Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Một sử gia nổi tiếng thế giới người Đức Leopold von Ranke (1795-1886), người để lại cho thời đại của ông một số lượng khổng lồ tác phẩm sử học (51 cuốn), đã cho một lời khuyên rất giá trị đối với giới nghiên cứu sử học, đó là : "Sử gia phải viết lại sự việc như chính nó đã xảy ra" (Historians should tell thing as it was). Câu nói này đặt ra cho lương tâm người viết sử trách nhiệm phải tôn trọng sự thật, nhưng thử hỏi từ xưa tới nay hỏi có mấy ai tuân thủ lời khuyến cáo nghiêm túc này ?

vietsu1

Quyền viết sử là quyền của phe thắng trận trong một cuộc chiến vì kẻ đã chết bao giờ cũng là người thiệt thòi

Đã có rất nhiều chủ trương cho rằng quyền viết sử là quyền của phe thắng trận trong một cuộc chiến vì kẻ đã chết bao giờ cũng là người thiệt thòi, bởi thế mà trong lịch sử thế giới có biết bao câu chuyện đầy gian dối, lừa bịp sai chân lý lịch sử được dựng nên từ đời này sang đời khác. Vấn đề chính tà cũng xuất hiện dưới ngòi bút của sử quan hay chuyên viên chép sử theo lệnh của nhà cầm quyền, trong các cơ quan chuyên viết lịch sử cho nhà nước, chẳng hạn thời nhà Nguyễn, sau khi Gia Long đánh bại Tây Sơn, thống nhất đất nước, triều đại Tây Sơn được ngòi bút sử quan triều Nguyễn gọi là "ngụy Tây" hay "Tây tặc" v.v.

Những ngày tháng gần đây, dư luận đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đã dấy lên nhiều ý kiến khi Viện Sử học Hà Nội cho tái bản bộ sách có tên Lịch sử Việt Nam trong đó không dùng hai chữ đầy miệt thị "ngụy quyền" "ngụy quân để chỉ các cơ chế của Việt Nam Cộng Hòa nữa mà gọi là chính quyền Sài Gòn hay quân đội Sài Gòn. Cùng vào thời điểm này bộ phim The Vietnam War của hai nhà làm phim người Mỹ Ken Burns và Lynn Novick đưa ra chiếu công khai ngày 17/9/2017 cũng đã làm khuấy động không ít dư luận hải ngoại và trong nước.

Có sự ngẫu nhiên chăng khi giữa bộ sử của chế độ cộng sản Việt Nam với bộ phim của nhóm người Mỹ xuất hiện cùng một thời điểm và đều nói về chủ đề lịch sử của Việt Nam ?

Bộ sách Lịch sử Việt Nam (2017)

vietsu2

Lịch sử Việt Nam gồm 15 cuốn do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Việt Nam tại Hà nội phát hành tháng 8 năm 2017

1. Nhận định của Giáo sư Trần Anh Tuấn

Trước hết, xét từng sự kiện thì đó là một bộ sách có tên Lịch sử Việt Nam gồm 15 cuốn do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Việt Nam tại Hà nội phát hành tháng 8 năm 2017. Bộ sách do 30 người viết đều là cán bộ của Viện Sử học mà nhiệm vụ của họ là viết sử theo sự chỉ đạo của Đảng, và như thế họ không viết theo tư cách sử gia. Đó là nhận định tiên vàn của Giáo sư Trần Anh Tuấn mà cũng là nhận định của nhiều người trong nước cũng như hải ngoại.

Ghi nhận thứ hai cũng của vị giáo sư họ Trần là : "Hầu hết - nếu không muốn nói là tất cả - tên tuổi của giới nghiên cứu sử cũng đồng thời là giới giáo sư đại học ngành Sử trong nước, những người từ nhiều năm nay đã chuyển hướng nghiên cứu từ thông tin tuyên truyền sang trình bày sự kiện quá khứ, đều vắng bóng… Quan niệm viết sử của Viện Sử học Hà Nội là nhằm phục vụ chính trị, khác với quan niệm viết sử của Thế giới tự do dân chủ là trình bày lại quá khứ y như nó đã xảy ra".

Đây là điều mà những ai học sử theo tinh thần tôn trọng sự thật đề tìm hiểu ở bên trong những lời dạy dỗ hữu ích, bởi vì như Cicero (106-43 B.C.) từng nói : "Lịch sử là thầy dạy của cuộc đời" (Historia magistra vitae), thì trái lại các người viết sử của cộng sản dùng sử học đề phục vụ các mưu đồ chính trị cho nên bộ sách mà Trần Đức Cường, Tổng Chủ biên, cũng phải được đánh giá theo tiêu chuẩn của một bộ sách thuộc loại tuyên truyền không hơn không kém. Bộ sách này được in lần đầu năm 2013, theo sự đánh giá của nhiều độc giả trong nước là quá kém, không ai mua nên Viện Sử học đã cho in lại hoành tráng hơn trong thời điểm 2017 để cố đẩy mạnh sản phẩm vào lãnh vực tuyên truyền.

Trong lãnh vực chuyên môn về Sử, Giáo sư Trần Anh Tuấn cho biết :

"Phương pháp viết sử của Viện Sử học Hà Nội là biên soạn sao cho đúng với lý thuyết cộng sản quốc tế. Điển hình của phương pháp này là tác giả Vũ Duy Mền khi trình bầy về thời đại Hùng Vương.

Nguyên văn thế này, nơi trang 117 trong Tập 1 : Họ (tầng lớp quý tộc gồm Hùng Vương, Lạc hầu, Lạc tướng…TAT chú) lợi dụng chức vụ và chức năng của mình để chiếm đoạt sản phẩm thặng dư của công làm tài sản riêng. Dần dần họ tập trung trong tay nhiều của cải và quyền lực… Trên thực tế, họ đã bóc lột nô tỳ và được quyền "ăn ruộng" của dân Lạc, nghĩa là tự thu cho mình một phần sản phẩm thặng dư của công xã dưới hình thức lao dịch hay cống nạp sản phẩm".

Và Giáo sư Trần Anh Tuấn thẳng thắn ghi nhận :

"Đây là sự tưởng tượng của người cộng sản thế kỷ XXI khi viết về quá khứ của ngàn năm trước, đã lập lại ý niệm "thặng dư giá trị" mà không hề dẫn một sự kiện nào làm chứng cứ".

Đã không có gì chứng minh cho việc vua Hùng đã "chiếm đoạt sản phẩm thặng dư" nơi trong trang 117, mà trang 116 ngay trước đó, tác giả này đã có những chi tiết khác hẳn. Nguyên văn thế này : Vua cùng làm cùng ăn với dân. Vua Hùng dạy dân cấy lúa, cùng làm cho đến khi mặt trời đứng bóng mới nghỉ tay… Có câu chuyện kể về việc : vua Hùng dạy dân đi săn, khi săn được chim thú cùng chia cho mọi người, vua chỉ dành cho mình bộ lòng".

Tại sao một tác giả lại có lập luận mâu thuẫn đến vậy ? Phải chăng đó là hiện thân của một người trình bầy sự kiện quá khứ căn cứ vào tài liệu xưa nơi trang 116 và ngòi bút của một người nhân viên hay đảng viên trung thành khi được Đảng giao công tác viết sử cho Đảng nơi trang 117 ?" (1).

2. Nhận định của Linh mục Sử gia Nguyễn Phương

Một bậc thầy trong ngành sử học Việt Nam, Linh mục sử gia Nguyễn Phương (1921-1993) đã giải rõ vấn nạn mà Giáo sư Trần Anh Tuấn thắc mắc trong một cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam bằng tiếng Anh, nhan đề "The Ancient History of Việt-Nam, A New Study" cách đây 41 năm.

Từ năm 1976, trong cuốn sách viết bằng Anh ngữ này, Linh mục sử gia Nguyễn Phương đã phê bình phương pháp viết sử của chế độ Hà Nội bằng nhận xét như sau : "A recent text, History of Vietnam, written in 1971 by a group of social scientists of North Vietnam, proclaimed the period from Hồng-bàng to Hồ-chí-minh as being a period full of sacrifices, distress, hopelessness and shame, but also of fame and glory. The thinking of the Committee who wrote the book is clear. They put Hồng-bàng, a dynasty based mainly on legend, on the same ground with Hồ-chí-minh, one of the most important and recent political figures of Southeast Asia. It seems that there is no vacillation in the mind of these authors when they spoke about the life of the Vietnamese people during that period of 4.000 years. They suggested that in the time of Hồng-bàng, that is, in 2879 B.C., there was already a nation of Vietnam and a Vietnamese people, with its organization, political and otherwise, almost exactly as it is found today. They gave, no doubt, a good example of a non-historical approach to history, because it seems that in their understanding there is little room for evolutionary change ".

(Dịch nghĩa : "Gần đây, một cuốn sử có tên Lịch sử Việt Nam, viết năm 1971, do một nhóm chuyên ngành xã hội của miền Bắc cho biết thời kỳ từ Hồng-bàng đến Hồ-chí-minh là một thời kỳ đầy dẫy những biến cố hy sinh, đau buồn, thất vọng và tủi nhục, nhưng cũng đầy danh dự và vinh quang. Quan điểm của Ủy Ban đó rất rõ ràng. Họ đặt thời kỳ Hồng-bàng, một triều đại phần lớn dựa trên truyền thuyết vào trên cùng một mảnh đất với Hồ-chí-minh, một trong những khuôn mặt chính trị quan trọng và nổi bật nhất của Đông Nam Á. Dường như không có sự đổi thay gì trong đầu óc các tác giả đó khi họ nói về đời sống dân Việt trong thời kỳ hơn 4000 năm. Họ đã gợi ý rằng từ thời đại Hồng-bàng, nghĩa là vào năm 2879 trước Công Nguyên, đã có một nước Việt Nam và một dân tộc Việt Nam, với tất cả guồng máy tổ chức, chính trị và hơn nữa, hầu như toàn bộ cơ chế đó được tìm thấy giống hệt như ngày nay. Không nghi ngờ gì nữa, họ đã cho một thí dụ rất hay đó là đi tới lịch sử bằng hình thức tiếp cận không mang tính lịch sử gì hết, bởi vì dường như, trong sự hiểu biết của họ, chỉ có chút xíu thôi về sự đổi thay mang tính chất tiến hóa").

Một điều làm cho chúng ta có quyền đánh giá rất thấp tác phẩm sử học đồ sộ này của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội khi họ bịp bợm bỏ các chữ ngụy quân, ngụy quyền để thay vào là "quân đội Sài Gòn", "chính quyền Ngô Đình Diệm hay chính quyền Sài Gòn", nhưng đó chỉ là thay đổi chữ, còn nghĩa thì vẫn y nguyên, hoặc những nơi khác họ vẫn sử dụng các chữ "ngụy quân, ngụy quyền". Thí dụ Tập I, trang 166, ghi "thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ" ; trang 167 "ngụy quân, ngụy quyền… đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam".

Dư luận bên ngoài xin hãy bình tĩnh và cảnh giác về thái độ bịp bợm của chế độ cộng sản Hà Nội hiện nay. Chính Trần Đức Cường cũng tiết lộ quan điểm của mình khi được báo chí "hót đảng" phỏng vấn đã nói rằng trong bản chất chế độ Sài Gòn vẫn là tay sai của Mỹ hoặc chính quyền tay sai đại biều quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo dân tộc dân chủ. Một điều rất trơ trẽn là trong cuộc chiến 1961, 1962, 1963, 1964, 1965, 1966, 1967, và riêng chỉ trong 6 tháng mùa khô 1966-1967 bọn cộng sản đã loại khỏi vòng chiến 175.000 tên địch, trong đó có hàng trăm lính Mỹ và lính đánh thuê, phá hủy hơn 1.800 máy bay, phá hỏng 1.783 xe quân sự và 340 khẩu đại bác, bắn chìm và bắn cháy 100 xuồng, và đánh sập, đánh hỏng 270 cầu mà không hề ghi thiệt hại của bên "bộ đội" (Trần Anh Tuấn).

Nói chung, từ khi phe cộng sản khai chiến năm 1959 đến 1975, quân cộng sản không thiệt hại một tên lính nào cả.

Ghi nhận này đã được nhà văn Nguyễn Văn Lục trong bài báo viết về nền giáo dục Việt Nam, ở một tiểu mục có tên "Về những con số ảo, con số bịp bợm", sau khi nhận định về việc các tác giả sách sử lớp 12 của Việt Cộng bỏ qua các thiếu sót thí dụ không viết về khu tự vệ Phát Diệm, không nói đến các lực lượng giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, các chính quyền của Quốc trưởng Bảo Đại, qua các đời Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu…

Nguyễn Văn Lục viết : "Thật là hiếp đáp lịch sử quá đáng". Tính từ 1965 đến 1972, theo Nguyễn Văn Lục, "nếu làm một tổng kết cả bốn đợt thì có khoảng 500.000 địch bị loại khỏi vòng chiến. Gần một nửa quân số miền Nam ? Đặc biệt không thấy nói đến số quân nhân bị tử thương trong dịp 30/4/1975. Nhưng một điều quá đặc biệt không kém là không có ghi số tổn thất của binh đội cộng sản dù chỉ một người cũng không có" (2).

Thật là một cuộc chiến thần thánh ! Thật là một bộ sách sử vĩ đại do cộng sản Hà Nội viết !

Phim The Vietnam War

vietsu3

The Vietnam War của hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick trải qua 10 năm thực hiện, gồm 18 tập chiếu trong vòng 10 tiếng đồng hồ, trình chiếu hạ tuần tháng 9/2017

Thứ đến, đó là bộ phim The Vietnam War của hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick trải qua 10 năm thực hiện, gồm 18 tập chiếu trong vòng 10 tiếng đồng hồ, trình chiếu hạ tuần tháng 9/2017. Cuốn phim này là một nối tiếp của những cuốn phim về trước do một số người Mỹ thực hiện, dĩ nhiên, cũng là một sự nối tiếp về gian dối, lừa đảo trong mục đích chạy tội cho chính quyền Mỹ, bằng cách bôi nhọ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Thoạt đầu chúng ta thấy cần điểm lại các bộ phim trước đây từng xuất hiện nói về cuộc chiến tranh Việt Nam.

1. Bộ thứ nhất "Vietnam : The Ten Thousand Day War" (Việt Nam, cuộc chiến 10.000 ngày) của Michael Maclear trình chiếu năm 1980, gồm 13 tập.

Dưới bút hiệu Trúc Long, Linh mục sử gia Nguyễn Phương trong bài báo viết cho tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, trong mục "Tiếng vọng miền Tây" (khoảng năm 1981) đã cho biết như sau :

"…Không lâu trước đây, đài truyền hình số 5 cho chiếu cuốn phim về cuộc "Chiến tranh mười ngàn ngày" của Mỹ. Thật là một cuốn phim thiên lệch. Theo cuốn phim đó, người Mỹ muốn đổ tất cả tội lỗi cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa về sự thất bại ở Việt Nam. Nhiều người đã lên tiếng phản đối, trong đó đáng kể nhất là Phó Đô đốc hải quân Đặng Cao Thăng… Riêng ông Trần Huỳnh Châu, một người mới vượt biên sau khi đã ở trại cải tạo cho biết là ở trại ông đã được xem những phim tuyên truyền loại đó. Chi tiết này cho thấy rằng cuốn phim của Mỹ cũng thuộc về loại tuyên truyền, nhưng tiếc một điều là không biết muốn tuyên truyền cho ai. Còn việc đổ tội cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì thật là một công việc giấu đầu hỡ đuôi. Đổ tội cho Việt Nam, nghĩa là muốn nói rằng người Mỹ vô tội trong trận thất bại ê chề ở Việt Nam chứ gì ? Nhưng giả sử người Mỹ vô tội thật, cớ sao chính quyền Mỹ từ rảy các chiến sĩ Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam, kẻ chết cũng như người sống. Mãi cho đến tháng 11 này ? Người Mỹ vô tội ư ? Cớ sao họ lại hỗ thẹn trước sự hy sinh tính mạng của hơn 57 ngàn con cái của họ ? và mấy chục ngàn thương phế binh ? Họ từ rảy chính con cái của họ, rõ ràng vì một lẽ là bấy nhiêu người đó là hiện thân của sự thất bại của chính họ".

2. Bộ phim thứ hai là "Vietnam : A Television History", (Việt Nam, chuyện sử qua truyền hình) gồm 13 tập do hãng WGBH-TV (thuộc PBS) ở Boston phổ biến năm 1983.

Cũng nhờ ngòi bút Trúc Long, một lần nữa chúng ta có được một số ghi nhận khi xem cuốn phim của Stanley Karnow có tên "Vietnam : A Television History".

Sử gia Trúc Long Nguyễn Phương viết : "Raph Ellison, giám đốc đài truyền hình WGBH, đã bỏ ra 5 triệu rưỡi Mỹ kim để cùng với ký giả Stanley Karnow thực hiện bộ phim đó. Karnow này cũng là tác giả tập sách : Vietnam : A History, The First Complete Account of Vietnam At War (Việt Nam : Một chuyện sử, Chuyện đầy đủ đầu tiên về Việt Nam trong thời chiến). Tập sách cũng như bộ phim ra đời trong năm 1983. Vào cuối năm, khi bộ phim được chiếu lần đầu tiên, dư luận rất là sôi nổi, giữa người tị nạn cũng như giữa người Mỹ, vì những sai lạc trắng trợn của nó. Nhưng đang khi đại chúng Mỹ đối chiếu về vấn đề chiến tranh Việt Nam, các chủ nhân của bộ phim PBS dường như đã đâm lao phải theo lao. Mùa hè này, họ đem phim đó chiếu lại, và chiếu ngay ở Quận Cam quy tụ đông người tỵ nạn nhất. Các đài truyền hình địa phương 28 và 50 nhằm hạng khách nào khi họ dở dói lại cái vấn đề cũ rich đó ? Nhằm khán giả Mỹ ư ? Thiết tưởng người Mỹ đã chán ngấy vấn đề này. Mới đây trong báo Mercury News, Michael Novak, một tên trùm phản chiến, đã "nhận thực rằng phong trào phản chiến hồi đó hoàn toàn sai lầm – hay ít ra chính tôi đã sai lầm - về vấn đề Việt Nam". Cuốn phim này đã dùng thông dịch viên cộng sản, tên Ngô Vĩnh Long đã công khai hoạt động cho cộng sản cùng với bè lũ phản chiến tại Hoa Kỳ. Nhà làm phim đã chỉ dùng những tài liệu phim ảnh của cộng sản Việt Nam và cộng sản quốc tế. Những thành tích tiêu diệt cộng sản của chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không hề được nhắc tới, coi như con số không trong sử trình giữ nước và dựng nước Việt Nam. Những tội ác của cộng sản như tàn sát dân lành, tàn sát tập thể, pháo kích vào các khu dân cư v.v… đều không được nêu lên".

