và giải nào đội đó cũng vô địch. Nếu có hai đội, khả năng thắng cũng vẫn là 50/50. Nhưng nếu có 24 hay 32 đội thì mọi chuyện khác đi. Vậy nên nếu có lựa chọn tội gì họ phải thi đấu. Cứ làm màu thế thôi rồi mình vẫn vô địch.
Chú Đảng chỉ thích những việc nhẹ nhàng, gian khó chú đổ hết lên đầu dân. Mới đây có mỗi việc giải quyết một mảnh đất với dân Đồng Tâm mà chú kéo đến cả mấy ngàn quân mang theo đủ loại vũ khí vào để giết một đảng viên theo đảng gần 60 năm. Lúc kéo quân vào chú chưa có bất kỳ lệnh nào của Viện Kiểm sát để khám nhà, bắt người. Ừ thì đêm tối chú dựng chuyện người ta khiêu khích rồi chú xông vào. Người chú giết, tài liệu đất đai chú mang đi, ô tô chú cũng cho cẩu đi nốt. Nếu người ta tấn công chú thật thì họ mang tài liệu ra ném và ô tô ra đâm vào chú sao ? Vậy là đủ hiểu chú làm càn rồi.
Còn cái việc mà đáng ra chú phải làm cho tốt thì chú lại làm như mèo mửa. VụThượng uý Tuấn "khỉ" dùng AK bắn chết năm người, chú cũng cho cả trăm quân đem theo xe bọc thép vây bắt mà từ 29/1 tới nay vẫn chưa tìm được tay súng.
Trước những sự việc tày trời vừa xảy ra, các đảng viên dĩ nhiên là im lặng. Có ai dám mở miệng đòi điều tra làm sao để xảy ra cái chết của bốn người ở Đồng Tâm ? Đã có ai lên tiếng đòi điều tra xem trong lực lượng công an còn có bao nhiêu Tuấn "khỉ" tiềm năng ? Nếu có một đảng đối lập, chắc chắn họ sẽ tận dụng tối đa những yếu kém như vừa rồi của chính quyền để có thêm cơ hội thắng cử vào lần tới. Cũng có khả năng nho nhỏ là những vụ như Đồng Tâm sẽ làm giảm tính chính danh của một số uỷ viên Bộ Chính trị và họ có thể gặp bất lợi trong năm trước đại hội đảng. Người ta cũng hy vọng con số bốn uỷ viên gốc công an trong mười uỷ viên Bộ Chính trị hàng đầu sẽ không lặp lại tại đại hội vào năm sau. Nhưng gần như không có hy vọng đại hội 13 của chú Đảng sẽ trả lại ít nhất là một phần những gì cướp được trong 90 năm qua trong đó có quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền ra báo, lập đài phát thanh và truyền hình cũng như quyền bình đẳng trước hiến pháp và pháp luật. Nếu ai trong hàng ngũ chú Đảng cũng chọn việc nhẹ nhàng cho mình và gia đình mình thì gian khổ hiển nhiên là dành cho người dân Việt Nam rồi.
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 06/02/2020
Tựa bài báo không phải của người viết bài này, chúng tôi chỉ thay hai chữ cuối thay vì "dân tộc" rất vô nghĩa, nếu nó là "phản động" thì người đọc sẽ hiểu và biết đâu sẽ thấm thía cái tựa mà ông Nhị Lê, một Phó Giáo sư Tiến sĩ lề Đảng viết trên báo Đầu tư ngày 3 tháng 2 vừa qua với cái tựa "Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc".
Bài "Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc" của Nhị Lê trên báo Đầui Tư ngày 3/2/2020
Rõ ràng ông Nhị Lê đã quá lời, và vì vậy câu cú của ông trở thành rối rắm và vô nghĩa. Hai chữ "dân tộc" trong câu văn không nói lên được bất cứ ý đồ nào của tác giả nó chỉ cho thấy sự bất lực ngôn ngữ mà tác giả muốn đem vào bài báo nhằm mục đích tung hô Đảng nhưng rủi thay do thiếu tài năng, Nhị Lê đã biến mình thành trò cười cho người đọc và người ta không tiếc lời sỉ vả trên trang mạng xã hội. Dù sao Nhị Lê cũng chỉ là người đóng vai nịnh trong một vở diễn tồi mà Đảng Cộng sản Việt Nam làm đạo diễn.
Trước ông Nhị Lê một ngày, ông Nguyễn Phú Trọng lên kênh truyền hình trung ương đọc bài diễn văn chào mừng sinh nhật lần thứ 90 của Đảng. Ông Trọng còn bí hiểm hơn hẳn ông Nhị Lê khi có những đoạn văn khiến người dân giật nảy mình tường mình nghe lầm, mặc dù volume của chiếc TV đã mở lên hết cỡ.
Ông Trọng nói "Lịch sử 90 năm qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn, đã tạo nên nhiều kỳ tích. Đảng được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, được sự tin cậy của nhân dân. Từ đó khẳng định chân lý không tổ chức nào ngoài Đảng có đủ uy tín để lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này qua thắng lợi khác".
Trong 90 năm đó Đảng đã làm gì để được gọi là đúng đắn ? Đánh giặc thì dân đổ máu, làm ruộng thì bị Đảng dẫn đám sai nha dẫn ra giữa đình làng đấu tố rồi chém giết. Cải cách ruộng đất là vết nhơ lịch sử mà Đảng làm tổng đạo diễn trong suốt cuộc đấu tố đẫm máu người nông dân. Rồi Tết Mậu thân, Đảng đã giết ai tại Huế nếu không phải là nhân dân, những người vô tội bị Đảng trói thành xâu giết và chôn tập thể trong những chiếc hố mà tận ngày nay khi hồi tưởng lại người dân Huế vẫn còn rụng rời sợ hãi.
Đảng đã tạo nên kỳ tích trong Luật đất đai khi sao chép Hiến pháp của Liên xô cũ trong những năm 1980 "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý". Và từ cái gốc này đã sinh ra hàng trăm ngàn vụ cướp đất của nhân dân trên toàn quốc gây ra thảm nạn cho hàng triệu người mất đất do bọn cường quyền địa phương, hay ngay cả trung ương, móc ngoặc với những nhóm lợi ích lấy đất của dân dùng vào các mục tiêu thương mại.
Đúng như ông Tổng bí thư cái Đảng này nói : Đảng ngày càng trưởng thành và vì vậy ngày càng nhiều kinh nghiệm hơn trong việc đàn áp dân chúng. Đảng trưởng thành có nghĩa là đã thành người lớn mặc dù đã 90 tuổi, cái tuổi đáng lẽ phải về hưu từ lâu cớ sao vẫn còn mơ mòng tới những quyền lực kế tiếp vào những năm tới ? Trưởng thành vì đã cướp hàng ngàn héc ta đất tại Thủ Thiêm đến nỗi gần 20 năm mà người dân tại đây vẫn còn loay hoay không biết phải làm gì. Trưởng thành nên Đảng ngày càng nhiều kinh nghiệm trong các vụ bao vây tiêu diệt những nông dân không nghe lời Đảng. Từ Đoàn Văn Vươn tại Tiên Lãng Đảng đã tiến tới Đồng Tâm giết một ông già 84 tuổi Lê Đình Kình vì ông này cả gan bỏ Đảng theo dân quyết tâm giữ miếng đất mà Đảng dòm ngó tới.
Ông Trọng nói Đảng được sự tin cậy của nhân dân là nói dối vì có nhân dân nào được Đảng ngó ngàng tới mà tin cậy ? Đảng chỉ đưa tay cho các đảng viên nắm lấy và vuốt ve nó như vuốt ve nguồn tài lực dồi dào mà Đảng sẽ cung cấp nếu biết nghe lời Đảng. Nhân dân chưa bao giờ đặt niềm tin vào Đảng vì họ tự biết nếu tỏ ra không tin cậy Đảng bằng lời nói hay việc làm thì trước sau gì họ cũng bị trả thù một cách tàn khốc.
Trong đám nhân dân mà ông Trọng nói có cả người Nam lẫn Bắc. người miền Nam làm sao quên được những cuộc biển dâu mà Đảng tạo ra sau năm 1975 với gần 300 ngàn người vào tù cải tạo, hàng trăm ngàn người khác lên vùng kinh tế mới sống lầm than tới mức không thể lầm than hơn. Hàng chục ngàn người bị cướp tài sản qua chiêu bài "tư sản mại bản" rồi hơn một triệu người vượt biên bất kể Đảng ngăn chặn, thủ tiêu. Những hành vi sai trái này của Đảng có đáng được nhân dân tin cậy hay không ?
Đảng bịt miệng toàn dân từ 90 năm qua thay vào đó là những lời lẽ mị dân che đậy ý đồ toàn trị của mình. Đảng cho rằng thu nhập bình quân của dân là 2800 USD một năm là quá hạnh phúc nhưng Đảng cố lờ đi dưới cái bình quân ấy là gì nếu không muốn nói là sự lừa gạt khả ố qua con số thống kê lươn lẹo.
Ông Trọng khẳng định "Đảng không phiến diện, duy ý chí nhảy từ cực nọ sang cực kia. Từ đất nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp và Việt Nam đã vươn lên là nước phát triển có mức thu nhập trung bình, khối đại đoàn kết không ngừng được củng cố, an ninh được giữ vững, vị thế trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên".
Đất nước không nghèo nàn lạc hậu, ít nhất là miền Nam, như ông Trọng nói. Nếu có là do ý chí đánh miền Nam của Bộ Chính trị đã gây lạc hậu, nghèo đói cho nhân dân miền Bắc. Hệ quả nghèo đói lạc hậu ấy tuy đã qua gần nửa thế kỷ nhưng miền Bắc vẫn nghèo nàn nhân cách lạc hậu văn hóa hơn đồng bào trong Nam nhiều lần. Đảng cố tình vơ cả hai miền vào một ổ nhằm đánh tráo khái niệm rằng nhân dân cần Đảng khai sáng và dẫn dắt trên con đường mà nhiều người biết là vô định.
