Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Trung Quốc lại cho tàu xâm nhập vùng biển Việt Nam, tiếp tục xây dựng tại Đá Vành Khăn

Thụy My, RFI, 18/022021

Một chiếc tàu Trung Quốc vừa kết thúc chuyến khảo sát ở vùng biển Hoàng Sa, chỉ cách bờ biển Đà Nẵng 140 hải lý. Trong khi đó phía Philippines hôm qua 17/02/2021 cho biết Bắc Kinh vẫn tiếp tục xây dựng các công trình mới trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa.

biendong1

Đá Vành Khăn (Mischief Reef), chụp từ vệ tinh.  @CSIS

Theo báo chí Hoa lục, tàu khảo sát Thám Tác 2 (Tan Suo 2) rời cảng Tam Á, Hải Nam hôm 02/02 để thu thập các mẫu vật, thử nghiệm tàu ngầm và tiến hành các nghiên cứu khác cho đến ngày 09/02. Đây là vụ mới nhất chứng tỏ Trung Quốc tiếp tục xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.

Bên cạnh đó, tờ Philippines Daily Inquirer hôm qua dẫn phân tích hình ảnh vệ tinh của công ty công nghệ Mỹ Simularity cho thấy Bắc Kinh tiếp tục xây dựng nhiều công trình mới trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Đây là rạn san hô thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa hiện do Trung Quốc chiếm đóng, và Việt Nam, Philippines, Đài Loan vẫn đang tranh chấp.

Simularity nhận diện được bảy khu vực trên Đá Vành Khăn đã biến đổi từ cuối năm 2020, dù đại dịch Covid vẫn đang hoành hành.

Chẳng hạn hình ảnh một khu vực được đánh dấu là Khu vực 1, vẫn còn trống trải cho đến ngày 07/05/2020, nhưng đến ngày 04/02/2021 xuất hiện", việc xây dựng một hình trụ cố định có đường kính 16 mét", bắt đầu từ đấu tháng 12/2020, có thể là một cấu trúc để dựng ăng-ten. Tại Khu vực 2, hiện diện một vòm lớn có thể là dàn radar cố định. Ở Khu vực 4 và 7, có những cấu trúc đã được dỡ bỏ ; còn tại Khu vực 5 và 6 xuất hiện những công trình mới xây dựng.

Tờ báo dẫn lời chuyên gia hàng hải Jay Batongbacal cho rằng những radar mới có thể sắp hoàn tất, các doanh trại và vật liệu xây dựng được dời chỗ, chuẩn bị xây một số tòa nhà mới.

CNN hôm nay cho biết phó chủ tịch Hạ Viện Philippines, Rufus Rodriguez kêu gọi thông qua một dự luật về các khu vực biển để khoanh vùng trên biển, nhằm củng cố yêu sách chủ quyền.

Trong khi đó, phía Đài Loan thông báo sẽ tập trận ở Pratas và đảo Ba Bình ở Trường Sa trong tháng Ba.

Thụy My

********************

Biển Đông : Chiến hạm Mỹ đi ngang Trường Sa trong một chiến dịch tự do hàng hải mới

Mai Vân, RFI, 17/02/2021

Hôm 17/02/2021, Hải Quân Mỹ phái một khu trục hạm lớp Arleigh Burke đi ngang qua vùng quần đảo Trường Sa ở Biển Đông, nhằm thách thức các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực.

biendong2

Khu trục hạm Mỹ USS Wayne E. Meyer, có trang bị tên lửa dẫn đường, trên đường tới Hàn Quốc để tham gia tập trận. Ảnh do Hải quân Mỹ cung cấp, ngày 25/04/2017.  AP - Mass Communication Specialist 3rd Class Kelsey L. Adams

Trong một thông cáo được Reuters trích dẫn, Hạm đội 7 của Hoa Kỳ cho biết là khu trục hạm USS Russel đã thực hiện nhiệm vụ "khẳng định các quyền và tự do hàng hải ở quần đảo Trường Sa, phù hợp với luật quốc tế".

Khu trục hạm Mỹ đã đi ngang qua quần đảo Trường Sa sau một cuộc tập trận chung của hai nhóm tác chiến tàu sân bay Hoa Kỳ ở Biển Đông.

Ngày 05/02, một chiến hạm khác của Mỹ cũng đã tiến hành một cuộc tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải ở vùng quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc kiểm soát.

Các động thái của Mỹ là dấu hiệu cho thấy chính quyền Biden sẽ không thu hẹp quy mô các hoạt động thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh mà Washington coi là phi pháp. Dưới thời Donald Trump, Hoa Kỳ đã đẩy mạnh rõ nét các hoạt động này tại Biển Đông.

Bắc Kinh tự nhận chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhưng Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng có những các yêu sách trên toàn bộ hay một phần của quần đảo.

Các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ rộng khắp của Trung Quốc ỏ Biển Đông đã trở thành một vấn đề nóng bỏng trong quan hệ ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Washington đã lên án các hành vi của Bắc Kinh nhằm bắt nạt các nước láng giềng, còn Bắc Kinh thì nhiều lần tố cáo những gì họ gọi là nỗ lực của Mỹ nhằm gây bất ổn trong khu vực và can thiệp vào "công việc nội bộ" của Trung Quốc.

Mai Vân

Published in Châu Á

Tàu ngầm hạt nhân tấn công SNA Emeraude cùng tàu hỗ trợ BSAM Seine của Pháp vừa tiến hành tuần tra tại Biển Đông nhằm khẳng định quyền tự do hàng hải theo luật pháp quốc tế.

taungam1

Tàu ngầm hạt nhân SNA Emeraude của Pháp - AFP

AFP và South China Morning Post, ngày 9/2, dẫn thông tin vừa nêu do Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Florence Parly đưa lên trên tài khoản Twitter của bản thân vào tối ngày 8/2.

Bà Bộ trưởng Quốc phòng Pháp viết : chuyến tuần tra đặc biệt vừa hoàn tất hoạt động đi qua vùng Biển Đông. Đây là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy khả năng của Hải quân Pháp có thể bố trí đến nơi xa trong thời gian dài để phối hợp với các đối tác Hoa Kỳ, Úc và Nhật bản.

Bà Bộ trưởng Quốc Phòng Florence Parly nói thêm rằng nước Pháp có những vùng đặc quyền kinh tế tại khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương và chiến dịch tuần tra nhằm bảo vệ chủ quyền cùng những quyền lợi của nước Pháp tại đó ; cũng như nâng cao hiểu biết về vùng này.

Pháp từng tiến hành một số chuyến tự do hàng hải qua Biển Đông cùng với những nước khác như Anh, Mỹ. Mục tiêu nhằm đẩy lùi sự thống trị ngày càng tăng và hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc tại vùng biển này.

Về việc tàu của Pháp tuần tra ở Biển Đông, thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng có hai vấn đề nổi lên qua động thái này :

"Thứ nhất là không chỉ các nước ASEAN trong khu vực Biển Đông và Mỹ, quốc gia siêu cường thế giới mà còn rất nhiều quốc gia khác quan tâm đến Biển Đông.

Đặc biệt đối với các nước ở Châu Âu thì vấn đề liên quan đến tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có tự do hàng hải, luôn luôn các quốc gia ở phương Tây đề cao nó.

Điều thứ hai, một trong những đặc điểm của ông Trump là ông đã làm mất lòng của đồng minh rất nhiều, đối với các nước Châu Âu. Và đến khi ông Biden nắm quyền tổng thống thì ngoài việc phía Mỹ vẫn còn những hành động tiếp tục ở Biển Đông như đã trình bày và việc tàu Pháp tham gia tuần tra ở vùng Biển Đông cho thấy Chính quyền của ông Biden ở Hoa Kỳ có khả năng tập hợp, kép lại mạng lưới đồng minh trước đây của họ.

Như vậy, không chỉ có Mỹ hoặc một số nước lên tiếng về ASEAN trực tiếp liên quan đến Biển Đông nữa, mà sẽ có nhiều quốc gia đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ cùng lên tiếng. Và tiếng nói đạt hiệu quả hơn rất nhiều".

Vào tháng 9 năm ngoái, Pháp, Đức và Anh cùng gửi một tuyên bố chung đến Liên Hiệp Quốc phản đối hầu hết các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Tuyên bố chung ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 bác bỏ lập luận của Trung Quốc nói Bắc Kinh có bằng chứng lịch sử về chủ quyền tại Biển Đông trong đường đứt khúc 9 đoạn. 

Published in Châu Á
samedi, 23 janvier 2021 22:54

Biển Đông nóng lên từ đầu năm

Tình hình biển Đông ngay từ đầu năm 2021 đã cho thấy độ "nóng" dữ dội với các sự kiện như sau :

biendong1

Biển Đông đang là tâm điểm chú ý của thế giới. Nguồn: internet

Nhật Bản gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc

Ngày 19/01/2021, Nhật Bản đã gửi Công hàm lên Liên hợp quốc để phản đối Công hàm CML/63/2020 của Trung Quốc thể hiện lập trường của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông như sau :

"Nhật Bản, với tư cách là một quốc gia thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS), phản đối lập trường của Trung Quốc rằng "Trung Quốc vẽ đường cơ sở đối với các đảo và đá tại Biển Đông phù hợp với UNCLOS và luật pháp quốc tế nói chung". UNCLOS đặt ra một cách cụ thể và đầy đủ các điều kiện để áp dụng các đường cơ sở, tuy nhiên Trung Quốc không thể dẫn ra được các điều khoản liên quan của UNCLOS để khẳng định tính hợp pháp của các đường cơ sở trên. Không hề có một cơ sở nào để một quốc gia thành viên biện hộ cho việc áp dụng những đường cơ sở không thỏa mãn các điều kiện UNCLOS nêu ra.

Trung Quốc cũng đề cập tới tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông tại Công hàm số CML 63/2020. Tự do hàng hải và hàng không cần được đảm bảo tại vùng biển và vùng trời xung quanh, cũng như phía trên các cấu trúc nửa nổi, nửa chìm, không có lãnh hải và vùng trời của riêng chúng, như Phán quyết của Tòa Trọng tài Biển Đông ngày 12/7/2016 đã nêu. Phán quyết này là chung thẩm đối với các bên trong tranh chấp. Tuy nhiên, Trung Quốc không chấp nhận Phán quyết, và khẳng định rằng họ có "chủ quyền" đối với vùng biển, vùng trời xung quanh và phía trên các cấu trúc nửa nổi, nửa chìm đó. Trên thực tế, Trung Quốc đã phản đối việc tàu bay Nhật bay qua vùng trời xung quanh Đá Vành Khăn và có ý định hạn chế quyền tự do hàng không ở Biển Đông".

Các chuyên gia cho biết, Nhật Bản gửi công hàm vào thời điểm này thể hiện sự quan tâm đến vấn đề tranh chấp biển với Trung Quốc sau khi Trung Quốc càng ngày càng thể hiện sự hung hăng khi liên tiếp điều các tàu xâm phạm vùng biển Hoa Đông mà Nhật Bản và Trung Quốc tranh chấp xung quanh đảo Senkaku.

Trung Quốc công bố Luật Hải cảnh mới

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 22/1 đã ký Lệnh công bố Luật Hải cảnh (sửa đổi) của quốc gia này. Luật Hải cảnh của Trung Quốc bắt đầu có hiệu lực từ 1/2/2021.

Trung Quốc đã lấy ý kiến về dự thảo luật này từ cuối năm 2020, tuy nhiên, thời điểm công bố luật này chỉ hai ngày sau khi ông Trump giã từ chức vụ Tổng thống và ông Biden nhậm chức Tổng thống. Việc công bố Luật hải cảnh vào thời điểm này thể hiện các vấn đề sau :

Thứ nhất, Trung Quốc muốn tận dụng thời cơ. Nếu như khi ông Trump còn giữ chức vụ Tổng thống thì Trung Quốc không dại gì "chọc giận" ông Trump, vốn ra quyết định rất bất ngờ và khó lường hậu quả. Đối với Tổng thống Biden, ông khó có thể quan tâm đến các chính sách đối ngoại khi chưa ổn định được các vấn đề trong nước như Đại dịch COVID-19, khủng hoảng kinh tế và các vấn đề chính trị hậu Trump. Đây chính là thời cơ tuyệt vời để Trung Quốc có thể tận dụng mà không sợ bị Mỹ - đối thủ lớn nhất của Trung Quốc phản ứng.

Thứ hai, đây cũng có thể coi là đòn "đánh phủ đầu" để răn đe với các quốc gia có các tranh chấp biển với Trung Quốc, bao gồm Biển Đông, Biển Hoa Đông và Biển Hoàng Hải. Trong số này, đặc biệt kể đến Nhật Bản và Việt Nam.

biendong2

Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr. (trái) và Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị ở Manila, Philippines hôm 16/1/2021. Reuters

Năm 2020, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đi thăm 5 nước ASEAN. Đầu năm 2021, Vương Nghị tiếp tục đi thăm 4 quốc gia còn lại, duy nhất Việt Nam là không ghé thăm. Điều đó cho thấy thái độ "không hài lòng" của Trung Quốc đối với Việt Nam. Báo chí Trung Quốc còn đe dọa, Việt Nam đừng "đu đưa với Mỹ". Năm 2020 chứng kiến các hoạt động tích cực trong quan hệ của hai quốc gia vốn là cựu thù này. Và Trung Quốc muốn dùng Luật hải cảnh này để "cảnh cáo" Việt Nam.

Thứ ba, đây cũng là hành động "thăm dò" phản ứng của Hoa Kỳ với tân chính quyền Hoa Kỳ xem khả năng quan tâm và can dự đối với biển Đông đến mức độ nào ?

Đe dọa từ lực lượng Hải cảnh Trung Quốc

Luật hải cảnh của Trung Quốc tạo ra nhiều lo ngại cho thế giới. Điều 19 của luật này trao quyền cho lực lượng hải cảnh Trung Quốc, bao gồm cả việc sử dụng vũ khí, khi chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài phán bị các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp trên biển hoặc đối mặt với nguy cơ sắp bị xâm phạm bất hợp pháp. Vấn đề là Trung Quốc luôn giải thích các vùng biển rộng lớn là biển thuộc chủ quyền quốc gia của mình, trong đó có Biển Đông, Biển Hoa Đông và Hoàng Hải.

