Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời".

(Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi)

Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, từng dõng dạc tuyên bố : "Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất".

datnuoc1

Nhức nhối xuất cảnh trái phép tìm việc làm - Ảnh P.Tuấn

"Rực rỡ" là một tính từ thể hiện sự tươi sáng, đẹp đẽ và khiến ai cũng phải trầm trồ, chú ý. Người Việt thường nói sự nghiệp thành công rực rỡ hoặc tương lai rực rỡ để nhấn mạnh ý muốn diễn đạt. Vậy theo như tuyên bố của Trọng, thời đại Hồ Chí Minh, bắt đầu từ 2/9/1945 khi Hồ đọc bản Tuyên ngôn khai sinh ra nhà nước cộng sản cho đến nay, là khoảng thời gian tươi sáng và đẹp đẽ nhất. Nếu được sống trong thời đại tươi sáng và đẹp đẽ đến thế, ắt hẳn toàn dân Việt Nam đều có cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng. Có nghĩa là, sẽ không có một người dân nào mong muốn rời khỏi Việt Nam trong thời đại rực rỡ như thế.

Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn trái ngược với những gì Trọng đã khẳng định. Báo của tỉnh Cao Bằng ngày 7/7/2017 có bản tin : "Nhức nhối tình trạng xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê", phân tích tình trạng gia tăng xuất cảnh lao động trái phép sang Trung Quốc cũng như sự nghèo khổ, khốn cùng của nhiều người dân.

Những thắc mắc

Người viết mong muốn những kẻ đồng ý với tuyên bố của Trọng,những đảng viên giàu có và nhóm lợi ích, trả lời giúp những thắc mắc sau.

1. Tại sao đang sống trong "Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất" mà người dân, cụ thể là thanh niên, lại liều mạng, chấp nhận khổ cực, xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê ? "Nhiều người trong số họ khi trở về thường trắng tay, thậm chí thêm nợ nần hoặc bị công an Trung Quốc bắt giam và phạt tiền".

2. Thời đại rực rỡ kiểu gì mà "Hầu hết những người xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc lao động "chui" đều thuộc diện nghèo, không có việc làm ổn định". Thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ mà không thể tạo được công việc ổn định cho người dân sao ? Hay thời đại Hồ Chí Minh chỉ tạo ra cơ hội bòn rút và làm giàu cho những kẻ bám dựa vào đảng, bao gồm đảng viên và thân hữu ?

3. Tại sao thời đại rực rỡ mà phong trào xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm chui tăng đến báo động ? "Đặc biệt, vài năm trở lại đây, phong trào xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê nở rộ, nhiều thanh niên đi làm thuê một năm hoặc vài năm mới về một lần. Cụ thể, đến tháng 6/2017, 3 xã có 100 công dân xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê, trong đó có 12 người hiện đang bị phía Trung Quốc bắt".

4. Nếu người dân có việc làm và thu nhập ổn định, đủ khả năng chăm sóc gia đình, thì họ có liều mạng, chốn sang Trung Quốc làm thuê hay không ? Làm chui ở một đất nước biết chắc chắn có khả năng bị bóc lột rất cao, nhưng người dân vẫn liều mạng là vì sao ? 

Sự thật được kể lại bởi những những nhân chứng hiện đang còn sống :

"Bà Thìn rưng rưng nói : Trước khi vượt biên trái phép, Thạch làm nhiều nghề, như phụ xây, chặt mía thuê nhưng thu nhập thấp. Ăn Tết xong, nghe bạn bè rủ, từ ngày 22/2/2017 Thạch đã trốn sang Trung Quốc làm thuê. 2 tháng trước khi bị bắt, Thạch gọi về nhà và nói làm gia công đồ gia dụng, bị chủ bóc lột thời gian lao động và không trả tiền công. Từ đấy đến nay, Thạch không gọi điện về, gia đình mất luôn liên lạc. Tôi lo nghĩ, không ăn, không ngủ được, người gầy rộc, héo hon không còn tâm trạng nghĩ đến ruộng đồng, nhà cửa".  

"Ông Hơn kể : Từ tháng 2/2017, hai vợ chồng con trai tôi là Hoàng Văn Mông và Hoàng Thị Hồng đã bỏ con nhỏ ở nhà cho ông bà chăm sóc để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê. 4 tháng lao động vất vả ở xứ người chưa được chủ thanh toán tiền công, nghe tin con ốm, Hoàng Thị Hồng đành bỏ việc quay về nhà. Giờ tiền chữa bệnh cho cháu cũng không có, nhà nghèo không biết vay mượn ai... Với vẻ mặt mệt mỏi, chị Hoàng Thị Hồng ngậm ngùi kể : Khi con được 11 tháng tuổi, tôi cùng chồng vượt biên trái phép sang Trung Quốc làm thuê mong kiếm chút tiền trang trải cuộc sống. Lúc mới sang được chủ người Trung Quốc hứa trả công 80-150 nhân dân tệ/người/ngày, nên 2 vợ chồng tin tưởng làm. Đến lúc nghe tin con ốm, tôi đòi về, họ nói chưa có tiền trả, chỉ thanh toán đủ tiền tàu xe về, còn chồng tôi, họ ép phải làm hết năm mới thanh toán".

Phải nghĩ gì ?

Những người dân nghèo này không đi cướp hoặc tham lam của đồng bào, nhưng chọn con đường lao động chui cực kì nguy hiểm, để nuôi sống gia đình đang trong cảnh thiếu thốn cùng cực. Thế mà tại sao lại cay nghiệt và ác độc đổ lỗi do người dân có "nhận thức kém" nên đã ồ ạt xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê ? "Một số người dân do nhận thức kém đã "đánh liều" với số phận và cảnh báo của các cơ quan chức năng xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê, gây ra nhiều hệ lụy khôn lường".

Thực tế là 99% công chức và đảng viên tham nhũng"ăn của dân không chừa thứ gì". Vậy nhận thức của những kẻ bất lương đó thấp hay cao ? Ngày xưa, Hồ Chí Minh, người khai sinh ra đảng cộng sản Việt Nam, sống trong "nhà sàn đơn sơ vách nứa", còn ngày nay, phần lớn đảng viên đều ở biệt thự, con cái thì cho đi học ở phương Tây, tiền bạc thì gửi ra các ngân hàng nước ngoài. Thế thì nhận thức của các đảng viên bây giờ là kém hay tồi ?

Nhận thức đơn giản là khả năng cảm nhận, đánh giá và hiểu biết thế giới khách quan của một cá nhân. Trong trường hợp người dân chạy khỏi Việt Nam để lao động chui, vì phải lo miếng cơm, manh áo, thuốc than, nhà cửa cho gia đình, thì có phải là do "nhận thức kém" hay không? Bản năng sinh tồn của mỗi người dân nghèo là cố gắng tìm ra con đường sống cho gia đình và bản thân trong hoàn cảnh quá đói nghèo và cơ cực. Họ không có một lựa chọn nào khác, ngoài liều mạng để cưu mang gia đình.

Đau xót hơn, theo số liệu của bộ đội biên phòng Cao Bằng, từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh có đến 18.017 công dân xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê; trong đó, số công dân xuất cảnh trái phép bị lực lượng chức năng phía Trung Quốc bắt giữ 469 người, đã trao trả 343 người ; hiện đang bị giam giữ 32 người và3 công dân chết do tai nạn trên đất Trung Quốc (1).

Sau hơn 42 năm kiên định theo đuổi mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh", nhưng đảng cộng sản vẫn không làm được bất kì một điều gì tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam, ngoài gieo rắc cái nghèo khổ, bất công, khiến đời sốngnhân dân ngày càng cơ cực và khốn khó.

Đất nước hạnh phúc và thời đại rực rỡ, vậy cớ làm sao ngày càng nhiều người phải chạy khỏi quê hương vì miếng cơm, manh áo ? Đảng cộng sản luôn tuyên truyền rằng "tuyệt đại đa số nhân dân tin tưởng, ủng hộ", thế vì sao người dân cứ lần lượt rời bỏ quê hương ?

Ngày 12/8/2017, báo Thanh Niên tường thuật, rất nhiều người dân nghèo ở tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu đã gửi đơn cầu cứu chính quyền, do mong muốn đi xuất khẩu lao động ở Hoa Kỳ, nên đã bị lừa chiếm đoạt tiền. Từ tháng 10/2016 đến này, có 106 người dân trả nhiều tiền để được đi xuất cảnh sang Hoa Kỳ ; trong đó, có 30 trường hợp đã đưa tổng cộng 57.000 đô la (2).

Thực trạng Việt Nam

Một thể chế chính trị của những người lãnh đạo nhẫn tâm, bòn rút, tham nhũng, làm giàu trên tài nguyên Quốc gia, mặc kệ đời sống người dân có ra sao. Số lượng người dân chạy khỏi quê hương chắc chắn sẽ còn tăng, khi mà nền kinh tế của chế độ đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn bao gồm :

  • Nợ công tăng mạnh
  • Bội chi ngân sách tăng 61.800 tỷ đồng 7 tháng đầu 2017.
  • Lạm phát tăng.
  • Giá điện, giá xăng, dịch vụ y tế, giáo dục... tăng.
  • Lượng kiều hối giảm mạnh.
  • Tập đoàn nhà nước tiếp tục thua lỗ ngàn tỉ và phá sản.
  • Trịnh Vĩnh Bình yêu cầu bồi thường hơn 1 tỉ đô la.
  • Bồi thường tập đoàn Repsol : ít nhất 300 triệu đô.
  • Trả lương cho bộ máy nhà nước : 46-69 nghìn tỉ/năm.
  • Vốn vay ODA từ Nhật sẽ giảm từ năm 2017.
  • Hiệp định thương mại tự do Việt-Đức có nguy cơ không thành đến 90%
  • Hàng loạt ngân hàng ngoại quốc tế muốn thu hẹp hoạt động và rút vốn khỏi Việt Nam.

Nhà nước cộng sản đã và đang thất bại trong mọi phương diện, nhưng vẫn quyết tâm đánh đổi sự cường thịnh của quốc gia và hạnh phúc của dân tộc để duy trì quyền lực chính trị tại Việt Nam.

Thay lời kết

"Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất" mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố chắc chắn không phải dành cho người dân, nhưng là "rực rỡ" đối với đám tham quan độc ác. Chúng bòn rút ngân sách, vơ vét của dân, lấy tiền tham nhũng xây dinh thự, biệt phủ trong khi đại đa số người dân sống trong cảnh nghèo nàn, cơ kiệt. Đã thế, lũ quan vô lại còn cậy quyền ỷ thế hống hách với dân, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi.

Hãy nhìn số lượng dân nghèo, phải liều mạng chạy khỏi quê hương nuôi gia đình, để có được câu trả lời chính xác về thực trạng thối nát của đất nước hiện nay. Chỉ riêng tỉnh Cao Bằng, từ năm 2016 đến nay, có đến 18.017 công dân xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm thuê.

Phải khẳng định rằng không một ai muốn rời xa tổ ấm gia đình để lao động bất hợp pháp ở một đất nước khác. Thế nhưng, những người dân nghèo này chấp nhận rủi ro vì sinh tồn cho gia đình. Còn nỗi đau nào nhức nhối hơn khi phải chạy khỏi nơi "chôn nhao cắt rốn" vì nghèo ? Trong "thời đại rực rỡ nhất" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đời sống người dân cơ cực đến mức tuyệt vọng.

Còn gì khốn nạn hơn khi đảng viên và quan chức của chế độ thì sống trong giàu sang nhung lụa trong khi ngày càng nhiều người dân liều mạng bỏ quê hương để mưu sinh. Điều này chứng tỏ rằng những người lãnh đạo của chế độ vô cùng tàn nhẫn và độc ác. Chúng tự cho mình cái đặc quyền làm giàu trên xương máu của dân, nên có cuộc sống giàu có bậc nhất trong xã hội và mặc kệ đời sống nghèo nàn, đau khổ của nhân dân. Những người nghèo là nạn nhân khốn khổ nhất của chế độ cộng sản : đầu tắt mặt tối, quanh năm suốt tháng, mà vẫn không thoát nghèo.

Dưới sự lãnh đạo độc tài toàn trị của đảng cộng sản, thực trạng Việt Nam ngày càng hoang tàn và đời sống nhân dân ngày càng cơ cực và lầm than. Thế nhưng, đáng tiếc thay, cho đến nay những người mong muốn dân chủ hóa đất nước vẫn chưa đồng lòng đoàn kết để hạ gục đảng cộng sản. Cần nhận định mạnh mẽ rằng : muốn hạ đo ván đảng cộng sản phải có một tổ chức đối lập mạnh. Phải hình thành cho bằng được một tổ chức đối lập mạnh làm đối trọng với đảng cộng sản mới có thể tạo được áp lực buộc đảng phải giải thể.

Tiếng khóc than của chia ly vì phải xa gia đình đi lao động chui cũng như không được chủ Trung Quốc thanh toán tiền công, sẽ còn kéo dài khi đảng cộng sản vẫn còn cai trị Việt Nam. Có những con thú đối xử với đồng loại của chúng còn tốt hơn con người đối xử với nhau.

Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có một mục tiêu duy nhất là chiếm hữu toàn bộ đất nước vào tay mình. Điều 4 Hiến pháp khẳng định quyết tâm này : không ai có quyền lãnh đạo đất nước ngoài đảng cộng sản. Quy định 90 ngày 04/08/2017 vừa qua tăng cường quyết tâm này : chỉ những người do đảng cộng sản tuyển chọn mới được lãnh đạo đất nước. Quốc hội và tư pháp chỉ la bù nhìn. Tất cả vấn đề là ở chỗ đó. Nỗi khổ hạnh của nhân dân Việt Nam cũng từ chỗ đó.

Với quyền lực có sẵn trong tay, người cộng sản đã rất tàn ác đối với con người.  Những nhà lãnh đạo độc ác này sẵn sàng, vì quyền lực và lợi ích của mình, gây hại cho cả dân tộc. Bọn chúng nhân danh thứ chủ nghĩa bị cả thế giới lên án, đề đàn áp, giết chết những giấc mơ, niềm khao khát tự do của toàn dân. Bởi trong sâu thẳm trái tim của chúng, không có chỗ nào dành cho tình yêu cho Tổ Quốc và Dân Tộc, chúng chỉ có một quyết tâm : bảo vệ sự tồn tại của đảng cộng sản để tiếp tục duy trì sự cai trị hà khắc đối với nhân dân Việt Nam. Cũng từ quyền lực đó, những người cộng sản đã tận dụng chức quyền để vơ vét và làm giàu cá nhân và gia đình dòng họ của mình. Người cộng sản chỉ có một mối tình duy nhất, đó là tình yêu quyền lực và sự giàu sang.   

(29/08/2018)

Mai V. Pham

Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Đa Nguyên – Bất Bạo Động – Hòa Giải & Hòa Hợp Dân Tộc"

Nguồn :

(1) http://www.baocaobang.vn/Xa-hoi/Nhuc-nhoi-tinh-trang-xuat-canh-trai-phep-sang-Trung-Quoc-lam-thue/56280.bcb

(2) http://thanhnien.vn/thoi-su/nhieu-nguoi-bi-lua-di-lao-dong-o-my-865012.html

Published in Quan điểm

Đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa ?

Câu trả lời là Không ! Bởi họ chưa bao giờ đủ tư cách để thừa nhận hay bác bỏ điều này. Có hàng ngàn lý do và dấu hiệu để nhận biết điều này. Nhưng vấn đề cốt lõi mà tôi muốn nói ở đây chính là Cấp độ văn hóa của thể chế chính trị cộng sản ; Tính chính danh của kẻ thừa nhận/công nhận và ghi chú ; Hệ quả của việc công nhận hay không công nhận này là gì ?

tau1

Bộ Lịch sử Việt Nam do các nhà sử học của Viện khoa học lịch sử Việt Nam hiện tại biên soạn, họ đã vứt bỏ hai chữ Ngụy và thay thế vào đó bằng chữ Việt Nam Cộng Hòa. 

Chuyện công nhận, thừa nhận chế độ Việt Nam Cộng Hòa chỉ mới xuất hiện trong vài ngày gần đây, khi bộ Lịch sử Việt Nam do các nhà sử học của Viện khoa học lịch sử Việt Nam hiện tại biên soạn, họ đã vứt bỏ hai chữ Ngụy và thay thế vào đó bằng chữ Việt Nam Cộng Hòa. Mới nhìn, có vẻ như đây là sự thay đổi lớn về quan hệ giữa hai thể chế cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa. Hay nói cách khác rằng đây là một sự công nhận. Nhưng thực tế, bản chất của việt thay đổi chữ này không phải là công nhận hay không công nhận.

Bởi chữ Ngụy không do quốc tế hay báo giới quốc tế viết nên, nó cũng không do nhân dân viết nên hoặc giả do người Việt Nam Cộng Hòa viết nên mà do chính những người cộng sản viết nên, ép buộc nhân dân phải dùng nó trong suốt quá trình học tập, lao động, tồn tại... Có một thời gian dài, nếu người dân dung chữ Việt Nam Cộng Hòa mà không dùng chữ Ngụy thì gặp rắc rối to. Không thiếu những người bị hạch hẹ, bị đánh gãy răng do cùng chữ Việt Nam Cộng Hòa mà không dùng chữ Ngụy.

Như vậy, suy cho cùng là chữ Ngụy do người cộng sản nhào nặn ra, đến khi họ cảm thấy không thể dùng được nữa thì vứt đi, dùng chữ khác. Và chẳng có sự công nhận hay không công nhận ở đây thông qua động thái đổi chữ của người cộng sản !