"Vị thế trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên" ư ?
Nhân dân đang cười ruồi trước câu chữ không biết xấu hổ này. Ai đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ Đức về Việt Nam nếu không phải là Đảng ? Ai chịu trách nhiệm khi Đức chính thức bỏ tù người trong cuộc và đang nhắm tới rất nhiều khuôn mặt đại diện của Đảng trong vụ án đáng xấu hổ này ?
Từ vụ hối lộ champagne cho các nghị viên EU bị công khai bêu xấu cho tới các đại sứ quán nước ngoài buôn lậu ngà voi, sừng tê giác… Đảng lại cho vị thế của mình được nâng lên thì rõ ràng là nhận thức có vấn đề.
Và cuối cùng, Đảng đang tỏ ra vô can trước mọi thảm họa của nhân dân.
Khi Coronavirus hoành hành thì nhân dân không thấy bóng dáng của Đảng trốn ở đâu, chỉ nghe phong phanh rằng Đảng đang lo sắp xếp nhân sự cho kỳ Đại hội Đảng lần tới. Khi Việt Nam đang khủng hoảng vì thiếu khẩu trang thì Đảng lại khủng hoảng vì thừa những lời nói dối.
Như vậy không thể nói khác hơn rằng : Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành phản động.
Cánh Cò
Nguồn : RFA, 04/02/2020 (canhco's blog)
Hôm nay là ngày kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Định chả nói gì đâu nhưng do vô tình đọc được lời nói chuyện của ông tổng bí thư thối quá nên đành phải buông đôi lời.
Hôm nay là ngày kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Ông ấy nói về đảng thế này :
"Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên".
Vâng, ở một khía cạnh nào đó thì dù ai có ghét cái đảng này đến đâu, chúng ta cũng phải thừa nhận với nhau rằng họ có những trình độ và kỹ năng vào bậc thượng thừa. Ấy chuyện Đảng cộng sản Việt Nam đã cực kỳ xuất sắc trong việc học tập và ứng dụng nghệ thuật tuyên truyền vào việc lãnh đạo đất nước qua các thời kỳ.
Ở gian đoạn ban đầu khi mới tập hợp được lực lượng, những người đi theo đảng hầu hết là nông dân. Nhưng trong đó cũng không ít thành phần trí thức, địa chủ và con em các nhà tư bản dân tộc. Để kêu gọi và thống nhất các thành phần này, đảng đã nêu cao ngọn cờ dân tộc để đánh đuổi thực dân. Thực chất, đây là một chiêu trò đã từng được Đức quốc xã sử dụng rất thành công khi tuyên truyền về cái gọi là Chủng tộc Ariang thượng đẳng, để đẩy cả nước Đức lao vào đánh nhau với toàn thế giới.
Ở những giai đoạn tiếp theo, đến khi cần cướp bóc và kiểm soát mọi nguồn lực của xã hội trong Cải cách ruộng đất năm 1953, đảng đã chuyển từ hoạt động bí mật dưới tên gọi rất lành là Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx ở Đông Dương thành đảng Lao Động Việt Nam hoạt động công khai năm 1951. Dưới tên gọi này, đảng đã ra sức tuyên truyền về khái niệm giai cấp, kích động hận thù giữa các thành phần xã hội, để từ đó có một nguồn nhân lực to lớn thực hiện Cải cách ruộng đất long trời lở đất.
Dân số Việt Nam năm 1945 tại 32 tỉnh, thành là trên 13 triệu người, còn toàn cõi Việt Nam là khoảng trên 20 triệu người. Lúc đó do đất rộng người thưa, trình độ canh tác thấp nên diện tích đất trồng trọt cũng không có nhiều. Ngoài một số ít ruộng đất vốn có quanh các làng xã, một ít do các triều đại trước ban phát cho quan lại, phần nhiều những mảnh ruộng hay đồn điền lớn là do lớp người mới như các nhà buôn hay các nhà kỹ nghệ đầu tư công sức tiền bạc khai khẩn mà nên.
Nhưng với những khẩu hiệu như : "Người cày có ruộng" ; "Trí, Phú, Địa, Hào... đào tận gốc, trốc tận rễ"... cải cách ruộng đất không chỉ là việc lấy đất của tầng lớp cai trị cũ chia cho nông dân, mà thực chất còn là một cuộc cướp bóc trắng trợn tài sản, công sức của cả những người tài giỏi trong xã hội do tích tụ điền địa qua việc khai hoang, buôn bán, giao thương nhiều đời mà có. Số này mới là nhiều, chứ đất của quan lại triều Nguyễn cũ hay của công chức thời Pháp thuộc chưa ăn thua.
Trong những năm tháng đau thương đó, có nhiều người lính đã không tiếc máu xương để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động động địa cầu, nhưng khi trở về thì chẳng còn mái nhà xưa... Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, nhiều người bị hành hạ tàn khốc trước khi bị giết hại mà không hề có bản án. Tiếng khóc ai oán khắp các làng quê... hỏi rằng hai tiếng đồng bào, hai tiếng dân tộc mà đảng tuyên truyền lúc thủa ban đầu gian khó ở đâu... ?
Năm 1956 ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động đã phải công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%.
Nhưng sửa sai thế nào được khi mạng người đã mất, khi gia đình và tài sản của người ta đã ly tán khắp nơi ? Theo tôi chính những hậu quả đau đớn của việc Cải cách ruộng đất năm 1953 là tác nhân lớn nhất để rồi đất nước phải chia hai, bắt đầu vào năm 1954. Từ khi đất nước phân ly, đảng ta ở miền Bắc đã từ từ cất hẳn ngọn cờ dân tộc đi, âm thầm kêu gọi phe xã hội chủ nghĩa vào giúp sức, nhưng lại lên án kịch liệt miền Nam là bám gót đế quốc Mỹ sài lang. Lúc này tinh thần "vô sản toàn thế giới đoàn kết lại", "đánh đuổi chủ nghĩa tư bản", "Tất cả vì miền Nam ruột thịt", "Đốt cháy dãy Trường Sơn để đánh Mỹ"... và rất nhiều khẩu hiệu khác nữa được tung ra để rồi hai miền Nam Bắc đánh nhau khốc liệt còn hơn với quân thù.
Còn vô số những sự kiện khác nữa như cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979, khủng hoảng kinh tế 1986, hội nghị Thành Đô 1990, gia nhập Asean 1995, bình thường hóa quan hệ với Mỹ 1997... đảng ta lúc nào cũng tài tình đưa ra cách lý giải và khẩu hiệu tuyên truyền cực kỳ thuyết phục để rồi "đất nước chúng ta đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Trong bài viết ngắn ngủi này thì tôi không thể kể hết những thành tựu của đảng trong nghệ thuật tuyên truyền quần chúng 90 năm qua. Nhưng tôi tin rằng đến giờ phút này chắc đảng không thể ghi thêm thành tích nào nữa trong lĩnh vực đầy khó khăn này.
Xin chúc đảng ra đi trong thanh thản, chúc những người đảng viên tìm thấy con đường mới, chúc nhân dân mau thoát khỏi cơn mê này.
Nguyễn Lân Thắng
Nguồn : RFA, 04/02/2020 (nguyenlanthang's blog)
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh có mối quan hệ nhân quả như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này, bài viết lần lượt trình bày :
- Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam.
- Hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh
Ông Hồ Chí Minh.
I. Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam
1. Bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc vào những thập niên đầu Thế kỷ 20 đã là bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khởi sự và tiếp nối kể từ sau khi thực dân Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng vào năm 1858 mở đầu cuộc xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Như chúng tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây trên diễn đàn này nhan đề "Bối cảnh lịch sử đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam". Theo đó, cho đến lúc Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, đã có các cuộc chống Pháp dưới sự lãnh đạo các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng "Thần quyền Thiên Mệnh" Đông phương làm nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế, đã phát động và tiến hành qua các phong trào Cân Vương, Văn Thân, Đông Du… Tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây làm nến tảng cho mục tiêu giành độc lập để thiết lập chế độ dân chủ lập hiến, tiêu biểu là sự ra đời của một chính đảng quốc gia đầu tiên "Việt nam Quốc Dân Đảng" (1924) với lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Yên Báy do Viện Nam Quốc Dân Đảng thực hiện thất bại vào năm 1930, cùng năm với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thế là từ đó và sau đó, công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ngoài các nhà ái quốc, các chính đảng quốc gia thành lập sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Nhân xã Đảng… lãnh đạo kháng chiến theo ý thức hệ quốc gia truyền thống trước đó, có thêm vai trò lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, một người theo chủ nghĩa yêu nước trước khi trở thành người cộng sản Việt nam đầu tiên, đứng ra thành Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, trước những thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó do các nhà ái quốc lãnh đạo theo hệ tư tưởng quân chủ Phương Đông hay dân chủ tư sản Phương Tây (gọi chung là ý thức hệ quốc gia) đều thất bại ; năm 1911 Nguyễn Tất Thành, một người yêu nước, không học vị(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí minh là một) đã xuất dương ra đi tìm đường cứu nước. Sự ra đi này xuất phát từ nhận định cho rằng các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vì vậy nhà ái quốc Nguyễn Tất Thành thấy cần ra đi tìm đường cứu nước.
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước thuộc địa cũng như đế quốc tư bản ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Nguyển Tất Thành đã phát hiện ra chân lý : Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới của ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc, khi đứng tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (trong Luận Cương chính trị Tháng 4) của Lênin và từ tư tưởng đó, đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã hét to một mình trong phòng trọ ở Paris Pháp Quốc, rằng "Đây rồi, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản…".