Tháng 5/1985, cuốn phim này được đưa vào trại cải tạo Nam Hà chiếu cho các tù nhân chính trị xem, mọi người vừa xem vừa lắc đầu khinh bỉ vì rất nhiều chỗ sai sự thật.

3. Bộ thứ ba "Last days in Vietnam" (Những ngày cuối cùng ở Việt Nam) do đạo diễn Rory Kennedy thực hiện và phổ biến năm 2014.

4. Lần này, bộ thứ tư với mang tên "The Vietnam War" gồm 18 tập, chiếu trong 10 tiếng đồng hồ, các đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick đã bỏ ra 30 triệu dollars và tốn hơn 10 năm để đọc tài liệu, phỏng vấn nhiều người với hy vọng mà, theo đài RFI của Pháp ngày 22/9/2017, là " hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam". Có rất nhiều người xem cuốn phim này và có ý kiến trên mạng.

Ở đây chúng tôi trích dẫn bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng xung đột mầu da và sắc tộc đã có từ trước ở Mỹ do nạn kỳ thị da đen, da mầu. Nước Mỹ bị xé nát, chia rẽ không phải vì cuộc chiến Việt Nam mà vì các vấn đề nội bộ nói trên. Phim không nói đến sự thật "là vì sợ phải đi lính nên đa số thanh niên đi biểu tình để chống quân dịch. Cuốn phim tập trung vào biểu tình, thương vong, và hoàn cảnh bi đát của những người quân nhân Mỹ trên chiến trường. Họ đã không được hậu phương ủng hộ, cho nên lẫn lộn về sứ mệnh của mình : "Tôi đang chiến đấu cho cái gì đây" (What do I fight for ?). Cuốn phim cho rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu độc tài : "Ken Burns và Lynn Novick không biết rằng Sài Gòn có tới cả chục đảng phái, mấy chục tờ báo, luôn luôn chỉ trích, công kích chính phủ ? Rồi ca nhạc phản chiến tràn lan, sinh viên xuống đường biểu tình thoải mái. Quân đội không hữu hiệu, trốn quân dịch ? Sau trên 40 năm với bao nhiêu nghiên cứu đặt lại vấn đề thành công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà phim vẫn lập lại luận điệu xưa cũ. Trước khi phê bình như vậy, thiết tưởng Ken Burns và Lynn Novick phải cho nghiên cứu (vì ngân sách 30 triệu USD rất lớn) xem có dân tộc nào trên thế giới này đã chịu chấp nhận cho gần một phần ba số thanh niên nam ở tuổi lao động (1,2 triệu trên 3,9 triệu) đi quân dịch hay không ? Quả thật đã có nạn lính ma, lính kiểng nhưng chỉ là số rất nhỏ, đại đa số đã vui lòng nhập ngũ. "Hành động nói to hơn lời nói". Chính Đại sứ Graham Martin là người có mặt tại Sài Gòn đến giờ phút cuối cùng đã phải cải chính trước Quốc hội rằng (sau khi Mỹ rút hết quân từ mùa Xuân 1973) : "miền Nam chỉ mất một tỉnh đầu tiên là Phước Long vào tháng 1/1975 khi các ngài đã cắt hết viện trợ". Lúc ấy quân đội chỉ còn đủ đạn dược để chiến đấu 30-45 ngày. Cho nên nếu ngày 30/4 không xảy ra thì muộn lắm cũng sẽ xảy ra hai tháng sau, vào ngày 30/6/1975".

Chính phủ miền Nam là bù nhìn của Mỹ ? Cáo buộc này đã được nhiều người phản biện. Nơi đây, chúng tôi chỉ nhắc lại như thế này : tuy dù vì hoàn cảnh thật nghèo sau mười năm chiến tranh của Pháp (1945-1955), Việt Nam Cộng Hòa đã phải lệ thuộc vào viện trợ của Mỹ nhưng không phải vì thế mà lãnh đạo của họ trở thành bù nhìn.

Như đã đề cập trong cuốn "Khi Đồng minh nhảy vào", thời Đệ nhất Cộng hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã yêu cầu Tổng thống Kennedy rút cố vấn đi, và cũng không muốn cho Mỹ đưa quân đội tác chiến vào miền Nam. Khi thấy Mỹ bỏ Lào, ông nhìn thấy chân trời tím và biết rằng trước sau thì Mỹ cũng bỏ rơi miền Nam nên muốn điều đình với miền Bắc để tìm một giải pháp hòa bình... Ông đã chống lại Mỹ và sau cùng đã hy sinh tính mạng để giữ được chính nghĩa quốc gia.

Thời Đệ nhị Cộng hòa, Tổng thống Thiệu đã nhất quyết chống lại Tổng thống Nixon, không chấp nhận bản dự thảo Hiệp định Paris cho dù bị đe dọa sẽ có đảo chính giống như 1963, rồi Tổng thống Nixon còn tàn nhẫn đến mức nói "cắt cổ ông Thiệu nếu cần thiết". Nhưng Tổng thống Thiệu vẫn cưỡng lại. Sau cùng Tổng thống Nixon phải bí mật cam kết để bảo đảm hòa bình và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam để đổi lấy sự đồng ý của Tổng thống Thiệu. Nhưng cam kết thì cũng chỉ là mánh khóe để bỏ rơi miền Nam".

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, bộ phim này "không giải thích rõ tại sao thương vong lên cao". Con số 58.200 tử thương vì thứ nhất Mỹ muốn trực chiến, tức Mỹ giành lấy nhiệm vụ chiến đấu và quân đội miền Nam bị buộc giữ an ninh hậu phương. Cho đến năm 1969, quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới được trang bị súng M-16 ; thứ hai Mỹ áp dụng chiến tranh quy ước (conventional warfare) để đánh chiến tranh du kích. Cuốn phim "không nói hết sự thực về lý do "biểu tình phản chiến", vì ở Mỹ lúc bấy giờ lẫn lộn rất nhiều cuộc biểu tình với nhiều mục tiêu khác nhau như tranh đấu tăng công ăn việc làm, yêu cầu cung cấp nhà cửa cho loại người có lợi tức thấp, chống bất bình đẳng nam nữ, tranh đấu cho người đồng tính luyến ái và biểu tình ủng hộ quân giải phóng Symbionese, Đảng, Black Panthers, Malcolm X…

Cuốn phim "không đề cập đến kịch bản tháo chạy" và cũng không nói về vai trò của Kissinger làm việc một mình bốn năm trong bóng tối, thao túng nền ngoại giao Hoa Kỳ. Hắn là tay đao phủ đối với Việt Nam Cộng Hòa. Hắn từng nguyền rũa khi Đà Nẵng vừa mất "Sao đám dân này không chết phứt đi cho rồi".

Ngoài ra có rất nhiều bậc thức giả như Luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng "cuốn phim dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời gian cho quan điểm Việt Nam Cộng Hòa quá ít…".

Luật sư Hoàng Duy Hùng đã nêu ra 11 điểm dựa trên sử liệu để chứng minh cuốn phim của Ken Burns và Lynn Novick được xây dựng trên một chuỗi những sự kiện dối trá, bịp bợm, dù đối tượng họ nhắm là người Mỹ.

Theo Luật sư Hoàng Duy Hùng, khi chính Lê Duẩn sau này tuyên bố : "Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai nghĩ chuyện đấu tranh chống thực dân Pháp của Hồ và của Đảng cộng sản Việt Nam là sự tranh đấu độc lập cho nước nhà là một sai lầm to lớn".

Tranh biện

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng đã được đại diện đài truyền hình PBS và Thư viện địa phương mời vào ban Điều hành thảo luận (discussing panel) về phim The Vietnam War, đã có ý định để nói lên quan điểm của Người lính Việt Nam Cộng Hòa về Chiến tranh Việt Nam. Một nhà văn phe Cộng, Bảo Ninh, một cựu chiến binh Bắc Việt, tác giả cuốn "Nỗi buồn chiến tranh" (có dịch ra Anh ngữ) khi được phỏng vấn, cho rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, KHÔNG có người thắng. Người điều khiển chương trình hỏi về vấn đề này, ông Sẵng trả lời muốn biết ai thắng ai thua phải dựa trên ba điều căn bản : mục tiêu tham chiến của các bên, sự tổn thất mà họ phải trả giá, và đánh giá trên tổng thể do cuộc chiến gây ra. Theo Tiến sĩ Sẵng, Hoa Kỳ thắng vì kiềm chế được Trung Cộng, Bắc Việt thua vì trả giá quá đắt trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng vô điều kiện là người thua.

Theo bài phỏng vấn của tướng Frederick C. Weyand ngày 12 tháng 6 năm 2006 "thì cuộc chiến bị thua không phải do quân đội kém cỏi mà do những người lãnh đạo chính trị ở Washington. Họ thắng trên chiến trường, nhưng thua vì sự bội ước của đồng minh".

Theo ông Sẵng, "cả hai phía người Việt đều là kẻ thua, nhất là dân tộc Việt Nam là người thua trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm của người cộng sản do Hồ Chí Minh, người cộng sản quốc tế, thực hiện sứ mạng trên sự đau xót vô vàn của dân tộc, làm kiệt quệ đất nước và tạo vết thương lịch sử dù 42 năm rồi vẫn chưa lành…".

Thật sự mà nói, như Tom Polgar, một nhân vật cao cấp thuộc Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở miền Nam đã phát biểu ý kiến : "Đây là một cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua". Lịch sử có những dữ kiện thực tế cần phải được lưu ý.

Với phương cách phân tích khá rành rọt tỉ mỉ, hai tác giả Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái và Thiếu tá Liên Thành đã cho biết : "Các đạo diễn bộ phim The Vietnam War, Ken Burns và Lynn Novick, đã nêu ra hai tiền đề là sự phi lý và tính vô luân của cuộc chiến tranh Việt Nam làm nền tảng cho bốn mục đích (công nhận và thông cảm sự tủi nhục và niềm đau của những cựu chiến binh Hoa Kỳ và gia đình của họ ; đưa ra quan điểm là người Mỹ đã chọn lầm phe để đánh giặc ; kết án chính quyền Mỹ đã thực hiện một chính sách hoàn toàn sai lầm về cuộc chiến Việt Nam đưa đến những hệ quả đau thương cho nhân dân cả hai nước, Mỹ và Việt Nam ; biện luận cho một chính sách hòa hợp hòa giải vì sau những đau thương đó, người từ hai chiến tuyến đã nhận chân ra được ai ai cũng đầy ắp tình người".

Phản biện của Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái

Nhưng quan trọng nhất là phần phản biện đối với bộ phim của hai tác giả, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái, nguyên Giáo sư thỉnh giảng University of Pennsylvania, St. Joseph’s University, Chestnut Hill College và ông Liên Thành, cựu Thiếu tá Cảnh sát quốc gia.

Chiến tranh Việt Nam, theo Ken Burns và Lynn Novick, là cuộc chiến tranh phi lý : Việt Nam ở xa Mỹ 10.000 dặm và dân Việt Nam muốn sống yên lành, không động chạm gì tới Mỹ, thì sao Mỹ lại mang quân đến đánh Việt Nam ; người lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam không biết rõ tại sao họ phải đánh giặc, và đánh giặc để làm gì ; người Mỹ đổ máu cho miền Nam trong khi chính quyền miền Nam tham nhũng, binh lính hèn nhát. Chiến cuộc Việt Nam đã giết hơn 58.000 lính Mỹ và 3 triệu dân Việt.

Chiến tranh Việt Nam, theo Ken Burns và Lynn Novick, là vô luân vì : Chính quyền Mỹ lừa dối nhân dân về sự thật của cuộc chiến. Cấp tướng và tá lừa đối chính quyền Mỹ. Lính Mỹ ăn căp đồ tiếp viện tung ra bán trên thị trường miền Nam, tạo cảnh phồn vinh giả tạo. Hình ảnh lính Mỹ chết bọc trong bao, các vùng tự do hỏa lực được tính vào sổ những thành công về quân sự, cảnh thảm sát Mỹ Lai, hằng hà vô số các chiến binh thương tật chịu tác hại về thể xác và tâm thần.

Mục đích của cuốn phim The Vietnam War nêu ra hai tiền đề phi lý và vô luân là để :

- Công nhận và thông cảm niềm đau của quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh một cách vô ích trong cuộc chiến. Cuốn phim cho biết đa số lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam là dân nghèo và da đen. Những người mang thương tật trở về với những hội chứng hậu chiến tranh cùng gia đình, không thấy lý do chính đáng của cuộc chiến.

- Cốt đưa vào tiềm thức của khán giả việc bỏ rơi miền Nam là một việc làm đúng đắn, hợp lý và có đạo đức, không có gì phải mang mặc cảm tội lỗi như một số người từng suy nghĩ. Biện luận cho quan điểm thầm kín này là nước Mỹ đã chọn lầm phe để đánh giặc. Quan điểm nầy có nghĩa là lẽ ra nước Mỹ phải chọn miền Bắc làm đồng minh của mình và cũng hiểu ngầm là chính quyền và nhân dân miền Nam phải là kẻ thù của người Mỹ mới đúng. Những đoạn phim đều tản mạn ý tưởng miền Bắc thực sự đã đấu tranh cho một lý tưởng, lính miền Bắc kiên trì, can đảm, có kỷ luật. Còn lính miền Nam thì hèn nhát, bất lực, không có khả năng chiến đấu và chính quyền thì tham nhũng, thối nát.

- Chứng minh nhân dân Hoa Kỳ, lính Mỹ chiến đấu ở Việt Nam là những nạn nhân vô tội bị chính quyền Hoa Kỳ lừa dối, gạt gẫm để thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế và chính trị của tập đoàn lãnh đạo. Giới tài phiệt trở nên giàu có thêm vì các dịch vụ cung cấp quân nhu, vũ khí, chiến cụ, xăng dầu. Các chính khách lợi dụng chiến tranh để đắc cử các chức vụ cần thiết, mị dân qua chiến cuộc Việt Nam.

- Nêu cao giá trị tình người sau cuộc chiến : Các cựu chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau cùng hội ý là cuộc chiến thật phi lý, biết cùng khóc thương cho những người bạn đã nằm xuống. Đỉnh điểm của toàn bộ 10 đoạn phim là một lời kêu gọi "Tha thứ và Hòa giải" (Forgiveness and Reconciliation".

Phản biện của Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái và Thiếu tá Liên Thành

Việc cuốn phim chỉ tập trung vào người Mỹ (dĩ Mỹ vi trung) và nhân dân, quân đội và chính quyền miền Nam được dùng làm bối cảnh với thì giờ rất giới hạn và khi cuốn phim nói đến nhân dân, quân đội và chính quyền miền Nam thì người ta chỉ nghe thấy phần lớn là những điều tiêu cực đáng ghét. Thái độ này không những vừa chối bỏ sự thật vừa nhục mạ nhân dân, quân đội và chính quyền miền Nam đã cùng chung vai thích cánh chiến đấu bên cạnh quân nhân Hoa Kỳ, vừa nhục mạ hơn 1 triệu rưỡi người miền Nam đã liều mạng sống vượt biên, vượt biển để tránh sự hà khắc gian ác của chế độ độc tài cộng sản.

Hai tiền đề phi lý

1. Lý do người Mỹ tham chiến ở Việt Nam

Có phải người Mỹ tham chiến ở Việt Nam là phi lý vì không có lý do chính đáng cho cuộc chiến hay không ? Thưa không phải.

Mỹ tham chiến tại Việt Nam vì lý do sau Thế chiến 2, sợ rằng Nga Tàu một khi chiếm được Việt Nam sẽ xua quân xuống chiếm vùng Đông Nam Á trong đó có Lào, Campuchia, Thái Lan, Mã Lai Á, Singapore, Indonesia… theo thuyết domino.

Mỹ tham chiến vì quyền lợi Mỹ, dĩ nhiên trong đó có sự cấu kết giữa quân sự và kỹ nghệ. Quân nhân Mỹ nói chung không được biết lý do tham chiến vì trong học trình của họ không có vấn đề huấn luyện chính trị. Dĩ nhiên người lính Hoa Kỳ biết rõ lý tưởng cao quý của họ là bảo vệ tự do cho miền Nam nhưng kỹ thuật dàn dựng bộ phim đã biến họ thành những tác nhân vô ý thức. Chắc chắn họ phải biết lý tưởng đó cao đẹp bằng chứng là ngày nay họ vẫn trân quý nhãn hiệu lá cờ Việt Nam Cộng Hòa.

2. Cuộc chiến Việt Nam có vô luân hay không ?

Trên thực tế không có cuộc chiến tranh nào là hợp đạo đức cả nếu chỉ nhìn bề mặt đau thương của sự chết chóc. Tranh ảnh về chiến tranh thường gây xúc động.

Bức ảnh của Eddie Adams chụp tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp gây chấn động thế giới nhưng theo điều 4 Thỏa ước Genève thì hành động hành quyết của tướng Loan hợp pháp vì Bảy Lốp không mang quân phục, đã tàn sát sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa và thường dân vô tội. Lý do của cuộc chiến đối với nhân dân miền Nam đó là lý do thật chính đáng vì lẽ phải tự vệ. Nhân dân miền Nam chỉ chống lại sự xâm lăng của phe cộng sản miền Bắc. Họ chiến đấu để bảo vệ quyền sống, quyền con người.