Bởi chuyện công nhận chỉ xảy ra khi người ta xin anh công nhận hoặc chí ít người ta cũng bắn tiếng để yêu cầu anh công nhận. Đằng này hoàn toàn không có động thái đó từ những người của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Và trên hết là cái điều gọi là công nhận của nhà nước cộng sản cũng chỉ dừng ở chỗ trước đây anh dùng cả một hệ thống tuyên truyền để gọi/áp đặt người ta vào chỗ Ngụy, giờ anh thấy làm chuyện đó tào lao, không bổ ích, anh bỏ nó đi. Như vậy, nếu có thái độ nghiêm túc thì cần phải có thêm một hành vi đúng đắn, thể hiện sự tử tế của chế độ : Công khai xin lỗi những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa vì bấy lâu nay đảng, nhà nước đã mạ lị, xúc phạm họ.

Thái độ nghiêm túc của một chính thể không thể là sự đánh tráo khái niệm, tuyệt nhiên không thể. Không thể bảo với một người nào đó, cho dù nó là đứa trẻ rằng tao gọi mày là thằng Trộm mặc dù tên của mày là Hùng/ Dũng/ Sang/ Trọng/ Phúc/ Quang/ Ngân gì đó. Và sau đó dùng quyền lực bắt người ta phải gọi thằng Hùng, con Ngân... này là Trộm. Cuối cùng, thấy việc mình làm đã quá đà, vô đạo đức, thiếu tư cách làm người thì quay trở lại tuyên bố nó tên Phúc/ Quang/ Ngân/ Hùng/ Dũng/ Sang/ Trọng chứ không phải tên Trộm như bấy lâu nay ! Thực ra việc này chỉ cho thấy anh vẫn chưa chạm được tới ngưỡng của người có văn hóa và anh tự huyễn hoặc bản thân.

Vì anh có công nhận hay không công nhận thì tên của nó vẫn cứ là Hùng/ Dũng/ Sang/ Trọng/ Phúc/ Quang/ Ngân... Cái tên này do cha mẹ đặt và khai sinh cho nó từ lúc mới đẻ, nó không thể vì chuyện anh áp đặt mà biến thành cái tên khác. Hơn nữa bản chất của nó không phải là trộm, cái tên Trộm là do anh áp đặt lên nó không thể làm thay đổi bản chất, gốc gác của nó được. Nó chỉ cho thấy thâm tâm của anh mờ ám, đen tối và thiếu liêm sỉ. Đơn giản là vậy, đừng bao giờ sai lầm nói rằng nhà nước Việt Nam đang công nhận chế độ Việt Nam Cộng Hòa bằng cách thay đổi chữ nghĩa trong các cuốn sử của họ. Nói như vậy cũng đồng nghĩa với không biết gì cả về lịch sử, chính trị và văn hóa.

Đó chỉ mới là yếu tố thứ nhất, vấn đề thứ hai là tính chính danh của người áp đặt. Cũng nên xem lại tính chính danh của nhà nước cộng sản, hãy xem nó từ chi tiết nhỏ nhất : Tự Do bầu cử. Thử hỏi trong chín chục triệu dân Việt Nam, có mấy người được quyền đề cử, ứng cử ? Và thử xem xét lại trong chín chục triệu dân này, có mấy người biết chính xác về nhân vật mình phải bầu ? Và hơn hết là thử hỏi trong chín chục triệu dân Việt Nam, có mấy người được phép từ chối bầu cử mà không bị ép chế, hỏi han, hạch sách ? Rồi có bao nhiêu điểm bỏ phiếu, không chạy theo chỉ tiêu, thi đua, đánh tráo phiếu gọi là "không hợp lệ" và kết quả bầu cử có được kiểm tra nghiêm túc ? 

Một khi tất cả những câu hỏi này không được trả lời thỏa đáng thì chắc chắn là nhà nước tồn tại, hoạt động nhưng không chính danh. Mà một khi tư cách tồn tại của anh không chính danh thì anh lấy tư cách gì để xem xét, công nhận người khác ? !
Và thực sự, sau khi đã loại bỏ mọi cái vỏ ngôn từ nhằm mị người như công nhận, thừa nhận, xác nhận... Thì mục đích chính của người cộng sản lần này là gì ? Người ta đã đưa ra khá nhiều giả thuyết, cho rằng vì tính chính danh của Việt Nam Cộng Hòa trong vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, nhà nước cộng sản Việt Nam buộc phải công nhận nhằm tranh đấu cho việc lấy lại biển đảo. Chuyện này nghe ra quá mơ hồ và chẳng có giá trị gì. Bởi muốn tranh đấu để lấy lại biển đảo, chỉ công nhận không thôi thì chưa đủ mà phải chính nhà nước Việt Nam Cộng Hòa đứng ra kiện mới có gái trị pháp lý. Như vậy liệu người cộng sản có muốn điều này ? Hoặc có chấp nhận để Việt Nam Cộng Hòa quay trở lại nhằm giữ toàn vẹn lãnh thổ ? Chắc chắn là không ! 

Giả sử cho rằng, người cộng sản sẽ đại diện cho chế độ cũ để kiện lấy lại Hoàng Sa – Trường Sa, chuyện này nghe ra quá buồn cười bởi muốn thừa kế, đại diện thì anh phải làm tròn trách nhiệm kẻ đến sau, kẻ thừa kế. Anh đã ném vài thế hệ bên thua cuộc vào đen tối, vào hố sâu cùng quẫn, cướp bóc của người ta một cách trắng trợn thì lấy tư cách gì để đại diện ? Ai cho phép anh đại diện ? Chuyện này càng khó !

Chỉ có một khả năng duy nhất, có sức thuyết phục hơn hết là sau động thái tổ chức truy bắt những kẻ đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, người dân Đức tổ chức biểu tình kêu gọi chính phủ Việt Nam trả Trịnh Xuân Thanh, nhà nước Việt Nam quá bẽ mặt và thấy rằng mối nguy mất thuộc cấp đang mỗi ngày thêm cao. Trước đây mọi sự chưa rõ ràng, giờ trắng đen đã rõ : Đảng viên cộng sản gộc, tội phạm của đảng vẫn có chỗ dung thân trên đất phương Tây. Như vậy, những ngòi nổ âm ỉ bấy lâu nay trong nội bộ đảng sẽ bùng nổ trong một sớm một chiều khi họ cảm thấy có "đầu ra".

Và thử nghĩ với 5 triệu người Việt ở hải ngoại, họ hầu hết thành đạt và ổn định, cộng thêm với hàng loạt đảng viên có nguy cơ bỏ ra nước ngoài, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ mạnh hẳn lên và họ sẽ có những cuộc hòa giải, hòa hợp trên đất khách sau "tiền lệ" Trịnh Xuân Thanh. Trong khi đó, ngân sách quốc gia ngày càng trống rỗng, người Việt hải ngoại muốn bảo lãnh người thân hoặc tìm cách đưa người thân ra nước ngoài theo diện du lịch, lao động (mặc dù rất ngắn hạn và mơ hồ) nhiều hơn là gởi tiền về giúp như trước đây. Lượng kiều hối từ hải ngoại đổ vào Việt Nam đã giảm mạnh kể từ đầu năm 2017 đến nay. Điều này khiến cho kẻ lâu nay huênh hoang phải giật mình nhìn lại. Nói là công nhận này khác, thực ra là đang cố dấm dúi để sửa sai và lấy lòng người đã bị mình ám hại.

Nhưng lấy lòng được tới đâu và người ta có chịu im lặng tha thứ, xem như không có chuyện gì hay không lại là chuyện khác. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ thành khẩn, chân thành của kẻ biết mình sai và biết hối cải !

Viết từ Sài Gòn

Nguồn : RFA, 25/08/2017 (VietTuSaiGon's blog)

Published in Diễn đàn

Nếu Lịch sử biết nói thì thời gian 43 năm lặng lẽ trôi qua sẽ bảo các nhà viết sử cộng sản Việt Nam rằng : "Vì kiêu ngạo và nhát gan mà đảng cầm quyền đã lỡ một chuyến tầu".

tau1

Bộ "Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10.000 trang đã không còn dùng từ "ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn" để chỉ chính thể Việt Nam Cộng Hòa trước 1975.

Tại sao ?

Vì rằng đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã để mất chính nghĩa chủ quyền quốc gia ở Biển Đông ngay khi quần Hoàng Sa bị quân Trung Quốc đánh chiếm từ tay Hải quân của Việt Nam Cộng Hòa ngày 19/01/1974.

Thời đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã không dám hé răng phản đối Bắc Kinh vì sợ mất viện trợ và bị cắt đường tiếp vận vũ khí của Nga và các nước Đông Âu cộng sản cho miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa đi qua lãnh thổ Trung Quốc.

Bây giờ, 43 năm sau, bộ sách "Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10.000 trang đã không còn dùng từ "ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn" để chỉ chính thể Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Và khi làm việc này, Đảng Cộng sản Việt Nam nhắm đạt được 2 điều :

Thứ nhất, việc công nhận Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam là một thực thể chính trị, song song với nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 "có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc", theo quan điểm của giới nghiên cứu Việt Nam.

Thứ hai, mở ra một cánh cửa mới trong nỗ lực hòa giải, hòa hợp dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc nói chung và giữa đảng cầm quyền cộng sản Việt Nam với ngót 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nói riêng.

Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách nói với báo chí trong nước rằng : "Đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử".

Phó Giáo sư Cường cho rằng : "Vấn đề Việt Nam Cộng Hòa trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...

Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nhiều người vẫn quen gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận" (VnExpress 19/8/2017).

Vẫn theo VnExpress, ông Cường nói thêm : "Khi viết tập 12, giai đoạn 1954 đến 1965, chúng tôi cũng có những tranh luận rằng có nên dùng "ngụy quân, ngụy quyền" như trước đây không ? Từ lâu, giới nghiên cứu đã cho rằng không nên dùng, nói hay viết cũng đều không sai, nhưng mang hơi hướng miệt thị. Trong bối cảnh hoà hợp dân tộc thì có những cách gọi cần thay đổi. Khái niệm dùng trong văn bản khoa học nên có sự khách quan, trung tính nên cuối cùng qua vài buổi tranh luận, tổ biên soạn quyết định dùng từ quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn".

Trên lãnh thổ Việt Nam từng tồn tại những thực thể chính quyền. Thời chống Pháp (1945-1954) ngoài chính thể là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì ở các đô thị lớn thuộc vùng tạm chiếm, Pháp đã thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau Hiệp định Genève, ở miền Nam cũng có chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Dĩ nhiên, thực thể này không chính danh, không hợp pháp.

Ngoài nói thẳng tính chất phụ thuộc về mặt chính trị của chính quyền ấy, bộ sử cũng không né tránh khi viết về những thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội ở những vùng chiếm đóng. Thậm chí, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa miền Nam khi ấy phát triển hơn ở miền Bắc kế hoạch hóa tập trung ; hay chính quyền ấy cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, khi Trung Quốc ra tay đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974...".

Trong câu nói này, ông Giáo sư Cường đã "tiền hậu bất nhất". Một mặt ông bảo "lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận" nhưng ông lại cho rằng nói hay viết (ngụy quân, ngụy quyền) cũng đều không sai.

Tại sao nó "đúng" và như vậy là không "mang hơi hướng miệt thị" hay sao ?

Ông còn"nửa tỉnh nửa say" khi nói "chính quyền Việt Nam Cộng Hòa" được thành lập ở miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, không chính danh, không hợp pháp.

Tại sao "không chính danh" và "không hợp pháp" khi Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) là một thực thể chính trị độc lập, có một chính quyền do dân bầu, có Hiến pháp và được 78 Quốc gia công nhận ?

Trong khi, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1954  đến năm 1976 cũng là nhà nước độc lập nhưng không do dân bầu và chỉ quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam .

Nhưng trong đầu lãnh đạo đảng và các nhà khoa bảng Cộng sản Việt Nam thì chỉ có nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mới "chính danh" và "hợp pháp" trên toàn lãnh thổ.

Bằng chứng như cái loa tuyên truyền của Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) từng xuyên tạc : "Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể "Việt Nam Cộng Hòa" đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một "sáng tạo" thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).

Trong khi đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.

Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng Hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó !" (VOV, ngày 23/04/2015).

Lu loa như thế chỉ đúng nửa sự thật. Bởi vì từ sau Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hay liên hiệp Quốc-Cộng 1946, và Quốc hội có dân bầu đầu tiên 1946, dù nhiệm kỳ cho đến 1960 mới chấm dứt, nhưng lực lượng phá hoại của Đảng Cộng sản Việt Nam do hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn chỉ huy đã tìm mọi cách để đánh phá hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để chiếm độc quyền cai trị.

Bằng chứng đã được ghi trong Bách khoa toàn thư mở : "Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn , sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng  và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội  tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại : "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này".

Như vậy, dù có "chính danh" trên giấy tờ nhưng chính phủ liên hiệp ban đầu đã thay hình đổi dạng bằng một Chính phủ và Quốc hội đảng cử dân bầu của riêng Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó cho đến ngày được gọi là "thống nhất đất nước chính thức", sau cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 và sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ động xâm lược Việt Nam Cộng Hòa từ 1955 đến tháng 4/1975, cái "chính danh" của Quốc hội đảng cử dân bầuvà nhà nước do đảng độc quyền lãnh đạo chưa bao giờ là "của dân, do dân và vì dân" như nhà nước tuyên truyền.

Lời Nguyễn Cơ Thạch

Nhưng tại sao Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc đã không dám phản đối Trung Quốc khi Bắc Kinh xua quân đánh chiềm Quần dảo Hoàng Sa tháng 1/1974 ?

Ông Dương Danh Dy, một chuyện gia về Trung Hoa của Việt Nam đã trích lời Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch vào thời điểm xẩy ra vụ Hoàng Sa để trả lời cho thắc mắc này.

Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và truyền thông cộng sản Việt Nam, trong số ra ngày 6/1/2014 viết : "Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại không lên tiếng.

Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ ?

TuanVietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.

Phóng viên : Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại không lên tiếng phản đối ?

Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia ?

Dương Danh Dy : Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.

Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn :

"Dy ơi, sao cậu dại thế ! Đất nước đã thống nhất chưa ? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn ?

Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào ? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...

Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn".

Lúc đó, ông Thạch chỉ nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông".

Ông Dy "thông" nhưng lịch sử thì không vì vào năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Trung Hoa Chu n Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.

-----------------

Trong một dịp khác, lời nói của ông Dương Danh Dy còn được phổ biến trên Internet nhận định rằng : "Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa"…

Rất tiếc dự đoán về ý đồ của Trung Quốc ở Trường Sa của chuyên gia Dương Danh Dy không hoàn toàn đúng. Thay vì "đánh chiếm hết", Trung Quốc đã làm chủ 7 đảo quân sự được tân tạo từ các bãi đá có vị trí chiến lược ở Trường Sa để đe dọa trực tiếp Việt Nam.

Đó là : đá Châu Viên, đá Chữ Thập, cụm đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Tư Nghĩa, đá Vành Khăn và đá Xu Bi.

Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc sẽ chỉ dừng chân ở 7 vị trí này.

Như vậy, qua lời ông Nguyễn Cơ Thạch, ai cũng thấy rõ việc bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đối với đảng và chính phủ miền Bắc khi Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh chiếm năm 1974 không quan trọng bẳng việc phải đánh phá để chiếm Việt Nam Cộng Hòa !

Bây giờ, có sáng mắt ra cũng đã quá muộn vì dù sách sử mới có nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa thì Hoàng Sa và một phần Trường Sa cũng đã nằm trong tay Trung Quốc.

Cho nên nếu Tiến sĩ  sử học Nguyễn Nhã (thời Việt Nam Cộng Hòa ở lại) cho rằng"Việc thừa nhận này (Việt Nam Cộng Hòa)có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam"(Tuổi Trẻ online, ngày 20/08/017)thì cũng chi là mong ước mà thôi.

Bởi vì khi Phi Luật Tân mời Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế năm 2013 để bác bỏ chủ quyền tự nhận của Bắc Kinh trong hình Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan), chiếm ¾ diện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Trường Sa thì Việt Nam không dám làm.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã cũng nói với báo Tuổi Trẻ rằng : "Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục".

Nhưng tại sao phải mất tới 43 năm, kể từ khi Trung Quốc dùng võ lực đánh chiếm quấn đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, từ tay Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, sách sử của nhà nước cộng sản Việt Nam mới biềt nhìn nhận có một Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam để có lợi về mặt chủ quyền biển đảo ở Biển Đông nói chung và Hoàng Sa nói riêng ?

Tiến sĩ Nguyễn Nhã còn lạc quan, theo tường thuật của Tuổi Trẻ : "Trong cái nhìn triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa, ông Nhã cũng lưu ý rằng "Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam Cộng Hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt".

Không chỉ thế, theo ông Nhã, "... Thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển".

Quả là nhiêu khê đấy. Nếu chỉ cần tập sách sử biết nhìn nhận có một chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam từng kiểm soát chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại được chính nghĩa để vận động toàn dân hy sinh bảo vệ lãnh thổ thì rẻ quá.

Nhưng cái gía mà nhà nước cộng sản Việt Nam phải trả cho hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt Nam Cộng Hòa trong và ngoài nước còn cao gấp vạn lần hơn.

Còn cao hơn, nếu cụm từ "ngụy quân ngụy quyền" chỉ có gía trị trên trang sách mà trong đầu thì không.

Chỉ lỡ một chuyến tầu thôi mà khổ thế đấy.

Phạm Trần

(23/08/2017)

Published in Diễn đàn

Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam được cho là lần đầu tiên đưa ra những quy định tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.

lanhdao1

Giới lãnh đạo cấp cao của Việt Nam tại Đại hội đảng lần thứ 12, tháng Giêng, 2016. Photo : AFP

Vì sao ban hành ?