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) (*) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.Ông nhấn mạnh : cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo ; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Trong thời gian này, ông Hồ cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Ông lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng minh hội (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cộng sản quốc tế, chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Vẫn theo tài liệu của Đảng cộng sản Việt Nam Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức đảng (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) thành Đảng cộng sản Việt Nam (**). Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện : Chánh cương và Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Hệ quả con đường cứu nước của lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh
Con đường cứu nước mà ông Hồ Chí Minh tìm được là "con đường cách mạng vô sản" mà Đảng cộng sản Việt Nam do ông thành lập đã là công cụ để thực hiên con đường này. Chính cương và sách lược tóm tắt được công bố trong Đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận rõ hai giai đoạn cách mạng nhằm thành đạt hai mục tiêu :
1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải quyết mâu thuẫn dân tộc với thực dân pháp, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trên thực thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện bằng chiêu bài ngụy dân tộc để khai thác triệt để "Chủ nghĩa yêu nước" hầu khơi động tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã thành công, trong vai trò chủ đạo kháng chiến, đã đánh đưổi được thực dân Pháp sau cuộc kháng chiến 9 năm sau cùng (1945-1954). Thế nhưng không phải giành độc lập cho dân tộc, mà chỉ cướp được chính quyền trên một nữa nước Miền Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt mình trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế (vì ông Hồ đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thề tách rời của cách mạng vô sản hay cộng sản quốc tế mà !). Đồng thời "Đảng ta" củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn, vẫn dưới ngọn cờ "ngụy dân tộc" phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa nửa nước miền Nam thuộc chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại, sau là Việt Nam Cộng Hòa, đưa đất nước vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là đưa cả nước vào một cuộc "chiến tranh cốt nhục tương tàn", đất nước tan hoang, vì bom đạn ngoại bang thuộc cả hai phe cầy nát, giết hại hàng triệu dân Việt trên cả hai chiến tuyến đối đầu, nhân dân đói khổ lầm than vì chiến tranh, gây hận thù trong lòng dân tộc, di hại nghiêm trọng toàn diện, lâu dài cho đất nước và dân tộc… Vậy hệ quả con đường ông Hồ đã chọn và được Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện như thế là "con đường cứu nước" hay là "con đường phá nước" ?
2. Cách mạnh xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp thực hiện xã hội "xã hội chủ nghĩa" và xác định cuộc cách mạng này là một bộ phận của cách mạng vô sản tức cộng sản quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Thực hiện thế nào, hệ quả ra sao ?
Chẳng cần viết ra thì những người Việt Nam từng sống và là nạn nhân trong cuộc chiến tranh "Nồi da sáo thịt" nay còn sống đều đã biết. Sau khi cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước miền Nam, thực hiện chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã gây khốn khổ, kinh hoàng một thời cho nhân dân thế nào rồi (1975-1995)… Nhất là 10 năm đầu (1975-1986) thực hiện triệt để các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, độc tài toàn trị về chính trị, quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất, kinh doanh, tập thể hóa mọi lực lương lao động trên mọi lãnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ… Hậu quả là mọi quyền dân chủ dân sinh, nhân quyền bị bóp nghẹt, kinh tế bị đình đốn, dẫn đến thảm trạng nhân dân cả nước không đủ lương thực, thực phẩm với chế độ tem phiếu (trừ giai cấp cán bộ đảng viên có chức, có quyền có tiêu chuẩn riêng…). Tất cả đã phải sống trong cảnh thiếu thốn, đói khổ lầm than, ; cả nước phải ăn độn ngô, khoai, sắn và cả bobo, một thực phẩm vốn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ lúc đó để cứu nguy. Đảng cộng sản Việt Nam vội thi hành "Chính sách đổi mới" (1985-1995) theo gương Liên Xô. Thế nhưng "Đổi mới" cũng không cứu vãn được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết" vào năm 1991 sau hơn 70 năm xây dựng ; còn "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thì tồn tại thêm thời gian đến hôm nay nhờ kịp thời theo gương Trung Quốc "mèo trắng (tư bản) hay mèo đen (cộng sản) không quan trọng, miễn là mèo ấy bắt được chuột". Cộng đảng Việt Nam bắt đầu thực hiện "Chính sách mở cửa" làm ăn với các nước "tư bản không rãy chết" trong đó mở đầu với cựu thù "đế quốc Mỹ" bãi bỏ cấm vận, thiết hệ quan hệ ngoại giao và trở thành "đối tác" thay vì "đối phương" với Việt Nam.
Từ đó và nhờ đó Việt Nam đã phát triển toàn diện (1) về kinh tế nhờ"con đường kinh tế thị trường, định hướng tư bản chủ nghĩa" (chứ không phải định hướng xã hội chủ nghĩa như "Đảng ta" tuyên truyền lừa mị để che đậy sự thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội) mà trình đô phát triển ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện để sau 25 năm (1995-2020) Việt Nam đã có bộ mặt phồn vinh như hôm nay. (2) về chính trị, Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trong "Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường" (thuật ngữ người viết thường dùng) các diễn biến sau đây tịnh tiễn xẩy ra :
Một là, các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hóa từng bước để trở thành các nhà tư sản hay "tư bản đỏ" ;
Hai là, nhà nước Việt Nam đã và đang được tư bản hóa bằng chính sách "giải tư" từng bước làm tiêu vong cơ cấu kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa còn sót lại, tiến đến cơ cấu kính tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngày một hoàn chỉnh, với các quyền sở hữu tư nhân về vốn, công cụ, phương tiện sản xuất…
Ba là, dân chủ hóa từng bước, nhờ đó người dân ngày một được nhà cầm quyền trả lại các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tuy còn nhiều hạn chế…Cả ba tiến trình này ai cũng có thể kiểm chứng được qua thực tế diễn ra 25 năm qua (1995-2020).
III. Thay lời kết
Vậy thì, đến dây có thể khẳng đinh qua hệ quả thực tiễn, con đường mà lãnh tụ Cộng đảng Hồ Chí Minh chọn vào năm 1920, rồi đứng ra thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 như công cụ thực hiện 90 năm qua (1930-2020) có đúng như sự vui mừng sau khi đọc được "Luận cương chính trị Tháng 4" (****) của lãnh tụ Cộng đảng Bolsevik Nga Vladimir Lenin không, rằng "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (hay cộng sản cũng thế)" ?
Hay thực tế phải nói là, vì ông Hồ đã chọn lầm "con đường cách mạng vô sản" nên đã là "con đường phá nước". Vì con đường ấy đã không giải phóng được dân tộc mà đã xích hóa dân tộc vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc đỏ Liên Xô" (với sự cạnh tranh của đế tân quốc đỏ Trung Quốc) và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc Trắng Hoa Kỳ". Vì nếu ông Hồ không chọn lựa con đường này và không thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, thì chắc chắng tình hình Việt Nam sẽ biến chuyển theo một chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước.
Một cách cụ thể là Việt Nam đã có độc lập rất sớm (Khi Nhật trao trả độc lập cho vua Bảo Đại với chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 3/1945) và nhân dân Việt Nam đã không phải hy sinh quá nhiều xương máu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp sau cùng (1945-1954).Vì nhiều nước thuộc địa trong vùng cũng như trên thế giới đều lần lượt được độc lập sau Thế Chiến II không cần kháng chiến (do chủ nghĩa thực dân cũ bước vào thời kỳ suy tàn). Sau đó, cũng đã không xẩy ra cuộc chiến tranh Quốc-Cộng "cốt nhục tương tàn" khốc liệt kéo dài 21 năm sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước (7/1954) do Đảng cộng sản Việt Nam phát động, tiến hành, đã làm tan hoang đất nước, giết hại nhiều sinh linh dân Việt.
Và, sau cùng, nhân dân Việt Nam đã không phải trải qua thời kỳ khổ nạn hơn 20 năm làm vật tế thần cho công cuộc thử nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng trên cả nước, vốn là "con đường cứu nước" mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn. Thế nhưng thực tế đã trở thành "con đường phá nước" gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước và dân tộc thế nào, chẳng cần kể ra, thì chắc quốc dân Việt Nam ai cũng biết, nhất là những ai từng là nạn nhân của "con đường phá nước" này.
Houston, ngày 30/2/2020
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/02/2020
(*) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ởMoskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độtư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế (tiếng Anh : The International Workingmen's Association - IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ởLuân Đôn vào ngày 28/9/1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.
Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại Châu Âu, được thành lập ngày 14/7/1889 ởParis, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.. Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Phong trào công nhân bị tổn thất nặng. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Tuy rằng vẫn có nhiều thành viên tiếp tục đi theo con đường của Engels, do không được tiến hành triệt để nên không thu được kết quả. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ.
(**) Theo lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam thì lúc đầu lấy tên Đảng cộng sản Việt Nam một thời gian ngắn thì đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương để đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến trên cả 3 nước Đông Dương thuộc Pháp là Việt-Miên-Lào. Sau lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam cho đến thời kỳ kháng chiến 9 năm thì muốn dấu mặt, đã tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam, lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, như mặt nạ của Đảng cộng sản Việt Nam để chủ đạo kháng chiến dưới ngọn cở "Giải phóng dân tộc". Sự giấu mặt này là do tình hình lúc đó thế giới coi cộng sản là một hiểm họa cần ngăn chặn tiêu diệt, hình thành cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa các nước tư bản đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước cộng sản đứng đầu là Liên Xô, một chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).
Đối với nhân dân trong nước chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ và là nỗi kinh hoàng vì được nghe nói cộng sản là "chủ nghĩa Tam vô" (vô tổ quốc, vô gia đình và vô tống giáo), rất tàn ác, nên sợ và tìm cách xa lánh cộng sản. Năm 1952 đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và dùng tên này trong suốt thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) để tiếp tục "ngụy dân tộc" tiến hành "Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam (30/4/1975), mới lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam, đưa cả nước "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc… đến sự sụp đổ hoàn toàn" sau 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng thất bại hoàn toàn (1975- 1995).
