Covid-19 tác động đến các tranh chấp ở Biển Đông theo hai cách. Thứ nhất, không có cuộc gặp trực tiếp nào giữa các thành viên ASEAN và Trung Quốc thông qua Nhóm công tác chung để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC). Do JWG-DOC đã thúc đẩy các cuộc đàm phán về Biển Đông, các cuộc đàm phán vốn đã phức tạp hơn và không có tiến triển nào về Bộ Quy tắc ứng xử (COC), nhằm quản lý quan hệ liên quốc gia và tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển tranh chấp.
Thứ hai, thủy thủ đoàn của tàu USS Theodore Roosevelt nhiễmi Covid-19 sau khi đến Việt Nam vào đầu tháng 3. Tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đã ngưng hoạt động trong hai tháng. Trong khi hệ thống tuyên truyền Trung Quốc nói đến các vấn đề này liên tục, Hoa Kỳ phản đối bằng cách buộc tội Trung Quốc lợi dụng đại dịch corona để bắt nạt và đe dọa các quốc gia yêu sách.
Việc phát triển lớn liên quan đến luật pháp quốc tế là Trung Quốc đã thành lập hai khu hành chính mới ở Biển Đông vào ngày 18 tháng 4 – một trên Quần đảo Hoàng Sa và bãi Macclesfield, một trên quần đảo Trường Sa. Cả hai quận đều thuộc thẩm quyền của thành phố Sansha trên đảo Phú Lâm. Việc thành lập các khu hành chính này đã thúc đẩy sự phản đối của Việt Nam và Philippines.
Nhưng về luật pháp không có tiến triển nào quan trọng hơn công hàmđược đệ trình lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa (CLCS) hoặc Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để đáp lại việc Malaysia đệ trình sơ bộ về một thềm lục địa mở rộng vào ngày 12 tháng 12 năm 2019. Công Hàm của Malaysia đã bác bỏ cơ sở pháp lý của các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử. Trung Quốc đã đáp trả bằng cách yêu cầu Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa thẳng thừng bác bỏ yêu cầu của Malaysia.
Năm 2019 đệ trình của Malaysia đã kích hoạt các phản ứng của Philippines (hai công hàm vào ngày 6 tháng 3), Việt Nam (30 tháng 3 và hai công hàm vào ngày 10 tháng 4), Indonesia (26 tháng 5), Hoa Kỳ (1 tháng 6), Úc (23 tháng 7), Malaysia (29 tháng 7) và một công hàm đồng ký tên của Pháp, Đức và Vương quốc Anh (16 tháng 9). Trung Quốc đã đệ trình từng phản ứng một đối với các công hàm trên.
Ba chủ đề nổi lên từ các cuộc trao đổi ngoại giao này – một sự bác bỏ hoàn toàn các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử, ủng hộ các yêu sách đối với các khu vực hàng hải chỉ dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), và ủng hộ Phán quyết của Tòa trọng tài đối với các tuyên bố của Philippines phản đối Trung Quốc. Phát biểu trước Đại hội đồng LHQ ngày 22/9, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết ‘Phán quyết[của tòa trọng tài] hiện là một phần của luật pháp quốc tế, ngoài sự thỏa hiệp’.
An ninh hàng hải ở Biển Đông bị ảnh hưởng bởi các tàu thực thi pháp luật hàng hải và một loạt các cuộc tập trận hải quân của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia để quấy rối một tàu khoan dầu hoạt động theo hợp đồng với Petronas, công ty dầu khí nhà nước Malaysia, từ cuối tháng 1 đến tháng 2/2020.
Năm 2020 cũng được đánh dấu bởi hai sự cố của tàu chiến Trung Quốc, sự hiện diện hải quân liên tục của Washington và các hoạt động tự do hàng hải (FONOPS), một sự thay đổi trong sự hiện diện của máy bay ném bom Mỹ có trụ sở tại Guam, cũng như các cuộc tập trận hải quân chưa từng có của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Chính quyền Trump đã nâng số lượng FONOPS hàng năm do hải quân Hoa Kỳ tiến hành, đáng chú ý nhất là tiến hành hai FONOPS liên tục vào cuối tháng 4.
Trong tháng 4 và tháng 5, Trung Quốc tìm cách tận dụng sự bất lực đối với covid-19 của tàu USS Theodore Roosevelt bằng cách phái Đội đặc nhiệm tàu sân bay Liêu Ninh đến phía bắc Biển Đông để tiến hành các hoạt động bay và một loạt các cuộc tập trận. Washington đã đáp trả vài tháng sau đó bằng cách khẳng định mạnh mẽ nhất về sức mạnh hải quân ở Biển Đông kể từ năm 2014 bằng cách điều động ba nhóm tấn công tàu sân bay.
Trung Quốc đã đáp trả sự hiện diện của các tàu sân bay Mỹ bằng cách điều động bốn máy bay chiến đấu và bốn máy bay ném bom đến đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa vào đầu tháng 7. Bắc Kinh sau đó tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân trùng với cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) ngoài khơi Hawaii từ ngày 17 đến ngày 31 tháng 8.
Trong cuộc phô trương quyền lực đáng chú ý, Trung Quốc đã bắn hai tên lửa đạn đạo từ các địa điểm riêng biệt trên đất liền vào vùng biển giữa đảo Hải Nam và Hoàng Sa. Trong tháng 9, Trung Quốc tiến hành bốn cuộc tập trận hải quân đồng thời ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Hoàng Hải và Vịnh Ba Tư. Vào tháng 11, Hải quân Trung Quốc đã tiến hành hai cuộc tập trận riêng biệt ở Biển Đông. Lần đầu bao gồm bốn tàu đổ bộ đổ bộ, trong khi lần thứ hai bao gồm một chi hạm đội tàu tên lửa tàng hình. Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và Dân quân Biển Trung Quốc tiếp tục các cuộc tuần tra ‘như thường lệ’ và quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí do các quốc gia duyên hải tiến hành trong đường chín đoạn của Trung Quốc.
Nhìn về phía trước, căng thẳng ở Biển Đông khó có thể lắng xuống khi Trung Quốc và Mỹ tiếp tục chu kỳ hành động-phản ứng với các cuộc tập trận quân sự. Trung Quốc sẽ quấy rối bất kỳ việc tái thăm dò dầu mỏ nào của các quốc gia yêu sách trong vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc sẽ tăng áp lực lên các thành viên ASEAN để hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử vào năm 2021. Chính quyền Biden sẽ tái tham gia với ASEAN và cung cấp đối trọng với Trung Quốc.
Carlyle A Thayer là Giáo sư danh dự tại Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc, Đại học New South Wales, Canberra.
Thụy My, RFI, 05/01/2021
Anh sẽ điều một hàng không mẫu hạm đến Đông Á, Pháp đưa tàu Hải quân đến Nhật Bản và Đức gởi khu trục hạm đến Ấn Độ Dương, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng tỏ ra hung hăng tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. South China Morning Post hôm 05/01/2021 dẫn thông cáo của các chính phủ liên quan cho biết như trên. Nhật Bản và Hoa Kỳ rất hoan nghênh sự tham gia này.
Tờ báo Hồng Kông dẫn lời bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Nobuo Kishi trong cuộc họp online với đồng nhiệm Đức Annegret Kramp-Karrenbauer hôm 15/12 nói rằng Nhật Bản có tiềm năng phát triển hợp tác quốc phòng với Châu Âu. Về phía bà Kramp-Karrenbauer nhận định : "Những gì diễn ra tại Ấn Độ-Thái Bình Dương cũng ảnh hưởng đến Đức và Châu Âu. Chúng tôi mong muốn hợp tác trong việc bảo vệ trật tự dựa trên cơ sở luật pháp".
Ông Kishi hy vọng chiến hạm Đức sẽ tham gia tuần tra với Lực lượng phòng vệ Nhật Bản trên Biển Đông. Trong một động thái đột phá hiếm hoi về ngoại giao của Đức, vốn rất thận trọng từ sau Đệ nhị Thế chiến, bà Kramp-Karrenbauer tuyên bố : "Người ta không thể đặt gánh nặng lên vai người khác khi theo đuổi tham vọng kinh tế và an ninh". Bộ trưởng Quốc Phòng Đức ám chỉ việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông và liên tục xâm nhập Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông.
Sự kiện Bắc Kinh thẳng tay đàn áp Hồng Kông, thuộc địa cũ của Anh, cũng góp phần vào quyết định của Luân Đôn triển khai hàng không mẫu hạm đến Ấn Độ-Thái Bình Dương. Với việc các chiến đấu cơ F-35B của chiếc Queen Elizabeth sẽ được bảo dưỡng tại tỉnh Aichi, một số chuyên gia cho rằng mẫu hạm 65.000 tấn này sẽ lưu lại một thời gian ngắn tại Nhật. Một chuyên gia dự đoán Anh và Mỹ sẽ cùng tập trận tại Tây Thái Bình Dương, như hai đồng minh vẫn thường tiến hành ở Đại Tây Dương.
Trong một diễn biến liên quan, Nhật, Mỹ, Pháp sẽ tập trận đổ bộ trên một đảo hoang ở tây nam Nhật Bản vào tháng Năm.
Bên cạnh yếu tố Trung Quốc, các nhà phân tích cho rằng sở dĩ quan hệ giữa Nhật Bản và Châu Âu ngày càng chặt chẽ vì Tokyo mua nhiều vũ khí của các nước Châu Âu. Ngân sách quốc phòng của Nhật Bản tăng kỷ lục trong những năm gần đây trước những đe dọa về nguyên tử và hỏa tiễn của Trung Quốc, Bắc Triều Tiên.
Đài Loan tố cáo chiến đấu cơ Trung Quốc xâm nhập ở mức kỷ lục
Trong khi đó, bộ Quốc Phòng Đài Loan hôm tố cáo các phi cơ quân sự Trung Quốc đã xâm nhập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) đến 380 lần trong năm 2020. Đài Bắc nhấn mạnh đây là sự đe dọa cho an ninh khu vực, cho rằng Bắc Kinh "muốn thử nghiệm phản ứng quân sự, gây áp lực lên phòng không và thu hẹp không phận cần thiết cho các hoạt động của Đài Loan".
Viện Nghiên cứu Quốc phòng Đài Loan trong báo cáo thường niên đã cảnh báo "mối đe dọa quân sự của Trung Quốc đang ở mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng hỏa tiễn năm 1996 tại eo biển Đài Loan". Báo cáo nhận định các hành động này nhằm hăm dọa Đài Bắc không nên "vượt qua lằn ranh đỏ" trong quan hệ đang nồng ấm hơn với Hoa Kỳ.
Thụy My
*********************
Minh Anh, RFI, 02/01/2021
Theo tờ South China Morning Post ngày 01/01/2021, bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã nổi dóa sau khi Anh thông báo lần đầu tiên sẽ điều hàng không mẫu hạm đến làm nhiệm vụ Thái Bình Dương, kể cả ở Biển Đông và NATO ra báo cáo chỉ trích chế độ độc đoán và những tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc.
Một phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc, khi trả lời các câu hỏi của phóng viên trong buổi họp báo ngày 31/12/2020, tuyên bố : "Trung Quốc tin rằng Biển Đông không nên trở thành một vùng biển cho sự cạnh tranh giữa các cường quốc, bị chi phối bởi các loại vũ khí và tầu chiến."
Đại diện bộ Quốc Phòng Trung Quốc còn khẳng định sẽ có những biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình khi cho rằng "nguồn gốc thật sự của việc quân sự hóa Biển Đông đến từ việc nhiều nước bên ngoài vùng điều tầu chiến đến một nơi xa nhà hàng ngàn cây số để phô trương lực lượng".
Nhật báo Hồng Kông nhắc lại cựu bộ trưởng Quốc Phòng Anh, hồi tháng 2/2019 từng tuyên bố chiếc hàng không mẫu hạm mới nhất, HMS Queen Elizabeth sẽ được triển khai tại vùng Thái Bình Dương, kể cả tại những vùng biển đang có tranh chấp.
Cũng trong buổi họp báo, phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc còn chỉ trích bản báo cáo gần đây của NATO kêu gọi 30 nước thành viên tập trung nhiều hơn vào những "thách thức an ninh" do Trung Quốc đặt ra. Ông tuyên bố "Trung Quốc phản đối mọi suy đoán vô căn cứ và những cáo buộc sai lệch" trong bản báo cáo, đồng thời khẳng định chính sách quốc phòng của Bắc Kinh chỉ mang tính chất phòng thủ.
Minh Anh
Nguy cơ chiến tranh rất cao vì Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được quyền dùng vũ khí tấn công.
Luật Hải cảnh của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, dự trù có hiệu lực năm 2021 cho phép Lực lượng Hải cảnh sử dụng vũ khí chống người và thuyền, tầu nước ngoài.
Luật Hải cảnh của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, dự trù có hiệu lực năm nay, 2021, sẽ công khai gây chiến với Mỹ về quyền kiểm soát an ninh ở hai vùng biển chiến lược và bận rộn nhất thế giới, đồng thời đe dọa trực tiếp chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Dự Luật dài 80 Điều, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc (Quốc hội) công bố ngày 04/11/2020 và đã qua thời gian lấy ý kiến nhân dân ngày 3/12/2020, cho phép Lực lượng Hải cảnh sử dụng vũ khí chống người và thuyền, tầu nước ngoài.
Dự Luật này dự trù sẽ được Quốc hội Trung Quốc chấp thuận trong tương lai gần.
Khi Luật này có hiệu lực, Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc có toàn quyền kiểm soát và thực thi luật pháp của Bắc Kinh về an ninh trên hai vùng biển đang có tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) ở biển Hoa Đông (1), và toàn vùng trong hình "Đường 9 đoạn" (Lưỡi bò), do Trung Quốc tự khoanh, chiếm 3/4 diện tích của khoảng 3.447.000 cây số vuông ở Biển Đông. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm trong hình vẽ Đường Lưỡi bò.
Vì vậy, nguy cơ bùng nổ chiến tranh ở Châu Á giữa Mỹ và Trung Quốc và ở Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam, nước đang kiểm soát 21 vị trí ở quần đảo Trường Sa, sẽ rất cao nếu Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc sử dụng các loại võ khí, như Dự Luật cho phép, để bảo vệ điều được gọi là "quyền lợi cốt lõi" của Bắc Kinh trên biển.
Bộ Ngoại giao và học giả Trung Quốc cho rằng Dự luật Hải cảnh là việc riêng của nước này nhằm bảo vệ an ninh vùng "nội thủy" của Trung Quốc và không liên quan đến các nước khác.
Nhưng vùng biển đảo bị Dự luật chi phối, lại hầu hết thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước đang có tranh chấp với Bắc Kinh, lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Ngoài ra còn có Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei cũng tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc cũng muốn giành chủ quyền ở đảo Điếu Ngư đang do Nhật kiểm soát ở biển Hoa Đông.
Các học giả quốc tế và chuyên gia về an ninh hàng hải ở Biển Đông lo ngại Trung Quốc, tuy không đồng loạt thi hành những biện pháp mạnh để độc quyền kiểm soát Biển Đông vì muốn tránh bị lên án là thủ phạm gây bất ổn định trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương, nhưng sẽ quyết tâm thi hành Luật Hải cảnh để ép các nước nhỏ chấp nhận vai trò bá chủ Biển Đông của Bắc Kinh.
Hành động đe dọa an ninh ở Biển Đông của Bắc Kinh cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giao thương hàng hải có trọng tải hơn 500 triệu tấn hàng năm.
Trước tình hình này, Hoa Kỳ đã phối hợp với Ân Độ, Nhật Bản và Úc Đại Lợi lập thành một vòng đai để bảo vệ lưu thông trên biển, đồng thời ngăn chặn ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Bá quyền ngoan cố
Trước bối cảnh Luật Hải cảnh có hiệu lực, cũng cần nhắc lại rằng chủ trương bá quyền ở Biển Đông của Trung Quốc đã có từ thời Đặng Tiểu Bình (1977). Khi ấy, họ Đặng nói với các nước trong khu vực rằng rằng, "chủ quyền là của Trung Quốc, hãy gác tranh chấp để cùng khai thác". Từ đó đến thời Tập Cận Bình hiện nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn bảo "tất cả các đá, đảo và vùng nước xung quanh ở Nam Hải là của Trung Quốc từ thời cổ đại", nhưng Bắc Kinh lại không có bằng chứng lịch sử để chứng minh.
Từ lập trường bá quyền thực dân này, Trung Quốc đã sử dụng võ lực chiếm Quần đào Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974. Sau đó, tấn công và chiếm 7 đá, đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Từ đó đến nay, Trung Quốc đã tân tạo, mở rộng và biến 7 đảo thành các căn cứ quân sự phòng thủ kiên cố có bến càng, sân bay và đài Radar theo dõi hoạt động của thuyền, tầu đi lại trên Biển Đông.
Riêng tại đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa, Bắc Kinh đã xây dựng nhiều doanh trại cho lính đồn trú, trang bị các giàn hỏa tiễn và làm sân bay dài cho máy bay chiến đấu phản lực sử dụng.
Nay Trung Quốc lại muốn dùng Luật Hải cảnh để hợp thức hóa "quyền chủ quyền" của mình, trên vùng biển và đảo của nước khác hay đang trong tình trạng tranh chấp.