Truyền thông trong nước và các hãng thông tấn nước ngoài hồi trung tuần tháng 8 đồng lọat đăng tải thông tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành quy định của Bộ Chính trị đối với cán bộ lãnh đạo cấp cao, thuộc diện Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Theo qui định thì họ phải là những cán bộ tuyệt đối không tham vọng quyền lực, không tham nhũng và quyết liệt chống tệ nạn quan liêu, lãng phí, cửa quyền và lợi ích nhóm cũng như không để người thân quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm trục lợi.

Bên cạnh những quy định mới như vừa nêu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn ký ban hành quy định về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trên tinh thần cán bộ lãnh đạo phải tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng và của quốc gia, dân tộc, kiên định với chủ nghia Karl Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Reuters vào ngày 15 tháng 8 dẫn lời của một số nhà quan sát tình hình Việt Nam cho rằng quyết định của Bộ Chính trị là một sự cố gắng chống tham nhũng trong một chế độ chỉ có một đảng lãnh đạo và điều này được thực hiện từ khi nhóm bảo thủ trong đảng, vốn xem trọng vấn đề an ninh, chiếm được thế thượng phong từ năm ngoái đến nay. Tuy nhiên, dư luận trong và ngoài nước đặc biệt lưu tâm với thắc mắc vì sao người đứng đầu Đảng cộng sản lãnh đạo lại ký ban hành khung tiêu chuẩn chức danh và tiêu chí đánh giá cán bộ vào thời điểm này. Đài RFA nêu vấn đề với Đại tá Bùi Văn Bồng, nguyên trưởng Đại diện Báo Quân đội Nhân dân, tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long và được ông cho biết :

"Theo tôi rất bình thường. Bởi vì khi nảy sinh những vấn đề thực tế lãnh đạo của xã hội thì buộc lòng nhà lãnh đạo phải đưa ra các quyết sách hoặc thậm chí đưa ra các quy định mới cho phù hợp. Trong bối cảnh này thì càng phải thận trọng, chọn lọc hay tìm ra những người có thể tin cậy để lãnh đạo thì đây là sự cần thiết, nhất là không để cho những người cơ hội hoặc bè phái đứng trong hàng ngũ lãnh đạo mà không có lợi đối với công tác phòng chống tham nhũng và phải thanh lọc làm sao cho trong sạch nội bộ thì phải chọn đúng người thôi. Ông Trọng trong cương vị Tổng Bí thư thì ông phải làm như thế vì nếu không thì ban lãnh đạo sẽ rối".

Mặc dù Đại tá Bùi Văn Bồng khẳng định công tác tổ chức và công tác cán bộ phải song song với nhau và gắn liền với việc nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng trong tình thế thực tiễn, nhưng Đài Á Châu Tự Do ghi nhận không ít các chuyên gia chính trị đưa ra lập luận việc ban hành khung tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo cấp cao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhằm mục tiêu giải quyết triệt để cuộc tranh giành và đấu đá quyền lực trong nội bộ Đảng cộng sản mà họ cho rằng đang đến hồi gay cấn. Từ Paris, Pháp quốc, cựu Đại tá Bùi Tín nói với RFA quan điểm của ông :

"Tôi nghĩ rằng thì đây có thể là một thủ thuật chính trị, một mưu đồ của ông Trọng để đi tới việc vận dụng những tiêu chuẩn đó nhằm loại bỏ nhóm này hay nhóm khác đang dự định tranh giành cái ghế tổng bí thư mà ông Trọng chỉ muốn duy trì vị trí Tổng Bí thư không những cho đến hết nhiệm kỳ này mà còn sang nhiệm kỳ sau nữa".

Tác động thế nào ?

Trong khi đó, chúng tôi cũng tiếp xúc với người dân khắp các tỉnh, thành Việt Nam để tìm hiểu xem họ đón nhận thông tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành khung tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo cấp cao cũng như phổ biến tin tức liên quan rộng rãi đến công chúng như thế nào và được cho biết họ không lấy làm lạc quan vì trong số khoảng 3 triệu đảng viên, thực chất mấy ai đạt đủ tiêu chuẩn đạo đức căn bản "cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư" ; trái lại họ càng thất vọng do không có niềm tin rằng ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ đủ bản lĩnh và tài đức để làm trong sạch nội bộ Đảng cũng như dẫn dắt quốc gia trở thành đất nước xã hội chủ nghĩa mà chính ông từng tuyên bố "đến hết thể kỷ này không biết Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa".

Những người dân mà Đài RFA tiếp xúc còn than phiền rằng dân chúng tại Việt Nam trong những năm vừa qua ngày càng bi quan hơn về viễn ảnh tương lai của đất nước khi bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng sản cồng kềnh và quan liêu ngày càng lún sâu không những trong tham nhũng tiền bạc, vật chất mà còn tham nhũng quyền lực.

Đài Á Châu Tự Do cũng ghi nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn của Báo điện tử VTC News, đăng tải vào ngày 15 tháng 8, xoay quanh chủ đề công tác phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo đi vào giai đoạn khẩn trương và gấp rút nhất, nhà báo Nhị Lê, Phó Tổng biên tập Tạp chí cộng sản nhắc lại trong giai đoạn cách nay 10 thế kỷ vào thời kỳ Đại Cồ Việt, chỉ có 12 sứ quân đã làm loạn lạc và tan hoang đất nước và nhà báo Nhị Lê nhấn mạnh ông không thể hình dung ra được đất nước sẽ ra sao trong bối cảnh Đảng cộng sản lãnh đạo xuất hiện tới cả hàng chục, thậm chí trăm "sứ quân" là các nhóm lợi ích.

Hòa Ái, phóng viên RFA

Published in Diễn đàn
jeudi, 17 août 2017 21:07

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

Bài 4 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)

 

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

 

cmt8

 

Ghi chú tháng 8/2015

Bài này được viết ra năm 1991, giữa cao điểm của làn sóng dân chủ thứ ba làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới. Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng những nhận định của nó vẫn còn rất thời sự, có lẽ còn thời sự hơn nhiều so với khi được viết ra. Kết luận vào năm 1991 của bài này là thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1945 để đất nước có lối thoát. Mong ước này đã không được toại nguyện, nhưng một thế hệ mới đã xuất hiện được thông tin đầy đủ hơn và với ý thức chính trị rõ rệt hơn. Tiến bộ tuy chậm nhưng có thực.

Đăng lại bài này tôi cũng xin ghi nhận hai thiếu sót :

Một là, tôi đã không nhấn mạnh thiệt hại lớn nhất mà Đảng Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc trong Cách Mạng Tháng 8. Đó là sự tàn sát những người yêu nước trong các đảng phái quốc gia, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Họ là những trí thức yêu nước chân chính duy nhất vào lúc đó. Những người trí thức khác hoặc chỉ học để làm quan hoặc chìm đắm trong thơ văn lãng mạn. Còn những người cộng sản ? Họ đặt lý tưởng cộng sản lên trên dân tộc, họ tranh đấu và hy sinh cho lý tưởng cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế hơn là cho dân tộc. Đó chính là lý do họ chủ trương cuộc kháng chiến võ trang. Đó cũng là lý do khiến họ tàn sát những người yêu nước để giành độc quyền kháng chiến. Những người yêu nước chân chính đã bị tiêu diệt gần hết. Ý chí và tình cảm dân tộc gần như đã bị bẻ gẫy.

Hai là, sự sợ hãi không phải là lý do duy nhất khiến chế độ toàn trị vẫn còn tiếp tục. Một nguyên nhân quan trọng khác là sai lầm phương pháp. Do quen bị áp đặt những lý luận khiên cưỡng một số đông đảo trí thức Việt Nam quay lại ức hiếp trí tuệ của chính mình. Thay vì dựa vào sự hiểu biết và lý luận để rút ra kết luận họ chọn lựa trước những giải pháp tiện lợi hoặc an toàn rồi loay hoay biện hộ cho những lập trường trái ngược với cả thực tế lẫn lý luận đúng đắn. Sự coi thường kiến thức và lý luận này đã khiến nhiều người cố bám vào ảo tưởng có thể cải tổ chế độ qua những yêu cầu và kiến nghị. Nhưng thực tế đã chứng tỏ rằng không một chế độ cộng sản nào có thể cải tổ được và giải pháp duy nhất đối với một chính quyền tham nhũng là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Chúng ta đang có một chế độ cộng sản rất tham nhũng.

NGK

-------------------------------

Trong lịch sử thế giới chưa có chủ nghĩa nào khơi dậy nhiều đam mê và gây ra nhiều xung đột đẫm máu cho nhiều dân tộc bằng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã là một trong những nạn nhân đau đớn nhất. Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất. Ba mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, hàng triệu người thiệt mạng, dân tộc bị chia rẽ trầm trọng. Thành tích của Đảng Cộng Sản Việt Nam tai hại một cách đáng sợ.

cach1

Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất.

Tôi chưa bao giờ bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ cả. Nhưng cộng sản đã chinh phục được những con người tôi rất quí mến. Càng lớn lên tôi càng khám phá ra rằng những trí thức, văn nghệ sĩ mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời niên thiếu phần lớn đã di theo cộng sản và vẫn còn tiếp tục thán phục cộng sản. Từ khi bắt đầu theo dõi hoạt động chính trị, niềm đau lớn nhất của tôi là nhiều bạn bè quí mến nhất của tôi lần lượt ngả theo cộng sản. Cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Ghê gớm đến nỗi nhiều trí thức lỗi lạc mặc dầu đã hiến trọn cuộc đời cho cộng sản để chỉ được một chỗ đứng chầu rìa bạc bẽo, mặc dầu phải chứng kiến những tội ác kinh khiếp của nó, vẫn không thể dứt bỏ nó. Sức thu hút mãnh liệt ấy bắt đầu từ một biến cố trọng đại rồi cứ trên đà đó mà tiếp tục. Biến cố trọng đại đó là Cách Mạng Tháng Tám.

"Bài học 45" là điều được những người chống cộng nhắc đi nhắc lại nhiều nhất. Trong những công kích gần đây nhắm vào chủ trương "hòa giải và hòa hợp dân tộc" của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "bài học 45" cũng được viện dẫn nhiều nhất. Người ta phê phán chúng tôi là không thuộc lịch sử, không biết "bài học 45". Có lần Trần Thanh Hiệp nhăn mặt vì giận dữ nói với tôi : "Làm sao người ta có thể tưởng tượng là mình không biết đến những sự kiện tầm thường như vậy được nhỉ ?".

Tựu trung "bài học 45" được viện dẫn và lý luận như thế này : "Vào những năm 1945-1946, phe Quốc Gia có lực lượng mạnh, có thể thắng được Cộng Sản nhưng vì đã ngây thơ, cả tin vào cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản rồi bị lường gạt và tiêu diệt. Bài học cay đắng đó chứng tỏ rằng thỏa hiệp vời cộng sản là chết. Vì vậy những kẻ còn nói chuyện thỏa hiệp, liên hiệp, hòa giải, v.v. với cộng sản chỉ có thể hoặc ngây thơ, ấu trĩ, hoặc tay sai cộng sản, hoặc cộng sản trá hình".

Cái nhìn này được rất nhiều người chia sẻ. Nó đã trở thành một phần của ký ức tập thể.

Suy nghĩ và hành động của chúng ta lệ thuộc rất nhiều ở ký ức tập thể. Khi ký ức tập thể sai thì những phân tích và kết luận khó có thể đúng. "Bài học 45" đã được ghi nhận như thế trong ký ức tập thể của chúng ta. Nhìn lại giai đoạn 1945-1946 vì vậy là điều cần thiết.

Trái với khẳng định của nhiều người, vào thời điểm 1945, phe quốc gia không mạnh, cũng không yếu, mà phải nói là không đáng kể, trong khi đảng cộng sản đã bành trướng khắp nơi và đã nắm trọn được tình hình.

Cán cân lực lượng ngay từ lúc đầu đã lệch hẳn về phía cộng sản. Nhượng Tống, sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuốn hồi ký Nguyễn Thái Học của ông, cho biết rằng khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập cuối năm 1927 thì Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền thân của đảng cộng sản, thành lập năm 1925, đã có cơ sở ở khắp nơi và Việt Nam Quốc Dân Đảng không thể nào cạnh tranh được với họ. Nhờ hoạt động táo bạo, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phát triển nhanh trong vòng hai năm, và được cả nước biết đến và hưởng ứng sau cuộc khởi nghĩa liều lĩnh tháng 2-1930. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phải trả bằng tính mạng của chính mình cho uy tín này. Toàn bộ ban lãnh đạo bị tiêu diệt, một số nhỏ trốn thoát dang Trung Hoa. Những đảng viên còn lại trong nước như rắn không đầu không liên lạc được với nhau nữa và cũng không biết phải làm gì, lại bị truy lùng ráo riết nên hoàn toàn tê liệt, cái uy tín có được đã không khai thác được. Đến năm 1931, khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên kiên cường không kém và cũng bị đàn áp dã man không kém cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì đảng cộng sản cũng chiếm được tình cảm của quần chúng ngang hàng với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ khác một điều là cơ cấu của họ vẫn còn và họ khai thác được cảm tình này để thu hút quần chúng trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng đã gục ngã.

Nhìn lại thập niên 1930, người ta phải ngỡ ngàng về sự ủy mị của trí thức Việt Nam lúc đó. Sau hai cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, bên lề những biến động lớn của thế giới, thanh niên Việt Nam tại các thành phố vẫn chỉ biết mê mải đèn sách với mộng ra làm quan hay đắm chìm trong một phong trào lãng mạn rất khó hiểu. Oái oăm thay, thập niên 1930 lại được coi như là thời đại vàng son của tiểu thuyết, thơ tình, nhạc ướt át, tranh ấn tượng. Những người cộng sản ít ra đã không trùm chăn nằm ngủ trong giai đoạn này, sự dũng cảm của họ không thể chối cãi được. Sau Cách Mạng Tháng Tám, trí thức Việt Nam ngỡ ngàng tỉnh dậy, hổ thẹn vì sự hèn nhát của mình và bị thôi miên bởi sự dũng cảm của người cộng sản, từ đó về sau nhiều người đã phục tùng họ một cách không điều kiện.

Một bước ngoặc quan trọng đã làm cho thế thắng của đảng cộng sản không thể đảo ngược được là giai đoạn 1936-1938 khi Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) lên nắm chính quyền tại Pháp. Mặt trận này là một liên hiệp giữa Đảng Xã Hội Pháp và Đảng Cộng Sản Pháp, và vì vốn chống chính sách thuộc địa nên đã dành nhiều dễ dãi cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam. Đảng cộng sản đã chụp lấy cơ hội để hoạt động và phát triển công khai trong khi những cơ sở còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn chỉ giới hạn trong một vài hoạt động bí mật. Đảng cộng sản vì vậy đã độc chiếm được cuộc đấu tranh giành độc lập. Họ đã phối hợp được hoạt động bí mật với hoạt động công khai, đã xây dựng được cơ sở ở khắp nơi, đã có cơ quan ngôn luận, đã len lỏi và khuynh đảo được nhiều tổ chức nghiệp đoàn và hiệp hội, đã chủ động được nhiều cuộc đình công và phá hoại, gây tiếng vang và phấn khởi ở khắp nơi. Khi Thế chiến II bùng nổ và Nhật vào Đông Dương, họ là tổ chức tranh đấu duy nhất thực sự có hoạt động. Thế ưu thắng áp đảo của họ cứ thế mà tiếp tục. Nạn đói 1945, trong đó hàng triệu người bị chết, đã đem lại cho khẩu hiệu xóa bỏ giàu nghèo của cộng sản một hấp lực ghê gớm. Phẩm giá và mạng sống của người nghèo lúc đó không bằng chén gạo, củ khoai. Hấp lực của cộng sản còn đi xa hơn thế nữa, nó còn buôn bán cái ảo tưởng là những người vô học cũng có thể là những cấp lãnh đạo. Chính cái ảo tưởng đó đã làm say sưa nhiều người mộc mạc đến độ họ sẵn sàng chết cho đảng. Nhưng cũng chính cái ảo tưởng đó đã khiến cho sự dốt nát ngự trị trong chính quyền cộng sản và đập phá đất nước cho đến ngày nay.

Tương quan lực lượng đã như vậy, về đường lối thì sao ?

Người ta trông đợi rất nhiều ở nhóm Phong Hóa Ngày Nay, đặc biệt là ở ông Nguyễn Tường Tam và người em xuất chúng của ông là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Họ được coi là những nhà trí thức lỗi lạc nhất lúc đó. Đảng Đại Việt Dân Chính của họ ra đời năm 1943 với một cương lĩnh mà ông Nguyễn Tường Bách, em ruột của hai ông Tam, Long và cũng là một nhân vật cốt cán của Đại Việt Dân Chính, đánh giá như sau : "đó là một sự kết hợp hỗn tạp của chủ nghĩa quốc gia trong đó có thành phần của chủ nghĩa Tam Dân, lại có cả thành phần của chủ nghĩa phát xít", ông Bách nhận định : "cái cương lĩnh hỗn tạp ấy dĩ nhiên không thể lôi kéo được quần chúng". Đó là tư tưởng của nhóm trí thức sáng giá nhất lúc đó. Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng vẫn không có đường lối nào rõ rệt cả. Sau này Đại Việt Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và các ông Tam, Long, Bách trở thành những nhân vật cốt cán của Việt Nam Quốc Dân Đảng, ta có thể hiểu rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành cái "cương lĩnh hỗn tạp" đó. Vào thời điểm này, con người đầu tư vào tư tưởng nhiều nhất là ông Lý Đông A, nhưng luận thuyết của ông không phải là một cương lĩnh chính trị, nó chỉ giới hạn ở lý thuyết và lại mang nhiều ngộ nhận về mặt triết lý và ngôn ngữ. Vả lại Đảng Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A không phát triển trong quần chúng, không đóng vai trò đáng kể nào trong những năm 1945/1946 cả.