(***) Luận cương chính trị tháng Tư tên nguyên thủy là "Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay’, là một văn kiện có tính cương lĩnh do V. I. Lenin soạn thảo và trình bày vào Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lenin đã đến Petrograd trình bày trước Trung ương Đảng Bolshevik một bản báo cáo. Bản luận cương được xuất bản trên báo Sự Thật (Pravda) số 26 ngày 7/4/1917.
Sau Đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam, nỗ lực cải cách được đón nhận và đạt được kết quả khích lệ.
Cảnh sát, công an giữ trật tự trong một sự kiện quốc tế ở Hà Nội trong năm 2019
Tuy nhiên, chuyên chế có xu hướng mạnh lên và phức tạp, một mặt để củng cố quyền lực chống tham nhũng và 'tự diễn biến, tự chuyển hoá' trong bộ máy cầm quyền, mặt khác lạm dụng quyền lực trước lo ngại từ đòi hỏi dân quyền, dân chủ có thể lan rộng làm suy yếu chế độ.
Chế độ Đảng cộng sản toàn trị mang đặc tính chuyên chế là nhà nước được miễn trừ khỏi các quy định pháp luật với việc duy trì bộ máy an ninh đông đảo, rộng khắp để kiểm soát mọi mặt cuộc sống của người dân.
Lạm dụng quyền lực hiện nay đang tạo ra xu hướng đáng lo ngại trong công luận. Nó có thể làm tổn hại đến nỗ lực cải cách thể chế hiện nay.
Nỗ lực cải cách
Những sai lầm về chính sách và yếu kém về quản lý kinh tế xã hội trong thập niên trước là sức ép trực tiếp buộc Đảng cộng sản Việt Nam phải tiến hành cải cách thể chế. Hậu quả của các chính sách sai lầm là sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế và bất ổn thể chế. Hơn thế, sự bất ổn diễn ra nghiêm trọng trong bộ máy chính quyền.
Đảng nhận định đó là 'sự tự diễn biến, tự chuyển hoá' của lãnh đạo đảng viên. Nhiều cán bộ, trong đó có bộ phận lãnh đạo cao cấp của Đảng đã 'lợi dụng chức quyền', 'cố ý' vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật, tham nhũng lan rộng. Hơn thế, 'các nhóm lợi ích' được hình thành và phát triển đe dọa những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Sau Đại hội 12, đầu năm 2016, Đảng cộng sản đã và đang nỗ lực cải cách. Một mặt, đảng tăng cường củng cố tổ chức đảng, trừng trị tham quan, xoa dịu công luận nhằm giảm bớt ấn tượng xấu, tiêu cực về bộ máy lãnh đạo các cấp chính quyền. Mặt khác, đảng nới rộng quyền tự do kinh doanh, khuyến khích tư nhân khởi nghiệp, đầu tư, gỡ bỏ rào cản về luật pháp và hành chính, và tạo sức ép với bộ máy hành chính.
Sự khởi sắc kinh tế, nhất là tốc độ tăng trưởng cao trong ba năm gần đây trong bối cảnh trong nước và quốc tế bất định, phức tạp, có thể tạo 'không khí phấn khởi', nhưng không thể cải thiện nhiều về chất lượng nền kinh tế và niềm tin phát triển bền vững.
Hai khuynh hướng thay đổi nêu trên, từ khía cạnh chính sách công, chứa đựng mâu thuẫn. Kinh tế mở hơn hướng về phía thị trường trong khi quyền lực Đảng tập trung cao hơn với đặc trưng chuyên chế luôn hàm chứa rủi ro bạo lực bị lạm dụng và tha hoá.
Sự ngộ nhận có thể lớn dần, có thể trở thành nguy cơ lớn hơn khi câu hỏi cơ bản không có câu trả lời thoả đáng rằng Đảng cộng sản có thể lãnh đạo kinh tế thị trường với hai hệ tư tưởng có bản chất trái ngược nhau.
Một trong những khác biệt lớn giữa hai mô hình chế độ chính là cách thức và tình huống sử dụng quyền lực nhà nước.
Đảng tập trung quyền lực
Tập trung quyền lực để củng cố tổ chức và chống tham nhũng những nỗ lực song hành của Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây.
Dùng quyền lực của đảng, nhà nước để chống tham nhũng được coi như 'ta đánh ta', 'tự lấy đá ghè chân mình', 'đánh chuột không làm vỡ bình'… để giảm thiểu sự bất mãn từ dân chúng, mà không dựa vào dân bằng cơ chế dân chủ, khả thi là một hình thức biểu hiện của chuyên chế.
Sau Đại hội 12, một mặt, Đảng cộng sản đang 'chỉnh đốn' tổ chức nội bộ bằng cách tập trung cao quyền lực. Một mặt, đảng ban hành nhiều quy chế, quy định về đề cử, tuyển chọn, khen thưởng, kỷ luật, nêu gương… và luân chuyển, bố trí nhân sự trong hệ thống chính trị hiện hành cũng như quy hoạch lãnh đạo 'chiến lược' chuẩn bị cho Đại hội 13.
Các bị cáo trong vụ án MobiFone mua AVG bị cáo buộc gây thiệt hại hơn 6.590 tỉ đồng
Hơn thế, đảng mạnh tay 'trừng trị' quan chức tham nhũng. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hơn 90 cán bộ thuộc diện TƯ quản lý, trong đó có 21 ủy viên Trung ương đảng, nguyên ủy viên Trung ương đảng (trong đó có 2 ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang… đã bị thi hành kỷ luật Đảng và bị toà án kết tội.
Gần đây có một số vụ kỷ luật thu hút sự quan tâm của công chúng.
Ngày 8/1/2020 Ủy ban Kiểm tra Trung ương công bố Ban thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Ban cán sự đảng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2011 - 2016 và một số cá nhân vi phạm khuyết điểm đến mức phải xem xét kỷ luật, trong đó có cựu Bí thư, cựu Chủ tịch và các Phó chủ tịch ;
Ngày 9/1 Bộ Chính trị kỷ luật cảnh cáo Bí thư Thành ủy Hà Nội ;
Ngày 10/1 Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Bí thư thành phố Hà Nội bằng hình thức cảnh cáo do có những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng ;
Ngày 13/1 hai cựu chủ tịch Đà Nẵng Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến bị toà án tuyên phạt lần lượt 17 và 12 năm tù…
'Chống tham nhũng không vùng cấm' được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được nhận mạnh mới đây, khi trả lời Báo Quân đội nhân dân nhân Tết Nguyên đán - Xuân Canh Tý 2020 và đánh dấu 90 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Ông đã khẳng định quyết tâm và 'cam kết' của Đảng cộng sản 'tuyên chiến' với bộ máy lãnh đạo tha hóa, đồng thời thể hiện quyền lực tuyệt đối của đảng.
Danh sách các lãnh đạo và nguyên lãnh đạo cao cấp dự đoán có thể còn kéo dài trước Đại hội 13 của đảng.
Chuyên chế trước lo ngại
Chuyên chế trước lo ngại về những biểu hiện hoặc thách thức mà theo cách diễn giải của đảng cho rằng có thể làm suy yếu quyền lực của mình.
Chuyên chế gây nên sự sợ hãi. Không chỉ những kẻ tội phạm mới phải sống trong nỗi sợ hãi. Không chỉ các quan chức tha hóa, 'tự diễn biến, tự chuyển hóa' 'bị lộ' hoặc 'chưa' trong bộ máy cầm quyền, mà cả những biểu hiện gây ra lo ngại cho đảng từ phía xã hội, từ dân chúng cũng là đối tượng của chuyên chế.
'Tập kích Đồng Tâm' qua lời kể của Trịnh Bá Phương :
Ngoài ra, các học giả, các nhà bất đồng chính kiến, các blogger và các lãnh đạo doanh nghiệp cũng có thể phải chịu cảnh 'nghi ngờ' và lo sợ bị xét hỏi.
Tình trạng bộ máy hành chính trì trệ, 'trên nóng, dưới lạnh', 'giấu mình chờ thời' là một biểu hiện bề ngoài không ngạc nhiên khi nỗi sợ hãi treo lơ lửng trên đầu nhưng đảng lấy 'răn đe' làm chính.
Tuy nhiên, khi các biểu hiện từ phía xã hội khiến sự lo ngại lớn dần với quyền lực tuyệt đối thì đảng ra tay. Đơn cử hai biến cố dưới đây.
Ngày 21/ 11/2019 nhà báo chủ tờ Thời báo độc lập, tác giả của nhiều bài viết phê phán chính quyền và bảo vệ nhân quyền, đã bị khởi tố và bắt tạm giam về tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước…".
Rạng sáng ngày 9/1/2020 vụ 'đột kích' vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, thủ đô Hà Nội của hàng nghìn cảnh sát cơ động để giải quyết tranh chấp đất đai, đã gây ra thương vong, và hàng chục người bị bắt, và sau đó bị khởi tố với tội danh rất nặng…
Hành động trấn áp mang tính chuyên chế làm cho công luận 'bàng hoàng' và phản ứng lan rộng, mạnh mẽ, khiến chính quyền phải 'chống đỡ' lúng túng, bị động.
Hậu quả nặng nề và lâu dài
Chuyên chế tạo ra nỗi sợ hãi tức thì, nhưng hậu quả để lại có thể nặng nề và lâu dài. Từ các góc nhìn chính sách công làm tổn hại đến cải cách thể chế hiện nay.
Sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong kinh tế làm tổn hại cải cách hướng tới thị trường, giảm chất lượng tăng trưởng. Chuyên chế trong chính trị tạo ra sự chống đối ngầm, bộ máy hành chính trì trệ, quan chức tuân lệnh nhưng 'tâm không phục'. Nguy hại hơn, nếu chuyên chế trong các vấn đề dân sự, như các biến cố trên, có thể gây nên sự bất bình, mất niềm tin, thậm chí sự căm thù, đối đầu với chính quyền. Đây là căn nguyên bất ổn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ và xung đột xã hội.