Luật hải cảnh Trung Quốc cũng cho phép lực lượng hải cảnh đưa các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã bồi lấp, cải tạo và xây dựng trên Biển Đông (trong đó có 7 thực thể tại quần đảo Trường Sa và một số thực thể tại quần đảo Hoàng Sa) vào trong phạm vi bảo vệ của lực lượng này, cho phép họ tham gia thực thi pháp luật trên tất cả các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và cả trên không. Thậm chí, dự luật còn cho phép hải cảnh Trung Quốc dỡ bỏ các công trình do nước ngoài xây dựng tại những vùng biển thuộc "quyền quản lý" của lực lượng này. Ngoài ra, Luật hải cảnh còn cho phép hải cảnh được tịch thu và tiêu hủy tàu nước ngoài nếu họ "xâm phạm trái phép vùng biển" của Trung Quốc.

https://youtu.be/nZknZYsL9js

Hải cảnh Trung Quốc đã trở thành lực lượng cảnh sát biển lớn nhất thế giới. Trong suốt thời gian vừa qua, các vùng biển quanh Trung Quốc đã bị khuấy động bởi hoạt động của các đội tàu từ Trung Quốc. Ở biển Hoa Đông, các tàu Trung Quốc đang thăm dò vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku do Nhật Bản nắm giữ, những mỏm đá không người ở mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và gọi là Điếu Ngư. Ở Biển Đông, Trung Quốc biến các thực thể mà họ đang nắm giữ tại Trường Sa và Hoàng Sa thành các căn cứ quân sự kiên cố.

Mỹ và các đồng minh lần lượt cử một đoàn tàu chiến ngày càng lớn đến vùng biển này để thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc, lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, cũng đang hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, lực lượng Hải cảnh nước này, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các tranh chấp biển.

Năm 2013, Trung Quốc hợp nhất một số cơ quan thực thi pháp luật hàng hải dân sự thành một cơ quan thống nhất mới, gọi là Cục Hải cảnh Trung Quốc. 5 năm sau, lực lượng này được đặt dưới quyền kiểm soát của Cảnh sát Vũ trang Nhân dân, một lực lượng bán quân sự báo cáo cho Quân ủy Trung ương, cơ quan quân sự tối cao của Trung Quốc. Trên thực tế, việc này đã biến lực lượng Hải cảnh Trung Quốc thành một nhánh của lực lượng vũ trang Trung Quốc.

Hiện tại, lực lượng Hải cảnh Trung Quốc có hơn 500 tàu, đứng đầu về tiềm lực trong khu vực. Nhật Bản đứng thứ hai, thua xa Trung Quốc, với 373 tàu. Các nước khác có tiềm lực rất xa so với Trung Quốc. Đài Loan có 161 tàu, Philippines 86 tàu và Indonesia chỉ 41 tàu. Các tàu của Trung Quốc cũng mạnh hơn. Một thập kỷ trước, Trung Quốc chỉ có 10 tàu, có lượng giãn nước ít nhất 1.500 tấn (tương đương với quy mô của một tàu chiến nhỏ). Nhưng đến năm 2015, Trung Quốc đã có 51 tàu như vậy. Viện nghiên cứu Chiến lược quốc tế (tổ chức tư vấn có trụ sở tại London) cho biết, hiện tại, Trung Quốc đã có 87 tàu.

Nhiều tàu Hải cảnh Trung Quốc giờ đây đã vượt xa các tàu chiến lớn nhất trong các lực lượng hải quân nhỏ nhất của khu vực. Ví dụ tàu lớp Zhaotou (Chiêu Đầu) của cảnh sát biển Trung Quốc là một tàu có trọng lượng 12.000 tấn. Đây là tàu lớn nhất thế giới được chế tạo cho mục đích như vậy. Boong tàu rộng, chứa được 2 trực thăng, 1 khẩu pháo 76mm và 1 kho vũ khí. Trung Quốc có 2 chiếc tàu như vậy. Một tàu được triển khai trên bờ biển phía đông. Chiếc tàu mới nhất, CCG 3901 (viết tắt của "Hải cảnh Trung Quốc"), bắt đầu hoạt động vào năm 2017 trong chuyến tuần tra đầu tiên trên Biển Đông, đây là khu vực hoạt động của tàu này. Sự xuất hiện của con tàu khổng lồ này nhằm một mục đích : Trung Quốc hậu thuẫn các tuyên bố chủ quyền của nước này trong khu vực trên bằng "khối thép" như vậy.

Đặc điểm này rất có lợi cho Trung Quốc vì Trung Quốc sử dụng Hải cảnh không chỉ để thực thi luật hàng hải thông thường như bắt những kẻ buôn lậu mà còn để phô trương sức mạnh. Năm 2019, khi Trung Quốc cử tàu khảo sát Hải Dương 8 đến vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, nước này cử một đội tàu Hải cảnh đi hỗ trợ, trong đó có cả tàu CCG 3901. Một số tàu Trung Quốc đã ngăn chặn tàu cảnh sát biển của Việt Nam tiếp cận giàn khoan.

Hồi tháng 4/2020, khi tàu Hải Dương 8 được cử đến vùng biển kinh tế Malaysia, tàu CCG 3901 lại được cử đi kèm. Một báo cáo do Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington công bố năm 2019 cho biết 14 tàu hải cảnh Trung Quốc tuần tra các thực thể có tranh chấp ở Biển Đông đã phát sóng vị trí của mình trên Hệ thống nhận dạng tự động, một mạng lưới theo dõi tàu quốc tế, để chứng tỏ "sự hiện diện thường xuyên, rõ ràng của Trung Quốc". Việc Hải cảnh Trung Quốc gần như liên tục canh gác trên Biển Đông là nhờ nguồn cung ứng mà lực lượng này nhận được từ các tiền đồn mới xây dựng của Trung Quốc ở khu vực đó.

Tàu hải cảnh Trung Quốc cũng thường xuyên tuần tra trong vùng lân cận của các đảo trong vùng biển Hoa Đông và thường xuyên ra vào khu vực lãnh hải 12 hải lý xung quanh quần đảo Senkaku, tạo nên những lần rượt đuổi với các tàu Nhật Bản có nhiệm vụ duy trì quyền kiểm soát các thực thể của Tokyo. Trong khi đó, Không quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAAF) tuần tra quanh quần đảo Senkaku và các hòn đảo phía Nam của Nhật Bản dẫn đến việc thường xuyên xuất kích ngăn chặn của Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản..

Nhiều quốc gia, trong số đó có Mỹ, lo lắng về vai trò ngày càng lớn của Hải cảnh Trung Quốc nhằm tăng cường sức mạnh biển của họ,. Năm 2019, một đô đốc Mỹ đã ám chỉ rằng, trong trường hợp xảy ra đụng độ, hải quân Mỹ sẽ đối xử với các tàu thuộc lực lượng hải cảnh và dân quân biển Trung Quốc không khác gì các tàu của hải quân nước này. Tháng 10/2020, Mỹ cho biết sẽ tìm hiểu khả năng triển khai các tàu tuần duyên của riêng mình đến Samoa, ở Nam Thái Bình Dương để đối phó với "hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát cũng như quấy rối tàu thuyền các quốc gia khác" của Trung Quốc.

Với việc tiến tới sẽ công bố Luật Hải cảnh mới như vậy, điều này sẽ khiến an ninh trong khu vực biển Đông thời gian tới sẽ tiếp tục tình trạng căng thẳng, bất ổn.

Trương Công Hùng

Nguồn : RFA, 23/01/2021

Published in Diễn đàn

Thời đại ‘fake news’ tràn lan trên các trang mạng xã hội hiện nay khiến những người muốn bình luận một tin tức nào phải cẩn thận tra cứu nguồn tin. Trong tinh thần ấy, vì không có điều kiện kiểm tra thông tin, xin có lời ‘disclaimer’ trước để tự bảo vệ : bài viết này dựa theo bản tin của báo quốc doanh Thanh Niên ngày 23/0120/21 và báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam, đăng cùng ngày.

tauca1

Một trong nhiều tàu cá ngư dân Việt Nam bị đâm chìm trên Biển Đông trong những năm qua (Hình báo Thanh Niên, 23/01/2021)

1. Về việc quốc hội Trung Quốc thông qua luật cho phép ‘nổ súng bảo vệ chủ quyền’ trên Biển Đông

Trích bản tin báo Thanh Niên : "Hôm qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc thông qua luật hải cảnh mới của nước này - vốn bị giới quan sát quốc tế chỉ trích mạnh mẽ vì đặt ra nhiều rủi ro cho Biển Đông".

"Việc thông qua luật trên diễn ra vào hôm qua 22/1, theo Reuters. Đầu tháng 11/2020, Trung Quốc đã công bố dự luật này. Trong đó, điểm nổi bật là hải cảnh có trách nhiệm xua đuổi tàu thuyền các nước khác, thậm chí sử dụng vũ khí nhằm vào tàu các nước khác ở khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền".

Báo quốc doanh lên bản tin chính thức bằng cách trích dẫn bản tin của hãng thông tấn Reuters của tư nhân Anh quốc ! Điều này cho thấy báo quốc doanh cũng chẳng biết gì nên mới đi mót tin của Reuters. Đáng chú ý là Bộ Ngoại giao Việt Nam đã không có bình luận gì về động thái mới của Trung Quốc trên Biển Đông, nên xin cẩn tắc vô áy náy.

Nhưng vì báo chí quốc doanh gắn liền uy tín của Đảng cộng sản trên mặt trận tuyên truyền, có phần chắc bản tin đã được ‘phê chuẩn’ của tuyên giáo trung ương. Nếu đúng như thế, bản tin vô tình tố cáo một hệ lụy pháp lý nghiêm trọng mà Đảng cộng sản Trung Quốc phải chịu trách nhiệm.

Dự luật ‘nổ súng vào tàu nước khác trong khu vực Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền’ được đệ trình vào tháng 11/2020 nhưng mãi đến 22/01/221 mới được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc thông qua, tức biến thành luật áp dụng. Xét thế, theo luật mới của Trung Quốc, kể từ ngày 22/01/2021 trở đi việc nổ súng vào các tàu nước khác bảo vệ chủ quyền mới chính thức được luật hóa. Các tàu cá Trung Quốc chỉ được luật pháp chống lưng kể từ ngày này. Như vậy các tàu cá đã hô biến thành tàu súng tấn công, đâm chìm, tịch thu, tước đoạt hải sản, bắt công dân Việt Nam đòi tiền chuộc mạng v.v. như đã xảy ra nhiều lần trước ngày 22/01/2021 là hoàn toàn bất hợp pháp ! Đừng nói gì đến luật quốc tế, chính luật của Trung Quốc và cả Việt Nam cũng phải nhìn nhận các hành động không/chưa được luật pháp cho phép đều bất hợp pháp.

Cũng vì luật mới này được thông qua chỉ hai ngày sau Joe Biden nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ ngày 20/01/2021 động thái mới của Trung Quốc trên Biển Đông không thể là một sự tình cờ. Trung Quốc một mặt tỏ ra hung hăng trấn áp với Việt Nam nhưng đồng thời cũng để ‘nắn gân’ tân tổng thống Hoa Kỳ. Thái độ của ông Biden sẽ cho Bắc Kinh biết đã chín muồi chưa cho một cuộc cưỡng đoạt bằng bạo lực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trên Biển Đông.

Không may, thái độ của Hoa kỳ không thể quyết liệt hơn. Cũng trong ngày 23/1, theo bản tin chính thức của Bộ tư lệnh Mỹ ở Ấn độ và Thái Bình Dương (USINDOPACOM, US Indo-Pacific Command), hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt thuộc Hạm đội 7 đã được điều động đi vào Biển Đông thực hiện các chiến dịch thông lệ ‘nhằm bảo vệ tự do hải hành trên vùng Biển Đông, thiết lập đồng minh đối tác và duy trì an ninh hải hành và thực hiện một loạt những chiến dịch khác’. Dưới nỗi lo có sự căng thẳng giữa Đài Loan và Trung Quốc trên biển, hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã vào ứng trực trên Biển Đông, sẵn sàng phản ứng khi bị Trung Quốc ‘nổ súng bảo vệ chủ quyền’ ! Nhưng đó là chuyện của Hoa Kỳ và Trung Quốc, xin trở lại thái độ và phản ứng của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam khi Trung Quốc thông qua luật mới trên ‘vùng biển chủ quyền’ của Trung Quốc.

Nan giải là hiện nay có ai có thể buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành động bất hợp pháp trước đây trên Biển Đông hay không, nếu không phải là nạn nhân ? Vì thế, phía bị thiệt hại cần dựa vào luật mới để kiện các hành động bất hợp pháp của nhà cầm quyền Trung Quốc trước ngày thành luật. Xét theo mặt này, phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn ý thức được lẽ phải thuộc về mình và đã có biện pháp buộc cộng sản Trung Quốc phải chịu trách nhiệm. Biện pháp đối phó khả thi nào đã được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam áp dụng trong tình hình căng thẳng này ?

Báo Nhân Dân ra ngày 23/01/2021 đưa ra biện pháp đối phó như sau :

‘Tặng cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ cho ngư dân biên giới biển’

Thứ Bảy, 23-01-2021, 11:19

"Sáng 23-1, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Sóc Trăng phối hợp chính quyền địa phương huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng tổ chức chương trình "Vì chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc".

"Chương trình "Vì chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc" được tổ chức nhằm động viên, khích lệ quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới biển và ngư dân tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới; tích cực vươn khơi, bám biển, giữ vững chủ quyền biển đảo, lập thành tích xuất sắc chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

tauca2

Đại tá Lê Văn Anh, Phó chính uỷ, BĐBP tỉnh trao cờ tổ quốc và ảnh Bác Hồ cho ngư dân.(Hình báo Nhân dân)

"Dịp này BĐBP tỉnh đã trao tặng 300 lá cờ Tổ quốc và 100 tấm ảnh Bác Hồ, 60 phao cứu sinh cho các ngư dân trên địa bàn biên giới huyện Trần Đề nhằm chia sẻ khó khăn, cổ vũ, động viên bà con ngư dân đang ngày đêm vươn khơi, bám biển".

Vậy đấy, hành động pháp lý được đảng ta sử dụng để buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm chiếu theo luật mới của Trung Quốc là cho ngư dân ra biển, trương hình bác Hồ và phất cờ búa liềm để nhát ma quân Trung Quốc ! Làm như quân Trung Quốc thấy hình bác Hồ và cờ búa liềm sẽ bỏ súng và chạy thụt mạng vậy ! Một mặt, hải quân Việt Nam được trang bị tận răng, ghìm chặt tay súng đứng trên bờ quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, ngư dân ta tay cờ, tay cầm hình bác Hồ xung phong ra biển làm bia đỡ đạn cho quân thù.

Cho đến nay hàng chục ngàn tiến sĩ, giáo sư, luật sư, ra ngõ gặp ngay thạc sĩ v.v. cũng không thấy lên tiếng gì về động thái mới này của Trung Quốc. Xem ra trong tình hình khẩn trương, giải pháp được đảng và nhân dân ta thực hiện là đưa hình bác Hồ và cờ búa liềm ra chống giặc được sự đồng thuận tạm thời của bộ chính trị cộng sản Việt Nam. Thôi thì hãy hy vọng sau kỳ đại hội đảng 13 trong vài tuần nữa, đảng ta sẽ có giải pháp kiên quyết hơn đòi Trung Quốc phải rút lại luật này. Trong hiện tại, xét về luật mới của Trung Quốc và biện pháp đối phó của cộng sản Việt nam, nói một cách ôn hòa và lịch sự : cả hai đều khốn nạn như nhau.

