Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Hạn hán, đói kém, bất mãn trong dân chúng và ưu thế quân sự của nhà Minh dường như là các yếu tố chính kết hợp, khiến nhà Hồ sụp đổ trước đợt xâm lược của nhà Minh đầu thế kỷ 15.

hominh1

Thành Tây Đô ở Thanh Hóa

Hồ Quý Ly (1336-1407), người gốc ở Chiết Giang, Trung Quốc, có ông tổ là Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái thú Diễn Châu (Nghệ An ngày nay) hồi thế kỷ 10.

Dưới thời Trần Nghệ Tông, năm 1371, Quý Ly giữ chức Khu mật viện đại sứ, được vua gả em gái.

Trong vòng 20 năm, đến 1397, Quý Ly đã giữ chức Thái sư khuynh đảo toàn bộ triều Trần.

Năm 1397, Quý Ly cho xây thành Tây Đô ở tỉnh Thanh Hóa, sau này sẽ là kinh đô của nhà Hồ.

Đến năm 1400, Quý Ly chính thức bức vua Trần nhường ngôi, lập ra nhà Hồ, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu.

Nạn đói

Chưa đầy một năm, Hồ Quý Ly nhường ngôi ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng, nhưng thực tế vẫn nắm triều chính.

Nhà Hồ chỉ tồn tại 7 năm ngắn ngủi (1400-1407). Trong những năm này, Việt Nam trải qua các năm hạn hán 1401-4, và ngay sau đó là nạn đói năm 1405.

Sự thanh trừng tàn khốc với họ Trần cũng khiến Hồ Quý Ly có nhiều kẻ thù. Theo sách Việt sử Giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần, có vụ Hồ Quý Ly sát hại một lúc trên 370 người, trong đó có Thượng tướng Trần Khát Chân là người đã có công giết chết vua Chế Bồng Nga của Chiêm Thành trong trận đánh năm 1390.

Tháng 4/1406, vua Minh Thành Tổ sai tướng đưa 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình, người trá xưng là con vua Nghệ Tông, sang Việt Nam.

Trần Thiêm Bình tự nhận là người duy nhất còn lại của họ Trần và xin vua Minh xuất quân điếu phạt.

Đến biên giới, xảy ra giao tranh với quân nhà Hồ. Kết quả, quân Hồ bắt được Thiêm Bình, đem về chém đầu.

Nhưng cuối năm đó, nhà Minh đưa đại quân sang đánh. Nhà Minh đã huy động các vị tướng và binh lính thiện chiến nhất cho chiến dịch tấn công Đại Việt.

Hỏa khí

Theo nghiên cứu về vũ khí của Sun Laichen, để đối phó với hỏa khí của Đại Việt, vua Minh Thành Tổ ra lệnh sản xuất các khiên lớn và dày. Ông ra lệnh không được để lộ kỹ thuật làm súng cho đối phương, phải bảo đảm là khi rút quân, súng "phải được đếm theo số hiệu và không để một khẩu súng nào thất lạc". Trong số 215.000 quân Minh tham gia chiến dịch viễn chinh, khoảng 21.000 lính thuộc khẩu đội được vũ trang bằng súng.

Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh do Trương Phụ dẫn đầu tiến vào từ Quảng Tây, còn đội quân của Mộc Thạnh tấn công từ Vân Nam.

Sau các thắng lợi ban đầu, quân Minh tổ chức đánh thành Đa Bang, thuộc Sơn Tây, là tiền tuyến của quân Hồ.

Việc chiếm thành Đa Bang bộc lộ vai trò quan trọng của súng ống của quân Minh. Đa Bang là vị trí chiến lược quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống phòng thủ khi ấy của Đại Việt, và nhà Hồ tập trung quân tướng và vũ khí tốt nhất để phòng thủ nơi này.

Trận tấn công bắt đầu ngày 19 tháng Giêng, 1407. Khi quân Minh dùng thang ập vào thành mà leo lên, những người lính Việt chỉ có thể bắn vài mũi tên và đạn. Sau khi vào thành, quân Minh đối diện với các đoàn voi trận. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa để làm voi sợ, và đặc biệt, nhóm quân súng thần cơ đóng vai trò quyết định cho thắng lợi của quân Minh.

Các đoàn voi trận Đông Nam Á vốn vẫn là đối thủ đáng gờm trước quân Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, nhưng trước hỏa lực mạnh của đối phương, voi đành bỏ chạy.

Khi Đa Bang vỡ, quân nhà Hồ không còn ngăn được đà tiến về miền đông và nam của quân Minh.

Ngày 20 tháng Giêng, Đông Đô (Thăng Long) sụp đổ, và sáu ngày sau, Tây Đô (vùng Thanh Hóa) cũng rơi vào tay quân viễn chinh.

hominh2

Tranh vẽ Minh Thành Tổ

Chiến cuộc

Trong các trận chiến sau đó, súng của quân Minh cũng chứng tỏ hiệu quả.

Ngày 21 tháng Hai, trên Lục giang, quân Minh huy động thủy - lục quân với nhiều loại súng, tấn công 500 chiến thuyền của Hồ Nguyên Trừng, giết chết hơn 10.000 lính Việt.

Một nguồn sử Trung Hoa mô tả trận chiến là "súng bắn ra như sao rơi, sét đánh".

Đầu tháng Năm 1407, một trận lớn diễn ra ở bến Hàm Tử, Hưng Yên. Nhà Hồ huy động lực lượng đáng kể (70.000 quân) và nhiều chiến thuyền kéo dài trên sông đến năm cây số. Mặc dù quân Hồ cũng sử dụng súng chống trả, nhưng hỏa lực quân Minh vẫn đủ sức tạo chiến thắng, với 10.000 lính Việt tử trận.

Ngày 16-17 tháng Sáu 1407, quân Minh kết thúc chiến dịch với việc bắt sống Hồ Quý Ly và các con.

Chiến thắng nhanh chóng khiến tướng Hoàng Phúc bình luận : "Thành công nhanh chóng thế này chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ".

Sách Việt sử Toàn thư của Phạm Văn Sơn còn nhắc một chi tiết. Khi quân Minh tiến vào nước Nam, đã thả xuống sông những tấm ván có viết bài hịch, nói rằng họ sang dẹp nhà Hồ có ý khôi phục lại dòng dõi nhà Trần và cứu nhân dân khỏi vòng đói khổ.

Sách viết : "Quân sĩ của ta xem được bài hịch này nhiều kẻ nản lòng. Bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu trạng Mạc Đỉnh Chi ở lộ Hải Dương) và Nguyễn Huân bất bình với nhà Hồ bỏ theo quân Minh được trọng đãi. Nhờ có sự cộng tác của bọn này, nội tình quân dân nước Nam thời đó bị phanh phui hết thảy ra trước mắt quân xâm lược".

hominh3

Lăng mộ Minh Thành Tổ ở Bắc Kinh

Hồ Quý Ly cùng các con Hán Thương, Nguyên Trừng bị quân Minh giải về Trung Quốc.

Tại đây, Minh Thành Tổ hỏi Quý Ly : "Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không ?"

Quý Ly không trả lời, sau đó, cùng Hán Thương, bị đưa đi làm lính tuần ở Quảng Tây.

Con của ông, Nguyên Trừng, giỏi chế tạo vũ khí, được nhà Minh phong làm quan, sau này viết sách Nam Ông Mộng Lục.

Sau khi đánh bại nhà Hồ, từ 1407, nhà Minh tự đặt Việt Nam thành quận Giao Chỉ của Trung Quốc. Việt Nam lúc này rơi vào sự đô hộ của Trung Quốc.

Bình định xong, nhà Minh đặt ba cơ quan hành chính : Ty Đô chỉ huy sứ, ty Thừa tuyên bố chính sứ và ty Đề hình án sát sứ, thuộc quyền Đô đốc Lã Nghị và Thượng thư Hoàng Phúc.

Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly đã chuẩn bị cho khả năng bị xâm lăng từ sớm, và huy động một lực lượng quân đội lớn chưa từng thấy.

Tuy vậy, chế độ nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng. Lý do, bên cạnh các yếu tố khác như bất mãn của tầng lớp quý tộc và dân chúng trong nước, sai lầm chiến lược, còn là ưu thế quân sự, bao gồm súng đạn, của nhà Minh.

Nguồn : BBC, 10/06/2019

Published in Văn hóa

Lê Đức Anh - Giang Trạch Dân và cuộc họp 'kiên định con đường xã hội chủ nghĩa (BBC, 26/04/2019)

Báo Việt Nam vừa giới thiệu lại lời cố Đại tướng Lê Đức Anh và lãnh đạo Giang Trạch Dân của Trung Quốc hồi 1991 cùng đồng ý 'bảo vệ chủ nghĩa cã hội' và sự lãnh đạo của hai đảng cộng sản trong bối cảnh Liên Xô tan rã.

thanhdo1

Tổng bí thư Giang Trạch Dân của Trung Quốc ký hiệp định biên giới với những lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô tại Moscow năm 1991. Sau đó, Liên Xô tan rã, gây choáng cho ban lãnh đạo Trung Quốc.

Trang VietnamNet (24/04/2019) có bài "Phút gặp riêng giữa Đại tướng Lê Đức Anh và ông Giang Trạch Dân" trích lại nhiều đoạn trao đổi giữa hai người mà ông Lê Đức Anh ghi lại trong hồi ký.

Tại cuộc họp ở Bắc Kinh vào tháng 7/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh với tư cách là đặc phái viên của Tổng bí thư Đỗ Mười, đã cùng ông Hồng Hà, trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, được các quan chức cao cấp Trung Quốc đón tiếp.

Cùng nhau vì chủ nghĩa xã hội

Đây là thời điểm mà như Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân nói với khách Việt Nam, người Trung Quốc "giật mình" (xúc mục kim tâm) trước sự sụp đổ của Đảng cộng sản Liên Xô.

Giới quan sát cho rằng đây là lý do khiến hai Đảng cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam "tìm đến nhau" sau nhiều năm thù địch, kể từ Cuộc chiến Biên giới 1979.

Những gì đoàn Việt Nam và phía chủ nhà phát biểu xác nhận điều này.

Đại tướng Lê Đức Anh đã cảm ơn viện trợ của Bắc Kinh cho Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến và ca ngợi Trung Quốc trong hoàn cảnh mới, làm chỗ dựa cho Việt Nam :

"Bây giờ Trung Quốc hơn một tỷ dân, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đó là viện trợ to lớn nhất, không thể đánh giá hết được".

Đáp lời, Tổng bí thư Giang Trạch Dân nói :

"Tôi nghe thông báo về Đại hội 7, thấy các đồng chí kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tự đáy lòng tôi thấy rất phấn khởi".

Ông Lê Đức Anh nói thêm, khẳng định "sự phấn khởi trước lập trường quan điểm" của lãnh đạo Trung Quốc, và "niềm tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa".

thanhdo2

Hai ông Lê Đức Anh và Giang Trạch Dân gặp nhau trong tình đồng chí hồi tháng 7/1991

"Trong thời điểm này, Trung Quốc đóng vai trò cực kỳ to lớn trước sự tồn vong, còn hay mất của chủ nghĩa xã hội, của phong trào độc lập dân tộc trên thế giới. Đó là nhận thức sâu sắc của chúng tôi.

"Về phía Việt Nam, chúng tôi kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên không cần lập mặt trận chống ai, nhưng Trung Quốc ổn định, vững, là niềm cổ vũ lớn cho phong trào cộng sản quốc tế".

Cũng tại cuộc gặp, ông Giang Trạch Dân nêu ra các nguy cơ và cho đoàn Việt Nam biết sự kiên định bảo vệ Đảng cộng sản và đường lối xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là gì.

- Đó là chống mọi âm mưu lật đổ, chống cách dùng chế độ đa đảng để lật đổ Đảng cộng sản.

- Ngoài ra là việc coi các nước phương Tây muốn dùng chiêu bài dân chủ, tự do, nhân quyền để thực hiện "diễn biến hòa bình".

- Trung Quốc kiên quyết bác bỏ con đường nghị viện kiểu phương Tây, không cho phép có đảng đối lập, cảnh giá với tư tưởng luân phiên nắm chính quyền.

- Thêm nữa, quân đội nhân dân phải tuyệt đối đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Và tuyên truyền quả thật phải không ngừng cải tiến, đi sâu vào lòng người... Về công tác tư tưởng, phải tính đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật, dùng truyền thông hiện đại cho tuyên truyền.

- Trung Quốc cũng nói họ chống cả tự do hóa tư sản nhưng học tập kỹ thuật tiên tiến, cách quản lý khoa học, văn hóa ưu tú của tư sản.

- Cuối cùng là quan điểm chuyển hướng cải cách mở cửa, khuyến khích nước ngoài đầu tư nhưng phải tôn trọng pháp luật.

Một kết quả ngay lập tức của cuộc gặp Giang Trạch Dân - Lê Đức Anh là vào tháng 11/1991, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt sang thăm chính thức Trung Quốc.

Hai bên đã ra bản thông cáo chung và ký hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ .

thanhdo3

Cho đến nay, giống như Trung Quốc, Việt Nam vẫn kiên định theo con đường 'chủ nghĩa xã hội'

Đặc biệt họ cũng ký kết "quan hệ bình thường giữa hai đảng sau hơn 10 năm trắc trở", theo báo Việt Nam.

Sau nhiều năm nhìn lại, hiện có hai dòng quan điểm về việc bình thường hóa quan hệ Trung - Việt những ngày cuối của Chiến tranh Lạnh.

Một quan điểm cho rằng đây là điều tích cực cho môi trường địa chính trị chung tại Đông Nam Á, sau nhiều 'cuộc chiến Đông Dương' liên tiếp và tạo cơ hội cho Việt Nam có hòa bình để đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.

Một quan điểm khác, phổ biến trong một số giới ở Việt Nam và hải ngoại, cho rằng để đổi lấy bình thường hóa, Đảng cộng sản Việt Nam đã nghiêng về phía Trung Quốc trong nhiều năm sau đó.

Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh qua đời ở Hà Nội hôm 22/04, hưởng thọ 99 tuổi.

Ông cũng từng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng trong thời gian có các cuộc pháo kích xuyên biên giới Việt - Trung của cả hai bên, và khi xảy ra trận Gạc Ma 14/3/1988, với ít nhất 64 bộ đội Việt Nam bị Trung Quốc bắn chết hết và chiếm đảo.

Nguồn : BBC tiếng Việt, 26/04/2019

***********************

'Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?' (BBC, 17/10/2014)

Tuy nhiên, sự kiện cuộc gặp cấp cao đó đã diễn ra 'quá lâu' và nay giới nghiên cứu 'không còn quan tâm' nữa, theo một chuyên gia khác về lịch sử Đảng từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

thanhdo4

Hội nghị Thành Đô được nhóm họp vào ngày 3-4/9/1990 tại Trung Quốc.

Song nếu cần tìm hiểu về hội nghị này, thì những ai quan tâm nên tiếp cận với Văn phòng Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn theo chuyên gia này.

Trong khi đó, Hội nghị Thành đô là một sự kiện vẫn còn tác động tới đường lối và cán bộ của bộ máy lãnh đạo của Việt Nam ngày nay, điều được gọi là 'Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch', theo một cựu lãnh đạo cấp Vụ ngành ngoại giao Việt Nam.

Trước hết, trao đổi với BBC hôm 17/10/2014, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nêu quan điểm về mức độ quan tâm của giới nghiên cứu tới cuộc gặp cấp cao từng xảy ra từ năm 1990 vốn đang được dư luận Việt Nam 'quan tâm' trở lại gần đây :

"Quan tâm là quan tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi", Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc nói.

'Hỏi Văn phòng Trung ương Đảng'

Khi được hỏi Hội nghị được cho là có vai trò mở ra bình thường hóa quan hệ giữa Việt - Trung sau nhiều năm xung đột, chiến tranh căng thẳng, tại sao lại không được giới nghiên cứu quan tâm, giáo sư Phúc đáp :

"Bởi vì đấy là thuộc về lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, còn chúng tôi về lịch sử không được am tường những vấn đề đó.

"Cứ liên lạc với chỗ Văn phòng Trung ương Đảng thì may ra người ta biết".

Hôm thứ Sáu, khi được hỏi về việc có nên giải mật để công bố hay bạch hóa trước công luận và tại Quốc hội các văn kiện liên quan 'mật nghị', hay 'mật ước Thành Đô 1990 hay không, kể cả các văn bản, văn kiện chỉ đạo đường lối, sách lược, chính sách liên quan 'chịu tác động' từ Hội nghị này, một sử gia khác về lịch sử Đảng nói :

thanhdo5

Các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng dự Hội nghị Thành Đô.

"Tôi nghĩ rằng văn bản nào chăng nữa thì độ mật, độ bí mật gì đó, nếu có, thì nó chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định.

"Và nếu có những văn bản như thế, thì tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn toàn nên công khai, chứ không có gì phải giữ bí mật quá lâu", Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói.

"Nhưng chỉ có điều Việt Nam cầm văn bản đó, thì Việt Nam công khai đến đâu, đến cấp nào, đấy là một câu chuyện.

"Phía Trung Quốc thì nói thật là có những tài liệu đến nay đã hơn nửa thế kỷ rồi, bây giờ người ta cũng chẳng công khai. Phía Trung Quốc thì rõ ràng rất khó lấy được tài liệu chính thức từ phía họ.

"Còn phía Việt Nam, các tài liệu đã công khai rất nhiều, nhưng tôi nghĩ không phải là đã hết. Mà chắc chắn là vẫn còn những điều gì đó mà chưa công khai, thì văn bản đó tôi nghĩ, nếu có, thì nên công khai.

"Để cho nhân dân, để cho cán bộ, để cho tất cả mọi người có thể hiểu được thực sự, thực hư lúc bấy giờ, trong bối cảnh như vậy, với tư cách là những cá nhân, không phải với tư cách là một tập thể, đương nhiên những cá nhân có trọng trách và trách nhiệm, thì đã có những thỏa hiệp như thế nào với phía Trung Quốc về câu chuyện này. Đấy tôi nghĩ là điều nên làm".

'Thất thố ngoại giao ?'

Hôm 15/10/2014, một cựu cán bộ ngoại giao của Việt Nam, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, nói với BBC một số nguyên tắc về ngoại giao và thể thức (protocol) ngoại giao có thể đã bị Trung Quốc vượt qua và đem lại lợi thế cho mình trong cuộc mật đàm.

Ông Dương Danh Dy nói : "Phê phán tại sao Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như thế kia, nói thế thì nó đụng nhiều người".