'Biến cố Đồng Tâm', nhìn từ nỗ lực cải cách thể chế hướng tới kinh tế thị trường và dân chủ, đó là 'bước thụt lùi'.
Hình ảnh các vị đại biểu Quốc hội đến 'hiện trường', khi căng thẳng bùng phát năm 2017, gặp gỡ và lắng nghe từ cả hai phía người dân và chính quyền, đã từng cho thấy kỳ vọng về chính sách đối thoại, về cách giải quyết kiên trì và ôn hoà, theo luật pháp. 'Biến cố Đồng Tâm' đầu năm 2020 không chỉ dập tắt mọi tia hy vọng về sự thay đổi dân chủ. Lời kêu gọi Bộ Chính trị và Quốc hội 'vào cuộc' trở thành sự ngộ nhận đáng thương.
Việc gửi 'Đơn tố giác tội phạm' tới các cơ quan chức năng yêu cầu điều tra về cái chết của ông Lê Đình Kình thể hiện sự kiên trì đấu tranh của các nhà hoạt động dân sự vì sự thật và công lý.
Một số tổ chức quốc tế như Theo dõi Nhân quyền hay Ân xá Quốc tế lên tiếng về vi phạm nhân quyền, thậm chí của một số nghị sĩ của một số nước phát triển, như Hoa Kỳ hay Liên Hiệp Châu Âu lên tiếng về 'điều tra độc lập', nhưng để tạo ra sức ép ngăn việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA) tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác trong bối cảnh các nước này cũng đang đặt ưu tiên tăng trưởng kinh tế lên trên. Đúng vậy, hôm 21/1/2020 tại Brussels, Ủy ban Thương mại Quốc tế thuộc Nghị viện Châu Âu vẫn đã thông qua 2 hiệp định nêu trên, mở đầu cho việc phê chuẩn các thỏa thuận này.
Các biến cố nêu trên xảy ra vào thời điểm 'nhạy cảm' trong bối cảnh có những nỗ lực cải cách thể chế và chuẩn bị cho Đại hội 13, được cho là 'bất ngờ' đối với một số nhà phân tích tình hình chính trị Việt Nam. Đã xuất hiện giả định về 'thuyết âm mưu', rằng liệu có 'kẻ giấu mặt' ngăn cản quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cố tình gây ra biến cố để giải quyết xung đột quyền lực nội bộ.
Cải cách hướng tới thể chế dân chủ là quá trình khó khăn, lâu dài nhưng có thể là xu hướng văn minh của loài người. Chuyên chế không những không thể là công cụ để cải cách, mà còn là 'bước lùi' và để lại những hậu quả nặng nề và lâu dài.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : BBC, 25/01/2020
Tác giả Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam, gửi cho BBC News tiếng Việt từ Hà Nội.
Nhiều người chưng hửng khi qua tờ Quân đội nhân dân, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khẳng định : Hiếm có dân tộc nào trên thế giới khi nói đến đảng cầm quyền, nhân dân lại dành cho một sự trân trọng, tự hào, yêu thương như dân tộc Việt Nam đối với Đảng cộng sản Việt Nam (1).
Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát biểu - Ảnh minh họa
Nếu bình tĩnh đọc kỹ cuộc trò chuyện giữa tờ Quân đội nhân dân với ông Trọng rồi đối chiếu với thực tế, kể cả thực tế đã được chính ông cũng như các đồng chí của ông từng thú nhận, hệ thống truyền thông chính thức từng đề cập, có thể nhận ra, nhiều nhận định của Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Nhà nước là nói lấy… được ! Tuy nhiên ông Trọng không sai khi cho rằng "đảng ta" là… của hiếm !
Vì tờ Quân đội nhân dân chọn "Đảng khai xuân khải hoàn" làm tựa cho bài phỏng vấn ông Trọng, thành ra nên chọn vài sự kiện trước thềm năm mới, vừa để xem xét yếu tố… "hiếm", vừa để xác định xem, trong năm mới sắp tới, nếu "đảng ta" tiếp tục điều hành – quản trị quốc gia, đối tượng nào có thể hát khúc khải hoàn ?...
***
Theo báo chí Việt Nam, các nhà ga thuộc tuyến metro Cát Linh – Hà Đông đang được nhiều người tận dụng để bày bán cây cảnh, đồ gốm khi năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến (2). Đó là… "công năng" duy nhất của công trình trị giá khoảng 890 triệu Mỹ kim. Khoản tiền khổng lồ đó vay của Trung Quốc và nhiều năm nay, mỗi ngày, Việt Nam phải trả cho Trung Quốc khoảng một tỉ đồng tiền lãi (3) !
Lẽ ra công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh – Hà Đông phải hoàn tất từ 2013 song đến giờ (2020), không những công trình này không đem lại bất kỳ lợi ích nào về kinh tế - xã hội mà còn phát sinh đủ loại nợ cả gốc lẫn lãi. Để… giữ chân nhà thầu Trung Quốc, tổng vốn đầu tư đã tăng từ 550 triệu Mỹ kim lên 890 triệu Mỹ kim.
Nói cách khác, thay vì xem xét trách nhiệm của cả nhà thầu Trung Quốc (vi phạm tiến độ thi công, thời hạn hoàn thành công trình), lẫn các viên chức hữu trách ở Việt Nam thì "đảng ta" vui vẻ xin Trung Quốc cho vay thêm 340 triệu USD phát sinh ngoài kế hoạch. Từ đó đến nay đã ba năm, tuyến metro Cát Linh – Hà Đông vẫn chưa thể vận hành !
Hệ thống nhà ga, tuyến đường sắt do nhà thầu Trung Quốc thi công bằng tiền vay của Trung Quốc, 13 đoàn tàu đã mua từ Trung Quốc cũng bằng tiền vay của Trung Quốc cứ thế sinh lãi. Khoảng 30% trong số hàng ngàn công nhân từng được tuyển dụng, từng được giới thiệu là gửi sang Trung Quốc đào tạo để vận hành tuyến metro đầu tiên tại Việt Nam đã bỏ việc (3)…
Chắc chắn suất đầu tư vào tuyến metro Cát Linh – Hà Đông sẽ sớm vượt xa mức một tỉ Mỹ kim và cứ thế tăng dần vì lãi chồng lãi. Không ai trả lời được câu hỏi : Bao giờ tuyến metro Cát Linh – Hà Đông đóng góp cho sự phát triển của kinh tế - xã hội ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung ?
Chưa ai dám đặt bút xác nhận tuyến metro Cát Linh – Hà Đông hội đủ tiêu chuẩn an toàn để có thể vận hành. Cơ quan chịu trách nhiệm kiểm định tiết lộ : Có nhiều thứ không đồng bộ ! Hồ sơ dự án không đầy đủ và… không thể bổ sung đầy đủ ! Có nghĩa là không có cơ sở để xác nhận an toàn và tất nhiên, không thể sử dụng (4) !
***
Nhiều hạng mục trong công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh – Hà Đông trở thành điểm bán cây cảnh, đồ gốm nhân dịp xuân về chỉ là một trong vô số ví dụ về hiện trạng kinh tế - xã hội Việt Nam. Phản ứng của nhiều người thuộc nhiều giới trước những diễn biến liên quan đến cuộc tấn công vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hồi thượng tuần tháng này là một ví dụ khác, nóng hổi về chính trị…
Trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội như thế, liệu có lãnh đạo nào của các đảng cầm quyền trong lịch sử nhân loại dám bảo rằng, đủ loại scandal bùng lên suốt từ đầu năm đến cuối năm vừa qua là những "bước tiến ấn tượng trong nhịp điệu đổi mới", góp thêm vào khối "thành quả cách mạng" mà "đảng ta" đã đạt được để "viết đến hàng trăm nghìn bộ đại sử ký" ?
Ông Trọng quả là nhân vật hiếm có, "đảng ta" cũng thuộc loại… hiếm. Còn có quý hay không, có được nhân dân "trân trọng, tự hào, yêu thương" hay không thì… cứ nhìn vào thực tế. Cần phải nhấn mạnh : Chính ông Trọng cũng không tin "đảng ta" được nhân dân "trân trọng, tự hào, yêu thương". Đó là lý do tại sao Chương về các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong Luật Hình sự, hay nội dung Luật An ninh mạng,… lại như thế !
Hiếm không đồng nghĩa với quý và hiếm mà không quý thì chắc chắn… tiệt !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 23/01/2020
Chú thích :
(1) https://www.qdnd.vn/bao-qdnd-hang-ngay-xuan-canh-ty-2020/dang-khai-xuan-khai-hoan-608288
(3) https://www.youtube.com/watch?v=hn1zOGGfZ3Q&ab_channel=VTCNOW
(4) https://laodong.vn/su-kien-binh-luan/bat-luc-truoc-mieng-can-ke-cat-linh-ha-dong-778381.ldo
Nhân vụ Đồng Tâm, đọc lại lịch sử :
Nếu không có Đảng cộng sản, ngay từ năm 1945 dân tộc Việt Nam đã có dân chủ, tự do và nhân quyền
Do sự xuất hiện của Việt Minh, đúng hơn, Đảng cộng sản Việt Nam, do đảng này cướp chính quyền ngày 19/8/1945, do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của một số người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó những oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ.
Hình ảnh Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19/8/1945
Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một vài cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, để phơi bầy sự thực lịch sử, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người học sử không thể chủ quan nhất định cho rằng điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.
Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do và dân chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng đế Bảo Đại và vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập là Nhà giáo kiêm Học giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba thángcủa năm 1945, từ ngày 8/5 đến ngày 6/8/1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay trên 70 năm bằng những đạo luật phải nói là rất tiến bộ. Đây là một việc làm mà ba phần tư thế kỷ sau, với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hy sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
Bốn bước tiến ngoạn mục
Bốn bước tiến đã được Hoàng đế Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có :
Thứ nhất : Ban hành dụ "Dân vi quý".
Thứ hai : Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Thứ ba : Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia.
Thứ tư : Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân.
Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên :
Khẩu hiệu "Dân vi quý" của Hoàng đế Bảo Đại
Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các nhà Nho ta thời xưa (1), nguyên văn là "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" có nghĩa là "Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ", được nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17/3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau :
Dương Lịch, ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình xây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng :
1. Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu "Dân vi quí’.
2. Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3. Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài "Một đạo dụ, một chế độ" đăng trên Tri Tân tạp chí số ra ngày 20/4/1945, trên trang đầu, đã viết như sau :
"Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng. Được như vậy, đạo dụ ngày 17/3 đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập".
Còn Luật sư Bùi Tường Chiểu, trong bài "Đạo Dụ số 1 của Đức Bảo Đại Hoàng đế" đăng trên Thanh Nghị, số 107, "Số Đặc san Chính trị", ra ngày 5/5/1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết :
"Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này".
rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân vi quý, ông phân tích :
"Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới".
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết :
"Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị".
Đúng như vậy, Hoàng đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét chính của những nỗ lực này.
Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Chính phủ mới
Nhằm thành lập một chính phủ mới, ngay từ chiều ngày 19 tức mười ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp và tám ngày sau khi tuyên bố Việt Nam độc lập, Bảo Đại đã họp với Phạm Khắc Hòe, lúc này là người thân cận duy nhất bên cạnh nhà vua, để "bàn việc chiêu tập nhân tài một cách cụ thể". Phạm Khắc Hòe, sau khi đã trao đổi ý kiến với Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy, đã đề nghị lên nhà vua một danh sách 14 nhân vật sau đây :
- Nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng (Huế)
- Giáo sư Tôn Quang Phiệt (Huế)
- Bác sĩ Trần Đình Nam (Đà Nẵng)
- Giáo sư Lê Ấm (Qui Nhơn)
- Bác sĩ Hồ Tá Khanh (Phan Thiết)
- Kỹ sư cầu cống Lưu Văn Lang (Sài Gòn)
- Luật sư Vương Quang Nhường (Sài Gòn)
- Ông Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng thư Bộ Lại (Sài Gòn)
- Giáo sư Thạc sĩ Toán Học Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội)
- Luật sư Vũ Văn Hiền (Hà Nội)
- Luật sư Phan Anh (Hà Nội)
- Ông Trịnh Văn Bính, tốt nghiệp Cao học Thương mại Pháp (Hà Nội)
- Ông Hoàng Trọng Phu, nguyên Tổng đốc Hà Đông
- Ông Trần Văn Thông, nguyên Tổng đốc Nam Định
Sau gần một giờ bàn thảo, 8 người đã được Bảo Đại lựa chọn. Tám người này gồm có :
- Trần Đình Nam (bác sĩ)
- Hồ Tá Khanh (bác sĩ)
- Lưu Văn Lang (kỹ sư)
- Hoàng Trọng Phu (nguyên tổng đốc Hà Đông)
- Trần Văn Thông (nguyên tổng đốc Nam Định)
- Hoàng Xuân Hãn (giáo sư thạc sĩ toán học)
- Phan Anh (luật sư)
- Vũ Văn Hiền (luật sư) hay Trịnh Văn Bính (tốt nghiệp Cao học Thương mại Pháp) tùy theo Hoàng Xuân Hãn lựa chọn vì Bảo Đại chỉ quen Hoàng Xuân Hãn trong số những người ở Pháp về (2).
Điều cần để ý ở đây là tất cả các vị này đều là những cựu quan lại hay những trí thức hay chuyên viên nổi tiếng đương thời và có gốc từ cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thay vì chỉ có hai miền Trung và Bắc theo đúng như thẩm quyền của nhà vua ở thời điểm này vì xứ Nam Kỳ chưa được người Nhật trao trả. Các nhà hoạt động chính trị, kể cả những người được coi là thân Nhật đều không có tên trong danh sách này. Sự kiện này cho phép người ta nghĩ rằng quyết định và sự lựa chọn các nhân vật để tham khảo ý kiến kể trên của vua Bảo Đại và phía người Việt là hoàn toàn do nhà vua quyết định, không có sự can thiệp của người Nhật vì chỉ có hai người hiện diện là chính nhà vua và Phạm Khắc Hòe. Không những thế, tinh thần và ý chí thống nhất ba miền đã luôn luôn được nhà vua tôn trọng. Ngoài ra ta cũng nên để ý tới nhận xét của Luật sư Bùi Tường Chiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc tham khảo ý kiến này khi ông viết trong bài tham luận kể trên.
Cũng nên để ý thêm là những cuộc tiếp xúc kể trên chỉ là những cuộc tiếp xúc với những nhân vật tên tuổi, có chức vị đương thời. Ngòa i những người này, Bảo Đại, cũng qua Phạm Khắc Hòe, còn mời gặp thêm nhiều nhân vật khác nữa trong đó có Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Hoàng Sử, Nguyễn Lân… Tất cả, theo hồi ký của Trần Thị Như Mân (bà Đào Duy Anh), đều đã "có vào" và Tôn Quang Phiệt có được cử "nói lên lời chúc mừng nước nhà độc lập và hứa nếu cần gì thì chúng tôi sẽ giúp không công cho nhà vua". Phạm Khắc Hòe không nói tới chuyện có vào này. Nói là giúp không công cho nhà vua như vậy nhưng sau này trong hồi ký của mình, Tôn Quang Phiệt lại ghi thêm là "Cũng nói thế thôi, chứ trong bụng thì đã có kế hoạch" (3). Tuy nhiên dù thế nào đi chăng nữa đây cũng là một bằng chứng cụ thể của thiện chí dân chủ hóa đất nước của Hoàng đế Bảo Đại.
Cuối cùng thì học giả Trần Trọng Kim đã được lựa chọn để lập chính phủ mới và ngày 8/5/1945, chính phủ này đã được chính thức trình diện.
Bước tiến thứ ba
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền).
Đây là bước tiến quan trọng thứ ba trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân vi quý của Hoàng đế Bảo Đại. Với bước tiến thứ ba này, vào khoảng từ trung tuần/sáu đến thượng tuần/bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc với đầy đủ nhân sự để ngay lập tức có thể thực thi. Bốn hội đồng này gồm có :
Hội đồng Dự thảo Hiến pháp, do Phan Anh, Luật sư, Bộ trưởng Bộ Thanh Niên, người từ lâu đã nghiên cứu về hiến pháp và các thể chế đương thời làm Thuyết trình viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7/7/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7/7/1945).
Hội đồng cải cách cai trị, tư pháp và hành chính, do Vũ Văn Hiền, Luật sư, Bộ trưởng Bộ Tài chánh, tác giả của nhiều bài nghiên cứu liên hệ, làm Thuyết trình viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9/7/1945).
Hội đồng cải cách giáo dục, do Hoàng Xuân Hãn, Giáo sư, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và mỹ nghệ làm Thuyết trình viên, gồm có bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10/7/1945).
Hội đồng Thanh niên. Hội đồng này gồm có :
Chủ tịch : Hoàng Đạo Thúy, Huynh trưởng Hướng đạo
Phó Chủ tịch : Trần Duy Hưng, Bắc Chi bộ
Phó Chủ tịch : Tạ Quang Bửu, Nam Chi bộ
Cố vấn Bắc Chi bộ : bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn,Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tường Bách.
Cố vấn Nam Chi bộ : bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15/6/1945) (4).
Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hòe tỏ ý thắc mắc là có tên những người ông "chưa từng thấy bao giờ" nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này "đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước" và nói thêm "Vậy ông chịu khó xin Hoàng đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa". Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hòe, là "chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức" (5).Những lời đối thoại này cho ta thấy khả năng, tính cách hữu hiệu và làm việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc, những văn kiện có giá trị như những đạo luật được quốc hội thông qua trong một nước dân chủ hiện đại, để làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hìệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ không thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai/tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8/5, đến ngày 10/7, ngày đạo dụ cuối cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn trong có "mấy phút sau". Một thời gian kỷ lục mà một quốc gia dân chủ hiện đại khó có thể làm nổi. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ trưởng Tài chánh Vũ Văn Hiền và Bộ trưởng Giáo dục và mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn. Cả ba, ngòa i bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt Nam về các vấn đề liên hệ thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ "think tank" của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để các vị này thi thố tài năng và thực thi hòa i bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén và mọi người mong đợi. Cũng nên nhớ là thành ngữ "thờ vua giúp nước" cho đến thời điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Điều nên để ý là trái với nhận định của một vài tác giả, tất cả những nỗ lực kể trên, người viết xin được nhấn mạnh, đều là những thành tích cụ thể của Hoàng đế Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim nhằm thiết lập những cơ chế mới với nhân sự để chỉ còn thực thi là đầy đủ.
Bước tiến thứ tư
"Tuần lễ của các tự do"
Bước tiến thứ tư là ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21/7/1945 (6) ghi nhận theo thứ tự thời gian gồm có :
1. Dụ số 73, ngày 26/5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5/7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.
2. Dụ số 78, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9/7/1945 về tự do lập hội.
3. Dụ số 79, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9/7/1945 về tự do hội họp.
Cả ba đạo dụ với nội dung phải nói là rất tiến bộ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần/bảy năm 1945 và báo Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là "Tuần của các tự do".
Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau :
Tự do lập hội : Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngòa i những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động
Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không ? Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.
Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.
Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị tòa án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của tòa.
Có hai thứ hội : hội thường và hội được Hội đồng Nội các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản mà Bộ Nội vụ và Tài chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng dữ.