Chống Phán quyết 2016
Hành động này của Bắc Kinh đã công khai chống lại phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (Permanent Court of Arbitration -- PCA) tại The Hague, Hòa Lan, bác yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong vùng Đường 9 đoạn (Lưỡi bò).
Quyền chủ quyền trong vùng Đường 9 đoạn tự vẽ của Trung Quốc bị phủ nhận trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung Quốc, vì Bắc Kinh đã chèn ép để lấn chiếm vùng biển và đảo ở phía Tây Trường Sa mà Phi nhận có chủ quyền.
Sau 3 năm thụ án, Tòa đã phán quyết ngày 12/07/2016, về Quyền lịch sử và Đường 9 đoạn như sau :
"Tòa Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Tòa kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Tòa cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong Đường 9 đoạn".
(Người Lao Động, 13/07/2016)
Sau khi giáng cho Trung Quốc đòn thua đau về Đường 9 đoạn, Tòa tuyên bố về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc về các cấu trúc trên biển Đông : "Tòa tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không. Theo Công ước (về Luật biển Liên Hiệp Quốc năm 1982), các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các "đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa". Tòa kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Tòa cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Tòa cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Tòa kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó, Tòa kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất. Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Tòa nhận thấy Tòa có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có".
(Người Lao Động, 13/07/2016)
Âm mưu khống chế
Nhưng dù bị thất bại, Trung Quốc vẫn không thừa nhận phán quyết của Tòa. Ngược lại Bắc Kinh vẫn tiếp tục có hành động đe dọa các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam, với hy vọng khống chế toàn bộ Biển Đông bằng võ lực.
Những Điều quan trọng dưới đây của dự Luật Hải cảnh, theo Bản dịch của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông, đã chứng minh tham vọng của Bắc Kinh (2) :
Trước hết, Điều 2 quy định : "Cơ quan Hải cảnh là lực lượng vũ trang quan trọng trên biển và lực lượng thực thi pháp luật hành chính của Nhà nước".
Làm rõ hơn Lực lượng Hải cảnh còn có quyền kiểm soát trên không, Điều 3 viết : "Luật này được áp dụng cho cơ quan Hải cảnh khi triển khai công tác thực thi pháp luật, bảo vệ quyền lợi trên biển và trên không tại các vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc".
Nhưng chi tiết hơn thì Điều 11 đã minh thị : "Cơ quan Hải cảnh thực hiện các chức năng nhiệm vụ dưới đây theo pháp luật :
1. Phụ trách triển khai tuần tra, cảnh giới trên biển ; trực ban canh giữ các đảo, đá trọng yếu trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ; quản lý bảo vệ đường phân định ranh giới trên biển ; phòng ngừa, ngăn chặn, loại bỏ các hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, an ninh và quyền lợi biển quốc gia.
2. Phụ trách bảo đảm an toàn cho các mục tiêu trọng yếu và các hoạt động lớn trên biển ; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ các đảo, đá trọng yếu cũng như bảo đảm an toàn cho cho các đảo nhân tạo, trang thiết bị và cấu trúc nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc.
3. Phụ trách công tác quản lý và bảo vệ trật tự trị an trên biển, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về quản lý trật tự trị an, xuất nhập cảnh trên biển ; ngăn chặn và xử lý hoạt động khủng bố trên biển, duy trì trật tự trị an trên biển.
4. Phụ trách tiến hành kiểm tra phương tiện vận tải, hàng hóa, vật phẩm có dấu hiệu buôn lậu trên biển ; kiểm tra xử lý các hành vi buôn lậu trên biển.
5. Phụ trách kiểm tra, giám sát trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình đối với việc sử dụng vùng biển, bảo vệ hải đảo và khai thác sử dụng hải đảo không có người ở, thăm dò khai thác tài nguyên khoáng sản biển, trải đặt và bảo vệ đường dây cáp, đường ống dưới đáy biển, điều tra đo đạc biển, đo vẽ cơ bản bản đồ biển, nghiên cứu khoa học biển có liên quan yếu tố nước ngoài ; kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm pháp luật…".
Kiểm soát tàu bè
Trong lĩnh vực "Bảo vệ an ninh trên Biển", Dự Luật này viết như sau :
Điều 13 :
Để duy trì trật tự trị an trên biển, cơ quan Hải cảnh có quyền tiến hành nhận dạng, xác minh theo pháp luật đối với tàu thuyền nước ngoài đi lại, neo đậu, tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ; làm rõ các thông tin cơ bản của tàu thuyền và tình hình cơ bản về hoạt động đi lại, tác nghiệp của tàu thuyền đó. Đối với các tàu thuyền nước ngoài có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan Hải cảnh có thể thực hiện việc theo dõi và giám sát.
Điều 14 :
Với các tàu thuyền ngoại quốc đi vào nội thuỷ, lãnh hải trái phép, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu tàu thuyền đó lập tức rời khỏi hoặc áp dụng các biện pháp như tạm giữ, xua đuổi, và cưỡng chế lai kéo.
Điều 15 :
Do nhu cầu chấp hành nhiệm vụ bảo vệ an toàn trên biển, nhân viên cơ quan Hải cảnh có thể tiến hành lên tàu, kiểm tra đối với các tàu thuyền đi lại, dừng đậu, tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.
…Đối với các tàu thuyền từ chối phối hợp kiểm tra, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế kiểm tra ; các tàu thuyền bỏ chạy khỏi hiện trường, cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để tiến hành ngăn chặn, truy đuổi…".
Gay gắt hơn, Điều 16 của Dự luật cho phép : "Cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp sau để xử lý các yêu cầu cấp thiết trong các sự kiện đột xuất phát sinh trên biển :
1. Ra lệnh cho tàu thuyền dừng di chuyển, dừng tác nghiệp.
2. Ra lệnh cho tàu thuyền thay đổi hành trình hoặc đi tới các địa điểm được chỉ định.
3. Ra lệnh cho nhân viên trên tàu thuyền rời khỏi tàu thuyền hoặc hạn chế, cấm nhân viên lên, xuống tàu thuyền.
4. Ra lệnh cho tàu thuyền dỡ hàng hoá hoặc hạn chế, cấm tàu thuyền dỡ hàng hóa.
Xây dựng và võ lực
Dự luật này không minh thị quy định về hoạt động thiết kế và đặt các giàn khoan dầu hay tìm kiếm khí đốt trên biển của các nước trong khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhưng ai đọc cũng hiểu Trung Quốc đã ngăn cấm tuyệt đối, khi chưa có phép của họ, như ghi trong Điều 17 nguyên văn như sau :
"Đối với các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài khi xây dựng công trình kiến trúc, cấu trúc hoặc lắp đặt các loại thiết bị cố định hoặc thả nổi trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc mà chưa được các cơ quan chủ quản Trung Quốc phê chuẩn, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu dừng các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn ; đối với các tổ chức, cá nhân từ chối dừng hoạt động vi phạm hoặc từ chối điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn, khi cần thiết, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế dỡ bỏ theo pháp luật".
Đới với hoạt động của các tầu thuyền quân sự và của chính phủ nước ngoài, Điều 18 của Dự luật ấn định : "Đối với tàu thuyền quân sự nước ngoài và tàu thuyền chính phủ nước ngoài hoạt động phi thương mại trong vùng biển thuộc quyền tài phán Trung Quốc mà có hành vi vi phạm quy định pháp luật Trung Quốc, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp cảnh giới hoặc kiểm soát cần thiết để ngăn chặn, ra lệnh cho tàu thuyền đó lập tức rời khỏi vùng biển liên quan ; đối với các tàu thuyền kiên quyết không rời đi, gây ra nguy hại hoặc uy hiếp nghiêm trọng, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp như xua đuổi hoặc cưỡng chế lai kéo".
Nếu chỉ có bấy nhiêu thì Dự luật Hải cảnh chỉ hợp thức hóa những hành động bấy lâu nay của Trung Quốc ở Biển Đông.
Vũ khí và vũ khí
Nhưng điểm quan trọng và nguy hiểm nhất của Dự luật Hải cảnh mới là nhà nước Trung Quốc đã cho phép Lực lượng Hải cảnh được sử dụng mọi loại vũ khí khi cần thiết để bảo vệ an ninh và quyền lợi trên biển.
Nguyên văn của Điều 19 viết thế này :"Khi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trên biển bị các tổ chức, cá nhân nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp, hoặc đang đối mặt với nguy hiểm cấp bách bị xâm phạm bất hợp pháp, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết, bao gồm sử dụng vũ khí để ngăn chặn việc xâm hại, loại trừ nguy hiểm theo các quy định của Luật này hoặc các bộ luật, quy định khác liên quan".
Khi cho phép dùng vũ khí để dành chủ quyền trên biển, Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế và vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982. Chiến tranh có thể xẩy ra vì Bắc Kinh đã sử dụng võ lực để cưỡng chế quyền chủ quyền và chủ quyền của nước khác, hay đang có tranh chấp với Trung Quốc, ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Ngoài Điều 19, việc sử dụng vũ khí theo nhu cầu trên biển còn được cho phép trong các điều ghi sau :
Điều 43 : "Khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây nếu cảnh cáo không có tác dụng, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng vũ khí cầm tay khi :
1. Có chứng cứ cho thấy tàu thuyền chở nghi phạm hoặc vận chuyển trái phép vũ khí, đạn dược, tài liệu mật nhà nước, ma túy và những vật phẩm trái phép khác, mà cố tình bỏ trốn sau khi hải cảnh ra lệnh dừng lại.
2. Tàu thuyền nước ngoài sản xuất, hoạt động trái phép trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh của hải cảnh về việc dừng tàu, lên kiểm tra, mặc dù Hải cảnh đã sử dụng biện pháp khác nhưng không đủ để ngăn chặn hành vi trái phép.
Điều 44 mở rộng hơn, khi viết rằng :"Ngoài vũ khí cầm tay, hải cảnh có thể sử dụng tàu thuyền hoặc vũ khí trang bị trên tàu khi xảy ra một trong các trường hợp sau :
1. Thực hiện nhiệm vụ chống khủng bố trên biển.
2. Xử lý vụ việc bạo lực nghiêm trọng trên biển.
3. Phương tiện tàu thuyền, thiết bị bay của hải cảnh bị tấn công bằng vũ khí hoặc hình thức nguy hiểm khác".
Điều 45 thả lỏng hơn : "Khi sử dụng vũ khí theo pháp luật, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng lập tức trong trường hợp không kịp cảnh báo hoặc sau khi cảnh cáo có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn".
Điều 46 căn dặn : "Nhân viên hải cảnh căn cứ vào mức độ cấp bách, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và hành vi của người phạm tội, phán đoán hợp lý về mức độ cần thiết của việc dụng vũ khí, tránh và hạn chế tối đa việc gây tổn thất về người và tài sản ; khi sử dụng vũ khí với tàu thuyền, cần tránh tối đa việc bắn vào vị trí dưới đường nước (thuỷ tuyến)".
Quyền tài phán ở đâu ?
Vậy điều mà Trung Quốc tự cho thuộc "quyền tài phán" (3) của mình trên biển, nhưng thực tế phần lớn thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác, bao gồm những vùng nào ?
Việc này Dự luật quy định trong Điều 74, theo đó : "Vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc bao gồm : lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cũng như các vùng biển khác thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Nội thủy là vùng nước bên trong đường cơ sở lãnh hải về phía đất liền của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, trong đó bao gồm vịnh và khu vực cửa sông".
Việt Nam phản ứng yếu ớt
Trước tham vọng bá quyền và thực dân rõ như ban ngày của Trung Quốc như vậy, phía Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nói gì ?
Hãy nghe người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao phản ứng tại cuộc họp báo ngày 05/11/2020, theo tường thuật của báo Người Lao Động :
"Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 5/11, phóng viên nêu câu hỏi đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về việc hôm qua Trung Quốc vừa xem xét lại dự luật cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ khí trong vùng lãnh hải của Trung Quốc.
Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Dương Hoài Nam nhấn mạnh như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam luôn ủng hộ giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982".
Câu nói của Dương Hoài Nam chỉ lập lại điều phía Việt Nam đã nói đi nói lại nhiều lần, trong nhiều năm mỗi khi vấn đề chủ quyền ở Biển Đông của Việt Nam bị Trung Quốc vi phạm. Ngoài ra Việt Nam cộng sản đã kiềm chế đến mức thấp nhất của ngôn ngữ ngoại giao đề tránh gây bất bình với Bắc Kinh, nói chi đến hành động mạnh phản ảnh ý chí và bản lĩnh của một nước độc lập có chủ quyền.
Đó là lý do tại sao Lãnh đạo Việt Nam đã tránh tối đa chỉ trích Trung Quốc về Luật Hải cảnh, dù biết đó là cái thòng lọng đang chờ treo cổ Việt Nam ở Biển Đông.
Phạm Trần
(06/01/2021)
-------------------
Chú thích :
(1) Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) là một nhóm gồm các đảo không người ở do Nhật Bản kiểm soát ở biển Hoa Đông. Các đảo nằm về phía đông của Trung Quốc đại lục, về phía đông bắc của Đài Loan, về phía tây của đảo Okinawa, và ở phía bắc cực tây nam của quần đảo Ryukyu (đảo Yonaguni).
Từ khi Hoa Kỳ trao quyền quản lý các đảo cho Nhật Bản năm 1971, quyền sở hữu các đảo bị tranh chấp giữa Nhật Bản với Cộng hòa nhân dân Trung Quốc và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã phát hiện và kiểm soát các đảo từ thế kỷ 14. Nhật Bản đã kiểm soát các đảo từ năm 1895 cho đến khi đầu hàng kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ quản lý quần đảo như là một phần của Chính quyền dân sự Hoa Kỳ tại quần đảo Ryukyu từ năm 1945 đến năm 1972, khi chúng được trao cho Nhật Bản theo Hiệp ước trao trả Okinawa giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (theo Bách khoa Toàn thư mở).
(2) Dự án Đại Sự Ký Biển Đông : Do một số Trí thức trong và ngoài nước thành lập từ năm 2015 nhằm nghiên cứu về Tình hình Biển Đông.
Đứng đầu bởi Phó Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao, chuyên ngành luật quốc tế tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Học viện ngoại giao Việt Nam.
(3) Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình ; nghiên cứu khoa học về biển ; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó (theo Tài liệu Biên giới lãnh thổ của Việt Nam).
Trọng Thành, RFI, 31/12/2020
Đúng vào ngày cuối năm 2020, hôm 31/12/2020, hai tàu chiến Mỹ đã đi qua eo biển Đài Loan. Bộ Quốc Phòng Trung Quốc ngay lập tức lên án hành động "khiêu khích".
Theo Reuters, đây là lần thứ hai tàu chiến Mỹ đi qua eo biển Đài Loan trong tháng 12/2020 và là lần thứ 13 tàu chiến Mỹ đi qua vùng biển nhạy cảm này trong năm 2020. Hải quân Hoa Kỳ khẳng định đây là một cuộc di chuyển bình thường của chiến hạm Mỹ, hoàn toàn tuân thủ luật pháp quốc tế, đồng thời nhấn mạnh là hoạt động này nhằm khẳng định cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ một khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương "tự do và rộng mở".
Nhưng bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã lên án hành động "khiêu khích", và cho biết đã cử nhiều chiến hạm và một phi cơ theo sát các tàu chiến Mỹ. Thông báo của bộ Quốc Phòng Trung Quốc khẳng định hành động này của phía Mỹ là một đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và ổn định của khu vực, và gửi một tín hiệu xấu đến phe đòi độc lập cho Đài Loan.
Đài Loan là một nhà nước độc lập trên thực tế, nhưng Bắc Kinh coi Đài Loan là một hòn đảo phản nghịch, và sẵn sàng dùng vũ lực chiếm lại. Trong thời gian gần đây, chính quyền Trung Quốc liên tục tỏ thái độ bực bội trước việc Hoa Kỳ siết chặt quan hệ với Đài Bắc, đặc biệt với việc bán nhiều vũ khí tối tân cho Đài Loan, cũng như tổ chức nhiều chuyến tuần tra bảo vệ tự do hàng hải như trên.
Vẫn liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung trong lĩnh vực quân sự, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post hôm qua, 30/12, dẫn một nguồn tin từ quân đội Trung Quốc, khẳng định các chuyến ghé thăm của tàu chiến Mỹ tại đặc khu Hồng Kông là một cái cớ để Hoa Kỳ theo dõi các hoạt động của hải quân Trung Quốc.
Trọng Thành
******************
Mai Vân, RFI tiếng Việt, 30/12/2020
Theo tiết lộ của nhật báo Hồng Kông South China Morning Post, kể từ hôm nay, 30/12/2020, Hải quân Trung Quốc bắt đầu tổ chức đồng thời ba cuộc tập trận kéo dài 10 ngày, ở ngoài khơi bờ biển phía nam Trung Quốc. Tàu sân bay mới của Trung Quốc là chiếc Sơn Đông và tàu tấn công đổ bộ Type 075 tham gia những cuộc tập trận này.
Trong ba thông báo riêng biệt được đưa ra vào tối hôm qua, các cơ quan an toàn hàng hải Trung Quốc cho biết là việc tiếp cận các vùng biển xung quanh tỉnh đảo Hải Nam sẽ bị hạn chế trong suốt thời gian thao diễn quân sự này.