Tư tưởng chỉ đạo đã như vậy, chiến lược của phe quốc gia lại quá nông cạn. Đa số các tổ chức ra đời lúc đó trông đợi ở Nhật đánh đổ Pháp và trao quyền cho họ. Họ không nhận ra một số sự thật hiển nhiên là Nhật không thể đánh đổ Pháp ; Chính quyền Đông Dương của Pháp lúc đó phục tùng chính phủ Vichy, đồng minh của Đức, mà Đức lại là đồng minh của Nhật, nên Nhật không thể có ý định đánh đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Vả lại Nhật còn nhiều vấn đề cấp bách khác cần phải đối phó hơn là đuổi Pháp để trao trả độc lập cho Việt Nam. Họ còn cần Pháp giữ gìn anh ninh trật tự, bảo đảm hậu cần cho họ tại Việt Nam. Pháp đã chấp nhận như vậy và đó là tất cả những gì Nhật muốn. Kiến Quốc Quân của Việt Nam Quang Phục Hội đã phải trả cái giá vô cùng đắt cho lòng tin ở Nhật, nhưng các đảng phái quốc gia vẫn chưa vỡ mộng, hoặc vỡ mộng nhưng không nhìn thấy đường lối nào khác. Nhật chỉ đảo chính Pháp khi quốc xã Đức đã đầu hàng và chính quyền thuộc địa Pháp sắp ngả theo phe Đồng Minh, nhưng lúc đó Nhật cũng đã tuyệt vọng và không còn nhờ cậy được nữa. Đến khi Nhật đã thua rõ rệt, các nhóm quốc gia lưu vong lại ngả sang nương tựa Tưởng Giới Thạch.

Đường lối và chiến lược bao giờ cũng là căn bản khởi đầu của mọi cuộc đấu tranh chính trị. Các đảng phái quốc gia đã thiếu đường lối và không có chiến lược chung nên đã không kết hợp được. Người ta nói nhiều về khủng hoảng lãnh đạo và chê trách các lãnh tụ quốc gia lúc đó là nặng đầu óc lãnh tụ, không ai chịu ai. Nhưng đó chỉ là hiện tượng ngoài mặt, lý do căn bản là phe quốc gia đã thiếu đường lối và chiến lược. Khủng hoảng lãnh đạo là hậu quả tất nhiên của khủng hoảng về lập trường.

Tổ chức rời rạc, đường lối không có, chiến lược cũng không, các phe phái quốc gia nhỏ bé hoàn toàn rối loạn. Đầu năm 1945 cộng sản, dưới danh nghĩa Việt Minh, đã kiểm soát được tình hình.

Ông Trần Trọng Kim, thủ tướng chính phủ Nam Triều thành lập tháng 4/1945, một tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhận định trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi như sau : "Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá huyện kia, lính Bảo An ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn nhưng cũng không chống lại nữa" ; tại miền Bắc, khâm sai Phan Kế Toại "sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức". Đến gần ngày Nhật đầu hàng, ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế của chính phủ Trần Trọng Kim, đề nghị "phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi để cho họ làm việc may ra họ cứu được nước". Ông Hồ Tá Khanh không hề có cảm tình nào với Việt Minh cả.

Việt Minh không hề giấu giếm là sẽ dùng bạo lực để nắm chính quyền một mình vì lúc đó họ thấy mình là lực lượng duy nhất. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc, bí mật tiếp xúc với họ xin thỏa hiệp, họ chỉ cử một "thiếu niên" (theo lời ông Trần Trọng Kim) tới gặp. Thiếu niên này không thèm xưng cả tên tuổi, chỉ nói thẳng cho ông Trần Trọng Kim hay là họ không cần hợp tác với ai cả, họ sẽ cướp toàn bộ chính quyền bằng võ lực dù cho nhân dân có mười phần chết chín đi nữa. Ông Trần Trọng Kim gởi hai bộ trưởng Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào Nam để vận động các nhân sĩ, cả hai ông đều bị Việt Minh bắt giữ trên đường đi. Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ.

Ngay khi Nhật đầu hàng, ngày 14/8/1945, Việt Minh lập tức khởi nghĩa làm chủ tình hình khắp nơi, tới ngày 19/8/1945 họ huy động dân chúng xuống đường tràn ngập các cơ quan và nắm chính quyền tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ họ đã có kế hoạch chu đáo. Ngày 25/8, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9, ngày Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng cũng là ngày Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công bố nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Các đảng phái quốc gia hoàn toàn vắng mặt.

Tháng 10/1945, quân Trung Hoa tiến vào Việt Nam, đem theo một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách). Nhờ sự che chở của quân Trung Hoa, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách bắt đầu công khai hoạt động, đả kích Việt Minh, đòi chia quyền. Báo Việt Nam của Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu đả kích cộng sản mạnh mẽ, Việt Cách lập được một trụ sở và một loa phóng thanh ở đường Quan Thánh. Trong hồi ký Những Ngày Chưa Quên ông Đoàn Thêm thuật lại là các buổi phát thanh của Việt Cách mới đầu lôi kéo cả ngàn người, nhưng càng về sau càng thưa thớt. Trần Thanh Hiệp có mặt tại trụ sở Quan Thánh trong suốt giai đoạn này cũng nhìn nhận như vậy. Ảnh hưởng của phe quốc gia chỉ giới hạn ở trong một vài khu phố tại Hà Nội, ra ngoài các khu này họ có thể bị bắt và bị thủ tiêu dễ dàng. Ngoài Hà Nội, các cán bộ phe quốc gia bị phát hiện sẽ bị thủ tiêu ngay. Người ta nói nhiều đến các chiến khu của phe quốc gia ở phía Bắc Hà Nội, nhưng mọi nhân chứng trong thời gian đó đều xác nhận đó chỉ là những thị xã hoàn toàn bị cô lập. Quân quốc gia ở đó trong đại bộ phận là các toán lính khố xanh của Pháp trước đây bơ vơ sau ngày Nhật đảo chính và được các lãnh tụ phe quốc gia kết nạp trên đường theo quân Trung Hoa về Hà Nội. Mỗi thị xã chỉ có vài chục tay súng và bị quân du kích Việt Minh vây kín. Sau này, khi các cấp lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng theo quân Trung Hoa rút về nước thì khi họ triệt thoái khỏi nơi đâu các thị xã lọt vào tay Việt Minh tới đó. Tất cả bị xóa bỏ trong vòng vài ngày.

Một số người quốc gia mong đợi quân Trung Hoa đánh dẹp Việt Minh giùm mình. Cũng may cho họ mà sự kiện này không xảy ra, nó không đem lại cho họ chính quyền mà chỉ khiến họ trở thành những kẻ phản quốc. Dù quân Trung Hoa có ra tay đánh Việt Minh chăng nữa, họ cũng chỉ có thể đẩy quân Việt Minh ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng mà thôi, phần còn lại của cả lãnh thổ vẫn ở trong tay Việt Minh. Các tướng Trung Hoa biết như vậy nên mặc dầu họ không ưa Việt Minh và muốn bênh vực phe quốc gia, họ chỉ có thể làm áp lực để Việt Minh nhượng bộ phe quốc gia được phần nào hay phần ấy.

Chính do áp lực của quân Trung Hoa mà đầu tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã phải nhượng bộ giải tán chính phủ mà ông đã thành lập từ 6 tháng trước và chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp với sự tham dự của những bộ trưởng thuộc các đảng phái quốc gia hay không có đảng phái. Vì Việt Minh đã làm chủ tình hình nên chính phủ này hoàn toàn không có một thẩm quyền nào cả. Ông Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội Vụ) tâm sự với ông Trần Trọng Kim rằng mọi quyết định đều do địa phương, ông không làm gì cả, còn ông Nguyễn Tường Tam thì nói rằng hồ sơ Bộ Ngoại Giao của ông chỉ có ba lá đơn của người Tàu nhờ tìm nhà và tìm hộ cái ví bị mất cắp. Khi quân Trung Hoa sắp rút đi, ông Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch chính phủ, bỏ nước sang Tàu. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đó cũng theo đường Việt Trì, Yên Bái chạy sang Trung Hoa. Chính phủ liên hiệp tan rã sau bốn tháng. Từ đó Việt Minh thẳng tay tàn sát đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Chính phủ liên hiệp tháng 3/1946 dầu sao cũng đã có một tác dụng tốt cho phe quốc gia, nhờ đó mà các cán bộ phe quốc gia không bị tàn sát thẳng tay trong vài tháng. Sau này tôi có dịp nói chuyện nhiều lần với ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhân vật quan trọng nhất của phe quốc gia lúc đó. Ông Khanh nói rằng nhờ có chính phủ liên hiệp mà nhiều đồng chí của ông đã có thì giờ trốn thoát hoặc sang Trung Hoa, hoặc sang những địa phương khác nếu không thì đã có thể bị tàn sát hết. Tôi nghe rất nhiều người chê ông Vũ Hồng Khanh là dở. Ông Vũ Hồng Khanh quả nhiên không phải là người lãnh đạo xuất sắc, ông kém về nhiều mặt, nhưng ông hơn đa số những người chê ông. Mỗi lần nghĩ tới ông, tôi lại nhớ tới câu nói của ông Ngô Thời Nhiệm : "gặp thời thế thế thời phải thế".

Sức mạnh của Việt Minh so với phe quốc gia áp đảo đến nỗi cho tới mãi sau này đại đa số những người cộng sản có vai trò quan trọng vào thời điểm Cách Mạng Tháng Tám mà tôi đã được gặp, kể cả những người ngày nay đã thất vọng, chỉ coi các phe phái quốc gia lúc đó như là những bọn phá đám dựa hơi quân Trung Hoa, hay quân Pháp tại miền Nam, để gây khó khăn cho họ. Thái độ của họ, dù thiên vị, cũng phản ánh tương quan lực lượng lúc đó.

Cũng có người hiểu biết hơn, nhìn nhận rằng sau Cách Mạng Tháng Tám, phe quốc gia đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng lại chê nội các Trần Trọng Kim là hèn nhát đã đầu hàng Việt Minh và đã để cho Việt Minh chiếm cả nước, nhờ thế mới tạo được sức mạnh. Ông Trần Trọng Kim trả lời rằng những người này ở ngoài cuộc nên không biết rằng lúc đó nội các của ông không làm được gì khác hơn là đầu hàng. Trần Trọng Kim đã hỏi người chỉ huy Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến, đạo quân nòng cốt của chính phủ, và đã được người chỉ huy trả lời rằng cá nhân ông ta sẵn sàng chống lại Việt Minh, nhưng quân của ông ta thì không có gì bảo đảm. Các đội quân giữ kinh thành cũng đều đã ngả theo Việt Minh hết. Quân Nhật lúc đó có đề nghị dẹp quân Việt Minh giùm cho chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng ông Trần Trọng Kim đã từ chối vì thấy như vậy chỉ gây đổ máu vô ích. Quyết định của chính phủ Trần Trọng Kim là một quyết định sáng suốt của những người có lòng yêu nước và hiểu tình thế.

Cách Mạng Tháng Tám đã là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nước ta. Kể từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ năm 1863, nước ta đã mất chủ quyền hết thảy 82 năm. Chúng ta đã tủi nhục vì ngoại thuộc trong suốt thời gian đó. Nhưng tủi nhục nhất là năm năm sau cùng. Trước đó chúng ta bị một cường quốc đô hộ nhưng từ năm 1940 trở đi khi Pháp đã bị Đức đánh bại, chúng ta bị một nhóm người Pháp đã mất nước, đã đầu hàng chế ngự và chà đạp mà không làm gì được. Đáng tủi nhất là đám thực dân đã mất nước này chẳng đông đảo gì. Sở dĩ họ đã đứng vững được là vì đã có những người Việt Nam tiếp tay cho họ. Mỉa mai thay, những người này về sau lại là rường cột của các chính quyền được gọi là quốc gia. Chưa bao giờ nước ta nhục đến thế. Ngày 19/8/1945 đã là ngày người Việt Nam đứng dậy, xác nhận nước Việt Nam cũng là một quốc gia như các quốc gia khác và người Việt Nam cũng là những con người như những con người khác trên thế giới.

Người cộng sản đã không cướp đoạt Cách Mạng Tháng Tám của ai. Họ đã chuẩn bị nó, tổ chức thành công nó sau khi đã chấp nhận muôn ngàn thử thách cho nó. Người cộng sản đã chịu phần hy sinh chính trong suốt khoảng thời gian 1931/1945. Máu người cộng sản đã đổ ra nhiều nhất và trong các nhà tù chính trị, tù nhân cộng sản đông gấp ba bốn lần tù nhân của tất cả các đảng phái quốc gia cộng lại. Người cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo một mình cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam trong Cách Mạng Tháng Tám. Họ xứng đáng được hưởng trọn vẹn vinh quang của Cách Mạng Tháng Tám.

Nhưng những nhân chứng của Cách Mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với những phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết này tuy nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách Mạng Tháng Tám, bởi vì bạo lực đã là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lực này đã tàn sát hàng trăm ngàn người yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của tổ quốc đáng lẽ phải được tôn vinh nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản.

Tôi phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước và sau Cách Mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì được họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập, và có lẽ còn thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc gia. Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong Cải Cách Ruộng Đất, như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền Nam sau ngày 30/4/1975, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ là giành độc lập mà là giành độc lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước nhưng họ không phải chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước khi yêu nước.

Cuốn Thời Dựng Đảng của đảng cộng sản viết về ông Hồ Chí Minh như sau : "các chế độ đời đời nhớ ơn bác Hồ trước hết là người đã truyền bá chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam". Ngày nay khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiện hình trung thực dưới mắt mọi người và mọi dân tộc như một lầm lẫn tai hại thì những đam mê mà nó khơi dậy bỗng nhiên trở thành kệch cỡm một cách đáng thương và những tội ác mà người ta đã phạm nhân danh nó chỉ còn là một sự đần độn đẫm máu.

Nhưng tại sao "bài học 45" đã đi vào ký ức tập thể của những người chống cộng một cách sai lầm ?

Sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp đã theo quân Anh trở lại Việt Nam và họp lập tức nổ súng chiếm lại các tỉnh phía Nam. Ngày 19-12/1946, chiến tranh thực sự bùng nổ tại miền Bắc và quân Pháp mau chóng chiếm được các thành phố. Đánh chiếm đến đâu, người Pháp lập các cở cấu cai trị đến đó. Năm 1947, họ gộp các cơ cấu này trọng một "chính phủ quốc gia Việt Nam" do một thiếu tướng quân đội Pháp gốc Việt là Nguyễn Văn Xuân cầm đầu. Nguyễn Văn Xuân trước đó một năm đã từng được Pháp cử làm phó chủ tịch "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu trong một âm mưu tách rời miền Nam khỏi Việt Nam. Âm mưu này thất bại và đã đưa đến cái chết trong ân hận của Nguyễn Văn Thinh nhưng cũng đã giúp cho Nguyễn Văn Xuân được Pháp thăng chức lên thiếu tướng. Chính phủ này là một sản phẩm của Pháp, gồm những người đã làm việc cho Pháp và đi lính cho Pháp. Năm 1948, chính phủ này được bàn giao cho Bảo Đại sau Hiệp ước Elysée ; nó được sự tham gia của một số nhân vật thuộc phe quốc gia trước đây. Nhưng nó hoàn toàn không dính dáng gì với phe quốc gia trước đây mà chỉ là sự tiếp nối của chính quyền thuộc địa Pháp. Các đảng phái quốc gia cũ vẫn tiếp tục bị ngược đãi ngay dưới các chính quyền quốc gia sau này. Gia đình tôi quen biết hai người bị kết án tù chung thân và bị đày ra Côn Đảo sau cuộc đảo chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Họ chỉ được phóng thích năm 1955, nghĩa là 7 năm sau các chính quyền gọi là quốc gia được thành lập và sau 25 năm tù đày vì "hạnh kiểm tốt". Ông Nguyễn Viết Nguyên, trưởng ban binh bị của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, cũng ở trong một trường hợp tương tự. Ông mất cuối năm 1960. Các đồng chí của ông không được chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép làm tang lễ. Họ phải dọa nếu bị cấm sẽ bỏ quan tài ở giữa đường rồi giải tán, chính quyền Ngô Đình Diệm mới nhượng bộ. Trên đường đưa thi hài người anh hùng dân tộc đó đến nơi an nghỉ cuối cùng, cảnh sát đứng gờm gờm hai bên đường sẵn sàng can thiệp.

Tình thế đã thay đổi, độc lập đã trở thành một mục tiêu không thể chối cãi được, các ông quan lại, sĩ quan và cai đội thời Pháp thuộc bỗng dưng trở thành những người lãnh đạo cuộc tranh đấu "chống cộng để bảo vệ chính nghĩa quốc gia". Họ cần hạ uy tín của những người lãnh đạo phe quốc gia cũ, vì dầu sao đi nữa những người này cũng là những người yêu nước hơn họ, chống cộng hơn họ, và chính đáng hơn họ ngàn lần trước dân tộc và lịch sử. "Bài học 45" đã được chế tạo ra như vậy và cho mục đích đó. Dần dần vì được nhắc đi nhắc lại, nó đi vào ký ức tập thể của phe chống cộng. Nhồi sọ và xuyên tạc lịch sử không thuộc độc quyền của phe cộng sản.

Sau cùng, nếu cần rút ra bài học của Cách Mạng Tháng Tám ?