"Tôi biết chuyện này khá rõ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi vì Trung Quốc rõ ràng có ý định trong chuyện đưa một số nhà lãnh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc bẫy của họ.

"Chẳng hạn như chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lão thành của Đảng cộng sản Việt Nam, thì họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế thì những ông đã già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó thì làm sao mà hội ý được với nhau... ?"

Cũng hôm thứ Tư, một cựu quan chức khác ở Bộ Ngoại giao Việt Nam, người không muốn tiết lộ danh tính, nói với BBC :

thanhdo6

Có ý kiến nói sự 'thôi chức vụ' của ông Nguyễn Cơ Thạch là điều kiện bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.

"Một số cán bộ ngoại giao cấp cao có thể đã tiếp cận được văn bản và các tài liệu, nhưng việc được phép phổ biến, công bố tới đâu, có những nguyên tắc hạn chế".

Theo cựu nhân viên ngoại giao này, phía Trung Quốc đã chuẩn bị rất kỹ các nội dung đàm phán, ký kết, kể cả những điều được cho là 'phụ lục' nhưng lại có vai trò như những nguyên tắc chỉ đạo cho bình thường hóa và cả 'hậu bình thường hóa' lẫn 'tái cấu trúc' quan hệ và chiến lược 'quan hệ, hợp tác' giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi là 'các thỏa thuận cấp cao' và 'sự kế tục'.

Trong đó cụ thể có các nguyên tắc 'chỉ đạo' đàm phán không chỉ liên quan tình hình chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà còn các phương châm 'chỉ đạo chiến lược và lâu dài' về giải quyết tranh chấp, xung đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính trị dưới danh nghĩa 'quan hệ về ý thức hệ' liên Đảng v.v...

'Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch'

Hôm 17/10, một cựu lãnh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn còn 'đang tác động' tới tâm lý của lãnh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ liên quan Trung Quốc.

Theo ý kiến này, việc ông Nguyễn Cơ Thạch, khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao, bị Trung Quốc 'gây áp lực' với Việt Nam và đặt điều kiện phải 'loại bỏ' để bình thường hóa quan hệ, đã gây ra một 'nỗi sợ' với giới chức không chỉ trong ngạch ngoại giao của Việt Nam, suốt từ đó đến nay, trong các quan hệ, công việc của nhà nước liên quan Trung Quốc.

"Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch là việc Trung Quốc đã khống chế toàn bộ lãnh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam", cựu Lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao, ông Đặng Xương Hùng nói.

"Trong đó không chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc".

Theo cựu quan chức ngoại giao nay đang tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ, việc này tạo thành một hội chứng đáng kể mà theo ông :

"Bất cứ nhân vật nào lên đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều, không dám đứng ra như dạng ông Nguyễn Cơ Thạch đã đứng ra công khai chống lại việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các điều kiện bất lợi cho Việt Nam) thì sẽ bị 'xử lý'.

"Nhiều nhân vật sau này, khi đụng chạm đến vấn đề Trung Quốc, khi đụng chạm giải quyết vấn đề biên giới cũng như vấn đề biên giới, cũng như những vấn đề về tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như thế, đều có những dấu hiệu của hội chứng Nguyễn Cơ Thạch.

"Tức là rất sợ những ý kiến cả nhân của mình về vấn đề quan hệ với Trung Quốc... rất sợ Trung Quốc sẽ xử lý qua việc khống chế lãnh đạo cao nhất của Việt Nam và làm ảnh hưởng đến chức vụ của mình với những quyền lợi và lợi ích của mình trong cơ cấu nhà nước".

'Can thiệp nhân sự ?'

thanhdo7

Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh đón ông Giang Trạch Dân.

Cũng hôm 17/10, khi được hỏi có thể có một khả năng tác động sâu và cao như vậy từ phía Trung Quốc vào nhân sự lãnh đạo của Việt Nam hay không, thông qua trường hợp được cho là đã xảy ra với cố Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận thêm :

"Cách gây sức ép của Trung Quốc trên tất cả các mặt, kể cả về mặt nhân sự nếu như Trung Quốc có thủ đoạn như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn có thể có.

"Nhưng vấn đề đặt ra là ví dụ nhân sự như ông Nguyễn Cơ Thạch mà Trung Quốc không thích bởi vì sao ? Nguyễn Cơ Thạch có thể có quan niệm đối ngoại khác, nó rộng mở hơn, nó thoáng hơn, mà người Trung Quốc không muốn Việt Nam có một nhân vật như vậy ở trong giới lãnh đạo cao cấp.

"Có thể họ gây sức ép đòi hỏi không nên như vậy, không nên thế nọ, không nên thế kia, cái điều đó người Trung Quốc có thể làm lắm, tôi cũng tin là người Trung Quốc có thể làm các điều này.

"Tức là về mặt nào đấy có thể nói là họ muốn can thiệp vào vấn đề nhân sự của riêng Việt Nam.

"Nhưng về phía Việt Nam, ai là người thay ông Nguyễn Cơ Thạch, và người đó có làm theo ý đồ của Trung Quốc hay không ?

"Đấy lại là một việc khác và người Trung Quốc không thể lãnh đạo, không thể chỉ đạo việc đó được", sử gia chuyên về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà Nội nêu quan điểm.

Hôm 15/10, một quan chức Vụ trưởng, thuộc Ban Dân vận Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nói đang có yêu cầu công khai ra Quốc hội Việt Nam về Hội nghị Thành Đô, ngay cả trước khi có một tài liệu được cho là của Ban tuyên huấn Trung ương của Đảng về Hội nghị được loan truyền trên mạng Internet.

"Văn bản của Ban Tuyên giáo... thì nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề Thành Đô.

"Nhưng chúng tôi hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không biết là có đến nơi, đến chốn không.

"Và chúng tôi đang muốn là Quốc hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này", ông Nguyễn Khắc Mai nói với BBC từ Hà Nội.

Nguồn : BBC tiếng Việt, 17/10/2014

Published in Diễn đàn

30/04 : Mỹ giảm viện trợ đã tác động thế nào đến Việt Nam Cộng Hòa (BBC, 30/04/2019)

Chiến tranh Việt Nam, mặc dù chính thức kết thúc ngày 30/4/1975, vẫn tiếp tục là chủ đề tranh luận trong giới nghiên cứu tại Hoa Kỳ.

bienco1

Ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, vào hôm 30/4/1975

Có hai trường phái chính trong giới nghiên cứu Mỹ, có thể tạm gọi là "truyền thống" (orthodox) và "xét lại" (revisionist) về cuộc chiến.

Phái truyền thống đại diện cho lập trường chủ đạo trong đa số đại học và truyền thông Mỹ. Đa số những người này cho rằng cuộc chiến ở Việt Nam là sai lầm và bi kịch.

Nhiều người trong nhóm xét lại thì cho rằng Mỹ tham chiến ở Việt Nam là có lý do chính đáng, và đã bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng.

Tranh luận giữa hai phe thể hiện trong nhiều chủ đề liên quan cuộc chiến, trong đó có câu hỏi về tác động của việc Mỹ giảm viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 1973, và giúp đỡ của Liên Xô - Trung Quốc cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

bienco2

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn được Mỹ yểm trợ hỏa lực sau 1973

Xe tăng, súng pháo bên nào ưu thế hơn ?

Vào năm 1973, ước đoán bộ đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam và dọc biên giới ở Lào và Campuchia nhận thêm xe tăng - từ 100 xe lên tới 500 và sau đó là 650 xe tăng, ít nhất gấp đôi so với quân Việt Nam Cộng Hòa.

Giới nghiên cứu truyền thống cho rằng khi chỉ xét về hỏa lực, quân lực Việt Nam Cộng Hòa có ưu thế hơn.

Còn các học giả thuộc phe xét lại, George R. Dunham và David A. Quinlan đồng ý rằng đến năm 1975, quân lực miền Nam có 1.200 khẩu pháo, so với 400 của bộ đội miền Bắc.

Nhưng họ nói các khẩu pháo chính của bộ đội miền Bắc lại là pháo tự hành 122 mm và 130 mm, cùng pháo chống tăng SU-122 của Liên Xô. Các loại súng này bắn nhanh hơn, xa hơn pháo chính của miền Nam, sử dụng 105 mm và 155 mm của Mỹ.

Vũ khí Liên Xô cũng cơ động, giúp bộ đội miền Bắc phản kích lại số lượng nhiều hơn của miền Nam.

Miền Nam có một số khẩu pháo 175 mm bắn xa của Mỹ, nhưng SU-122 và 130 mm của Liên Xô lại chính xác hơn.

Đến cuối 1973, bộ đội miền Bắc ở miền Nam được trang bị tên lửa đất đối không vác vai SA-7 ; một số đơn vị có SA-2. Có trung đoàn có cả pháo cao xạ ZSU-23, là loại chưa từng dùng ở Việt Nam.

bienco3

1966 : Phi công miền Bắc học lái Mig-21 với giáo viên Liên Xô

Giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa

Việc Mỹ giảm viện trợ cho miền Nam là một nửa vấn đề, nửa còn lại là giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc cho miền Bắc, một tranh cãi nữa giữa hai phe nghiên cứu.

Một số nhà nghiên cứu truyền thống nói sau hiệp định Paris 1973, viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc cũng giảm, và chủ yếu mang tính chất kinh tế. Điều này dẫn tới quan điểm rằng sự sụp đổ của miền Nam năm 1975 không phải do Mỹ cắt viện trợ, mà do sai lầm và yếu kém của Sài Gòn.

Phe xét lại thì nói quân lực miền Nam sau 1974 gặp thiếu thốn hơn bộ đội miền Bắc. Sau khi Mỹ đã rút quân, miền Bắc không còn phải đối phó hỏa lực của Mỹ, đặc biệt là không quân Mỹ.

Cuối năm 1974, tướng Viktor Kulikov, tổng tham mưu trưởng Liên Xô, thăm Hà Nội. Sau đó, tàu vận chuyển quân sự của Liên Xô cho miền Bắc tăng mạnh.

George J. Veith chỉ ra một điểm khác, là vai trò đào tạo của Liên Xô. Theo ông, Chiến dịch Xuân - Hè 1972 thất bại vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp không hiểu cách điều động cùng lúc các cánh quân gồm bộ binh, pháo binh và xe tăng, một yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Veith nói, sau 1972, bộ đội Bắc Việt "cần trở thành quân đội hiện đại, và chỉ có Liên Xô có thể đào tạo".

Mùa thu 1973, nhiều chỉ huy Bắc Việt được đưa sang Liên Xô học cách đánh này.

George J. Veith cũng chỉ ra rằng địa lý Việt Nam khiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa "phải phòng thủ mọi nơi, mọi lúc", cần đông quân, đông khí tài (nghĩa là cần viện trợ). Còn bộ đội miền Bắc, thông qua đường mòn Hồ Chí Minh, có thể tấn công với quân số nhỏ hơn, cơ động hơn.

Ngoài ra còn là bối cảnh miền Nam, từ sau hiệp định Paris, cũng lâm vào tình trạng khó khăn kinh tế triền miên.

George J. Veith trích dẫn một thăm dò với quân nhân sư đoàn 3 của Việt Nam Cộng Hòa năm 1973. Theo đó, 90% gia đình binh sĩ đã không ăn thịt trong hơn một tháng.

Tháng 8/1974, Hạ viện Mỹ đồng ý chuẩn chi 700 triệu đôla trong số 1 tỉ đã được chấp thuận cho miền Nam Việt Nam. Nhưng sau khi đã tính phí tổn của chương trình viện trợ quốc phòng, con số thực còn 500 triệu.

Với số tiền này, Sài Gòn chỉ có thể mua đạn dược, xăng dầu, dẫn tới tiên đoán rằng đến cuối tài khóa năm 1975 (30/06/1975), quân lực miền Nam sẽ hầu như không còn xăng và dự trữ đạn chỉ còn 30 ngày.

Tranh cãi

Tháng 10/1974, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Cao Văn Viên ra lệnh mỗi lần chỉ được có hai cuộc hành quân quan trọng đồng thời, mỗi cuộc không quá 10 ngày trong tháng.

Tướng Viên báo cáo với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rằng miền Nam "sẽ không có khả năng chống lại quân cộng sản được trang bị và tiếp tế đầy đủ hơn" (trích trong sách của George J. Veith).

Sau 1974, thiếu hụt phụ tùng, cắt giảm nhiên liệu còn làm tiêu hao khả năng không vận của không lực miền Nam.

Vì vậy George J. Veith, trong sách Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75, kết luận vào năm 1975, nếu quân miền Nam "được chi viện đầy đủ và được Hoa Kỳ yểm trợ", kết cục chiến tranh có thể đã khác.

Nhưng Gary R. Hess không tin như vậy. Viết trong Vietnam : Explaining America's Lost War, ông nói :

"Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 bộc lộ khuyết điểm của chính sách Nixon-Kissinger và các lực đẩy chính trị bên dưới ở Việt Nam mà Mỹ không thể thay đổi".

"Cho rằng đưa thêm giúp đỡ quân sự từ Mỹ có thể thay đổi kết cục, là bỏ qua 20 năm vô ích cố gắng nuôi dưỡng một chính phủ miền Nam có thể trụ vững, những khiếm khuyết kinh niên của chính phủ đó, và sự kiên trì của miền Bắc và quân nổi dậy miền Nam".

Nguồn : BBC tiếng Việt, 30/04/2019

*******************

1964-1975 : Trung Quốc ‘viện trợ Hà Nội nhưng không thể chỉ huy’ (BBC, 29/04/2019)

Một nghiên cứu mới về viện trợ Trung Quốc cho Bắc Việt Nam từ 1964 tới 1975 kết luận Trung Quốc góp phần giúp miền Bắc chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng Bắc Kinh không tác động nổi tới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

bienco4

Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai năm 1953

Bài viết Reassessment of Beijing's economic and military aid to Hanoi's War, 1964-75 của Shao Xiao & Xiaoming Zhang vừa đăng trên tạp chí học thuật Cold War History tháng 4/2019.

Hai tác giả nói viện trợ của Trung Quốc thay đổi suốt chiến tranh, đạt đỉnh cao năm 1965, 1967, 1972, và 1974.

Trung Quốc viện trợ để phục vụ lợi ích riêng của nước này. Vì vậy, sự thay đổi trong viện trợ khiến Hà Nội nghi ngờ ý định thật của Bắc Kinh.

Theo lịch sử chính thức của Trung Quốc, từ thập niên 1950 tính tới 1975, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 20 tỉ nhân dân tệ. Trong đó, 1,4 tỉ là cho vay không lãi suất.

bienco5

Tranh cổ động của Trung Quốc mô tả 'bà mẹ Việt Nam căm thù diệt Mỹ'

Hai tác giả nói đóng góp của Trung Quốc cho chiến thắng của Hà Nội là không thể phủ nhận. Nhưng viện trợ này chưa bao giờ thuần túy hữu nghị.

Sau khi xem Liên Xô là đe dọa lớn, Mao Trạch Đông tìm cách hòa hoãn với Mỹ, khiến Hà Nội lo lắng.

Trung Quốc có lúc tăng viện trợ cho Hà Nội nhưng cũng có lúc giảm đi để bày tỏ bất mãn, như khi Hà Nội đàm phán hòa bình với Mỹ năm 1968 và 1969.

Hai tác giả nói : "Không thấy có bằng chứng nào tồn tại rằng viện trợ Trung Quốc tác động tới các quyết định và cách tiến hành chiến tranh của Hà Nội".

"Hà Nội thao túng khéo mối quan hệ với Bắc Kinh để có viện trợ đáng kể", hai tác giả viết.

Sau 1975, Hà Nội không còn phải che giấu sự nghi ngờ Trung Quốc, dẫn tới cuộc chiến ngắn ngày năm 1979.

Hai tác giả kết luận, khi nhìn lại, hóa ra sự hỗ trợ của Trung Quốc cho Việt Nam có thể xem là "thất bại ngoại giao lớn nhất" của Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh.

bienco6

Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông

Viện trợ sau Hiệp định Paris 1973

Năm 1974, viện trợ Trung Quốc cho Hà Nội ở khoảng 2,5 tỉ nhân dân tệ, ngoài ra là 2 tỉ tệ cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Lúc này, Trung Quốc cho rằng Hà Nội "cần nghỉ ngơi", trong lúc Nam Việt Nam, Lào và Campuchia "dựng xây hòa bình, trung lập" trong 5 tới 10 năm nữa.

Bắc Kinh lúc này xem Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một thực thể riêng.

Trước 1973, viện trợ của Bắc Kinh cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam luôn do Hà Nội xử lý. Nhưng từ 1973, Bắc Kinh xem viện trợ này là riêng biệt, không để Hà Nội kiểm soát.

Nhưng Hà Nội phản đối điều này, buộc Bắc Kinh sau đó phải thay đổi trở lại, để Hà Nội kiểm soát.

Sau khi có hiệp định Paris 1973, Trung Quốc xem chiến tranh Việt Nam thế là hết, và vì vậy cần giảm viện trợ vũ khí cho Hà Nội.

Ngày 26/10/1974, Trung Quốc và Việt Nam ký thỏa thuận lần chót, cung cấp cho Hà Nội 850 triệu tệ cho kinh tế và vũ khí, cùng 50 triệu đôla tiền mặt cho năm 1975.

Sau khi Sài Gòn sụp đổ, vào ngày 31/05/1975, Bắc Kinh lại đồng ý gửi cho Hà Nội 21 triệu tệ.

Nhưng tháng Tám 1975, Bắc Kinh bác yêu cầu xin thêm của Hà Nội.

Ngày 25/09/1975, Bắc Kinh hứa gửi 100 triệu tệ trong năm 1976, nhưng lần này là cho vay, yêu cầu Việt Nam trả lại sau 10 năm.

Theo hai tác giả, không thấy có bằng chứng nào trong hồ sơ Trung Quốc rằng kể từ đó, có thêm thỏa thuận viện trợ nào giữa hai nước.

Tác giả Shao Xiao công tác ở khoa lịch sử, Đại học Tế Nam, Quảng Châu, còn ông Xiaoming Zhang làm việc ở Air War College, Alabama, Hoa Kỳ.

Góc nhìn Việt Nam

Về phía Việt Nam, một nghiên cứu gần đây năm 2016 của Lưu Văn Quyết, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, nói Trung Quốc "thay đổi cách nhìn cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam ; điều chỉnh trong chính sách viện trợ bằng việc cắt giảm viện trợ kinh tế, từ cam kết "cung cấp bất kỳ thứ gì cần thiết cho Việt Nam", sang việc nhấn mạnh "để cho Trung Quốc nghỉ xả hơi" ; gây một số khó khăn trong việc vận chuyển các mặt hàng viện trợ quá cảnh của Liên Xô và các nước khác cho Việt Nam".