Một nguồn tin từ Quân đội Trung Quốc đã giải thích với tờ South China Morning Post là các cuộc tập trận đã được lên kế hoạch để bù đắp chậm trễ trong chương trình tập huấn do đại dịch Covid-19.
Theo nguồn tin này, "tàu sân bay Sơn Đông và tàu đổ bộ tấn công Type 075 thứ hai của Trung Quốc sẽ tham gia các cuộc tập trận" và đây cũng là dịp để thử nghiệm các thiết bị mới. Và các cuộc tập trận được sắp xếp theo kế hoạch huấn luyện hàng năm của Quân đội do chính chủ tịch Tập Cận Bình ký vào tháng Giêng.
Tàu sân bay Sơn Đông, tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc chế tạo, đã được đưa vào lực lượng Hải quân vào năm ngoái và dự kiến sẽ đạt khả năng sẵn sàng chiến đấu cơ bản, sớm nhất là vào đầu năm 2021.
Chiếc tàu này đi qua eo biển Đài Loan để xuống Biển Đông vào hôm 20/12, một ngày sau khu trục hạm Mỹ USS Mustin, cũng xuống Biển Đông để thể hiện "cam kết của Hoa Kỳ đối với một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở", theo Hạm Đội 7 Hoa Kỳ.
Còn chiếc tàu chở trực thăng đổ bộ Type 075 thứ hai của Trung Quốc đã rời xưởng đóng tàu Thượng Hải vào ngày 22 tháng 12, theo thông báo của Cục An Toàn Hàng Hải Trung Quốc.
Các cuộc tập trận diễn ra trong thời gian máy bay Mỹ tăng cường tuần tra trên Biển Đông, dùng đến loại phi cơ giám sát không người lái MQ-4C và cả loại oanh tạc cơ hiện đại B-1B. Theo trang Aircraft Spots, máy bay Mỹ đã được nhìn thấy gần Hải Nam cũng như các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngoài các hoạt động không quân, Hải quân Hoa Kỳ tuần trước đã cử một tàu khu trục USS John S. McCain đến gần quần đảo Trường Sa để "thách thức các hạn chế đối với quyền quá cảnh vô hại do Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan áp đặt". Động thái này đã bị Bắc Kinh chỉ trích gay gắt.
Mai Vân
**********************
Thu Hằng, RFI, 30/12/2020
Bình Nhưỡng có thể bắn thử một tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) vào những tháng đầu năm 2021 nếu các cuộc đàm phán hạt nhân giữa Bắc Triều Tiên và chính quyền mới của Mỹ vẫn bị bế tắc. Đây là nhận định ngày 30/12/020 của một nhóm tư vấn và được hãng thông tấn Yonhap trích dẫn.
Trong bản dự báo các vấn đề quốc tế năm 2021, Viện nghiên cứu chính trị Asan, một tổ chức tư vấn Hàn Quốc, đánh giá tổng thống tân cử Mỹ Joe Biden sẽ theo đuổi chiến lược "ngoại giao truyền thống" trong hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên. Có nghĩa là trong nhiệm kỳ tổng thống sắp tới của Mỹ, sẽ có nhiều cuộc họp ở cấp nhóm công tác, trái với "ngoại giao thượng đỉnh" được tổng thống Trump tiến hành thông qua hai cuộc họp với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un nhưng không có kết quả cụ thể.
Chính vì vậy, các cuộc đàm phán về hạt nhân với Bắc Triều Tiên có thể sẽ tiến với nhịp độ chậm hơn. Vì thế, Viện Asan cho rằng Bình Nhưỡng "có thể sẽ tính đến việc sử dụng lá bài bắn tên lửa ICBM để thoát khỏi ngõ cụt, được cho là có thể còn trầm trọng hơn so với dưới thời của chính quyền Trump".
Bình Nhưỡng cũng đang chuẩn bị cho một sự kiện quan trọng khác : Đại hội của đảng Lao Động Triều Tiên, dự kiến diễn ra vào đầu tháng 01/2021. Kế hoạch phát triển kinh tế sẽ được công bố vào dịp này.
Theo hãng thông tấn KCNA, ngày 29/12/2020, lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un đã chủ trì một cuộc họp của bộ Chính Trị để "xem xét và xác nhận tư cách của các đại biểu", cũng như "thành phần của đoàn chủ tịch và ban bí thư của Đại hội Đảng lần thứ 8".
Thu Hằng
Khoảng trống quyền lực ở Washington đe dọa tới Biển Đông
RFA, 23/12/2020
Liệu lịch sử có lặp lại ?
Vào thời điểm Tổng thống đắc cử Joe Biden có bài phát biểu mừng chiến thắng tại Delaware, hai máy bay ném bom chiến lược B-1B đã cất cánh từ Căn cứ Không quân Andersen tại đảo Guam để thực hiện lộ trình tới Biển Đông.
Một máy bay ném bom chiến lược B-1B bay qua Seongnam ở tỉnh Gyeonggi của Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2017. (Ảnh tệp Asahi Shimbun)
Theo một quan chức thuộc lực lượng Mỹ đồn trú tại Nhật Bản, 2 chiếc B-1B đã bay qua Kênh Bashi giữa đảo Y’ami của Philippines và đảo Lan Tự (Orchid), Đài Loan, trước khi bay dọc Biển Đông.
Bên cạnh đó, một quan chức Nhà Trắng trao đổi trong một cuộc họp báo trực tuyến : "Mỹ tiến hành chiến dịch này nhằm cảnh báo Trung Quốc tránh đưa ra các hành vi khiêu khích nhằm vào Mỹ và các đồng minh của Washington trong giai đoạn chuyển giao chính trị hiện nay".
Nhiều người lo ngại về khoảng trống chính trị kéo dài tại Mỹ sau khi Tổng thống Donald Trump có những động thái thách thức kết quả bầu cử, điều mà giới chức cho rằng có thể ảnh hưởng đến cán cân quyền lực giữa lực lượng vũ trang mà Mỹ và Trung Quốc triển khai trong khu vực. Giới chức Mỹ có lý do để bất an, nhất là bởi chỉ 4 tháng sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hồi năm 2000, một máy bay Trung Quốc đã va chạm với máy bay tuần tra Mỹ tại Biển Đông. Thời điểm đó, nước Mỹ cũng đang quay cuồng với các hỗn loạn hậu bỏ phiếu, sự kiện chỉ kết thúc sau đó 36 ngày với việc ứng cử viên Al Gore thừa nhận thất bại trước George W. Bush dù thắng phiếu phổ thông. Lần này, cả Washington và Lầu Năm Góc đều đang đặc biệt lo ngại về những bất ổn chính trị do phe của Tổng thống Trump từ chối thừa nhận thất bại trong bối cảnh căng thẳng quân sự tại các khu vực lân cận Trung Quốc ngày càng leo thang.
Nguy cơ đụng độ quân sự
Tháng 7 vừa qua, quân đội Mỹ đã triển khai 3 đội tàu sân bay tới Biển Đông và Biển Hoa Đông, cũng như tiến hành các cuộc tập trận tại Biển Đông và xung quanh Đài Loan. Vào giữa những năm 1990, khi khủng hoảng bùng lên tại Eo biển Đài Loan, Mỹ cũng chỉ cử 2 tàu sân bay tới khu vực tại thời điểm mối quan hệ song phương với Trung Quốc căng thẳng chưa từng có từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1979.
Về phần mình, Trung Quốc cũng đã tiến hành các cuộc tập trận tại những vùng biển lân cận. Ngày 26/8, Trung Quốc đã phóng hai tên lửa đạn đạo DF-21D – sát thủ diệt tàu sân bay, và hai tên lửa đạn đạo DF-26, loại vũ khí có khả năng nhắm tới các mục tiêu tại đảo Guam. Quyết định phóng tên lửa đạn đạo tối tân của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp đã đẩy căng thẳng lên mức chưa từng có.
Katsutoshi Kawano, cựu Tham mưu Trưởng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, bình luận : "Căng thẳng quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đang ở mức nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc… Va chạm quân sự bất ngờ là mối nguy có thật".
Mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa chính quyền Trump với Đài Loan cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các căng thẳng mới nhất giữa Washington và Bắc Kinh, dù câu chuyện phía sau phức tạp hơn.
Dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã thúc đẩy chương trình xây dựng lực lượng quân đội ngày càng tân tiến. Một trong những điểm nổi bật của kế hoạch này là việc thành lập Lực lượng Hỗ trợ Chiến lược với khả năng kiểm soát không gian mạng và không gian vũ trụ ; cũng như Lực lượng Tên lửa, chịu trách nhiệm chung về hoạt động phóng tên lửa đạn đạo. Một quan chức quân đội Mỹ bình luận : "Khả năng tác chiến điện tử và chống tên lửa của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã vượt qua Mỹ". Nhận thức được diễn biến này, Bộ Quốc phòng Mỹ đã nêu rõ Trung Quốc là "đối thủ cạnh tranh chiến lược" trong báo cáo Chiến lược Quốc phòng (NDS) công bố hồi tháng 1/2018. Elbridge Colby, quan chức chịu trách nhiệm chỉ đạo nội dung văn bản này khi đảm đương cương vị Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về chiến lược, đã cho biết : "Trung Quốc và PLA hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, chủ yếu là với các cấu trúc liên minh và quan hệ đối tác mà Mỹ xây dựng… Chúng tôi xây dựng NDS để ngăn Trung Quốc trở thành cường quốc bá chủ Châu Á".
Giới tướng lĩnh quân đội, Quốc hội và nhiều bộ khác trong chính phủ Mỹ cùng có chung quan điểm này và khó có khả năng mọi chuyện sẽ thay đổi ngay cả khi chính quyền có sự chuyển giao. Và Trung Quốc hiểu rõ điều đó. Giáo sư John Mearsheimer, chuyên nghiên cứu các vấn đề chính trị quốc tế tại Đại học Chicago, chia sẻ quan điểm mà ông rút ra từ sau cuộc gặp với một số quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Trung Quốc trong chuyến công du tháng 10/2019 : "Hầu hết những người tôi nói chuyện cùng đều tin rằng việc Trump thắng hay thua trong cuộc bầu cử năm 2020 đều không ảnh hưởng đến mối quan hệ Mỹ-Trung... Người Trung Quốc tin rằng Mỹ có thành kiến và luôn muốn nhằm vào Trung Quốc, và sẽ không có gì thay đổi điều đó".
Chính quyền Trump đã khiến mối quan hệ với các đồng minh của Mỹ đặc biệt căng thẳng bằng cách gia tăng áp lực đòi hỏi nước sở tại phải tăng chi phí cho lực lượng Mỹ đồn trú và một trong những mục tiêu của chính quyền Biden sắp tới là đảo ngược xu thế này. Một quan chức cấp cao trong đảng Dân chủ, người tham dự cuộc họp trực tuyến mà Biden và các quan chức thân cận tiến hành hôm 31/10, vài ngày trước cuộc bầu cử, cho biết : "Biden liên tục nhấn mạnh việc tái thiết quan hệ với các đồng minh". Một động thái phản ánh lập trường này là việc Biden từng xác nhận lại với Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide trong cuộc điện đàm ngày 12/11 rằng quần đảo Senkaku đang tranh chấp ở Biển Hoa Đông là thuộc phạm vi Điều 5 của Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ, điều khoản quy định Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản trong trường hợp đồng minh bị tấn công vũ trang. Những khẳng định của Biden được cho là trái ngược hẳn với lập trường mà ông từng tuyên bố vào tháng 12/2013 khi đến thăm Nhật Bản với tư cách là phó tổng thống trong chính quyền Obama. Khi đó, ông không kêu gọi Trung Quốc thu hồi quyết định thiết lập Vùng nhận dạng phòng không ở Biển Hoa Đông, và cũng không nói rằng quần đảo Senkaku thuộc phạm vi của Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật.
Tổng thống tân cử Joe Biden phát biểu ở Delaware hôm 22/12/2020. AFP
Những nhận thức của chính quyền Mỹ và quan điểm cá nhân của Biden về Trung Quốc đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, vẫn chưa có những yếu tố rõ ràng xác định chính sách an ninh mà chính quyền Biden sẽ triển khai trong thời gian tới. Tổng thống đắc cử đã liệt kê các vấn đề ưu tiên đối với chính quyền ngay khi nhậm chức là đưa nước Mỹ vượt qua dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (COVID-19), tái thiết nền kinh tế và hàn gắn những chia rẽ về chủng tộc và xã hội từng trở nên trầm trọng dưới thời Donald Trump.
Nước Mỹ đang đối mặt với rất nhiều thách thức, buộc Biden trước mắt phải đặc biệt tập trung vào các vấn đề đối nội. Những bình luận đầy tích cực của Biden về việc ưu tiên các cam kết đối với liên minh không đồng nghĩa Washington sẽ quay trở lại chính sách an ninh mà Tổng thống Barack Obama và các chính quyền trước đó theo đuổi. Các nguồn tin từ đảng Dân chủ cho biết trước một Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ trên phương diện quân sự, Biden rất có thể sẽ kêu gọi các đồng minh của Mỹ mạnh dạn để đóng một vai trò lớn hơn so với những gì từng diễn ra dưới thời chính quyền Trump.
Việt Nam nên làm gì ?
Việt Nam đang vừa có những cơ hội nhưng cũng đối mặt với những thách thức không nhỏ. Một mặt, cạnh tranh Mỹ - Trung đã mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, đặc biệt là những lợi ích chiến lược và kinh tế. Mặt khác, Việt Nam đang phải chịu sức ép giữa hai cường quốc này.
Đối với Trung Quốc, Việt Nam vẫn luôn là quốc gia "láng giềng" của Trung Quốc. Điều này có nghĩa những đe doạ, thao túng kinh tế và chính trường Việt Nam của Trung Quốc luôn hiện diện kề bên. Chính Trung Quốc là vật cản trong sự phát triển của mối quan hệ Việt - Mỹ thời gian gần đây. Ngoài ra, Trung Quốc luôn đe dọa Việt Nam để có thể khống chế Việt Nam, hòng khiến Việt Nam khuất phục trước tham vọng "độc chiếm biển Đông" của Trung Quốc.
Đối với Mỹ, Việt Nam cũng có những sức ép không hề nhỏ. Mới đây, Bộ Tài chính Mỹ đã gắn mác Việt Nam "thao túng tiền tệ". Điều này có nhiều ẩn ý. Mặc dù một số chuyên gia Mỹ cho rằng Việt Nam không thực sự "thao túng tiền tệ" nhưng chính quyền Mỹ vẫn đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia bị gắn mác này. Quyết định này của chính quyền Mỹ diễn ra sau hai chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ và tiếp đó của Cố vấn an ninh Mỹ. Các nhà nghiên cứu chính trị cho rằng, việc đưa Việt Nam vào danh sách bị gắn mác "thao túng tiền tệ" là một quyết định chính trị của chính quyền Trump vào thời kỳ nhiệm kỳ sắp chấm dứt.
Trung Quốc rất có thể sẽ lợi dụng "Khoảng trống quyền lực" trong nền chính trị Mỹ để tranh thủ ra tay tại biển Đông. Và Việt Nam đang bận bịu với Đại hội Đảng lần thứ XIII - vốn sắp xếp lại các vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, điều này sẽ dẫn tới khả năng Việt Nam lơ là với biển Đông.
Chính vì vậy, Việt Nam đang đứng trước những vận hội quan trọng. Một mặt, cần giữ gìn và phát triển quan hệ với Mỹ. Mặt khác, giữ cho quan hệ với Trung Quốc không xấu đi, để bảo đảm cho môi trường an ninh được yên ổn. Tuy nhiên, điều này thực sự không dễ dàng.
- Kenji Minemura, "Flareup feared in South China Sea due to power vacuum in U.S.", Asahi Shimbum, 21/12/2020
Tom Abke, IPDForum, 22/12/2020
Tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở đang thúc đẩy mối quan hệ hợp tác quốc phòng sâu rộng hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong các lĩnh vực từ an ninh hàng hải đến các hoạt động gìn giữ hòa bình.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, bên phải, chào đón Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien tại Hà Nội vào tháng 11 năm 2020.
Hai quốc gia này đã tổ chức một số cuộc họp cấp cao về chính sách quốc phòng trong những tháng gần đây, bao gồm chuyến thăm của Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien đến Hà Nội từ ngày 20-22 tháng 11 năm 2020.
Trong cuộc gặp với ông O’Brien, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã ca ngợi sự hợp tác giữa hai quốc gia, bao gồm việc duy trì các khuôn khổ cho đối thoại song phương, tăng cường hợp tác tìm kiếm, cứu hộ và viện trợ nhân đạo cũng như cứu trợ thiên tai, theo thông tin của một thông cáo báo chí từ bộ của ông Minh. Ông O’Brien và ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, cũng đã thảo luận về các nỗ lực chung để chống tội phạm xuyên quốc gia và mở rộng sự hợp tác trong một loạt các vấn đề an ninh.
Nhà phân tích quốc phòng Blake Herzinger tại Singapore nói với DIỄN ĐÀN rằng việc các tàu chở máy bay của Hoa Kỳ ghé thăm cảng của Việt Nam vào tháng 3 năm 2018 và tháng 3 năm 2020 cũng chứng minh sức mạnh của các mối quan hệ quốc phòng.