Sơn Dương

(26/01/2021)

Published in Quan điểm

Những diễn biến chính ở Biển Đông vào năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19, luật pháp quốc tế và an ninh hàng hải.

bd1

Covid-19 tác động đến các tranh chấp ở Biển Đông theo hai cách. Thứ nhất, không có cuộc gặp trực tiếp nào giữa các thành viên ASEAN và Trung Quốc thông qua Nhóm công tác chung để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC). Do JWG-DOC đã thúc đẩy các cuộc đàm phán về Biển Đông, các cuộc đàm phán vốn đã phức tạp hơn và không có tiến triển nào về Bộ Quy tắc ứng xử (COC), nhằm quản lý quan hệ liên quốc gia và tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển tranh chấp.

Thứ hai, thủy thủ đoàn của tàu USS Theodore Roosevelt nhiễmi Covid-19 sau khi đến Việt Nam vào đầu tháng 3. Tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đã ngưng hoạt động trong hai tháng. Trong khi hệ thống tuyên truyền Trung Quốc nói đến các vấn đề này liên tục, Hoa Kỳ phản đối bằng cách buộc tội Trung Quốc lợi dụng đại dịch corona để bắt nạt và đe dọa các quốc gia yêu sách.

Việc phát triển lớn liên quan đến luật pháp quốc tế là Trung Quốc đã thành lập hai khu hành chính mới ở Biển Đông vào ngày 18 tháng 4 – một trên Quần đảo Hoàng Sa và bãi Macclesfield, một trên quần đảo Trường Sa. Cả hai quận đều thuộc thẩm quyền của thành phố Sansha trên đảo Phú Lâm. Việc thành lập các khu hành chính này đã thúc đẩy sự phản đối của Việt Nam và Philippines.

Nhưng về luật pháp không có tiến triển nào quan trọng hơn công hàmđược đệ trình lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa (CLCS) hoặc Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để đáp lại việc Malaysia đệ trình sơ bộ về một thềm lục địa mở rộng vào ngày 12 tháng 12 năm 2019. Công Hàm của Malaysia đã bác bỏ cơ sở pháp lý của các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử. Trung Quốc đã đáp trả bằng cách yêu cầu Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa thẳng thừng bác bỏ yêu cầu của Malaysia.

Năm 2019 đệ trình của Malaysia đã kích hoạt các phản ứng của Philippines (hai công hàm vào ngày 6 tháng 3), Việt Nam (30 tháng 3 và hai công hàm vào ngày 10 tháng 4), Indonesia (26 tháng 5), Hoa Kỳ (1 tháng 6), Úc (23 tháng 7), Malaysia (29 tháng 7) và một công hàm đồng ký tên của Pháp, Đức và Vương quốc Anh (16 tháng 9). Trung Quốc đã đệ trình từng phản ứng một đối với các công hàm trên.

Ba chủ đề nổi lên từ các cuộc trao đổi ngoại giao này – một sự bác bỏ hoàn toàn các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử, ủng hộ các yêu sách đối với các khu vực hàng hải chỉ dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), và ủng hộ Phán quyết của Tòa trọng tài đối với các tuyên bố của Philippines phản đối Trung Quốc. Phát biểu trước Đại hội đồng LHQ ngày 22/9, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết ‘Phán quyết[của tòa trọng tài] hiện là một phần của luật pháp quốc tế, ngoài sự thỏa hiệp’.

An ninh hàng hải ở Biển Đông bị ảnh hưởng bởi các tàu thực thi pháp luật hàng hải và một loạt các cuộc tập trận hải quân của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia để quấy rối một tàu khoan dầu hoạt động theo hợp đồng với Petronas, công ty dầu khí nhà nước Malaysia, từ cuối tháng 1 đến tháng 2/2020.

Năm 2020 cũng được đánh dấu bởi hai sự cố của tàu chiến Trung Quốc, sự hiện diện hải quân liên tục của Washington và các hoạt động tự do hàng hải (FONOPS), một sự thay đổi trong sự hiện diện của máy bay ném bom Mỹ có trụ sở tại Guam, cũng như các cuộc tập trận hải quân chưa từng có của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Chính quyền Trump đã nâng số lượng FONOPS hàng năm do hải quân Hoa Kỳ tiến hành, đáng chú ý nhất là tiến hành hai FONOPS liên tục vào cuối tháng 4.

Trong tháng 4 và tháng 5, Trung Quốc tìm cách tận dụng sự bất lực đối với covid-19 của tàu USS Theodore Roosevelt bằng cách phái Đội đặc nhiệm tàu sân bay Liêu Ninh đến phía bắc Biển Đông để tiến hành các hoạt động bay và một loạt các cuộc tập trận. Washington đã đáp trả vài tháng sau đó bằng cách khẳng định mạnh mẽ nhất về sức mạnh hải quân ở Biển Đông kể từ năm 2014 bằng cách điều động ba nhóm tấn công tàu sân bay.

Trung Quốc đã đáp trả sự hiện diện của các tàu sân bay Mỹ bằng cách điều động bốn máy bay chiến đấu và bốn máy bay ném bom đến đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa vào đầu tháng 7. Bắc Kinh sau đó tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân trùng với cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) ngoài khơi Hawaii từ ngày 17 đến ngày 31 tháng 8.

Trong cuộc phô trương quyền lực đáng chú ý, Trung Quốc đã bắn hai tên lửa đạn đạo từ các địa điểm riêng biệt trên đất liền vào vùng biển giữa đảo Hải Nam và Hoàng Sa. Trong tháng 9, Trung Quốc tiến hành bốn cuộc tập trận hải quân đồng thời ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Hoàng Hải và Vịnh Ba Tư. Vào tháng 11, Hải quân Trung Quốc đã tiến hành hai cuộc tập trận riêng biệt ở Biển Đông. Lần đầu bao gồm bốn tàu đổ bộ đổ bộ, trong khi lần thứ hai bao gồm một chi hạm đội tàu tên lửa tàng hình. Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và Dân quân Biển Trung Quốc tiếp tục các cuộc tuần tra ‘như thường lệ’ và quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí do các quốc gia duyên hải tiến hành trong đường chín đoạn của Trung Quốc.

Nhìn về phía trước, căng thẳng ở Biển Đông khó có thể lắng xuống khi Trung Quốc và Mỹ tiếp tục chu kỳ hành động-phản ứng với các cuộc tập trận quân sự. Trung Quốc sẽ quấy rối bất kỳ việc tái thăm dò dầu mỏ nào của các quốc gia yêu sách trong vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc sẽ tăng áp lực lên các thành viên ASEAN để hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử vào năm 2021. Chính quyền Biden sẽ tái tham gia với ASEAN và cung cấp đối trọng với Trung Quốc.

Carlyle A Thayer

Nguyên tác : Covid-19 masks mischief in the South China Sea, East Asia Forum, 13/01/2021

Khánh An dịch

Nguồn : VNTB, 15/01/2021

Carlyle A Thayer là Giáo sư danh dự tại Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc, Đại học New South Wales, Canberra.

Published in Diễn đàn

Mỹ, Nhật hoan nghênh Hải quân Châu Âu triển khai tại Châu Á để đối phó với Trung Quốc

Thụy My, RFI, 05/01/2021

Anh sẽ điều một hàng không mẫu hạm đến Đông Á, Pháp đưa tàu Hải quân đến Nhật Bản và Đức gởi khu trục hạm đến Ấn Độ Dương, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng tỏ ra hung hăng tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. South China Morning Post hôm 05/01/2021 dẫn thông cáo của các chính phủ liên quan cho biết như trên. Nhật Bản và Hoa Kỳ rất hoan nghênh sự tham gia này.

haiquan1

Tầu HMS Queen Elizabeth của Hải Quân Anh tại cảng Gibraltar năm 2018. Ảnh minh họa.  © Royal Navy - Dave Jenkins

Tờ báo Hồng Kông dẫn lời bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Nobuo Kishi trong cuộc họp online với đồng nhiệm Đức Annegret Kramp-Karrenbauer hôm 15/12 nói rằng Nhật Bản có tiềm năng phát triển hợp tác quốc phòng với Châu Âu. Về phía bà Kramp-Karrenbauer nhận định : "Những gì diễn ra tại Ấn Độ-Thái Bình Dương cũng ảnh hưởng đến Đức và Châu Âu. Chúng tôi mong muốn hợp tác trong việc bảo vệ trật tự dựa trên cơ sở luật pháp".

Ông Kishi hy vọng chiến hạm Đức sẽ tham gia tuần tra với Lực lượng phòng vệ Nhật Bản trên Biển Đông. Trong một động thái đột phá hiếm hoi về ngoại giao của Đức, vốn rất thận trọng từ sau Đệ nhị Thế chiến, bà Kramp-Karrenbauer tuyên bố : "Người ta không thể đặt gánh nặng lên vai người khác khi theo đuổi tham vọng kinh tế và an ninh". Bộ trưởng Quốc Phòng Đức ám chỉ việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông và liên tục xâm nhập Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông.

Sự kiện Bắc Kinh thẳng tay đàn áp Hồng Kông, thuộc địa cũ của Anh, cũng góp phần vào quyết định của Luân Đôn triển khai hàng không mẫu hạm đến Ấn Độ-Thái Bình Dương. Với việc các chiến đấu cơ F-35B của chiếc Queen Elizabeth sẽ được bảo dưỡng tại tỉnh Aichi, một số chuyên gia cho rằng mẫu hạm 65.000 tấn này sẽ lưu lại một thời gian ngắn tại Nhật. Một chuyên gia dự đoán Anh và Mỹ sẽ cùng tập trận tại Tây Thái Bình Dương, như hai đồng minh vẫn thường tiến hành ở Đại Tây Dương.

Trong một diễn biến liên quan, Nhật, Mỹ, Pháp sẽ tập trận đổ bộ trên một đảo hoang ở tây nam Nhật Bản vào tháng Năm.

Bên cạnh yếu tố Trung Quốc, các nhà phân tích cho rằng sở dĩ quan hệ giữa Nhật Bản và Châu Âu ngày càng chặt chẽ vì Tokyo mua nhiều vũ khí của các nước Châu Âu. Ngân sách quốc phòng của Nhật Bản tăng kỷ lục trong những năm gần đây trước những đe dọa về nguyên tử và hỏa tiễn của Trung Quốc, Bắc Triều Tiên.

Đài Loan tố cáo chiến đấu cơ Trung Quốc xâm nhập ở mức kỷ lục

Trong khi đó, bộ Quốc Phòng Đài Loan hôm tố cáo các phi cơ quân sự Trung Quốc đã xâm nhập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) đến 380 lần trong năm 2020. Đài Bắc nhấn mạnh đây là sự đe dọa cho an ninh khu vực, cho rằng Bắc Kinh "muốn thử nghiệm phản ứng quân sự, gây áp lực lên phòng không và thu hẹp không phận cần thiết cho các hoạt động của Đài Loan".

Viện Nghiên cứu Quốc phòng Đài Loan trong báo cáo thường niên đã cảnh báo "mối đe dọa quân sự của Trung Quốc đang ở mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng hỏa tiễn năm 1996 tại eo biển Đài Loan". Báo cáo nhận định các hành động này nhằm hăm dọa Đài Bắc không nên "vượt qua lằn ranh đỏ" trong quan hệ đang nồng ấm hơn với Hoa Kỳ.

Thụy My

*********************

Biển Đông : Trung Quốc đả kích dữ dội Anh Quốc

Minh Anh, RFI, 02/01/2021

Theo tờ South China Morning Post ngày 01/01/2021, bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã nổi dóa sau khi Anh thông báo lần đầu tiên sẽ điều hàng không mẫu hạm đến làm nhiệm vụ Thái Bình Dương, kể cả ở Biển Đông và NATO ra báo cáo chỉ trích chế độ độc đoán và những tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc.

haiquan2

Một đảo trong khu vực Trường Sa, Biển Đông mà Trung Quốc bồi đắp và cải tạo thành cơ sở quân sự. Ảnh tư liệu của không quân Philippines chụp ngày 21/04/2017. AP - Francis Malasig

Một phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc, khi trả lời các câu hỏi của phóng viên trong buổi họp báo ngày 31/12/2020, tuyên bố : "Trung Quốc tin rằng Biển Đông không nên trở thành một vùng biển cho sự cạnh tranh giữa các cường quốc, bị chi phối bởi các loại vũ khí và tầu chiến."

Đại diện bộ Quốc Phòng Trung Quốc còn khẳng định sẽ có những biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình khi cho rằng "nguồn gốc thật sự của việc quân sự hóa Biển Đông đến từ việc nhiều nước bên ngoài vùng điều tầu chiến đến một nơi xa nhà hàng ngàn cây số để phô trương lực lượng".

Nhật báo Hồng Kông nhắc lại cựu bộ trưởng Quốc Phòng Anh, hồi tháng 2/2019 từng tuyên bố chiếc hàng không mẫu hạm mới nhất, HMS Queen Elizabeth sẽ được triển khai tại vùng Thái Bình Dương, kể cả tại những vùng biển đang có tranh chấp.

Cũng trong buổi họp báo, phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc còn chỉ trích bản báo cáo gần đây của NATO kêu gọi 30 nước thành viên tập trung nhiều hơn vào những "thách thức an ninh" do Trung Quốc đặt ra. Ông tuyên bố "Trung Quốc phản đối mọi suy đoán vô căn cứ và những cáo buộc sai lệch" trong bản báo cáo, đồng thời khẳng định chính sách quốc phòng của Bắc Kinh chỉ mang tính chất phòng thủ.

Minh Anh

Published in Quốc tế

Nguy cơ chiến tranh rất cao vì Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được quyền dùng vũ khí tấn công.

haicanh0

Luật Hải cảnh của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, dự trù có hiệu lực năm 2021 cho phép Lực lượng Hải cảnh sử dụng vũ khí chống người và thuyền, tầu nước ngoài.

Luật Hải cảnh của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, dự trù có hiệu lực năm nay, 2021, sẽ công khai gây chiến với Mỹ về quyền kiểm soát an ninh ở hai vùng biển chiến lược và bận rộn nhất thế giới, đồng thời đe dọa trực tiếp chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Dự Luật dài 80 Điều, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc (Quốc hội) công bố ngày 04/11/2020 và đã qua thời gian lấy ý kiến nhân dân ngày 3/12/2020, cho phép Lực lượng Hải cảnh sử dụng vũ khí chống người và thuyền, tầu nước ngoài.

Dự Luật này dự trù sẽ được Quốc hội Trung Quốc chấp thuận trong tương lai gần.

Khi Luật này có hiệu lực, Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc có toàn quyền kiểm soát và thực thi luật pháp của Bắc Kinh về an ninh trên hai vùng biển đang có tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) ở biển Hoa Đông (1), và toàn vùng trong hình "Đường 9 đoạn" (Lưỡi bò), do Trung Quốc tự khoanh, chiếm 3/4 diện tích của khoảng 3.447.000 cây số vuông ở Biển Đông. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm trong hình vẽ Đường Lưỡi bò.