Đây là đoạn trích từ bài "Tác động của hòa hoãn Trung - Mỹ đến chính sách viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam trong và sau năm 1972" của ông Lưu Văn Quyết.

Trong bài này, tác giả Việt Nam nói : "Để đạt được mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, Việt Nam đôi lúc hoặc bỏ ngỏ hoặc không gay gắt trong một số vấn đề phát sinh với Trung Quốc. Những vấn đề về biên giới lãnh thổ và một số vấn đề khác vốn bị cố tình giảm nhẹ đi trong điều kiện Việt Nam đang tranh thủ viện trợ, dốc toàn sức lực cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước".

"Vì vẫn muốn nắm vấn đề Việt Nam để tạo lợi thế trong quan hệ với Mỹ và tránh để Liên Xô nhảy vào lấp chỗ trống, tạo nên uy hiếp mới sau khi Mỹ rút quân. Trung Quốc vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam, dù số lượng có giảm so với những giai đoạn trước".

Nguồn : BBC tiếng Việt, 29/04/2019

Published in Diễn đàn

Nhóm Greentrees mới ra mắt bộ phim tài liệu ngắn với tên gọi "Don't Be Afraid", và phóng viên BBC có dịp được xem và chuyện trò với đoàn làm phim về bộ phim này.

so1

Khách mời đến xem buổi công chiếu phim "Sợ ???" (Don't Be Afraid) hôm 16/3 trước khi phim được đổi tên từ "Đừng sợ"

Bộ phim tập trung vào thảm họa cá chết do công ty trách nhiệm hữu hạn Hưng Nghiệp Formosa gây ra ở dọc bãi biển miền Trung vào 2016 và giới hoạt động cũng như những người dân đấu tranh đòi lại bồi thường thích đáng nhiều năm qua.

Trả lời BBC hôm 12/4, đại diện đoàn làm phim cho biết đoàn muốn làm bộ phim này vì muốn "có một cách tiếp cận khác về việc phổ cập nhân quyền và nhận thấy phim tài liệu là một cách hiệu quả để nâng cao ý thức xã hội".

"Chúng tôi đồng thời phát hiện ra là các linh mục ủng hộ dân chủ ở miền Trung cũng mong muốn cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến cuộc sống khó khăn của người dân nơi đây qua các thước phim tài liệu", đại diện đoàn làm phim xin giấu tên cho biết.

Trong lúc bộ phim được quay, Hoàng Bình, một nhà hoạt động môi trường hợp tác làm bộ phim đã bị bắt và tuyên án 14 năm tù giam khiến đoàn cũng muốn "làm bộ phim để cảm ơn Hoàng Bình".

"Tinh thần bất khuất, kiên cường của họ là ngọn lửa cần thắp sáng, lan toả mạnh mẽ để khích lệ phong trào đấu tranh dân chủ hiện nay", đại diện đoàn làm phim nói.

Bộ phim được làm trong hơn hai năm kết hợp với một nhóm bạn trẻ và chỉ định làm phim tài liệu nghệ thuật về thảm hoạ Formosa thuần túy thông qua đời sống thường nhật của một hộ ngư dân tại Kỳ Anh - Hà Tĩnh.

Nhưng sau khi thực hiện được vài tháng thì gia đình ngư dân đó đi lao động Đài Loan cộng với sự đe doạ của an ninh đối với đoàn làm phim nên bộ phim phải dừng lại.

Sau cuộc biểu tình 2/10/2016, đoàn lại quyết định làm bộ phim với chủ đề rộng hơn về phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt nam với vai trò của xã hội dân sự qua thảm hoạ Formosa.

Bị an ninh truy đuổi, đe dọa

Trong quá trình làm phim, đoàn cho biết họ luôn bị an ninh Hà Tĩnh và Nghệ an theo dõi, truy đuổi.

"Họ đọc tên chúng tôi trên loa phường và yêu cầu nhân dân không chứa chấp những 'thành phần nguy hiểm, phản động".

"Họ đến nhà những người dân được chúng tôi phỏng vấn để đe dọa. Họ cho cảnh sát giao thông chặn đường xe chúng tôi để an ninh mặc thường phục gây gổ, khám xét tịch thu máy móc, điện thoại. Nhưng rất may chúng tôi được người dân và các cha xứ giúp đỡ, giải cứu, che chở, tránh được sự truy đuổi của an ninh trong đêm mưa bão, bảo toàn dữ liệu phim".

so2

Một cảnh trong phim : Hoàng Bình cùng một số người dân trong ô tô sau khi bị công an chặn phủ bạt và đâm lủng lốp xe.

"Không lâu sau đó, Hoàng Bình, người kết nối, dẫn dắt chúng tôi đi quay phim, phỏng vấn các nạn dân bị bắt. Bạch Hồng Quyền bị truy nã. Một vài thành viên bị bắt trong vụ việc khác. Không khí lúc đó rất căng thẳng".

Làm lại phim nhiều lần

Bộ phim ban đầu có tên "Trỗi dậy từ thảm họa" đã được hoàn thành vào tháng 5/2018 với thời lượng 52 phút nhưng chất lượng không được giới chuyên môn đánh giá cao nên đoàn làm phim quyết định quay trở lại miền Trung hai lần nữa để làm lại phim.

"Lần này không khí hừng hực đấu tranh không còn mà chỉ thấy sự dè dặt, trầm mặc. Do đó chúng tôi phải đổi tên phim thành 'Đừng sợ'".

Nhưng sau buổi công chiếu đầu tiên tại Hà nội hôm 16/3, an ninh đã bắt Cao Vĩnh Thịnh, một thành viên của Green Trees để tra hỏi về bộ phim. Bên cạnh đó họ đã tìm gặp, điều tra, doạ dẫm những người đã đến xem phim với hy vọng tìm ra người làm phim để ngăn chặn phim không được trình chiếu thêm nữa.

Vì vậy, bộ phim cuối cùng được chỉnh sửa thêm lần cuối và đổi tên thành "Sợ ???".

"Mọi người có quyền sợ để rồi sau đó tự đặt câu hỏi sợ cái gì ? Tại sao phải sợ ? Như vậy sẽ mạnh mẽ hơn và không áp đặt như 'Đừng sợ'".

Một khó khăn khác đoàn gặp phải là vấn đề kinh phí.

"Chúng tôi không được tài trợ và phải bỏ tiền túi ra để thực hiện bộ phim này nên thời gian làm phim bị kéo dài hơn so với dự định".

so3

Một trong những điểm nhấn của bộ phim là chia sẻ từ những người dân địa phương bị ảnh hưởng sau thảm họa cá chết do công ty Formosa gây ra

"Bộ phim mở đầu là Hoàng Bình và kết thúc với gia đình Hoàng Bình bởi vì đây là một nhà hoạt động tích cực trong thảm hoạ Formosa, người giúp đỡ các nạn dân đi khiếu kiện, người có gương mặt, giọng nói điềm tĩnh, ôn hoà, chưa từng vi phạm pháp luật thế mà lại bị bắt với án tù 14 năm ?

"Hình ảnh gia đình Hoàng Bình cuối phim như một sự nhắc nhở về hậu quả của thảm hoạ vẫn còn đó nhưng người dân không khóc lóc mà đầy tinh thần chiến đấu. Hình ảnh này gây sốc người xem hơn là cảnh khó khăn, bi lụy thường tình.

"Chúng tôi mong muốn được trình chiếu bộ phim cho những nạn nhân ở miền Trung. Những tổ chức về môi trường và nhân quyền quốc tế, các đại sứ quán".

so4

Cao Vĩnh Thịnh trong sự kiện công chiếu phim hôm 16/3

Bộ phim được công chiếu hôm 16/3 tại một địa điểm ở Hà Nội, với sự có mặt của một số thành viên Greentrees và các nhà hoạt động, đấu tranh dân chủ, trong đó có chị Cao Vĩnh Thịnh.

Sau khi tham gia buổi công chiếu, Thịnh cho biết chị đã bị công an câu lưu hơn 10 tiếng đồng hồ.

"Phía an ninh Việt Nam tra hỏi rất nhiều về nội dung bộ phim và về việc bộ phim đã được công chiếu tại những đâu rồi ? Tại những đại sứ quán nào ?"

"Rồi họ hỏi những người thực hiện bộ phim này là ai ? Địa điểm chiếu phim tại Hà Nội ở đâu... Rất nhiều câu hỏi họ hỏi đi hỏi lại mình ngày hôm mình bị bắt.

Tuy nhiên, mình nghĩ điều khiến an ninh Việt Nam quan tâm tới bộ phim là bởi tiêu đề của bộ phim và họ rất tò mò muốn biết nội dung phim nói cái gì".

Theo chị Thịnh, sau khi xem xong bộ phim thông điệp chị cảm nhận được là về vai trò của xã hội dân sự, sự hình thành và những mức thăng trầm của nó đối với từng mốc sự kiện hay có thể nói là giai đoạn lịch sử của Việt Nam.

"Bởi khi nhìn hình ảnh của nhà hoạt động Hoàng Đức Bình và hình ảnh gia đình anh, những con người mạnh mẽ mặc dù con trai họ bị kết án tù rất nặng [14] năm nhưng không có gì khuất phục ý chí của họ", chị Thịnh nói.

Sau khi Hoàng Bình bị kết án 14 năm tù, báo Nghệ An đã viết : "Trên Faceboook cá nhân, Hoàng Đức Bình còn nhiều lần phát trực tiếp với những hình ảnh, lời lẽ vu khống các lực lượng chức năng, mang tính kích động,xuyên tạc sự thật. Tại phiên tòa hôm nay, Bình không thể hiện sự ăn năn hối cải".

"Hoàng Đức Bình thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên Facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ, cổ vũ phong trào đa nguyên, đa đảng".

so5

Tiến sĩ Nguyễn Quang A phát biểu sau buổi chiếu phim hôm 16/3

"Lợi dụng sự cố môi trường biển miền Trung, với tư cách Phó chủ tịch "Phong trào Lao động Việt", Hoàng Đức Bình đã xúc tiến, thành lập "Hiệp hội ngư dân miền Trung" với ý đồ tạo dựng tổ chức ngoại vi, tập hợp lực lượng, lôi kéo giáo dân, ngư dân miền Trung tham gia vào tổ chức ; tìm chọn "hạt nhân" kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự".

Trong khi đó, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) phát đi thông cáo dẫn lời ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của tổ chức này : "Hoàng Đức Bình đã liên tục và công khai lên tiếng ủng hộ các tù nhân chính trị bị giam, giữ. Ông cũng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối Formosa và góp phần tổ chức các nhóm vận động đòi bồi thường thiệt hại cho ngư dân vì cuộc sống bị ảnh hưởng do đợt xả chất thải độc năm 2016".

Nguồn : BBC tiếng Việt, 19/04/2019

Published in Diễn đàn

Nhật Bản vừa công bố niên hiệu của đời vua mới, "Lệnh Hòa" ("Reiwa"), sẽ có hiệu lực từ ngày 1/5.

lenhhoa1

Chánh văn phòng Nội các Yoshihide Suga tại cuộc họp báo trưng ra khung ảnh có lồng chữ viết niên hiệu mới, với các ký tự được viết tay

Lệnh Hòa mang ý nghĩa tôn ti và hòa hợp hoặc hòa bình.

Niên hiệu hiện nay, Bình Thành (Heisei), sẽ chấm dứt trong vòng một tháng nữa, khi Nhật Hoàng Akihito thoái vị.

Chánh văn phòng Nội các Yoshihide Suga tại cuộc họp báo đã trưng ra khung ảnh có lồng chữ viết niên hiệu mới, với các ký tự được viết tay.

Thủ tướng Shinzo Abe phát biểu trước quốc hội về ý nghĩa của tên gọi này.

lenhhoa2

Đồ họa gia phả Hoàng gia Nhật Bản từ thời Hirohito, niên hiệu Chiêu Hòa đến nay

Niên hiệu của mỗi đời Nhật hoàng, "gengo" trong tiếng Nhật, được dùng bên cạnh dương lịch.

Niên hiệu mới được ghép từ hai ký tự Rei và Wa, có nghĩa là "tôn ti", và "hòa bình" hoặc là "hòa hợp".

Lệnh Hòa nghĩa là gì ?

Đây là lần đầu tiên niên hiệu được lấy từ một tập thi tuyển cổ của Nhật, Manyoshu (Vạn Diệp Tập), thay vì lấy từ tiếng Trung, ông Abe nói.

Manyoshu biểu tượng cho "nền văn hóa sâu sắc và truyền thống lâu dài" của Nhật Bản.

"Đất nước chúng ta đang đối diện với một bước ngoặt lớn, nhưng có rất nhiều giá trị Nhật Bản sẽ không thể phai mờ", ông Abe nói với các phóng viên.

Trong lịch sử hiện đại của Nhật Bản, nước này đã trải qua bốn đời vua.

Kỷ nguyên hiện thời là của Nhật Hoàng Akihito, với niên hiệu Bình Thành (Heisei), có nghĩa là "đạt được hòa bình".

Trước đó là thời Chiêu Hòa (Showa) (1926-1989), có nghĩa là "hướng tới sự hòa hợp".

Niên hiệu Chiêu Hòa là thời Nhật Hoàng Hirohito cầm quyền 64 năm, trước và sau Thế Chiến 2.

Trước Chiêu Hòa là thời Đại Chính (Taisho) (1912-1926), và thời Minh Trị (1868-1912).

Mỗi triều đại có tầm quan trọng tới mức nào ?

Niên hiệu của mỗi đời vua đều hướng tới việc đặt hướng đi cho những thập niên tới, và vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân Nhật Bản.

lenhhoa3

Thái tử Naruhito sẽ trở thành Nhật Hoàng vào ngày 1/5/2019

Niên hiệu được in trên các đồng tiền xu, trên báo chí, bằng lái xe và trên các giấy tờ chính thức.

Việc công bố niên hiệu mới hôm thứ Hai diễn ra vài tuần sau khi có những đồn đoán và các cuộc thảo luận cực kỳ bí mật trong nội các.

'Lệnh Hòa' cuối cùng đã được nội các chọn từ một danh sách các tên gọi do một ban soạn thảo gồm các học giả và các chuyên gia đề cử.

Dù vẫn được sử dụng rộng rãi nhưng lịch theo niên đại đang ngày càng mất dần vị thế bởi Nhật Bản đang chấp nhận ảnh hưởng toàn cầu nhiều hơn.

Do cả hai loại lịch đều sử dụng các tháng theo lịch phương Tây, nhiều người sử dụng song song cả hai.

Vì sao Nhật Hoàng Akihito thoái vị ?

Chính phủ Nhật hồi 12/2017 xác nhận rằng Nhật Hoàng Akihito, năm nay 85 tuổi, sẽ từ chức vào 4/2019 do tuổi cao, nhường ngôi cho Thái tử Naruhito.

Ông sẽ là Nhật Hoàng đầu tiên thoái vị trong suốt hơn hai thế kỷ qua.

lenhhoa4

Nhật Hoàng Akihito (trong hình, chụp cùng Hoàng hậu Michiko) nói tuổi tác khiến ông khó thực hiện được các bổn phận của mình

Thường thì một thời vua mới chỉ được công bố khi Nhật hoàng băng hà và tân vương đăng quang.

Lần này thì khác, việc đổi niên hiệu diễn ra do đương kim Nhật hoàng thoái vị.

Việc công bố được thực hiện trước một tháng để các cơ quan công sở và các công ty có thể cập nhật phần mềm máy tính và chuẩn bị cho việc chuyển tiếp trước khi niên hiệu mới chính thức có hiệu lực vào tháng tới.

Nguồn : BBC tiếng Việt, 01/04/2019

Published in Văn hóa

Thỏa thuận Brexit của chính phủ Anh bị bác bỏ với 344 phiếu chống (BBC, 29/03/2019)

Chiều 29/3, các dân biểu Hạ viện Anh biểu quyết lần ba về thỏa thuận rời EU, nhưng chỉ là biểu quyết từng phần đối với thỏa thuận đã được đàm phán với Liên hiệp Châu Âu.

brexit1

Chiều 29/3, bà Theresa May kêu gọi các dân biểu Hạ viện Anh biểu quyết lần ba về thỏa thuận rời EU

Cuộc bỏ phiếu chớp nhoáng đem lại kết quả là 344 phiếu chống thỏa thuận Brexit của chính phủ Anh, và chỉ có 286 phiếu ủng hộ.

Đây là thỏa thuận chỉ gồm phần luật rời EU, các quyền dành cho công dân EU ở Anh, và quy định đảm bảo cuối cùng (backstop) về thông thương biên giới Bắc Ireland thuộc Anh và CH Ireland thuộc EU.

Nhưng phần tuyên bố chính trị liên quan tới tương lai mối quan hệ giữa Anh với EU không được đưa ra biểu quyết.

Sau khi thỏa thuận bị bác bỏ, Thủ tướng Theresa May đã nói trước Hạ viện Anh rằng cuộc bỏ phiếu "có hậu quả nghiêm trọng" và nếu không có gì thay đổi, Anh sẽ phải ra khỏi EU ngày 12 tháng 4 năm nay.

Điều đó có nghĩa là sẽ không có đủ thời gian để thông qua luật cần thiết để tránh Brexit không có thỏa thuận, bà nói.

brexit2

Thỏa thuận Brexit của chính phủ Theresa May lại bị bác với 344 phiếu chống và 286 phiếu thuận, chênh lênh 58 phiếu

Lãnh đạo đảng Lao động Jeremy Corbyn kêu gọi bà từ chức và tiến hành một cuộc bầu cử.

Đáp lại kết quả biểu quyết lần ba của Hạ viện Anh, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk đã nhắn trên Twitter :

"Vì Hạ viện Anh không thông qua Thỏa thuận Rút khỏi EU, tôi quyết định triệu tập Hội đồng Châu Âu họp vào ngày 10 tháng 4".

Đây là thỏa thuận chính phủ Anh và EU đã đồng ý với nhau vào tháng 11/2018.

brexit3

Bà Theresa May bị lãnh đạo Đảng Lao động kêu gọi từ chức

Lãnh đạo khối nghị sĩ Đảng Quốc gia Scotland (SNP) ở Quốc hội Anh, ông Ian Blackford nay nói rằng "ba lần thỏa thuận của thủ tướng bị đánh bại" và bà ta "cần tôn trọng sự thực đó".