Trước hết, những gì đã xảy ra vào giai đoạn 1945-1946 không chứng tỏ rằng các lãnh tụ phe quốc gia đã dại dột khi liên hiệp với cộng sản. Chính phủ liên hiệp đã có lợi cho phe quốc gia. Nó đã cho phe quốc gia một thời gian tương đối yên ổn để hoạt động và tranh thủ quần chúng. Nhưng thời gian này quá ngắn để phe quốc gia có thể khai thác để thay đổi một tương quan lực lượng quá chênh lệch.

Giai đoạn 1945-1946 cũng không chứng tỏ rằng liên hiệp với cộng sản là chết. Trước đó cũng như trong lúc đó và sau đó đã có nhiều chính phủ liên hiệp tại nhiều quốc gia nhưng không phải phe cộng sản lúc nào cũng thắng, trái lại họ đã bại nhiều hơn thắng. Một chính phủ liên hiệp giữa hai phe không thể sống chung với nhhau chỉ tạo ra một tình huống mới và phe nào có tư thế để vận dụng được tình huống đó thì phe đó sẽ thắng.

"Bài học 45" thực sự là một cơ hội chỉ là một cơ hội cho những ai đã tiên liệu nó, đã chuẩn bị cho nó, đã chờ đợi nó. Người Việt Nam nào, nhất là người Việt Nam không cộng sản, không thấy tủi hổ là sau những hy sinh cao cả của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như suốt thập niên 1930, đa số trí thức Việt Nam đã trùm chăn hưởng thụ, đã say mê những câu thơ lãng mạn, trong khi thế giới biến động mạnh và bất ổn tại châu Âu là điều có thể nhìn thấy và tiên liệu dễ dàng. Việt Nam đã không chuẩn bị cho cơ hội 1940 và đã không chuẩn bị kịp cho cơ hội 1945, vì thế Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay. Trong chiều sâu, dân tộc nào không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình.

Mười sáu năm đã trôi qua kể từ ngày cả nước qui về một mối dưới chế độ cộng sản. Nếu các lực lượng dân chủ tiến bộ thực tâm chuẩn bị nghiêm túc thì chúng ta đã có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta không nhìn thấy những cơ hội đó. Chúng ta đã lãng phí thời giờ và nghị lực vào những hành động hời hợt và giả tạo chỉ có tác dụng làm thuốc tê cho cơn đau mất nước và làm thuốc an thần cho sự tuyệt vọng ngự trị trong lòng. Chúng ta đã không hình thành được một lực lượng có tầm vóc nào mà cũng chưa đạt tới đồng thuận về một đường lối đấu tranh nào. Nếu có cơ hội cứu nước thì với thực trạng hiện nay chúng ta cũng không có khả năng để chụp lấy.

Chuẩn bị cho một cuộc đổi đời và đổi chế độ là một việc phải làm âm thầm và kiên nhẫn từ lâu trước khi cơ hội tới. Phe quốc gia không chuẩn bị trong những năm 1930 nên đã không nắm được cơ hội 1940, và vì mới bắt đầu chuẩn bị từ 1940 trở đi nên đã không đúng hẹn với cơ hội 1945. Năm 1947, Việt Minh đã mất rất nhiều uy tín, nhân dân đã vô cùng bất mãn sau hai năm chịu đựng chính sách khủng bố thô bạo và chờ đợi một giải pháp mới nhưng vì không có một lực lượng dân tộc nào cả nên đã chỉ có giải pháp Bảo Đại. Năm 1954, khi Pháp đã bại trận và người Việt Nam có thể thực sự làm chủ được vận mệnh của mình thì cũng vì không có chuẩn bị nghiêm túc nào cả lại chỉ có Ngô Đình Diệm, con người đã từng hợp tác với Pháp, với Bảo Đại, đã đi đêm với Nhật và đã tiếp tay đắc lực đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng khi đang làm quan. Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ cũng chỉ có các tướng tá mà một phần khá lớn xuất thân từ hàng ngũ quân đội Pháp. Cuối cùng Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.

Trong công tác chuẩn bị, điều quan trọng nhất là chuẩn bị về tư tưởng. Một phong trào hành động luôn luôn phải được một trào lưu tư tưởng đi trước. Bởi vậy, đối thoại và thảo luận bộc trực là điều chúng ta không thể tiết kiệm. Và có lẽ trong khi chúng ta thẳng thắn trình bày những khác biệt chúng ta sẽ nhận ra là những khác biệt ấy không quan trọng lắm. Lúc đó chúng ta có thể nghĩ đến kết hợp. Chỉ có thể có kết hợp hành động giữa những con người đồng ý với nhau về mục tiêu phải đạt tới và về con đường phải đi.

Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng là niềm tin bởi vì không thể có thắng lợi nếu không có lạc quan. Niềm tin này có ba vế : tin ở sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản để mạnh dạn vượt lên trên những lô gích cũ, những lằn ranh cũ ; tin ở thế tất thắng của dân chủ để dứt khoát từ bỏ những tâm lý và phương pháp lỗi thời và hành động như những người dân chủ chân chính ; tin ở thiện chí của nhau để đừng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và hoảng hốt coi những người khác lập trường với mình là phản bội.

Đảng cộng sản đã tiêu xài hết vốn liếng của họ. Vai trò lịch sử của họ đã hết. Trước những vấn đề lớn của đất nước họ không còn là giải pháp mà là chướng ngại. Hàng ngũ của họ đang tan rã. Những con người từ những quá khứ xung đột đang nhìn cùng về một hướng và hướng đó không phải là hướng Mác-Lênin.

Như một trái cây đã chín, chế độ cộng sản sắp rụng. Nó có thể rụng vì bị rung cây, nó có thể rụng vì một cơn gió nhẹ và nó cũng có thể rụng vì đã quá chín dưới trọng lượng của chính nó. Đất nước này cần một giải pháp thay đổi. Chúng ta đang có cơ hội, tiếc rằng chúng ta đã không đủ chuẩn bị. Nhưng cơ hội vẫn còn đó và vẫn chờ đợi chúng ta.

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám trước hết là để tái lập một sự thực lịch sử và để có thể rút ra những bài học xác đáng. Nhưng cũng có một lý do khác thúc đẩy tôi viết bài này. Đó là một sự tương đồng giữa thời lỳ 1940-1945 và tình hình hiện nay. Năm 1940 Pháp đã bị bại trận, đã hoang mang và rã rượi, mà chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục một cách hung bạo bởi vì người Việt Nam, trừ người cộng sản, đã không chuẩn bị trước để nắm lấy cơ hội. Ngày nay hệ thống cộng sản đã sụp đổ, các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những đứa con côi của một sự phá sản ; không còn người Việt Nam nào, ngay cả những người trong guồng máy cộng sản, muốn chế độ này tiếp tục nữa, nhưng nó vẫn còn đó do quán lực của quá khứ. Quán lực này có một tên gọi : đó là sự sợ hãi. Sợ hãi cho tương lai mình trong một chế độ mới hay sợ hãi một bạo lực đang hấp hối. Chúng ta sẽ đánh bại được chế độ độc tài này nếu tháo gỡ được quán lực ấy. Lịch sử sẽ khai thông ngay vào lúc không còn ai sợ hãi nữa, và lịch sử sẽ thuộc về những ai tìm được giải pháp an toàn và danh dự cho tất cả mọi người.

Thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1940.

Nguyễn Gia Kiểng

(Thông Luận số 41, tháng 9/1991)

Đọc thêm :

Một hồ sơ về thảm họa dân tộc

Bài 1. Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách Mạng

Bài 2. Nghĩ về một cơn điên của thế giới

Bài 3. Nhìn lại chủ nghĩa Mác-Lênin

Bài 4. Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

Bài 5. Cuộc chiến đấu thực sự

Khai sáng kỷ nguyên thứ hai

Published in Quan điểm

Chúng ta cần nhớ về một sự kiện lịch sử xảy ra cách đây 72 năm và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài đến tận ngày hôm nay : Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Theo những gì mà chúng ta được biết thì đó là ngày Việt Nam giành được độc lập, kết thúc hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ và hai nghìn năm phong kiến. Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy và cướp được chính quyền từ tay ‘Đế quốc Việt Nam’ do ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng dưới sự bảo hộ của Đế quốc Nhật Bản vừa bị quân đồng minh đánh bại trong Chiến tranh Thế giới lần Hai. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn buộc phải thoái vị đánh dấu cho sự chấm hết của chế độ phong kiến tại Việt Nam.

Cách mạng tháng 8 đã diễn ra trong một khí thế hừng hực với lòng mong muốn độc lập-tự do của người dân Việt Nam dâng cao ngút trời. Đảng cộng sản (Việt Minh) dù lực lượng không lớn, chỉ vài trăm người với kiến thức thô sơ và rất ít vũ khí nhưng vì là lực lượng duy nhất có tổ chức vào lúc đó nên họ đã nhanh chóng áp đảo được các tổ chức khác và dành được chính quyền trong hòa bình.

cmt81

Cách mạng tháng 8 năm 1945

Hơn 70 năm trôi qua, và đến giờ, có lẽ đa số người Việt Nam đã nhận ra rằng cuộc Cách mạng Tháng 8/1945 đáng lẽ phải mở ra một thời kỳ độc lập và phát triển cho đất nước, Việt Nam hoàn toàn có thể sánh vai với các nước trong khu vực và không đến nỗi tụt hậu bi đát như bây giờ thì tiếc thay, một cơ hội lớn đã bị bỏ lỡ và một thảm kịch, một đại nạn chưa từng có trong lịch sử dân tộc đã bắt đầu từ ngày đó.

Nhìn vào chính trường Việt Nam ngày hôm nay chúng ta có thể cảm nhận một cơn giông bão đang vần vũ báo hiệu cho một cuộc cách mạng sẽ nổ ra, một sự thay đổi bắt buộc phải đến trước khi Việt Nam sụp đổ hoàn toàn. Cuộc cách mạng sắp đến sẽ như thế nào ? Nó sẽ mang đến một cơ hội, một vận hội mới cho đất nước hay tiếp tục mở ra một thảm kịch mới ? Phải làm gì để lịch sử đau thương không tái hiện ?

Một nhà nghiên cứu công phu và có chiều sâu về cuộc Cách mạng tháng 8/1945 chính là ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông đã viết nhiều bài viết sâu sắc về chủ đề này và một trong số đó là bài ‘Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách mạng’ (1). Với bản thân người viết thì cách giải thích của ông về sự kiện này là hoàn toàn thuyết phục. Ông đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi ‘Vì sao biến cố lịch sử đó đã xảy ra và đã xảy ra như thế ?’

Nguyên nhân lớn nhất khiến Cách mạng tháng 8 trở thành thảm kịch cho dân tộc Việt Nam đó là vì chúng ta thiếu hụt trầm trọng về ‘tư tưởng chính trị’, người dân và trí thức Việt Nam đã không chuẩn bị về tư tưởng, đội ngũ nhân sự chính trị để đón nhận sự thay đổi vì thế đảng cộng sản Việt Nam, với tư tưởng độc hại là chủ nghĩa Mác-Lênin đã cướp được chính quyền và độc chiếm Việt Nam từ đó đến nay.

AAMT001050

Cách Mạng Tháng 8 sẽ mang đến một cơ hội, một vận hội mới cho đất nước hay tiếp tục mở ra một thảm kịch mới ?

‘Nhìn lại giai đoạn Cách Mạng Tháng 8, chúng ta không thấy một nhà tư tưởng nào và cũng không thấy một người nào chứng tỏ sự hiểu biết tạm được về những triển vọng và nguy cơ đang chờ đợi đất nước lúc đó. Chúng ta không hề thấy một dự án chính trị nào. Thanh niên hăm hở lên đường nhưng lên đường để đi đến đâu thì không biết, chỉ tin là "đi hiên ngang tới phương trời tươi sáng". Rất thơ mộng nhưng không phải giải đáp. Thanh niên thế hệ 1945 thực không may. Sự thiếu sót này đến nay hình như vẫn chưa ý thức đầy đủ. Vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng không cần lý thuyết, chỉ cần hành động, không cần nói mà chỉ cần làm. Vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng có thể tranh đấu mà không cần có tư tưởng. Vẫn có những người cho rằng họ có tư tưởng chỉ vì họ không hiểu thế nào là tư tưởng. Và quần chúng, kể cả quần chúng tốt nghiệp đại học, thì nhìn mọi người và mọi tổ chức như nhau’ (1).

Sự thất bại của đảng cộng sản trong việc quản trị đất nước đã quá rõ ràng trong mọi lĩnh vực. Chưa bao giờ quan chức và đảng cộng sản bị người dân coi thường, chế diễu và nhục mạ nặng nề đến như vậy, tuy nhiên để chuẩn bị cho một Việt Nam dân chủ hậu cộng sản thì không phải ai cũng ý thức được là cần làm những gì ? Cần chuẩn bị ra sao ? Đáng lo hơn khi một số người vẫn không biết, không hình dung ra được tương lai hậu cộng sản sẽ như thế nào ? Họ vẫn không thấy, không biết và không ủng hộ cho bất cứ một lực lượng hay một tổ chức chính trị dân chủ đối lập nào. Sự thiếu hụt trầm trọng về kiến thức và tư tưởng chính trị này dẫn đến hệ quả là đa số ngồi chờ…sung rụng.

Một số trí thức thì ủng hộ cho các phe phái trong đảng ‘đánh nhau’, người thì ủng hộ ông Trọng, người thì ủng hộ ông Dũng. Trong nhiều trường hợp sự ủng hộ đó rất hài hước, nông cạn và thô thiển. Lại có những người đặt câu hỏi rất ngô nghê rằng ngoài cộng sản ra họ không thấy có ai xứng đáng để lãnh đạo đất nước. Có người thì mong một Gorbachev (phiên bản Việt Nam) xuất hiện, có người thì mong đảng ‘tự thay đổi’…Rất ít người đặt niềm tin vào trí tuệ của người Việt, tin vào những người chưa có ‘thành tích khủng bố’ gì trong quá khứ như đảng cộng sản đã làm ! Có người vẫn cho rằng tư tưởng và lý thuyết không cần thiết, cần làm hơn cần nói nhưng làm gì thì họ không biết.

Việt Nam có thừa trí thức trong mọi lĩnh vực nhưng lại rất thiếu ‘trí thức chính trị’. Ai cũng cho rằng mình biết và hiểu rõ về chính trị nhưng thực tế là họ không biết ngay cả những điều cơ bản nhất. Ví dụ, đấu tranh chính trị luôn là đấu tranh giữa các tổ chức chứ không phải giữa các cá nhân. Điều này dẫn đến việc thay vì thành lập, tham gia và ủng hộ cho các tổ chức chính trị thì nhiều người chọn con đường tranh đấu cá nhân. Cũng vì thiếu kiến thức, nên vẫn có người cho rằng có thể tranh đấu mà không cần tư tưởng, vì thế những người đấu tranh một mình sớm muộn cũng sẽ mất phương hướng, lạc lối, bỏ cuộc hoặc sa lầy vào những tranh chấp, cãi cọ cá nhân đời thường. Những người không biết đặt niềm tin vào ai hoặc các tổ chức đối lập dân chủ vì họ không hiểu rằng ai chiến thắng về tư tưởng thì người đó sẽ chiến thắng trong thực tế, một cuộc ‘vận động tư tưởng’ phải đi trước và dẫn đường cho một cuộc ‘cách mạng dân chủ’ trong tương lai.

‘Hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng’ luôn luôn là trách nhiệm và nghĩa vụ của giới trí thức tinh hoa trong mọi thời đại và trong bất kỳ thời điểm nào của lịch sử. ‘Trí thức bao giờ cũng phải là người phát ngôn của đất nước, tư tưởng của trí thức cũng là tư tưởng của quần chúng’. Rất tiếc là không ít trí thức Việt Nam, vì không có tư tưởng gì nên họ không biết ‘hướng dẫn’ người dân làm cái gì và không biết ‘phát ngôn’ cái gì ngoài việc khuyên nhủ, lên án và chửi bới đảng cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ănghen chủ trương đã được thành lập rất sớm ở Châu Âu sau đó mới được du nhập vào Nga, Trung Quốc và Việt Nam (Đệ nhất Quốc tế được thành lập ngày 28/9/1864), tuy nhiên các đảng cộng sản ở Châu Âu chưa bao giờ dành được chính quyền ở bất cứ đâu bằng con đường danh chính ngôn thuận thông qua các cuộc bầu cử tự do và minh bạch. Lý do khiến các quốc gia ở Châu Âu (trừ nước Nga) đã tránh được thảm họa cộng sản là vì trí thức tại các nước đó đã làm tròn trách nhiệm của mình, họ đã phân tích và lên tiếng cảnh báo cho người dân thấy được sự vô lý, hoang tưởng và độc hại của chủ nghĩa cộng sản. Trong khi đó, tại Việt Nam, trước khi xảy ra Cách mạng tháng 8, thì ngay cả những triết gia nổi tiếng nhất được đào tạo tại Pháp như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường vẫn ủng hộ cộng sản thay vì ủng hộ con đường đấu tranh ôn hòa, bất bạo động của nhà dân chủ đầu tiên của Việt Nam, cụ Phan Chu Trinh.