Ông này nói : "Đối với Việt Nam, đó là một dấu hiệu rõ ràng về việc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ trong khi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã xấu đi". "Thực tế là Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành chuyến thăm này vào thời điểm bùng phát đại dịch cũng thực sự làm rõ tầm quan trọng của sự kiện đó đối với Hoa Kỳ. "
Ngoài các chuyến thăm cảng, Hoa Kỳ cũng đã chuyển cho Việt Nam một tàu tuần duyên đã hết nhiệm vụ của lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ và đang chuẩn bị gửi một chiếc nữa. "Việc chuyển giao như vậy thường cho thấy một mối quan hệ có xu hướng tích cực", ông Herzinger nói "vì sự sắp xếp này sẽ đòi hỏi sự tương tác liên tục từ phía phòng thủ để hoàn thành công tác bảo trì và bất kỳ việc huấn luyện đi kèm nào có thể là cần thiết".
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, từ năm 2015 đến năm 2019, Washington đã đồng ý xuất khẩu các thiết bị quốc phòng trị giá 52,86 triệu đô la Mỹ sang Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu bao gồm la-de, thiết bị hình ảnh và thiết bị dẫn đường, thiết bị điện tử trong quân sự và động cơ tuabin khí. Thương mại giữa hai quốc gia cũng đã tăng vọt lên 76 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019 từ 450 triệu đô la Mỹ vào năm 1994, theo số liệu từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Ông Dương Hoài Nam, Phó phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã mô tả Hoa Kỳ là một trong những "đối tác quan trọng nhất" của quốc gia mình, theo tin của Thông tấn xã Việt Nam, một cơ quan thuộc sở hữu nhà nước, vào tháng 11 năm 2020.
Ông nói : "Việt Nam hoan nghênh vai trò và những sáng kiến của Hoa Kỳ để giúp duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực, bao gồm hỗ trợ vai trò trung tâm của [Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á] hài hòa với các cơ chế hợp tác khu vực và tuân thủ luật pháp quốc tế".
Tom Abke là một cộng tác viên IPDefense Forum đưa tin từ Singapore.
Biển Đông (South China Sea) là nguồn nước quan trọng nhất đối với nền kinh tế thế giới - ít nhất một phần ba thương mại toàn cầu luân chuyển qua nó. Đây cũng là vùng biển nguy hiểm nhất trên thế giới, nơi quân đội Mỹ và Trung Quốc có thể dễ dàng va chạm nhất.
Biển Đông là vùng biển quan trọng nhất đối với nền kinh tế thế giới - ít nhất một phần ba thương mại toàn cầu luân chuyển qua nó. Ảnh © Nik Wheeler / Corbis / Getty
Trong vài năm qua các tàu chiến của Trung Quốc và Mỹ gần như không ngăn chặn được một số sự cố ở đó và quân đội Trung Quốc đã cảnh báo về các máy bay phản lực của Mỹ bay phía trên nó. Vào tháng 7, hai nước đã tiến hành các cuộc tập trận hải quân cạnh tranh trong vùng biển đó. Với cái được gọi là "sự cạnh tranh chiến lược" ngày càng tăng giữa Washington và Bắc Kinh, bóng ma về một sự cố có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự lớn hơn khiến các nhà chiến lược ở cả hai thủ đô bận tâm.
Những căng thẳng này xuất phát từ sự bất đồng giữa hai nước về việc liệu Biển Đông có phải là lãnh thổ của Trung Quốc hay không, một cuộc tranh cãi nói lên tranh chấp sâu sắc hơn về chủ quyền biển, cách quyết định chủ quyền và các quyền cơ bản đi lại trong các vùng biển đó.
Vì vậy, thế đối đầu trên Biển Đông có nhiều mức độ phức tạp. Nó không chỉ đơn giản là về vùng lãnh hải, hay một ranh giới duy nhất. Như Tommy Koh, một nhà ngoại giao cấp cao của Singapore, người dẫn đầu các cuộc đàm phán để thành lập Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, đã nói với tôi, "Biển Đông là về luật pháp, quyền lực và tài nguyên, và về lịch sử".
Lịch sử đó đặc biệt bị ám ảnh bởi bốn bóng ma từ những thế kỷ trước, bóng của họ đổ xuống Biển Đông, di sản của họ tạo nên sự cạnh tranh ngày càng sâu sắc trong khu vực ; những nhân vật lịch sử mà cuộc đời và công việc của họ đã định hình những tranh chấp về chủ quyền và tự do hàng hải, sự cạnh tranh của hải quân, cũng như chiến tranh và những cái giá phải trả.
Trong quá trình viết cuốn sách Bản đồ mới của mình, tôi bắt đầu nghĩ về những người này. Khi tôi nói về những thách thức của toàn cầu hóa và thương mại quốc tế tại Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval War College) ở Newport, Rhode Island, các chỉ huy của hầu như tất cả các lực lượng hải quân trên thế giới đều có mặt ở đó, tất cả đều rạng rỡ trong bộ quân phục đô đốc của họ. Trong số đó có Đô đốc Wu Shengli, người đứng đầu hải quân Trung Quốc vào thời điểm đó và là người đang thúc đẩy sự mở rộng của nó để cạnh tranh với Hải quân Mỹ. Lúc đó Biển Đông đã trở thành tâm điểm tranh cãi. Wu ngồi ở giữa khán giả, ở hàng thứ năm hoặc thứ sáu, ánh mắt ông ấy không dao động suốt buổi.
Đó là khi tôi bắt đầu nhìn thấy những bóng ma : đó là người đi biển vĩ đại nhất Trung Quốc, tiền thân của Vũ ; của luật sư người Hà Lan, người đã viết bản tóm tắt pháp lý hiện làm cơ sở cho lập luận của Mỹ chống lại các tuyên bố của Trung Quốc ; về vị đô đốc Mỹ có triết lý đã tạo nền tảng cho cả Hải quân Hoa Kỳ và chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Trung Quốc ; và của nhà văn người Anh, người cho rằng chi phí của cuộc xung đột là quá cao, ngay cả đối với những người sẽ chiến thắng.
Với Trung Quốc ngày nay, các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông tập trung xung quanh cái được gọi là "đường chín đoạn" ("nine-dash line") – tức các gạch ngang trên bản đồ của Trung Quốc, ôm lấy bờ biển của các quốc gia khác và chiếm 90% vùng nước của Biển Đông. Bắt nguồn từ bản đồ do một nhà vẽ bản đồ Trung Quốc vẽ năm 1936 để đáp lại điều mà Bắc Kinh gọi là "thế kỷ sỉ nhục", đường chín-đoạn, theo Shan Zhiqiang, cựu biên tập viên của tạp chí Địa lý Quốc gia Trung Quốc, "hiện đã được khắc sâu trong trái tim và khối óc của người dân Trung Quốc". học sinh Trung Quốc đã nhiều thập niên được dạy rằng biên giới quốc gia của họ kéo dài hơn một ngàn dặm về phía bờ biển của Malaysia. Tuyên bố của Bắc Kinh được củng cố bởi các căn cứ quân sự mà họ đã xây dựng trong những năm gần đây trên các hòn đảo nhỏ và trên 3.200 mẫu đất bồi đắp nằm rải rác giữa biển.
Với Trung Quốc ngày nay, các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông tập trung xung quanh cái được gọi là "đường chín đoạn" ("nine-dash line") – tức các gạch ngang trên bản đồ của Trung Quốc, ôm lấy bờ biển của các quốc gia khác và chiếm 90% vùng nước của Biển Đông.
Bắc Kinh nói rằng tuyên bố "chủ quyền không thể chối cãi" của mình dựa trên lịch sử - như một tài liệu quan điểm chính thức [1] đã viết, "các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông có từ hơn hai nghìn năm trước". Những "tuyên bố lịch sử" này, theo cách nói của một chuyên gia tư vấn của chính phủ Trung Quốc [2], có "nền tảng trong luật pháp quốc tế, bao gồm luật tục về phát hiện, chiếm đóng và danh hiệu lịch sử".
Hoa Kỳ đáp lại rằng, theo luật pháp quốc tế, Biển Đông là một vùng nước mở - cái thường được gọi là "các điểm chung hàng hải của Châu Á" – dành cho tất cả các quốc gia, một quan điểm được chia sẻ bởi các nước có biên giới với vùng biển đó, cũng như của Úc, Anh và Nhật Bản. Như vậy, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết [3], Trung Quốc "không có cơ sở pháp lý" cho các tuyên bố chủ quyền ở Nam Trung Quốc và "không có cơ sở pháp lý chặt chẽ" cho đường chín đoạn. Một bài báo về chính sách của chính phủ Hoa Kỳ [4] năm nay đã lập luận rằng "yêu sách hàng hải của Trung Quốc, là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do trên biển trong thời hiện đại".
Và điều này đưa chúng ta đến với bốn bóng ma.
Năm 1381, trong một trận chiến ở tây nam Trung Quốc, một cậu bé Hồi giáo bị quân lính của triều đại nhà Minh bắt, bị thiến và đưa vào làm việc trong cung của Hoàng tử Zhu Di (Chu Đệ). Khi thời gian trôi qua, cậu bé - được đổi tên thành Trịnh Hòa (Zheng He) - lớn lên trở thành thân tín của hoàng tử và cuối cùng là một trong những nhà lãnh đạo quân sự tài ba nhất của ông.
Khi Zhu trở thành hoàng đế (Minh Thành Tổ), xác định rằng Trung Quốc phải là một cường quốc hàng hải, ông đã ra lệnh mở một chiến dịch đóng tàu điên cuồng, tung ra những hạm đội khổng lồ với sức chở lên đến 30.000 người. Họ vận chuyển nhiều loại hàng hóa của Trung Quốc và các loại vũ khí tiên tiến nhất trong ngày - súng, súng thần công và tên lửa. Những con thuyền lớn nhất là những con tàu chở báu vật có sức chứa lớn gấp 10 lần những con thuyền mà Christopher Columbus sẽ làm thuyền trưởng đi đến Tân Thế giới gần một thế kỷ sau đó. Những chuyến đi của người Trung Quốc này sẽ kéo dài hai hoặc ba năm, với các hoạn quan chỉ huy mỗi hạm đội. Nhưng tổng chỉ huy là Trịnh Hòa. Cuối cùng, ông được biết đến với cái tên Three-Jewel Eunuch (Tam bảo), để tôn vinh "ba viên ngọc" trung tâm của tín ngưỡng Phật giáo thống trị dưới triều đại của Zhu.
Chuyến đi đầu tiên của Đô đốc Trịnh, vào năm 1405, đã đưa ra biển với đội quân hơn 250 tàu, trong đó hơn 60 tàu chở báu vật. Tổng cộng Trịnh đã chỉ huy bảy chuyến đi, một số đi xa đến bờ biển phía đông của Châu Phi, đến Kenya hiện đại. Trên đường đi, hạm đội của ông trao đổi hàng hóa và sản phẩm của Trung Quốc với người dân địa phương, đồng thời thể hiện sức mạnh và sự uy nghiêm của Trung Quốc. Người ta có thể tưởng tượng tác động đối với những người trên bờ khi họ bắt gặp những hạm đội khổng lồ đang tiến đến, và đặc biệt là những con tàu chở báu vật khổng lồ, với những cánh buồm căng trên bầu trời, đôi mắt rồng dữ tợn của chúng được vẽ trên đỉnh đang lao xuống bờ.
Khi họ trở về Trung Quốc, các đội tàu của Trịnh không chỉ mang về rất nhiều sản phẩm và đồ vật mới - bao gồm đá quý, gia vị, lạc đà và đà điểu - mà còn cả những người cai trị và sứ giả, những người sẽ tỏ lòng tôn kính và cống nạp trước hoàng đế. Các đội tàu của Trịnh, như nhà sử học John Keay đã viết, cũng "thể hiện khả năng làm chủ hàng hải của toàn bộ Ấn Độ Dương".
Năm 1433, trong chuyến đi cuối cùng trở về qua Ấn Độ Dương - 9 năm sau cái chết của người bảo trợ, Chu Đệ - Trịnh qua đời. Lực lượng hải quân vĩ đại mà ông xây dựng đã không tồn tại được lâu với ông. Cuối cùng, theo lệnh của vị hoàng đế mới, hạm đội của Trung Quốc, có số lượng lên tới 3.500 tàu, đã bị đốt cháy. Các quan chức cho rằng họ đang lãng phí số tiền cần thiết để chống lại sự xâm lược của quân Mông Cổ ở phía bắc (mặc dù tất nhiên, họ cũng coi hải quân là cơ sở sức mạnh cho đối thủ lớn của họ là hoạn quan). Di sản của Tam Bảo Thái giám đã bị xóa sổ khỏi lịch sử, ký ức về những kỳ tích vượt biển của ông gần như bị xóa sạch.
Tuy nhiên, khi Trung Quốc một lần nữa quay ra biển vào thế kỷ 21, Trịnh đã được hồi sinh thành biểu tượng của mối quan hệ giao thương và gắn kết truyền thống của đất nước với Đông Nam Á và Nam Á - và là "nhân vật hàng hải cao nhất" trong lịch sử quốc gia. Vị đô đốc được kỷ niệm vào năm 2009 với một loạt phim được xem rộng rãi trên truyền hình Trung Quốc, và vào năm 2005, nhân kỷ niệm 600 năm chuyến đi đầu tiên của ông, một bảo tàng trị giá 50 triệu USD dành riêng cho ông đã được mở tại Nam Kinh.
Một cô gái 19 tuổi [5] đến từ một hòn đảo ngoài khơi Kenya, nổi bật bởi những nét đặc trưng của người Châu Á, đã được mời đến buổi khai trương của bảo tàng với tư cách là hậu duệ giả định của người Trung Quốc đã đi thuyền với Trịnh, rõ ràng là bằng chứng sống về mức độ sâu rộng và là "biểu hiện" năng lực đi biển của Tam Bảo Thái giám. Ngày nay, Trịnh và các chuyến đi của ông là hiện thân vĩ đại của "các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông" và những tuyên bố của lịch sử dựa trên đó, di sản của ông đã được lưu giữ nhiều thế kỷ sau trong đường chín đoạn.
Nếu Trịnh cung cấp câu chuyện về các quyền hàng hải lịch sử của Trung Quốc, thì luật sư và nhà lý thuyết pháp lý người Hà Lan Hugo Grotius sẽ cung cấp điều ngược lại, đặt nền tảng cho khái niệm tự do đi lại qua các đại dương trên thế giới, và thể hiện "pháp quyền" trái ngược với di sản của lịch sử.
Mặc dù nhập khẩu trên toàn thế giới, nhưng trớ trêu thay, các lập luận của Grotius lại ra đời từ một sự kiện cụ thể ở một góc của Biển Đông. Năm 1603, sau khi đốt cháy hạm đội của Trung Quốc và xóa ký ức về Trịnh, các tàu Hà Lan đã tấn công một tàu Bồ Đào Nha ở Biển Đông để trả thù các cuộc tấn công của Bồ Đào Nha nhằm vào tàu của Hà Lan. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của cuộc đấu tranh toàn cầu giữa Bồ Đào Nha và Hà Lan để giành quyền kiểm soát các thuộc địa và ở Đông Nam Á, buôn bán gia vị. Tàu của người Bồ Đào Nha là một giải thưởng hấp dẫn, chất đầy lụa, vàng, đồ sứ, gia vị và nhiều hàng hóa khác.
Nhưng khi chiến lợi phẩm về đến Hà Lan, người Hà Lan cần vũ khí hợp pháp để biện minh cho việc tịch thu và giữ chiến lợi phẩm của họ. Họ chuyển sang Grotius, người mặc dù mới 21 tuổi nhưng đã được biết đến như một thần đồng chói sáng - anh ấy đã vào Đại học Leiden năm 11 tuổi.
Trong bản tóm tắt pháp lý của mình, Grotius đã nghiền nát lập luận của người Bồ Đào Nha rằng Biển Đông là của họ vì họ đã "phát hiện" ra các tuyến đường đi thuyền đến đó, giống như Trịnh Hòa và tất cả các thuyền trưởng thái giám khác, cùng với các thương nhân Ả Rập và Đông Nam Á trước đây, chưa bao giờ tồn tại. Thay vào đó, Grotius lập luận cho quyền tự do trên biển và thương mại, đồng thời khẳng định rằng các quyền này được sử dụng rộng rãi. Do vậy, ông nhấn mạnh, việc Hà Lan bắt giữ là hoàn toàn hợp lý để trả đũa việc Bồ Đào Nha can thiệp vào hoạt động vận chuyển của Hà Lan.
Một phần của bản tóm tắt đã được xuất bản trong tác phẩm vĩ đại của ông, Mare Liberum, hay The Freedom of the Seas. Grotius viết, nước giống như không khí và bầu trời, là tài sản chung của nhân loại. Không quốc gia nào có thể sở hữu chúng hoặc ngăn cản người khác đi qua chúng. "Mọi quốc gia", ông tuyên bố, "được tự do đi lại đến mọi quốc gia khác và giao dịch với quốc gia đó".