Phản biện mục đích thiên lệch của bộ phim

Vì hai tiền đề phi lý và vô luân nói trên, Ken Burns và Lynn Novick đề ra bốn mục đích đã nêu ở trên và được phản biện như sau :

- Không cần ai phải lặp lại sự tủi nhục của cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam cũng như không cần ai phải nêu lên sự thông cảm đối với họ. Sách vở các học giả và của chính các cựu quân nhân Hoa Kỳ đã rửa sạch mối nhục đó và hàn gắn vết thương tinh thần của họ.

- Mục đích điều hướng tư duy của người Mỹ vào việc chấp nhận lập trường cho rằng người Mỹ đã chọn lầm phe để đánh giặc là một sự kiện chứng tỏ nhóm làm phim thiếu sức mạnh trí tuệ (bản tiếng Anh dùng chữ incongruously, không đáp ứng được).

Ken Burns và Lynn Novick không hiểu được chính sách tuyên truyền với mục đích ngu dân (obscurantism) của chế độ miền Bắc. Họ bị nhồi sọ là Ngô Đình Diệm lê máy chém đi khắp nơi, người Mỹ là quái vật ăn thịt người và hãm hiếp phụ nữ. Nhóm làm phim cố tình không biết các vụ thảm sát dân lành của cộng sản tại Huế, lính trẻ vị thành niên bị xích chân vào ổ súng phòng không của Việt Cộng.

Nhóm làm phim cho rằng lính miền Nam hèn nhát, không có khả năng chiến đấu. Đây luận điệu quá sai lạc. Từ năm 1969 đến 1975, khi lính Hoa Kỳ rút hết, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại sao có thể đẩy lui địch quân trong nhiều đợt tấn công ? Tại Ấp Bắc, Bình Giả, Ia Drang, Đắk Tô… Oanh tạc của Mỹ dữ dội sao Mỹ lại thua trong lúc quân đội Việt Nam Cộng Hòa lại đẩy lui các cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ và tái chiếm tiền đồn Quảng Trị ?

Nhóm làm phim cho rằng Hồ Chí Minh trước tiên là người quốc gia yêu nước, thứ đến mới là người cộng sản trong khi tiên vàn họ Hồ là đệ tử trung thành của Đệ Tam Quốc Tế.

Nhóm làm phim cho rằng chính quyền miền Nam tham nhũng, thối nát, thực tế không có chính quyền nào trên thế giới mà không có tham nhũng. Cứ nhìn vào hiện trạng ngày nay của chế độ cộng sản tại Việt Nam thì rõ hiểu tham nhũng như thế nào.

Sau đó nhóm làm phim cho rằng chính quyền Mỹ thực hiện chính sách sai lầm khi tham chiến ở Việt Nam và đã dối gạt nhân dân Mỹ để hơn 58 ngàn người lính Mỹ phải chết. Việc chính quyền Mỹ đưa quân đội vào chiến đấu ở miền Nam có phải là đề ngăn chặn sự gian ác, độc tài của cộng sản quốc tế hay không, có phải để bảo vệ tự do dân chủ cho nhân dân miền Nam hay không thì chỉ chính phủ Mỹ mới có được những câu trả lời.

Mục đích cuối cùng của nhóm làm phim là cần phát huy tình người bằng hành động tha thứ và hòa giải hòa hợp thì, theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái và Liên Thành, đó là một lập trường hời hợt, thiếu suy nghĩ. Các tác giả này muốn nhắc lại là bộ phim có thể được dùng làm tài liệu giáo khoa trong các khu học chánh Hoa Kỳ, các đại học Mỹ là những tài liệu sai lạc sẽ có ảnh hưởng rất tai hại cho giới trẻ Hoa Kỳ vì thiếu trung thực, sai sự thật.

Sự thiên lệch của Ken Burns và Lynn Novick trong bộ phim thật là trắng trợn, lố bịch chứng tỏ tính cách vô liêm sỉ của nhóm làm phim khi họ viết về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm rằng "Ông là đấng cứu thế không có thông điệp". Hai kẻ này đúng là đồng hội đồng thuyền với nhóm viết sử của Hà Nội hiện nay. Họ chính là những kẻ làm phim có mục đích, viết sử có hậu ý.

Năm 1988, trong một lần phát biểu tại Đại học Paris VII, ông Văn Tạo, Viện trưởng Viện Sử học Hà Nội (hiện còn sống) đã nói : "Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới". Chính vì quan điểm này mà giới sử học cộng sản không cần sự thật khi cầm bút viết sử.

Ngày 28/9/2017, nhà báo Lữ Giang trong bài viết "Phim Vietnam War và mặt trái đàng sau" cho biết "chúng tôi không nghĩ rằng Ken Burns và Lynn Novick thực hiện bộ phim này để "hàn gắn vết thương chiến tranh" mà chỉ nhắm yểm trợ chủ trương mới của Hoa Kỳ biến cộng sản Việt Nam thành "đồng minh" thay thế Việt Nam Cộng Hòa trước đây".

Những sai lầm đầy dẫy trong bộ phim cùng những sự thật lịch sử đã bị hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick cưỡng hiếp một cách trắng trợn qua những sự cáo buộc đầy thuyết phục của các tác giả gần đây như Trần Anh Tuấn, Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Tiến Hưng, Nguyễn Ngọc Sẵng Nguyễn Văn Thái, Liên Thành cùng rất nhiều cây bút trên mạng, cho thấy rõ sự kiện "một đồng một cốt" giữa các cây bút cộng sản với những bộ phim nói về chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Họ là những kẻ đồng hội đồng thuyền với nhau, cùng ở trong một trường phái vì làm việc theo đơn đặt hàng và nhận định của nhà báo lão thành Lữ Giang không phải là không có cơ sở.

Từ năm 1963, sau khi cố Tổng thống Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ dùng một nhóm côn đồ đề lật đổ và sát hại, giới nghiên cứu sử học chính thống Hoa Kỳ đã cố dìm tất cả mọi sự thật của giai đoạn Đệ I Cộng Hòa (1955-1963), bôi nhọ lịch sử một cách trắng trợn. Ngoại trừ một vài cuốn sách của Suzanne Labin, của tướng Lansdale, Ellen J. Hammer… còn đại đa số theo phái chính thống đều viết rất sai lạc, nghiệt ngã về cố Tổng thống Diệm. Gần đây cuốn sách Triumph Forsaken của Mark Moyar, rồi cuốn Misalliance : Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam của Edward Miller, và nhiều sách vở khác thuộc phái phi chính thống đã viết lại giai đoạn của thời Đệ I Cộng Hòa với tinh thần trung thực, đứng đắn và công bằng hơn. Sách của họ đã có tiếng vang trên thế giới vì họ đã biết chọn con đường đúng của sử học để đi theo trong khi đó giới làm phim ảnh của Hoa Kỳ xuyên qua phim The Vietnam War của Ken Burns và Lynn Novick đi ngược lại đà tiến của lịch sử nghĩa là mặc dù họ là người của một đất nước Tự do, Dân chủ vẫn tiếp tục thực hiện chủ trương của giới sử học cộng sản đó là chỉ "làm công trình sử học để xây dựng chế độ mới". Cuốn phim The Vietnam War cũng chỉ là một sản phẩm trong nỗ lực chuẩn bị cho vai trò mới của Hoa Kỳ tại Việt Nam thời gian sắp tới mà thôi.

Nhà đại văn hào Nga Solzhenitsyn trong lời kết thúc khi nhận giải thưởng Nobel năm 1970 đã nói : "Một lời của sự thật cân nặng hơn vũ trụ" (A word of truth outweighs the world).

Bộ Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học xã hội do Tiến sĩ Trần Đức Cường chủ biên vừa được tái bản tháng 8 năm 2017 tại Hà Nội chứa đựng không biết bao nhiêu điều dối trá không đúng với sự thật, cũng như bộ phim The Vietnam War của Ken Burns và Lynn Novick dựa trên biết bao gian trá, lừa lọc cốt để phục vụ cho những ý đồ chính trị giai đoạn của nhóm làm phim, trong một ý nghĩa nào đó so với vũ trụ chỉ là một vài cơn gió thoảng, không hơn không kém. Tất cả cũng chỉ vì miếng cơm manh áo khi đụng đến vấn đề lịch sử, nhưng có điều ta cũng còn chấp nhận được là những người như Trần Đức Cường và nhóm 30 người cầm bút viết sử của chế độ Hà Nội vì đồng tiền bát gạo cần sống hàng tháng. Tuy nhiên việc đáng quan tâm chú ý là những người làm phim trẻ Hoa Kỳ như Ken Burns, Lynn Novick, sinh ra từ một quốc gia trưởng thành trong tự do, dân chủ đựng vào vị thế lãnh đạo thế giới, tương lai cá nhân họ còn dài lại đánh mất lương tâm chức nghiệp của mình trước lợi nhuận một cách dễ dàng đến thế hay sao ?

Philadelphia, ngày 24 tháng 10 năm 2017

Nguyễn Đức Cung

Chú thích :

(1) Trần Anh Tuấn, Về bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập của Viện Sử học Hà Nội, bài lấy trên mạng, tháng 9/2017.

(2) Tham khảo : Từ Phong Nguyễn Đức Cung, Bản cương lĩnh tập huấn 2016, bản lưu hành nội bộ, trang 87.

Published in Diễn đàn

Sau khi xem bộ phim dài nhiu tp "The Vietnam War" ca 2 nhà đo din Ken Burns và Lynn Novick, tôi thy có 2 vn đ cn phn bin vì các tác gi không th hiu rõ ràng, đy đ v Vit Nam nên đã đưa ra nhng nhn xét không thích hp vi thc tế.

hochiminh0

Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, thứ 2 từ phải) tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản (lần thứ 5) tại Moskva năm 1921 cùng Joseph Gothon-Lunion (thứ 3) và Leon Trotsky (thứ 4) - ảnh Hanoi @ Agence Vietnam Press

Trước hết bộ phim t ý tiếc rng hi 1945, ông H Chí Minh đã có thin chí gi đến 6, hay 8 bc thư và đin cho tng thng H.S. Truman đ kêu gi s ng h ca Hoa Kỳ đi vi cuc đu tranh dành đc lp ca Vit Nam chng thc dân Pháp. Nhưng đáng tiếc là phía Hoa Kỳ không đáp ứng, sau đó còn giúp vũ khí và tài tr cho Pháp ri thay chân Pháp tham chiến Vit Nam.

Bộ phim còn nói lên thin chí ca ông H Chí Minh trích dn Tuyên Ngôn Đc lp ca Hoa Kỳ trong bn Tuyên Ngôn Đc lp ngày 2/9/1945 Hà Ni.

Điều này phản ánh suy nghĩ ca nhiu người cho rng nếu hi đó Hoa Kỳ đáp ng li chìa tay hu ngh ca Hà Ni thì chiến tranh có th không xy ra, Vit Nam được đc lp như n Đ, Miến Đin… mà không phi đ máu.

Cũng theo luồng suy nghĩ này, nhiu người cho rng hồi 1945, ông H Chí Minh là nhà lãnh đo theo ch nghĩa yêu nước, có chú tâm giành đc lp dân tc, do Hoa Kỳ không đáp ng li kêu gi ng h và kết thân mà ông H phi buc lòng quay sang tìm s ng h ca Trung Cng và Nga Xô, ng vào lòng thế gii cng sản.

Trên đây chính cũng là lầm ln ca tôi t khi trong nước, được t đính chính sau khi nghiên cu nhiu h sơ lch s Moscow, Paris, London, Washington DC, trong các kho tư liu ca Đ Tam Quc tế Cng sn Nga, ca "Phòng Nhì" và thư vin Montpellier / Pháp, của Thư vin Quc hi Hoa Kỳ…

Ngay từ khi còn trong nước, tháng 5/1990, tôi gp ông Archimede Patty ti l k nim 100 năm ngày sinh ông H hi trường Ba Đình, chính ông A. Patty tng trong t Con Nai ca tình báo M đt nhp Vit Bc đ bt liên lc và giúp hun luyn quân s b đi Vit Minh, cho tôi biết rng ông không tiếc gì vic l làng mi quan h M - Vit, vì s th t phi như thế. Theo ông tìm hiu, hi đó, tng thng F.D. Roosevelt và tng thng H.S. Truman cùng các ngai trưởng E. Stentinius và J. Byrns nm rt chc lý lch ca ông H, qua trao đi tin tc rt đy đ kp thi gia tình báo Pháp, Anh và CIA. T đu năm 1945 h đã thông báo cho nhau rng ông H là cán b quc tế ăn lương ca Quc tế Cng sn, được hun luyn kỹ ở Moscow t năm 1924, cm đu Đng Cng sn Đông Dương và sm mun s thc hin ch nghĩa cng sn Vit Nam, Lào và Cam-bt.

Năm 1992 tôi cùng nhà sử hc Stanley Karnow gp các nhà ngoi giao M ti tr s b ngoi giao, khi trao đi v vn đ này, các bạn M cho rng c 6 bc thư ca ông H gi tng thng Truman đu được nghiên cu nhưng c tình không tr li, vì ch l li nói rng chúng tôi đang thc hin "Chiến lược be b ngăn chn ch nghĩa cng sn" - "Containment Strategy", mà các ông đích thcộng sn trá hình, không th chơi vi nhau.

Các bạn nhà báo Pháp, Anh, Đc, Nht ca tôi được trao đi v vn đ này cũng chung mt ý nghĩ là ông H là con người rt khôn ngoan, nhiu mưu mo, rt "già jeu" v chính tr. Ông có th thut "lt mm buc cht" là thế.

Năm 1945, khi thế chiến II kết thúc, phe xã hi ch nghĩa theo ch nghĩa cng sn va phôi thai Châu Âu, Châu Á chưa có nước nào theo ch nghĩa cng sn, đng cng sn Trung quc chưa nm được chính quyn, nên ông H phi che giu tht k bn chất cng sn ca mình. trong nước s đng viên cng sn ch có 1 vài nghìn, yếu t lm. Phong trào Xô viết Ngh Tĩnh năm 1930 vi các khu hiu cc đoan, bo đng "đ trí phú đa hào, đào tn gc trc tn r" không được lòng dân, còn gây phn cm mnh trong mọi gii.

Ngay từ năm 1941 phong trào Vit Minh – "Vit Nam đc lp đng minh hội" do đng cng sn ch trương đã du k bn cht cng sn, tt c các t chc ca Mt trn đu mang tên "cu quc". Thanh niên cu quc, Ph n cu quc, Binh sĩ cu quc, Công nhân cứu quc… vi tiêu chí giành đc lp dân tc, không nói gì đến giai cp và đu tranh giai cp.

Cuối năm 1946 đng cng sn Đông dương còn gi v tuyên b t gii tán đ c tp hp các nhân sĩ, quan li cũ, trí thc tham gia kháng chiến, hc đòi thủ thuật ca Staline gii th Đ tam quc tế cng sn năm 1943 đ bt tay vi thế gii dân ch chng phát xít.

Chỉ sau khi ni lin biên gii vi đng cng sn Trung Quc đã nm được chính quyn tháng 10/1949, đng Cng sn Đông dưong mi bt đu hé l bn chất cc đoan phi dân tc, bè phái ca mình, qua cuc ci cách rung đt, ci to công thương nghip, chng Nhân văn giai phm, qua v án xét li chng đng, thi lai các nhân sĩ trí thc trong 2 đng Xã hi và Dân ch, nm trn chính quyn v mình không chia xẻ cho ai, dn đến s thoái hóa, ri tha hóa toàn din, ph thuc làm tôi đòi cho đng cng sn Trung quc, bế tc, mt trn nim tin ca xã hi như hin nay.

Bài học rút ra t vn đ trên đây là Vit Nam hin nay nếu mun có nn đc lp chân chính, trn vn, hòa nhp vi thế gii hin đi đ phát trin vng chc mang li phn vinh hnh phúc cho toàn dân, ch có mt con đường là t b ch nghĩa cng sn, ch nghĩa xã hội mù m, t b con đường chia r dân tc, hèn vi gic ngoi xâm ác vi dân, tham nhũng lan tràn bt tr, hòa nhp trn vn vi thế gii dân ch, tht lòng thc hin đòan kết hòa gii dân tc, không có con đường nào khác.

Vấn đ th hai cn phn bin là trong cun phim và trên các mng thông tin tng đưa ra con s thi phng quá đáng v s quân nhân Trung Quc có mt Vit Nam trong thi chiến. Có nơi đưa ra con s 320.000, c như quân Tàu có mt khp nơi đ Quân đi nhân dân đ vào Nam hết. Không có gì gian dối bng !

Tôi từng b Tng tham mưu trong thi chiến. Con s quân nhân Trung Quc luôn được cp nht đ có các đoàn thăm viếng quà cáp khi có ngày l ln ca mi bên. S long, tên đơn v, đa đim đóng quân ghi rõ trên bn đ đ cho Cc Tuyên huấn hàng tháng c t chiếu phim đến phc v b đi "bn," và đôi khi c Đoàn văn công quân đi ca Tng Cc chính tr đến múa hát cho bn.

Phần ln là các đơn v phòng không sang đ luyn tp, hc hi kinh nghim chiến trường. Khi cao nht là 22 tiu đoàn gồm có chng 140 súng, vi quân s t 8.000 đến 12.000. H đóng quân trong rng, nhà g tm, tránh quan h vi nhân dân đa phương, xa các th trn. Ch vài tnh thuc quân khu 1.

Còn ở phía Nam sông Hng, các Quân khu 3, 4, 5, 7, 8, 9, vào min Trung và Nam bộ, - chng 92% din tích thì tuyt nhiên không có 1 quân nhân Trung Quc nào.