Ngày hôm nay, sự thiếu hụt về tư tưởng trong giới trí thức Việt Nam vẫn còn đó. Không ít người vẫn ủng hộ chế độ cộng sản dù biết rõ là nó tai hại và đang hủy hoại con người lẫn đất nước Việt Nam. Trí thức Việt Nam vẫn chưa thực sự xem ‘tư tưởng chính trị’ là cần thiết và quan trọng như là kim chỉ nam dẫn đường và hướng dẫn cho một cuộc cách mạng dân chủ trong nay mai. Hay nói như nhà văn Tưởng Năng Tiến trong bài viết ‘Nó rớt rồi sao ?’ rằng người Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị để đón nhận dân chủ :

Cứ theo ý của của ông nhà báo (Ngô Nhân Dụng) (khó tính, khó nết) này thì "lỡ" mai, hoặc mốt, đám lãnh đạo Hà Nội chịu đội nón ra đi thì đến ngày kia (hay ngày kìa) nước Việt vẫn chưa có dân chủ đâu. Còn lâu, lâu lắm, bởi người Việt chưa sẵn sàng để sống trong một thể chế tự do ! Mà cái gì chớ "chuẩn bị" thì e không hợp với cái tạng của một dân tộc vốn chỉ thích (mì) ăn liền.

Không tin, cứ thử đặt một câu hỏi nhỏ (cỡ con thỏ) xem : "Nếu tuần sau nó đổ thì tuần tới nữa hệ thống giáo dục ở Việt Nam có vẫn còn tiếp tục dùng những cuốn sách giáo khoa hiện nay không" ?

Mọi người (trong cũng như ngoài) đều sẽ đỏ mặt lên ngay vì chả ai có thể trả lời được câu hỏi giản dị thượng dẫn, trừ nhà giáo Phạm Toàn và nhóm Cánh Buồm. Ít nhất thì nhóm này cũng không đến nỗi ngượng ngập khi đáp rằng tuy ở vào một hoàn cảnh hết sức khó khăn nhưng họ đã "làm việc thiện nguyện để xây dựng bộ sách giáo khoa làm mẫu theo định hướng hiện đại hóa nền Giáo dục Việt Nam".

Thế còn những nhóm khác ? Hàng tỉ bè nhóm, hội hè, đoàn thể, phe đảng (của những kẻ tị nạn chính trị, sống an ổn bên ngoài đất nước) thì làm gì – hơn bốn mươi năm qua – để chuẩn bị cho một Việt Nam mai hậu (2) ?’

Trong giáo dục, Việt Nam may mắn vì có nhà giáo Phạm Toàn và nhóm Cánh Buồm đã bỏ công sức ra để viết một bộ sách dạy học mới theo tiêu chuẩn hiện đại và khai phóng. Vậy còn trong lĩnh vực chính trị thì sao ? Ngoài Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên với tên gọi ‘Khai Sáng kỷ Nguyên Thứ 2’ thì đã có một tổ chức chính trị nào có được một ‘Dự án chính trị’ nào khác không ? Đã có bao nhiêu trí thức Việt Nam lên tiếng ủng hộ cho Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên ? Những đề nghị trong dự án đó có đúng đắn và khả thi cho Việt Nam hay không ? Ai sẽ ‘thẩm định’ tính khả thi và đúng đắn của các dự án chính trị đó nếu không phải là trí thức Việt Nam ?

Mai này người dân Việt Nam muốn chọn lựa một chế độ chính trị khác ngoài đảng cộng sản ra thì họ biết chọn ai ? Lực lượng hay tổ chức chính trị nào ? Ai sẽ hướng dẫn cho họ ? Làm sao để biết được tổ chức chính trị nào đó tốt hay xấu ? Có viễn kiến hay không ? Trí thức Việt Nam đang làm gì và đang ở đâu ? Bao giờ thì trí thức Việt Nam mới chịu thức tỉnh và lên tiếng ?

Việt Hoàng

(18/8/2017)

  1. https://www.thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/3303-rut-kinh-nghi-m-t-hai-cu-c-cach-m-ng
  2. http://thongluan2016.blogspot.com/2017/03/tuong-nang-tien-no-rot-roi-sao.html
Published in Quan điểm

Ông Trọng vừa ký ban hành quy định của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn các cán bộ cao cấp. Theo đó các cán bộ này phải "tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc và nhân dân"...

loiich1

Theo Quy định của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn các cán bộ cao cấp, cán bộ phải "tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc và nhân dân"

Lãnh đạo nước nào cũng vậy, trước khi nhậm chức phải tuyên thệ trung thành với quốc gia, dân tộc ; tuyên thệ phục vụ vì quyền lợi của dân tộc, của đất nước.

Không có nơi nào như Việt Nam buộc cán bộ cấp cao phải "trung thành với lợi ích của đảng".

"Lợi ích của đảng" là lợi ích của ai mà đứng trên lợi ích của quốc gia, dân tộc ?

Hiến pháp qui định "đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Vấn đề là đảng không có "tư cách pháp nhân".

Hiến pháp qui định "đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân" chớ không qui định đảng chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Khi một chủ thể không chịu trách nhiệm trước pháp luật chủ thể đó không có "tư cách pháp nhân".

Tức là khi chủ trương, đường lối của đảng sai, gây đổ vỡ hay thiệt hại lớn lao cho quốc gia, dân tộc… thì dân lãnh đủ chớ đảng không có trách nhiệm trước pháp luật.

(Cũng như con chó, bản thân nó hay "cắn càn" nên nó có thể gây đổ vỡ thiệt hại cho người khác. Vấn đề là luật pháp không bắt con chó bỏ tù hay buộc nó bồi thường thiệt hại. Đơn giản vì con chó không có "tư cách pháp nhân").

Nếu đảng không có "tư cách pháp nhân" thì làm gì "đảng" có "lợi ích" ?

Chỉ có lợi ích của đảng viên mà lợi ích này đôi khi đối nghịch với quyền lợi của đất nước, của dân tộc.

Vì vậy khi nói "lợi ích của đảng" thì ta phải phân định rõ rệt : lợi ích của đảng là lợi ích của ai ?

VN có cái gọi là "dân chủ tập trung", số ít phục tùng số đông. Cấp dưới phục tùng cấp trên. Địa phương phục tùng trung ương. Rốt ráo lại, mọi người phải phục tùng ông Trọng.

Tức là "lợi ích của đảng" trở thành "lợi ích của đồng chí Nguyễn Phú Trọng".

Trở lại vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.

Chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vốn là "ý chí" của ông Trọng. Nhờ cái gọi là "dân chủ tập trung", nó trở thành "ý chí của đảng". Cũng nhờ cái dân chủ đó nó trở thành "quyết tâm" của đảng và Nhà nước.

Quy định mà ông Trọng vừa ký, cán bộ cấp cao phải "trung thành với lợi ích của đảng", thật là đúng lúc. Nhờ nó mà ông Trọng phủi sạch mọi trách nhiệm về vụ Trịnh Xuân Thanh.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 16/08/2017

Published in Diễn đàn

Chủ nhật ngày 30/7/2017 là một trong những ngày tồi tệ nhất trong lịch sử chiếm đóng của đảng cộng sản Việt Nam, khi Bộ công an đồng loạt bắt bốn người bất đồng chính kiến ở những nơi khác nhau và truy tố theo Điều 79 Bộ Luật hình sự - Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

dcs1

Bộ công an đồng loạt bắt bốn người bất đồng chính kiến ở những nơi khác nhau và truy tố theo Điều 79 Bộ Luật hình sự

Cơ quan An ninh điều tra Bộ công an đã khởi tố và bắt giam tổng cộng 6 bị can trong vụ án của Luật sư Nguyễn Văn Đài : (1) Lê Thu Hà (1982) đã bị bắt giam cùng với (2) Luật sư Nguyễn Văn Đài (1969) vào 12/2015 tại Hà Nội ; (3) Phạm Văn Trội (1972) ; (4) Nguyễn Trung Tôn (1972) ; (5) Trương Minh Đức (1960) ; (6) Nguyễn Bắc Truyển (1968).

Đáng chú ý nhất, 3 trong số 4 người bị bắt vào ngày Chủ nhật 30/7, theo Điều 79, là thành viên nòng cốt của Hội Anh Em Dân Chủ, vốn được thành lập bởi Luật sư Nguyễn Văn Đài, vào ngày 24/4/2013, trên không gian mạng Facebook.

Chưa dừng lại ở đó, ngày 4/8/2017, Bộ công an lại tiếp tục bắt giam ông Nguyễn Trung Trực, là phát ngôn viên của Hội Anh em dân chủ tại Quảng Bình, cũng theo Điều 79. Như thế, toàn bộ ban lãnh đạo của Hội Anh em dân chủ đều bị bắt giam và khởi tố theo Điều 79.

Cũng liên quan đến hành vi "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", trước đó chiều 24/7, công an Nghệ An cũng đã bắt giam ông Lê Đình Lượng (52 tuổi, trú xã Hợp Thành, Yên Thành). 

Vì sao phải bắt những thành viên của Hội Anh em dân chủ ?

Hội Anh em dân chủ là một tổ chức phi chính phủ của những người Việt Nam trong và ngoài nước, đấu tranh bảo vệ quyền con người, được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận. Với mục tiêu vận động cho một xã hội dân chủ, tiến bộ, công bằng và văn minh, Hội Anh em dân chủ đã thu hút được sự ủng hộ, tham gia của khá nhiều người và điều này khiến đảng cộng sản run sợ.

- Tình hình Biển Đông đang rất căng thẳng sau khi Trung Quốc ra lệnh cho phía Việt Nam ngừng khoan thăm dò dầu khí tại lô 136-03. Tập đoàn khai thác dầu Repsol của Tây Ban Nha cũng vừa xác nhận chính thức ngưng khoan dầu ở một khu vực ngoài khơi Việt Nam. ("Repsol tạm ngừng khoan dầu ở Việt Nam", BBC, 3/8/2017).

Chính quyền cũng lo lắng sẽ có bùng nổ biểu tình trong nước chống Trung Quốc, khi có nguồn tin Trung Quốc sẽ cho thêm dàn khoan vào Bãi Tư Chính. Bị Trung Quốc đe dọa vũ lực, chính quyền buộc phải dập tan những hiểm họa có thể thổi bùng ngọn lựa chống Trung Quốc, mà chắc chắn sẽ làm tình hình thêm gay gắt, dẫn đến mất khả năng kiểm soát, ảnh hưởng đến quyền lực chính trị và sinh mạng của chế độ. Vì thế, bắt giam những tiếng nói bất đồng chính kiến, phần lớn là thành viên của Hội Anh em dân chủ, nhằm xóa bỏ những mối nguy cơ có thể làm mối quan hệ vốn đang chua chát với Trung Quốc rơi vào khủng hoảng. Sự tồn vong của chế độ là quan tâm duy nhất của đảng cộng sản dù cho có phải bắt bớ người yêu nước, hoặc thậm chí co gối, cúi đầu trước Trung Quốc.

- Theo nguồn tin của Bộ công an, "Cơ quan An ninh điều tra Bộ công an ra quyết định khởi tố bị can, tạm giam 6 bị can trong vụ án Nguyễn Văn Đài cùng đồng phạm hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". (An Ninh Thủ Đô, 31/7/2017). Có nghĩa là, chính quyền lấy cớvìnhững người bị bắt là đồng phạm của Luật sư Nguyễn Văn Đài, nên phải bắt giam để phục vụ điều tra, khởi tố vụ án của Luật sư Nguyễn Văn Đài. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu sa của việc bắt bớ là nhằm triệt tiêu lực lượng nòng cốt của Hội Anh em dân chủ, phá tan những tổ chức có quyết tâm như Hội Anh em dân chủ, nhằm ngăn chặn sự tham gia và phát triển thầm lặng của các tổ chức đối lập khác. Đảng cộng sản Việt Nam rất lo sợ Hội Anh em dân chủ có thể vận động được quần chúng khắp nơi, tham gia phản đối chống Trung Quốc, sau là chống chế độ. Tổ chức và tập thể đoàn kết luôn là mối đe dọa khủng khiếp nhất đối với chế độ cộng sản. Vì thế, bằng mọi giá, đảng cộng sản sẵn sàng mạnh tay tiêu diệt những mầm mống của đấu tranh có tổ chức.

Thực trạng Việt Nam : suy thoái ở mọi nơi

Thứ nhất : suy thoái và phân hóa cùng cực trong nội bộ đảng. Đã rất nhiều lần, các đảng viên cấp cao đã phải than vãn vì lo sợ sự phân rã sẽ giật sập chế độ. Ngay cả Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã phải thừa nhận rằng : "Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ".

Chưa hết, sự suy thoái tư tưởng của đại đa số các đảng viên ngày càng lan rộng và niềm tin của các đảng viên đối vai trò lãnh đạo của đảng giảm mạnh rõ rệt. Điển hình như UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã phải yêu cầu các công chức kí cam kết không "tự diễn biến", nhằm ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng trong nội bộ. ("Thành phố Hồ Chí Minh : Công chức sẽ ký cam kết không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", Nguyễn Cường, Infonet, 18/4/2017).

Chuyên gia nghiên cứu về vấn đề Việt Nam và Biển Đông, Bill Hayton, vừa tiết lộ thông tin mật về sự chia rẽ sâu sắc của bộ chính trị, liên quan đến những tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc tại Biển Đông, trên Foreign Policy, một tờ báo uy tín hàng đầu về quan hệ ngoại giao quốc tế.

"Không ai có thể biết được những quyết định lớn lao được tiến hành ra sao ở Việt Nam, nhưng từ chuyện ngừng khoan dầu của Repsol, có thể thấy rõ ràng rằng Bộ chính trị đang bị chia rẽ hết sức nghiêm trọng. Trong số 19 ủy viên, thì 17 người đồng ý chỉ trích Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc chỉ giả vờ đe dọa. Chỉ có 2 người không đồng ý phản đối Trung Quốc, nhưng 2 người này lại có ảnh hưởng lớn nhất trong bộ chính trị, đó là : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch" ("The Week Donald Trump Lost The South China Sea", Bill Hayton, Foreign Policy, 31/7/2017).

Thứ hai : nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và khủng hoảng tài chính. Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên nhận định : "Mỗi năm Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 50 tỷ USD. Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc đang gặp nhiều bất ổn nghiêm trọng, tiền bạc đang chảy ra khỏi Trung Quốc không thể cản nổi". Trong bốn tháng đầu năm 2017, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch đạt 17,6 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2016 ("Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc", H.M, Soha, 30/4/2017).

Theo tạp chí kinh tế The Economist, nợ công của Việt Nam năm 2016 chiếm 63,7% GDP. Năm 2017 dự trù lên đến "đỉnh" là 64,8% GDP. Chưa hết, tình trạng "bội chi" tăng chóng mặt, khiến thâm hụt ngân sách trầm trọng. Tính từ đầu năm đến ngày 15/7/2017, ngân sách nhà nước bội chi 61,8 nghìn tỷ đồng. Theo Viện nghiên cứu Kinh tế và chính sách, nếu không có các biện pháp cắt giảm chi tiêu một cách hợp lý, ngân sách nhà nước sẽ trở nên mất cân bằng một cách nghiêm trọng, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển sẽ suy giảm hoặc phải tiếp tục vay nợ để bổ sung ("Bội chi ngân sách 61,8 nghìn tỷ đồng trong 7 tháng", N. Mạnh, Bizlive, 30/7/2017).

Thứ ba : bất lực trước mạng xã hội và khủng hoảng niềm tin trong dân. Đảng cộng sản chưa kịp tìm phương án để đối phó với sự phân rã cùng cực trong nội bộ, thì lại phải đau đầu tìm cách ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và đối phó với quá trình "tự diễn biến" ngay trong quần chúng. Người dân quay lưng với hệ thống Pháp luật, tìm đến mạng xã hội, để kêu gọi giúp đỡ hoặc phản ánh những vấn đề bức xúc và bất công. Bộ mặt tham nhũng, quan liêu, ngu dốt, ngồi xổm lên Pháp luật của quan chức cũng được phơi bày minh bạch trên mạnh xã hội.

Trong sự bất lực, Lê Quang Tự Do, Phó Cục trưởng Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin, đành răn đe các đồng chí của mình phải làm tốt nhiệm vụ xây dựng hình ảnh tốt đẹp của đảng trong nhân dân : "Các địa phương phải làm tốt các công tác cung cấp thông tin cho báo chí chính thống và đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền viên phải làm tốt công tác thông tin cho người dân ở trên mạng" ("Thông tin xấu, độc trên mạng xã hội khiến nhiều người "tự diễn biến"", Nguyễn Hằng, VOV, 6/6/2017).

Việc Việt Nam thông tin Trịnh Xuân Thanh "ra đầu thú" vào 31/7/2017 và công bố một đoạn video Trịnh Xuân Thanh tường thuật vụ việc "tự thú" vào 3/8/2017 thể hiện rõ sự túng quẫn và bất lực của Ban tuyên giáo Việt Nam. Bởi lẽ Bộ ngoại giao Cộng hòa liên bang Đức đã ra tuyên bố cáo buộc hành vi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của an ninh Việt Nam.

Người phát ngôn của Bộ ngoại giao Đức Martin Schaefer lên án vụ bắt cóc đã "vi phạm luật pháp Đức và quốc tế" và nhấn mạnh "Không còn nghi ngờ gì nữa về sự tham gia của cơ quan tình báo và đại sứ quán Việt Nam trong vụ bắt cóc một công dân Việt Nam ngay trên đất nước Đức" ("Relationship between Germany and Vietnam turns sour after alleged kidnapping of oil executive", Menahem Zen, Inquisitr, 3/8/2017).

Bà Petra Schlagenhauf, Luật sư của Trịnh Xuân Thanh nói với BBC, sau khi xem video Trịnh Xuân Thanh "tự thú" trên đài truyền hình Việt Nam : "Đây là "tự thú" ép buộc. Ông ấy bị bắt cóc. Chúng tôi biết, cảnh sát Đức biết, chính phủ Đức biết" ("Đức yêu cầu cho Trịnh Xuân Thanh trở về Đức", BBC, 3/8/2017).