"Nay chúng ta cần xem xét nghiêm túc khả năng hủy Brexit và cần hãm phanh quá trình này lại".

brexit4

Những người ủng hộ Brexit cho rằng nền dân chủ Anh 'đã chết', qua hình quan tài dán ảnh thủ tướng May

Hàng nghìn người đã kéo đến trước trụ sở Quốc hội ở Westminster, London để biểu tìn chiều thứ Sáu 29/03.

Một số người ủng hộ Brexit cho rằng Nghị viện Anh đã "phản bội" ý nguyện của cử tri và coi nền dân chủ 'đã chết' qua hình quan tài dán ảnh thủ tướng May

*******************

Thỏa thuận Brexit bị phủ quyết gồm những nội dung gì ? (BBC, 29/03/2019)

Các dân biểu Anh biểu quyết lần ba chống lại thỏa thuận Brexit của Thủ tướng Theresa May với 344 phiếu chống và 286 phiếu thuận, chênh lênh 58 phiếu.

brexit5

Thỏa thuận ra khỏi EU dài 585 trang, trong khi tuyên bố chính trị chỉ vỏn vẹn 26 trang

Nhưng lần này có một điểm khác biệt chính : các nghị sĩ chỉ biểu quyết về thỏa thuận ra khỏi EU, chứ không bỏ phiếu đối với phần tuyên bố chính trị. Trước đó, cả hai nội dung này đều được đưa ra Hạ viện và đều bị bác bỏ.

Vậy các nội dung được đưa ra biểu quyết hôm 29/3 gồm những gì ?

Thỏa thuận rời EU

Đây là thỏa thuận mà chính phủ Anh đã đàm phán với Liên Hiệp Châu Âu trong suốt hơn 18 tháng qua, trong đó có các điều khoản về việc Anh rời khỏi EU.

Lần đầu tiên được công bố vào tháng Mười Một, thỏa thuận dài gần 600 trang và gồm một số lĩnh vực chính như sau :

Quá trình chuyển tiếp

Theo thỏa thuận ra khỏi EU, Vương quốc Anh sẽ bước vào gia đoạn chuyển tiếp kéo dài 21 tháng với EU sau Brexit.

Trong thời gian này, Vương quốc Anh sẽ tiếp tục tuân theo các quy tắc của EU và tiếp tục ở trong thị trường đơn nhất và liên minh thuế quan theo đó cho phép tiếp tục tiến hành thương mại không ma sát . Vương quốc Anh cũng sẽ mất tư cách thành viên trong các cơ quan điều hành, lãnh đạo EU.

Thời gian chuyển tiếp có thể được gia hạn, nhưng chỉ trong một hoặc hai năm.

Tiền

Được gọi là "hóa đơn ly hôn", đây là số tiền mà Vương quốc Anh cần phải trả cho EU để giải quyết các nghĩa vụ của mình.

Mặc dù không có số liệu nào được nêu trong thỏa thuận giữa EU và Anh, nhưng dự kiến Anh sẽ phải trả ít nhất 39 tỷ bảng trong vài năm.

'Chốt chặn' Ireland

Phần gây tranh cãi nhất của thỏa thuận là vấn đề 'chốt chặn' với Ireland, là lý do chính khiến thỏa thuận không đạt được đa số ủng hộ tại Quốc hội.

'Chốt chặn' được đưa ra nhằm bảo đảm ngăn chặn được việc phải có đường biên giới cứng với Ireland hậu Brexit.

Nó sẽ có hiệu lực khi kết thúc giai đoạn chuyển tiếp, nếu như tới lúc đó EU và Anh không đạt được một thỏa thuận thương mại toàn diện, là thỏa thuận sẽ không làm phát sinh nhu cầu phải có hoạt động kiểm tra tại biên giới giữa Vương quốc Anh với Ireland.

Các điều khoản về 'chốt chặn' về mặt hiệu lực pháp lý sẽ khiến nước Anh ở vị thế có liên minh thuế quan tạm thời với EU.

Giới chỉ trích lo ngại rằng Anh có thể mắc kẹt giữa thỏa thuận này trong nhiều năm, khiến Anh không thể theo đuổi chính sách thương mại độc lập của riêng mình (chẳng hạn như ký thỏa thuận thương mại với các nước khác như Hoa Kỳ).

Quyền công dân

Trong giai đoạn chuyển tiếp, công dân Vương quốc Anh tại EU và công dân EU tại Anh sẽ tiếp tục được quyền cư trú và hưởng các chế độ phúc lợi sau Brexit.

Thỏa thuận cũng cho phép các công dân cư trú tại một quốc gia EU khác trong thời kỳ chuyển tiếp (tất nhiên gồm cả nước Anh) được cho phép ở lại quốc gia đó sau khi thời kỳ chuyển tiếp kết thúc.

Tuyên bố chính trị

Tuyên bố chính trị - cũng được công bố vào tháng Mười Một - nói về mối quan hệ trong tương lai giữa Vương quốc Anh và Liên Hiệp Châu Âu sau Brexit.

Tài liệu này ngắn hơn nhiều (chỉ gồm 26 trang) và, không như thỏa thuận ra khỏi EU, nó không ràng buộc về mặt pháp lý.

Một số lĩnh vực chính bao trong tài liệu này gồm :

Thương mại

Tài liệu yêu cầu quan hệ thương mại phải "càng gần gũi càng tốt" và tuyên bố rằng sẽ có một mối quan hệ hợp tác kinh tế "đầy tham vọng trên diện rộng và cân bằng".

Tuy nhiên, nó không đưa ra kết quả cuối cùng là thương mại Anh-EU sẽ như thế nào.

Hải quan

Tuyên bố chính trị đề cập đến một "thỏa thuận hải quan đầy tham vọng". Một số người quan ngại rằng điều này có thể biến thành một thỏa thuận vĩnh viễn mà có thể ngăn cản Vương quốc Anh theo đuổi chính sách thương mại độc lập của riêng mình.

Chính phủ bác bỏ quan ngại này, và lập luận rằng không có gì sai khi muốn thỏa thuận hải quan đầy tham vọng trong tương lai.

Biên giới với Ireland

Công nghệ và các thỏa thuận thay thế khác sẽ được xem xét để giữ cho biên giới Ireland mở ngỏ thay vì có các rào cản vật lý trên thực tế (ví dụ như việc đặt các chốt biên phòng).

Tuy nhiên, hiện tại thì không có đường biên giới nào EU có chung với một quốc gia ngoài EU là hoàn toàn mở. Liệu công nghệ có giúp xử lý được vấn đề đường biên giới với Ireland không ?

Tự do đi lại

Vương quốc Anh, theo giấy tờ, sẽ lấy lại quyền kiểm soát biên giới, và quyền tự do đi lại của công dân EU sang Anh (và công dân Anh sang EU) sẽ chấm dứt.

Tài liệu nói rằng cả hai bên đều muốn duy trì du lịch miễn thị thực cho các chuyến thăm ngắn hạn (đừng lo lắng về kỳ nghỉ của bạn) nhưng nó tỏ ý rằng việc cấp visa sẽ được áp dụng với các trường hợp muốn ở lưu trú dài ngày.

Tom Edgington, BBC Reality Check

Published in Quốc tế

Câu của Trump : 'Việt Nam phát triển nhanh hiếm có' đúng tới đâu ?

Tới Hà Nội để dự cuộc họp thượng đỉnh về vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên, Tổng thống Donald Trump khen ngợi Việt Nam để khích lệ Triều Tiên.

cau1

Ông Trump khen Việt Nam để khích lệ Triều Tiên

Vài giờ đồng hồ sau khi đáp xuống Nội Bài trên, ông viết trên Twitter rằng :

''Việt Nam đang là một trong những nơi phát triển hiếm có trên Trái Đất. Triều Tiên cũng sẽ rất nhanh chóng giống như vậy, nếu chịu phi hạt nhân hóa".

Dù phê phán 'chủ nghĩa xã hội' ở Venezuela, Tổng thống Trump có vẻ như thích 'nước xã hội chủ nghĩa là Việt Nam', theo Nahal Toosi trong bài 'In Vietnam, Trump finds a 'socialist' country he likes' trên trang Politico,, về chuyến thăm vừa qua của lãnh đạo Mỹ sang Hà Nội.

Nhưng các mặt khác nhau của câu chuyện Việt Nam có cho thấy ông Trump nói đúng hay không ?

Bạn hãy cùng BBC tìm hiểu qua các con số.

Về kinh tế

Theo báo cáo của World Bank, kể từ sau Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã có những tăng trưởng vượt bậc về kinh tế, với GDP tăng bình quân tăng 7% một năm.

Trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 1985 chỉ là 230 đô la Mỹ, thì hiện nay đã tăng lên gấp 10 lần, với con số là 2.300 đô la vào năm 2017.

Về chỉ số phát triển con người

Dựa trên các con số từ Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, kể từ năm 1990 cho đến năm 2017, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam tăng từ 70,5 lên đến 76,5.

Chỉ số Phát triển về con người (HDI) của Việt Nam là 0.694, hơn mức trung bình thế giới, 0.645 và đứng thứ 116 trong tổng số 189 đất nước và lãnh thổ.

Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn mức trung bình của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (0.733).

Môi trường

Công nghiệp hóa và phát triển kinh tế cũng đã gây ra những tác hại nghiêm trọng đến môi trường ở Việt Nam.

cau2

Hà Nội đón hai ông Trump và Kim tuần qua

Môi trường báo chí vẫn bị cho là "hà khắc vào loại nhất Châu Á", theo đánh giá mà trang BBC News phần về Country Profile Việt Nam trích thuật.

Việt Nam không có báo chí tư nhân, và cũng không có đảng phái, nghiệp đoàn nào được hoạt động độc lập ngoài sự kiểm soát của đảng cộng sản.

Tuy thế, chính phủ Việt Nam bác bỏ phê phán của Tổ chức Human Rights Watch nói tình hình nhân quyền nước này 'xuống cấp nghiêm trọng' thời gian qua.

Tham nhũng

Theo đánh giá tham nhũng của Minh bạch Quốc tế (Transparency International), Việt Nam xếp thứ 117 trên thế giới vào năm 2018, tụt 10 vị trị trên bảng xếp hạng so với năm 2017.

Đây là điều đáng ngạc nhiên là cảm nhận về tham nhũng trong người dân không giảm dù có chiến dịch chống tham nhũng mạnh kể từ năm 2016 của TBT Nguyễn Phú Trọng.

Vẫn về tham nhũng, Triều Tiên đứng thứ 5 trong các nước 'đội sổ', chỉ trên Somalia, Syria, Nam Sudan và Yemen.

Trong khi đó, Hoa Kỳ xếp thứ 22, tụt xuống sáu vị trí so với năm 2017.

Tự lực năng động và cũng nhờ trợ giúp

Bên cạnh hàng chục tỷ USD tiền đầu tư, Việt Nam 'cất cánh' trong 30 năm qua nhờ cả vào tiền hỗ trợ phát triển từ bên ngoài.

Bài trên trang The Diplomat của Gianluca Spezza và Nazanin Zadeh-Cummings so sánh số tiền ODA (Viện trợ Phát triển Chính thức) mà Bắc Triều Tiên nhận được với các quốc gia khác, gồm Việt Nam.

Số liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cung cấp cho thấy từ năm 1995 đến 2016, Triều Tiên chỉ nhận được 1,62 tỷ đô la trong các chương trình viện trợ quốc tế.

Con số mà Việt Nam nhận được là 42,2 tỷ.

Ngoài ra, mỗi năm, nguồn kiều hối gửi về Việt Nam đều rất cao, lên tới gần 16 tỷ đô la năm 2018, điều Triều Tiên không có.

Với việc không có tuyên bố hòa bình được nêu ra ở Hà Nội sau khi hội đàm Mỹ - Triều bị cắt ngắn, lời khen Việt Nam của Tổng thống Trump để khuyến khích Triều Tiên làm theo xem ra ngày càng cách xa thực tế với Bình Nhưỡng.

Ngược lại, để áp dụng mô hình kinh tế của Việt Nam có hiệu quả như những gì giới quan sát nhận định và để nhận ODA ồ ạt như Việt Nam, Triều Tiên phải bỏ 'bảo vật' là vũ khí nguyên tử, điều cho tới nay ông Kim Jong-un không muốn.

Nguồn : BBC, 02/03/2019

Published in Diễn đàn

Một số ý kiến của các học giả trẻ cho rằng sẽ còn nhiều con đường khác để đưa tri thức thế giới tới độc giả Việt Nam sau khi Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh ngừng hoạt động.

quy1

Quỹ Phan Châu Trinh đóng cửa vài tháng sau ồn ào vụ Giáo sư Chu Hảo, một trong những người đồng sáng lập quỹ, bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản Việt Nam

Việc Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh (Phan Châu Trinh) ngưng hoạt động xảy ra chỉ vài tháng sau ồn ào Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố khai trừ Giáo sư Chu Hảo, một trong những người đồng sáng lập Quỹ.

'Sự kiện đáng buồn'

Nhà báo Bill Hayton của BBC nhận định rằng đây là "bước thụt lùi của tự do tri thức" ở Việt Nam.

Nguyễn Vi Yên, một trí thức trẻ hiện là Chủ nhiệm nhóm Tinh Thần Khai Minh và từng có thời gian làm việc cho Giáo sư Chu Hảo, nhận định với BBC hôm 25/2 rằng "đây là một sự kiện đáng buồn cho xã hội nói chung".

"Tôi từng tham gia vào các hoạt động của Quỹ như Trao giải Sách hay, sinh hoạt học thuật, trao giải văn hóa Phan Châu Trinh, giao lưu với các anh chị cô chú trong Quỹ. Trong thời gian đó tôi thấy một điều là thực sự trong giới trí thức, học thuật của Việt Nam thì Quỹ Phan Châu Trinh hoạt động tốt nhất, mạnh nhất trong việc ủng hộ giới trí thức. Họ dấn thân vào công cuộc khai dân trí và xa hơn nữa là thúc đẩy phong trào dân chủ ở Việt Nam".

"Cá nhân tôi thực sự rất trân trọng hoạt động của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Bước ngoặt đầu tiên khiến tôi bước chân vào con đường hoạt động dân chủ là khi tôi đọc cuốn Bàn về Tự do của John Stuart Mill do NXB Tri Thức ấn hành. Cuốn sách này cũng nằm trong dự án Tủ sách Tinh hoa Thế giới do Quỹ Phan Châu Trinh bảo trợ".

"Từ đó tôi thấy chính từ những hành động, công việc nho nhỏ như vậy của Quỹ Phan Châu Trinh đã thúc đẩy người trẻ dấn thân vào các công việc xã hội như thế nào, mà tôi chính là một trường hợp điển hình".

"Ngoài việc ngoài việc xuất bản, Quỹ còn vinh danh cách cuốn sách và các nhân vật có ảnh hưởng, có tầm vóc đối với xã hội. Những công việc như vậy của Quỹ Phan Châu Trinh trong suốt 11 năm vừa qua đóng góp không hề nhỏ trong việc thúc đẩy xã hội Việt Nam phát triển từ tầng sâu".

"Việc đóng cửa Quỹ, theo tôi, không tạo ra bước ngoặt hay đà mới cho một nhóm khác hình thành, mà thậm chí còn gây ra cảm giác tiêu cực về việc đàn áp những người đấu tranh ở trong nước", Vi Yên nói.

Tuy nhiên, Vi Yên cũng như một số trí thức khác ở Việt Nam vẫn nhìn thấy những con đường khác để đưa kiến thức, văn hóa và tinh hoa của thế giới về cho độc giả Việt Nam.

Con đường khác ?

quy2

Nguyễn Vi Yên, chủ nhiệm nhóm Tinh Thần Khai Minh, nói sách của Nhà xuất bản Tri Thức đã giúp cô mở mang kiến thức và quyết định đi theo con đường đấu tranh cho dân chủ

Nhìn lại việc kỷ luật Đảng, sau đó là khai trừ Đảng Giáo sư Chu Hảo do xuất bản một số sách được cho là "có nội dung sai phạm, trái quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng", cùng với việc cấm một số hoạt động giao lưu học thuật khác, Vi Yên cho rằng "từ nay trở đi, những hoạt động sinh hoạt văn hóa, học thuật như vậy sẽ còn bị đàn áp nhiều hơn nữa".

Dù vậy, Vi Yên nói còn có những cách khác để đưa tri thức về Việt Nam trong bối cảnh "đàn áp hiện nay" mà nhóm Tinh Thần Khai Minh do cô khởi xướng là một ví dụ.

"Có thể nhắc đến NXB Giấy Vụn là một NXB độc lập. Hay NXB Vô Danh không cần đăng ký ở Việt Nam nhưng sách của họ vẫn được dịch thuật, ấn loát và lưu hành tại Việt Nam. Đó là cách hay mà không phải phụ thuộc vào nhà nước".

"Một cách khác là thành lập doanh nghiệp xã hội không đăng ký với nhà nước, sau đó nhận quỹ từ các nguồn nước ngoài, hoặc tự gây quỹ tư nhân trong nước để mình hoạt động. Nhóm Tinh Thần Khai Minh cũng hoạt động theo kiểu này. Hiện những nhóm, tổ chức như thế đang trăm hoa đua nở. Các nhóm sinh hoạt chung với nhau và có thể tự dịch thuật, xuất bản theo cách của mình".

"Tôi nghĩ rằng có thể gặp một số khó khăn như sự cản trở của chính quyền, Nhưng cứ gặp khó khăn này thì mình sẽ có cách khác và cá nhân tôi thì khá lạc quan với những công việc như vậy".

Vi Yên cũng cho rằng chính quyền Việt Nam chỉ có thể ngăn chặn một vài tổ chức chứ không thể chặn toàn bộ, nhất là trong trào lưu hiện nay với nhiều nhóm dân chủ của giới trí thức trẻ được thành lập.

"Điều đó cho thấy khuynh hướng phát triển và vận động của giới tri thức Việt Nam sẽ càng ngày càng tăng lên chứ không thể nào cản trở được".

Nhà báo tự do Phạm Đoan Trang cũng chia sẻ chung quan điểm của Vi Yên về vấn đề này.

Trên trang Facebook cá nhân, bà Đoan Trang dẫn ý kiến của luật sư Trần Quý Vi rằng các tổ chức xã hội dân sự làm phải đăng ký với nhà nước và làm việc "dựa trên luật pháp" Việt Nam là đi vào "ngõ cụt".