Grotius tiếp tục chiếm một số vị trí pháp lý và dân sự nổi bật. Nhưng sau đó, can dự vào bên sai trong một trận chiến tôn giáo ở Hà Lan, anh ta bị kết án tù chung thân. Sau khi ra khỏi tù anh ta tìm cách đến Paris và viết một cuốn sách mang tính bước ngoặt khác, Về Luật Chiến tranh và Hòa bình, trong đó nêu ra cả cơ sở của "chiến tranh chính nghĩa" và các quy tắc ứng xử của chiến tranh.
Được vua Thụy Điển rất ngưỡng mộ, Grotius được bổ nhiệm làm đại sứ của Thụy Điển tại Pháp. Trong một chuyến trở về từ Thụy Điển vào năm 1645, ông đã bị một cơn bão dữ dội trong ba ngày quăng xuống biển Baltic, con tàu bị đắm và Grotius cuối cùng bị trôi dạt vào một bãi biển ở miền bắc nước Đức. Ở đó, "cha đẻ của luật biển", như người ta gọi sau này, đã chết vì một tai họa trên biển. Tuy nhiên, di sản của ông vẫn tồn tại : Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, văn bản quốc tế xác định điều chỉnh các quy tắc hàng hải, có thể được bắt nguồn trực tiếp từ công việc của ông.
Năm 1897, Theodore Roosevelt, khi đó là trợ lý Bộ trưởng Hải quân, đã đến Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ. Trong bài diễn thuyết của mình ở đây, Roosevelt đã đưa ra lập luận về một Hải quân Hoa Kỳ mạnh hơn nhiều - "một hạm đội hạng nhất gồm các thiết giáp hạm hạng nhất" - là người bảo đảm hòa bình tốt nhất. Bài phát biểu đã thu hút sự chú ý của cả nước.
Roosevelt đến thăm Trường Cao đẳng Chiến tranh cũng vì mục đích thứ hai : gặp gỡ một giảng viên, Đô đốc Alfred Thayer Mahan, người sẽ có ảnh hưởng nhiều đến ông hơn bất kỳ người nào khác về sức mạnh hải quân, và tinh thần của ông đã lan tỏa các tranh chấp ngày nay về Biển Đông và sự va chạm của sức mạnh hải quân Mỹ và Trung Quốc.
Bất chấp sự phản đối của cha mình, một giáo sư tại học viện quân sự West Point, Mahan đã gia nhập Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Nhưng khi phục vụ trên biển, các chỉ huy của ông đánh giá ông là người thiếu khả năng chỉ huy thực tế. Ông không phản đối. Mahan viết cho Roosevelt : "Tôi đã hiểu chính mình quá lâu để không biết rằng tôi là con người của suy nghĩ, chứ không phải con người của hành động". Nhưng ông đã quyết tâm, như ông đã nói, "sẽ có ích cho hải quân, bất chấp những báo cáo bất lợi". Và ông ấy đã như vậy. Bắt đầu với Ảnh hưởng của Sức mạnh Biển trong Lịch sử, nhiều sách và bài báo của ông đã đưa ông trở thành nhà lý thuyết có ảnh hưởng nhất thế giới về chiến lược hải quân.
Mahan viết rằng sức mạnh biển là điều cần thiết để bảo vệ nền thương mại, an ninh và vị thế của một quốc gia, và nó dựa trên "ba trụ cột" - thương mại nước ngoài, hải quân và đội tàu buôn cũng như các căn cứ dọc theo các tuyến đường hàng hải. Mục tiêu lớn là đảm bảo "quyền chỉ huy trên biển" và "quyền lực tuyệt đối chỉ có thể được thực hiện bởi các lực lượng hải quân lớn", có nghĩa là khả năng thống trị các tuyến hải quân và "các tuyến đường liên lạc trên biển".
Ảnh hưởng của ông đối với Hoa Kỳ rất rõ ràng và trực tiếp. Roosevelt tiếp tục trở thành phó tổng thống và sau đó, vào tháng 9 năm 1901, sau vụ ám sát William McKinley, lên làm tổng thống. Roosevelt không ngừng cam kết về một lực lượng hải quân hiện đại, mà đỉnh cao là việc ông ra mắt Hạm đội Trắng Vĩ đại trong chuyến du hành vòng quanh thế giới, tuyên bố vai trò mới của Mỹ như một cường quốc toàn cầu.
Ảnh hưởng của Mahan cũng mang tính toàn cầu. Bản dịch tiếng Nhật của Ảnh hưởng của sức mạnh biển cả trong lịch sử đã bán được vài nghìn bản chỉ trong vài ngày và ông được mời thỉnh giảng tại Trường Cao đẳng Tham mưu Hải quân Nhật Bản. Trong một chuyến thăm Anh, ông đã nhận được bằng danh dự của Cambridge và Oxford và dùng bữa với Nữ hoàng Victoria. Tuy nhiên, không quốc gia nào lấy lòng Mahan nhiều hơn Đức. "Tôi bây giờ không đọc mà đang ngấu nghiến… cuốn sách của Mahan và đang cố gắng học thuộc lòng", Kaiser Wilhelm II, người Đức viết. "Nó ở trên tất cả các tàu của tôi và được các thuyền trưởng và sĩ quan của tôi liên tục trích dẫn".
Khi Mahan qua đời vào năm 1914, Roosevelt đã viết, "Không có ai khác trong độ tuổi của anh ấy, hoặc xấp xỉ gần ông". Nhiều thập kỷ sau, chiến lược gia Edward Meade Earle lưu ý, "Rất ít người để lại dấu ấn sâu đậm về các sự kiện thế giới như Mahan để lại". Dấu ấn đó ngày nay rõ ràng ở Trung Quốc, và đặc biệt khi nó liên quan đến Biển Đông.
Bắc Kinh duy trì như một "lợi ích cốt lõi" rằng Đài Loan là một phần không thể thiếu của Trung Quốc. Năm 1996, Bắc Kinh lo sợ rằng ứng cử viên hàng đầu trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan có thể tiến tới chính thức tuyên bố độc lập, đã phóng thử tên lửa và bắn đạn thật ở vùng biển rất gần hòn đảo, phong tỏa hiệu quả các cảng phía tây của nó. Mỹ phản ứng bằng cách điều hai nhóm tác chiến tàu sân bay tới eo biển Đài Loan, bề ngoài là để tránh "thời tiết xấu". Cuộc khủng hoảng lắng xuống, nhưng bài học Mahan cho Bắc Kinh rất rõ ràng : Khả năng triển khai và thể hiện sức mạnh trên biển là điều tối quan trọng.
Có nhiều vấn đề khác trong các cuộc tranh luận quân sự của Trung Quốc, nhưng sự tập trung của Mahan vào sức mạnh hàng hải và "quyền chỉ huy biển" cung cấp một khuôn khổ để hiểu chiến lược hải quân của Trung Quốc. Hơn một thế kỷ sau khi Mahan qua đời, ông được nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc trích dẫn rất nhiều và tiếp tục định hình quan điểm của họ. Như chiến lược gia Robert Kaplan viết : "Người Trung Quốc bây giờ là những người Mahania".
Vào một buổi sáng Chủ nhật trong lành của tháng 8 năm 2014, các nhân viên hải quân Trung Quốc đã tập trung tại cảng Uy Hải phía bắc. Họ đến đó không phải để đánh dấu một chiến thắng, một lý do thông thường cho một cuộc tập trung như vậy, mà để đánh dấu một thất bại - Trung Quốc thua Nhật Bản trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894–95, vốn đã bị phong ấn bởi sự tàn phá của hạm đội Trung Quốc tại Uy Hải. Kết quả là Nhật Bản đã giành được quyền kiểm soát đối với Hàn Quốc và Đài Loan, và Uy Hải đã chuyển sang thuộc sự kiểm soát của Anh, một chương đặc biệt nhục nhã trong "thế kỷ sỉ nhục" của Trung Quốc.
Tại buổi lễ năm 2014, hoa cúc trắng và hoa hồng đỏ đã được rải khắp vùng biển để tỏ lòng thương tiếc với những mất mát của Trung Quốc. Diễn giả nổi bật nhất ngày hôm đó là Đô đốc Wu Shengli. Trong nhận xét của Wu tại Uy Hải, người ta có thể nghe thấy tiếng vọng của Mahan.
Wu nói : "Lịch sử nhắc nhở chúng ta rằng một quốc gia sẽ không thịnh vượng nếu không có sức mạnh hàng hải". Ông cho rằng thế kỷ nhục nhã là kết quả của sức mạnh hải quân yếu, mà thất bại Uy Hải đã chứng tỏ. Nhưng ngày nay, "biển không có chướng ngại vật ; lịch sử nhục nhã của dân tộc đã qua đi, không bao giờ trở lại".
Mahan đã viết trong thời đại toàn cầu hóa đầu tiên vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi thế giới đang được kết nối với nhau bằng công nghệ - tàu hơi nước, đường sắt, điện báo - và các luồng đầu tư và thương mại. Ông đã cung cấp cơ sở lý luận về trí tuệ trong thời đại đó cho những gì đã trở thành một cuộc chạy đua toàn cầu để xây dựng hải quân.
Khi tìm kiếm sự tương tự cho những rủi ro rộng lớn hơn có thể gây ra bởi cuộc cạnh tranh hải quân Mỹ-Trung ở Biển Đông, các nhà phân tích lặp đi lặp lại ví dụ sinh động về sự cạnh tranh chiến lược từ hơn một thế kỷ trước : cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức đã góp phần tạo tiền đề cho Thế chiến I. Điều đáng lo ngại là trong cuốn sách Về Trung Quốc (On China), Henry Kissinger kết thúc bằng phần kết có tựa đề "Lịch sử có lặp lại chính nó không ?" hoàn toàn dành cho việc xây dựng đội quân này. Tuy nhiên, Kissinger tiếp tục nói với một số lo lắng, "Các phép loại suy lịch sử về bản chất là không chính xác".
Cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức là cuộc cạnh tranh chiến lược quyết định vào thời điểm đó. Đó cũng là một phần quan trọng của cơn sốt thuyết phục mọi người rằng chiến tranh giữa Anh và Đức là không thể tránh khỏi. Đó là kết luận mà Winston Churchill đưa ra vào năm 1911. Kể từ đó, như sau này ông viết, ông chuẩn bị "cho một cuộc tấn công của Đức như thể nó có thể đến vào ngày hôm sau".
Tuy nhiên, có một số người không đồng ý với đánh giá đó - và không ai mạnh mẽ hơn bóng ma thứ tư ám ảnh Biển Đông.
Trong số những tiếng nói vào đầu thế kỷ 20 cho rằng chiến tranh giữa Đức và Anh không thể tránh khỏi, không ai mạnh hơn tiếng nói của một người đàn ông có vẻ ngoài ốm yếu tên là Norman Angell. Ông ấy có ảnh hưởng to lớn trong việc thuyết phục mọi người rằng chiến tranh đã trở nên phi lý. Ông thậm chí còn nhận được giải Nobel Hòa bình vì đã nhận định rằng "chiến tranh là một phương pháp khá bất cập để giải quyết các tranh chấp quốc tế". (Việc giải thưởng được đưa ra vào năm 1934 đã khiến ông nhận xét, với sự khô khan nhất định, "Sẽ hợp lý hơn nếu trao nó vào thời điểm sớm hơn"). Angell nhấn mạnh lợi ích của một nền kinh tế thế giới kết nối và chi phí của xung đột, một thông điệp đặc biệt có liên quan cho một Hoa Kỳ và một Trung Quốc phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và gắn bó với nhau trong một nền kinh tế toàn cầu rộng lớn hơn mà dựa trên kinh nghiệm phát triển của họ.
Khi còn là một thiếu niên, ông đã làm việc như một phóng viên báo chí, đầu tiên ở Anh, trước khi chuyển đến Hoa Kỳ. Cuối cùng ông đến phía đông bắc của Los Angeles, ở Bakersfield dân cư thưa thớt, làm việc như một lao động trong nông trại, và như một người đưa thư ; nhà ở ngoại ô thành phố ; đầu cơ bất thành đất nền ; tìm kiếm vàng ; và thử thăm dò dầu khí, tất cả đều vô ích. Thất bại trong việc tìm kiếm tài sản, ông đã bỏ đi và cuối cùng đến Paris, làm việc cho các tờ báo tiếng Anh.
Đến lúc đó, ông bị ám ảnh bởi sự nổi lên của các phương tiện truyền thông đại chúng và lo lắng về những gì ông thấy là sự xuất hiện của tâm lý quần chúng và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc độc ác và không khoan dung ở Châu Âu. Năm 1903, ông xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, Chủ nghĩa yêu nước dưới ba ngọn cờ, lập luận rằng "chủ nghĩa cảm tính", hay chủ nghĩa giễu cợt cực đoan, vận hành chống lại lợi ích của chính thể.
Angell sau đó đã nhận được việc làm nhà xuất bản của ấn bản Châu Âu của Daily Mail, vào thời điểm tờ báo có lượng phát hành lớn nhất trên thế giới. Bị thúc giục bởi cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức, Angell vội vã viết một cuốn sách mới, Ảo ảnh quang học của Châu Âu, trong đó ông khẳng định rằng mình không theo chủ nghĩa hòa bình và không phản đối việc chi tiêu quân sự của Anh, nhưng điều đó, do nền kinh tế thế giới ngày càng kết nối với nhau nhiều hơn và các mối ràng buộc dày đặc của thương mại và đầu tư mà sau đó các quốc gia tham gia, chi phí chiến tranh sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích - không chỉ đối với kẻ bại trận mà còn đối với kẻ chiến thắng. (Angell thường bị chế giễu vì bị cho là đã nói rằng các liên kết kinh tế mạnh mẽ của thời kỳ hiện đại đầu tiên của toàn cầu hóa khiến chiến tranh không thể xảy ra. Nhưng, mặc dù là một người nhiều lời, đôi khi quá nhiều, đó thực sự không phải là những gì ông ấy nói. Luận điểm của ông ấy là "không phải cuộc chiến đó là không thể, nhưng nó vô ích". Với những thập kỷ nghiệt ngã sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ai có thể nói rằng ông đã sai ?) Trước sự thất vọng của Angell, ông không thể tìm được nhà xuất bản, và cuối cùng đã tự xuất bản và phân phối.
Mặc dù khởi đầu không tốt, cuốn sách vẫn ra đời [6]. Một nhà ngoại giao hàng đầu của Anh cho biết nó đã "khiến bộ não của tôi quay cuồng". Một tờ báo gọi nó là "cuốn sách được thảo luận nhiều nhất trong những năm gần đây". Bộ trưởng Ngoại giao Anh, Edward Grey đã công khai khen ngợi cái mà ông gọi là "một cuốn sách nhỏ rất thú vị".
Cuốn sách đã trở thành một tác phẩm bán chạy nhất và Norman Angell đã được biết đến. Cho đến thời điểm này, ông đã viết dưới tên thật của mình, Ralph Lane, qua "Norman Angell" để tách cuốn sách khỏi tác phẩm của mình cho Daily Mail. Trong những lần xuất bản tiếp theo, Angell viết lại cuốn sách The Great Illusion.
Có những nhà phê bình, trong đó có Mahan, người đã bác bỏ lập luận của Angell rằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng khiến chiến tranh trở nên phi lý. "Quốc tịch sẽ không bị loại bỏ trước sự tái thiết của thế giới", vị đô đốc đã viết bằng những lời có tiếng vọng đến ngày nay.
Mặc dù vậy, các nhà phê bình chỉ tăng cường ảnh hưởng của Angell. Ngay cả Kaiser Wilhelm cũng được cho là đã đọc cuốn sách "với sự quan tâm sâu sắc và thảo luận tốt về nó". Cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức vẫn tiếp tục diễn ra dưới mức tối đa, nhưng hai cường quốc đã thể hiện sự kiềm chế trong cuộc khủng hoảng Balkan năm 1912. Angell này coi đó là một dấu hiệu của lý trí hơn là cảm xúc. Trong một chuyến đi đến Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1914, ông nói với một phóng viên, "Sẽ không bao giờ có một cuộc chiến tranh nào nữa giữa các cường quốc Châu Âu". Vào tháng 6 năm 1914, hạm đội Anh đã có chuyến thăm hữu nghị kéo dài một tuần tới cảng Kiel của Đức, củng cố tuyên bố chủ quyền của mình. Trong khi nó ở đó, cách 800 dặm về phía nam, ở Sarajevo, Franz Ferdinand, hoàng tử của đế quốc Áo-Hung, bị ám sát. Năm tuần sau, Thế chiến I bắt đầu.
Tuy nhiên, hậu quả của chiến tranh sẽ chứng minh Angell đúng : Chi phí lâu dài vượt xa bất cứ thứ gì có thể thu được. Đó là một thông điệp ám ảnh những căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc.
Lịch sử so với luật pháp quốc tế, chủ nghĩa dân tộc và sức mạnh quân sự so với sự phụ thuộc lẫn nhau và các lợi ích chung - những điều này xác định tranh chấp trên Biển Đông.
Và vì vậy khi bạn nghe thấy những tuyên bố lịch sử, hãy nghĩ đến Đô đốc Trịnh Hòa. Khi là tự do hàng hải, đó là Hugo Grotius. Khi là cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc, thì đó là một đô đốc khác, Alfred Thayer Mahan. Và với sự rạn nứt ngày càng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh, hãy nghĩ đến Norman Angell và cái giá phải trả của cuộc đối đầu giữa hai quốc gia phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế.
Đấy là bốn hồn ma ám ảnh vùng biển rắc rối đó.