Vì vậy, nguy cơ bùng nổ chiến tranh ở Châu Á giữa Mỹ và Trung Quốc và ở Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam, nước đang kiểm soát 21 vị trí ở quần đảo Trường Sa, sẽ rất cao nếu Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc sử dụng các loại võ khí, như Dự Luật cho phép, để bảo vệ điều được gọi là "quyền lợi cốt lõi" của Bắc Kinh trên biển.

Bộ Ngoại giao và học giả Trung Quốc cho rằng Dự luật Hải cảnh là việc riêng của nước này nhằm bảo vệ an ninh vùng "nội thủy" của Trung Quốc và không liên quan đến các nước khác.

Nhưng vùng biển đảo bị Dự luật chi phối, lại hầu hết thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước đang có tranh chấp với Bắc Kinh, lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Ngoài ra còn có Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei cũng tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông.

Trung Quốc cũng muốn giành chủ quyền ở đảo Điếu Ngư đang do Nhật kiểm soát ở biển Hoa Đông.

Các học giả quốc tế và chuyên gia về an ninh hàng hải ở Biển Đông lo ngại Trung Quốc, tuy không đồng loạt thi hành những biện pháp mạnh để độc quyền kiểm soát Biển Đông vì muốn tránh bị lên án là thủ phạm gây bất ổn định trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương, nhưng sẽ quyết tâm thi hành Luật Hải cảnh để ép các nước nhỏ chấp nhận vai trò bá chủ Biển Đông của Bắc Kinh.

Hành động đe dọa an ninh ở Biển Đông của Bắc Kinh cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giao thương hàng hải có trọng tải hơn 500 triệu tấn hàng năm.

Trước tình hình này, Hoa Kỳ đã phối hợp với Ân Độ, Nhật Bản và Úc Đại Lợi lập thành một vòng đai để bảo vệ lưu thông trên biển, đồng thời ngăn chặn ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Bá quyền ngoan cố

Trước bối cảnh Luật Hải cảnh có hiệu lực, cũng cần nhắc lại rằng chủ trương bá quyền ở Biển Đông của Trung Quốc đã có từ thời Đặng Tiểu Bình (1977). Khi ấy, họ Đặng nói với các nước trong khu vực rằng rằng, "chủ quyền là của Trung Quốc, hãy gác tranh chấp để cùng khai thác". Từ đó đến thời Tập Cận Bình hiện nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn bảo "tất cả các đá, đảo và vùng nước xung quanh ở Nam Hải là của Trung Quốc từ thời cổ đại", nhưng Bắc Kinh lại không có bằng chứng lịch sử để chứng minh.

Từ lập trường bá quyền thực dân này, Trung Quốc đã sử dụng võ lực chiếm Quần đào Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974. Sau đó, tấn công và chiếm 7 đá, đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Từ đó đến nay, Trung Quốc đã tân tạo, mở rộng và biến 7 đảo thành các căn cứ quân sự phòng thủ kiên cố có bến càng, sân bay và đài Radar theo dõi hoạt động của thuyền, tầu đi lại trên Biển Đông.

Riêng tại đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa, Bắc Kinh đã xây dựng nhiều doanh trại cho lính đồn trú, trang bị các giàn hỏa tiễn và làm sân bay dài cho máy bay chiến đấu phản lực sử dụng.

Nay Trung Quốc lại muốn dùng Luật Hải cảnh để hợp thức hóa "quyền chủ quyền" của mình, trên vùng biển và đảo của nước khác hay đang trong tình trạng tranh chấp.

Chống Phán quyết 2016

Hành động này của Bắc Kinh đã công khai chống lại phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (Permanent Court of Arbitration -- PCA) tại The Hague, Hòa Lan, bác yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong vùng Đường 9 đoạn (Lưỡi bò).

Quyền chủ quyền trong vùng Đường 9 đoạn tự vẽ của Trung Quốc bị phủ nhận trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung Quốc, vì Bắc Kinh đã chèn ép để lấn chiếm vùng biển và đảo ở phía Tây Trường Sa mà Phi nhận có chủ quyền.

Sau 3 năm thụ án, Tòa đã phán quyết ngày 12/07/2016, về Quyền lịch sử và Đường 9 đoạn như sau :

"Tòa Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Tòa kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Tòa cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong Đường 9 đoạn".

(Người Lao Động, 13/07/2016)

Sau khi giáng cho Trung Quốc đòn thua đau về Đường 9 đoạn, Tòa tuyên bố về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc về các cấu trúc trên biển Đông : "Tòa tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không. Theo Công ước (về Luật biển Liên Hiệp Quốc năm 1982), các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các "đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa". Tòa kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Tòa cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Tòa cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Tòa kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó, Tòa kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất. Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Tòa nhận thấy Tòa có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có".

(Người Lao Động, 13/07/2016)

Âm mưu khống chế

Nhưng dù bị thất bại, Trung Quốc vẫn không thừa nhận phán quyết của Tòa. Ngược lại Bắc Kinh vẫn tiếp tục có hành động đe dọa các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam, với hy vọng khống chế toàn bộ Biển Đông bằng võ lực.

Những Điều quan trọng dưới đây của dự Luật Hải cảnh, theo Bản dịch của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông, đã chứng minh tham vọng của Bắc Kinh (2) :

Trước hết, Điều 2 quy định : "Cơ quan Hải cảnh là lực lượng vũ trang quan trọng trên biển và lực lượng thực thi pháp luật hành chính của Nhà nước".

Làm rõ hơn Lực lượng Hải cảnh còn có quyền kiểm soát trên không, Điều 3 viết : "Luật này được áp dụng cho cơ quan Hải cảnh khi triển khai công tác thực thi pháp luật, bảo vệ quyền lợi trên biển và trên không tại các vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc".

Nhưng chi tiết hơn thì Điều 11 đã minh thị : "Cơ quan Hải cảnh thực hiện các chức năng nhiệm vụ dưới đây theo pháp luật :

1. Phụ trách triển khai tuần tra, cảnh giới trên biển ; trực ban canh giữ các đảo, đá trọng yếu trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ; quản lý bảo vệ đường phân định ranh giới trên biển ; phòng ngừa, ngăn chặn, loại bỏ các hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, an ninh và quyền lợi biển quốc gia. 

2. Phụ trách bảo đảm an toàn cho các mục tiêu trọng yếu và các hoạt động lớn trên biển ; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ các đảo, đá trọng yếu cũng như bảo đảm an toàn cho cho các đảo nhân tạo, trang thiết bị và cấu trúc nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc.

3. Phụ trách công tác quản lý và bảo vệ trật tự trị an trên biển, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về quản lý trật tự trị an, xuất nhập cảnh trên biển ; ngăn chặn và xử lý hoạt động khủng bố trên biển, duy trì trật tự trị an trên biển.

4. Phụ trách tiến hành kiểm tra phương tiện vận tải, hàng hóa, vật phẩm có dấu hiệu buôn lậu trên biển ; kiểm tra xử lý các hành vi buôn lậu trên biển.

5. Phụ trách kiểm tra, giám sát trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình đối với việc sử dụng vùng biển, bảo vệ hải đảo và khai thác sử dụng hải đảo không có người ở, thăm dò khai thác tài nguyên khoáng sản biển, trải đặt và bảo vệ đường dây cáp, đường ống dưới đáy biển, điều tra đo đạc biển, đo vẽ cơ bản bản đồ biển, nghiên cứu khoa học biển có liên quan yếu tố nước ngoài ; kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm pháp luật…".

Kiểm soát tàu bè

Trong lĩnh vực "Bảo vệ an ninh trên Biển", Dự Luật này viết như sau :

Điều 13 :

Để duy trì trật tự trị an trên biển, cơ quan Hải cảnh có quyền tiến hành nhận dạng, xác minh theo pháp luật đối với tàu thuyền nước ngoài đi lại, neo đậu, tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ; làm rõ các thông tin cơ bản của tàu thuyền và tình hình cơ bản về hoạt động đi lại, tác nghiệp của tàu thuyền đó. Đối với các tàu thuyền nước ngoài có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan Hải cảnh có thể thực hiện việc theo dõi và giám sát.

Điều 14 :

Với các tàu thuyền ngoại quốc đi vào nội thuỷ, lãnh hải trái phép, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu tàu thuyền đó lập tức rời khỏi hoặc áp dụng các biện pháp như tạm giữ, xua đuổi, và cưỡng chế lai kéo.

Điều 15 :

Do nhu cầu chấp hành nhiệm vụ bảo vệ an toàn trên biển, nhân viên cơ quan Hải cảnh có thể tiến hành lên tàu, kiểm tra đối với các tàu thuyền đi lại, dừng đậu, tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.

…Đối với các tàu thuyền từ chối phối hợp kiểm tra, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế kiểm tra ; các tàu thuyền bỏ chạy khỏi hiện trường, cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để tiến hành ngăn chặn, truy đuổi…".

Gay gắt hơn, Điều 16 của Dự luật cho phép : "Cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp sau để xử lý các yêu cầu cấp thiết trong các sự kiện đột xuất phát sinh trên biển : 

1. Ra lệnh cho tàu thuyền dừng di chuyển, dừng tác nghiệp.

2. Ra lệnh cho tàu thuyền thay đổi hành trình hoặc đi tới các địa điểm được chỉ định.

3. Ra lệnh cho nhân viên trên tàu thuyền rời khỏi tàu thuyền hoặc hạn chế, cấm nhân viên lên, xuống tàu thuyền.

4. Ra lệnh cho tàu thuyền dỡ hàng hoá hoặc hạn chế, cấm tàu thuyền dỡ hàng hóa.

Xây dựng và võ lực

Dự luật này không minh thị quy định về hoạt động thiết kế và đặt các giàn khoan dầu hay tìm kiếm khí đốt trên biển của các nước trong khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhưng ai đọc cũng hiểu Trung Quốc đã ngăn cấm tuyệt đối, khi chưa có phép của họ, như ghi trong Điều 17 nguyên văn như sau :

"Đối với các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài khi xây dựng công trình kiến trúc, cấu trúc hoặc lắp đặt các loại thiết bị cố định hoặc thả nổi trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc mà chưa được các cơ quan chủ quản Trung Quốc phê chuẩn, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu dừng các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn ; đối với các tổ chức, cá nhân từ chối dừng hoạt động vi phạm hoặc từ chối điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn, khi cần thiết, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế dỡ bỏ theo pháp luật".

Đới với hoạt động của các tầu thuyền quân sự và của chính phủ nước ngoài, Điều 18 của Dự luật ấn định : "Đối với tàu thuyền quân sự nước ngoài và tàu thuyền chính phủ nước ngoài hoạt động phi thương mại trong vùng biển thuộc quyền tài phán Trung Quốc mà có hành vi vi phạm quy định pháp luật Trung Quốc, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp cảnh giới hoặc kiểm soát cần thiết để ngăn chặn, ra lệnh cho tàu thuyền đó lập tức rời khỏi vùng biển liên quan ; đối với các tàu thuyền kiên quyết không rời đi, gây ra nguy hại hoặc uy hiếp nghiêm trọng, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp như xua đuổi hoặc cưỡng chế lai kéo". 

Nếu chỉ có bấy nhiêu thì Dự luật Hải cảnh chỉ hợp thức hóa những hành động bấy lâu nay của Trung Quốc ở Biển Đông.

Vũ khí và vũ khí

Nhưng điểm quan trọng và nguy hiểm nhất của Dự luật Hải cảnh mới là nhà nước Trung Quốc đã cho phép Lực lượng Hải cảnh được sử dụng mọi loại vũ khí khi cần thiết để bảo vệ an ninh và quyền lợi trên biển.

Nguyên văn của Điều 19 viết thế này :"Khi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trên biển bị các tổ chức, cá nhân nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp, hoặc đang đối mặt với nguy hiểm cấp bách bị xâm phạm bất hợp pháp, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết, bao gồm sử dụng vũ khí để ngăn chặn việc xâm hại, loại trừ nguy hiểm theo các quy định của Luật này hoặc các bộ luật, quy định khác liên quan".

Khi cho phép dùng vũ khí để dành chủ quyền trên biển, Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế và vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982. Chiến tranh có thể xẩy ra vì Bắc Kinh đã sử dụng võ lực để cưỡng chế quyền chủ quyền và chủ quyền của nước khác, hay đang có tranh chấp với Trung Quốc, ở Biển Đông và biển Hoa Đông.

Ngoài Điều 19, việc sử dụng vũ khí theo nhu cầu trên biển còn được cho phép trong các điều ghi sau :

Điều 43 : "Khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây nếu cảnh cáo không có tác dụng, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng vũ khí cầm tay khi : 

1. Có chứng cứ cho thấy tàu thuyền chở nghi phạm hoặc vận chuyển trái phép vũ khí, đạn dược, tài liệu mật nhà nước, ma túy và những vật phẩm trái phép khác, mà cố tình bỏ trốn sau khi hải cảnh ra lệnh dừng lại.

2. Tàu thuyền nước ngoài sản xuất, hoạt động trái phép trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh của hải cảnh về việc dừng tàu, lên kiểm tra, mặc dù Hải cảnh đã sử dụng biện pháp khác nhưng không đủ để ngăn chặn hành vi trái phép. 

Điều 44 mở rộng hơn, khi viết rằng :"Ngoài vũ khí cầm tay, hải cảnh có thể sử dụng tàu thuyền hoặc vũ khí trang bị trên tàu khi xảy ra một trong các trường hợp sau :

 1. Thực hiện nhiệm vụ chống khủng bố trên biển.

 2. Xử lý vụ việc bạo lực nghiêm trọng trên biển.

 3. Phương tiện tàu thuyền, thiết bị bay của hải cảnh bị tấn công bằng vũ khí hoặc hình thức nguy hiểm khác". 

Điều 45 thả lỏng hơn : "Khi sử dụng vũ khí theo pháp luật, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng lập tức trong trường hợp không kịp cảnh báo hoặc sau khi cảnh cáo có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn".

Điều 46 căn dặn : "Nhân viên hải cảnh căn cứ vào mức độ cấp bách, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và hành vi của người phạm tội, phán đoán hợp lý về mức độ cần thiết của việc dụng vũ khí, tránh và hạn chế tối đa việc gây tổn thất về người và tài sản ; khi sử dụng vũ khí với tàu thuyền, cần tránh tối đa việc bắn vào vị trí dưới đường nước (thuỷ tuyến)".

Quyền tài phán ở đâu ?

Vậy điều mà Trung Quốc tự cho thuộc "quyền tài phán" (3) của mình trên biển, nhưng thực tế phần lớn thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác, bao gồm những vùng nào ?

Việc này Dự luật quy định trong Điều 74, theo đó : "Vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc bao gồm : lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cũng như các vùng biển khác thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Nội thủy là vùng nước bên trong đường cơ sở lãnh hải về phía đất liền của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, trong đó bao gồm vịnh và khu vực cửa sông".

Việt Nam phản ứng yếu ớt

Trước tham vọng bá quyền và thực dân rõ như ban ngày của Trung Quốc như vậy, phía Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nói gì ?