Tự do hội họp : Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.
Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở ngòa i đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngòa i ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.
Tự do nghiệp đoàn : Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của nguời dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép, có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền, chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít nhất một năm.
Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần/7/1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là "Tuần lễ của các tự do". Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10/3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này "đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9/3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng" (7).
Kết luận
Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được đã được Hoàng đế Bảo Đại, Thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba năm ngắn ngủi kể từ ngày 8/5 khi chính phủ này được trình diện đến ngày 6/8/1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9/7, ngày các Dụ số 78 về tự do lập hội và số 79 về tự do hội họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời, gọi theo sử gia Na Uy Stein Tonnesson là "từ trên xuống", còn gọi theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng nhưng cũng từ trên xuống : "cách mạng từ trên xuống". Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy ? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn và sự hiểu biết của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này, Đế quốc Việt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ. Từ vua Bảo Đại đến thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà.
Điều đáng tiếc là biến cố 19/8 đã xảy ra, Việt Minh cộng sản cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày 22/9/1945, chỉ 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh "bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam" (8) và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị định ngày 14/9 giải tán Hội khai trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác "cấp năng lực pháp luật" (9) cho hội "Văn hóa Cứu quốc Việt Nam" (Việt Minh) (10). Điều này cho ta thấy chế độ mới rất sợ các nghiệp đoàn, các hiệp hội và đặc biệt các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người, đồng thời muốn độc quyền hoạt động trong mọi sinh hoạt quốc gia. Cuối cùng thì sau 75 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp hai cuộc chiến kéo dài cả ba mươi năm, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu người dân, nhân quyền, tự do và dân chủ, từ đó thống nhất dân tộc, vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt được của Quốc Dân Việt Nam. Trong khi đó hình ảnh của một xã hội Việt Nam theo xã hội chủ nghĩa vẫn tuyệt mù tăm tích hay có thì cũng chẳng có gì đáng lạc qua như các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản vẫn từng hứa hẹn, nếu không nói chỉ là bánh vẽ (11).
Ngày ông Táo lên chầu Trời, 17/1/2020
Phạm Cao Dương
Phạm Cao Dương là cựu Giáo sư đại học, Tiến sĩ Sử học
Chú thích :
(1) Đoàn Trung Còn, dịch giả :
- Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử, quyển Bảy, "Chương sau : Tận Tâm", Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2000, tr. 263 - Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải),
- Tứ Thư Tập Chú, "Mạnh Tử, Chương XIV, Tận Tâm, Chương Cú Hạ", Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1999, tr. 1346.
- Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử, Sài Gòn, Cảo Thơm, 1975, Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, Los Alamitos, CA, tr. 58.
– Phan Bội Châu, Khổng học đăng trọn bộ. Houston, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 463.
- Bàn về khẩu hiệu này, Phạm Khắc Hoè, Ngự tiền Tổng lý Văn phòng của Vua Bảo Đại và là người thân Việt Minh nằm trong Đại Nội bên cạnh nhà vua cho là do một người nào đó "mớm" cho nhà vua chứ Bảo Đại không thể có ý tưởng đó được. Nhận xét này nhiều phần không đúng nếu ta để ý tới căn bản giáo dục mà Bảo Đại nhận được xuyên qua Phụ đạo Lê Nhữ Lâm từ hồi ông mới 6 tuổi rồi sau đó theo ông sang Pháp trong suốt thời gian ông ở Pháp để dạy ông về đạo làm vua theo truyền thống Việt Nam trong đó có Khổng giáo, tiếp theo là những gì ông làm trong thời kỳ cải cách trước đó và những gì ông viết trong hồi ký sau này của ông.
- Xem thêm Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987, tr. 22-23.
(2) Phạm Khắc Hoè, dẫn trên, tr. 25-26.
(3) Tôn Quang Phiệt, "Tôi tham gia Cách mạng tháng Tám ở Huế", trong Xưa & Nay, Cơ quan Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 410, tháng 8/2012, tr. 6.
- Trần Thị Như Mân, Sống với tình thương, Hồi ký, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh Niên, 1988, tr. 49.
(4) Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, dẫn trên, tr. 41-43.
(5) như trên, tr. 41.
(6) Thanh Nghị, số 117, ngày 21/7/1945. Trong mục "Đời sống Đông Dương" qua bài báo nhan đề "Mấy đạo dụ về tự do", tr. 23-25,
(7) như trên, tr. 25
(8) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, số 2, 6/10/1945, "Mục lục Công báo ngày 6/10/1945".
(9) Tư cách pháp nhân.
(10) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, dẫn trên.
(11) Độc giả muốn biết thêm chi tiết có thể tìm đọc tác phẩm Trước khi bão lụt tràn tới : Bảo Đại – Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945 – 30/8/1945, 826 trang của cùng tác giả bài này, do Amazon in ấn và phát hành, 2017, 2018.
Sau 45 năm độc quyền lãnh đạo : Đảng cộng sản Việt Nam đạt được gì, mất gì và cần phải làm gì cho đất nước ?
Thành quả sau 45 năm
Kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 và sau hơn 4 thập niên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kinh tế Việt Nam được thế giới công nhận là có sự phát triển vượt bậc và ổn định qua các chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng vượt ngưỡng trong hai năm liền 7% (2018) và 7,2% (2019). Chỉ số lạm phát ở mức 2,76% ; xuất siêu đạt 9 tỷ đô la Mỹ (USD) ; lượng kiều hối chảy vào Việt Nam lên đến gần 17 tỷ USD trong năm 2019, được xếp là năm thứ 3 liên tiếp thuộc nhóm 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới.
Một người đạp xích lô đi qua biểu tượng búa - liềm ở Hà Nội. AFP
Với những thành quả đạt được như vừa nêu, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương vào sáng ngày 30/12/19 phát biểu rằng "Ngân hàng Thế giới-World Bank đã nhận định, mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam".
Luật sư Nguyễn Văn Đài, thuộc Hội Anh Em Dân Chủ, một tổ chức xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam và bị Hà Nội tống xuất đến Đức năm 2018 trong lúc thụ án 15 năm tù giam, lên tiếng với RFA về ghi nhận của ông đối với những thành tựu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 45 năm lãnh đạo toàn thể đất nước Việt Nam :
"Sau năm 1975, Cộng sản Việt Nam đã bị Mỹ và nhiều nước trên thế giới áp đặt cấm vận nhưng họ đã thành công trong việc gỡ bỏ lệnh cấm vận đó. Đồng thời trong năm vừa qua, họ cũng đã xây dựng được mối quan hệ đối tác chiến lược với 4/5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ là nước thứ 5 thì họ xây dựng được quan hệ đối tác toàn diện. Ngoài ra họ còn xây dựng được quan hệ đối tác chiến lược với rất nhiều các cường quốc khác như Nhật Bản, Đức, Australia…Trong kinh tế thì họ cũng hội nhập vào quốc tế khá sâu rộng như là đã tham gia khối AFTA cũng như ký các hiệp định tự do thương mại với Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Về an ninh quốc phòng thì tiềm lực được xây dựng khá tốt dù vị thế bị xuống thấp do không tương xứng với mức độ đầu tư quốc phòng và rất yếu kém trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Điều thành công lớn nhất đối với Đảng cộng sản Việt Nam là họ đã tạo ra một tầng lớp tư sản đỏ ở trong nước, thuộc dòng dõi con ông cháu cha của họ hay chính bản thân các quan chức cộng sản rất giàu có, thậm chí giàu hơn những người thuộc giới tư bản được gọi là ‘tư bản dân tộc’ ở trong nước".
Từ Paris, Pháp, ông Nguyễn Gia Kiểng, một sáng lập viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận xét về tình hình Việt Nam sau 45 năm kể từ ngày đất nước không còn tiếng súng của chiến tranh :
"Theo tôi nếu so sánh Việt Nam năm 2020 với Việt Nam năm 1975 thì phải nói rằng có rất nhiều tiến bộ. Tiến bộ lớn nhất là ở miền Bắc Việt Nam. Trước đây là vùng đất của sự nghèo khổ và dơ bẩn, áp bức, dối trá và ngày hôm nay chúng ta có thể thấy chế độ đó bị hoàn cảnh đưa đẩy và họ đã cố gắng làm cho miền Bắc được thay đổi đáng kể. Nếu chúng ta được gặp gỡ những người dân ở miền Bắc thì đều nhìn nhận rằng đời sống thực chất được cải thiện rất nhiều và mức độ phóng khoáng, tự do cũng tăng lên. Còn ở miền Nam thì phải nói là sau 45 năm và sau một thời gian bị tàn phá thì các vấn đề về kinh tế, xã hội cũng đã có tiến triển nhiều".
Tuy nhiên, ông Nguyễn Gia Kiểng nhấn mạnh rằng dù Việt Nam có sự phát triển trong hơn 4 thập niên qua như thế nhưng trong bối cảnh tất cả các quốc gia trên thế giới đều bắt buộc phải phát triển thì cần phải nhìn nhận ở góc độ đáng lưu tâm là sự tiến bộ đó có ngang tầm hay bị tụt hậu so với thế giới ?
Đảng cộng sản Việt Nam mất gì qua hơn 4 thập niên ?
Trong khi đó, với cương vị là người lãnh đạo cao nhất trong Đảng cũng như của quốc gia, ông Nguyễn Phú Trọng có thể nói rất hãnh diện và tự tin qua một tuyên bố rằng mặc dù tệ nạn tham nhũng và cán bộ hư hỏng đều có cả nhưng nhìn tổng quát thì đất nước chưa bao giờ được như thế này.