Daniel Yergin
Võ Xuân Quế (dịch)
Nguồn : Viet-studies, 23/12/2020
Daniel Yergin là tác giả của "Bản đồ Mới : Năng lượng, Khí hậu và Xung đột giữa các Quốc gia", trong đó mô tả những căng thẳng hiện nay ở Biển Đông. Ông cũng là tác giả của "The Prize : The Epic Quest For Oil, Money & Power" được trao giải thưởng Pulitzer năm 1992.
[1] https://www.fmprc.gov.cn/nanhai/eng/snhwtlcwj_1/t1368895.htm
[2] https://www.fmprc.gov.cn/nanhai/eng/snhwtlcwj_1/t1368895.htm
[3] https://www.state.gov/u-s-position-on-maritime-claims-in-the-south-china-sea/
[4] https://www.wsj.com/articles/u-s-set-to-reject-certain-chinese-maritime-claims-in-south-china-sea-11594661229
[5] https://www.nytimes.com/2005/07/20/world/asia/china-has-an-ancient-mariner-to-tell-you-about.html
[6] https://enciklopediamoderne.files.wordpress.com/2014/09/martin-ceadel-living-the-great-illusion-sir-norman-angell1872e280931967.pdf
Năm 2020, đại dịch Covid-19 tấn công nhiều nước trên thế giới. Trong khi các nước lo chống dịch, Trung Quốc vẫn tiến hành những hành động gây hấn, đe dọa ở Biển Đông. Giới quan sát nhận định mục tiêu của Bắc Kinh là nhằm làm thay đổi cục diện khu vực, dựa vào cái được gọi là đường lưỡi bò 9 đoạn, do Trung Quốc tự vẽ ra, bao quanh 85% diện tích Biển Đông.
Reuters
Ngày 18/4/2020, Trung Quốc tuyên bố thành lập 2 đơn vị hành chính mới, một có trụ sở trên đá Chữ Thập và một có trụ sở trên đảo Phú Lâm. Suốt những tháng sau đó Trung Quốc đã gia tăng sức ép bằng cách sử dụng 3 lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển và dân quân biển tại các vùng biển ngoài khơi Việt Nam, Malaysia và Philippines.
Trong năm 2020, quân đội Trung Quốc cũng đã tiếp tục tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông với các cuộc tập trận và một số hoạt động như diễn tập chống tàu ngầm, diễn tập hộ tống, triển khai máy bay cảnh báo sớm và máy bay chống tàu ngầm đến đá Chữ Thập, diễn tập chiếm đảo, bảo vệ an ninh đảo...
Bộ Quốc phòng Mỹ hôm 2/9/2020 đã công bố ‘Báo cáo Sức mạnh quân sự Trung Quốc’, trong đó cho biết Trung Quốc đã và sẽ tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông.
Báo cáo cho biết, các nước láng giềng có thể sẽ chứng kiến Trung Quốc triển khai tàu sân bay mới nhất và tên lửa diệt hạm hướng ra vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Hai trong số các máy bay ném bom mới nhất của Trung Quốc, H-6K và H-6J, được cho là đã hạ cánh xuống đường băng ở đảo Phú Lâm và Đá Chữ Thập. Bắc Kinh cũng đã triển khai các hệ thống tên lửa phòng không và diệt hạm đến Trường Sa. Lầu Năm Góc cũng xác định Trung Quốc đã phóng 4 tên lửa diệt hạm vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa hồi cuối tháng 8/2020.
Từ Sài Gòn hôm 21/12, Nhà Nghiên cứu Biển Đông lâu năm Đinh Kim Phúc nhận định với RFA :
"Đánh giá tình hình biển Đông năm 2020 thì chúng ta thấy rằng Biển Đông trở thành điểm nóng, là nơi cạnh tranh chiến lược giữa các siêu cường và các cường quốc... Mỹ thì tăng cường đưa tàu chiến vào khu vực Biển Đông, rồi tiến hành tập trận với các nước đồng minh. Trung Quốc thì cũng tăng cường tập trận, đưa tàu hải cảnh, hải giám, các tàu khảo sát đi sâu vào khu vực khai thác dầu khí của Việt Nam... và biến biển Đông trở thành miệng hố của cuộc chiến tranh tổng lực ở khu vực".
Các binh sĩ và chiến đấu cơ trên tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc. AFP
Trước đó, vào đầu năm 2020, Trung Quốc đã đưa tàu hải cảnh 35111 đến gây hấn ở phía bắc quần đảo Natuna của Indonesia, nhưng vấp phải biện pháp cứng rắn của Indonesia. Sau đó đến ngày 9/1/2020, tàu hải cảnh 35111 đã quay trỡ lại khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam nhằm răn đe, gây một áp lực mới cho chính phủ Việt Nam. Vào năm 2019, các tàu Trung Quốc cũng đã tìm cách ngăn chặn các tàu Việt Nam trong khu vực này.
Không những thế, trong măm 2020, Trung Quốc đã hành động mạnh tay hơn với việc đe dọa các dự án dầu khí lớn ngoài khơi thuộc các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Malaysia và Việt Nam.
Theo trang tin oilcaptial.ru của Nga, Công ty dầu khí Nga Rosneft bị buộc phải hủy bỏ hợp đồng với tập đoàn Noble Corporation của Anh trong việc khai thác dự kiến ngoài khơi Việt Nam, vì sức ép nặng nề từ Trung Quốc.
Giáo sư Carlyle A. Thayer, chuyên gia nghiên cứu Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia khi trả lời RFA qua e-mail hôm 21/12 cho biết sự việc bắt đầu từ năm 2012, sau khi Hà Nội ban hành Luật Biển Việt Nam, Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã phản ứng bằng cách cho phép thăm dò dầu khí các lô trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam (EEZ), bao gồm cả vùng biển gần Bãi Tư Chính, và kêu gọi các công ty nước ngoài đấu thầu các hợp đồng thăm dò dầu khí. Nhưng không có công ty dầu khí nước ngoài nào nhận lời đề nghị này.
Khi bí mật đệ trình Dự thảo Quy tắc Ứng xử chung ASEAN-Trung Quốc trong Văn bản Đàm phán Biển Đông tháng 8 năm 2018, Giáo sư Carlyle A. Thayer cho biết Bắc Kinh đã nêu rõ : ‘Việc thăm dò và phát triển dầu khí ở các vùng biển tranh chấp sẽ được thực hiện thông qua sự phối hợp và hợp tác giữa các các quốc gia ven biển đối với Biển Đông và sẽ không được tiến hành với sự hợp tác của các công ty từ các quốc gia bên ngoài khu vực.’
Do đó, vào năm 2017, Trung Quốc đã gây sức ép buộc Repsol của Tây Ban Nha phải ngừng các hoạt động ở vùng biển gần Bãi Tư Chính và đe dọa Việt Nam bằng vũ lực nếu nước này không ngừng thăm dò dầu khí. Vào tháng 7 năm 2017, chính phủ Việt Nam đã đình chỉ các hoạt động của Repsol. Vào tháng 3 năm 2018, chính phủ Việt Nam, trước áp lực gia tăng của Trung Quốc, đã tạm dừng hoàn toàn các hoạt động của Repsol. Repsol sau đó đã nhận tiền bồi thường.
Vào tháng 7 năm 2019, Trung Quốc đã điều động tàu Hải Dương 8 tiến hành khảo sát một số lô dầu của CNOOC bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong khi quấy rối giàn khoan dầu Hakuryu-5 do Nhật Bản sở hữu và các tàu dịch vụ đang tiến hành các hoạt động thăm dò tại Lô 06-1 theo hợp đồng với Nga Rosneft.
Vào ngày 9 tháng 4 năm 2020, Tập đoàn Noble đã báo cáo rằng tàu Noble Clyde Boudreaux theo hợp đồng hoạt động tại vùng biển Việt Nam từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7. Vào cuối tháng 5, theo báo cáo của các phương tiện truyền thông nhà nước, Việt Nam đã cân nhắc việc triển khai tàu Noble Clyde Boudreaux tới Lô 06-1, nơi công ty Rosneft của Nga đã hoạt động một số năm qua. Tuy nhiên một tháng sau, Tập đoàn Noble báo cáo rằng ‘hợp đồng được tiết lộ trước đó tại Việt Nam của Noble Clyde Boudreaux đã bị hủy bỏ’.
Giáo sư Carlyle A. Thayer giải thích thêm :
"Việt Nam chưa công bố chi tiết lý do tại sao họ hủy hợp đồng với Tập đoàn Noble về các dịch vụ của Noble Clyde Boudreaux. Chỉ có thể suy đóa n rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tính tóa n rằng rủi ro khi triển khai Noble Clyde Boudreaux quá cao nên đã hủy hợp đồng và thanh tóa n chấm dứt hợp đồng. Một nhà Nghiên cứu Biển Đông đã ước tính rằng việc hủy bỏ cả hai hợp đồng khiến Việt Nam thiệt hại 1 tỷ đô la Mỹ.
Có bằng chứng về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đe dọa Việt Nam trong năm nay nhằm ngăn cản người Việt Nam nối lại các hoạt động gần Bãi Tư Chính và Khu nhà 06-1. Vào ngày 4 tháng 7, tàu 5402 của Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) đã vào mỏ khí Lan Đỏ ở Lô 06-1 để giám sát hoạt động của giàn khoan Lan Tây. Rosneft là nhà điều hành hiện tại của khu vực mỏ khí Lan Đỏ. Vào ngày 5 tháng 7, CCG 5402 đã đóng quân tại vùng biển gần Bãi Tư Chính. Bốn ngày sau, có thông báo rằng hợp đồng của Noble Clyde Boudreaux với Việt Nam đã bị hủy bỏ".
Giàn khoan Lan Tây, do Rosneft Việt Nam điều hành, ở Biển Đông ngoài khơi Vũng Tàu, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/4/2018. Reuters / Maxim Shemetov
Theo Giáo sư Carlyle A. Thayer, sự thất bại của Việt Nam trước Repsol trong năm 2017-2018 đã đặt ra một tiền lệ khủng khiếp. Việt Nam đã phải bồi thường hai lần, một lần cho Repsol và sau đó cho Tập đoàn Noble, vì đã hủy hợp đồng thăm dò khí đốt. Theo báo cáo, PetroVietnam không có đủ khả năng tài chính để tự phát triển thăm dò khai thác ở các vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính. Các nhà đầu tư mới tiềm năng sẽ không khuyến khích các hành động hủy hợp đồng của Việt Nam, vì sẽ làm tăng rủi ro cho các khoản đầu tư dài hạn.
Thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu biển Đông, khi trả lời RFA hôm 21/12 cũng cho biết phía Việt Nam chưa bao giờ đưa ra thông tin chính thức về việc rút giàn khoan của Tập đoàn Noble vào năm 2020, ông nói tiếp :
"Cá nhân tôi thì tôi cho rằng việc rút năm 2020 đặt ra một câu hỏi tại sao không thể khoan thăn dò mới ở lô 06.1 mà vẫn quyết định thuê giàn khoan của Noble để mất số tiền lớn như vậy. Theo tôi nó thể hiện 2 góc độ, thứ nhất phản ánh phía Việt Nam vẫn có ý định thăm dò và khai thác ở khu vực này. Nhưng mà góc độ thứ hai là ý kiến phản đối (ở phía Việt Nam) có nhiều hơn. Điều này tạo ra một tiền lệ không tốt lắm, có thể nói là tiền lệ xấu cho Việt Nam. Nhưng nếu lúc này tạm thời Việt Nam không khai thác được mà không để Trung Quốc khai thác trong khu vực này, thì cũng không sao vì Việt Nam có thể khai thác lúc khác. Nhưng nếu bây giờ Trung Quốc khai thác thì đó là vấn đề khác".
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, đương nhiên Việt Nam cũng có cái lý của mình khi thực hiện chiến thuật này. Nhưng thật sự chiến thuật này có tốt hay không thì phải chờ thêm một thời gian nữa.
Giáo sư Carlyle A. Thayer cho rằng, yếu tố Trung Quốc - dù công khai hay ngụ ý - luôn hiện diện trong việc Việt Nam đưa ra quyết định về thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc chắc chắn sẽ đáp trả bất kỳ việc nối lại hoạt động thăm dò dầu khí nào trong ‘vùng biển liên quan’ mà họ tuyên bố bằng cách cử tàu của Cảnh sát biển Trung Quốc và tàu đánh cá của Lực lượng dân quân biển đến quấy rối các hoạt động.
Tóm lại, việc hủy bỏ hợp đồng với Noble Clyde Boudreaux là một cái đinh nữa trong nỗ lực của Việt Nam trong việc phát triển các nguồn khí đốt trong khu vực xung quanh Bãi Tư Chính và Lô 06-01. Bằng cách lùi bước trước sức ép của Trung Quốc, Việt Nam đã mất cơ hội tìm kiếm và phát triển trữ lượng khí đốt nếu được tìm thấy. Giáo sư Carlyle A. Thayer nói.
Hôm 2 tháng 4 năm 2020, tàu cá số hiệu QNg-90767-TS do ông Trần Hồng Thọ sở hữu bị tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 4301 tông chìm ở khu vực đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa. Sau đó một ngày, chính phủ Việt Nam phát hành đoạn ghi hình cho thấy một tàu lớn của Trung Quốc đang đuổi theo và đâm vào một tàu cá bằng gỗ của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa.
Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết sau đó đã trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm vụ nhân viên công vụ và tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Tuy nhiên Trung Quốc lại cho rằng tàu cá Việt Nam "từ chối" rời khỏi khu vực khi tàu tuần tra Trung Quốc ra lệnh và quay lại đâm vào tàu của Trung Quốc (!?).
Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam khi trả lời RFA vào tháng 4 năm 2020, đã nói về hành động mà ông này cho là ‘tráo trở’ của phía Trung Quốc :
"Đó là chuyện rất vô lý. Tàu cây làm sao dám đâm vào tàu sắt. Hình ảnh chụp cũng rất rõ. Chúng tôi có hình ảnh mũi và thân tàu bị đâm gãy. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói không chính xác, mang tính tráo trở. Ngư dân cũng đã báo cáo rất rõ kèm hình ảnh cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ bản chất của Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên có chuyện phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng đổ lỗi cho tàu cá Việt Nam đâm vào tàu hải cảnh nước họ".
Ảnh minh họa tàu Trung Quốc húc tàu cá Việt Nam. Photo courtesy of nongnghiep.vn
Mỗi lần Trung Quốc gây hấn với ngư dân, như thường lệ các phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Việt Nam lại cho phát đi phát lại cái mà nhiều người trong nước ví như ‘đoạn băng rè’ phản đối hành động của Trung Quốc và tuyên bố vùng biển đó thuộc chủ quyền Việt Nam...
Việt Nam có vùng biển chồng lấn với nhiều quốc gia khác. Như vùng cửa vịnh Bắc Bộ cho đến nay vẫn chưa có ranh giới rõ rệt. Vì vậy tàu cà Việt Nam khi đụng chạm tàu Trung Quốc dễ dẫn đến chuyện bị phía Trung Quốc bắt bớ, ức hiếp. Tương tự, là vùng biển Hoàng Sa, Việt Nam nói đây là vùng biển của Việt Nam trong khi Trung Quốc cũng nói đó vùng biển của mình nên họ vẫn bắt bớ, cướp bóc, phạt tiền ngư dân...
Trả lời RFA hôm 21/12 từ Đà Nẵng, ông Trần Văn Lĩnh, Ủy viên Ban thường vụ Hội Nghề cá Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghề cá thành phố Đà Nẵng cho biết về hoạt động bảo vệ ngư dân trên biển Đông trong năm 2020 :
"Nếu như trước đây, mỗi lần Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam, thì chính phủ cũng như Hội nghề cá cũng đều lên tiếng chung chung, thậm chí không nêu tên nước có tàu đâm tàu Việt Nam. Thì trong năm 2020 chúng ta đã lên án mạnh mẽ, gọi thẳng tên Trung Quốc, nói rõ tàu tông và yêu cầu phải bồi thường... Tất nhiên Trung Quốc là nước mạnh và có hành vi hết sức cường quyền trên biển Đông, cho nên họ đã đáp lại bằng những lời lẽ nực cười vô lý, thí dụ như họ cho rằng mình xâm phạm trước tông vào tàu của họ…".
Tuy nhiên ông Trần Văn Lĩnh cho rằng những lời lẽ lên án của các cơ quan chức năng Việt Nam trong năm 2020 đã đủ mạnh mẽ. Chính nhờ vậy, gần đây tầng suất bắt giữ, cướp bóc tàu Việt Nam của các tàu Trung Quốc đối với tàu Việt Nam cũng giảm bớt. Ông Lĩnh cho biết thêm những hành động cụ thể của phía Việt Nam :
"Trước đây, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam gần như là chỉ đến sau. Tức là sau khi ngư dân đến báo bị tất công, thì lực lượng chấp pháp mới đến nhà ngư dân lập biên bản... Nhưng ngày này, ngư dân chúng tôi một phần yên ổn là do sự có mặt của cảnh sát biển, kiểm ngư, hải quân Việt Nam... trên ngư trường và họ đã xuất hiện kịp thời để ngăn cản dã tâm của tàu Trung Quốc tấn công cướp bóc tàu Việt Nam".