Rõ ràng, Việt Nam đang mất hoàn toàn khả năng kiểm soát truyền thông ; trong khi, niềm tin của nhân dân đối với vai trò của đảng và nhà nước "nhạt hơn nước ốc".

Thứ tư : khủng hoảng văn hóa, đạo đức, và giáo dục nghiêm trọng. Liên tiếp những bản tin cảnh báo sự gia tăng bạo lực khắp mọi miền đất nước. Thay vì "Người trong một nước, phải thương nhau cùng", thì những con người có cùng "máu đỏ, da vàng" chọn bạo lực để hung hãn và tàn ác với nhau.

Văn hóa tôn sùng bạo lực của khá nhiều người Việt ngày càng tăng dưới thời "pháp trị", khiến cho đời sống của người dân, từ nông thôn đến thị thành, trở thành cơn ác mộng.

Giáo dục thì lạc hậu, nhồi sọ, nên dù đã tốt nghiệp đại học, sinh viên ra trường với nỗi lo thất nghiệp vẫn cứ tăng cao. Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, số lao động là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thất nghiệp tiếp tục tăng lên hơn 218.000 người, chiếm gần 50% tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thất nghiệp. ("Quí 4/2016 : có 218.000 cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thất nghiệp", Thùy Dung, The Saigon Times, 31/3/2017).

Tình trạng sử dụng bằng giả tràn lan khắp nơi, từ cấp cao nhất của cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện. Dẫn chứng, người dân Cà Mau bức xúc với thông tin nữ Chủ tịch xã Tam Giang "gian lận" hồ sơ học tập nhưng chỉ kỷ luật nhẹ rồi cho tại vị. Chưa kịp lắng xuống, thì lại xuất hiện thông tin ông giám đốc của một trung tâm y tế bổ nhiệm cậu ruột vào vị trí lãnh đạo khoa, trong khi người này cả bằng Trung học cơ sở cũng không có ("Người dân Cà Mau bức xúc vì nhiều cán bộ gian lận bằng cấp vẫn được ưu ái tại vị", Ngọc Huỳnh, GDVN, 30/7/2017).

Thứ năm : khủng hoảng môi trường toàn diện. Khai thác, chặt phá rừng trái phép tràn lan và ngày càng phức tạp hơn. Diện tích rừng ở Tây Nguyên giảm mạnh mẽ, giảm hơn 13 nghìn ha ("Tây Nguyên : Thảm rừng biến động mạnh", Vũ Vân, Tài nguyên và môi trường, 16/08/2016).

Biển và không khí vẫn tiếp tục ô nhiễm do Formosa. Gần đây, bộ Tài nguyên và môi trường còn cấp phép cho Điện lực Vĩnh Tân 1 nhận chìm 1 triệu m3 bùn cát xuống biển Hòn Cau, Bình Thuận.

Tiến sĩ Nguyễn Tác An, phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam, cho rằng : "Nếu việc đổ thải này được chấp thuận, chẳng khác gì một vùng biển rộng lớn bị giết chết, cái nôi sinh sản của thủy sản biến mất. Vậy thì, hàng triệu ngư dân hiện nay và con cháu về sau mất đi bát cơm" ("Đừng để bát cơm ngư dân biến mất", Văn Ngọc – Nguyễn Tiến, SGGP, 26/7/2017).

Vụ trưởng vụ vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, Phạm Văn Bắc, nhấn mạnh trong buổi họp báo thường kì quí II, năm 2017 rằng, với mức độ sử dụng cát nhưu hiện nay, thì đến năm 2020 sẽ không còn cát để dùng cho công trình xây dựng ("Cảnh báo đến 2020 không còn cát để xây dựng", Tuấn Phùng, Tuổi Trẻ Online, 2/8/2017).

Nghiêm trọng hơn, Việt Nam vẫn tiếp tục cho đầu tư giàn trải, ồ ạt nhiều dự án lớnnhư nhiệt điện, thủy điện, và thép, có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Ước tính số ca tử vong sớm ở Việt Nam do ô nhiễm nhiệt điện than sẽ tăng từ 4.300 ca (năm 2011) đến 15.700 ca (năm 2030) ("Tử vong sớm do ô nhiễm nhiệt điện than tại Việt Nam sẽ gia tăng nhanh", Anh Phương, SGGP, 28/7/2017).

Thay lời kết

Trong nước, Việt Nam đang đối mặt với suy thoái kinh tế lẫn chính trị, trong khi niềm tin của nhân dân và chính những đảng viên đối với chế độ không còn nữa. Ngoài Biển Đông, Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng bạo lực nếu phía Việt Nam không ngoan ngoãn nghe lời. Về quan hệ ngoại giao, việc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của an ninh Việt Nam là một hành động ngang ngược và thách thức vô cùng xấc xược đối với Cộng hòa liên bang Đức, vốn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU). Hiện tại, Cộng hòa liên bang Đức đang tìm kiếm một thỏa thuận về hiệp định thương mại tự do với Việt Nam ; tuy nhiên, vụ bắt cóc "vi phạm luật pháp Đức và quốc tế" chắc chắn sẽ khiến thỏa thuận này bị trì hoãn.

Hình ảnh Việt Nam chưa bao giờ tồi tệ và đáng khinh bỉ trên chính trường quốc tế như lúc này.

"Tứ bề thọ địch" là tình thế hiện tại của chính quyền, đang run sợ và rệu rã trong nỗ lực cứu chế độ khỏi sụp đổ. Với tổng thể suy thoái và bất ổn, đảng cộng sản không còn nhiều lựa chọn : một là giải thể chế độ độc tài toàn trị chào đón dân chủ - đa nguyên ; hai là tiếp tục làm một nhà nước đạo tặc, co gối, cúi đầu thần phục Trung Quốc.

Việc đàn áp và bắt giam liên tục những nhà hoạt động có tiếng nói mạnh mẽ chống sự bành trướng của Trung Quốc, từ đầu năm 2017 cho đến nay, chứng tỏ được sự thần phục vô điều kiện của chính quyền đối với Trung Quốc. Điều này chứng tỏ chính quyền "thà mất nước, không mất đảng".

Mao Trạch Đông với câu nói nổi tiếng : "Every Communist must grasp the truth ; "Political power grows out of the barrel of a gun". (Tạm dịch : "Mỗi người cộng sản cần phải nắm vững được chân lý : Quyền lực chính trị chỉ lớn mạnh từ họng súng).

Đảng cộng sản Việt Nam không dám bóp cò khẩu súng quyền lực của mình, bởi nỗi khiếp sợ đến kinh hoàng đối với Trung Quốc. Khi mà quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam bị điều khiển và chi phối bởi đảng cộng sản Trung Quốc, thì việc xem đảng cộng sản Việt Nam, là một phân bộ của đảng cộng sản Trung Quốc, cũng không có gì là quá đáng.

Bộ chính trị, cơ quan quyền lực nhất của đảng cộng sản, đang chia rẻ và phân hóa trầm trọng. Chính quyền ngày càng gia tăng đàn áp và bắt bớ những người yêu nước vì lo sợ cho sự tồn vong của chế độ.Tương lai Việt Nam chắc chắc đen tối nếu đảng cộng sản còn chiếm đóng Đất nước.

Chưa bao giờ như lúc này, những anh chị em mong ước một Việt Nam Dân chủ nên nhận thức được tầm quan trọng và tính hiệu quả của đấu tranh có tổ chức, vốn là cơn ác mộng đối với đảng cộng sảnViệt Nam. Đấu tranh có tổ chức cần được hiểu là đấu tranh theo dự án chính trị và phương pháp của tổ chức với những giai đoạn đấu tranh khác nhau. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên vẫn đang âm thầm và bí mật xây dựng một lực lượng nòng cốt cả trong lẫn ngoài nước. Danh tiếng và ngôi sao cá nhân không bao giờ là nỗi ưu tư của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, nhưng sự an toàn tuyệt đối của các thành viênmới là ưu tiên số 1 của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.

Sự thất bại thảm hại trong nước lẫn trên chính trường quốc tế của đảng cộng sản chứng tỏ rằng nó là một tập thể vô cùng tồi tệ và kém cỏi. Thế nhưng, đáng tiếc thay, cho đến nay, những người yêu nước, vẫn chưa đồng lòng đoàn kết để knockout đảng cộng sản. Cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng : Muốn hạ đo ván đảng cần một tổ chức đối lập mạnh. Phải hình thành được một tổ chức đối lập mạnh làm đối trọng với đảng cộng sảnmới có thể tạo được áp lực buộc đảng phải giải thể. Kỉ nguyên của Dân Chủ - Đa Nguyên sẽ đến với Dân tộc Việt Nam khi mà những người yêu nước ý thức được sức mạnh của tổ chức.

"In this decisive hour of our national history, union means life and division means death" (Emperor Bao Dai

"Trong giờ quyết định của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống và chia rẽ là chết" (Vua Bảo Đại)

Mai V. Pham

Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Đa Nguyên – Bất Bạo Động – Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc"

Tham khảo

  1. http://foreignpolicy.com/2017/07/31/the-week-donald-trump-lost-the-south-china-sea/
  2. http://soha.vn/boi-chi-ngan-sach-618-nghin-ty-dong-trong-7-thang-20170730152548506rf20170730152548506.htm
  3. http://www.sggp.org.vn/dung-de-bat-com-ngu-dan-bien-mat-457865.html
  4. http://www.sggp.org.vn/tu-vong-som-do-o-nhiem-nhiet-dien-than-tai-viet-nam-se-gia-tang-nhanh-458289.html
  5. http://www.baotainguyenmoitruong.vn/tai-nguyen-va-cuoc-song/201608/tay-nguyen-tham-rung-bien-dong-manh-2725606/
  6. http://news.zing.vn/kinh-te-viet-nam-le-thuoc-qua-nhieu-vao-trung-quoc-post620014.html
  7. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40814934
  8. http://www.inquisitr.com/4407048/german-vietnam-relationship-alleged-kidnapping/
  9. http://www.thesaigontimes.vn/158567/Qui-4-2016-co-218000-cu-nhan-thac-si-tien-si-that-nghiep.html

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20170802/canh-bao-den-nam-2020-khong-con-cat-de-xay-dung/1362706.html

Published in Quan điểm
vendredi, 28 juillet 2017 17:19

Những cái lưỡi gỗ ngụy ngôn

Khi “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” của đội ngũ tuyên truyền Đảng cộng sản Việt Nam bị tê liệt trước tình trạng đảng viên quay lưng lại chế độ thì chúng lại gay gắt với những ai đã nhìn ra sai lầm của đảng cầm quyền.

Résultat de recherche d'images pour "Hội nghị Trung ương 4 năm 2016"

Hội nghị Trung ương 4 năm 2016

Bằng chứng là từ sau Hội nghị Trung ương 4 năm 2016, nhiều bài viết của Tuyên giáo và Tổng cục chính trị Quân đội đã chĩa mũi dùi tấn công “một bộ phận cán bộ, đảng viên” không còn tuân thủ những quy định viết trong Cương lĩnh, Điều lệ và Nghị quyết đảng. Thậm chí còn có tài liệu được phát tán phê bình chủ trương, chính sách của nhà nước hoặc bác bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh mà Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã ra lệnh phải kiên định và tuyệt đối trung thành.

Nội dung các bài viết của giới lý luận còn lên án tình trạng lười học tập chính trị, quan trọng hàng đầu là “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Nghị quyết đảng. Đồng thời các dư luận viên của Tuyên giáo và Quân đội cũng tìm cách đổ vạ cho điều được gọi là “các thế lực thù địch” và “diễn biến hòa bình” của đế quốc đã gây ra tình trạng rối ren và chống phá làm cho đảng mất quyền lãnh đạo.

Tình trạng “thay gió đổi chiều” mới của cán bộ, đảng viên đã được Thiện Văn báo động trên báo Quân đội Nhân dân ngày 06/07/2017, theo đó : “Một trong những nổi cộm của biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ rõ là một bộ phận cán bộ, đảng viên “nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

Nhưng “một bộ phận” là bao nhiêu trong số trên 4 triệu đảng viên ? Chỉ biết rằng, tại Hội nghị Trung ương 4/XII năm 2016, một Nghị quyết về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ “ đã được bàn hành ngày 31/10/2016.

Theo nhận xét của Nghị quyết thì đã có “một bộ phận không nhỏ” suy thoái chính trị, đạo đức và lối sống, nhưng đảng không dám nói đến con số chính xác là bao nhiêu.

Nghị quyết chỉ cho biết rằng : “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn ; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”.

Nhưng những thói hư tật xấu của cán bộ đảng viên đã có từ khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười làm Tổng bí thư, rồi liên tục qua Khóa đảng VIII thời Lê Khả Phiêu, qua Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), lan sang hai Khóa IX và X của Nông Đức Mạnh. Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng thì những khuyết tật này càng nghiêm trọng hơn nên đã được nói thêm một lần, cũng trong Nghị quyết Trung ương 4 của Khóa đảng XI.

Bây giờ ở vào Khóa đảng XII, ông Trọng lại phải tiếp tục đương đầu với những tệ nạn này, qua Nghị quyết 4/XII thì có phải đảng không còn khả năng giải quyết hay ông Trọng đã đầu hàng rồi ?

Vì vậy sau hai năm lăn lộn với khóa đảng XII, ai cũng thấy ông Nguyễn Phú Trọng đã đuối sức ở tuổi 73 (ông sinh năm 1944) nên tình trạng cán bộ, đảng viên chệch hướng, tự mình tách ra khỏi đường đi với đảng, đã có từ trước Hội nghị Trung ương 4 năm 2016, đã tiếp tục với tốc độ nhanh hơn.

Công khai thách đố

Bằng chứng là những người phạm kỷ luật đảng đã không còn chấp hành điều đầu tiên của 19 Điều đảng viên “không được làm”, theo đó họ bị tuyệt đối cấm : “Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng…”.

Ngoài ra, họ cũng đã công khai không chấp hành Điều lệ đảng, như quy định trong Ðiều 2 gồm :

1.Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Ðảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, pháp luật của Nhà nước….”

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh ; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

Họ cũng không tha thiết “Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Ðảng ; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Ðảng ; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Ðảng….” (điểm 4/ Điều 2).

Hay còn bỏ ngoài tai điều bắt “Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Ðảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Ðảng phục tùng Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương”. (Điều 9, Điều lệ đảng).

Như vậy thì còn đảng với đoàn gì nữa, ông Trọng ? 

Đa nguyên - Đa đảng

Hẳn ông còn nhớ trong Nghị quyết 4/XII mà ông ký ban hành ngày 31/10/2016, Trung ương đã công khai thừa nhận những “biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Đứng đầu và quan trọng nhất là nhiều cán bộ, đảng viên đã : “Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng". 

Ngoài ra, đảng viên còn : “Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự" . Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai”.

Hay cứ :” “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng ; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.

Ngoài ra, khi không còn coi đảng ra gì nữa thì đảng viên cũng chẳng còn sợ hãi ai, theo lời Nghị quyết, để :” Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.

Đới với vai trò của Quân đội, đã và đang bị lên án chỉ biết bảo vệ đảng và tranh dành làm kinh tế với tư nhân để tư lợi thay vì rèn luyện để bảo vệ đất nước, trước đe dọa xâm lăng mới của Trung Cộng, thì vô số cán bộ, đảng viên đã :” Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang ; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an…”.

Bây giờ, những điều đảng lo sợ như trên đây vẫn không thay đổi mà còn lan nhanh khiến báo Quân đội Nhân dân phải lên tiếng cảnh giác thêm lần nữa, trong số báo ngày 13/07/2017.

Bài báo viết : “Mục tiêu của những luận điệu hô hào, cổ xúy đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" không gì khác là hạ thấp và đi tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam, bằng những lời lẽ hết sức mị dân. Họ cho rằng chỉ có “thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo” ; chỉ có "đanguyên, đa đảng" thì xã hội mới có dân chủ thực sự...”.

Nói thế, nhưng tác gỉa bài viết, Thành Vinh, cũng không dám phân tích lợi hại giữa một nhà nước có bầu cử dân chủ với nhiều đảng chính trị tham gia, khác với nhà nước chỉ có một đảng tự cho mình cầm quyền như Đảng Cộng sản Việt Nam mà không do dân bầu lên.

Vì vậy, người này chỉ biết nói bừa rằng :”Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người nhận thức có phần còn hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam ; gây nên sự phân tâm trong xã hội ; làm suy giảm và có thể đi đến mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Viết như thế tưởng đã cởi trói được giây thòng lọng độc tài của đảng đã thắt vào cổ dân từ 1946 nên Thành Vinh đã lập luận cù nhầy và tự biên, tự diễn bằng cái lưỡi gỗ : “Thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật, phản ánh những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam” (Thành Vinh-QĐND, ngày 13/07/2017).

Cũng với quan điểm bảo hòang hơn vua và tự cho những cái lưỡi gỗ tuyên truyền không bao giờ sai, Thiện Văn, trong bài viết trên QĐND ngày 06/07/2017 cũng đã nhấn mạnh rằng : “Những ai đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhất thiết phải chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và khi nói, viết cần bám sát, dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, trong khi phần đông CB, ĐV một lòng kiên định với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, tự giác gương mẫu chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, thì vẫn còn một bộ phận CB, ĐV có những phát ngôn không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng”.

Bởi vì, theo cái lưỡi gỗ Thiện Văn : “Những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta được xây dựng, ban hành bởi tập thể những người có trình độ hiểu biết cao, kiến thức sâu rộng và được kiến tạo theo một quy trình chặt chẽ, khoa học. Đây là những “sản phẩm” tập hợp, quy tụ tinh hoa trí tuệ xã hội và có giá trị như “cẩm nang” để góp phần định hướng và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội.