Theo đó, luật sư Vi cho rằng cách hoạt động như Quỹ Phan Châu Trinh là cách làm 'của lớp người đi trước'. Trong khi đó, nếu thực sự muốn chia sẻ kiến thức tới người khác thì không cần phải lập quỹ trong giới hạn 'cho phép' của bất kỳ ai.

Bà Trang cũng bày tỏ ý kiến cá nhân của mình, rằng việc 'xin phép nhà nước' khiến nhiều trí thức Việt Nam tự giới hạn mình trong những việc 'nằm trong khuôn khổ nhà nước cho phép".

"Giả sử có lúc nào trong đầu tôi có ý nghĩ 'chờ xin giấy phép xuất bản', thì chắc chắn 100% là tôi sẽ không bao giờ viết sách Chính trị bình dân hay Học chính sách công qua chuyện đặc khu. Đấu tranh chống độc tài mà lại chỉ làm những việc độc tài ấy cho phép, thì nghĩa là gì ? Nghĩa là : Họ không hề có tư tưởng chống độc tài, giành lấy tự do, xây dựng dân chủ", nhà báo Đoan Trang viết.

Đóng cửa vì thiếu nhân lực hay do sức ép ?

Cuối tháng Hai, mạng xã hội lan truyền bức thư với chỹ ký được cho là của bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quỹ Phan Châu Trinh, tuyên bố việc Quỹ ngừng hoạt động "vì lý do khách quan".

Ngay sau đó, Giáo sư Chu Hảo đã chính thức thừa nhận việc đóng cửa Quỹ.

Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh thành lập năm 2007. Chủ tịch Quỹ là bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó Chủ tịch nước, con gái ông Phan Châu Trinh.

Bên cạnh cách hoạt động tọa đàm, văn hóa, đào tạo nghiên cứu, Quỹ còn có Tủ sách Tinh hoa Thế giới nhằm "Du Nhập, Phục Hưng, Khởi Phát, Gìn giữ & Lan Tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm góp phần canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 21".

Ông Chu Hảo nói với RFA rằng Quỹ ngưng hoạt động không phải do áp lực nào, mà từ 'điều kiện khách quan' là sức khỏe của bà Bình nay 90 tuổi, giảm sút. Trong khi đó không thể tìm được người thay thế hội đủ các tiêu chí mà Quỹ đặt ra.

Dù vậy, Vi Yên nói với BBC rằng nhìn nhận từ các vụ việc với Giáo sư Chu Hảo nói riêng và phong trào dân chủ ở Việt Nam nói chung, "có thể thấy dù chính quyền không gây sức ép trực tiếp thì tất cả những hội nhóm, tổ chức ở Việt Nam đều đang gặp sức ép gián tiếp. Và không thể nói việc đóng cửa này không liên can đến chính quyền được".

Nhà báo Bill Hayton của BBC cho hay vào năm 2008, Đảng Cộng sản Việt Nam ngăn cản Quỹ Phan Châu Trinh trao giải thưởng vinh danh học giả có đóng góp nổi trội cho giáo dục Việt Nam cho Giáo sư người Mỹ Keith Taylor, tác giả cuốn A history of the Vietnamese.

Giáo sư Keith Taylor từng tổ chức các sự kiện nhìn nhận lại Chiến tranh Việt Nam từ quan điểm của miền Nam Việt Nam, được cho là "làm phiền lòng rất nhiều lãnh đạo của Hà Nội", theo Bill Hayton.

Trong khi đó, việc kỷ luật Giáo sư Chu Hảo bắt đầu từ cuối tháng 10/2018, khi trang web của Ủy ban Kiểm tra Trung ương có bài viết nhận định ông Chu Hảo khi làm Tổng Biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Tri thức đã cho in nhiều sách "có nội dung sai phạm, trái quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng".

Theo đó, từ 2005 đến 2009, ông Chu Hảo xuất bản 5 cuốn bị chính quyền cấm phát hành, như cuốn Đường về nô lệ của F.A. Hayek, cuốn Karl Marx của Peter Singer, cuốn Ông Sáu Dân trong lòng dân.

Cuốn Ông Sáu Dân trong lòng dân cho thấy Nhà Xuất bản có "dấu hiệu khuynh hướng tập hợp những bài viết về những người có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, nhằm "gợi ý", "gợi mở" một hướng đi khác, cách nhìn khác không có lợi cho sự nghiệp xây dựng đất nước". Trang web của Ủy ban Kiểm tra Trung ương viết.

Published in Diễn đàn

Nguồn : BBC, 24/02/2019

Published in Video

Chiến tranh 1979 : Lịch sử chiến tranh 1979 ‘bị Trung Quốc bóp méo’

Quốc Phương, BBC, 15/02/2019

Đã có một sự tuyên truyền rất khác biệt giữa hai phía ở hai bên chiến tuyến của cuộc chiến Việt - Trung nổ ra vào ngày 17/2/1979, theo một nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Quốc gia Hà Nội.

biengioi1

Một cuộc tưởng niệm cuộc chiến Biên giới 1979 của người dân Việt Nam

Tuy nhiên lịch sử 'đã bị bóp méo' bởi phía Trung Quốc, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, từ Bộ môn Trung Quốc học, Khoa Đông Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, nói với Bàn tròn thứ Năm từ London của BBC Tiếng Việt hôm 14/2/2019.

"Vừa rồi tôi có nghe nhà báo Tô Bình - một khách mời từ BBC Tiếng Trung cùng tham gia Bàn tròn - thuật lại những phản ứng của phía Trung Quốc, tôi thấy rõ ràng ở đây đã có một sự tuyên truyền rất khác biệt giữa hai phía và sự thật của cuộc chiến tranh năm 1979 đã bị bóp méo rất nhiều.

"Ở góc độ của người Việt Nam, tôi thấy rõ ràng tên gọi 'Phản kích tự vệ' của cuộc chiến này như thế là không chính xác, rõ ràng là 6 tỉnh biên giới của Việt Nam bị xâm lược và không thể nói chuyện là [có] người anh hùng nào, hay tốt đẹp gì trong việc đi sang [Việt Nam], ở đây không có câu chuyện gì phải tự vệ, bởi vì tất cả mọi chuyện là xảy ra trên đất Việt Nam.

"Tại sao lại gọi là tự vệ ? Một đất nước Trung Quốc từ sức người, sức của, từ diện tích cho đến sức dân đều lớn hơn Việt Nam rất nhiều, làm gì có câu chuyện là phải tự vệ với một nước Việt Nam rất là nhỏ, rất là bé, rất là nghèo nàn mà năm 1979 vừa mới ra khỏi bom đạn chiến tranh ?"

'Phản kích tự vệ ?'

Nêu ý kiến ngay trước đó, tại Bàn tròn thứ Năm phần nội dung nhìn lại 40 năm cuộc chiến biên giới Việt - Trung, Nhà báo, Biên tập viên Ban BBC Tiếng Trung Tô Bình nói :

"Tôi lớn lên trong những năm thập niên 1980 ở Trung Quốc, ngay sau khi nổ ra cuộc chiến, tôi vẫn còn nhớ giai đoạn ngay sau cuộc chiến đó và suốt thời gian cuộc chiến. Cuộc chiến đậm nét và luôn luôn chiếm một thời lượng lớn trong truyền thông, tuyên truyền ở Trung Quốc.

"Có rất nhiều phim, những bài hát, họ ca ngợi lòng can đảm, quả cảm của những người lính Trung Quốc trong cuộc chiến tranh đó. Tôi vẫn còn nhớ như in một ca khúc, tựa đề là 'Vinh quang nhuốm máu' được hát trên truyền hình quốc gia Trung Quốc và trình chiếu trong chương trình tạp kỹ ở Gala lớn mừng năm mới, Tết nguyên đán Trung Quốc năm 1987.

"Ca khúc được một cựu chiến binh tham gia cuộc chiến biên giới Trung - Việt, anh ta bị thương trong cuộc chiến tranh và phải ngồi xe lăn. Bài hát ngay lập tức đã trở thành một tiết mục nổi tiếng, cực kỳ ăn khách cho rất nhiều ca sĩ trong nhiều năm tiếp theo, mà trong số những người trình bày có phu nhân của Chủ tịch Tập Cận Bình, bà Bành Lệ Viện. Bà là một ca sĩ nhạc nhẹ và bà đã trình bày bản đó".

"Một số nhà bình luận cho rằng tất cả cái này là một phần của điều được gọi là chiến lược tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc để sử dụng cuộc chiến tranh mới xảy ra gần nhất lúc đó để đề cao tinh thần ái quốc và trung thành với Tổ quốc và Đảng Cộng sản v.v."…

Nhân dịp này, nhà báo từ ban BBC Tiếng Trung cũng cho biết sơ bộ những gì bà nhận biết được khi theo dõi dư luận ở Trung Quốc liên quan tròn 40 năm đánh dấu cuộc chiến, bà nói :

"Trên mạng xã hội của Trung Quốc, tôi cũng lướt qua mạng Sina Weibo - được coi là Twitter của Trung Quốc, chuỗi ký tự 'cuộc chiến Phản kích Tự vệ' như được biết ở Trung Quốc có khoảng 6 triệu lượt xem và 7 ngàn lời bình luận. Nếu quý vị biết mạng Sina này có tới 340 triệu người sử dụng thường xuyên hàng tháng, thì con số 6 triệu không phải là một con số lớn.

"Và trong số các bình luận trên mạng xã hội, thì tất cả chỉ tập trung vào một chủ đề là những hành động quả cảm anh hùng của Quân giải phóng Trung Hoa như thế nào, rồi sự hy sinh mà những người lính Trung Quốc đã trải qua để bảo vệ Tổ Quốc, nhưng gần như không có một cảm nhận hay bình luận gì về nguyên nhân của cuộc chiến cả. Cũng như những cái giá mà Trung Quốc hay Việt Nam đã phải trả về con người, cũng như là hậu quả lâu dài của cuộc chiến cho cả Trung Quốc lẫn Việt Nam".

'Điều buồn phiền nhất'

Về phía mình, nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận thêm :

"Tôi là một chứng nhân lúc ấy. Thực ra, tôi nghe những câu mà nhà báo Tô Bình nói thì tôi thực sự cảm thấy rất đau lòng và rất buồn vì sự thật của nó đã bị bóp méo ở phía Trung Quốc.

"Tuy nhiên, vì là một người nghiên cứu tôi cũng hiểu được tại sao lại phải tuyên truyền như thế và điều mà tôi cảm thấy buồn phiền nhất là ở trong câu Giáo sư Ngô Vĩnh Long có nhắc lại vừa rồi là Trung Quốc muốn 'dạy cho Việt Nam một bài học'.

"Thực ra như thế còn chưa đầy đủ. Câu đầy đủ, khi mà Đặng nói, là : "Dạy cho Việt Nam vong ân, bội nghĩa một bài học". Rõ ràng ở đây có một sự sai lầm, một sự hiểu nhầm hoàn toàn tính chất một cách đáng tiếc giữa hai người bạn.

"Mong muốn là câu chuyện đã qua 40 năm, đáng ra qua 30 năm có thể khép lại được rồi, 40 năm tôi mong nó sẽ khép lại và nó sẽ là một bài học cho những quốc gia như là Bắc Triều Tiên, hay là Nam Triều Tiên, để không mắc lại sai lầm tương tự, để không có những mất mát vô nghĩa như vậy nữa".

Cũng nhân Bàn tròn nhìn lại bốn thập niên cuộc chiến, về khía cạnh soạn sách giáo khoa và nên đề cập đến cuộc chiến này ra sao để sự thật lịch sử được tôn trọng và phản ánh khách quan, đầy đủ, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng bình luận :

"Tôi nghĩ rằng sử của Việt Nam nên do Việt Nam viết, tuy nhiên Trung Quốc vẫn là nước láng giềng và lịch sử đã quy định rằng Việt Nam cũng chẳng thể chuyển nhà đi đâu được cả, nên tôi nghĩ rằng vẫn nên giữ tình hữu nghị với Trung Quốc.

"Tuy nhiên chúng ta cần phải sòng phẳng về mặt lịch sử. Bốn mươi năm cũng đã có một độ lùi lịch sử rồi, cần phải sòng phẳng với lịch sử, cần phải dạy cho các thế hệ người Việt những giá trị của Việt Nam, nhất là những giá trị quan trọng như là giá trị yêu nước.

"Và tôi cũng đồng ý với Giáo sư Ngô Vĩnh Long [khách mời cùng tham dự Bàn tròn] là cuộc chiến này đúng là cuộc chiến mà ông Đặng Tiểu Bình đã đặt Việt Nam vào thế không có một sự lựa chọn nào khác.

"Khi mà Tổ quốc bị xâm lược như vậy, thì tất nhiên người Việt Nam phải đứng lên để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ - giá trị toàn vẹn lãnh thổ là một giá trị xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, thế thì cũng nên dạy cho toàn thể thế hệ sau về bài học lịch sử này của cha ông.

"Không phải để khắc sâu hận thù, mà để sau này rút kinh nghiệm : thêm yêu hòa bình và những người đứng trong cương vị lãnh đạo tuyệt đối không nên để cho những câu chuyện chiến tranh tương tự có thể xảy ra, vì đây là một tội ác, rõ ràng là một tội ác đối với chính dân tộc của mình", nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Hà Nội chia sẻ quan điểm với BBC.

Quốc Phương thực hiện

Nguồn : BBC, 15/02/2019

***************

Moscow biết Đặng sẽ đánh Việt Nam nhưng tin rằng Hà Nội tự lo được (BBC, 13/02/2019)

Một tài liệu ngoại giao của Mông Cổ thời xã hội chủ nghĩa cho hay từ ngày 9/02 năm 1979, Moscow đã biết Đặng Tiểu Bình sẽ tấn công Việt Nam.

BIENGIOI2

Bộ đội Việt Nam ở chiến trường Lạng Sơn

Tuy thế, giới chức Liên Xô khi đó chia sẻ với Thứ trưởng Ngoại giao Mông Cổ, ông D. Yondon rằng Hà Nội thừa sức chống lại quân Trung Quốc.

Quan hệ Mỹ - Liên Xô là quan trọng nhất

Tài liệu đã giải mật hiện được lưu trữ tại Wilson Center, Hoa Kỳ cho hay biên bản của Đại sứ quán Mông Cổ ở Moscow về chuyến thăm của Thứ trưởng Yondon đã bàn nhiều về căng thẳng trong khu vực châu Á.

Tiếp ông Yondon và phái đoàn Mông Cổ, vào hai dịp khác nhau, trong ngày 9 tháng 2/1979, là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Liên Xô Viktor Maltsev, và Vụ trưởng Vụ Viễn Đông I, Mikhail Kapitsa.

Hai bên đã thảo luận về tình hình Mông Cổ, quan hệ Xô - Trung, căng thẳng Việt - Trung và tình hình Bắc Triều Tiên.

Phía Liên Xô lên án chuyến thăm của ông Đặng Tiểu Bình sang Hoa Kỳ và cho rằng "chuyến đi nhằm đem Trung Quốc vào quỹ đạo và ô hạt nhân của Mỹ, giải tỏa vấn đề Đài Loan và ngưng thỏa thuận SALT-2".

Nhưng quan chức Liên Xô nói thẳng với đồng minh Mông Cổ rằng :

"Quan hệ Trung - Mỹ phụ thuộc vào tầng vóc và mức độ của quan hệ Xô - Mỹ", và rằng "Đặng đã phạm một sai lầm lớn".

Quan chức Bộ Ngoại giao Liên Xô đã cười nhạo ông Đặng, trích báo Mỹ gọi ông ta là "có cá ăn thịt người biết cười' (smiling barracuda).

Theo phía Liên Xô, báo Mỹ thừa hiểu nguy hiểm của việc Hoa Kỳ bị kéo vào một phe của chiến tuyến chống Liên Xô.

Bộ Ngoại giao Liên Xô cũng tin rằng mục tiêu xin trợ giúp tài chính từ Mỹ của ông Đặng để hỗ trợ Bốn Hiện đại hóa "sẽ không thành".

Vụ trưởng Mikhail Kapitsa cũng cho khách Mông Cổ hay phía Liên Xô sẵn sàng hủy Hiệp ước Tương trợ Liên Xô - Trung Quốc ký từ năm 1950, nhưng đợi để phía Trung Quốc ra quyết định trước.

Liên Xô lo ngại về căng thẳng biên giới Việt - Trung

Về tình hình Việt Nam, ông Kapitsa nói :

"Những gì đang xảy ra ở biên giới Việt Nam khiến Liên Xô lo ngại ghê gớm. Trung Quốc đã tập trung 18 sư đoàn ở biên giới, nhưng quân đội Việt Nam có một triệu quân, và được trang bị tốt, huấn luyện tốt, có khả năng chiến đấu cao".

"Nếu xảy ra chiến tranh đánh Việt Nam, đối thủ sẽ phải đánh tốt, nếu không sẽ bị nghiền nát. Và nếu xảy ra chiến tranh, dư luận thế giới sẽ ủng hộ Việt Nam. Trung Quốc thực sự sợ Liên Xô. Nhưng Trung Quốc sẽ tấn công một cú vào Việt Nam. Nhiều khả năng họ làm như đã làm với Ấn Độ năm 1962, xâm nhập vào 20-30 km, sau đó họ sẽ tìm cách bắt sống nhiều bộ đội Việt Nam, để đáp trả việc Việt Nam bắt quân Trung Quốc ở Campuchia (?)".

biengioi3

Nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam

Nhưng ông Kapitsa nói đùa rằng phía Việt Nam "có thể đánh ngược vào đất Trung Quốc 10-15 km".

Phía Liên Xô nói cho đoàn khách Mông Cổ rằng "Nếu có nhu cầu tấn công Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam, chúng tôi sẽ cho các anh biết".

Liên Xô khẳng định các quân đoàn ở Viễn Đông và quân khu Zabaikal đã nhận các quân lệnh đặc biệt.

Sau đó, cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề Bắc Triều Tiên.

Ở đây, quan chức Liên Xô phàn nàn rằng cũng lại Trung Quốc thúc đẩy Bình Nhưỡng gây ra lắm chuyện.

Chẳng hạn, chính quyền Triều Tiên vừa ngưng các ấn bản tuyên truyền chống Moscow thì đã xin Liên Xô 2 tỷ USD vũ khí.