Trên thực tế, có thật sự lực lượng chấp pháp của Việt Nam có thể có mặt kịp thời để giải cứu cho ngư dân Việt Nam trước sự tấn công của tàu Trung Quốc ? Một ngư dân ở Quảng Ngãi khi trả lời RFA hồi tháng 6 năm 2020 cho biết, khi ông bị tàu Trung Quốc tấn công thì thường cũng có gọi cứu hộ Việt Nam nhưng nếu đã đi xa bờ thì lực lượng chấp pháp Việt Nam không thể hỗ trợ kịp.
Nhìn lại năm 2020, hướng đến năm 2021, Nhà Nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đưa ra nhận định liên quan tình hình Biển Đông :
Tình hình biển Đông sẽ không có gì thay đổi, không xảy ra chiến tranh xung đột, cũng không êm dịu đi. Tất cả sẽ tiếp tục trở thành nơi cạnh tranh chiến lược của các siêu cường trên thế giới. Chúng tôi mong muốn rằng, với sự lãnh đạo của Tân Tổng thống Mỹ Joe Biden, thì việc ông cố gắng cùng các đồng minh và các lực lượng trên thế giới đưa Trung Quốc đi trở lại khuôn khổ của luật pháp quốc tế thì đã là quá tốt rồi. Chứ còn như hy vọng đánh tan được tham vọng bành trướng của Trung Quốc, làm cho Trung Quốc từ bỏ đường lưỡi bò, làm cho Trung Quốc suy yếu, thì điều đó chỉ là ảo tưởng. Tôi hy vọng rằng, với sức mạnh của toàn thế giới, của các lực lượng chính nghĩa đưa Trung Quốc trở lại với trật tự thế giới thì cũng đã là thành công".
Riêng cách ứng phó của Việt Nam, nhà Nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho rằng các bước đi của Việt Nam kêu gọi quốc tế hóa, đa phương hóa, đấu tranh bằng luật pháp quốc tế, bằng ý kiến của các cường quốc trên thế giới... là bước đi phù hợp với trình độ của Việt Nam, phù hợp nền kinh tế và vị thế của Việt Nam hiện nay.
Nguồn : RFA tiếng Việt, 21/12/2020
Nguyễn Nam, VNTB, 11/12/2022
Mấy ngày gần đây, một số tờ báo của Việt Nam đã đăng nhiều bài dịch liên quan đến việc Trung Quốc được nhiều quốc gia coi là ‘mối nguy’ cần phải dè chừng trong mọi quan hệ.
Khi không phải gặp trở ngại về hàng rào ngôn ngữ, nên người dân Việt Nam dễ dàng thấy rõ về mối họa thật sự khi Trung Quốc lâu nay được coi là "đồng chí tốt" đối với Đảng cộng sản Việt Nam.
"NATO đứng về phía Mỹ, coi Trung Quốc là mối nguy" là tựa của bài báo trên tờ Người Lao Động, số phát hành ngày 10/12. Bài báo viết (trích) :
"Đại sứ Mỹ tại NATO Kay Bailey Hutchison hôm 9/12 cho biết Mỹ và đồng minh thuộc NATO giờ đây nhận thấy Trung Quốc là "mối nguy" bởi việc xây dựng quân đội, đánh cắp tài sản trí tuệ và các động thái của Trung Quốc ở Hồng Kông.
Phát biểu của bà Hutchison là bình luận mới nhất từ quan chức cấp cao của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump, cho thấy sự mất lòng tin của Mỹ đối với Trung Quốc cũng như những nỗ lực bền bỉ của nước này nhằm thuyết phục các đồng minh coi Trung Quốc là "nguy cơ".
Bà Hutchison nói với South China Morning Post : "Tôi nghĩ chúng ta khá chậm trễ trong việc đánh giá Trung Quốc là một nguy cơ".
Phát biểu tại sự kiện trực tuyến do Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) tổ chức, bà Hutchison nói rằng "thế giới đã cố gắng cho Bắc Kinh cơ hội tham gia dựa trên cơ sở tôn trọng trật tự dựa trên quy tắc, song thực tế cho thấy khó lòng tin tưởng họ hành xử công bằng" (1).
Rõ ràng với đoạn trích ở trên, nếu thay thế về địa danh và thực thể, sẽ cho thấy nó cũng đúng đối với Việt Nam :
"Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rằng đã từ lâu Việt Nam nhận rõ Trung Quốc là "mối nguy" bởi các động thái của Trung Quốc trong việc xâm chiếm và xây dựng ở vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Phát biểu của bà Lê Thị Thu Hằng là bình luận mới nhất từ quan chức cấp cao của chính phủ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, cho thấy sự nhẫn nhục của Việt Nam đối với Trung Quốc cũng như những nỗ lực bền bỉ của Việt Nam trong duy trì hữu hảo và coi Trung Quốc là đồng minh giờ đây đứng trước nguy cơ đổ vỡ.
Bà Thu Hằng nói với South China Morning Post : "Tôi nghĩ là đã khá chậm trễ trong việc đánh giá Trung Quốc là một nguy cơ về toàn diện đối với Việt Nam".
Phát biểu tại sự kiện trực tuyến do Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) tổ chức, bà Thu Hằng nói rằng bà đồng cảm với đánh giá, "thế giới đã cố gắng cho Bắc Kinh cơ hội tham gia dựa trên cơ sở tôn trọng trật tự dựa trên quy tắc, song thực tế cho thấy khó lòng tin tưởng họ hành xử công bằng".
Cùng nguồn về bài dịch như tờ Người Lao Động, với báo Tuổi Trẻ thì chọn tít, "Quan chức NATO : Thế giới đã trao cho Trung Quốc cơ hội chơi cùng nhưng…" (2).
Báo Tuổi Trẻ biên dịch như sau (trích) :
"Tôi nghĩ chúng ta đã đến với cuộc chơi muộn. Chúng ta bị chậm trễ trong việc đánh giá Trung Quốc là mối nguy hiểm" – bà Kay Bailey Hutchison, đại diện thường trực của Mỹ tại Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), đánh giá. Tuy nhiên, bà cho biết : "Giờ đây chúng ta có đôi mắt tinh tường hơn một chút".
Phát biểu này được bà Kay Bailey Hutchison, từng là thượng nghị sĩ Mỹ đến từ bang Texas, đưa ra tại một sự kiện trực tuyến của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS, Anh) ngày 9/12.
Theo báo South China Morning Post, đây là bình luận mới nhất từ một quan chức trong chính quyền ông Trump cho thấy sự hoài nghi ngày càng tăng của Mỹ về Trung Quốc và nỗ lực bền bỉ trong việc thuyết phục các đồng minh có cái nhìn tương tự Washington về Bắc Kinh".
Áp dụng vào trường hợp Việt Nam, thì đoạn trích ở trên có thể được soạn thế này :
"Tôi nghĩ chúng ta đã đến với cuộc chơi muộn. Chúng ta bị chậm trễ trong việc đánh giá Trung Quốc là mối nguy hiểm" – bà Lê Thị Thu Hằng, Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đánh giá. Tuy nhiên, bà cho biết : "Giờ đây chúng ta có đôi mắt tinh tường hơn một chút".
Phát biểu này được bà Lê Thị Thu Hằng, một cán bộ ngoại giao, đưa ra tại một sự kiện trực tuyến của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS, Anh) ngày 9/12.
Theo báo South China Morning Post, đây là bình luận mới nhất từ một quan chức trong chính quyền ông Nguyễn Xuân Phúc, cho thấy sự hoài nghi ngày càng tăng của Việt Nam về Trung Quốc, và nỗ lực bền bỉ trong việc thuyết phục những người đứng đầu Đảng có cái nhìn tương tự như bên chính phủ về Bắc Kinh".
Vào đầu tuần này, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đã đưa ra bình luận tương tự đại diện Mỹ tại NATO. Ông đánh giá sự trỗi dậy của Trung Quốc "thật sự đang làm thay đổi môi trường an ninh mà chúng ta đối diện".
Liệu Việt Nam có nằm trong cách hiểu của "chúng ta đối diện" ?
Nguyễn Nam
Nguồn : VNTB, 11/12/2020
Chú thích :
(1)https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/nato-dung-ve-phia-my-coi-trung-quoc-la-moi-nguy-20201210091304836.htm
(2)https://tuoitre.vn/quan-chuc-nato-the-gioi-da-trao-cho-trung-quoc-co-hoi-choi-cung-nhung-20201210113502989.htm
**********************
The Economist, VNTB, 10/12/2020
Con tàu lớp Zhaotou có thể là một tàu tuần duyên bình thường. Nhưng không phải dễ bị bắt nạt. Với trọng lượng 12.000 tấn, đây là con tàu tuần duyên lớn nhất thế giới. Tàu lớn hơn hầu hết các tàu khu trục của Mỹ hoặc Nhật Bản. Boong tàu chứa được hai trực thăng, một khẩu pháo 76mm và một loạt các loại vũ khí khác.
Trung Quốc có hai tàu loại này. Một chiếc được triển khai trên bờ biển phía đông. Chiếc mới nhất, CCG 3901 (các chữ cái viết tắt của "Cảnh sát biển Trung Quốc"), hạ thủy vào năm 2017 trong chuyến tuần tra đầu tiên trên Biển Đông, khu vực hoạt động được chỉ định cho nó. Không nơi nào xung quanh bờ biển của Trung Quốc là vùng biển có nhiều tranh chấp hơn. Sự xuất hiện con tàu khổng lồ này nhằm gửi một thông điệp : Trung Quốc củng cố các tuyên bố chủ quyền của mình trong khu vực đó bằng những nắm đấm thép.
Sắp tới CCG 3901 sẽ có thêm vũ khí. Vào tháng 11, Trung Quốc đã công bố một dự thảo luật sẽ trao quyền cho lực lượng tuần duyên phá dỡ các công trình của các quốc gia khác được xây dựng trên các bãi đá ngầm mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, đồng thời được phép lên và trục xuất tàu thuyền nước ngoài. Trong một số trường hợp, họ thậm chí có thể bắn vào các tàu đối thủ.
Trong thập niên qua, các vùng biển xung quanh Trung Quốc đã bị khuấy động bởi tình trạng thù địch và các hoạt động tranh chấp giữa các bên liên quan. Ở Biển Hoa Đông, các tàu Trung Quốc đã thăm dò vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku do Nhật Bản nắm giữ — những mỏm đá không người ở mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền (và gọi là Điếu Ngư). Ở Biển Đông Trung Quốc đã biến các bãi đá ngầm tranh chấp thành các đảo pháo đài.
Mỹ và các đồng minh đã lần lượt đưa ngày càng nhiều đoàn tàu chiến vào để thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở đó. Hải quân của Trung Quốc, lực lượng lớn nhất thế giới, cũng đang hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Nhưng lực lượng tuần duyên Trung Quốc, cũng là lực lượng lớn nhất thế giới, ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc tranh chấp này.
Năm 2013, Trung Quốc đã hợp nhất một số cơ quan thực thi pháp luật hàng hải dân sự thành một cơ quan thống nhất mới, gọi là Cục Cảnh sát biển Trung Quốc. Năm năm sau, lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy của Cảnh sát Vũ trang Nhân dân, một lực lượng bán quân sự báo cáo cho Quân ủy Trung ương, cơ quan quân sự tối cao của nước này. Trên thực tế, điều này đã biến lực lượng tuần duyên của Trung Quốc thành một nhánh của lực lượng vũ trang — giống như các lực lượng đối tác của họ ở Mỹ và Ấn Độ.
Trung Quốc cũng đã được hưởng lợi từ một cuộc đua đóng tàu. Ngày nay lực lượng tuần duyên của Trung Quốc có hơn 500 tàu. Trong khu vực, Nhật Bản đứng thứ hai với 373 tàu. Đài Loan có 161, Philippines 86 và Indonesia chỉ 41. Các tàu của Trung Quốc cũng to hơn.
Một thập kỷ trước, Trung Quốc chỉ có 10 tàu có lượng giãn nước đầy tải ít nhất 1.500 tấn (tương đương với kích thước của một tàu chiến nhỏ). Đến năm 2015 họ có 51 tàu như vậy. Ngày nay là 87 tàu, Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, một tổ chức tư vấn có trụ sở tại London, cho biết.
Nhiều tàu của lực lượng tuần duyên giờ đây đã vượt xa các tàu chiến lớn nhất trong các lực lượng hải quân nhỏ nhất của khu vực. Olli Suorsa thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore cho biết, "về cơ bản chúng là những tàu hải quân sơn màu trắng", và không có tên lửa (mặc dù điều đó cũng đúng với tàu tuần duyên của Nhật Bản). Ví dụ, tàu tuần tra Loại 818 là phiên bản sửa đổi của khinh hạm Loại 054A của hải quân Trung Quốc. Những con tàu lớn như vậy kém nhanh nhẹn hơn những con tàu nhỏ hơn, nhưng chúng lại phù hợp với việc uy hiếp đối thủ.
Điều đó tiện cho Trung Quốc, vì họ sử dụng lực lượng tuần duyên không chỉ để thực thi pháp luật hàng hải thông thường – chẳng hạn như bắt buôn lậu – mà còn để thể hiện sức mạnh. Khi Trung Quốc cử tàu khảo sát HD8 đến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm ngoái, họ đã cử một đội tàu tuần duyên, bao gồm cả tàu CCG 3901, hỗ trợ. Một số tàu tuần duyên của Việt Nam chặn không cho tiếp cận. Khi HD8 được đưa đến vùng biển kinh tế Malaysia vào tháng 4, CCG 3901 lại đi theo.
Một báo cáo do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington công bố năm ngoái cho thấy 14 tàu tuần duyên Trung Quốc tuần tra các khu vực có tranh chấp ở Biển Đông đã phát sóng vị trí của họ trên Hệ thống Nhận dạng Tự động, một mạng theo dõi tàu quốc tế, để chứng minh "Sự hiện diện thường xuyên, rõ ràng của Trung Quốc". Hoạt động gần như thường xuyên của lực lượng tuần duyên Trung Quốc ở Biển Đông đã được trợ giúp từ nguồn cung từ các tiền đồn mới xây dựng của Trung Quốc ở đó.
Ở Biển Hoa Đông, các tàu tuần duyên đã ở lại thời gian lâu nhất trong năm nay gần Senkaku. Vào tháng 10, hai tàu của họ đã đi trong lãnh hải của các hòn đảo (nghĩa là cách bờ chưa đầy 12 hải lý) và ở lại lâu hơn kỷ lục cũ 39 giờ.
Đôi khi lực lượng tuần duyên được sử dụng để hỗ trợ cho các tàu đánh cá có vũ trang của Trung Quốc, mà nước này sử dụng để thiết lập sự hiện diện ở các vùng biển tranh chấp. Vào tháng 4, Việt Nam cáo buộc lực lượng tuần duyên của Trung Quốc đâm và đánh chìm một tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông mà cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền. Đó là sự cố thứ hai như vậy trong khu vực trong vòng chưa đầy một năm.
Mỹ lo lắng về vai trò ngày càng tăng của lực lượng tuần duyên Trung Quốc như một nhân tố tăng cường sức mạnh hàng hải của nước này. Năm ngoái, một đô đốc Mỹ đã ám chỉ rằng, trong trường hợp xảy ra đụng độ, hải quân Mỹ sẽ đối xử với các tàu thuộc lực lượng tuần duyên và dân quân hàng hải của Trung Quốc không khác gì các tàu của hải quân nước này.
Vào tháng 10, Mỹ cho biết họ sẽ thăm dò khả năng triển khai các tàu tuần duyên của mình đến Samoa thuộc Mỹ, ở Nam Thái Bình Dương, để chống lại "hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát cũng như việc quấy rối tàu thuyền" của Trung Quốc.
Trung Quốc đã phản ứng gay gắt trước những lo ngại của các nước khác về dự thảo luật tuần duyên. Ở một mức độ nào đó, việc họ bực bội là có lý. Ông Collin Koh của RSIS cho biết hầu hết các điều khoản của dự luật này tương tự như các quy định của pháp luật ở nơi khác và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Nhưng có mọi lý do để lo lắng về phạm vi đề xuất của bộ luật Trung Quốc. Ông Ryan Martinson thuộc Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ nói rằng nó bao gồm "vùng biển thuộc quyền tài phán" của Trung Quốc, một thuật ngữ mà nước này áp dụng cho hầu hết Biển Đông. Hầu hết các vùng biển đó đều được các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền hoặc được coi là một phần chung của thế giới.
Việc khẳng định sâu rộng của Trung Quốc về các quyền tại đó đã bị Tòa án Trọng tài Thường trực, một tòa án quốc tế ở La Hay, bác bỏ vào năm 2016. Điều 22 của dự thảo luật này sẽ cho phép lực lượng tuần duyên của Trung Quốc tạo ra "các khu vực loại trừ tạm thời", có khả năng khoanh vùng các vùng biển rộng.
Theo ông Koh, lực lượng tuần duyên Trung Quốc đã phàn nàn trong nhiều năm rằng họ cần một luật như vậy để giúp lực lượng này có nhiều ảnh hưởng hơn trong việc đối phó với các lực lượng đối thủ ở Biển Đông. Hu Bo, Giám đốc Sáng kiến Nghiên cứu Tình hình Chiến lược Biển Đông có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết lực lượng tuần duyên là "hùng mạnh". Tuy nhiên, ông nói thêm, họ có một "nhiệm vụ nặng nề".