Hãy nghe người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao phản ứng tại cuộc họp báo ngày 05/11/2020, theo tường thuật của báo Người Lao Động :

"Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 5/11, phóng viên nêu câu hỏi đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về việc hôm qua Trung Quốc vừa xem xét lại dự luật cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ khí trong vùng lãnh hải của Trung Quốc.

Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Dương Hoài Nam nhấn mạnh như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam luôn ủng hộ giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982".

Câu nói của Dương Hoài Nam chỉ lập lại điều phía Việt Nam đã nói đi nói lại nhiều lần, trong nhiều năm mỗi khi vấn đề chủ quyền ở Biển Đông của Việt Nam bị Trung Quốc vi phạm. Ngoài ra Việt Nam cộng sản đã kiềm chế đến mức thấp nhất của ngôn ngữ ngoại giao đề tránh gây bất bình với Bắc Kinh, nói chi đến hành động mạnh phản ảnh ý chí và bản lĩnh của một nước độc lập có chủ quyền.

Đó là lý do tại sao Lãnh đạo Việt Nam đã tránh tối đa chỉ trích Trung Quốc về Luật Hải cảnh, dù biết đó là cái thòng lọng đang chờ treo cổ Việt Nam ở Biển Đông.

Phạm Trần

(06/01/2021)

-------------------

Chú thích :

(1) Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) là một nhóm gồm các đảo không người ở do Nhật Bản kiểm soát ở biển Hoa Đông. Các đảo nằm về phía đông của Trung Quốc đại lục, về phía đông bắc của Đài Loan, về phía tây của đảo Okinawa, và ở phía bắc cực tây nam của quần đảo Ryukyu (đảo Yonaguni).

Từ khi Hoa Kỳ trao quyền quản lý các đảo cho Nhật Bản năm 1971, quyền sở hữu các đảo bị tranh chấp giữa Nhật Bản với Cộng hòa nhân dân Trung Quốc và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã phát hiện và kiểm soát các đảo từ thế kỷ 14. Nhật Bản đã kiểm soát các đảo từ năm 1895 cho đến khi đầu hàng kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ quản lý quần đảo như là một phần của Chính quyền dân sự Hoa Kỳ tại quần đảo Ryukyu từ năm 1945 đến năm 1972, khi chúng được trao cho Nhật Bản theo Hiệp ước trao trả Okinawa giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (theo Bách khoa Toàn thư mở).

(2) Dự án Đại Sự Ký Biển Đông : Do một số Trí thức trong và ngoài nước thành lập từ năm 2015 nhằm nghiên cứu về Tình hình Biển Đông.

Đứng đầu bởi Phó Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao, chuyên ngành luật quốc tế tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Học viện ngoại giao Việt Nam.

(3) Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình ; nghiên cứu khoa học về biển ; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó (theo Tài liệu Biên giới lãnh thổ của Việt Nam).

Published in Diễn đàn

Tàu chiến Mỹ qua eo biển Đài Loan, Bắc Kinh lên án Washington "khiêu khích"

Trọng Thành, RFI, 31/12/2020

Đúng vào ngày cuối năm 2020, hôm 31/12/2020, hai tàu chiến Mỹ đã đi qua eo biển Đài Loan. Bộ Quốc Phòng Trung Quốc ngay lập tức lên án hành động "khiêu khích".

biendong4

Khu trục hạm USS John S. McCain tuần tra ở eo biển Đài Loan ngày 30/12/2020.AP - Mass Communication Specialist 2nd Class Markus Castaneda

Theo Reuters, đây là lần thứ hai tàu chiến Mỹ đi qua eo biển Đài Loan trong tháng 12/2020 và là lần thứ 13 tàu chiến Mỹ đi qua vùng biển nhạy cảm này trong năm 2020. Hải quân Hoa Kỳ khẳng định đây là một cuộc di chuyển bình thường của chiến hạm Mỹ, hoàn toàn tuân thủ luật pháp quốc tế, đồng thời nhấn mạnh là hoạt động này nhằm khẳng định cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ một khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương "tự do và rộng mở".

Nhưng bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã lên án hành động "khiêu khích", và cho biết đã cử nhiều chiến hạm và một phi cơ theo sát các tàu chiến Mỹ. Thông báo của bộ Quốc Phòng Trung Quốc khẳng định hành động này của phía Mỹ là một đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và ổn định của khu vực, và gửi một tín hiệu xấu đến phe đòi độc lập cho Đài Loan.

Đài Loan là một nhà nước độc lập trên thực tế, nhưng Bắc Kinh coi Đài Loan là một hòn đảo phản nghịch, và sẵn sàng dùng vũ lực chiếm lại. Trong thời gian gần đây, chính quyền Trung Quốc liên tục tỏ thái độ bực bội trước việc Hoa Kỳ siết chặt quan hệ với Đài Bắc, đặc biệt với việc bán nhiều vũ khí tối tân cho Đài Loan, cũng như tổ chức nhiều chuyến tuần tra bảo vệ tự do hàng hải như trên.

Vẫn liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung trong lĩnh vực quân sự, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post hôm qua, 30/12, dẫn một nguồn tin từ quân đội Trung Quốc, khẳng định các chuyến ghé thăm của tàu chiến Mỹ tại đặc khu Hồng Kông là một cái cớ để Hoa Kỳ theo dõi các hoạt động của hải quân Trung Quốc. 

Trọng Thành

******************

Trung Quốc lên kế hoạch tập trận rầm rộ ngoài khơi bờ biển phía nam

Mai Vân, RFI tiếng Việt, 30/12/2020

Theo tiết lộ của nhật báo Hồng Kông South China Morning Post, kể từ hôm nay, 30/12/2020, Hải quân Trung Quốc bắt đầu tổ chức đồng thời ba cuộc tập trận kéo dài 10 ngày, ở ngoài khơi bờ biển phía nam Trung Quốc. Tàu sân bay mới của Trung Quốc là chiếc Sơn Đông và tàu tấn công đổ bộ Type 075 tham gia những cuộc tập trận này.

biendong1

Chiến đấu cơ Trung Quốc trên tàu sân bay Sơn Đông - Ảnh minh họa

Trong ba thông báo riêng biệt được đưa ra vào tối hôm qua, các cơ quan an toàn hàng hải Trung Quốc cho biết là việc tiếp cận các vùng biển xung quanh tỉnh đảo Hải Nam sẽ bị hạn chế trong suốt thời gian thao diễn quân sự này.

Một nguồn tin từ Quân đội Trung Quốc đã giải thích với tờ South China Morning Post là các cuộc tập trận đã được lên kế hoạch để bù đắp chậm trễ trong chương trình tập huấn do đại dịch Covid-19.

Theo nguồn tin này, "tàu sân bay Sơn Đông và tàu đổ bộ tấn công Type 075 thứ hai của Trung Quốc sẽ tham gia các cuộc tập trận" và đây cũng là dịp để thử nghiệm các thiết bị mới. Và các cuộc tập trận được sắp xếp theo kế hoạch huấn luyện hàng năm của Quân đội do chính chủ tịch Tập Cận Bình ký vào tháng Giêng.

Tàu sân bay Sơn Đông, tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc chế tạo, đã được đưa vào lực lượng Hải quân vào năm ngoái và dự kiến ​​s đạt kh năng sn sàng chiến đấu cơ bn, sm nht là vào đầu năm 2021.

Chiếc tàu này đi qua eo biển Đài Loan để xuống Biển Đông vào hôm 20/12, một ngày sau khu trục hạm Mỹ USS Mustin, cũng xuống Biển Đông để thể hiện "cam kết của Hoa Kỳ đối với một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở", theo Hạm Đội 7 Hoa Kỳ.

Còn chiếc tàu chở trực thăng đổ bộ Type 075 thứ hai của Trung Quốc đã rời xưởng đóng tàu Thượng Hải vào ngày 22 tháng 12, theo thông báo của Cục An Toàn Hàng Hải Trung Quốc.

Các cuộc tập trận diễn ra trong thời gian máy bay Mỹ tăng cường tuần tra trên Biển Đông, dùng đến loại phi cơ giám sát không người lái MQ-4C và cả loại oanh tạc cơ hiện đại B-1B. Theo trang Aircraft Spots, máy bay Mỹ đã được nhìn thấy gần Hải Nam cũng như các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài các hoạt động không quân, Hải quân Hoa Kỳ tuần trước đã cử một tàu khu trục USS John S. McCain đến gần quần đảo Trường Sa để "thách thức các hạn chế đối với quyền quá cảnh vô hại do Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan áp đặt". Động thái này đã bị Bắc Kinh chỉ trích gay gắt.

Mai Vân

**********************

Bắc Triều Tiên có thể lại thử tên lửa xuyên lục địa vào đầu năm 2021

Thu Hằng, RFI, 30/12/2020

Bình Nhưỡng có thể bắn thử một tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) vào những tháng đầu năm 2021 nếu các cuộc đàm phán hạt nhân giữa Bắc Triều Tiên và chính quyền mới của Mỹ vẫn bị bế tắc. Đây là nhận định ngày 30/12/020 của một nhóm tư vấn và được hãng thông tấn Yonhap trích dẫn.

biendong3

Bắc Triều Tiên thử tên lửa liên lục địa mới được cho là thực hiện hôm 3/10/2019. Ảnh do hãng thông tấn KCNA phổ biến. KCNA via KNS / AFP

Trong bản dự báo các vấn đề quốc tế năm 2021, Viện nghiên cứu chính trị Asan, một tổ chức tư vấn Hàn Quốc, đánh giá tổng thống tân cử Mỹ Joe Biden sẽ theo đuổi chiến lược "ngoại giao truyền thống" trong hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên. Có nghĩa là trong nhiệm kỳ tổng thống sắp tới của Mỹ, sẽ có nhiều cuộc họp ở cấp nhóm công tác, trái với "ngoại giao thượng đỉnh" được tổng thống Trump tiến hành thông qua hai cuộc họp với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un nhưng không có kết quả cụ thể.

Chính vì vậy, các cuộc đàm phán về hạt nhân với Bắc Triều Tiên có thể sẽ tiến với nhịp độ chậm hơn. Vì thế, Viện Asan cho rằng Bình Nhưỡng "có thể sẽ tính đến việc sử dụng lá bài bắn tên lửa ICBM để thoát khỏi ngõ cụt, được cho là có thể còn trầm trọng hơn so với dưới thời của chính quyền Trump".

Bình Nhưỡng cũng đang chuẩn bị cho một sự kiện quan trọng khác : Đại hội của đảng Lao Động Triều Tiên, dự kiến diễn ra vào đầu tháng 01/2021. Kế hoạch phát triển kinh tế sẽ được công bố vào dịp này.

Theo hãng thông tấn KCNA, ngày 29/12/2020, lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un đã chủ trì một cuộc họp của bộ Chính Trị để "xem xét và xác nhận tư cách của các đại biểu", cũng như "thành phần của đoàn chủ tịch và ban bí thư của Đại hội Đảng lần thứ 8".

Thu Hằng

Published in Châu Á

Khoảng trống quyền lực ở Washington đe dọa tới Biển Đông

RFA, 23/12/2020

Liệu lịch sử có lặp lại ?

Vào thời điểm Tổng thống đắc cử Joe Biden có bài phát biểu mừng chiến thắng tại Delaware, hai máy bay ném bom chiến lược B-1B đã cất cánh từ Căn cứ Không quân Andersen tại đảo Guam để thực hiện lộ trình tới Biển Đông. 

bd1

Một máy bay ném bom chiến lược B-1B bay qua Seongnam ở tỉnh Gyeonggi của Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2017. (Ảnh tệp Asahi Shimbun)

Theo một quan chức thuộc lực lượng Mỹ đồn trú tại Nhật Bản, 2 chiếc B-1B đã bay qua Kênh Bashi giữa đảo Y’ami của Philippines và đảo Lan Tự (Orchid), Đài Loan, trước khi bay dọc Biển Đông.

Bên cạnh đó, một quan chức Nhà Trắng trao đổi trong một cuộc họp báo trực tuyến : "Mỹ tiến hành chiến dịch này nhằm cảnh báo Trung Quốc tránh đưa ra các hành vi khiêu khích nhằm vào Mỹ và các đồng minh của Washington trong giai đoạn chuyển giao chính trị hiện nay". 

Nhiều người lo ngại về khoảng trống chính trị kéo dài tại Mỹ sau khi Tổng thống Donald Trump có những động thái thách thức kết quả bầu cử, điều mà giới chức cho rằng có thể ảnh hưởng đến cán cân quyền lực giữa lực lượng vũ trang mà Mỹ và Trung Quốc triển khai trong khu vực. Giới chức Mỹ có lý do để bất an, nhất là bởi chỉ 4 tháng sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hồi năm 2000, một máy bay Trung Quốc đã va chạm với máy bay tuần tra Mỹ tại Biển Đông. Thời điểm đó, nước Mỹ cũng đang quay cuồng với các hỗn loạn hậu bỏ phiếu, sự kiện chỉ kết thúc sau đó 36 ngày với việc ứng cử viên Al Gore thừa nhận thất bại trước George W. Bush dù thắng phiếu phổ thông. Lần này, cả Washington và Lầu Năm Góc đều đang đặc biệt lo ngại về những bất ổn chính trị do phe của Tổng thống Trump từ chối thừa nhận thất bại trong bối cảnh căng thẳng quân sự tại các khu vực lân cận Trung Quốc ngày càng leo thang.

Nguy cơ đụng độ quân sự

Tháng 7 vừa qua, quân đội Mỹ đã triển khai 3 đội tàu sân bay tới Biển Đông và Biển Hoa Đông, cũng như tiến hành các cuộc tập trận tại Biển Đông và xung quanh Đài Loan. Vào giữa những năm 1990, khi khủng hoảng bùng lên tại Eo biển Đài Loan, Mỹ cũng chỉ cử 2 tàu sân bay tới khu vực tại thời điểm mối quan hệ song phương với Trung Quốc căng thẳng chưa từng có từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1979.

Về phần mình, Trung Quốc cũng đã tiến hành các cuộc tập trận tại những vùng biển lân cận. Ngày 26/8, Trung Quốc đã phóng hai tên lửa đạn đạo DF-21D – sát thủ diệt tàu sân bay, và hai tên lửa đạn đạo DF-26, loại vũ khí có khả năng nhắm tới các mục tiêu tại đảo Guam. Quyết định phóng tên lửa đạn đạo tối tân của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp đã đẩy căng thẳng lên mức chưa từng có.

Katsutoshi Kawano, cựu Tham mưu Trưởng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, bình luận : "Căng thẳng quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đang ở mức nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc… Va chạm quân sự bất ngờ là mối nguy có thật". 

Mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa chính quyền Trump với Đài Loan cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các căng thẳng mới nhất giữa Washington và Bắc Kinh, dù câu chuyện phía sau phức tạp hơn.

Dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã thúc đẩy chương trình xây dựng lực lượng quân đội ngày càng tân tiến. Một trong những điểm nổi bật của kế hoạch này là việc thành lập Lực lượng Hỗ trợ Chiến lược với khả năng kiểm soát không gian mạng và không gian vũ trụ ; cũng như Lực lượng Tên lửa, chịu trách nhiệm chung về hoạt động phóng tên lửa đạn đạo. Một quan chức quân đội Mỹ bình luận : "Khả năng tác chiến điện tử và chống tên lửa của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã vượt qua Mỹ". Nhận thức được diễn biến này, Bộ Quốc phòng Mỹ đã nêu rõ Trung Quốc là "đối thủ cạnh tranh chiến lược" trong báo cáo Chiến lược Quốc phòng (NDS) công bố hồi tháng 1/2018. Elbridge Colby, quan chức chịu trách nhiệm chỉ đạo nội dung văn bản này khi đảm đương cương vị Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về chiến lược, đã cho biết : "Trung Quốc và PLA hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, chủ yếu là với các cấu trúc liên minh và quan hệ đối tác mà Mỹ xây dựng… Chúng tôi xây dựng NDS để ngăn Trung Quốc trở thành cường quốc bá chủ Châu Á".

Giới tướng lĩnh quân đội, Quốc hội và nhiều bộ khác trong chính phủ Mỹ cùng có chung quan điểm này và khó có khả năng mọi chuyện sẽ thay đổi ngay cả khi chính quyền có sự chuyển giao. Và Trung Quốc hiểu rõ điều đó. Giáo sư John Mearsheimer, chuyên nghiên cứu các vấn đề chính trị quốc tế tại Đại học Chicago, chia sẻ quan điểm mà ông rút ra từ sau cuộc gặp với một số quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Trung Quốc trong chuyến công du tháng 10/2019 : "Hầu hết những người tôi nói chuyện cùng đều tin rằng việc Trump thắng hay thua trong cuộc bầu cử năm 2020 đều không ảnh hưởng đến mối quan hệ Mỹ-Trung... Người Trung Quốc tin rằng Mỹ có thành kiến và luôn muốn nhằm vào Trung Quốc, và sẽ không có gì thay đổi điều đó". 

Chính quyền Trump đã khiến mối quan hệ với các đồng minh của Mỹ đặc biệt căng thẳng bằng cách gia tăng áp lực đòi hỏi nước sở tại phải tăng chi phí cho lực lượng Mỹ đồn trú và một trong những mục tiêu của chính quyền Biden sắp tới là đảo ngược xu thế này. Một quan chức cấp cao trong đảng Dân chủ, người tham dự cuộc họp trực tuyến mà Biden và các quan chức thân cận tiến hành hôm 31/10, vài ngày trước cuộc bầu cử, cho biết : "Biden liên tục nhấn mạnh việc tái thiết quan hệ với các đồng minh". Một động thái phản ánh lập trường này là việc Biden từng xác nhận lại với Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide trong cuộc điện đàm ngày 12/11 rằng quần đảo Senkaku đang tranh chấp ở Biển Hoa Đông là thuộc phạm vi Điều 5 của Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ, điều khoản quy định Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản trong trường hợp đồng minh bị tấn công vũ trang. Những khẳng định của Biden được cho là trái ngược hẳn với lập trường mà ông từng tuyên bố vào tháng 12/2013 khi đến thăm Nhật Bản với tư cách là phó tổng thống trong chính quyền Obama. Khi đó, ông không kêu gọi Trung Quốc thu hồi quyết định thiết lập Vùng nhận dạng phòng không ở Biển Hoa Đông, và cũng không nói rằng quần đảo Senkaku thuộc phạm vi của Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật.

bd2

Tổng thống tân cử Joe Biden phát biểu ở Delaware hôm 22/12/2020. AFP

Những nhận thức của chính quyền Mỹ và quan điểm cá nhân của Biden về Trung Quốc đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, vẫn chưa có những yếu tố rõ ràng xác định chính sách an ninh mà chính quyền Biden sẽ triển khai trong thời gian tới. Tổng thống đắc cử đã liệt kê các vấn đề ưu tiên đối với chính quyền ngay khi nhậm chức là đưa nước Mỹ vượt qua dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (COVID-19), tái thiết nền kinh tế và hàn gắn những chia rẽ về chủng tộc và xã hội từng trở nên trầm trọng dưới thời Donald Trump.

Nước Mỹ đang đối mặt với rất nhiều thách thức, buộc Biden trước mắt phải đặc biệt tập trung vào các vấn đề đối nội. Những bình luận đầy tích cực của Biden về việc ưu tiên các cam kết đối với liên minh không đồng nghĩa Washington sẽ quay trở lại chính sách an ninh mà Tổng thống Barack Obama và các chính quyền trước đó theo đuổi. Các nguồn tin từ đảng Dân chủ cho biết trước một Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ trên phương diện quân sự, Biden rất có thể sẽ kêu gọi các đồng minh của Mỹ mạnh dạn để đóng một vai trò lớn hơn so với những gì từng diễn ra dưới thời chính quyền Trump.

Việt Nam nên làm gì ?

Việt Nam đang vừa có những cơ hội nhưng cũng đối mặt với những thách thức không nhỏ. Một mặt, cạnh tranh Mỹ - Trung đã mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, đặc biệt là những lợi ích chiến lược và kinh tế. Mặt khác, Việt Nam đang phải chịu sức ép giữa hai cường quốc này.

Đối với Trung Quốc, Việt Nam vẫn luôn là quốc gia "láng giềng" của Trung Quốc. Điều này có nghĩa những đe doạ, thao túng kinh tế và chính trường Việt Nam của Trung Quốc luôn hiện diện kề bên. Chính Trung Quốc là vật cản trong sự phát triển của mối quan hệ Việt - Mỹ thời gian gần đây. Ngoài ra, Trung Quốc luôn đe dọa Việt Nam để có thể khống chế Việt Nam, hòng khiến Việt Nam khuất phục trước tham vọng "độc chiếm biển Đông" của Trung Quốc.

Đối với Mỹ, Việt Nam cũng có những sức ép không hề nhỏ. Mới đây, Bộ Tài chính Mỹ đã gắn mác Việt Nam "thao túng tiền tệ". Điều này có nhiều ẩn ý. Mặc dù một số chuyên gia Mỹ cho rằng Việt Nam không thực sự "thao túng tiền tệ" nhưng chính quyền Mỹ vẫn đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia bị gắn mác này. Quyết định này của chính quyền Mỹ diễn ra sau hai chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ và tiếp đó của Cố vấn an ninh Mỹ. Các nhà nghiên cứu chính trị cho rằng, việc đưa Việt Nam vào danh sách bị gắn mác "thao túng tiền tệ" là một quyết định chính trị của chính quyền Trump vào thời kỳ nhiệm kỳ sắp chấm dứt.

Trung Quốc rất có thể sẽ lợi dụng "Khoảng trống quyền lực" trong nền chính trị Mỹ để tranh thủ ra tay tại biển Đông. Và Việt Nam đang bận bịu với Đại hội Đảng lần thứ XIII - vốn sắp xếp lại các vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, điều này sẽ dẫn tới khả năng Việt Nam lơ là với biển Đông.

Chính vì vậy, Việt Nam đang đứng trước những vận hội quan trọng. Một mặt, cần giữ gìn và phát triển quan hệ với Mỹ. Mặt khác, giữ cho quan hệ với Trung Quốc không xấu đi, để bảo đảm cho môi trường an ninh được yên ổn. Tuy nhiên, điều này thực sự không dễ dàng.

Nguồn : RFA, 23/12/2020

Tham khảo :

- Kenji Minemura, "Flareup feared in South China Sea due to power vacuum in U.S.", Asahi Shimbum, 21/12/2020

**************************

Các ưu tiên chung thắt chặt quan hệ quốc phòng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam

Tom Abke, IPDForum, 22/12/2020

Tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở đang thúc đẩy mối quan hệ hợp tác quốc phòng sâu rộng hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong các lĩnh vực từ an ninh hàng hải đến các hoạt động gìn giữ hòa bình.

1229723252

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, bên phải, chào đón Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien tại Hà Nội vào tháng 11 năm 2020.

Hai quốc gia này đã tổ chức một số cuộc họp cấp cao về chính sách quốc phòng trong những tháng gần đây, bao gồm chuyến thăm của Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien đến Hà Nội từ ngày 20-22 tháng 11 năm 2020.

Trong cuộc gặp với ông O’Brien, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã ca ngợi sự hợp tác giữa hai quốc gia, bao gồm việc duy trì các khuôn khổ cho đối thoại song phương, tăng cường hợp tác tìm kiếm, cứu hộ và viện trợ nhân đạo cũng như cứu trợ thiên tai, theo thông tin của một thông cáo báo chí từ bộ của ông Minh. Ông O’Brien và ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, cũng đã thảo luận về các nỗ lực chung để chống tội phạm xuyên quốc gia và mở rộng sự hợp tác trong một loạt các vấn đề an ninh. 

Nhà phân tích quốc phòng Blake Herzinger tại Singapore nói với DIỄN ĐÀN rằng việc các tàu chở máy bay của Hoa Kỳ ghé thăm cảng của Việt Nam vào tháng 3 năm 2018 và tháng 3 năm 2020 cũng chứng minh sức mạnh của các mối quan hệ quốc phòng.

Ông này nói : "Đối với Việt Nam, đó là một dấu hiệu rõ ràng về việc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ trong khi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã xấu đi". "Thực tế là Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành chuyến thăm này vào thời điểm bùng phát đại dịch cũng thực sự làm rõ tầm quan trọng của sự kiện đó đối với Hoa Kỳ. "

Ngoài các chuyến thăm cảng, Hoa Kỳ cũng đã chuyển cho Việt Nam một tàu tuần duyên đã hết nhiệm vụ của lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ và đang chuẩn bị gửi một chiếc nữa. "Việc chuyển giao như vậy thường cho thấy một mối quan hệ có xu hướng tích cực", ông Herzinger nói "vì sự sắp xếp này sẽ đòi hỏi sự tương tác liên tục từ phía phòng thủ để hoàn thành công tác bảo trì và bất kỳ việc huấn luyện đi kèm nào có thể là cần thiết".

Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, từ năm 2015 đến năm 2019, Washington đã đồng ý xuất khẩu các thiết bị quốc phòng trị giá 52,86 triệu đô la Mỹ sang Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu bao gồm la-de, thiết bị hình ảnh và thiết bị dẫn đường, thiết bị điện tử trong quân sự và động cơ tuabin khí. Thương mại giữa hai quốc gia cũng đã tăng vọt lên 76 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019 từ 450 triệu đô la Mỹ vào năm 1994, theo số liệu từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Ông Dương Hoài Nam, Phó phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã mô tả Hoa Kỳ là một trong những "đối tác quan trọng nhất" của quốc gia mình, theo tin của Thông tấn xã Việt Nam, một cơ quan thuộc sở hữu nhà nước, vào tháng 11 năm 2020.

Ông nói : "Việt Nam hoan nghênh vai trò và những sáng kiến của Hoa Kỳ để giúp duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực, bao gồm hỗ trợ vai trò trung tâm của [Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á] hài hòa với các cơ chế hợp tác khu vực và tuân thủ luật pháp quốc tế".

Tom Abke là một cộng tác viên IPDefense Forum đưa tin từ Singapore.

Published in Diễn đàn

Biển Đông (South China Sea) là nguồn nước quan trọng nhất đối với nền kinh tế thế giới - ít nhất một phần ba thương mại toàn cầu luân chuyển qua nó. Đây cũng là vùng biển nguy hiểm nhất trên thế giới, nơi quân đội Mỹ và Trung Quốc có thể dễ dàng va chạm nhất.

biendong1

Biển Đông vùng biển quan trọng nhất đối với nền kinh tế thế giới - ít nhất một phần ba thương mại toàn cầu luân chuyển qua nó. Ảnh © Nik Wheeler / Corbis / Getty

Trong vài năm qua các tàu chiến của Trung Quốc và Mỹ gần như không ngăn chặn được một số sự cố ở đó và quân đội Trung Quốc đã cảnh báo về các máy bay phản lực của Mỹ bay phía trên nó. Vào tháng 7, hai nước đã tiến hành các cuộc tập trận hải quân cạnh tranh trong vùng biển đó. Với cái được gọi là "sự cạnh tranh chiến lược" ngày càng tăng giữa Washington và Bắc Kinh, bóng ma về một sự cố có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự lớn hơn khiến các nhà chiến lược ở cả hai thủ đô bận tâm.

Những căng thẳng này xuất phát từ sự bất đồng giữa hai nước về việc liệu Biển Đông có phải là lãnh thổ của Trung Quốc hay không, một cuộc tranh cãi nói lên tranh chấp sâu sắc hơn về chủ quyền biển, cách quyết định chủ quyền và các quyền cơ bản đi lại trong các vùng biển đó.

Vì vậy, thế đối đầu trên Biển Đông có nhiều mức độ phức tạp. Nó không chỉ đơn giản là về vùng lãnh hải, hay một ranh giới duy nhất. Như Tommy Koh, một nhà ngoại giao cấp cao của Singapore, người dẫn đầu các cuộc đàm phán để thành lập Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, đã nói với tôi, "Biển Đông là về luật pháp, quyền lực và tài nguyên, và về lịch sử".

Lịch sử đó đặc biệt bị ám ảnh bởi bốn bóng ma từ những thế kỷ trước, bóng của họ đổ xuống Biển Đông, di sản của họ tạo nên sự cạnh tranh ngày càng sâu sắc trong khu vực ; những nhân vật lịch sử mà cuộc đời và công việc của họ đã định hình những tranh chấp về chủ quyền và tự do hàng hải, sự cạnh tranh của hải quân, cũng như chiến tranh và những cái giá phải trả.

Trong quá trình viết cuốn sách Bản đồ mới của mình, tôi bắt đầu nghĩ về những người này. Khi tôi nói về những thách thức của toàn cầu hóa và thương mại quốc tế tại Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval War College) ở Newport, Rhode Island, các chỉ huy của hầu như tất cả các lực lượng hải quân trên thế giới đều có mặt ở đó, tất cả đều rạng rỡ trong bộ quân phục đô đốc của họ. Trong số đó có Đô đốc Wu Shengli, người đứng đầu hải quân Trung Quốc vào thời điểm đó và là người đang thúc đẩy sự mở rộng của nó để cạnh tranh với Hải quân Mỹ. Lúc đó Biển Đông đã trở thành tâm điểm tranh cãi. Wu ngồi ở giữa khán giả, ở hàng thứ năm hoặc thứ sáu, ánh mắt ông ấy không dao động suốt buổi.

Đó là khi tôi bắt đầu nhìn thấy những bóng ma : đó là người đi biển vĩ đại nhất Trung Quốc, tiền thân của Vũ ; của luật sư người Hà Lan, người đã viết bản tóm tắt pháp lý hiện làm cơ sở cho lập luận của Mỹ chống lại các tuyên bố của Trung Quốc ; về vị đô đốc Mỹ có triết lý đã tạo nền tảng cho cả Hải quân Hoa Kỳ và chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Trung Quốc ; và của nhà văn người Anh, người cho rằng chi phí của cuộc xung đột là quá cao, ngay cả đối với những người sẽ chiến thắng.