Từ Hoa Kỳ, Trưởng ban Thường vụ Đảng Dân Chủ Việt Nam, ông Võ Tấn Huân đánh giá về quá trình lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam trong hơn 4 thập niên :
"Bên cạnh những tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam vẫn còn nhiều sự bất cập và lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền cần phải thay đổi và điều chỉnh nhanh hơn nữa cho xã hội phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ hơn. Và một trong những điểm chính là thiếu vắng cơ chế kiểm soát quyền lực dẫn đến sự độc quyền và lạm quyền, tuyên truyền sai sự thật cũng như nạn tham nhũng mà chúng ta đã thấy như ngày hôm nay. Như chúng tôi đã nêu rõ trong năm 2020 thì Việt Nam cần sớm tách biệt sự ảnh hưởng của đảng chính trị ra khỏi lĩnh vực kinh tế để xã hội có thể phát triển một cách công bằng và hiệu quả. Bên cạnh đó chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam luôn mong muốn được thế giới công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường tự do. Do đó chúng tôi cho rằng mong muốn đó hoàn toàn đúng đắn và cần sớm trở nên hiện thực".
Giáo sư Phạm Minh Hoàng, một thành viên của Đảng Việt Tân và từng trở về Việt Nam sinh sống và làm việc trong 20 năm, vào ngày 10/1 lên tiếng chia sẻ với RFA về những gì mà ông quan sát được :
"Trong thời gian 20 năm tôi ở Việt Nam, tôi đã có nhiều cơ hội tiếp xúc đặc biệt với giới trẻ và người dân. Theo đánh giá cảm quan của tôi thì tôi nghĩ rằng càng lúc người ta càng nhìn thấy xã hội Việt Nam có rất nhiều vấn đề. Ngay ngày hôm nay, chắc mọi người cũng thấy một vấn đề rất lớn là vấn đề đất đai ở Đông Tâm.
Chúng ta cũng không quên là chỉ có Đồng Tâm thôi mà còn có Dương Nội, Lộc Hưng và còn nhiều điểm nóng về đất đai nữa. Vấn đề đất đai chỉ là một vấn đề gây ra bức xúc trong người dân và sự bất mãn của người dân còn từ rất nhiều vấn đề nữa như vấn đề kinh tế, vấn đề tự do, vấn đề chênh lệch xã hội giàu nghèo…
Số người tạm gọi là bất mãn với chế độ thì họ không có dịp để bày tỏ, không có cơ hội để nói ra và không có điều kiện để liên kết lại với nhau. Nếu tất cả những việc này xảy ra ở nước ngoài, chắc chắn chúng ta sẽ thấy được sự phẫn nộ của người dân rất lớn chứ không phải như những gì chúng ta đang thấy ở Việt Nam đâu".
Báo cáo của tổ chức Minh bạch Quốc tế về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng toàn cầu năm 2018, xếp Việt Nam hạng 117, xuống 10 hạng so với năm 2017. Screen capture
Vào đầu tháng 2 năm 2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Thanh tra Chính phủ tiếp tục tập trung kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ việc đông người, phức tạp, kéo dài. Vào giữa năm 2018, Đoàn Đại biểu quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh) cũng cho biết có đến 75% khiếu nại ở thành phố này liên quan nhà đất. Điển hình là vụ việc người dân ở Thủ Thiêm, quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh đã khiếu kiện trong hơn 2 thập niên mà vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, dù giới chức lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh hứa hẹn giải quyết trong năm 2019. Hay mới đây nhất, vụ việc "Khủng hoảng Đồng Tâm" đã kéo dài hơn 2 năm qua và người dân Đồng Tâm đã gửi đơn khiếu nại lên cấp Trung ương nhưng kết quả là một cuộc đụng độ vũ lực giữa lực lượng vũ trang với dân chúng xã Đồng Tâm vào đêm rạng sáng 9/1, khiến ít nhất 4 người thiệt mạng theo thông báo từ Bộ Công an.
Luật sư Nguyễn Văn Đài, một nhà hoạt động dân chủ nhiều năm ở trong nước nhận định điều mất mát lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam sau 45 năm độc quyền lãnh đạo là :
"Đảng cộng sản Việt Nam bị mất lớn nhất là mất lòng dân. Điều này đã được xác định rất rõ ràng qua cuộc thăm dò dư luận hồi năm 2012 do ông Nguyễn Phú Trọng tiến hành. Qua bản thăm dò do Ban Tuyên giáo thực hiện thì có đến 85% số người được hỏi đều bày tỏ bất bình và mất niềm tin vào Đảng cộng sản Việt Nam do vấn đề tham nhũng và vấn đề đạo đức xã hội xuống cấp. Đấy là cái mất lớn nhất đối với họ".
Một báo cáo của tổ chức Minh bạch Quốc tế về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng toàn cầu năm 2018, công bố hôm 29/1/19, đã xếp Việt Nam hạng 117, xuống 10 hạng so với năm trước đó.
Mới đây nhất, Ủy viên Bộ Chính trị- Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng năm 2019, diễn ra vào ngày 10/1/2020 cho biết đã thi hành kỷ luật hàng ngàn tổ chức đảng, hàng vạn cấp ủy viên các cấp và xấp xỉ 55 ngàn đảng viên, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.
Đài RFA ghi nhận hồi tháng 5/2019, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đặt ra 3 câu hỏi quan trọng ở Hội nghị Trung ương 10 của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm :
1. Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước không ?
2. Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không ?
3. Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam không ?
Trước những câu hỏi của ông Nguyễn Phú Trọng đưa ra, giới quan sát tình hình Việt Nam cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã nhìn nhận được vai trò lãnh đạo đất nước của họ cần phải cấp thiết điều chỉnh vì sự tồn vong của chế độ.
Trưởng ban Thường vụ Đảng Dân Chủ Việt Nam, ông Võ Tấn Huân khẳng định với RFA rằng "Đảng cộng sản Việt Nam cần phải bắt đầu ngay và bắt đầu từ điều chỉnh tư duy và theo đó từng bước điều chỉnh cơ chế chính trị". Ông Võ Tấn Huân nhấn mạnh mặc dù bước đầu là sẽ khó, nhưng nếu không thực hiện thì sẽ không có những bước tiếp theo.
Ông Nguyễn Gia Kiểng tiên liệu rằng năm 2020 là một năm rất lúng túng cho Đảng cộng sản Việt Nam vì phải chuẩn bị cho Đại hội Đảng XIII trong những điều kiện khó khăn, không loại trừ khả năng hỗn loạn nội bộ trước tình thế diễn biến phức tạp trong khu vực và thế giới. Ông Nguyễn Gia Kiểng lý giải :
"Năm 2020 là năm rất bặc biệt do sự chuyển trục, nói nôm na là thoát Trung theo Mỹ và các nước dân chủ. Đầu tư nước ngoài đổ xô vào Việt Nam. Sự chú ý của quốc tế tập trung vào Việt Nam ở Biển Đông vì tầm quan trọng đặc biệt của khu vực biển này. Và do đó Việt Nam có thể có một ‘ánh sáng cuối đường hầm’ khi xã hội Việt Nam cho là Hoa Kỳ và các nước dân chủ vì quyền lợi chiến lược ở Biển Đông mà sẽ giúp đỡ cho Việt Nam. Và cuộc tranh hùng giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ và các nước dân chủ sẽ càng ngày càng trở nên rõ rệt và căng thẳng hơn vì thế giới nhận ra rằng một khi Trung Quốc mạnh lên, tăng cường về quân sự và vẫn giữ nguyên chế độ độc tài thì sẽ là mối đe dọa cho hòa bình thế giới. Việt Nam ở trong vị trí địa lý chiến lược rất đặc biệt nên sẽ được hưởng sự trợ giúp của thế giới cho nên nhìn về tương lai thì Việt Nam có một cơ hội không thể để mất được. Đó là cơ hội thiết lập dân chủ bởi vì chọn lựa đi với các nước dân chủ cũng là chọn lựa từ bỏ chế độ cộng sản".
Người sáng lập Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói rằng Đảng cộng sản Việt Nam nên cân nhắc kỹ lưỡng về cơ hội không những thiết lập dân chủ cho đất nước mà còn có điều kiện để phát triển đất nước được giàu mạnh ; đồng thời Đảng cộng sản Việt Nam cũng cần lưu tâm về thiện chí của tất cả các cá nhân, tổ chức, đảng phái chính trị… vì mục tiêu chung cho việc phát triển đất nước Việt Nam hùng cường.
Trong Thông điệp 2020 của Đảng Dân Chủ Việt Nam phổ biến hôm 3/1, Đảng Dân Chủ Việt Nam cho biết sẵn sàng hợp tác với Đảng cộng sản Việt Nam trong tinh thần xây dựng quốc gia. Ông Võ Tấn Huân diễn giải :
"Mô hình nhà nước chính danh, minh bạch hiệu quả là điều đất nước đang cần. Cho nên chúng ta cần phải xem con người là tài sản quý giá của quốc gia và xem trọng đoàn kết quốc gia với pháp luật chuẩn mực thì mới xem trọng tình đồng bào tình tự dân tộc và từ cách nhìn như vậy thì mới có thể điều chỉnh tư duy và những giải pháp đưa ra cho phù hợp để xã hội và đất nước cùng đi tới mới là dấu ấn để lại cho đảng cầm quyền cũng như để lại cho tương lai của thế hệ trẻ Việt Nam".
Để kết thúc bài ghi nhận hạn hẹp này, chúng tôi xin mượn lời nhận định của nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan-Tiến sĩ Đinh Hòang Thắng rằng năm 2020, một năm đánh dấu cột mốc lịch sử 45 năm Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước Việt Nam thống nhất và là năm với nhiều thách thức khi Việt Nam đứng ở vị thế trong mối quan hệ tay ba với Trung Quốc và Mỹ ; do đó Việt Nam sẽ có cơ hội để chọn lựa và đưa ra quyết sách lãnh đạo quốc gia một cách hữu hiệu nhất tại Đại hội Đảng XIII.
Nguồn : RFA, 10/01/2020