Ông Kapitsa cho hay, "chúng tôi sẽ chỉ cho họ 100 triệu mà thôi vì không có gì phải vội trong việc giúp Bắc Triều Tiên".

biengioi4

Ông Đặng Tiểu Bình, ở vị trí Phó Thủ tướng, tiếp đại sứ George Bush và Tổng thống Gerald Ford ở Bắc Kinh tháng 12/1975. Ngay từ khi đó, Trung Quốc đã có các bước chuyển động về phía Hoa Kỳ

Ông chia sẻ với ông Yondon rằng thời Khruschchev, Liên Xô đã vội vã làm thân với Albania không đạt gì, và nay, với Triều Tiên thì họ cần thận trọng.

Tuy vậy, 'Anh Cả' Liên Xô nói với Mông Cổ rằng : "Thế nhưng các anh cần giữ quan hệ thật tốt với Triều Tiên".

Cuộc trao đổi đi tiếp sang đấu đá nội bộ Đặng Tiểu Bình - Hoa Quốc Phong tại Trung Quốc mà Liên Xô cho rằng như "hai con dê qua cầu" và một con "có thể lộn cổ xuống suối".

Nhìn chung, trong trao đổi ngoại giao, quan chức Liên Xô không dấu sự ghét bỏ với lãnh đạo Trung Quốc.

Ông Mikhail Kapitsa nói với thứ trưởng Mông Cổ rằng cả Đặng và Hoa "đều là hai kẻ lạc hậu trong tư duy và không biết điều hành kinh tế".

Vào thời điểm đó, Liên Xô tin rằng "phải đến năm 2000, Trung Quốc mới đạt mức khai thác dầu bằng Liên Xô năm 1977", và rằng chương trình hiện đại hóa kinh tế của Đặng Tiểu Bình cần 60% vốn nội bộ, và 40% từ bên ngoài mà Trung Quốc sẽ "không thể nào trả nổi".

Ngày 17/02/1979, Trung Quốc đồng loạt tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam trong cuộc chiến kéo dài đến 16/03.

Liên Xô đã lên án mạnh mẽ nhưng không tấn công Trung Quốc ở vùng Viễn Đông và chỉ hỗ trợ Việt Nam từ xa.

****************

Kỷ niệm chiến tranh 1979 : Báo chí Việt Nam được bật đèn xanh ? (BBC, 12/02/2019)

Báo chí Việt Nam năm nay được phép công bố 'những trang sử đen tối' nhân dịp 40 năm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung, một nhà báo tự do, cựu chiến binh nói với BBC.

biengioi5

Lính gác Trung Quốc canh đường vào một khu nghĩa trang của tử sĩ Trung Quốc trong cuộc chiến.

Nhìn từ góc độ lịch sử, cựu chiến binh Ngô Nhật Đăng nói hôm 12/02 rằng "nhân dân sẽ không tha thứ cho những người lãnh đạo 'hèn nhát' với ngoại bang vì bất cứ mục tiêu nào".

Thế nhưng, nhìn từ bình diện giao lưu con người, ông Đăng, người đang sinh sống ở Gò Công, tỉnh Tiền Giang cho Quốc Phương của BBC Tiếng Việt biết rằng ông từng sang Trung Quốc, gặp gỡ cựu chiến binh và người dân phía bên kia biên giới để tìm hiểu xem họ nghĩ gì.

"Tuy thời gian không dài, được gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc, các bạn trẻ, những người dân thường tôi rất vui mừng nhận thấy không ai muốn chiến tranh Việt- Trung xảy ra một lần nữa".

Trả lời BBC News Tiếng Việt, cựu trinh sát cấp tiểu đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở mặt trận tỉnh Cao Bằng năm xưa bình luận về câu hỏi liệu có phải năm nay báo chí Việt Nam được 'bật đèn xanh' viết nhiều hơn về Chiến tranh Biên giới 1979.

Ngô Nhật Đăng : Vâng, đúng là có hiện tượng này, nhưng như chúng tôi thường nói với nhau là "báo chí được thở khe khẽ" nếu xét theo mức độ thông tin được báo chí chính thống đưa ra. Theo tôi có mấy lý do.

Thứ nhất là Nhà nước đã không thể làm ngơ trước dư luận nhân dân mỗi khi những ngày này tới, nhất là năm nay lại là năm chẵn tròn 40 năm.

Thứ hai là mối quan hệ của Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1990 khi "bình thường hóa quan hệ" đến nay nếu nhìn trên bề mặt thì ta thấy càng ngày càng nồng ấm đến mức "Hợp tác toàn diện" nhưng thực chất đằng sau là một mối quan hệ không bình đẳng và càng ngày Việt Nam càng bị lấn lướt không chỉ trong ngoại giao, kinh tế mà còn cả về chủ quyền lãnh thổ.

Ít có một quốc gia nào nuốt nổi cái nhục nhã này và nhân dân sẽ không tha thứ cho những người lãnh đạo hèn nhát với ngoại bang vì bất cứ mục tiêu nào, do vậy báo chí được phép công bố những trang đen tối trong lịch sử quan hệ hai nước để xả bớt bức xúc của dân chúng (nếu điều này đúng thì thật tệ hại).

Thứ ba là chính sách mới của Mỹ với Trung Quốc, động thái gần đây của Hải quân Mỹ ở biển Đông, cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ- Triều sắp diễn ra ở Hà Nội...một loạt động thái đáng chú ý ấy có thể cho ta thấy chính phủ Việt Nam có lẽ thấy tự tin hơn, có thể lựa chọn Mỹ là một đối tác đồng minh dù điều này sẽ làm phật lòng Trung Quốc.

Và, có thể đặt lại mối quan hệ với Trung Quốc bình đẳng hơn, là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng có chung biên giới, chứ không phải là hai quốc gia cùng một ý thức hệ "vừa là đồng chí vừa là anh em" luôn luôn không đáng tin cậy như ta thấy trong lịch sử.

BBC : Tuyên truyền qua âm nhạc, phim ảnh của Việt Nam một thời chống Trung Quốc rất rầm rộ rồi im ắng qua nhiều năm, tình hình hiện nay ra sao ?

Ngô Nhật Đăng : Vâng điều này cũng bình thường, khi hai nước xóa bỏ mối quan hệ thù địch bước vào một trang mới, nhưng nó không bình thường ở chỗ là bị nghiêm cấm không được nhắc tới, ngay cả sách giáo khoa lịch sử trong nhà trường cũng không có. Lớp trẻ sinh ra sau không hề biết đến cuộc chiến này, tức là trong lịch sử có một khoảng trắng, điều này là vô cùng tai hại.

Ta cũng có thể so sánh với Trung Quốc, trong suốt 10 năm từ 1979-1989, truyền thông đại chúng Trung Quốc hàng ngày đều có thời lượng lớn về cuộc chiến với Việt Nam mà họ gọi là "Phản kích tự vệ". Phim ảnh, truyền hình đầy những hình ảnh các đoàn xe tăng, pháo binh, bộ binh xông lên như vũ bão "đè bẹp bọn tiểu bá VN".

Khi tôi phỏng vấn một số người Trung Quốc vào thời đó mới 15, 17 tuổi họ đều nói : "Ước sao chiến tranh kéo dài để họ được đi đánh bọn 'quỷ Việt Nam'". Nhưng đến cuối năm 1989, một mệnh lệnh từ Quân ủy trung ương quân giải phóng Trung Quốc ban ra : Cấm không nhắc tới cuộc chiến đó nữa, nó gây bàng hoàng trong dân chúng và nhất là quân đội.

Một cựu sĩ quan Trung Quốc nói với tôi : Khi nhìn thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tư cách là "khách mời danh dự đặc biệt" xuất hiện tại Đại lễ đường Nhân dân (Bắc Kinh) chúng tôi đã bị sốc. Một hệ quả đi kèm là một số trí thức, nhà báo, cựu quân nhân (nhất là những người từng tham chiến) đi tìm hiểu về cuộc chiến này để tìm sự thật, hy vọng không lâu nữa chúng ta sẽ được biết về những công trình đó.

BBC : Người dân, cựu chiến binh Việt Nam nhân dịp này nghĩ gì và họ muốn nói lên điều gì ?

Ngô Nhật Đăng : Là một cựu chiến binh tôi mong muốn sẽ không có chiến tranh xảy ra, tất nhiên nếu để tự vệ bảo vệ Tổ quốc thì sẵn sàng.

Điều này đòi hỏi từ nhiều phía, nhất là từ nhà nước, lịch sử phải được nhắc lại thật nhiều, thật trung thực để có thể rút ra điều gì trong hiện tại, lịch sử không được hiểu đúng sẽ dẫn đến dễ bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, điều đó là nguy hiểm, đó không phải là yêu nước, chắc chắn không phải.

Đất nước phải phát triển giàu mạnh thì mới bảo vệ được chính mình không thể trông chờ bên ngoài. Điều duy nhất không thể khác là phải dân chủ hóa đất nước để động viên sức mạnh toàn dân tộc. Đây là điều không thể chần chừ câu giờ được nữa.

BBC : Với cá nhân ông, thì có phát hiện gì thêm và có gì muốn nói, sau 40 năm nhìn lại cuộc chiến này ?

biengioi6

Pháo binh Trung Quốc xạ kích sang Việt Nam - ảnh chụp năm 1984

Ngô Nhật Đăng : Cách đây 5 năm, một mơ ước từ lâu của tôi được thực hiện, đó là đi tìm những cựu binh phía bên kia để tìm hiểu những người một thời là "kẻ thù", những lý do trực tiếp gây ra chiến tranh, tìm những "Hoa kiều" bị trục xuất khỏi Việt Nam, một trong những lý do mà nhà cầm quyền Bắc Kinh dùng để phát động cuộc chiến.

Quan trọng hơn là họ nghĩ gì lúc đó, nghĩ gì về hiện tại khi chiến tranh đã lùi xa và mong ước gì cho tương lai vv…

Tuy thời gian không dài, được gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc, các bạn trẻ, những người dân thường tôi rất vui mừng nhận thấy không ai muốn chiến tranh Việt- Trung xảy ra một lần nữa.

Nó cũng đã giải tỏa cho tôi nhiều băn khoăn trong suốt mấy chục năm và có thêm tin tưởng, như vậy nhân dân ở đâu cũng mong muốn hòa bình, họ cần phải được hiểu nhau, không cái gì làm tốt hơn điều đó là truyền thông lương thiện, trung thực.

Cựu chiến binh Ngô Nhật Đăng nhập ngũ và là quân nhân Quân đội Nhân dân Việt Nam từ tháng 5/1978 đến cuối năm 1982, ông tham gia 'Cuộc chiến 79' hay Cuộc chiến Biên giới ở mặt trận tỉnh Cao Bằng, khi đó ông thực hiện nhiệm vụ trinh sát tiểu đoàn "luồn sâu phá hoại" chuyên hoạt động sau lưng địch.

****************

Dương Danh Dy : 'Chứng nhân những thăng trầm Việt-Trung'

Đinh Hoàng Thắng, BBC, 20/09/2018

Con người chứng kiến mọi sự thăng trầm trong bang giao Việt-Trung đã vĩnh biệt chúng ta. Hy vọng hậu duệ của nhà Trung Quốc học này sẽ có dịp sưu tầm đầy đủ các bài viết "gan ruột" của ông để đóng góp vào di sản quý báu của nền ngoại giao nước nhà.

biengioi7

Tác giả (trái) cùng nhà báo Huy Đức (giữa) gặp gỡ nhà ngoại giao Dương Danh Dy tại Hà Nội, khoảng năm 2000

Từ anh lính trơn, xăng xái cắt chiếc áo len dệt mẹ gửi từ vùng địch hậu ra, chỉ để bọc chiếc bi đông nhôm (đựng nước uống) do Trung Quốc viện trợ, cho đến khi trở thành một nhà ngoại giao kỳ cựu, một trưởng ban nghiên cứu thành danh về Trung Quốc tại Học viện Ngoại giao, Dương Danh Dy đã gắn bó cả cuộc đời mình với nghiên cứu Trung Quốc.

Được bộ trưởng dành "đặc ân"

Vẫn còn đâu đây tiếng thét phẫn uất của ông : "Kết tội kẻ người có trách nhiệm trong thi công các dự án của TKV do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu, để các dự án đội mức đầu tư cao lên như thế… là tham ô hủ bại là chưa đúng với tội danh của chúng. Phải nói rõ : đó là những hành vi, hành động phạm tội, làm tay sai bán nước cho ngoại bang".

Vẫn còn vang vang lời nhắn nhủ của ông gửi hậu thế : "Ban lãnh đạo Trung Quốc đã thấy Việt Nam là một 'món hàng có giá' hời có thể dùng để trao đổi, mua bán với mấy nước lớn khác nhằm phục vụ lợi ích chủ yếu của họ".

Phải chăng đấy là chắt lọc một phần "bản thu hoạch" của ông sau cả nhiệm kỳ công tác tại Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh ?

Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng dành cho Dương Danh Dy một "đặc ân" : "Nếu trong quá trình nghiên cứu, cậu phát hiện ra vấn đề gì mới về Trung Quốc, cậu cứ vào thẳng phòng tớ báo cáo, khỏi mất thời gian qua Tổ thư ký…".

Ông cùng với "lão tướng" Lưu Đoàn Huynh, là hai "cây đa cây đề" duy nhất ở Học viện không ít lần "bác" cả ý kiến của lãnh đạo Bộ. Những cuộc giao ban như thế tại Học viện, sau này lên tận Bộ, có những khoảnh khắc "hầm hập" hơn cả cái nóng mùa hè ở bên ngoài, dù tất cả đều ngồi trong phòng điều hoà.

Cuối cùng thì "công bằng" cũng đã mỉm cười với ông, khi ở tuổi 60 (tuổi về hưu) ông đã được Bộ cử đi làm Tổng Lãnh sự (đầu tiên) ở Quảng Châu.

Tổng lãnh sự mà đâu có nhàn hơn đại sứ. Cái tuổi Quý Dậu của ông thật vất vả. Từ vụ Chính sách Đối ngoại, giới chuyên gia thừa nhận, các điện (trả lời theo yêu cầu của lãnh đạo Bộ) từ Tổng lãnh sự Quảng Châu phần lớn được xếp loại A.

Đóng góp vào di sản quý báu

Chia tay thế giới này đến với một thế giới khác ở tuổi 84, Dương Danh Dy đã để lại một khối lượng bài viết đáng kính nể trên cả các báo "lề đảng" lẫn "lề dân". Hy vọng hậu duệ của nhà Trung Quốc học này sẽ có dịp sưu tầm đầy đủ các bài viết "gan ruột" của ông để đóng góp vào di sản quý báu của của nền ngoại giao nước nhà.

Dương Danh Dy từng kể, đến Khorutsov cũng có lần phải cay đắng : "Chỉ có những kẻ ngu mới tin Trung Quốc" sau khi Liên Xô bị Trung Quốc lừa cho một số vố ! Ngay cả không ít người Mỹ cũng từng ăn phải quả đắng của Trung Quốc đấy ! Cho nên nếu nói rằng, ngay từ đầu ta đã hiểu ngay, hiểu sâu, hiểu hết Trung Quốc thì chỉ là biểu hiện sự không hiểu biết về Trung Quốc mà thôi".

Trên giường bệnh, khi tiếp bạn bè đến thăm, ông luôn trăn trở, thời xưa đi sứ Tàu toàn là các bậc đại khoa… hiện nay, đội ngũ nghiên cứu về Trung Quốc vừa mỏng, vừa chưa gắn kết với nhau. Ông thường động viên thế hệ trẻ nên học tiếng Trung để hiểu biết sâu sắc về một đất nước ngày càng có vị trí quan trọng trong trật tự thế giới đang ló dạng.

Nếu không có loạt bài của Dương Danh Dy và cuốn Hồi ký của Trần Quang Cơ thì bức tranh "vân cẩu" về bang giao Việt-Trung cũng như tính xác thực về hai cuộc chiến tranh biên giới khó đầy đủ như ngày nay.

Điếu văn của Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Vũ Tùng đánh giá nhà nghiên cứu Dương Danh Dy "là một cán bộ trung kiên, một tấm gương tận tuỵ, hết mình cho sự nghiệp chung và luôn có khí phách vững vàng trước những vấn đề liên quan đến lợi ích của quốc gia, của dân tộc".

Vậy là thêm một người "muốn thoát Trung" nữa đã ra đi !

Một người tử tế nữa đã vĩnh biệt chúng ta !

Đinh Hoàng Thắng

Nguồn : BBC, 20/09/2018

****************

Chiến tranh với Việt Nam 1979 : Trung Quốc rút ra bài học gì ? (BBC, 02/05/2017)

BBC có cuộc phỏng vấn với một học giả gốc Trung Quốc nói về cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam năm 1979.

biengioi8

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đón tiếp Đặng Tiểu Bình tại Washington tháng Giêng 1979

Tiến sĩ Xiaoming Zhang, từ trường Air War College, Hoa Kỳ, là tác giả cuốn sách Deng Xiaoping's Long War : The Military Conflict between China and Vietnam 1979-1991, ra mắt năm 2015.

Trong nghiên cứu này, ông đánh giá cuộc chiến nhìn từ quan điểm của giới lãnh đạo Trung Quốc.

Xiaoming Zhang : Dĩ nhiên, không sử gia nào bên ngoài Trung Quốc được tiếp cận trọn vẹn hồ sơ chiến tranh của Trung Quốc. Nhưng vẫn có nhiều nguồn Trung Quốc để giới sử gia được tìm hiểu cuộc chiến 1979 từ góc nhìn của Trung Quốc.

Ví dụ, có các báo cáo sau trận đánh của Quân Giải phóng Nhân dân, chứa đựng thông tin chi tiết về cách họ chuẩn bị, vận hành chiến tranh, cũng như thương vong họ chịu và số người họ giết. Các báo cáo này có thể không hoàn toàn chính xác vì lẫn lộn trong lúc đánh nhau, hay tổn thương trí nhớ vì sốc. Nhưng chúng vẫn có giá trị cho người viết sử.

Để so sánh, có vẻ như chính ra ở phía Việt Nam lại vẫn còn nhiều 'huyền thoại' về chiến tranh 1979. Ví dụ, ở tầm mức chiến lược, vì sao Lê Duẩn nghĩ Trung Quốc là kẻ thù số một sau chiến tranh Việt Nam ? Ở mức thực tế, quân đội Việt Nam đánh giá cách đánh của họ thế nào trong chiến tranh ? Tôi có đọc một số lịch sử quân sự Việt Nam và thấy chúng không khách quan, muốn định hình lịch sử có lợi cho họ mà ít dữ liệu thực tiễn.

BBC : Từ góc nhìn của Trung Quốc, vì sao Đặng Tiểu Bình muốn khởi chiến năm 1979 ?