Đây là kiểu thng kê gian xo ca Trung Quc. Mi đt quân Trung Quc được luân phiên phái sang ch 3 đến 4.000, thi gian mi đt ch có 3 đến 4 tháng, nếu cng lại trong 10 năm là 120 tháng, có 40 đợt cng li mi là 160.000 người. H tùy tin thi phng lên 2 hay 3 ln na cho có v đông đo lm. Anh Tàu hay ngoa ngôn, phóng đi, thi phng là thế !

Nên hồi đó trong c nước, rt ít người thy, gp mt lính Trung Quốc. Phòng tùy viên quân sự trong S quán khi đông nht ch có 130 người.

Vài tỉnh phía Bc thuc quân khu 1, người dân rt vui nhn khi thy các đơn v phòng không Trung quc bn máy bay M, đó là h bn vô ti v, không h tiết kim, bn t rt xa, có khi chưa nhìn thy máy bay, mt tay bm cò mt tay giơ cao Mao tuyn bìa đ chót ; ming đc li ông Mao thuc lòng như đc kinh. Và có h được chiếc nào đâu, dù vãi đn lên tri. nếu h được 1 chiếc h đã khoe khoang hết mc.

Họ ng dy là đc Mao tuyn, trước khi cầm đũa ăn cơm, trước khi đi ng đu đc Mao tuyn, làm nhà, đào hm h đu nim Mao tuyn…

Quả tht phía Trung Quc có ln yêu cu đ cho h vào tham gia vn chuyn trên đường H Chí Minh, nhưng lãnh đo Vit Nam không chu, vì biết rng h vào d, trở v thì khó, s b mc mưu thâm.

Đó là điều cnh giác đáng khen, không như hin nay m toang ca cho tràn ngp vào trên mi đa bàn, tn Tây Nguyên, Nam b, vi các ph xá, hàng gi, hàng đc hi tràn vào khp nơi.

Trên đây là 2 điều thc tế cn phn bin qua b phim "The Vietnam War" đ tránh nhng hiu sai, hiu lm v cuc chiến này.

Bùi Tín

Nguồn : VOA, 21/10/2017

Published in Diễn đàn

Sau khi xem bộ phim "The Vietnam War" ca đo din Ken Burns và Lynn Novick, tôi có nhiu băn khoăn, k nim, suy nghĩ v cuc chiến dù chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm, mun chia s rng rãi đ cho cuc tho lun thêm sôi ni và có ích.

vnw1

Một cảnh trong Vietnam War, PBS.

Đã có nhiều nhà bình luận đến nay vn còn nêu lên vn đ: "Trong cuc chiến tranh Vit Nam phía Hoa Kỳ có th nào thng không ?". Và thng như thế nào ? vào lúc nào ?

Cũng có ý kiến khng đnh đây là cuc chiến mà Hoa Kỳ không có cách nào, không bao gi thng được. Đã có cuốn sách viết theo đ tài "Mt cuc chiến bt kh chiến thng" nói lên s bế tc ca phía Hoa Kỳ, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ đã chn nhm đi th, do không am hiu lch s lâu dài ca Vit Nam.

Đã có ý kiến nêu lên hai s kin có tính cht ri ro, đáng tiếc ở phía Vit Nam Cng Hhòa và Hoa Kỳ đã xy ra, vic Hoa Kỳ ch trương loi b hai anh em ông Dim và ông Nhu cui năm 1963 và s kin Watergate dn đến tng thng R. Nixon b mt chc năm 1974, khi cuc chiến tranh thi kỳ gay gt nht.

Theo tôi có những khả năng chiến tranh s din ra mt cách khác, rt có th Vit Nam Cng hòa và Hoa Kỳ không b thua hoàn toàn như đã xy ra.

Xin kể mt k nim khó quên đ dn chng và minh ha.

Năm 1963 - 1964 tôi tham gia đoàn nghiên cứu dài ngày ca B quc phòng - Tng lnh kéo dài hơn 1 năm. Đoàn vào đa bàn Quân khu V và vùng Tây Nguyên, các tnh Qung Nam, Qung Ngãi, Bình Đnh, Gia Lai, Kon Tum, Ban Mê Thut, đi qua nhiu binh trm trên đường mòn H Chí Minh. (Năm 1961 tôi đã vào đường mòn Hồ Chí Minh khi mi m Tr - Thiên. Lúc ấy vn chuyn chính là th bng vai và lưng người, mi người khong trên dưới 50, 60 kg, rt vt v).

Năm 1963 đường Hồ Chí Minh đã vào sâu ti Nam b, ch yếu là th bng hàng vn xe đp đy bng chân tay, tay lái ni dài bng mt chiếc gy. Mi xe thồ được chng trên dưới 1 t. Khi đi thì đy, khi tr v trm cũ thì đp cho nhanh. Đã có vài binh trm Trường Sơn Tây đường m rng, chy được ô tô.

Khi trở ra chúng tôi ngh chân th xã Đng Hi, Qung Bình. Ti đây tôi d cuc hp có mt đi tướng Võ Nguyên Giáp với đi tá Đng S Nguyên, tư lnh ca đường H Chí Minh. Cuc hp bàn k đến m rng, hin đi hóa, cơ gii hóa đường mòn, lp các trm đ xe, sa xe ti ln, m rng đường ra 6 - 7 mét đ tránh nhau, lp đường ng cho xăng du, lp thêm các cao xạ, trm thông tin, đin thoi, rađa, các nhà ngh, trm xá mi binh trm. Bn đ các binh trm cũ và mi được phác ha.

Tướng Giáp rt băn khoan lo nghĩ vì cái thế ca đường mòn có v rt mong manh, như mt si ch căng ra, nh bé, đơn đc, d b cắt đứt, không có thế b ngang đ da vào nhau. Khi hi v kh năng bo v, duy trì lâu dài thường xuyên đường vn chuyn chiến lược, mch máu ch duy nht ni lin Bc Nam, (tuy cũng có đường vn chuyn ven bin, nhưng còn nh bé lm) v tư lnh Đng S Nguyên thú nhận rng : "Nếu đi phương ch dùng không quân bn phá th bom, dù tăng cường gp bi B52 th bom thm thì không đáng lo. Vì cho đến nay, theo thng kê bom B52 th t rt cao, 4.000 đến 6.000 mét, máy bay li bay rt nhanh, nên bom tn mn ln, trung bình chỉ có 3/1.000 trái bom đng đến đường Hồ Chí Minh. Bom phá, đt đá có sn đ sa đường rt nhanh".

Nhưng đáng lo nht là nếu như phía Hoa Kỳ dùng hn 1 vài l đoàn hay 1 sư đoàn chiếm hn 1 hay 2 binh trm thì thành vn đ rt ln, rt đáng lo.

Vì địa bàn một binh trm ch ln bng 1 xã. Binh trm li có quá nhiu đu mi. K ra có đến gn 30 cơ quan, t chc. Mi binh trm có 1 Ch huy trưởng, 6, 7 ch huy phó mà vn không nm được hết tình hình. Nào là bãi đóng quân cho các đơn v ra vào, đơn v công binh và thanh niên xung phong mở đường, sa đường, nhà khách cho cán b ra vào, các nhà kho, hm kho đ th, kho súng đn, kho quân nhu, kho thuc men, kho lương thc, kho go, kho nhu yếu phm, trm giao liên chuyn công văn, không th nhn chuyn thư riêng vì không kham nổi, ri còn cao x, kho đn cao x, các trm gác quân báo bo v xung quanh, d kiến đường ng chuyn xăng du, bãi xe ti, trm sa xe, h thng thông tin đin t, đin thoi, rađa, trm thông tin…

Mỗi ch huy trưởng là mt ch huy các binh chủng hp thành, công vic phi quán xuyến, gii quyết hàng ngày trong các mi quan h vi cp trên, vi các binh trm k bên, vi các đơn v đi qua, vi chính quyn và đng y cp tnh, huyn, xã đa phương…

Chỉ nhìn sơ đ t chc mt binh trm là đã đ đ hoa mt.

lnh Đng S Nguyên t ý rt lo âu, kết lun rng cho đến nay đi phương có v ch ưu tiên dùng không quân. V b binh ch có nhng tp thám báo nh, vài chc người, chưa có trn nào dùng hàng tiu đoàn, trung đoàn hay ln hơn chiếm lĩnh hn 1 binh trm. "Xin nói tht rng tôi lo nht nếu điu đó xy ra, khi y c binh trm s như by ong v t, mi đơn v chy đi mt hướng, rt khó liên lc vi nhau đ khôi phc tình hình. Tôi lo đến mt ng vì khi y liên lc ch huy nm tình hình s mt n đnh lâu dài, vn chuyn chiến lược s b đình đn mt thi gian chưa ước đoán được".

Sau này nhiều ln gp li tướng Giáp, tôi thy ông vn gi mt ni lo âu dai dng, t ý rt băn khoăn lo ngi phía Hoa Kỳ dùng 1 hay 2 l đoàn chiếm gi hn 1, 2 binh trạm thì s khó khăn ln, phc tp ln, nh hưởng nhiu đến mi chiến trường min Nam. Có ln, vào năm 1970, ông dn chúng tôi - t chuyên viết bình lun quân s trên báo Quân đi nhân dân - là không nên nói nhiu đến tm quan trng quyết đnh ca đường Hồ Chí Minh, không được nói đến t chc phc tp ca các binh trm, không được đ l cái có th tm gi là gót chân A-sin ca quân đi min Bc, v đường cho hươu chy… Chúng tôi theo đúng như thế.

Đầu năm 1971, Hoa Kỳ và Vit Nam Cng hòa m cuc hành quân Lam Sơn 719 trên đường 9 – Nam Lào, đng đến đường Hồ Chí Minh nhưng lúc này đường đã m rng xung phía Nam, li tht bi ngay, vì rơi vào trúng kế chun b sn ca b tng tư lnh Hà Ni, trong vòng mt tháng rưỡi phi rút lui khi Khe Sanh – Tchepone – Bn Đông, không có ảnh hưởng gì đến đường Hồ Chí Minh đã hin đi hóa, cơ gii hóa, m rng, kéo dài v phía Nam.

Cho đến năm 1974, 1975, Hoa Kỳ chuyn sang chiến lược Vit Nam hóa, gim đáng k chi phí, rút dn quân Hoa Kỳ, tôi nghĩ tng tư lnh Giáp và tư lnh Đng S Nguyên mới th dài khoan khoái, nh nhõm khi thy đường Hồ Chí Minh đã an toàn, thành đi l dn đưa đi quân vào min Nam.

Tôi nhắc li ni lo âu dai dng ca tướng Giáp sut gn 10 năm (1963–1971) đ nói rng nếu như Hoa Kỳ và Việt Nam Cng Hòa m mt cuc tn công ln chiếm hn 1, 2 binh trm, mt đon dù nh con đường Hồ Chí Minh, hu qu s là đình đn kéo dài vic vn chuyn quân lính, vũ khí, quân nhu quân dng ra các mt trn, din biến chiến tranh s din ra khác hn thc tế đã din ra, cuc chiến có th ging co kéo dài và kết thúc mt cách khác.

Tôi đã kể qua chuyn này vi tướng Westmoreland hi 1998 Washington DC, ông bun bã nói rng, chúng tôi có nghĩ đến ct đt đường đó bng đơn v b binh hay thy quân lc chiến c sư đoàn, nhưng Lu Năm góc không duyt. H tin tưởng lc lượng không quân, nht là B52 ri thm bom, theo quan đim vũ khí lun, ct làm sao tiết kim tính mng binh lính, điu hết sc nhy cm hu phương nước M hi y. Ông cũng phàn nàn là tình báo quân s Hoa Kỳ không biết gì v đi phương, nht là về nhng điu cơ mt đi bn doanh.

Cũng có anh bạn nhà báo M th l vi tôi rng, đó là vì phía Hoa Kỳ có nhng nhà chiến lược lo đánh ln vào đường Hồ Chí Minh s đng chm vi Trung Quc, vì có tin đoàn xe ti trên đường là do Trung Quốc đm nhim, vi xe tải Bát Nht, người lái là sĩ quan quân gii phóng nhân dân Trung Quốc, đường ng dn xăng du cũng do Trung Quốc giúp điu hành. Mt s phán đoán vu vơ, suy din do nghèo nàn v tin tc tình báo chun xác, vì tht ra không h có lính Trung Quốc nào trên đường Hồ Chí Minh.

Xin chớ ai chp mũ cho tôi là phn đng, ch đường cho hươu chy khi tôi nói lên điu này. Vì chiến tranh không th làm li t đu. Lch s đã sang trang.

Chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm. Nay nhìn li có th nói lên nhng bí mt quân s thi chiến để cùng nhau nhìn li cuc chiến mt cách chun xác nht, khi 2 bên đã bình thường hóa, kết bn v mi mt, nhìn đến tương lai mt cách tin cy nhau trong mi quan h chiến lược lâu bn, hai bên đu có li.

Bùi Tín

Nguồn : VOA, 18/10/2017

Published in Diễn đàn

Coi bộ phim 10 tập của PBS về chiến tranh Việt Nam

Điện ảnh và truyền hình không phải là môi trường thích đáng trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp. Và chiến tranh Việt Nam lại là một trong những vấn đề phức tạp nhất từ trước tới nay. Thành ra tôi không đặt nhiều hy vọng là bộ phim của hệ thống truyền hình công cộng PBS của Mỹ sẽ mang lại một cái gì mới để giúp người ta hiểu thêm về cuộc chiến.

Nhưng với bộ phim này đuợc ca tụng như là bộ phim khách quan nhất và đã có những cố gắng để tham khảo cả về phía người Việt thành ra tôi cũng hy vọng rằng bộ phim này ít nhất cũng không như những bộ phim khác của Mỹ về chiến tranh Việt Nam, như Platoon, hoặc Born on the Fourth of July chỉ có tập trung vào phía Mỹ với Việt Nam chỉ là môt bối cảnh phụ thuộc.

war1

Platoon - Ảnh minh họa

war2

Born on the Fourth of July - Ảnh minh họa

Nhưng tôi đã thất vọng.

Tâm lý học dậy cho ta biết rằng thành kiến là những yếu tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến suy tư và hành động của con người. Có những thành kiến trở thành vô thức và nằm ngay trong khung suy tư của người ta. Và đó là điều đầu tiên ta nhận thấy trong hầu như tất cả những gì người Mỹ viết hoặc làm phim về chiến tranh Việt Nam.

Cái thành kiến vô thức thể hiện qua việc bộ phim tập trung vào các vấn đề của người Mỹ về những gì cuộc chiến đã tạo ra cho nước Mỹ. Thành ra nó không phải là một bộ phim về cuộc chiến Việt Nam mà phải nói nó là một bộ phim về cuộc chiến của người Mỹ tại Việt Nam. Toàn thể 10 tập của bộ phim về chiến tranh Việt Nam này có đến 90% là về Mỹ, Việt Nam như là một đất nước và nhất là chính thể Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Việt Nam chỉ là bối cảnh phụ thuộc. Có thể rằng các nhà làm phim làm như vậy là vì họ nhắm chính vào khối khán thính giả người Mỹ trên đất Mỹ, nhưng làm như vậy không thể nào nói là khách quan được.

war3

Cái thành kiến vô thức thể hiện qua việc bộ phim tập trung vào các vấn đề của người Mỹ về những gì cuộc chiến đã tạo ra cho nước Mỹ.

Quan trọng hơn nữa là những thành kiến cố ý của các nhà làm phim. Có ba quyển sách đã ảnh hưởng mạnh đến cái nhìn của nguời Mỹ về chiến tranh Việt Nam và những luận đề mà họ đưa ra đã trở thành tiêu chuẩn ngay cả trong các chuơng trình lịch sử về Chiến tranh Việt Nam dậy cho các học sinh trung học. Hai cuốn đầu "The Best and the Brightest" (1972) của David Halberstam và "Vietnam : A History" (1983) của Stanley Karnow đều đã bán hơn một triệu quyển, còn cuốn thứ ba "A Bright Shining Lie" (1988) của Neil Sheehan thì đã đuợc cả giải Pulitzer và giải National Book Award.

Các chủ đề của các cuốn này đều đã được bộ phim này đưa vào nội dung : chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh phi nghĩa có tính cách thuộc địa nhằm trói buộc một dân tộc chỉ muốn giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại bang. Thành ra việc tham gia vào cuộc chiến này của Hoa Kỳ đã không những tạo ra một bi kịch cho Việt Nam mà còn tạo ra một bi kịch cho chính nước Mỹ. Và để biện minh cho quan điểm đó của mình, cuốn phim phải mô tả chính quyền và quân đội miền Nam như là hủ hóa, tham nhũng và hoàn toàn tùy thuộc vào nước ngoài, trong lúc ngợi khen những người bên kia.

Ngay từ những phút ban đầu ta có thể thấy chủ ý của các tác giả. Trong một loạt những "flashback" hầu như tất cả những hình ảnh bi thảm của cuộc chiến đuợc chớp lại trong qua một cách kích thích sự chú ý của khan giả. Những mẩu phim này được quay lại theo thứ tự ngược với thời gian tỷ như ta thấy cảnh nổi tiếng cô gái trần truồng chạy bom napalm nhưng chạy giật lùi chứ không phải chạy về phía truớc. Ngay cả đoạn phim này cũng là một sự gian lận vì trên thực tế cô gái này chạy về phía quân đội Việc Nam Cộng Hòa như là nơi an toàn chứ không phải là trốn chạy quân đội Việt Nam như những nguời phản chiến vẫn thường giải thích.

war4

Trên thực tế cô gái này chạy về phía quân đội Việc Nam Cộng Hòa như là nơi an toàn chứ không phải là trốn chạy quân đội Việt Nam như những nguời phản chiến vẫn thường giải thích - Ảnh minh họa

Sau đó là đến một đoạn kể lại lịch sử Việt Nam. Nhưng đó lại là một tường thuật lịch sử rất một chiều. Đầu tiên là nhà văn Bảo Ninh nói đến truyền thống kháng chiến bảo vệ dân tộc của Việt Nam, sau đó là một lược kể lịch sử Việt Nam từ 1858 cho đến 1961 nhưng trong đó hầu như chỉ hoàn toàn tập trung vào Hồ Chí Minh và những nguời cộng sản, chen vào đó là những mẩu phim "flash forward" về những hình ảnh cuộc chiến sau 1960 khi Hoa Kỳ tích cực tham gia vào cuộc chiến. Thông điệp mà các tác giả bộ phim đưa ra thực rõ ràng : lịch sử Việt Nam không quan trọng, đây là cuộc chiến tranh của Mỹ.