Do vậy, đối với cán bộ đảng viên nói chung, viết và làm theo quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước không chỉ thể hiện thái độ chuẩn mực về chính trị, mà còn là hành vi ứng xử văn hóa của người công dân. Khi đã là thành viên của một tổ chức, đòi hỏi yêu cầu cao về ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh như tổ chức Đảng, nếu tùy tiện nói trái, viết lệch hay phê phán chủ trương, đường lối của Đảng là sai cả về lý và tình”.  

Ăn nói như thế thì có ngụy ngôn không ?

Phạm Trần

(28/07/2017)

Published in Diễn đàn
mercredi, 05 juillet 2017 21:38

Quốc tịch của Đảng Cộng Sản

Vụ chính quyền cộng sản Việt Nam tuyên bố tước quốc tịch và trục xuất giáo sư Phạm Minh Hoàng sang Pháp không thể chỉ được nhìn như một biện pháp đàn áp đối với ông Hoàng và đảng Việt Tân. Đây là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật pháp, văn hóa và tư tưởng chính trị cũng như đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Nó cũng một lần nữa nhắc lại bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

pmh1

Quyết định tước quốc tịch Việt Nam của ông Phạm Minh Hoàng ngày 10/06/2017

Trước hết hãy nhắc lại trường hợp Phạm Minh Hoàng.

Ông Hoàng có quốc tịch Việt Nam ngay từ khi sinh ra tại Việt Nam vì cha mẹ là người Việt Nam. Ông trưởng thành tại Việt Nam, đi du học Pháp một thời gian và được quốc tịch Pháp rồi trở về sinh sống tại Việt Nam từ năm 2000. Ông thường trú tại Sài Gòn và giảng dạy tại đại học Bách Khoa.

Như vậy ngay cả nếu chỉ căn cứ vào luật pháp của chế độ hiện nay thì Phạm Minh Hoàng cũng không thể bị tước quốc tịch. Điều 31 của Luật Quốc Tịch Việt Nam, biểu quyết năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2009, qui định chỉ có hai loại người có thể bị tước quốc tịch : đó là những người hoặc thường trú tại nước ngoài hoặc không phải là người có quốc tịch ngay từ khi sinh ra. Việc ông Hoàng ngoài quốc tịch Việt Nam còn có quốc tịch Pháp cũng không có vấn đề gì vì điều 12 của luật này nhìn nhận một người Việt Nam có thể có thêm những quốc tịch khác.

Cần lưu ý một sự chi tiết nhỏ nói lên bản chất của chế độ cộng sản. Phạm Minh Hoàng có hai địa chỉ tại Việt Nam, môt địa chỉ thường trú và một địa chỉ tạm trú. Quyết định tước quốc tịch, do ông Trần Đại Quang nhân danh chủ tịch nước ký, đã được gửi tới địa chỉ tạm trú. Bằng cách này chính quyền cộng sản Việt Nam đã cố tình làm như ông Hoàng không phải là một người thường trú tại Việt Nam, dù Phạm Minh Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm và có địa chỉ thường trú rõ rệt ; chính quyền cộng sản thừa biết như vậy và đã bắt ông tại địa chỉ này để trục xuất ông sang Pháp. Hành động này không đánh lừa được ai mà chỉ nói lên bản chất trí trá nhỏ mọn của chế độ.

Việc tước quốc tịch của Phạm Minh Hoàng không thể đặt ra vì ông không thuộc diện những người có thể bị tước quốc tịch, nhưng nó cũng đã được thực hiện không đúng thủ tục. Việc tước quốc tịch của một người Việt Nam, ngay cả với những người thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, phải xuất phát từ một tòa án hoặc một chính quyền tỉnh (đối với những người không có quốc tịch bẩm sinh và đang thường trú tại Việt Nam) hoặc từ một sứ quán (đối với những người Việt Nam thường trú tại nước ngoài) theo điều 32. Sau đó kiến nghị phải được gửi đến bộ tư pháp, bộ này sẽ chủ trì phối hợp với bộ công an, bộ ngoại giao và các bộ liên hệ và chuyển kết luận chung tới thủ tướng nếu kết luận này đồng ý với kiến nghị tước quốc tịch của tòa án, chính quyền tỉnh hoặc sứ quán khởi xướng kiến nghị. Sau đó thủ tướng, nếu đồng ý, chuyển kiến nghị tới chủ tịch nước để có quyết định sau cùng. Việc tước quốc tịch của một người -cần nhắc lại chỉ đặt ra trong trường hợp người đó thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, chứ không phải một người như ông Phạm Minh Hoàng - như vậy rất phức tạp và nghiêm trọng và chỉ có thể giải quyết ở mức độ tối cao của nhà nước.

Trong vụ này đã không có một cơ quan khởi xướng có thẩm quyền nào cả. Không có một tòa án nào xét xử ông Phạm Minh Hoàng và đề nghị tước quốc tịch cả. Cách đây bẩy năm ông Hoàng có bị xử án 3 năm tù trong một phiên tòa tùy tiện nhưng hoàn toàn không có vấn đề tước quốc tịch. Ủy Ban Nhân Dân Sài Gòn cũng không thể khởi xướng kiến nghị vì như thế là tự nhận mình là chính quyền địa phương nơi ông Hoàng thường trú và mặc nhiên nhìn nhận ông Hoàng là một người có quốc tịch bẩm sinh và thường trú tại Việt Nam, nghĩa là không thuộc diện có thể bị tước quốc tịch. Và dĩ nhiên không thể có sứ quán nào đề nghị cả vì ông Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm nay. Sự tùy tiện đã vượt mọi giới hạn. Đảng Cộng Sản một lần nữa đã xác nhận một cách hùng hồn nhất rằng họ là một đảng hoạt động ngoài vòng pháp luật.

Chúng ta có thể kết luận một cách dứt khoát : quyết định tước quốc tịch đối với Phạm Minh Hoàng của chính quyền cộng sản hoàn toàn vô giá trị, Phạm Minh Hoàng vẫn còn nguyên quốc tịch Việt Nam.

Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại khái niệm quốc tịch.

Quốc tịch là sự xác nhận tư cách thành viên của một cá nhân, hay tư cách thành phần của một tập thể, đối với một quốc gia. Như vậy trước hết phải hiểu quốc gia là gì. Nghĩa thông thường của một quốc gia là tập thể của những người cùng chia sẻ với nhau một lịch sử, một văn hóa, một ngôn ngữ, một tình cảm liên đới, cùng gắn bó với một lãnh thổ, thường thường là cùng sống trên lãnh thổ đó, nhưng quan trọng hơn hết là cùng chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Trong những yếu tố đó quan trọng nhất và có tính bắt buộc là tình cảm liên đới và sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.

Khái niệm quốc gia đã là một trong những đề tài triết lý chính trị được thảo luận nhiều nhất. Định nghĩa chính xác nhất là định nghĩa theo đó quốc gia là một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung (1).

Chính vì quốc gia, và do đó quốc tịch, là một khi niệm tinh thần và tình cảm mà nó chỉ có thể bị từ bỏ bởi chính người mang quốc tịch chứ không thể bị tước bỏ bởi bất cứ quyền lực nào.

Dĩ nhiên về mặt hành chính và pháp lý phải có xác nhận cụ thể một người là hay không là thành viên của một quốc gia, nghĩa là có hay không có quốc tịch, nhưng sự xác nhận cụ thể này không thể mâu thuẫn với khái niệm nền tảng về quốc gia và quốc tịch. Luật chỉ là sự thể hiện những giá trị tinh thần và đạo đức trong sinh hoạt xã hội, luật không đúng không phải là luật như Plato đã từng nói cách đây 24 thế kỷ. Chính vì thế mà các nước văn minh đều không cho phép tước quốc tịch của một công dân trừ những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và cũng chỉ có thể áp dụng cho những người không có quốc tịch ngay từ lúc sinh ra. Một số quốc gia, như Hoa Kỳ, không cho tước quốc tịch trong bất cứ trường hợp nào đối với bất cứ công dân nào.

Luật Quốc Tịch 2008 của Việt Nam được soạn thảo với sự giúp đỡ của các luật gia Pháp nên có nội dung tương tự như luật quốc tịch của Pháp. Tuy nhiên chính quyền cộng sản đã thêm vào đó ý thức hệ cộng sản, một điều không thể chấp nhận được.

Điều 1 định nghĩa quốc tịch như sau : "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Sai và xấc xược. Nhà nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam, "nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" chỉ là của những người cộng sản, hay đúng hơn chỉ là bộ máy thống trị của những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chưa kể là ngày nay ngay cả những cấp lãnh đạo cộng sản cũng phải nhìn nhận rằng cụm từ "xã hội chủ nghĩa" chỉ còn là một khẩu hiệu rỗng nghĩa.

Điều 31 : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Tại sao lại "nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" ? Đó chỉ là quốc hiệu nhất thời do một lực lượng thống trị áp đặt.

Ban lãnh đạo cộng sản hình như lẫn lộn quốc tịch với quyền công dân. Họ thống trị đất nước một cách tùy tiện và do đó không tôn trọng quyền công dân của những người chống đối lại họ (và ngược lại những người này cũng không coi họ là một chính quyền chính đáng), nhưng quốc tịch và quyền công dân là hai khái niệm khác nhau. Trẻ thơ mới sinh ra chưa có quyền công dân nhưng đã có ngay quốc tịch ; người ngoại quốc thường trú có hầu hết các quyền và bổn phận của người dân bản xứ dù không có quốc tịch.

Khi lẫn lộn quốc tịch, điều mà họ phải tôn trọng, với quyền công dân, điều mà họ có phương tiện để thao túng một cách tùy tiện, cũng như khi đồng hóa đất nước Việt Nam với cái gọi là "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Đảng Cộng Sản Việt Nam đã coi đất nước như là của riêng họ. Họ đã hành xử như một lực lượng chiếm đóng và thống trị.

Một điều đặc biệt đáng lưu ý là trường hợp của cộng đồng người Việt hải ngoại, mà đại đa số là những người đã phải bỏ nước ra đi không muốn hoặc không thể sống dưới chế độ cộng sản.

Luật Quốc Tịch 2008 (điều 13.2 và điều 26.3) qui định những người Việt ở nước ngoài phải đăng ký để giữ quốc tịch tại các sứ quán trước ngày 01/07/2014 nếu không sẽ bị mất quốc tịch. Đây là một hành động thách thức và bắt chẹt những người không chấp nhận chế độ cộng sản : các người phải phục tùng ta nếu không sẽ mất quốc tịch ! Nhưng trước kỳ hạn một tuần, ngày 24/06/2014, vì gần như không ai đăng ký cả, chính quyền cộng sản đã cho biểu quyết Luật Sửa Đổi Luật Quốc Tịch 2008 bãi bỏ hai điều khoản này. Như thế có nghĩa là họ đã phải nhượng bộ và nhìn nhận mọi người Việt hải ngoại và con cháu vẫn giữ nguyên quốc tịch Việt Nam.

Trở lại với vụ Phạm Minh Hoàng. Tại sao chính quyền cộng sản lại làm một hành động thô bạo, sai trái và ngây ngô đến như thế ? Họ bị mọi người quan tâm tới đất nước hoặc có chút kiến thức về luật pháp khinh và giận để bù lại được gì ?

Chắc chắn không phải là vì sợ Phạm Minh Hoàng sẽ phát triển cơ sở đảng Việt Tân trong nước vì Phạm Minh Hoàng bị theo dõi rất sát và cũng không ngây thơ đến nỗi đi tiếp xúc để kết nạp thành viên cho Việt Tân trong hoàn cảnh đó. Cũng không phải là để mở đường cho chính sách tước quốc tịch của những người dân chủ ở nước ngoài và có hai quốc tịch vì trên điểm này chính quyền cộng sản đã tự ý lùi bước. Nếu có thì cũng chỉ nhắm một vài người thôi và cũng chỉ làm mất mặt chế độ chứ chẳng có tác dụng gì. Người dân chủ nào cần được sự công nhận quốc tịch của một chính quyền độc tài hung bạo và không hiểu gì về quốc tịch ?

Lý do thực sự có lẽ chỉ giản dị là Đảng Cộng Sản nhìn tất cả những người đối lập dân chủ như những cái gai trước mắt cần phải nhổ đi và họ trục xuất tất cả những ai mà họ coi là thù địch và có thể trục xuất. Phạm Minh Hoàng là một trường hợp như thế. Thế giới tuy thấy hành động của họ là ngang ngược nhưng cũng chỉ ngao ngán chứ không phản ứng bởi vì các chính quyền dân chủ thường tránh không phê phán một hành động của một chính quyền khác là đúng hay sai trừ khi có sự bạo hành, bắt giam và bỏ tù. Cái giá mà họ phải trả chỉ là sự khinh thường, nhưng tự trọng là điều rất xa lạ đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau Phạm Minh Hoàng, Mẹ Nấm, Nguyễn Văn Đài và nhiều người khác sẽ phải chọn lựa giữa lưu đày và những án tù rất nặng, tương tự như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ.

Quốc tịch là mối quan hệ gắn bó đối với đất nước và nhất là đối với tương lai đất nước nhưng chính sách của Đảng Cộng Sản là bách hại những người quan tâm tới tương lai đất nước. Đối với họ một công dân Việt Nam tốt là một người không quan tâm tới đất nước. Cố gắng của họ là hủy diệt tình cảm quốc gia và thay vào đó bằng sự phục tùng Đảng. Cũng đừng quên rằng một trong những tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa Mác -Lênin là xóa bỏ các quốc gia. Không nên trông đợi Đảng Cộng Sản tôn trọng tinh thần dân tôc. Quốc tịch thực sự của Đảng Cộng Sản là Đệ Tam Quốc Tế.

Và họ không chỉ phá hoại đất nước trong tình cảm mà còn cả trong chủ quyền, lãnh thổ và môi trường. Các tài liệu sau này sẽ chứng minh rằng các đảo ở Trương Sa không bị chiếm mà đã bị dâng cho Trung Quốc để đổi lấy ơn huệ được thần phục. Họ đã cho Trung Quốc thuê dài hạn nhiều khu rừng đầu nguồn và thiết lập những khu của riêng người Trung Quốc, đã cho Formosa quy chế của một nhượng địa, đã biến Việt Nam thành một bãi rác để Trung Quốc trút bỏ những thiết bị cho những nhà máy than, thép, đạm, giấy không thể thiết lập ở Trung Quốc nữa vì quá lỗi thời và ô nhiễm. Điều 31 của Luật Quốc Tịch qui định : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài (và những người được nhập tịch Việt Nam) có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam …". Trong tinh thần của luật này những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam là những người đáng bị tước quốc tịch nhất.

Đảng Cộng Sản đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt. Nó đã chỉ thành công được một điều là phá hoại đến mức báo động tinh thần dân tộc. Sự phẫn nộ bất lực kéo dài quá lâu đối với một chính quyền tham bạo đã dần dần trở thành sự chán nản với chính đất nước Việt Nam. Năm 2008 khi luật này được thông qua đa số người Việt hải ngoại đã mừng vì khi hết hạn đăng ký quốc tịch họ sẽ hoàn toàn không còn là người Việt Nam nữa và sẽ rũ bỏ được mọi liên hệ với chính quyền này. Tại Đức tôi đã gặp một người được đặc cách giữ quốc tịch Việt Nam đã dứt khoát đòi bỏ quốc tịch Việt Nam vì "em không chấp nhận một quan hệ nào với chúng nó nữa". Anh này là một người sinh ra và lớn lên tại miền Bắc. Thật đau buồn.

Tước quốc tịch là một điều rất nghiêm trọng. Nó xúc phạm tới cội nguồn, lý lịch, tình cảm và phẩm gía của một con người. Chính vì thế mà luật pháp của các nước văn minh đã cấm việc tước quốc tịch hoặc chỉ cho phép trong những trường hợp rất đặc biệt với những lý do rất nghiêm trong. Tuy vậy không một quốc gia nào đã lên tiếng trong vụ Phạm Minh Hoàng, ngay cả nước Pháp, dù là nước đã giúp Việt Nam soan thảo luật quốc tịch và cũng là nước có bổn phận bảo vệ Phạm Minh Hoàng. Tại sao ? Lý do là vì các quốc gia chỉ can thiệp khi có vấn đề nhân đạo, nghĩa là những bản án tù rất dã man. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhở rằng những vấn đề lớn của Việt Nam chỉ có thể giải quyết được bởi người Việt Nam. Và thực ra chúng ta chưa hề có lý do nào để nghĩ khác. Mỹ là nước, ít nhất cho tới gần đây, quan tâm tới nhân quyền tại Việt Nam nhất, nhưng mối quan tâm đó đã không ngăn cản quan hệ thương mại Mỹ Việt đem lại 32 tỷ USD thặng dư cho chế độ Hà Nội mặc dù những vi phạm nhân quyền trắng trợn. Hỗ trợ quốc tế rất quý báu nhưng tương lại Việt Nam vẫn chủ yếu chỉ tùy thuộc người Việt Nam chúng ta.

Chế độ cộng sản phải chấm dứt để đất nước Việt Nam có thể có một tương lai. Chúng ta cũng không còn nhiều thời giờ vì đất nước đã quá tụt hậu và sự thất vọng đã quá cao. Nhưng tới bao giờ chế độ này mới chấm dứt ? Câu trả lời dứt khoát là : khi những người dân chủ Việt Nam hiểu rằng tự do phải đấu tranh để có và đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.

Nguyễn Gia Kiểng

(07/2017)

(1) Khái niệm quốc gia là một trong những tư tưởng nền tảng được trình bày trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, dự án chính trị của THDCĐN, Chương IV.

Published in Quan điểm