Với Trung Quốc ngày nay, các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông tập trung xung quanh cái được gọi là "đường chín đoạn" ("nine-dash line") – tức các gạch ngang trên bản đồ của Trung Quốc, ôm lấy bờ biển của các quốc gia khác và chiếm 90% vùng nước của Biển Đông. Bắt nguồn từ bản đồ do một nhà vẽ bản đồ Trung Quốc vẽ năm 1936 để đáp lại điều mà Bắc Kinh gọi là "thế kỷ sỉ nhục", đường chín-đoạn, theo Shan Zhiqiang, cựu biên tập viên của tạp chí Địa lý Quốc gia Trung Quốc, "hiện đã được khắc sâu trong trái tim và khối óc của người dân Trung Quốc". học sinh Trung Quốc đã nhiều thập niên được dạy rằng biên giới quốc gia của họ kéo dài hơn một ngàn dặm về phía bờ biển của Malaysia. Tuyên bố của Bắc Kinh được củng cố bởi các căn cứ quân sự mà họ đã xây dựng trong những năm gần đây trên các hòn đảo nhỏ và trên 3.200 mẫu đất bồi đắp nằm rải rác giữa biển.

biendong2

Với Trung Quốc ngày nay, các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông tập trung xung quanh cái được gọi là "đường chín đoạn" ("nine-dash line") – tức các gạch ngang trên bản đồ của Trung Quốc, ôm lấy bờ biển của các quốc gia khác và chiếm 90% vùng nước của Biển Đông.

Bắc Kinh nói rằng tuyên bố "chủ quyền không thể chối cãi" của mình dựa trên lịch sử - như một tài liệu quan điểm chính thức [1] đã viết, "các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông có từ hơn hai nghìn năm trước". Những "tuyên bố lịch sử" này, theo cách nói của một chuyên gia tư vấn của chính phủ Trung Quốc [2], có "nền tảng trong luật pháp quốc tế, bao gồm luật tục về phát hiện, chiếm đóng và danh hiệu lịch sử".

Hoa Kỳ đáp lại rằng, theo luật pháp quốc tế, Biển Đông là một vùng nước mở - cái thường được gọi là "các điểm chung hàng hải của Châu Á" – dành cho tất cả các quốc gia, một quan điểm được chia sẻ bởi các nước có biên giới với vùng biển đó, cũng như của Úc, Anh và Nhật Bản. Như vậy, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết [3], Trung Quốc "không có cơ sở pháp lý" cho các tuyên bố chủ quyền ở Nam Trung Quốc và "không có cơ sở pháp lý chặt chẽ" cho đường chín đoạn. Một bài báo về chính sách của chính phủ Hoa Kỳ [4] năm nay đã lập luận rằng "yêu sách hàng hải của Trung Quốc, là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do trên biển trong thời hiện đại".

Và điều này đưa chúng ta đến với bốn bóng ma.

Năm 1381, trong một trận chiến ở tây nam Trung Quốc, một cậu bé Hồi giáo bị quân lính của triều đại nhà Minh bắt, bị thiến và đưa vào làm việc trong cung của Hoàng tử Zhu Di (Chu Đệ). Khi thời gian trôi qua, cậu bé - được đổi tên thành Trịnh Hòa (Zheng He) - lớn lên trở thành thân tín của hoàng tử và cuối cùng là một trong những nhà lãnh đạo quân sự tài ba nhất của ông.

Khi Zhu trở thành hoàng đế (Minh Thành Tổ), xác định rằng Trung Quốc phải là một cường quốc hàng hải, ông đã ra lệnh mở một chiến dịch đóng tàu điên cuồng, tung ra những hạm đội khổng lồ với sức chở lên đến 30.000 người. Họ vận chuyển nhiều loại hàng hóa của Trung Quốc và các loại vũ khí tiên tiến nhất trong ngày - súng, súng thần công và tên lửa. Những con thuyền lớn nhất là những con tàu chở báu vật có sức chứa lớn gấp 10 lần những con thuyền mà Christopher Columbus sẽ làm thuyền trưởng đi đến Tân Thế giới gần một thế kỷ sau đó. Những chuyến đi của người Trung Quốc này sẽ kéo dài hai hoặc ba năm, với các hoạn quan chỉ huy mỗi hạm đội. Nhưng tổng chỉ huy là Trịnh Hòa. Cuối cùng, ông được biết đến với cái tên Three-Jewel Eunuch (Tam bảo), để tôn vinh "ba viên ngọc" trung tâm của tín ngưỡng Phật giáo thống trị dưới triều đại của Zhu.

Chuyến đi đầu tiên của Đô đốc Trịnh, vào năm 1405, đã đưa ra biển với đội quân hơn 250 tàu, trong đó hơn 60 tàu chở báu vật. Tổng cộng Trịnh đã chỉ huy bảy chuyến đi, một số đi xa đến bờ biển phía đông của Châu Phi, đến Kenya hiện đại. Trên đường đi, hạm đội của ông trao đổi hàng hóa và sản phẩm của Trung Quốc với người dân địa phương, đồng thời thể hiện sức mạnh và sự uy nghiêm của Trung Quốc. Người ta có thể tưởng tượng tác động đối với những người trên bờ khi họ bắt gặp những hạm đội khổng lồ đang tiến đến, và đặc biệt là những con tàu chở báu vật khổng lồ, với những cánh buồm căng trên bầu trời, đôi mắt rồng dữ tợn của chúng được vẽ trên đỉnh đang lao xuống bờ.

Khi họ trở về Trung Quốc, các đội tàu của Trịnh không chỉ mang về rất nhiều sản phẩm và đồ vật mới - bao gồm đá quý, gia vị, lạc đà và đà điểu - mà còn cả những người cai trị và sứ giả, những người sẽ tỏ lòng tôn kính và cống nạp trước hoàng đế. Các đội tàu của Trịnh, như nhà sử học John Keay đã viết, cũng "thể hiện khả năng làm chủ hàng hải của toàn bộ Ấn Độ Dương".

Năm 1433, trong chuyến đi cuối cùng trở về qua Ấn Độ Dương - 9 năm sau cái chết của người bảo trợ, Chu Đệ - Trịnh qua đời. Lực lượng hải quân vĩ đại mà ông xây dựng đã không tồn tại được lâu với ông. Cuối cùng, theo lệnh của vị hoàng đế mới, hạm đội của Trung Quốc, có số lượng lên tới 3.500 tàu, đã bị đốt cháy. Các quan chức cho rằng họ đang lãng phí số tiền cần thiết để chống lại sự xâm lược của quân Mông Cổ ở phía bắc (mặc dù tất nhiên, họ cũng coi hải quân là cơ sở sức mạnh cho đối thủ lớn của họ là hoạn quan). Di sản của Tam Bảo Thái giám đã bị xóa sổ khỏi lịch sử, ký ức về những kỳ tích vượt biển của ông gần như bị xóa sạch.

Tuy nhiên, khi Trung Quốc một lần nữa quay ra biển vào thế kỷ 21, Trịnh đã được hồi sinh thành biểu tượng của mối quan hệ giao thương và gắn kết truyền thống của đất nước với Đông Nam Á và Nam Á - và là "nhân vật hàng hải cao nhất" trong lịch sử quốc gia. Vị đô đốc được kỷ niệm vào năm 2009 với một loạt phim được xem rộng rãi trên truyền hình Trung Quốc, và vào năm 2005, nhân kỷ niệm 600 năm chuyến đi đầu tiên của ông, một bảo tàng trị giá 50 triệu USD dành riêng cho ông đã được mở tại Nam Kinh. 

Một cô gái 19 tuổi [5] đến từ một hòn đảo ngoài khơi Kenya, nổi bật bởi những nét đặc trưng của người Châu Á, đã được mời đến buổi khai trương của bảo tàng với tư cách là hậu duệ giả định của người Trung Quốc đã đi thuyền với Trịnh, rõ ràng là bằng chứng sống về mức độ sâu rộng và là "biểu hiện" năng lực đi biển của Tam Bảo Thái giám. Ngày nay, Trịnh và các chuyến đi của ông là hiện thân vĩ đại của "các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông" và những tuyên bố của lịch sử dựa trên đó, di sản của ông đã được lưu giữ nhiều thế kỷ sau trong đường chín đoạn.

Nếu Trịnh cung cấp câu chuyện về các quyền hàng hải lịch sử của Trung Quốc, thì luật sư và nhà lý thuyết pháp lý người Hà Lan Hugo Grotius sẽ cung cấp điều ngược lại, đặt nền tảng cho khái niệm tự do đi lại qua các đại dương trên thế giới, và thể hiện "pháp quyền" trái ngược với di sản của lịch sử.

Mặc dù nhập khẩu trên toàn thế giới, nhưng trớ trêu thay, các lập luận của Grotius lại ra đời từ một sự kiện cụ thể ở một góc của Biển Đông. Năm 1603, sau khi đốt cháy hạm đội của Trung Quốc và xóa ký ức về Trịnh, các tàu Hà Lan đã tấn công một tàu Bồ Đào Nha ở Biển Đông để trả thù các cuộc tấn công của Bồ Đào Nha nhằm vào tàu của Hà Lan. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của cuộc đấu tranh toàn cầu giữa Bồ Đào Nha và Hà Lan để giành quyền kiểm soát các thuộc địa và ở Đông Nam Á, buôn bán gia vị. Tàu của người Bồ Đào Nha là một giải thưởng hấp dẫn, chất đầy lụa, vàng, đồ sứ, gia vị và nhiều hàng hóa khác.

Nhưng khi chiến lợi phẩm về đến Hà Lan, người Hà Lan cần vũ khí hợp pháp để biện minh cho việc tịch thu và giữ chiến lợi phẩm của họ. Họ chuyển sang Grotius, người mặc dù mới 21 tuổi nhưng đã được biết đến như một thần đồng chói sáng - anh ấy đã vào Đại học Leiden năm 11 tuổi.

Trong bản tóm tắt pháp lý của mình, Grotius đã nghiền nát lập luận của người Bồ Đào Nha rằng Biển Đông là của họ vì họ đã "phát hiện" ra các tuyến đường đi thuyền đến đó, giống như Trịnh Hòa và tất cả các thuyền trưởng thái giám khác, cùng với các thương nhân Ả Rập và Đông Nam Á trước đây, chưa bao giờ tồn tại. Thay vào đó, Grotius lập luận cho quyền tự do trên biển và thương mại, đồng thời khẳng định rằng các quyền này được sử dụng rộng rãi. Do vậy, ông nhấn mạnh, việc Hà Lan bắt giữ là hoàn toàn hợp lý để trả đũa việc Bồ Đào Nha can thiệp vào hoạt động vận chuyển của Hà Lan.

Một phần của bản tóm tắt đã được xuất bản trong tác phẩm vĩ đại của ông, Mare Liberum, hay The Freedom of the Seas. Grotius viết, nước giống như không khí và bầu trời, là tài sản chung của nhân loại. Không quốc gia nào có thể sở hữu chúng hoặc ngăn cản người khác đi qua chúng. "Mọi quốc gia", ông tuyên bố, "được tự do đi lại đến mọi quốc gia khác và giao dịch với quốc gia đó".

Grotius tiếp tục chiếm một số vị trí pháp lý và dân sự nổi bật. Nhưng sau đó, can dự vào bên sai trong một trận chiến tôn giáo ở Hà Lan, anh ta bị kết án tù chung thân. Sau khi ra khỏi tù anh ta tìm cách đến Paris và viết một cuốn sách mang tính bước ngoặt khác, Về Luật Chiến tranh và Hòa bình, trong đó nêu ra cả cơ sở của "chiến tranh chính nghĩa" và các quy tắc ứng xử của chiến tranh.

Được vua Thụy Điển rất ngưỡng mộ, Grotius được bổ nhiệm làm đại sứ của Thụy Điển tại Pháp. Trong một chuyến trở về từ Thụy Điển vào năm 1645, ông đã bị một cơn bão dữ dội trong ba ngày quăng xuống biển Baltic, con tàu bị đắm và Grotius cuối cùng bị trôi dạt vào một bãi biển ở miền bắc nước Đức. Ở đó, "cha đẻ của luật biển", như người ta gọi sau này, đã chết vì một tai họa trên biển. Tuy nhiên, di sản của ông vẫn tồn tại : Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, văn bản quốc tế xác định điều chỉnh các quy tắc hàng hải, có thể được bắt nguồn trực tiếp từ công việc của ông.

Năm 1897, Theodore Roosevelt, khi đó là trợ lý Bộ trưởng Hải quân, đã đến Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ. Trong bài diễn thuyết của mình ở đây, Roosevelt đã đưa ra lập luận về một Hải quân Hoa Kỳ mạnh hơn nhiều - "một hạm đội hạng nhất gồm các thiết giáp hạm hạng nhất" - là người bảo đảm hòa bình tốt nhất. Bài phát biểu đã thu hút sự chú ý của cả nước.

Roosevelt đến thăm Trường Cao đẳng Chiến tranh cũng vì mục đích thứ hai : gặp gỡ một giảng viên, Đô đốc Alfred Thayer Mahan, người sẽ có ảnh hưởng nhiều đến ông hơn bất kỳ người nào khác về sức mạnh hải quân, và tinh thần của ông đã lan tỏa các tranh chấp ngày nay về Biển Đông và sự va chạm của sức mạnh hải quân Mỹ và Trung Quốc.

Bất chấp sự phản đối của cha mình, một giáo sư tại học viện quân sự West Point, Mahan đã gia nhập Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Nhưng khi phục vụ trên biển, các chỉ huy của ông đánh giá ông là người thiếu khả năng chỉ huy thực tế. Ông không phản đối. Mahan viết cho Roosevelt : "Tôi đã hiểu chính mình quá lâu để không biết rằng tôi là con người của suy nghĩ, chứ không phải con người của hành động". Nhưng ông đã quyết tâm, như ông đã nói, "sẽ có ích cho hải quân, bất chấp những báo cáo bất lợi". Và ông ấy đã như vậy. Bắt đầu với Ảnh hưởng của Sức mạnh Biển trong Lịch sử, nhiều sách và bài báo của ông đã đưa ông trở thành nhà lý thuyết có ảnh hưởng nhất thế giới về chiến lược hải quân.

Mahan viết rằng sức mạnh biển là điều cần thiết để bảo vệ nền thương mại, an ninh và vị thế của một quốc gia, và nó dựa trên "ba trụ cột" - thương mại nước ngoài, hải quân và đội tàu buôn cũng như các căn cứ dọc theo các tuyến đường hàng hải. Mục tiêu lớn là đảm bảo "quyền chỉ huy trên biển" và "quyền lực tuyệt đối chỉ có thể được thực hiện bởi các lực lượng hải quân lớn", có nghĩa là khả năng thống trị các tuyến hải quân và "các tuyến đường liên lạc trên biển".