Những tập sau mới chính thức đi vào cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam vì tuy rằng các tác giả bỏ qua không nói đến, nhưng cuộc chiến của Việt Nam, cuộc nội chiến thực sự giữa hai phe Quốc-Cộng vốn bắt đầu từ trước khi chiến tranh thứ hai kết thúc và Pháp trở lại Việt Nam. Sự can thiệp của nước ngoài – Pháp hoặc Mỹ - chỉ làm việc quốc tế hóa cuộc chiến mà thôi.

Bắt đầu với tập hai khi tổng thống John F. Kennedy quyết định gởi lính biệt kích Mỹ sang Việt Nam. Hầu hết các quyết định về cuộc chiến đuợc tả lại là từ Washington, trong đó những nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa không có quyền tham dự cộng với những hình ảnh về cuộc chiến trong đó có những câu mà người Việt mình khi nghe cảm thấy tủi hổ tỷ như câu của một thiếu tá Mỹ được dẫn lời nói :

"Tụi bay có thể bắn mấy thằng nhỏ da nâu bên ngoài hàng rào kẽm gai. Bay không được bắn đám ở trong. Chúng là của tao" (You can shoot the little brown men outside the wire. You may not shoot the little brown men inside the wire. They are mine). 

Khái niệm rằng cuộc chiến này là của Mỹ lại càng được làm tăng thêm khi trong toàn bộ mười tập của bộ phim hầu như tất cả cảnh quay các trận đánh chỉ có lính Mỹ đánh với quân cộng sản, một sự ngầm hiểu là Quân đội Việt Nam Công Hòa không có chiến đấu vì hèn nhát và bất lực.

Với chiến dịch Tết Mậu Thân vốn là một thất bại lớn về quân sự của phía cộng sản nhưng lại là một chiến thắng lớn về tâm lý đối với Mỹ, bộ phim tập trung vào những xáo trộn xã hội tại Mỹ, phong trào phản chiến gia tăng trong giới thanh niên và các trường đại học cùng với các cố gắng của chính phủ Mỹ để rút chạy ra khỏi Việt Nam.

Tập chót của bộ phim bỏ ra ít hơn là 15 phút để nói đến con số khổng lồ những người Việt bỏ nước ra đi cũng như là cuộc sống của những người dân miền Nam sau 1975. Tuy rằng đề tài của tập này là "hòa giải hòa hợp". Nhưng hòa giải hòa hợp này là cho người Mỹ. Nguời Việt không có phần. Rất nhiều thời giờ được dành cho đài kỷ niệm chiến tranh Việt Nam tại Washington DC và những câu chuyện của các cựu chiến binh Mỹ trở về Việt Nam hai mươi năm sau cuộc chiến để coi lại các chiến truờng cũ và bắt tay với kẻ cựu thù. Ta có cảm tuởng rằng người miền Bắc mới là bạn của Mỹ còn người miền Nam là kẻ thù.

Nhưng có lẽ ta cũng không nên quá chê trách các nhà làm ra bộ phim này. Khán giả mà Burns và Novick nhắm vào là đại đa số những người Mỹ, nhất là những người Mỹ da trắng. Người Việt chúng ta không phải là mục tiêu của các tác giả dù rằng là người Mỹ gốc Việt.

So sánh với những bộ phim khác của Mỹ về chiến tranh Việt Nam thì bộ phim này có những tiến bộ. Burns và Novick quả là đã có đi phỏng vấn một số người Việt cả ở miền Bắc và miền Nam, nhưng đó chỉ là một thiểu số đặc biệt là tiếng nói của những người miền Nam. Và bộ phim đã thu thập đuợc một số khổng lồ những hình ảnh và tài liệu của cuộc chiến giúp ta có thể tiêu khiển nếu chỉ coi phim này như là một bộ phim chiến tranh thuần túy.

Riêng tôi khi coi tập phim này là một sự đau đớn, một kinh nghiệm không muốn phải lập lại.

Lê Mạnh Hùng

(16/10/2017)

Published in Diễn đàn

Tình thế dn đến tôi có nhng người bn M. Trong chiến tranh tôi đã kết thân vi nhà nghiên cu Murray Hiebert, nhà báo Nayan Chanda, nhà s hc Stanley Karnow… qua mt s cuc hp Bangkok / Thái lan, Kuala Lampur / Malaysia, tr s Liên Hp Quc / New York và Hà Nội.

war1

Poster phim tài liệu The Vietnam War.

Sau chiến tranh, tôi li có thêm nhiu bn M na, bn thân và rt thân. Luôn gi thư cho nhau, gi thư thiếp chúc Tết đu cho nhau. Trong đó có 2 thượng ngh s John McCain và John Kerry. Đây là 2 chính khách ni tiếng, ông J. Kerry thuộc đảng Dân ch, tng chiến đu b thương min Nam, v sau là người chng chiến tranh, tng là ngoi trưởng dưới tng thng Barack Obama. Ông J. McCain vn là phi công Hoa Kỳ b bn rơi và b bt làm tù binh Ha lò Hà Ni mt thi gian. Hi đó tôi có gặp và nhiều ln phng vn ông. Ông McCain tng là ng c viên Tng thng ca đng Cng hòa, nay là Ch tch y ban quốc phòng Thượng vin Hoa Kỳ.

Năm 1992 khi tôi sang thăm Hoa Kỳ, các bạn M dn tôi đến tr s Quc Hi trên đi Capitol, tham quan d thính các cuộc hp, sau đó gp các Ngh sĩ. Tôi gp li 2 ông Kerry và McCain. Cuc gp kéo dài, thân tình, thích thú. Hai ông yêu cu tôi ra điu trn ti mt y ban ca Quc Hi v vn đ tù binh Hoa Kỳ, tôi chun b k, chân tht, biết gì nói ny, còn biếu tặng 6 cun s tay riêng ghi các cuc phng vn hơn 60 phi công M tng b tù, đ h làm k nim và nghiên cu.

Sau đó chúng tôi lại gp nhau ti gia đình nhà s hc Stanley Karnow, có th trưởng ngoi giao H. Salomon tham d. Lúc này Liên Xô đã tan v, phe XHCN đã tự gii th. Mt cuc gp thân mt m cúng. Cô con gái Catherine Karnow, mt nhà nhiếp nh chuyên nghip chp nhiu nh k nim. Hôm sau cô đưa tôi ra Bc tường k nim ghi tên ca hơn 50.000 quân nhân M t trn ti Vit Nam đ chp bc nh quý làm bìa cho cuốn sách "From Enemy to Friend" ca tôi được Naval Institute – Hc vin Hi quân Hoa Kỳ nhn in và phát hành.

Tôi còn nhớ mãi sau khi ăn tic thnh son chúng tôi ra ung càphê phòng khách, tôi nêu lên vn đ Vit Nam hin nay chúng tôi đấu tranh tập trung đòi dân ch và nhân quyn, chính là nhng gi tr then cht ca nước M mà hơn 50.000 quân nhân M đã hy sinh chiến trường Vit Nam cũng vì các giá tr y.

Ông McCain cao hứng nói : Vy ti đây chúng ta cùng nhau cam kết chung sc đu tranh cho dân chủ hóa Vit Nam cho đến khi thng li, chính là đ vinh danh tt c các quân nhân ca các bên đã hy sinh trong cuc chiến, làm cho các s hy sinh đó thêm ý nghĩa và không ung phí. Tôi ghi nhanh, đi th là "We joint all efforts in our common struggle for the whole democratization in Viet Nam, so we will glorify the sacrifice of our soldiers of all sides, that make greater sense to those heroes of the war".

Thế ri chúng tôi chia tay trong nim vui cam kết và cùng nhau ha hn, các bàn tay Mỹ - Việt úp chng lên nhau : "Hòa chung sc đ đu tranh cho Vit Nam có dân ch hóa hoàn toàn, tht s, thì lúc y mi coi như chiến tranh tht s kết thúc, thng thua rõ ràng. Lúc y Hoa Kỳ toàn thng, ngăn chn, th tiêu Ch nghĩa cng sn hoang di, nhân dân Việt Nam - c min Bc cùng min Nam – cùng toàn thng, có đc lp, dân ch, hòa hp thng nht trn vn, ba bên cùng toàn thng, ch có ch nghĩa và đng Cng sn là thua, và đi đa s đng viên ri s tr nên nhng công dân yêu nước, lương thin, như Cộng hòa liên bang Đc, Ba Lan … hin nay. H cũng thng vì h cũng được gii phóng".

Tôi hiểu hai ông bn ca tôi không quên li cam kết thân thiết trên đây. Hai ông đu là nhng nhân vt quan trng rt quý mến nhân dân Vit Nam và mong tht cht quan h chiến lược toàn diện. Gn đây ông McCain còn đến thăm cng Cam Ranh và báo tin hàng không mu hm Hoa Kỳ s cp bến thăm hi cng quân s quan trng và đp đ này. Rt tiêu biu cho hòa gii M - Vit sau cuc chiến.

Một điu quan trng là ông đi s Hoa Kỳ mi được c sp sang nhn nhim v Hà Ni, Daniel J. Kreitenbrink đã phát biu ti quc hi Hoa Kỳ rng mt trong nhng ưu tiên hàng đu ca ông "s là vn đ tôn trng nhân quyn và t do tôn giáo Vit Nam" và còn nói rõ rằng "xu hướng gia tăng các v bt gi, xét x vi nhng bn án hà khc đi vi các nhà hot đng trong 18 tháng qua là rt đáng lo ngi". Đây cũng là mt nét minh ha cho s cam kết M - Vit chung sc phn đu cho dân ch hóa tht s Vit Nam.

Nhân bàn tán về b phim Hoa Kỳ "The Vietnam War" ca Ken Burns và Lynn Novick tôi nh li li cam kết thân thiết M - Vit 25 năm trước và trình làng như mt li nhn nh chung hãy kết nghĩa M - Vit thêm cht đ hành đng mnh m theo như li cam kết bạn bè ti Washington năm 1992.

Bùi Tín

Nguồn : VOA, 11/10/2017

Published in Diễn đàn

Ánh lửa từ những bó đuốc của đoàn người da trắng đi tuần hành tại Charlottesville tháng 8 vừa qua làm sáng rực bầu trời khuôn viên trường Đại Học Virginia (UVA) gợi lại cho chúng tôi bao nhiêu kỷ niệm về vấn đề da màu và biểu tình trong suốt bảy năm theo học tại nơi đây, 1958-1965.

khi1

Cựu binh, chính trị gia Chuck Hagel trong một buổi khai trương 'Vietnam War Exhibit' ở Arlington, Virginia năm 2016

Xung đột sắc tộc và màu da ở Mỹ đã có từ trước

Đại học Virginia là trường của người da trắng vì không nhận sinh viên da đen. Và sinh viên da trắng phải là phái nam. Muốn vào UVA, nữ sinh viên phải theo học ở Mary Washington College tại Fredericksburg, cách Charlottesville 66 dặm.

Vừa tới thành phố này chúng tôi đã thấy phòng vệ sinh dành cho "White" và "Black". Thoạt đầu cũng lúng túng, không biết mình nên chọn phòng nào ?

Cái gì phải đến thì đã đến. Năm năm sau, ngày 10/09/1962, một cuộc nổi loạn ở Oxford, Mississipi làm hai người chết và một số bị thương.

Tổng thống JF Kennedy phải điều động tới 16.000 vệ binh tới để dẹp loạn và bắt chấp nhận một sinh viên da đen vào học tại Đại học Mississipi. Cả thành phố Oxford bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội. Làm sao mà ở nước Mỹ lại có thể có cái cảnh này, chúng tôi tự hỏi ?

Trong tất cả các cuộc biểu tình phản chiến, kể cả biến cố vệ binh bắn vào sinh viên biểu tình tại Đại học Kent State ngày 4/5/1970 vừa được nhắc lại trong bộ phim The Vietnam War của Ken Burns và Lynn Novick, không bao giờ có cả một thành phố bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội như vậy.

Ngày 11/06/1963 mọi người ngỡ ngàng khi thấy TV chiếu cảnh Thống đốc Alabama, ông George Wallace đứng chặn ngay trước cửa Đại học Alabama (Tuscaloosa) không cho hai sinh viên da đen vào lớp học. Tổng thống John F. Kennedy lại phải đưa vệ binh tới, và cảnh sát tháp tùng hai sinh viên nhập học.

Khi được bầu lên thống đốc ông Wallace đã tuyên bố : "Tách biệt bây giờ, tách biệt ngày mai, tách biệt mãi mãi" (segregation now, segregation tomorrow, segregation forever).

Tiếp theo là cuộc biểu tình vĩ đại "March on Washington" ngày 28/08/1963 do Mục sư Martin Luther King lãnh đạo. Thông điệp của ông về "Tôi có một giấc mơ" (I have a dream) và phản ứng của đoàn người biểu tình ước tính tới 250.000 người. Ngày hôm sau, một nhà lãnh đạo nhân quyền bị ám sát ở Jackson, Mississipi.

khi2

Bộ đội miền Bắc ở Quảng Trị

Những biến cố liên tục này làm cho nước Mỹ bất an, chia rẽ không kém gì những cuộc biểu tình phản chiến trong bộ phim The Vietnam War.

Năm 1963 thì Ken Burns mới lên mười tuổi và Lynn Novick mới lên một, không để ý tới biểu tình. Có thể vì vậy mà trong phim này, đã hàm ý rằng chỉ vì chiến tranh Việt Nam nên mới có biểu tình xé nát nước Mỹ. Phim không nói đến sự thật là vì sợ phải đi lính, một số khá đông thanh niên đi biểu tình là để chống quân dịch như chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.

Phần II của phim The Vietnam War đề cập về cùng một thời gian với cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy (Khi Đồng Minh Tháo Chạy), đó là từ Tết Mậu Thân cho tới khi Miền Nam sụp đổ. Trong cuốn sách này, chúng tôi tập trung vào việc Hoa Kỳ đã bỏ rơi miền Nam như thế nào.

Còn phim The Vietnam War, tuy có đề cập tới những sự kiện theo dòng lịch sử, nhưng tập trung vào biểu tình, thương vong, và hoàn cảnh bi đát của những người quân nhân Mỹ trên chiến trường. Họ đã không được hậu phương ủng hộ, cho nên lẫn lộn về sứ mệnh của mình : "Tôi đang chiến đấu cho cái gì đây ?" (What do I fight for ?).

Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ đề cập vắn gọn tới một số sai lầm và thiếu sót của bộ phim.

Trung thực hay thiên lệch ?

Phần II của phim vẫn tiếp tục phán xét, còn nặng hơn Phần I. Phim đã lặp lại những luận điệu của phe thiên tả rằng chính phủ Sài Gòn tham nhũng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hành động độc tài như ông vua trong một nước bé nhỏ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa không hữu hiệu, nạn trốn quân dịch.

Nặng nề nhất là đã một cách gián tiếp làm cho khán giả hiểu lầm rằng chính phủ miền Nam chỉ là bù nhìn của Mỹ.

Về tham nhũng, chúng tôi miễn bình luận vì trong những năm vừa qua, độc giả đã nghe và xem quá nhiều về tham nhũng ở ngay Washington, hay thống đốc Virginia vào tù.

khi3

Cựu binh Hoa Kỳ và cộng đồng người Việt tỵ nạn ngày nay

Tổng thống Thiệu độc tài : Ken Burns và Lynn Novick không biết rằng Sài Gòn có tới cả chục đảng phái, mấy chục tờ báo, luôn chỉ trích, công kích chính phủ ? Rồi ca nhạc phản chiến tràn lan, sinh viên xuống đường biểu tình thoải mái.

Quân đội không hữu hiệu, trốn quân dịch ? Sau trên 40 năm với bao nhiêu nghiên cứu đặt lại vấn đề thành công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà phim vẫn lập lại luận điệu xưa cũ.

Trước khi phê bình như vậy, thiết tưởng Ken Burns và Lynn Novick phải cho nghiên cứu (vì ngân sách 30 triệu USD rất lớn) xem có dân tộc nào trên thế giới này đã chịu chấp nhận cho gần một phần ba số thanh niên nam ở tuổi lao động (1,2 triệu trên 3,9 triệu) đi quân dịch hay không ?

Quả thật đã có nạn lính ma, lính kiểng nhưng chỉ là số rất nhỏ, đại đa số đã vui lòng nhập ngũ.

"Hành động nói to hơn lời nói" : Chính Đại sứ Graham Martin là người có mặt tại Sài Gòn đến giờ phút cuối cùng đã phải cải chính trước Quốc Hội rằng (sau khi Mỹ rút hết từ mùa Xuân 1973) :

"Miền Nam chỉ mất một tỉnh đầu tiên là Phước Long vào tháng 1/1975 khi các ngài đã cắt hết viện trợ".

Lúc ấy quân đội chỉ còn đủ đạn dược để chiến đấu 30-45 ngày. Cho nên nếu ngày 30/4 không xảy ra thì muộn lắm cũng sẽ xảy ra hai tháng sau, vào ngày 30/6/1975 ?

Chính phủ miền Nam là bù nhìn của Mỹ ? Cáo buộc này đã được nhiều người phản biện. Nơi đây, chúng tôi chỉ nhắc lại như thế này : tuy dù vì hoàn cảnh thật nghèo sau mười năm chiến tranh của Pháp (1945-1955), Việt Nam Cộng Hòa đã phải lệ thuộc vào viện trợ của Mỹ nhưng không phải vì thế mà lãnh đạo của họ trở thành bù nhìn.