Xiaoming Zhang : Chương hai trong cuốn sách của tôi trả lời câu hỏi này. Có nhiều nguyên do thúc đẩy Đặng tiến hành chiến tranh chống Việt Nam.

Nguyên do trước tiên và quan trọng nhất là cách Đặng phản ứng trước đe dọa của Liên Xô với Trung Quốc khi đó. Liên minh của Hà Nội với Moscow khiến Đặng tin rằng đe dọa của Liên Xô không chỉ từ phía bắc mà cả từ phía nam.

Sự tính toán của Đặng cũng xảy ra vào lúc ông ấy ngày càng lo ngại về sự sụt giảm sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ trong vùng và trên thế giới sau Chiến tranh Việt Nam. Yếu tố Liên Xô thúc Đặng tìm kiếm hợp tác chiến lược với Mỹ chống Moscow. Vì chính sách này nhấn mạnh đối đầu, nên tiếp cận của Bắc Kinh trước khủng hoảng quốc tế trong vùng trở nên cứng rắn và mang tính quân sự. Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng tấn công trừng phạt Việt Nam sẽ là cú đòn đánh vào chiến lược bành trướng toàn cầu của Liên Xô.

Rốt cuộc có lẽ Trung Quốc đã phản ứng thái quá trước đe dọa của Liên Xô. Nhưng vào lúc đó, Đặng Tiểu Bình thực sự tin vào nó.

Còn có những yếu tố khác tác động quyết định gây chiến của Đặng, gồm chính trị trong nước và quan hệ với Mỹ. "Hành vi sai trái" của Việt Nam, đặc biệt là liên minh với Liên Xô, làm người Trung Quốc giận dữ. Họ muốn trừng phạt đồng minh phản bội sau nhiều năm Trung Quốc phải hy sinh giúp đánh Mỹ.

Các va chạm biên giới cũng khích động tình cảm người Trung Quốc. Yếu tố tình cảm đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự đồng thuận trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự ủng hộ Đặng gây chiến.

Quyết định đánh Việt Nam chủ yếu do đánh giá về tình hình chiến lược của Trung Quốc, nhấn mạnh liệu sự bành trướng của Liên Xô có tác động gì cho an ninh thế giới, và Trung Quốc cần có trách nhiệm gì để duy trì cân bằng quyền lực đại cường. Đặng tin rằng liên minh với phương Tây sẽ chứng tỏ Trung Quốc có giá trị trong cuộc đấu tranh chống Liên Xô bành trướng và rằng để đổi lại, phương Tây sẽ giúp Trung Quốc cải tổ kinh tế.

Ngoài ra, đấu tranh quyền lực trong đảng, cộng thêm phe nhóm trong quân đội, cũng khiến Đặng càng sẵn sàng có hành động quân sự chống Việt Nam. Theo ông ta, làm thế sẽ khuấy động ủng hộ trong nước và nước ngoài, tạo nên môi trường an toàn và ổn định để Trung Quốc hiện đại hóa.

Cuối cùng, tính cách và cách lãnh đạo độc tài của Đặng cũng đóng vai trò lớn.

Không có một nguyên do duy nhất giải thích. Khi kết hợp toàn bộ các yếu tố, dù chúng có lý hay không, Đặng Tiểu Bình tin rằng việc dùng vũ lực khi đó là cần thiết. Vì thế cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 trở nên tất yếu.

BBC : Theo đánh giá của ông, ai đã thắng cuộc chiến ngắn ngày này ?

Chiến tranh xảy ra nhằm đạt những mục tiêu chính trị nào đó. Vậy Bắc Kinh đề ra mục tiêu gì ?

Công khai thì Trung Quốc nói chiến tranh nhằm dạy cho Việt Nam "bài học". Nhiều người tưởng rằng "trừng phạt" là mục tiêu, để rồi kết luận thương vong nặng nề của Trung Quốc tức là họ đã không đạt được mục tiêu dạy cho Việt Nam "bài học".

biengioi9

Ông Lý Bằng là Thủ tướng Trung Quốc đầu tiên thăm Việt Nam sau 21 năm, vào năm 1992

Trong sách, tôi không tán thành ý này. Đối với Đặng, dạy Việt Nam "bài học" là thông điệp không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây. Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc, tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ trợ tài chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ không còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến tranh Lạnh.

Bên trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế.

Liên Xô ở trong tình thế nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với Mỹ trên toàn cầu, Moscow cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á. Từ góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cuối thập niên 1980. Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ 1978.

Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược.

Nói về hiệu quả trên chiến trường, Trung Quốc rút quân sau khi đạt được các mục tiêu chính - bao vây ba thành phố cấp tỉnh của Việt Nam, gây thương vong nặng nề cho bộ đội Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho nhà cửa. Quân Trung Quốc đúng là cũng bị thương vọng nặng trong cuộc chiến ngắn ngày, nhưng kết quả đó có thể chấp nhận được cho lãnh đạo Trung Quốc.

Nhưng tôi không tin rằng bộ đội Việt Nam chiến đấu tốt hơn quân Trung Quốc. Vấn đề thực sự là chúng ta vẫn không có đủ dữ kiện từ phía Việt Nam.

Để kết luận, cuộc chiến này cần được đánh giá dựa theo kết quả của chiến tranh, chứ không phải kết quả từ các trận đánh.

BBC : Trong con mắt lãnh đạo Trung Quốc, đâu là bài học từ cuộc chiến 1979 ? Nó có còn thích hợp cho chiến lược của Trung Quốc trong tương lai ?

Xiaoming Zhang : Sau cuộc chiến 1979, Quân Giải phóng Nhân dân đánh giá toàn diện về hiệu quả trên chiến trường, với nhiều bài học rút ra.

Trong đó có việc thiếu tin tức tình báo, không có đủ quân do xuất hiện thêm dân quân Việt Nam tham gia đánh nhau, hợp tác và phối hợp kém giữa đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng, hệ thống hỗ trợ hậu cần và chỉ huy tác chiến lạc hậu.

biengioi10

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp đoàn quân Việt Nam trở về từ Campuchia hôm 28/9/1989

Các bài học này xác nhận lo ngại của Đặng về khả năng tác chiến hiện đại của Trung Quốc trong tương lai gần.

Sau 1979, Quân Giải phóng Nhân dân bắt đầu cải tổ nhằm gia tăng khả năng tiến hành chiến tranh lớn trước đối thủ lớn hơn như Liên Xô.

Từ 1985, Bắc Kinh không còn nghĩ rằng chiến tranh với Liên Xô sẽ phải xảy ra. Các va chạm biên giới khiến lãnh đạo Trung Quốc tin rằng quân đội cần tập trung chiến thắng các cuộc chiến địa phương quanh biên giới Trung Quốc trong điều kiện công nghệ cao. Việc này vẫn tiếp tục trong viễn kiến chiến lược hiện nay của Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ không bao giờ có một cuộc chiến như 1979, tức là chỉ liên quan bộ binh. Nhưng các bài học từ 1979 vẫn thích hợp cho Quân Giải phóng Nhân dân.

Trong tương lai, nếu Trung Quốc có chiến tranh để bảo vệ lãnh thổ như Đài Loan và trên Biển Đông, Quân Giải phóng Nhân dân sẽ dùng mọi lực lượng từ không quân, hải quân, bộ binh, chiến tranh mạng, không gian.

Tôi không nghĩ là Trung Quốc trong tương lai sẽ lại dùng vũ lực chống láng giềng như 1979. Việc hiểu cuộc xâm lược Việt Nam 1979 chỉ có ý nghĩa nếu ta nghiên cứu nó trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.

BBC : Người dân Trung Quốc nhớ hay quên cuộc chiến 1979 ?

Xiaoming Zhang : Khó mà trả lời toàn diện. Năm 1991, Bắc Kinh và Hà Nội có vẻ đã ngầm thỏa thuận để cấm hai nước công khai nói về cuộc chiến.

Khi mà các mạng xã hội phát triển nhanh như gần đây, sự cấm đoán này không còn chỗ. Mạng xã hội cho phép cựu quân nhân và thành viên gia đình liên hệ với nhau.

Nhiều câu chuyện cá nhân thời chiến, ký ức chiến tranh đã có trên mạng. Một số thậm chí được truyền thông chính thống công bố.

Những năm gần đây, vào ngày 17/2 và Tết Thanh Minh tháng Tư, hàng trăm, hàng ngàn người tự tổ chức để tới các nghĩa trang chiến tranh 1979 ở Quảng Tây và Vân Nam, tổ chức lễ tưởng nhớ những người hy sinh trong chiến tranh.

Suốt nhiều năm, các cựu quân nhân 1979 là nhóm xã hội ít ai quan tâm. Năm ngoái, sau nhiều cuộc biểu tình của họ, mới có các quy định mới của chính phủ tăng hỗ trợ cho cựu binh, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho những người không được hưởng trước đây.

Có một hiện tượng xã hội là nhiều người Trung Quốc dùng cuộc chiến 1979 để bình luận về các vấn đề lãnh thổ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Từ quan điểm chính thức của Bắc Kinh, có lẽ chẳng nên nhớ tới cuộc chiến. Nó không phù hợp với chủ điểm chính về Trung Quốc của Tập Cận Bình, là về ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội.

Chừng nào thế hệ tham chiến còn sống, kỷ niệm về chiến tranh sẽ không bị người Trung Quốc lãng quên.

Nguồn : BBC, 02/05/2017

****************

Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979 (BBC, 21/09/2019)

Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử hình vắng mặt' vì chạy theo Trung Quốc :

biengioi11

Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu

Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.

Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.

Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội ăn sâu ở Việt Nam.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản Việt Nam không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.

Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.

Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.

Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.

Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt - Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.

Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân Trung Quốc trong tranh chấp Liên Xô - TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân Trung Quốc hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.

Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa và vị thế ông Hoan bị suy giảm

Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân Trung Quốc trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.

Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.

Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.

Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.

Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi Trung Quốc để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.

biengioi12

Lãnh tụ Bắc Việt Nam, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959

Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.

Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt - Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.

Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.

Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.

Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.

Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ Việt Nam - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.

Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.

Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu”.

biengioi13

Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội

Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.

Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8.000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.

Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.

Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.

Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.

Giai đoạn 1970 - 1975, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.

Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt - Trung.

Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11/1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.

Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.

Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.

Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.

Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.

Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.

Và đến lúc qua đời, ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.

****************

Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 qua các con số (BBC, 20/02/2017)

Sau cuộc chiến đẫm máu năm 1979 cho đến nay hai nước Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa công bố toàn bộ các con số thương vong, theo giới quan sát quốc tế.

biengioi14

Đội khiêng cáng của dân quân Quảng Tây ngày 22/02/1979 chờ vượt biên giới sang Việt Nam đưa thương binh về

Tuy nhiên, nhiều tài liệu của các học giả Phương Tây đã đề cập đến độ tàn khốc của cuộc chiến ngắn ngày này, gồm cả số quân tham chiến, số thương vong trong binh sĩ và thường dân Việt Nam bị giết.

BBC Tiếng Việt giới thiệu các số liệu khác nhau :

Số quân tham chiến

Peter Tsouras viết trên Military History Magazine :

Trung Quốc đã tập trung 200 nghìn quân thuộc 20 sư đoàn, cùng 400 xe tăng và 1.500 khẩu pháo. Lực lượng của Quân Giải phóng (PLA) lên tới 70 nghìn quân chỉ ở vùng giáp Lạng Sơn.

Sư đoàn Sao Vàng của Việt Nam bảo vệ Lạng Sơn bị Trung Quốc đẩy lui. Trong vòng vài ngày sau, quân Trung Quốc bao vây, xóa sổ sư đoàn này và biến Lạnh Sơn thành bình địa.

David Dreyer trong bài 'The 1979-Sino-Vietnamese-Conflict' :

PLA chuẩn bị cho cuộc tấn công với 300-400 nghìn quân và khoảng 1.200 xe tăng cùng pháo binh, hỏa tiễn và các loại vũ khí hỗ trợ.

Ngày 17/02/1979, vào lúc 5 giờ sáng, chừng 100 nghìn quân Trung Quốc vượt biên giới vào Việt Nam sau các đợt pháo kích cấp tập.

Đối mặt với quân Trung Quốc ban đầu chỉ là 75-80 nghìn bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Việt Nam.

Có kinh nghiệm của gần 30 năm chiến tranh, phía Việt Nam chống trả dữ dội và chia thành các đơn vị nhỏ, cấp tiểu đội, tiểu tổ để dùng cách đánh du kích chống lại quân xâm lăng.

Đồi núi được biến thành pháo đài với đường hầm, hố chông. Phía Trung Quốc không tiến nhanh như họ muốn và phải trì hoãn kế hoạch đánh chiếm Cao Bằng.

Số thương vong

Không bên nào công bố số thương vong chi tiết.

Peter Tsouras viết :

Trung Quốc chỉ thừa nhận có 7.000 quân tử vong và 15 nghìn bị thương nhưng các nguồn Phương Tây ước tính có 28 nghìn quân Trung Quốc bị giết và 43 nghìn bị thương.

Phía Việt Nam không nói số thương vong trong quân đội nhưng nói nhiều về số 100 nghìn thường dân bị thiệt mạng.

Bách khoa Toàn thư Anh, Britannica :

Quân Trung Quốc chiến đấu vô cùng tồi tệ chống lại dân quân tiền tuyến của Việt Nam.

Sau ba tuần giao tranh với con số thương vong 45 nghìn (Việt Nam nói là gây ra cho phía Trung Quốc) Quân Giải phóng đã phải rút về.

Sam Brothers trong bài 'The Enemy of My Enemy : The Sino-Vietnamese War of 1979 and the Evolution of the Sino-American Covert Relationship' viết :

Phía Trung Quốc, theo một ước tính, có từ 20 nghìn đến 62.500 thương vong trong khi phía Việt Nam, dù số liệu còn mù mờ, là khoảng từ 35 nghìn đến 50 nghìn.

Nhưng cuộc xung đột chỉ xảy ra trong 27 ngày, với đúng 17 ngày giao tranh, mà đã tạo ra con số thương vong như vậy cho thấy sự man rợ (savage) của nó.

Liên Xô đã làm gì ?

Sam Brothers :

Liên Xô có các chuyến bay TU-95D từ Vladivostok về phía Nam để theo dõi tình hình.

Một tàu tuần dương lớp Sverdlov và một tàu khu trục lớp Krivak cũng được cử đến tham gia đơn vị hải quân gồm 17 tàu đã có mặt tại bờ biển Việt Nam.

Moscow cũng cử sáu chiếc phi cơ vận tải Antonov-22 đến Hà Nội ngày 23/02, và có hai chuyến bay Liên Xô và Bulgraia từ Calcutta tới Hà Nội ngày 26/02/1979.

Tuy thế, Liên Xô không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến dù đã ký hiệp ước phòng thủ với Hà Nội.

Căng thẳng hậu chiến

Trang GlobalSecurity.org :

Cho đến cuối thập niên 1980, phía Việt Nam biến vùng biên giới thành các 'pháo đài thép' và dùng các đơn vị dân quân được huấn luyện tốt để phòng thủ trước Trung Quốc.

Ước tính 600 nghìn người được điều động vào các chiến dịch sẵn sàng chiến đấu để ngăn ngừa Trung Quốc tiến sang lần nữa... gây phí tổn tiền bạc lớn cho Việt Nam.

Giới quan sát nước ngoài cũng đánh giá rằng "các cuộc va chạm ở biên giới tiếp tục xảy ra trong suốt thập niên 1980, nổi bật là trận tháng 4/1984, khi quân Trung Quốc lần đầu tiên dùng vũ khí mới, súng Type 81 (AK-47 của Trung Quốc).

Hai nước phải đến 2007 mới hoàn tất việc ký kết xong hiệp định biên giới trên bộ, theo các bản tin quốc tế.

Dù cuộc chiến 'phản kích tự vệ' của Đặng Tiểu Bình nhắm vào Việt Nam là thất bại quân sự, Sam Brothers trong bài viết cũng trích lời ông Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore bày tỏ cái nhìn khác :

"Báo chí Trung Quốc coi hành động trừng phạt Việt Nam của người Trung Quốc là một thất bại nhưng tôi lại tin rằng nó đã thay đổi lịch sử vùng Đông Á".

****************

Cuộc chiến 1979 thực sự đã 'bắt đầu từ trước'

Quốc Phương, BBC, 17/02/2017

biengioi15

Cuộc chiến trên Biên giới Việt - Trung khởi phát từ ngày 17/2/1979 đã trôi qua được 38 năm.

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt - Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử từ Đại học Huế của Việt Nam.

Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, ông Hà Văn Thịnh nói :

"Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.

"Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).

"Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn...

"Theo quan điểm của tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được".

Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.

Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt - Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói :

"Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.

"Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen...", ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.

'Phải tạo áp lực'

Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn '11 dòng' nói về cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là 'Trung Quốc xâm lược Việt Nam'.

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói :

"Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh...

"Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.

"Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.

"Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết... phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên", ông Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.

Quốc Phương

Nguồn : BBC, 17/02/2019

****************

'Nhớ tháng 2/1979 nhưng không kích động căm thù'

Ngô Nhật Đăng, BBC, 17/02/2019

Nhớ lại cuộc chiến biên giới Việt - Trung ngày 17/2 là để ghi nhớ, nhưng không phải là để 'kích động căm thù', một cựu chiến binh Việt Nam nói.

biengioi16

Ông Ngô Nhật Đăng (đeo kính) đã trở lại bên kia biên giới gặp các cựu binh Trung Quốc hồi 2014 và viết một loạt bài cho BBC

"Cuộc Chiến Biên giới cần được nhớ lại, không phải để kích động, căm thù hay xiển dương cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà để tránh cho thế trẻ lại phải cầm súng. Việc này thật khó, nhưng tôi cũng chỉ biết mơ ước như vậy", nhà báo Ngô Nhật Đăng, cựu chiến binh, nêu quan điểm với BBC Việt ngữ qua một phỏng vấn bút đàm :

Ngô Nhật Đăng : Ngày này cũng là ngày mà tôi lên biên giới. Tôi nhập ngũ vào tháng 8/1978 và tối ngày 17/2/1979 thì lên đường Biên giới, mặt trận Cao Bằng.

Ấn tượng thì nhiều, nhưng nhớ nhất có lẽ là khi qua Đèo Giàng gặp từng đoàn đồng bào có cả trẻ em chạy bộ trên đường, họ đi suốt ngày đêm.

Chúng tôi còn ở lại hậu cứ của sư đoàn ở Nà Phạc vài ngày sau khi chiến sự xảy ra.