Ảnh hưởng của ông đối với Hoa Kỳ rất rõ ràng và trực tiếp. Roosevelt tiếp tục trở thành phó tổng thống và sau đó, vào tháng 9 năm 1901, sau vụ ám sát William McKinley, lên làm tổng thống. Roosevelt không ngừng cam kết về một lực lượng hải quân hiện đại, mà đỉnh cao là việc ông ra mắt Hạm đội Trắng Vĩ đại trong chuyến du hành vòng quanh thế giới, tuyên bố vai trò mới của Mỹ như một cường quốc toàn cầu.

Ảnh hưởng của Mahan cũng mang tính toàn cầu. Bản dịch tiếng Nhật của Ảnh hưởng của sức mạnh biển cả trong lịch sử đã bán được vài nghìn bản chỉ trong vài ngày và ông được mời thỉnh giảng tại Trường Cao đẳng Tham mưu Hải quân Nhật Bản. Trong một chuyến thăm Anh, ông đã nhận được bằng danh dự của Cambridge và Oxford và dùng bữa với Nữ hoàng Victoria. Tuy nhiên, không quốc gia nào lấy lòng Mahan nhiều hơn Đức. "Tôi bây giờ không đọc mà đang ngấu nghiến… cuốn sách của Mahan và đang cố gắng học thuộc lòng", Kaiser Wilhelm II, người Đức viết. "Nó ở trên tất cả các tàu của tôi và được các thuyền trưởng và sĩ quan của tôi liên tục trích dẫn".

Khi Mahan qua đời vào năm 1914, Roosevelt đã viết, "Không có ai khác trong độ tuổi của anh ấy, hoặc xấp xỉ gần ông". Nhiều thập kỷ sau, chiến lược gia Edward Meade Earle lưu ý, "Rất ít người để lại dấu ấn sâu đậm về các sự kiện thế giới như Mahan để lại". Dấu ấn đó ngày nay rõ ràng ở Trung Quốc, và đặc biệt khi nó liên quan đến Biển Đông.

Bắc Kinh duy trì như một "lợi ích cốt lõi" rằng Đài Loan là một phần không thể thiếu của Trung Quốc. Năm 1996, Bắc Kinh lo sợ rằng ứng cử viên hàng đầu trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan có thể tiến tới chính thức tuyên bố độc lập, đã phóng thử tên lửa và bắn đạn thật ở vùng biển rất gần hòn đảo, phong tỏa hiệu quả các cảng phía tây của nó. Mỹ phản ứng bằng cách điều hai nhóm tác chiến tàu sân bay tới eo biển Đài Loan, bề ngoài là để tránh "thời tiết xấu". Cuộc khủng hoảng lắng xuống, nhưng bài học Mahan cho Bắc Kinh rất rõ ràng : Khả năng triển khai và thể hiện sức mạnh trên biển là điều tối quan trọng.

Có nhiều vấn đề khác trong các cuộc tranh luận quân sự của Trung Quốc, nhưng sự tập trung của Mahan vào sức mạnh hàng hải và "quyền chỉ huy biển" cung cấp một khuôn khổ để hiểu chiến lược hải quân của Trung Quốc. Hơn một thế kỷ sau khi Mahan qua đời, ông được nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc trích dẫn rất nhiều và tiếp tục định hình quan điểm của họ. Như chiến lược gia Robert Kaplan viết : "Người Trung Quốc bây giờ là những người Mahania".

Vào một buổi sáng Chủ nhật trong lành của tháng 8 năm 2014, các nhân viên hải quân Trung Quốc đã tập trung tại cảng Uy Hải phía bắc. Họ đến đó không phải để đánh dấu một chiến thắng, một lý do thông thường cho một cuộc tập trung như vậy, mà để đánh dấu một thất bại - Trung Quốc thua Nhật Bản trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894–95, vốn đã bị phong ấn bởi sự tàn phá của hạm đội Trung Quốc tại Uy Hải. Kết quả là Nhật Bản đã giành được quyền kiểm soát đối với Hàn Quốc và Đài Loan, và Uy Hải đã chuyển sang thuộc sự kiểm soát của Anh, một chương đặc biệt nhục nhã trong "thế kỷ sỉ nhục" của Trung Quốc.

Tại buổi lễ năm 2014, hoa cúc trắng và hoa hồng đỏ đã được rải khắp vùng biển để tỏ lòng thương tiếc với những mất mát của Trung Quốc. Diễn giả nổi bật nhất ngày hôm đó là Đô đốc Wu Shengli. Trong nhận xét của Wu tại Uy Hải, người ta có thể nghe thấy tiếng vọng của Mahan.

Wu nói : "Lịch sử nhắc nhở chúng ta rằng một quốc gia sẽ không thịnh vượng nếu không có sức mạnh hàng hải". Ông cho rằng thế kỷ nhục nhã là kết quả của sức mạnh hải quân yếu, mà thất bại Uy Hải đã chứng tỏ. Nhưng ngày nay, "biển không có chướng ngại vật ; lịch sử nhục nhã của dân tộc đã qua đi, không bao giờ trở lại".

Mahan đã viết trong thời đại toàn cầu hóa đầu tiên vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi thế giới đang được kết nối với nhau bằng công nghệ - tàu hơi nước, đường sắt, điện báo - và các luồng đầu tư và thương mại. Ông đã cung cấp cơ sở lý luận về trí tuệ trong thời đại đó cho những gì đã trở thành một cuộc chạy đua toàn cầu để xây dựng hải quân.

Khi tìm kiếm sự tương tự cho những rủi ro rộng lớn hơn có thể gây ra bởi cuộc cạnh tranh hải quân Mỹ-Trung ở Biển Đông, các nhà phân tích lặp đi lặp lại ví dụ sinh động về sự cạnh tranh chiến lược từ hơn một thế kỷ trước : cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức đã góp phần tạo tiền đề cho Thế chiến I. Điều đáng lo ngại là trong cuốn sách Về Trung Quốc (On China), Henry Kissinger kết thúc bằng phần kết có tựa đề "Lịch sử có lặp lại chính nó không ?" hoàn toàn dành cho việc xây dựng đội quân này. Tuy nhiên, Kissinger tiếp tục nói với một số lo lắng, "Các phép loại suy lịch sử về bản chất là không chính xác".

Cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức là cuộc cạnh tranh chiến lược quyết định vào thời điểm đó. Đó cũng là một phần quan trọng của cơn sốt thuyết phục mọi người rằng chiến tranh giữa Anh và Đức là không thể tránh khỏi. Đó là kết luận mà Winston Churchill đưa ra vào năm 1911. Kể từ đó, như sau này ông viết, ông chuẩn bị "cho một cuộc tấn công của Đức như thể nó có thể đến vào ngày hôm sau".

Tuy nhiên, có một số người không đồng ý với đánh giá đó - và không ai mạnh mẽ hơn bóng ma thứ tư ám ảnh Biển Đông.

Trong số những tiếng nói vào đầu thế kỷ 20 cho rằng chiến tranh giữa Đức và Anh không thể tránh khỏi, không ai mạnh hơn tiếng nói của một người đàn ông có vẻ ngoài ốm yếu tên là Norman Angell. Ông ấy có ảnh hưởng to lớn trong việc thuyết phục mọi người rằng chiến tranh đã trở nên phi lý. Ông thậm chí còn nhận được giải Nobel Hòa bình vì đã nhận định rằng "chiến tranh là một phương pháp khá bất cập để giải quyết các tranh chấp quốc tế". (Việc giải thưởng được đưa ra vào năm 1934 đã khiến ông nhận xét, với sự khô khan nhất định, "Sẽ hợp lý hơn nếu trao nó vào thời điểm sớm hơn"). Angell nhấn mạnh lợi ích của một nền kinh tế thế giới kết nối và chi phí của xung đột, một thông điệp đặc biệt có liên quan cho một Hoa Kỳ và một Trung Quốc phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và gắn bó với nhau trong một nền kinh tế toàn cầu rộng lớn hơn mà dựa trên kinh nghiệm phát triển của họ.

Khi còn là một thiếu niên, ông đã làm việc như một phóng viên báo chí, đầu tiên ở Anh, trước khi chuyển đến Hoa Kỳ. Cuối cùng ông đến phía đông bắc của Los Angeles, ở Bakersfield dân cư thưa thớt, làm việc như một lao động trong nông trại, và như một người đưa thư ; nhà ở ngoại ô thành phố ; đầu cơ bất thành đất nền ; tìm kiếm vàng ; và thử thăm dò dầu khí, tất cả đều vô ích. Thất bại trong việc tìm kiếm tài sản, ông đã bỏ đi và cuối cùng đến Paris, làm việc cho các tờ báo tiếng Anh.

Đến lúc đó, ông bị ám ảnh bởi sự nổi lên của các phương tiện truyền thông đại chúng và lo lắng về những gì ông thấy là sự xuất hiện của tâm lý quần chúng và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc độc ác và không khoan dung ở Châu Âu. Năm 1903, ông xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, Chủ nghĩa yêu nước dưới ba ngọn cờ, lập luận rằng "chủ nghĩa cảm tính", hay chủ nghĩa giễu cợt cực đoan, vận hành chống lại lợi ích của chính thể.

Angell sau đó đã nhận được việc làm nhà xuất bản của ấn bản Châu Âu của Daily Mail, vào thời điểm tờ báo có lượng phát hành lớn nhất trên thế giới. Bị thúc giục bởi cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức, Angell vội vã viết một cuốn sách mới, Ảo ảnh quang học của Châu Âu, trong đó ông khẳng định rằng mình không theo chủ nghĩa hòa bình và không phản đối việc chi tiêu quân sự của Anh, nhưng điều đó, do nền kinh tế thế giới ngày càng kết nối với nhau nhiều hơn và các mối ràng buộc dày đặc của thương mại và đầu tư mà sau đó các quốc gia tham gia, chi phí chiến tranh sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích - không chỉ đối với kẻ bại trận mà còn đối với kẻ chiến thắng. (Angell thường bị chế giễu vì bị cho là đã nói rằng các liên kết kinh tế mạnh mẽ của thời kỳ hiện đại đầu tiên của toàn cầu hóa khiến chiến tranh không thể xảy ra. Nhưng, mặc dù là một người nhiều lời, đôi khi quá nhiều, đó thực sự không phải là những gì ông ấy nói. Luận điểm của ông ấy là "không phải cuộc chiến đó là không thể, nhưng nó vô ích". Với những thập kỷ nghiệt ngã sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ai có thể nói rằng ông đã sai ?) Trước sự thất vọng của Angell, ông không thể tìm được nhà xuất bản, và cuối cùng đã tự xuất bản và phân phối.

Mặc dù khởi đầu không tốt, cuốn sách vẫn ra đời [6]. Một nhà ngoại giao hàng đầu của Anh cho biết nó đã "khiến bộ não của tôi quay cuồng". Một tờ báo gọi nó là "cuốn sách được thảo luận nhiều nhất trong những năm gần đây". Bộ trưởng Ngoại giao Anh, Edward Grey đã công khai khen ngợi cái mà ông gọi là "một cuốn sách nhỏ rất thú vị".

Cuốn sách đã trở thành một tác phẩm bán chạy nhất và Norman Angell đã được biết đến. Cho đến thời điểm này, ông đã viết dưới tên thật của mình, Ralph Lane, qua "Norman Angell" để tách cuốn sách khỏi tác phẩm của mình cho Daily Mail. Trong những lần xuất bản tiếp theo, Angell viết lại cuốn sách The Great Illusion.

Có những nhà phê bình, trong đó có Mahan, người đã bác bỏ lập luận của Angell rằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng khiến chiến tranh trở nên phi lý. "Quốc tịch sẽ không bị loại bỏ trước sự tái thiết của thế giới", vị đô đốc đã viết bằng những lời có tiếng vọng đến ngày nay.

Mặc dù vậy, các nhà phê bình chỉ tăng cường ảnh hưởng của Angell. Ngay cả Kaiser Wilhelm cũng được cho là đã đọc cuốn sách "với sự quan tâm sâu sắc và thảo luận tốt về nó". Cuộc chạy đua hải quân Anh-Đức vẫn tiếp tục diễn ra dưới mức tối đa, nhưng hai cường quốc đã thể hiện sự kiềm chế trong cuộc khủng hoảng Balkan năm 1912. Angell này coi đó là một dấu hiệu của lý trí hơn là cảm xúc. Trong một chuyến đi đến Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1914, ông nói với một phóng viên, "Sẽ không bao giờ có một cuộc chiến tranh nào nữa giữa các cường quốc Châu Âu". Vào tháng 6 năm 1914, hạm đội Anh đã có chuyến thăm hữu nghị kéo dài một tuần tới cảng Kiel của Đức, củng cố tuyên bố chủ quyền của mình. Trong khi nó ở đó, cách 800 dặm về phía nam, ở Sarajevo, Franz Ferdinand, hoàng tử của đế quốc Áo-Hung, bị ám sát. Năm tuần sau, Thế chiến I bắt đầu.

Tuy nhiên, hậu quả của chiến tranh sẽ chứng minh Angell đúng : Chi phí lâu dài vượt xa bất cứ thứ gì có thể thu được. Đó là một thông điệp ám ảnh những căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc.

Lịch sử so với luật pháp quốc tế, chủ nghĩa dân tộc và sức mạnh quân sự so với sự phụ thuộc lẫn nhau và các lợi ích chung - những điều này xác định tranh chấp trên Biển Đông.

Và vì vậy khi bạn nghe thấy những tuyên bố lịch sử, hãy nghĩ đến Đô đốc Trịnh Hòa. Khi là tự do hàng hải, đó là Hugo Grotius. Khi là cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc, thì đó là một đô đốc khác, Alfred Thayer Mahan. Và với sự rạn nứt ngày càng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh, hãy nghĩ đến Norman Angell và cái giá phải trả của cuộc đối đầu giữa hai quốc gia phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế.

Đấy là bốn hồn ma ám ảnh vùng biển rắc rối đó.

Daniel Yergin

Nguyên tác : The World’s Most Important Body of Water, The Atlantic, 15/12/2020

Võ Xuân Quế (dịch)

Nguồn : Viet-studies, 23/12/2020

Daniel Yergin là tác giả của "Bản đồ Mới : Năng lượng, Khí hậu và Xung đột giữa các Quốc gia", trong đó mô tả những căng thẳng hiện nay ở Biển Đông. Ông cũng là tác giả của "The Prize : The Epic Quest For Oil, Money & Power" được trao giải thưởng Pulitzer năm 1992.


[1] https://www.fmprc.gov.cn/nanhai/eng/snhwtlcwj_1/t1368895.htm

[2] https://www.fmprc.gov.cn/nanhai/eng/snhwtlcwj_1/t1368895.htm

[3] https://www.state.gov/u-s-position-on-maritime-claims-in-the-south-china-sea/

[4] https://www.wsj.com/articles/u-s-set-to-reject-certain-chinese-maritime-claims-in-south-china-sea-11594661229

[5] https://www.nytimes.com/2005/07/20/world/asia/china-has-an-ancient-mariner-to-tell-you-about.html

[6] https://enciklopediamoderne.files.wordpress.com/2014/09/martin-ceadel-living-the-great-illusion-sir-norman-angell1872e280931967.pdf

Published in Diễn đàn