Như đã đề cập trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã yêu cầu Tổng thống Kennedy rút cố vấn đi, và cũng không muốn cho Mỹ đưa quân đội tác chiến vào miền Nam.

Khi thấy Mỹ bỏ Lào, ông nhìn thấy chân trời tím và biết rằng trước sau thì Mỹ cũng bỏ rơi miền Nam nên muốn điều đình với miền Bắc để tìm một giải pháp hòa bình. Ông đã chống lại Mỹ và sau cùng đã hy sinh tính mạng để giữ được chính nghĩa quốc gia.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Thiệu đã nhất quyết chống lại Tổng thống Nixon, không chấp nhận bản dự thảo Hiệp định Paris cho dù bị đe dọa sẽ có đảo chính giống như 1963, rồi Tổng thống Nixon còn tàn nhẫn đến mức nói "cắt cổ ông Thiệu nếu cần thiết". Nhưng Tổng thống Thiệu vẫn cưỡng lại. Sau cùng Tổng thống Nixon phải bí mật cam kết để bảo đảm hòa bình và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam để đổi lấy sự đồng ý của Tổng thống Thiệu. Nhưng cam kết thì cũng chỉ là mánh khóe để bỏ rơi miền Nam (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy).

Không giải thích cho rõ tại sao thương vong lên cao ?

Tử thương lên tới 58.200 người là vì hai lý do :

Thứ nhất : Mỹ muốn trực chiến. Mặc dù cả hai tổng thống Việt Nam Cộng Hòa - Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu - đều đã yêu cầu là Mỹ chỉ cần yểm trợ phương tiện, vật chất và huấn luyện quân đội miền Nam để họ tự bảo vệ, rồi chỉ yểm trợ khi nào bị tấn công, nhưng Mỹ đã không nghe, cứ mang thật nhiều quân vào rồi đưa họ ra chiến trường.

Ngay từ lúc Mỹ mới nhúng tay vào miền Nam cũng đã có sự bất đồng ý về chiến thuật giữa cố vấn Mỹ và tuớng lãnh miền Nam. Trong một buổi họp, viên tư lệnh Mỹ ở miền Nam đã nói toạc ra là "ai chi tiền thì người đó chỉ huy" (who pays, commands). Rồi tới khi chiến tranh leo thang, sứ mệnh của quân đội Hoa Kỳ được xác định là chiến đấu, sứ mệnh quân đội miền Nam là gìn giữ an ninh ở hậu phương.

khi4

Lễ đưa thi hài quân nhân Mỹ về nước năm 1965 tại sân bay Tân Sơn Nhất

Vì thế Tướng Westmoreland đã theo một chiến thuật gọi là "tìm và diệt địch" (search and destroy). Người lính Mỹ đi tìm địch phải lội vào bùn lầy, trực thăng thả họ xuống những nơi hẻo lánh, núi đồi hiểm trở. Trận Đồi 937 (còn gọi là Hamburger Hill) ờ Thung lũng A Shao có tới 56 tử thương và 480 bị thương.

Vì quân đội Mỹ đã chủ động, nên quân đội miền Nam không được huấn luyện tối đa cho tới năm 1969 khi Mỹ bắt đầu rút. Lúc ấy mới có chương trình Việt Nam Hóa, giúp tân trang và đẩy mạnh huấn luyện. Ta nên nhớ chỉ sau Tết Mậu Thân quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới được trang bị súng M-16, còn trước đó chỉ là loại cổ, súng Garrant M-1 và súng Carbine từ thời Đệ nhị Thế chiến.

Thứ hai, Mỹ áp dụng mô hình chiến tranh quy ước (conventional warfare) để đánh chiến tranh du kích. Mô hình này dựa vào hai yếu tố chính yếu, đó là "di động tính và hỏa lực" (mobility and fire power). Di động tính là dùng nhiều trực thăng để chuyển quân, nhưng trực thăng bay thấp, dễ bị bắn trúng. Hỏa lực : máy bay thả nhiều bom đạn và đại pháo gây nhiều thương vong cho người dân Việt và có khi còn cho cả người lính Mỹ.

Không nói hết sự thực về lý do 'biểu tình phản chiến'

Trong suốt thập niên 1960, chúng tôi - trước là sinh viên, sau là giáo sư - đã sinh hoạt gần gũi với các sinh viên : phản chiến có, ủng hộ có. Đôi khi còn đi lẫn vào đám đông để quan sát, nghe ngóng, cho nên đã thấy ngay sự thiếu sót của bộ phim về 'biểu tình phản chiến.' Phim lại dành nhiều thời giờ cho phong trào này.

Như đã đề cập trên đây, những cuộc nổi loạn, xung khắc về da màu đã châm ngòi phong trào biểu tình ngay từ năm 1962, ba năm trước khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng (3/1965). Khi cuộc chiến bùng nổ, phong trào phản chiến nhập luôn với phong trào nhân quyền, làm cho những cuộc biểu tình trở nên náo động và xáo trộn hơn, như :

  • Biểu tình tại Washington ngày 21/10/1967 (100.000 người) ;
  • Xáo trộn tại đại hội Đảng Dân Chủ vào mùa hè 1968 ;
  • Biểu tình (lớn nhất) tại Washington ngày 15/11/1969, với khẩu hiệu "Moratorium March", ước tính giữa 250.000 - 500.000 người (phim dùng con số 500.000 người).

Độc giả lưu ý là vào ngày 4/4/1970 cũng có cuộc biểu tình lớn nữa, nhưng với khẩu hiệu là "Tuần hành cho chiến thắng" (March for Victory) : có tới 50.000 người tham dự.

Qua hình ảnh và dẫn giải, phim cho khán giả cái ý niệm là biểu tình sôi động như vậy chỉ vì chiến tranh Việt Nam.

Thực ra thì có nhiều phong trào xen kẽ với nhau. Nhiều khi những người đi biểu tình còn mang cả biểu ngữ khác nhau.

Ngoài nhân quyền của Mục sư Luther King, các cuộc tuần hành còn có nhiều mục tiêu khác, thí dụ như :

  • Tranh đấu tăng công ăn, việc làm (kết quả là chương trình Equal Opportunity Employment) ;
  • Yêu cầu phải cung cấp nhà cửa cho người có lợi tức thấp (kết quả là Tổng thống Johnson lập ra bộ Phát triển gia cư và thành thị - Housing and Urban Development) ;
  • Chống bất bình đẳng nam nữ ;
  • Tranh đấu cho quyền của người đồng tính luyến ái (Gay Movement) ;
  • Quan trọng nhất là "Phong trào Chống lại Quyền uy" (Anti-Establishment Movement), với những khẩu hiệu "phá nát nhóm chiếm ưu thế trong xã hội (tearing down the establishment), đứng lên đối mặt với nhóm quyền uy ("standing up to the establishment".

khi5

Quân nhân Việt Nam Cộng Hòa cứu giúp người tỵ nạn

Liên kết với phong trào này là nhiều nhóm đi biểu tình làm cho chính chúng tôi cũng lẫn lộn, như : Quân giải phóng Symbionese, Đảng Black Panthers, Malcolm X, Malvina Reynolds, Ron Paul, Noam Chomsky, Bernie Sanders, John Lennon, K-Rino, Anti-Flag, Terminator X, Gil-Scott Heron.

Rất ồn ào là phong trào Hippy với khẩu hiểu "Giao hoan, không giao chiến" (Make love not war).

Tuy rằng đa số thanh niên Mỹ đã tự nguyện, nhưng còn thành phần - tuy nhỏ nhưng rất ồn ào - sợ bị gọi nhập ngũ, nên tham gia biểu tình, thực ra là để chống chế độ quân dịch, nhưng cứ hô lên lý do phản chiến là vì cuộc chiến này 'vô nghĩa' (meaningless), 'phí phạm' (wasteful), chính phủ nói dối...

Chứng cớ là khi Tổng thống Richard Nixon chấm dứt chế độ quân dịch vào ngày 1/7/1973, thay thế bằng chế độ tự nguyện, thành lập quân đội tình nguyện (All votunteer army) thì phong trào biểu tình hầu như biến mất.

Cuộc chiến hiện nay tại Iraq - Afghanistan đã kéo dài tới 16 năm và chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm, tốn phí tới 2,4 ngàn tỷ (trillion) USD. Theo ước tính của Đại học Harvard thì sẽ có thể tới 4 ngàn tỷ USD tới 6 ngàn tỷ USD, tốn hơn chiến tranh Việt Nam rất nhiều (khoảng 250 tỷ USD - tương đương 1,7 ngàn tỷ USD tính theo mãi lực 2017).

Số quân nhân được điều động thay nhau tới chiến trường này ước tính cũng đã tới 2,5 triệu người (xấp xỉ bằng chiến tranh Việt Nam) mà sao trong 16 năm qua, biểu tình chống chiến tranh chỉ xảy ra trong hai năm đầu (2001-2002) : thí dụ như ở Los Angeles (2.500) ; San Francisco : 10.000 người. Lớn nhất là tại Washington (tháng 2/2002) khoảng 75.000 người.

Từ đó, tức là trong 12 năm qua, không thấy có biểu tình. Dĩ nhiên là cuộc chiến này được biện luận với lý do chống khủng bố (war on terror) nhưng Tổng thống George W. Bush nhảy vào Iraq và những cáo buộc rằng ông đã nói dối về lý do của cuộc chiến thì vẫn còn là những vấn đề tranh luận (như đánh giá của Bob Woodward trong State of Denial).

Không đề cập đến kịch bản tháo chạy

khi6

Henry Kissinger và Richard Nixon -  'Vì sao bộ phim của Ken Burns và Lynn Novick không phỏng vấn ông Henry Kissinger ?'

Phần II của bộ phim nói về giai đoạn từ đầu 1969 tới tháng 4/1975 : đó là thời gian mà Cố vấn (rồi kiêm Ngoại trưởng) Henry Kissinger đóng vai trò chính yếu của Hoa Kỳ về 'The Vietnam War'. Thế mà phim không phỏng vấn ông Kissinger cho kỹ để tìm hiểu về kịch bản phản bội và tháo chạy.

Hầu như một mình, chỉ một mình ông Kissinger đã làm việc trong bóng tối, thao túng nền ngoại giao Hoa Kỳ. Có lần ông tâm sự với ký giả Oriana Fallaci :

"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã ; chỉ mình với ngựa thôi... Có thể là không có cả súng nữa…" (Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 66-67).

Ông là một nhà ngoại giao thiên tài, nhưng đồng thời cũng là một con người mưu mô, gian dối - chúng tôi gọi là 'Đao phủ Henry II', người có trách nhiệm lớn trong việc bức tử Việt Nam Cộng Hòa ('Đao phủ Henry I' là ĐS Henry Cabot Lodge, người đã xúi bẩy tướng lãnh đảo chính và sát hại Tổng thống Diệm). Như vậy là miền Nam đã thật xui vì gặp phải hai tay Henry.

khi7

Năm 1968 : Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và trẻ em trong một trại tỵ nạn vùng đồng bằng sông Cửu Long

Phim không nói gì tới - mà rất có thể là Ken Burns và Lynn Novick cũng không biết - sự kiện rất quan trọng là 'bốn năm mật đàm của Kissinger (từ đầu 1969 tới cuối 1972) là hư vô' vì cuối cùng ông đã chấp nhận tất cả những đòi hỏi gói ghém trong 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng đưa ra từ năm 1969.

Kissinger còn nhượng bộ nhiều hơn đòi hỏi, đó là chấp nhận rút hết quân đội Mỹ nội trong 60 ngày.

Lập trường đàm phán 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng đâu có đòi hỏi điều này ? Và trong bốn năm ấy, có tới gần 21.000 người quân nhân Mỹ thiệt mạng, tương đương bằng 36% tổng số tử thương của Mỹ trong cả cuộc chiến (58.200).

Trong bốn năm ấy, bao nhiêu thương vong, tàn phá, cho cả hai miền Nam, Bắc. Vụ ném bom B-52 tại Hà Nội cuối năm 1972 còn đào sâu thêm nữa hận thù Nam Bắc.

Khi tôi hỏi Tổng thống Thiệu về vụ này, ông trả lời :

"Nếu Kissinger có thể ném bom Dinh Độc Lập thì ông ta (Tổng thống Thiệu dùng chữ khác) cũng đã không ngần ngại".

Ông Thiệu cho rằng nếu Mỹ cứ rút quân đi và không có Hiệp định Paris thì có lợi hơn nhiều cho miền Nam, vì ít nhất Quốc Hội Mỹ còn chút lương tâm, sẽ không cúp viện trợ quá đột ngột và quá nhanh chóng với lý do là miền Nam đã có cả hòa bình, cả danh dự, như thế là đủ rồi.

Kissinger nhất quyết phải có được một hiệp định để chứng tỏ rằng ông đã thành công và giữ được sự tin cậy (credibility) của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Sự thực là ngược lại.

Vì phim không soi sáng về những sắp xếp xảo quyệt của ông Kissinger để tháo chạy cho nên đã làm cho khán giả tiếp tục hiểu lầm về những gì đã dẫn tới bi kịch trong phần kết của cuốn phim : Sài Gòn sụp đổ và ngày cuối cùng là thê lương ảm đạm.

khi8

Các nhà lãnh đạo phe thắng cuộc : từ trái sang : Tôn Đức Thắng, Nguyễn Hữu Thọ và Lê Đức Thọ ở Sài Gòn năm 1975

Trong cuốn The Palace File (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập) (1986) chúng tôi có đề cập tới những sắp xếp của Kissinger (Chương 5 và 9).

Chắc chắn rằng những nhà bình luận của phim The Vietnam War đã đọc cuốn này, vì có nhắc tới một câu nói đến việc Tổng thống Thiệu phàn nàn về "Mỹ đã tìm được nhân tình mới (Trung Quốc)…" nhưng không dẫn nguồn, mà chỉ nói "Ông Thiệu nói với một phụ tá". Và chỉ có thế, không nhắc tới những tài liệu và bằng chứng về phản bội.

Đây là một thiếu sót quan trọng vì cuốn The Palace File đã được William Safire của tờ New York Times đánh giá là "Một cuốn sách làm ta mở mắt", và The New York Times/ Book Review còn chọn nó cho các ứng cử viên Tổng Thống phải đọc : "Vừa Đọc Vừa Vận Động : Một Lớp Cấp Tốc Cho Chức Vị Tổng Thống". Sách cũng được Tổng thống Ronald Reagan và cựu ngoại trưởng George Schultz trân trọng.

Mười năm sau cuộc chiến, Đại sứ Martin đã đi tới kết luận : "Rút cuộc chúng ta chỉ phủi tay và tháo chạy" (In the end we simply cut and ran).

Trong một buổi làm việc tại Trung Tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ có Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu I tham dự, Tướng William Westmoreland, cựu Tư lệnh quân lực Mỹ tại Việt Nam đã tóm gọn sự sụp đổ bằng ba chữ : "We betrayed you !" - Chúng tôi đã phản bội các ông.

Kết luận

Điểm son của phim The Vietnam War là đã phần nào lấy lại danh dự cho người quân nhân Mỹ vì họ đã phải chiến đấu trên một chiến địa khó khăn, hiểm trở, chấp nhận thương vong, rồi trở về thấy quê hương mình bị chia rẽ. Họ không được chào đón hân hoan như đoàn quân chiến thắng sau Thế Chiến II. Nhiều khi còn bị chế riễu.

Tuy nhiên bộ phim thiếu trung thực và thiên lệch. Burns và Novick chỉ nói đến 'một nửa ly nước vơi' (half empty). Chúng tôi thấy đã có bài trên internet với chủ đề "Burns và Novick, những người thày của quân bình sai lầm" (Burns and Novick, masters of false balancing).

Phim lấy tên là The Vietnam War mà lại không nói về lý do tại sao có cuộc chiến, và những gì đã thực sự xảy ra - Why Vietnam War ? What happened ?

Như chúng tôi đã đề cập trong bài trước : lý do nhảy vào Việt Nam của năm đời tổng thống Hoa kỳ (Ngoại trưởng Foster Dulles còn dùng ba chữ "Take the plunge" - phải lao vào) là để bảo vệ quyền lợi của Mỹ chứ không phải để bảo vệ tự do của người Miền Nam.

Sau cùng, thật đáng tiếc là bộ phim đã không rút ra được những bài học quan trọng cho nước Mỹ và đồng minh - What Lessons from the War ? Chúng tôi đã tóm gọn một số bài học trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào (Chương 28) và Khi Đồng Minh Tháo Chạy (Chương 20), thí dụ như 'đừng can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị và quân sự của nước khác.'

Ta có thể đặt ra một câu hỏi : liệu bài học này có thể giúp cho nước Mỹ tránh được những lầm lỗi trong tương lai như đã lầm lỗi khi can thiệp quá sâu vào việc lật đổ chính phủ Mossadeq ở Iran và việc giải tán quân đội Iraq sau khi lật đổ Sadham Hussein, dẫn đến tình trạng sình lầy của nước Mỹ ngày nay ở Trung Đông hay không ?

Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng

Nguồn : BBC, 09/10/2017  

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh Tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh Nhảy vào (2016).

Published in Diễn đàn
vendredi, 06 octobre 2017 12:51

‘The Vietnam War’ là chiến tranh gì ?

Bộ phim tài liThe Vietnam War gồm 10 tp, thi lượng kéo dài 18 tiếng đng h ca hai nhà đo din phim tài liu ni tiếng ca M là Ken Burnes và Lynn Novick, va được khi chiếu hôm 17-9-2017, trên h thng truyn hình PBS (Public Broadcasting Service), mạng truyn thông công cng bất vụ li vi 349 đài truyn hình trên khp Hoa Kỳ. Sau đó, The Vietnam War đã được ph biến rng rãi trên mng internet toàn cu, ai cũng có th coi được.

vnwar1

Poster phim tài liệu The Vietnam War.