Tình hình lúc đó cũng căng thẳng do phía Việt Nam bị bất ngờ, để quân Trung Quốc tràn đến thị xã Cao Bằng, nhưng họ đã bị chặn lại với rất nhiều tổn thất.

Sau đó, tôi được phiên chế vào một tiểu đoàn, nhận nhiệm vụ luồn vào sau lưng đối phương, gọi là tiểu đoàn "luồn sâu phá hoại".

Kỷ niệm thì rất nhiều, nhưng sự khốc liệt, súng đạn, sự tàn phá tận diệt các cơ sở dân sự, nhà dân mới làm chúng tôi ngạc nhiên.

Cả thị xã Cao Bằng hầu như không còn một ngôi nhà nào còn nguyên vẹn.

BBC : Ông nhớ gì nhất về đồng đội cũ của ông trong dịp này ?

biengioi17

Người dân Lạng Sơn, gồm cả phụ nữ, trẻ em chạy khỏi thị xã hôm 23/02/1979 sau khi quân Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới của Việt Nam

Ngô Nhật Đăng : Ồ, nhớ lắm, chúng tôi lúc đó toàn lính trẻ, lần đầu đi chiến đấu, tôi lúc đó lớn tuổi nhất trong trung đội, 21 tuổi, còn phần lớn là 18,19 tuổi, có đứa mới 17, khai tăng tuổi để đi bộ đội. Nhớ nhất là những anh em đã bị chết.

Hàng năm, những người cùng nhập ngũ đều gặp nhau, nhưng những người cùng ra trận thì ít, xa xôi và mỗi đứa một ngả.

Tôi nhớ một anh quê Bắc Giang, hy sinh khi trong túi nhận được lá thư của gia đình báo, em ruột anh ấy cũng hy sinh ở mặt trận Lạng Sơn. Trong túi áo có lá thư.

Thú thật, những ngày này, tới mãi gần đây cuộc chiến và sự hy sinh của những người lính ấy mới bắt đầu được truyền thông nhắc đến, đó cũng là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.

BBC : Ông có thể nói rõ hơn về lá thư ở trong túi áo của người lính đó, nó đặc biệt ra sao ?

Ngô Nhật Đăng : Vâng, khi chôn cất anh ấy, tìm lại những di vật chúng tôi tìm được lá thư, tôi vẫn nhớ những dòng chữ viết :

BBC : Gần 40 năm đã trôi qua kể từ ngày 17/2/1979, ông có ý tưởng gì về chuyện hàn gắn giữa cả hai bên Việt Nam - Trung Quốc xung quanh cuộc chiến này ?

Ngô Nhật Đăng : Cám ơn câu hỏi rất hay, ý tưởng này tôi cũng đã nung nấu từ lâu. Chính năm 2014, BBC Tiếng Việt đã tạo điều kiện cho tôi sang Trung Quốc làm phóng sự, gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc tham chiến thời đó.

Nơi tôi tham gia, lính Trung Quốc chết rất nhiều, việc đầu tiên mà chúng tôi phải làm sau khi họ rút đi, chúng tôi phải đi chôn cất lại, nhiều hố chôn tập thể chỉ vùi lấp sơ sài, thú rừng bới cả thi hài lộ lên mặt đất.

Sau này, khi gặp được các cựu binh Trung Quốc, nói chuyện với họ, tìm thăm những nghĩa trang, tôi càng thấy sự tàn khốc của chiến tranh.

BBC : Là người từng trải qua mấy cuộc chiến, ông suy nghĩ gì về chiến tranh và hòa bình ?

biengioi18

Nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc ở Malipo. Các nguồn của Trung Quốc được AFP trích dẫn nói ít nhất 26 nghìn quân Trung Quốc bị giết sau bốn tuần giao tranh ở Việt Nam

Ngô Nhật Đăng : Từng tham gia chiến tranh, chúng tôi rất hiểu cái giá của nó. Nhất là về mặt địa chính trị hai nước Việt- Trung có chung biên giới. Xử lý quan hê Việt- Trung thế nào để không xảy ra chiến tranh là điều đã mà trong suốt nhiều thế kỷ ông cha ta đã phải làm.

Và lịch sử cũng chỉ rằng, các triều đại Trung Quốc đều có âm mưu xâm lược Việt Nam và các cuộc chiến tranh đó họ đều thất bại từ khi Ngô Quyền đứng lên giành độc lập. Nhưng lịch sử cũng có bài học...

Trong 200 năm Vương triều nhà Lý, không nổ ra cuộc chiến tranh quy mô lớn nào. Vậy chúng ta rút gì từ bài học đó ?

Khi gặp các cựu binh Trung Quốc, phỏng vấn nhiều người, đủ thế hệ nhất là những người trẻ, họ đều không muốn xảy ra chiến tranh.

Có một người nói :

"Nếu là kẻ thù thì phải đánh nhau thôi, nhưng tại sao chúng ta lại nỗ lực biến nhau thành kẻ thù ?"

Chiến tranh là lựa chọn cuối cùng, nhưng là lựa chọn tồi tệ nhất, trách nhiệm lớn nhất suy cho cùng là các nhà chính trị. Và truyền thông cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để nhân dân hai nước hiểu nhau, bắt đầu là nhìn vào lịch sử, trả lại sự thật cho lịch sử, tìm ra nguyên nhân làm nảy sinh chiến tranh.

Vì thế, những này này, cuộc chiến tranh Biên giới cần được nhớ lại, không phải để kích động, căm thù hay xiển dương cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà để tránh cho thế trẻ lại phải cầm súng. Việc này thật khó, nhưng tôi cũng chỉ biết mơ ước như vậy.

BBC : Ông nghĩ sao về Trung Quốc ngày nay, đặc biệt các động thái của họ ở trên Biển Đông, nơi mà nhiều quốc gia ở khu vực và quốc tế cho rằng Bắc Kinh đã và đang tỏ ra ngày càng lấn lướt trong các tranh chấp và tuyên bố chủ quyền, từ câu chuyện đưa ra bản đồ Lưỡi bò cho đến các giàn khoan được đưa vào khu vực gây xôn xao dư luận và gần đây nhất là Tứ sa ?

biengioi19

Một dịp tưởng niệm các liệt sĩ và người dân Việt Nam bị giết trong cuộc chiến 1979

Ngô Nhật Đăng : Vâng, Trung Quốc đang làm cả thế giới lo ngại với việc họ chạy đua vũ trang gần đây, đặc biệt trên biển Đông, nhất là việc họ chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và một số đảo của Trường Sa của Việt Nam. Trong thế kỷ này, Thái Bình Dương là huyết mạch của nền kinh tế thế giới, Biển Đông cũng là vị trí quan trọng trong con đường huyết mạch này.

Nhìn trên bản đồ, Trung Quốc chỉ có thể đi ra thế giới bằng đường biển, phía bắc có các cảng nước sâu nhưng đóng băng vào mùa đông, lui xuống phía Nam thì Đài Loan án ngữ, vùng biển Nam Trung Hoa thì biển nông và nhiều mưa bão, nên chỉ còn Biển Đông mà họ gọi là Nam Hải.

Nhưng nếu nhìn thật sâu vào Trung Quốc ta thấy có các vấn đề sau.

Thứ nhất : họ không có chính danh trong việc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.

Thứ hai, dù tăng trưởng ngoạn mục nhiều năm, nhưng nền kinh tế Trung Quốc không phải là một nền kinh tế bền vững, chạy đua vũ trang sẽ là một gánh nặng.

Thứ ba, dù đông đảo, nhưng quân đội Trung Quốc không được đánh giá là một quân đội mạnh, nhất là chính sách một con, bạn thử tưởng tượng khi đứa con độc nhất hy sinh thì tác động tâm lý lên xã hội sẽ thế nào ?

Và cuối cùng, nội bộ Trung Quốc còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Cộng đồng thế giới cũng sẽ không để họ làm mưa làm gió.

Không như ngày trước, vai trò của các nước nhỏ cũng rất quan trọng, Việt Nam cần phải có đối sách thích hợp, mềm mỏng nhưng không hèn yếu.

Ngô Nhật Đăng 

Nguồn : BBC, 17/02/2018

Ông Ngô Nhật Đăng hiện sinh sống tại Gò Công, Tiền Giang, là nhà báo tự do và là một Facebooker, ông từng tham gia Cuộc chiến biên giới Việt - Trung 1979 ;cuộc phỏng vấn, phản ánh quan điểm riêng của người trả lời, được Quốc Phương của BBC thực hiện qua bút đàm hôm 16/2/2018.

******************

Đâu là nguyên nhân cuộc chiến Việt-Trung tháng Hai năm 1979 ?

Trương Nhân Tuấn, BBC, 02/03/2017

BBC mới đăng lại bài viết của tác giả người Hung, Tiến sĩ Balazs Szalontai, tựa đề "Đàm phán biên giới Việt Trung 1974-1978". Tác giả cho biết nguyên nhân chính đưa đến xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa" :

199999999999999999999

Một đơn vị pháo của Quân đội Việt Nam tại tỉnh Lạng Sơn đang chiến đấu chống lại cuộc xâm lấn của Trung Quốc tháng Hai năm 1979.

"Tài liệu từ văn khố Hungary đã hé lộ cho thấy nguyên nhân chính gây ra cuộc xung đột Việt Trung là một vấn đề mà Liên Bang Xô Viết chẳng có dính dáng gì tới : đó là cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa".

Dữ kiện này (nếu có thật) thì là chuyện ngạc nhiên. Vì nó trái ngược với tất cả các tài liệu (đã được giải mã) của các bên, từ phía Trung Quốc, Việt Nam hay Hoa Kỳ…

Trung Quốc đã mở đầu cuộc chiến khi xua quân tràn qua biên giới ngày 17/2/1979. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm từ tháng giêng 1974. Dĩ nhiên Trung Quốc không thể vịn vào "tranh chấp Hoàng Sa" để biện hộ cho hành vi xâm lược. Bởi vì quần đảo này đã yên ổn trong tay họ.

Về phía Việt Nam, nếu xét sâu xa ở phương diện lịch sử thành hình biên giới Việt-Trung, vấn đề Hoàng Sa cũng là chuyện "đã rồi", ít ra trong khoản thời gian từ năm 1958 cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả lúc sau này Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thay đổi lập trường, thì kết luận "tranh chấp Hoàng Sa" là nguyên nhân đưa đến cuộc chiến cũng là điều khó thuyết phục.

Các học giả quốc tế, không ngoại lệ, đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc chiến "Đông Dương lần thứ ba" là yếu tố Liên Xô mà Tiến sĩ Balazs Szalontai đã loại trừ.

Cuộc chiến nhìn từ phía Trung Quốc

Tác giả King C. Chen trong "China's War Against Vietnam" kể lại buổi họp ngày 16/2/1979 tại Bắc Kinh do Hoa Quốc Phong chủ trì, 17 tiếng đồng hồ trước khi lệnh nổ súng ban ra. Đặng Tiểu Bình có bài thuyết trình cho các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc về bản chất và mục tiêu cuộc chiến.

Theo họ Đặng bản chất cuộc chiến là "hoàn kích tự vệ". Cuộc chiến được "giới hạn" về thời gian, không gian cũng như về qui mô. Mục tiêu là dạy cho Việt Nam một "bài học".

Gọi "hoàn kích tự vệ chiến", tức đánh trả để tự vệ, bởi vì Việt Nam đã "trục xuất kiều dân người Hoa" cũng như bộ đội Việt Nam nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, chiếm đất của Trung Quốc cũng như gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.

Mục tiêu "cho Việt Nam một bài học", bởi vì "Việt Nam cực kỳ ngạo mạn", xâm lược Campuchia, khoa trương thế lực là "cường quốc thứ ba trên thế giới".

Học giả Trung Quốc, Xiaoming Zhang, trong "China's 1979 War with Vietnam : A Reassessment", dẫn Nayan Chanda của Tạp chí Kinh Tế Viễn Đông, nói rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc, trong một cuộc họp Bộ Chính trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978, đã ra quyết định "dạy cho Việt Nam bài học" vì thái độ "vô ơn và ngạo mạn".

Theo tác giả này, trong 20 năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng sau 1975 Việt Nam buộc người Hoa hồi cư đồng thời gia tăng chiến sự trên biên giới. Rõ ràng đây là thái độ phủi ơn và hống hách. Ngoài ra còn có vấn đề can thiệp quân sự vào Campuchia.

Tác giả cũng dẫn ý kiến của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, trong một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tháng 9 năm 1978. Nội dung nói về "làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam".

Ý kiến của Châu Đức Lễ (về việc Việt Nam chiếm đất của Trung Quốc) được củng cố nếu ta xét tài liệu "mật" của CIA Mỹ về cuộc chiến 1979 đã được bạch hóa. Theo tài liệu này thì Việt Nam chiếm khoảng 60km² đất của Trung Quốc.

Nhưng ý nghĩa của cuộc "phản công tự vệ chiến" (vì Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc) là không có căn cứ. Theo nghiên cứu của cá nhân, chuyện Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc là chuyện "bịa đặt" để Trung Quốc "lấy cớ" đánh Việt Nam.

Cuộc chiến đã xảy ra đúng như họ Đặng đã nói. Thời gian xung đột chỉ trong một tháng (quân Trung Quốc hoàn tất việc rút quân vào ngày 17/3/1979). Địa bàn chiến tranh chỉ ở các tỉnh biên giới. Về "qui mô", Trung Quốc cũng giới hạn không sử dụng hải quân và không quân.

Không có một dòng nào để ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến biên giới 1979 có mối liên quan với vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.

Cuộc chiến nhìn từ học giả nước ngoài

Theo cái nhìn của cá nhân tôi, thuyết phục hơn hết là "nguyên nhân chiến lược", dẫn từ tham luận "Security Issues in Southeast Asia : The Third Indochina War" của học giả Carlyle Thayer, đọc tại Hội Nghị "An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương", Đại học Quốc gia Úc (Canberra) tháng Tám năm 1987.

Theo học giả Carlyle Thayer, Trung Quốc (và cả khối ASEAN) lo ngại sự thành hình của "liên minh chiến lược Đông Dương" mà liên minh này thân Liên Xô. Quan niệm của Việt Nam "Đông Dương là một đơn vị chiến lược duy nhất, một chiến trường duy nhất". Quan niệm này đã thể hiện qua hai cuộc "chiến tranh Đông Dương", lần thứ nhất giữa Bắc Việt với "thực dân Pháp" và lần hai giữa Bắc Việt với "đế quốc Mỹ". Cuộc chiến 1979 được gọi là "cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba", Việt Nam gọi Trung Quốc là "bọn bành trướng bá quyền".

Nếu khảo sát sơ lược các diễn tiến lịch sử đã qua, ta thấy lý thuyết của học giả Carlyle Thayer được chứng minh. Điều này cũng "ăn khớp" với cái nhìn từ Trung Quốc.

Khúc quanh làm sụp đổ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 1976, khi Liên Xô hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam 3 tỉ đô la. Số tiền này bằng số tiền mà Mỹ hứa sẽ viện trợ, (nếu Việt Nam tôn trọng hiệp định Paris). Việt Nam trở thành "vệ tinh" của Liên Xô từ lúc này.

Từ năm 1965 đến 1975, Liên Xô đã trở thành nhà cung cấp chính yếu các nhu cầu kinh tế và quốc phòng để Việt Nam tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Mỹ và Trung Quốc đã có những thỏa thuận quan trọng từ năm 1972. Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tất cả những nỗ lực của Trung Quốc giúp cho Việt Nam, trong 20 năm (từ 1950 đến 1970) là 20 tỉ đô la, nhằm mục đích phòng thủ về phía nam. Sau khi đạt thỏa thuận với Mỹ, Trung Quốc hạn chế mọi viện trợ kinh tế và quốc phòng cho Việt Nam.

Nhưng sau đó Liên Xô ảnh hưởng lên Việt Nam, đồng thời với Afghanistan cũng như Mông cổ và Bắc Hàn. Rốt cục Trung Quốc bị bao vây chặt chẽ từ bốn hướng bởi một kẻ thù chiến lược khác, nguy hiểm hơn cả Mỹ, vì Liên Xô có tham vọng về lãnh thổ còn Hoa Kỳ thì không.

Cũng năm 1976, những nhân vật thân Trung Quốc, như Hoàng Văn Hoan, bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất hết các chức vụ trong Đảng.

Phản ứng của Trung Quốc qua Ngoại trưởng Hoàng Hoa là lên án "chủ nghĩa xét lại Xô Viết" đồng thời công khai cảnh cáo trước Việt Nam về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.

Tiếp tục theo đuổi sách lược (bài Hoa thân Liên Xô) của mình, Việt Nam làm đơn xin gia nhập khối COMECON, là khối tương trợ về kinh tế do Liên Xô đứng đầu.

Không thể tránh khỏi

Tại Hội nghị Đảng tháng 2/1978, Hà Nội quyết định phát động chiến dịch "đánh tư sản mại bản" ở miền Nam. Có đến 30.000 doanh nghiệp tư nhân ở miền Nam bị "quốc hữu hóa" mà đa số do người Hoa làm chủ. Chiến dịch thanh lọc mà Trung Quốc gọi là "nạn kiều" cũng được phát động cùng thời kỳ. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa, phần lớn đã sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, không biết tiếng Hoa, cũng bị "trục xuất". Việc này tạo thành một cuộc "vượt biên" vĩ đại, bán chính thức, vì do chính công an Việt Nam đứng ra tổ chức. Hàng triệu người Việt Nam dùng vàng mua "vé" (trung bình 7 lượng vàng một đầu người) để lên những chiếc tàu đánh cá mong manh với hy vọng thoát thân. Trong khi hàng chục ngàn người Hoa sống ở miền Bắc thì theo đường bộ "vượt biên" trở về lục địa.

Đến thời điểm này nội bộ Đảng Trung Quốc đã lên kế hoạch "cho Việt Nam một bài học".

Tháng Sáu năm 1978, Trung Quốc cho đóng cửa hàng loạt tòa lãnh sự ở Việt Nam. Cùng lúc Việt Nam chính thức gia nhập khối COMECON. Tháng 11 hai bên Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương.

Một tháng sau, ngày 25/1/1978 Việt Nam xua quân tiến vào lãnh thổ Campuchia. Tức nước vỡ bờ, cuộc chiến 17/2/1979 là điều tất yếu phải đến.

Ta không hề thấy yếu tố Hoàng Sa "là nguyên nhân chính đưa đến cuộc chiến" trong bất kỳ lập luận nào của các học giả nước ngoài.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : BBC, 02/03/2017

Published in Diễn đàn