Vào năm 2016, khi hải quân Indonesia bắn vào một tàu đánh cá của Trung Quốc và bắt giữ thủy thủ đoàn của họ, lực lượng tuần duyên đã không thể phản ứng — rõ ràng là lo lắng rằng việc sử dụng vũ lực mà không có sự hỗ trợ pháp lý rõ ràng có thể gây tổn hại đến hình ảnh của Trung Quốc. Ông Martinson nói : "Đó là một thất bại lớn. và "Có thể có rất nhiều suy xét sau đó". Luật mới sẽ đưa ra thông báo rằng các tàu vỏ trắng có thể bắn trả.
Minh Anh, RFI, 11/12/2020
Trung Quốc khẳng định sẽ không chấp nhận và không thừa nhận phán quyết của Tòa Trọng Tài La Haye năm 2016, bác bỏ những đòi hỏi chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông của Bắc Kinh.
Hãng tin ABS-CBN, ngày 11/12/2020, trong thư trả lời báo chí, đại sứ Trung Quốc tại Philippines, ông Hoàng Khê Liên (Huang Xilian) nhấn mạnh tranh chấp giữa đôi bên phải được giải quyết thông qua đối thoại và cho đó là "hướng đi tốt nhất", phù hợp với lợi ích của các bên tranh chấp trong khu vực.
Đại sứ Trung Quốc nhắc lại rằng lãnh đạo hai nước đã đạt được một "đồng thuận quan trọng về cách xử lý đúng đắn vụ tranh chấp này, được cho là nền tảng cơ bản vực dậy quan hệ song phương. Lập trường của Trung Quốc trong vụ việc này là nhất quán và rõ ràng. Bắc Kinh không chấp nhận và sẽ không tham gia vào quá trình phân xử, cũng như là không chấp nhận hoặc công nhận điều gọi là phán quyết của La Haye".
Theo đại diện ngoại giao Trung Quốc, mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Manila vẫn "duy trì được đà phát triển lành mạnh và ổn định" đó là nhờ vào những hoạt động trao đổi và hợp tác trong nhiều lĩnh vực, thúc đẩy "hòa bình và ổn định" ở Biển Đông.
Cuối cùng, đại sứ Trung Quốc nhắc nhở rằng để quan hệ Trung Quốc và Philippines được bền vững, đôi bên nhất thiết phải "thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc và sự đồng thuận mà lãnh đạo hai nước đã được về hồ sơ Biển Đông".
Minh Anh
************************
Trung Quốc tố cáo Mỹ đưa máy bay do thám vào vùng nhận dạng phòng không
RFA, 11/12/2020
Không quân Mỹ vừa điều máy bay do thám đi vào vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc (ADIZ) ở biển Hoa Đông và đi qua khu vực bầu trời eo biển Đài Loan hôm 10/12 vừa qua. Sáng kiến theo dõi tình hình Biển Đông (SCSPI) thuộc Đại học Bắc Kinh cho biết như vậy hôm 11/12.
Máy bay F-25B của Mỹ đậu xuống tàu USS Wasp ở biển Hoa Đông hôm 5/3/2018 - Reuters
Theo SCSPI, máy bay do thám của hãng Lockheed chế tạo đã đi dọc suốt chiều dài ADIZ ở biển Hoa Đông trước khi quay lại cách tỉnh Phúc Kiến 52 hải lý và bờ biển Đài Loan 70 hải lý.
Hồi tháng trước, Hoa Kỳ cũng điều hai máy bay ném bom từ căn cứ hải quân Anderson ở Guam bay vào khu vực ADIZ của Trung Quốc ở biển Hoa Đông khiến quân đội Trung Quốc phải điều máy bay lên theo dõi.
Theo SCSPI, Hoa Kỳ đã tăng gấp đôi số lần điều máy bay do thám vào gần Trung Quốc kể từ năm 2009 trở lại đây. Không quân Mỹ đã cho máy bay bay vào khu vực Biển Đông hơn 1.500 lần một năm, trong khi Hải quân Mỹ có 1.000 ngày kỷ lục ở khu vực này trong một năm.
********************
Trọng Thành, RFI, 10/12/2020
Hội nghị các bộ trưởng quốc phòng khối ASEAN khai mạc hôm qua, 09/12/2020. Một tuyên bố chung, gồm 15 điểm, đã được thông qua tại hội nghị. Có ba điểm liên quan đến Biển Đông. Tuyên bố chung kêu gọi các bên "tự kiềm chế", "tránh leo thang tranh chấp" tại vùng biển này.
Các bộ trưởng quốc phòng 10 quốc gia ASEAN họp hội nghị ADMM lần thứ 14 qua mạng trong bối cảnh đại dịch Covid. Việt Nam là nước chủ nhà. Điểm thứ ba trong Tuyên bố chung "tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông, cũng như đòi hỏi tự kiềm chế trong các hoạt động có thể làm phức tạp hơn tình hình hay làm leo thang tranh chấp, ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định".
Tuyên bố chung của các bộ trưởng quốc phòng ASEAN cũng nhắc lại là các tranh chấp phải được giải quyết một cách hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Các bộ trưởng ASEAN cũng nhấn mạnh đến việc "duy trì và thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho việc sớm ký kết Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC), thực chất và hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế".
Hôm nay, các bộ trưởng ASEAN cũng họp qua mạng với các đồng nhiệm Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và cùng với bộ trưởng quốc phòng một số quốc gia khác trong khuôn khổ cơ chế ADMM+, với ASEAN là trụ cột. ADMM+ được coi là diễn đàn chính thức duy nhất của các bộ trưởng quốc phòng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hội nghị ADMM+ mở rộng diễn ra trong bối cảnh đối đầu Mỹ - Trung gia tăng.
Trọng Thành
**********************
Trọng Nghĩa, RFI, 09/12/2020
Trong bối cảnh các hành động quân sự hóa Biển Đông của Bắc Kinh tiếp tục gây quan ngại nơi các nước bên trong và bên ngoài khu vực, một tạp chí chuyên đề Trung Quốc mới đây đã có một phân tích bi quan khác thường về giá trị của các tiền đồn mà Bắc Kinh đã dày công xây dựng ở Trường Sa, không ngần ngại cho rằng về mặt quân sự, các căn cứ của Bắc Kinh ở Biển Đông hầu như không có giá trị.
Theo đài truyền hình Mỹ CNN ngày 07/12/2020, và nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trước đó một hôm, đó là một bài viết đăng trên nguyệt san Naval and Merchant Ships của Tập Đoàn Đóng Tàu Nhà Nước Trung Quốc CSSC, trụ sở ở Bắc Kinh. Tập đoàn này là một nhà cung cấp quan trọng cho Hải Quân Trung Quốc.
Nội dung bài viết trên tạp chí quân sự Trung Quốc đã đã được CNN nêu bật trong hàng tựa : "Bắc Kinh có thể đã xây dựng các căn cứ ở Biển Đông, nhưng điều đó không có nghĩa là họ có thể bảo vệ các cơ sở này". SCMP thì đi sâu hơn vào chi tiết, ghi nhận các căn cứ quân sự của Bắc Kinh ở Biển Đông "rất dễ bị tấn công" và "không đóng góp gì nhiều" trong trường hợp nổ ra xung đột.
Theo CNN, Bắc Kinh đã bỏ ra nhiều năm để biến các đảo đá ở Biển Đông thành các căn cứ quân sự và sân bay, trên môt vùng biển rất xa Hoa Lục và các đảo lớn khác, trải rộng trên 3,3 triệu km vuông. Tuy nhiên, theo các tác giả trong bài phân tích trên tờ báo Trung Quốc, các căn cứ này "có lợi thế độc nhất vô nhị trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và duy trì sự hiện diện quân sự ở vùng biển xa", nhưng lại có "những điểm yếu tự nhiên xét về khả năng tự vệ".
Theo nguyệt san Naval and Merchant Ships, về vị trí địa dư chẳng hạn, các tiền đồn trên đây cho phép Trung Quốc mở rộng quyền kiểm soát ra tận khu vực Trường Sa, nhưng các căn cứ này lại ở rất xa những nơi có thể tiếp ứng trong trường hợp nổ ra chiến tranh.
Một ví dụ được nêu bật là trường hợp Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) ở Trường Sa, cách thành phố Tam Á trên đảo Hải Nam của Trung Quốc 1.000 km, và cách quần đảo Hoàng Sa, cũng do Bắc Kinh kiểm soát, đến 800 km. Với khoảng cách này, các chiến hạm tiếp ứng nhanh nhất của Trung Quốc sẽ phải mất hơn 20 tiếng mới tới được bãi đá.
Chính vì khoảng cách quá xa đó mà Trung Quốc khó có thể triển khai chiến đấu cơ của họ đến nơi một cách hiệu quả, vừa do vấn đề tiếp tế nhiên liệu trên không, vừa có thể dễ bị chiến hạm đối phương đánh chặn hoặc tấn công. Bắc Kinh hiện có hai tàu sân bay đang hoạt động, về lý thuyết có thể được triển khai tới Biển Đông, nhưng các con tàu này cũng cần phải ở gần khu vực vào thời điểm xảy ra bất kỳ sự cố nào.
Bài báo trên nguyệt san Trung Quốc còn nêu bật nguy cơ các tiền đồn này là mồi ngon cho tên lửa, máy bay và chiến hạm của đối phương khi nổ ra xung đột, do vị trí xa xôi của các căn cứ, khó nhận được sự yểm trợ từ đất liền.
Các tiền đồn Trung Quốc ở Trường Sa, theo bài báo, có thể là mục tiêu của cả hệ thống tên lửa tầm xa của Mỹ và Nhật Bản, hoặc lực lượng Hải Quân của hai nước này trong khu vực. Và ngay cả khi không bị trực tiếp tấn công, các căn cứ này sẽ dễ dàng bị phong tỏa, khiến cho các nguồn tiếp tế bị ngăn chặn.
Bài báo ghi nhận : "Các nơi trú ẩn trên đảo thiếu thảm thực vật, đất đá tự nhiên và các lớp phủ khác che chắn, lại không có độ cao cần thiết so mực nước biển, khiến cho nhân sự và tài nguyên không thể trụ lại lâu dài trong các công sự ngầm dưới đất". Chính vì lý do đó mà khả năng chống trả những cuộc tấn công "rất hạn chế".
Theo chuyên gia quốc phòng Malcolm Davis, thuộc Viện Chính Sách Chiến Lược Úc ASPI, còn có nhiều vấn đề khác khiến việc bảo vệ các hòn đảo trở nên đặc biệt khó khăn : "Điều kiện môi trường khắc nghiệt ở Biển Đông - nước mặn ăn mòn, thời tiết xấu - khiến cho gần như không thể triển khai bất cứ thứ gì trên các đảo để bảo vệ các căn cứ này".
Theo chuyên gia Davis, các loại chiến đấu cơ rất đắt tiền và tối tân sẽ gần như không hoạt động được "trong vòng một tuần, hoặc lâu hơn một chút, trên những hòn đảo này". Ngoài ra, cho dù một số căn cứ có thể hữu hiệu trong việc bắn trả, các nơi này sẽ là một trong những mục tiêu đầu tiên nếu xung đột xảy ra ở Biển Đông.
Đối với chuyên gia Davis, "những gì Trung Quốc đang cố gắng làm là thôn tính một vùng hàng hải quốc tế, kiểm soát và chiếm đoạt các vùng biển quốc tế, và để làm được điều đó, họ cần phải hiện diện thường xuyên trong khu vực". Các căn cứ của Bắc Kinh ở Biển Đông, theo chuyên gia Úc, đủ để cho phép Trung Quốc áp đặt các yêu sách lãnh thổ trước mắt, nhưng rõ ràng là "Bắc Kinh không có một bước đi thực tế nào trong dài hạn, vì họ không thể thực sự bảo vệ những căn cứ đó".
Vấn đề mà CNN ghi nhận là Bắc Kinh có thể dựa trên thực tế rằng bất kỳ cuộc tấn công nào nhắm vào một căn cứ của họ ở Biển Đông – kể cả vào một tiền đồn bị coi là phi pháp theo luật quốc tế - sẽ bị xem là một hành động chiến tranh chống lại một cường quốc hạt nhân với nguồn lực quân sự to lớn.
Mối đe dọa bị Trung Quốc trả đũa có thể đủ để khiến cho không nước nào dám tấn công vào các tiền đồn của Trung Quốc trên Biển Đông.
CNN cũng đặc biệt ghi nhận rằng Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất có các căn cứ hiểm yếu ở xa đất liền có thể bị tiêu diệt bằng các cuộc tấn công phủ đầu. Đảo Guam của Mỹ hay đảo Okinawa của Nhật Bản, nơi có các căn cứ không quân lớn của Mỹ, đều nằm trong tầm tấn công tên lửa của Trung Quốc, điều mà Bắc Kinh đã nhắc nhở Washington trong quá khứ.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên gần như toàn bộ Biển Đông, và kể từ năm 2014 đã xây dựng các bãi đá ngầm và bãi cát nhỏ thành các đảo nhân tạo kiên cố có tên lửa, phi đạo và hệ thống vũ khí.
Hoa Kỳ - xem các tuyên bố của Trung Quốc là bất hợp pháp - đã phản công bằng cách điều tàu chiến đến gần các đảo đá mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền hoặc chiếm đóng, trong những chiến dịch "bảo vệ tự do hàng hải". Washington và các đồng minh nói rằng các cuộc tuần tra như vậy chính là thực thi quyền đi lại tự do trong vùng biển quốc tế, trong khi Trung Quốc cho rằng đó là hành động vi phạm chủ quyền của họ.
Trọng Nghĩa
Chính quyền tổng thống Donald Trump dự định đưa thêm bốn công ty Trung Quốc vào "danh sách đen" những công ty do quân đội sở hữu hoặc kiểm soát. Theo một tài liệu mà Reuters truy cập được và đưa ra ngày 30/11/2020, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc nằm trong số bốn công ty trên, do đã khai thác dầu khí trong vòng nhiều năm ở những khu vực tranh chấp ở Biển Đông.
Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (China National Offshore Oil Corp - CNOOC) là công ty dầu khí lớn thứ ba ở Trung Quốc (sau CNPC và Sinopec) bị trừng phạt do hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông, "bị Hoa Kỳ coi là hành động quân sự", theo nhận định của một chuyên gia Viện Nghiên cứu Năng lượng Trung Quốc, thuộc đại học Hạ Môn (Xiamen). CNOOC cũng sở hữu nhiều khu khai thác dầu khí ở Mỹ và hợp tác với nhiều công ty Mỹ như Exxon Mobil Corp. trong nhiều dự án quốc tế.
Theo Henik Fung, nhà phân tích thuộc Bloomberg Intelligence, các nhà đầu tư Mỹ sở hữu 16,5% cổ phiếu CNOOC niêm yết tại Hồng Kông. Quyết định của chính quyền Mỹ khiến các nhà đầu tư Mỹ tìm cách thoái vốn, theo sắc lệnh cấm công dân Mỹ đầu tư vào các doanh nghiệp Trung Quốc do quân đội nắm giữ hoặc kiểm soát. Giá cổ phiếu của CNOOC đã giảm 14% vào thứ Hai 30/11.
Ba doanh nghiệp khác bị liệt vào danh sách đen là công ty sản xuất chíp điện tử SMIC và hai công ty xây dựng (China Construction Technology Co Ltd và China International Engineering Consulting Corp.). Với 4 doanh nghiệp này, danh sách đen những công ty Trung Quốc do quân đội kiểm soát hoặc sở hữu tăng lên thành 35.
Ngày 30/11/2020, trả lời báo giới về khả năng Washington ban hành lệnh trừng phạt mới, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh phát biểu : "Bắc Kinh hy vọng Hoa Kỳ sẽ không gây thêm trở ngại cho quan hệ song phương và không phân biệt đối xử các doanh nghiệp Trung Quốc".
Cùng ngày, bộ Tài Chính Mỹ thông báo trừng phạt một công ty điện lực Trung Quốc bị cáo buộc hỗ trợ việc kiểm duyệt ở Venezuela. Đây là loạt biện pháp cứng rắn đối với Trung Quốc mà tổng thống Trump duy trì trong những ngày cuối nhiệm kỳ.
"Ăn miếng trả miếng", ngày 30/11, Trung Quốc đã ban hành trừng phạt đối với bốn quan chức của các tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở Hoa Kỳ, để đáp lại các biện pháp trừng phạt của Washington đối với các quan chức Trung Quốc liên quan đến Hồng Kông. Theo Hoàn Cầu Thời Báo ngày 30/11, bốn nhân vật này gồm John Knaus, giám đốc cấp cao khu vực Châu Á của Quỹ Quốc gia hỗ trợ dân chủ (National Endowment Democracy), Manpreet Singh Anand của Viện Dân chủ Quốc gia (National Democratic Institute), Crystal Rosario, giám đốc Văn phòng Hồng Kông của Viện Dân chủ Quốc gia và Kelvin Sit Tak-O, quản lý dự án của Văn phòng Hồng Kông.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cho biết bốn người này sẽ bị cấm nhập cảnh vào Trung Quốc, bao gồm cả đặc khu hành chính Hồng Kông và Macao.
Thu Hằng