Bộ phim nhiu tp nói v cuc chiến tranh Vit Nam này, đã được s quan tâm ca gii truyên thông, người dân Hoa Kỳ cũng như người Vit Nam trong cũng như ngoài nước, vi nhng cm nhn và phn ng tâm lý, tình cm, đánh giá khác nhau.

Bài viết này không nhm nhn xét phê bình b phim nhiu tThe Vietnam War nên không đi sâu vào các chi tiết ca b phim, mà chỉ tìm cách lý gii vì sao người xem đã có nhng cm nhn và phn ng tâm ký, tình cm khác nhau, qua ch đ : The Vietnam War là chiến tranh gì ?

1. The Vietnam War  "cuộc kháng chiến chng đế quc M xâm lược, gii phóng Min Nam, thng nhất đất nước" hay là "cuộc chiến tranh chng M cu nước, gii phóng dân tc", không phải là "cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng" tại Vit Nam ?

Đó là tên gọi cuc chiến Vit nam ca đng và nhà cm quyn cng sn Vit Nam tng là mt bên trong cuc chiến hôm qua, cho đến bây gi vn gi như thế. Nghĩa là Vit cng không coi đó là "Cuộc ni chiến" giữa người Vit Nam theo ý thc h quc gia (gọi tt là Vit quc) và người Vit Nam theo ý thc h cng sn (gọi tt là Vit cng).

Như thế, Vit cng t coi chính quyền, quân đi ca chế đ Min Bc (Việt Nam Dân Ch Cng Hòa) trong cuộc chiến là chính danh, đi din cho dân tc đ có quyn phát đng và tiến hành "chiến tranh chng Đế quc M xâm lược, gii phóng Min Nam, thng nht đt nước". Đồng thi Vit cng coi chính quyền và quân đi Vit quc trong chế đ Min Nam (Việt Nam Cng Hòa) là "ngụy quyn và ngy quân" tay sai do "đế quc M" dựng lên và cưu mang. Nói cách khác, Vit cng đã đng hóa Hoa Kỳ như thc dân Pháp xâm lược đô h Vit Nam ; chính quyn và quân đội Vit Nam Cng Hòa như chính quyn, quân đ dưới chế đ quân ch chuyên chế Vit Nam dưới thi Pháp thuc (1858-1954).

Nhận đnh :

Cách gọi trên hin nhiên là ch quan, mt chiu, không đúng vi thc cht cũng như thc tế khách quan ca cuc chiến Vit Nam. Tt nhiên không được người Vit quc gia hay là người Vit Nam không cng sn chp nhn. Vì ai cũng biết đó ch là kch b"ngụy dân tộc" để tiến hành cuc chiến tranh xâm chiếm Min Nam dưới ngn c"Chống M cu nước, gii phóng dân tc" ; để nhân dân trong nước và quc tế lm tưởng cuc chiến tranh này ch là s tiếp ni "cuộc kháng chiến chng thc dân Pháp xâm lược, giành đc lp".

Kịch b"ngụy dân tc" này từng được dùng đ che đy "cái đuôi cộng sn" ngay từ trong thi kỳ kháng chiến chng Pháp ca Vit Minh (mặt n ca Vit cng), dưới ngn c"giải phóng dân tc" hòng khơi dy lòng yêu nước chng ngoi xâm ca người dân để huy động "Sức người, sc ca" toàn dân vào cuộc chiến. Vì ngay t thi đó, ch nghĩa cng sn còn xa l và đã là ni s hãi ca dân chúng Vit Nam khi nghe nói v mt ch nghĩa ngoi lai "Tam Vô" (vô tổ quc, vô gia đình và vô tôn giáo). Thế nên, sau khi thống tr mt na nước Min Bc, Vit cng tiếp tc dùng bng hi"ngụy dân ch, ngy cng hòa"cho chế đ là "Việt Nam Dân Ch CộngHòa" có từ sau 1945. Đng thi đã dùng tên đng Lao Đng Vit Nam làm mt n cho đng cộng sản Việt Nam (từ 1951). Tất c b mt "ngụy dân tộc" và "ngụy dân ch, ngy cng hòa" này đều đã l nguyên hình trước là Vit Minh, sau là Vit cng, ch là công c ca cng sn quc tế, đánh Tây, đánh M không phi đ giành đc lp cho dân tc, mà đ giành chính quyn thc hin ch nghĩa cng sn, phi dân tộc. Vì thế, sau khi chiếm được Min Nam thng nht đt nước, đã đưa c nước tiên lên "xã hội ch nghĩa" (tức giai đon đu ca cng sn ch nghĩa vi đnh cao là Thiên đường cng sn !).

Vì ngay khi cuộc chiến tranh đang din ra, chính lãnh t cng đảng Viêt Nam H Chí Minh đã tng khng đnh "Đối vi cách mng Vit Nam và dân tc Vit Nam, ch nghĩa Mác Lê không nhng là mt cm nang thn kỳ mà còn là mt tri soi sáng con đường thng ti thng li cui cùng, ti ch nghĩa xã hi, ch nghĩa cng sn". Còn Lê Duẩn, c tng Bí thư đng cộng sản Việt Nam, sau cuc chiến cũng tng tuyên b"Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quc…Một s t thú làm công c tri tình cho cng sn quc tế tiến hành "chiến tranh cách mng(đ)", núp dưới chiêu bài "Chiến tranh giải phóng dân tc" để nhum đ Min Nam Vit Nam, tiến đến mc tiêu ti hu là cng sn hóa toàn cu ca cng sn quc tế, đng đu là hai tân đế quc đ Nga-Tàu (thực tế nay đã thất bi hoàn toàn và vĩnh vin).

Thế nhưng đến nay, Vit cng vn trơ trẽn đeo mt n cng sn cho chế đ "đỏ v xanh lòng" bằng bng hiu "Cộng hòa xã hi ch nghĩa Vit Nam"Mặc du "Tổ quc xã hi ch nghĩa Liên Xô" và hầu hế"các nước xã hi ch nghĩa anh em" đã chết t 27 năm ri (1990-2017).Thành ra, vai trò của cng sản Liên Xô là gì và Cng sn Bc Vit phát đng và tiến hành chiến tranh xâm chiếm Min Nam cho ai, không cn nói ra thì ai cũng biết câu tr li là gì ri.

Đến bây gi, sau nhiu ngày im lng, báo chí Vit Nam hôm 21/9/2017 va qua đã đăng thông tin liên quan tới b phim tài liu The Vietnam War của M, khi trích li tuyên b chính thc ca người phát ngôn B Ngoi giao Vit Nam Lê Th Thu Hng nói : "Cuộc kháng chiến chng M ca nhân dân Vit Nam là cuc kháng chiến mang tính chính nghĩa, đã phát huy được s đoàn kết và sc mnh ca toàn dân tc, được bn bè và nhân dân trên toàn thế gii hết lòng ng h. Chính vì thế đã đi đến thng li cui cùng là thng nht đt nước".

Đây là phản ng chính thc đu tiên v b phim nhiu tThe Vietnam War đang được nhiu người trong nước theo dõi. Ni dung b phim phn ánh thc cht cũng như thc tế không phi là cuc chiến mà bao lâu nay đng và nhà cm quyn cộng sản Việt Nam đã tuyên truyn la bp ; trong đó có nhng hình nh, s tht bt li liên quan đến các lãnh t Vit cộng hàng đu như H Chí Minh, Lê Dun, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… và nhng ti ác chiến tranh không th bin minh (như v thm sát hàng ngàn người cùng màu da sc máu Vit tc trong cuc tng tiến công vào các đô th Min Nam dp Tết Mu Thân 1968…). Sau hơn 42 năm chiến tranh Vit Nam kết thúc (1975-2017) đng và nhà cm quyn Vit Cng vn còn gi cuc chiến Vit Nam theo kch bàn ngy dân tc là "Cuộc kháng chiến chng M ca nhân dân Vit Nam là cuc kháng chiến mang tính chính nghĩa…" như li người phát viên Lê Thị Thu Hng nóihoàn toàn duy ý chí, trái với thc cht và thc tế ca cuc chiến tranh này.

2. The Vietnam War là "Cuộc chiến tranh xâm lăng ca cộng sản Bc Vit" hay  "cuộc chiến tranh t v chng cng sn Bc Vit xâm lăng"không phải là "cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng" ?

Đó là cách gọi cuc chiến Vit Nam ca mt s người Vit quc gia hay là người Vit Nam không cng sn tng sng Min Nam dưới chế đ Vit Nam Cng Hòa, tng là mt bên trong cuc chiến. Nhng người này vẫn không coi là môt "cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng" tại Vit Nam. Nhng người gi tên như thế, đã da trên căn c pháp lý là bn Hip Đnh Genève ngày 20-7-1954 chia đôi đt nước, ly vĩ tuyến 17 làm biên gii tm thi phân chia hai Min Bc và Nam Việt Nam ; và Hip Đnh Paris năm 1973 v chm dt chiến tranh lp li hòa bình cho Vit Nam.

Theo đó, với hip đnh Genève 1954 chia đôi Vit Nam, đã tạo ra hai thc th hi đ yếu t cu thành hai quc gia (lãnh thổ, dân cư và chính quyn) theo công pháp quốc tế.Vì vậy cuc chiến Vit Nam là cuc chiến gia hai quc gia nên không th coi là "nội chiến" được ; mà phải gi là cuc "Cuộc chiến tranh xâm lăng" của quc gia Min Bc Vit Nam (Việt Nam Dân Ch Cng Hòa) đối vi quc gia Min Nam Vit Nam (Việt Nam Cộng Hòa). Do đó, về phía Vit quc cũng có th gi là "cuộc chiến tranh xâm lăng ca cng sn Bc Vit" hay là "Cuộc chiến tranh t v chng cng sn Bc Vit xâm lăng"….Cuộc chiến tranh này đã kết thúc vào ngày 30/4/1975 sau khi quc gia Vit Nam Dân Chủ Cng Hòa Min Bc dùng bo lc xâm chiếm quc gia Vit Nam Cng Hòa Min Nam. Như tế là đã vi phm trng trn Hip Đnh Paris 1973 và c Hip Đnh Genève 1954 mà Vit Minh hay Vit cng đã ký kết vi thc dân Pháp chia đôi đt nước.

Nhận đnh :

Dường như nhng người Vit Quc nào, mun da trên căn c pháp lý trên đ không coi cuc chiến gia Vit Cng và Vit Quc là ni chiến, là đ có cơ s pháp lý đu tranh đòi các cường quc đóng vai trò bo đm vic thc thi hai bn Hip Đnh Genève 1954 và Paris 1973, "buộc Vit Cng" phải thi hành nhng cam kết trong hai bn Hip Đnh này vì đã vi phm trng trn khi dùng bo lc cưỡng chiếm quc gia Vit Nam Cng Hòa Min Nam Vit Nam. Nghĩa là đòi phi tái lp nguyên trng Quc gia Vit Nam Dân Ch Cng Hòa ở Min Bc Vit Nam và quc gia Vit Nam Cng Hòa Min Nam Vit Nam, như trước 30/4/1975, ngày Cng sn Bc Vit xâm chiếm Min Nam, đ thng nht đt nước môt cách hòa bình... Đ t đó và sau đó có cơ s pháp lý "Đòi trả li" các hải đo thuc hai qun đo Trường Sa Hoàng Sa ca Vit Nam đã b Trung Cng cưỡng đot năm 1974 và sau đó, khi các đo này thuc ch quyn quc gia Vit Nam Cng Hòa Min Nam trong thi kỳ chiến tranh.

Thế nhưng theo nhn đnh ca chúng tôi, thc tế liu các cường quc có trách nhiệm bo đm vic thc thi hai Hip Đnh Genève 1954 và Hip Đnh Paris 1973 có "buộc được Vit cng" tái thi hành các hiệp đnh này ; hay có căn c pháp lý "đòi Trung Cộng tr li" các đảo đã cưỡng đot ca Việt Nam Cộng Hòa hay không ?

Tr li câu hi này tht không đơn gin. Vì c hai Hip Đnh này đu được hình thành trong bi cnh khác nhau, song đu do s ch đng ca các cường quc liên quan đ "thoát hiểm nht thi" nhằm thành đt li ích chiến lược riêng nào đó, ch h không cn đ các Hip ước đó được thc thi.

Vả li, nên nh là chính quyn Quc gia và kế tc là Vit Nam Cng Hòa, đã t chi cùng vi M đã không ký vào văn bn Hip Đnh Genève 1954 thì không có quyn ni ra đ coi là tình trng chiến tranh gia hai quc gia dược. Vì thc tế c hai chính quyn cng sn Bc Vit và chính quyn quc gia Nam Vit đu coi nước Vit Nam là mt, vi mt đt nước, hai chế đ chính tr đi nghch, không tha nhn nhau, đu t nhn là chính danh, đi din dân tc Vit Nam đ ph đnh nhau, tiêu dit nhau…

3. The Vietnam War là "cuộc chiến tranh y nhim"(proxy war) không phải là "cuộc ni chiến" (domestic warfare)

Những người gi tên cuc chiến như thế,có th là nhng người Vit Nam không cng sn tng sng dưới hai chế đ đi nghch trong cuc chiến trên hai min Nam Bc Vit Nam. Nhng người này căn c vào thc tế cuc chiến din ra trên hai min đt nước Vit Nam trong bối cnh "cuộc chiến tranh ý thc h toàn cu" (Global war of Ideology ) giữa tư bn ch nghĩa (Capitalism) và cộng sản ch nghĩa (Communism), hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).

Theo đó :

- Chính quyền cng sn Bc Vit được s y nhim ca cng sản quc tế, đứng đu là Liên-Xô (có sự cnh tranh ca Trung Cng), nhận chi vin mi mt ca Liên Xô, Trung Quốc và các nướ"Xã hội ch nghĩa anh em" như vũ khí, đn dược, kinh tế, tài chánh và c nhân lc na… đ làm nhim v "tiền đn phe xã hi ch nghĩa", chủ đng phát đng cuc chiến tranh xâm chiếm Min Nam ; đóng vai trò tên lính xung kích đ m mang b cõi cho cng sn quc tế, cng sn hóa Min Nam và các nước trong vùng thc hin tham vng cng sn hóa toàn cu, tiến đến mt thế gii đi đng mà đỉnh cao là "Thiên đường cng sn" vốn là mc tiêu ti hu ca ch nghĩa cng sn.

- Chính quyền quc gia Nam Vit, được s y nhim ca các cường quc tư bn quc tế, đứng đu là Hoa Kỳ, nhn vin tr mi mt như vũ khí, đn dược,kinh tế, tài chánh và c nhân s …ca hoa kỳ và các nước đng minh, đ làm nhim v"tiền đn Thế gii T do", thực hin m"cuộc chiến tranh t v" để ngăn chn, đy lùi cuc chiến tranh xâm lăng ca CSBV, bo v chế đ dân ch, xây dng và phát trin Min Nam theo kiu tư bn chủ nghĩa.v.v…

Nghĩa là một cuc chiến tranh ý thc h toàn cu gia hai phe cng sn ch nghĩa, đng đu là Liên Xô và phe tư bn ch nghĩa, đng đu là Hoa Kỳ, din ra dưới hình thc "Chiến tranh Nóng" cục b din ra trên đt nước Vit nam, vi hai công c đu là người Vit Nam. Nhưng đó không phi là "cuc ni chiến" mà là "Chiến tranh y nhim". Vì Việt cng nhn s y nhim ca Liên Xô và cng sn quc tế ; còn Vit quc thì được y nhim ca Hoa Kỳ và các cường quc đng minh tư bn, để thc hin chiến tranh xâm ln lãnh th (Việt cng) và chiến tranh ngăn chn, đy lùi (Việt quc). Chính Tổng bí thư đng cộng sản Việt Nam đã tng nói "Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc…" hay Tổng thng Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tng nói "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến v tuyến 17…". Vì thế, nhng người có quan nim này không coi chiến tranh Vit Nam là "nội chiến" là thế.

Nhận đnh :

Theo nhận đnh ca chúng tôi, căn c cho cách gi như thế là không đúng vi thc tế và thực cht ca cuc chiến tranh Vit Nam.Vì thc tế cũng như thc cht đó là m"cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng". Cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng này din ra trong bi cnh cuc chiến tranh ý thc h toàn cu (Global War of Ideology) giữa hai khi cộng sn đng đu là Liên Xô và khi tư bn đng đu là Hoa Kỳ. Hai cuc chiến này cùng din ra trên chiến trường Vit Nam.Tuy hai cuc chiến này trùng lp không gian và thi gian, có th b ngoi cùng chung mc tiêu, lý tưởng, nhưng không là mt vì khác ý đồ mun thành đt thông qua cuc hiến này.

Chính vì thế mà sau khi chiến tranh Vit Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 cuc ni chiến ý thc h Vit Nam vn cha chm dt. Bên tht trn Vit Quc vn tiếp tc chng cng đ thành đt mc tiêu ti hu ca ý thức h quc gia v chính tr là "dân chủ hóa đt nước". Bên thắng cuc Vit cng vn tiếp tc thc hin mc tiêu lý tưởng ti hu là xây dng ch nghĩa xã hi ca mình (mà nay đã thất bi hoàn toàn phi quay qua con đường kinh tê 1thò trường tư bn ch nghĩa…) . Mặc dù cuc chiến tranh ý thc h toàn cu hay là "Chiến tranh Lnh"( theo cách gọi ca Tây phương) giữa cng sn ch nghĩa và tư bn ch nghĩa đã chm dt t lâu, thế gii đã đi vào chiến lược toàn cu mi.

4. The Vietnam War là một "cuc ni chiến ý thc h Quc-Cng" gia nhng người Vit Nam theo ý thc h quc gia và nhng người Vit Nam theo ý thc h cng sn.

Đó là cách gọi có l là ca hu hết nhng người Vit Nam tng hai bên cuc chiến tranh Vit Nam va qua (1954-1975). Vì cách gi này đúng với ý nghĩa chung ca t ng ni chiến (domestic warfare) và din t đúng thc cht cũng như thc tế khách quan ca cuc chiến

Theo ý nghĩa từ ng, ni chiến là xung đt vũ trang (chiến tranh quân s) hay tâm lý (chiến tranh chính tr) trên quy mô cả nước, gia người trong mt nước, có tên gi khác nhau tùy theo nguyên nhân đưa đến ni chiến. T như cuc ni chiến Hoa Kỳ (1761-1765) có tên gi riêng "The Civil War" khác với t ng chung v ni chiến (The domestic warfare) ; nguyên nhân là mâu thuẫn về vn đ nô l chng tc người da đen gia chính quyn các tiu bang Miến Bc ch trương bãi bõ chế đ nô l, vi chính quyn các tiu bang Min Nam mun duy trì chế đ nô l. Cuc chiến tranh Vit Nam nguyên nhân là s đi kháng ý thc h gia người Việt Nam theo ý thức h quc gia và người Vit Nam theo ý thc h cng sn nên gi là "Cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng".

Tên gọi này cũng đã được th hin qua b phim nhiu tThe Vietnam War của hai nhà đo din M đang được trình chiếu rng rãi. Tuy nhiên nếu b phim phn nào th hin được tính khách quan, thì li th hin m nht, không rõ nét tính cht "Nội chiến ý thc h Quc-Cng" tại Vit Nam, đưa đến s ng nhn chiến tranh Vit Nam như là cuc chiến gia M và Vit cng ; làm lu m vài trò chính quyền quc gia trong chế đ Vit Nam Cng Hòa Min Nam vn là ch th chính trong cuôc ni chiến mà Hoa Kỳ ch đóng vai ph ; tương t như vai trò ca Liên Xô đi vi chính quyn Cng sn Bc vit là mt bên chính yếu trong cuc ni chiến Quc-Cng. Chính vì vây mà nhiều người Vit quc khi xem b phim The Vietnam War đã có phn ng bt bình đến phn ni.

Dẫu sao b phm The Vietnam War cũng nói lên được phn nào thc cht cũng như thc tế ca cuc chiến tranh "cốt nhc tương tàn này" chỉ vì khác bit ý thức h. Ý thc h Quc-Cng đúng hay sai, li hi cho đt nước và và dân tc thế nào thì đã có câu tr li bng chính thưc tế sau khi Vit cng phát đng, tiến hành chiến tranh "giải phóng Min Nam, thng nht đt nước" đưa c nước tiến lên "xã hội ch nghĩa" với hu qu ra sao ?

Thiết tưởng không cn phi nói thêm nhng khác bit v ý thc h đã đưa đến ni chiến, thì mi người cũng đã biết và chúng tôi cũng đã lý gii tng quát các phn trên bài viết này.

Thay lời kết, người viết xin đưa ra mt s cm nhn sau khi xem b phim tài liu nhiu tThe Vietnam War do hai đạo din người M là Ken Burnes và Lynn Novick thc hin.

Những hình nh tàn bo ca chiến tranh, nhng khuôn mt lãnh đo, điu hành, ch huy gián tiếp nay trc tiếp cuc chiến tranh Vit Nam ở mi phía (Diễn viên chính : Vit quc và Vit cng- Din viên ph : Hoa Kỳ và Liên Xô…) đối vi người viết cũng như hu hết nhân dân Vit Nam cũng như người dân Hoa Kỳ có quan tâm đến cuc chiến đu đã quá quen thuc.

Đối vi người dân Hoa Kỳ quan tâm, họ cũng đã tng coi nhiu phim tài liu v chiến tranh Vit Nam trước đây do các nhà làm phim ca h, vi nhiu hình nh ca chiến tranh được lp li nhiu ln, hin nhiên là h cũng đã có nhng cm nghĩ, phn ng tâm lý khác nhau v cuc chiến ngoài nước Mỹ, mà con em, cha anh h đã chiến đu hy sinh (58.000 t sĩ) vì lý tưởng "tự do, dân chmuốn thành đt cho người dân Vit Nam mà đã không thành. Thế nhưng đó không hn là tht bi đi vi nhng nhà hoch đnh ch trương, chính sách, mc tiêu tham gia cuc chiến Vit Nam ca chính ph Hoa Kỳ cũng như các cường quc hàng đu phe cng sn (Liên Xô, Trung Quốc…) trong cuộc chiến tranh ý thc h cng sn và tư bn toàn cu, khi mà các mc tiếu chiến lược h đã đt được tho6ngqua cuc chiến tranh cc b này.

Đối với cá nhân người viết và có l cũng ca nhiu người Vit Nam hu hết đã tng sng, chng kiến hay tng là là nn nhân ca cuc chiến, khi coi lại nhng hình nh chiến tranh quen thuc, dù đã 42 năm sau cuc chiến, vết thương lòng vn chưa lành, không khi cm thy đau sót, lòng qun dau khi nhìn li cnh tàn sát giết hi nhau trong nhng trn chiến đm máu gia người cùng màu da sc máu Vit tc c hai bên chiến tuyến. Tht là mt cuc chiến vô ích và vô nghĩa đi vi dân tc Vit Nam. Vì c Vit cng cũng như Vit quc, không bên nào thành đt được mc tiếu ti hu theo lý tưởng ca mình, thông qua cuc chiến "Nồi da sáo tht" với núi xương sng máu ca hàng triu con người Vit Nam trên c hai min Bc-Nam, tàn phá tan hoang đt nước, làm phân hóa dân tộc, di hi toàn din và lâu dài cho các thế h mai sau..

Ước gì, t nay vào mi dp 30/4 hàng năm, ngày chm d"cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng" tại Vit Nam, nhà đương quyn Vit Nam đng ăn mng như mt ngày "Chiến thng !" nữa ; mà hãy ch đng đy nhanh tiến trình dân ch hóa đt nước đ mau chm dt giai đon cui cùng ca "cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng" này ; là cái đuôi của The Vietnam War. Vì đó là mục tiêu ti hu ca ý thc h quc gia v chính tr mà người Vit quc theo đui trong nhiu thp niên qua. Nếu nay nhà đương quyn Vit Nam (thực cht và thc tế không còn làt cng sn na) tự nguyn, t giác, ch đng thc hin được mc tiếu ti hu này ca Viêt quc cũng là ý nguyn chung ca toàn dân Vit, "cuộc ni chiến ý thc h Quc-Cng"tại Vit Nam s chm dt tc thì, mt cách hòa bình, không đ máu. To tin đ thng nht toàn lc quc gia đ xây dng phát trin toàn din đt nước đến phú cường, văn minh tiến b ngang tm cao thi đi ; và đ có thế lc đp tan cung vng xâm lăng bất cứ t đâu ti, bo v vng chc T Quc Vit Nam thân yêu ca chúng ta.

Houston, ngày 27 tháng 9 năm 2017

Thiện Ý

Nguồn : VOA, 29/09/2017

Published in Diễn đàn

Với gần 200 giờ phỏng vấn, hàng ngàn giờ tư liệu và hàng chục ngàn tấm ảnh, hai nhà đạo diễn Mỹ Lynn Novick và Ken Burns sau 10 năm nghiên cứu, sản xuất đã cho ra loạt phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam.

vietnawar1

Đạo diễn Lynn Novick (thứ nhì từ trái sang), đứng giữa các ông Chuck Hagel và John McCain, và đạo diễn Ken Burns ở giữa hình

Hôm 30/9, phóng viên Thùy Linh của BBC Việt Ngữ có một buổi phỏng vấn riêng với một trong hai đạo diễn của series The Vietnam War là bà Lynn Novick.

Thùy Linh : Bộ phim đã được công chiếu trong vài tuần qua. Vậy bà đã nhận được những phản ứng gì từ phía khán giả ?

Lynn Novick : Phản ứng mà chúng tôi nhận được thì khá là tích cực. Hầu hết đều nói họ rất trân trọng bộ phim chúng tôi làm và cách mà chúng tôi cho thấy nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc chiến.

Họ nói họ rất trân trọng tính chân thực, sự thảm khốc và đau đớn của cuộc chiến mà chúng tôi đã thể hiện được trong bộ phim.

Chúng tôi vẫn chưa nhận được bất cứ phản ứng tiêu cực nào từ phía người xem. Có vẻ như bộ phim khiến nhiều người xúc động.

vietnamwar2

Phim 'The Vietnam War' (Cuộc chiến Việt Nam) - hình do đoàn làm phim cung cấp

Thùy Linh : Đây không phải là bộ phim tư liệu đầu tiên làm về Chiến tranh Việt Nam. Điều gì khiến The Vietnam War khác biệt với những bộ phim khác ?

Lynn Novick : Tôi nghĩ chưa có bộ phim tài liệu nào đã có thể thể hiện được nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm từ những con người bình thường sống sót trong cuộc chiến.

Bộ phim bao gồm nhiều cá nhân khác nhau, gồm cả những người tham chiến và cả những người phản đối cuộc chiến.

Bộ phim cũng cho thấy một cái nhìn cận cảnh hơn về bối cảnh chính trị tại Washington, Sài Gòn cũng như Hà Nội.

Thùy Linh : Bà có thể chia sẻ về quá trình sản xuất bộ phim được không ? Một số người phân vân về quyết định lựa chọn một số cá nhân đã xuất hiện trong bộ phim. Xin bà lý giải thêm.

Lynn Novick : Chúng tôi đã dành suốt 10 năm để gặp gỡ làm quen với nhiều người và thu thập tư liệu. Nhiều tư liệu chưa bao giờ được trình chiếu trước công chúng.

Chúng tôi dành vài năm ở Việt Nam, tìm kiếm được hơn 1000 người, phỏng vấn 100 người và chọn được 79 người để tham gia vào bộ phim.

Những người xuất hiện trong bộ phim là những người cởi mở, những người có thể kể câu chuyện của họ và sẵn sàng kể câu chuyện của họ trước máy quay. Và chúng tôi cũng lựa chọn những người có câu chuyện phù hợp với mạch chuyện của bộ phim.

Chúng tôi may mắn gặp được nhà sản xuất tên Hồ Đăng Hòa, để giúp đỡ thu thập tư liệu từ Thông tấn xã Việt Nam, Bảo tàng Quân đội và ông cũng gặp từng nhiếp ảnh gia thời chiến, xem qua bộ ảnh của họ.

Thùy Linh : Bà có gặp khó khăn hay nhận được sự giúp đỡ gì từ phía chính phủ Việt Nam ?

Lynn Novick : Chúng tôi không gặp bất cứ khó khăn gì từ phía chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đơn giản chỉ giải thích là chúng tôi muốn làm một bộ phim về những câu chuyện về các cá nhân từ mọi phía của cuộc chiến và muốn được tiếp xúc với những người muốn nói lên câu chuyện của mình. Họ hỗ trợ chúng tôi với vấn đề hậu cần, xe cộ…

Chính quyền Việt Nam đã giúp đỡ nhưng không can thiệp.

Thùy Linh : Có một số người thắc mắc vì sao bộ phim không được công chiếu ở Việt Nam. Có phải vì lý do gì nhạy cảm ?

Lynn Novick : Chúng tôi đã có một số buổi công chiếu nhỏ ở Hà Nội và Sài Gòn.

Chúng tôi cũng không cần hay xin phép chính phủ để được chiếu ở Việt Nam.

Bộ phim này không phải là loại phim để chiếu ở rạp chiếu, mà phù hợp trên tivi và xem trực tuyến. Chúng tôi đang có hàng triệu khán giả theo dõi bộ phim từ Việt Nam trên trang PBS.

Thùy Linh : Rất nhiều nhà làm phim đã làm phim về Chiến tranh Việt Nam, lý do gì mà bà và ông Ken Burns lại tiếp tục sản xuất một bộ phim khác về chủ đề này ?

Lynn Novick : Rất nhiều người Mỹ vẫn không hiểu về cuộc chiến, đây là một phần quan trọng của lịch sử Hoa Kỳ, và chúng tôi cảm thấy nước Mỹ cần biết điều gì đã xảy ra.

Với lý do khác với người Mỹ, nhưng tôi nhận ra nhiều người Việt cũng không biết nhiều về cuộc chiến, họ cũng không nói nhiều về nó.

Nhiều người trẻ sau khi xem phim nói họ không biết nhiều về cuộc chiến, và rằng họ rất tò mò về những gì đã xảy ra. Tôi nghĩ bộ phim này cũng đóng một vài trò quan trọng với người Việt.

Ở Mỹ cũng vậy, rất nhiều người Mỹ gốc Việt trẻ tuổi cũng muốn xem nó và nói chuyện với cha mẹ lần đầu tiên về cuộc chiến… Tôi nghĩ nhiều người Nam Việt Nam cảm thấy họ bị lãng quên. Vì hầu hết các bộ phim mà người Mỹ làm tập chung vào những người dành chiến thắng, họ không đề cập nhiều đến cộng đồng người tỵ nạn Việt Nam… Cho nên có một sự trân trọng rằng chúng tôi đã chia sẻ những câu chuyện của họ. Chúng tôi nhận được phản ứng tích cực từ cộng đồng này.

Thùy Linh : Trong suốt quá trình làm phim, điều gì để lại ấn tượng với bà nhất ?

Lynn Novick : Điều tuyệt vời nhất mà tôi học được từ bộ phim này là một sự thấu hiểu sâu sắc về sức chịu đựng của con người.

Tôi đã lắng nghe một người phụ nữ kể lại việc bà đã mất hai con trai và cả tám người anh em trai trong cuộc chiến. Người phụ nữ nhỏ bé 90 tuổi này đã làm sống lại những khoảnh khắc đau đớn nhất của bà. Trải nghiệm đó thực sự thay đổi tôi. Thật không thể diễn tả thành lời. Thật sự rất đáng ngưỡng mộ và cũng rất đau lòng. Tất nhiều người kể lại cách họ vượt qua nỗi đau và điều đó sẽ đeo bám tôi mãi.

Tôi cũng nhận ra rằng tất cả những cựu chiến binh khi nói về trải nghiệm của họ và nếu họ nói cùng một ngôn ngữ, thì khi bạn nhắm mắt lại... bạn nhận ra không có chút sự khác biệt gì giữa những người lính Việt Nam và Hoa Kỳ… về những gì họ trải qua như một người lính, giữa những giết chóc và sống còn.

Tôi nhớ sau một buổi công chiếu nhỏ, tôi hỏi một cựu chiến binh là ông học được gì sau khi xem xong bộ phim, thì người cựu chiến binh này nói : "Đây là lần đầu tiên sau hàng chục năm trời, tôi nhận ra sự nhân đạo từ trong chính những người mà tôi từng muốn giết chết."

Tôi nghĩ đây là bài học lớn cho chúng ta, rằng luôn có sự nhân đạo và vô nhân đạo từ mọi phía của cuộc chiến.

Thùy Linh : Thách thức lớn nhất của bà khi làm bộ phim này là gì ?

Lynn Novick : Thách thức lớn nhất đối với chúng tôi là làm sao để thống nhất những bất đồng giữa các học giả và nhân chứng về những gì đã thực sự xảy ra. Chúng tôi rất chú trọng đến sự thật. Cố gắng tập trung vào điều đã thực sự diễn ra. Chúng tôi biết vẫn còn có rất nhiều câu hỏi về cuộc chiến mà đến giờ vẫn chưa có lời giải, thật sự khó khăn khi cố gắng muốn hiểu một cuộc chiến phức tạp như chiến tranh Việt Nam.

Và thật dễ dàng để gọi tên cuộc chiến này là một cuộc giải phóng, một cuộc xâm lăng, một cuộc nội chiến hay một cuộc chiến chống đế quốc. Tôi nghĩ nó phụ thuộc vào việc bạn là ai. Chúng tôi nghĩ đó không phải là việc của chúng tôi để gọi tên. Rất nhiều gia đình bị chia rẽ bởi cuộc chiến này. Ở cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Nhiều người đã cống hiến cuộc đời họ vào cái họ tin là thống nhất và giải phóng đất nước…

Chúng tôi rất công bằng. Tôi nghĩ không ai trong giới lãnh đạo Hoa Kỳ, miền Bắc hay miền Nam Việt Nam thực sự thẳng thắn với người dân của mình, cho họ biết chuyện gì thực sự diễn ra…

Thùy Linh : Nhiều người cho rằng bộ phim có mang tư tưởng chống chiến tranh, thiên tả. Có người thấy bộ phim có vẻ như ca ngợi Hồ Chí Minh, và xây dựng hình tượng Ngô Đình Diệm một cách khá tiêu cực. Bà nghĩ như thế nào về ý kiến này ?

Lynn Novick : Chúng tôi không hề có động cơ chính trị nào, hay cố gắng thuyết phục người xem thiên về bên nào. Chúng tôi chỉ lắng nghe các chuyên gia và cố gắng xây dựng một bộ phim mà chúng tôi nghĩ là chính xác nhất có thể. Một nơi mà những con người với những quan điểm khác nhau có thể chia sẻ.

Chúng tôi sẽ để khán giả tự quyết định thông điệp của bộ phim là gì. Và chúng tôi rất muốn nghe xem những cuộc thảo luận, trao đổi được nảy sinh từ bộ phim này.

Thùy Linh thực hiện

Nguồn : BBC, 04/10/2017

Published in Diễn đàn

Phim nhiều tập The Vietnam War được trình chiếu lật lại nhiều dữ kiện lịch sử, gây ra cơn bão tình cảm của cộng đồng người việt. Đặc biệt những người từng có liên can tới cuộc chiến. Vắng tiếng khen nặng tiếng chê, nhiều giận dữ và thù nghịch với nhóm làm phim. Rất nhiều người thất vọng.

vietnamwar0

Người Mỹ anh hùng là dám nhìn lại sai lầm của mình một cách không khoan nhượng.

Họ thất vọng vì uẩn ức người Mỹ phản bội không được tố cáo, sự hào hùng của người lính Việt Nam Cộng Hòa không được ghi nhận, sự xảo trá tàn bạo của cộng sản không bị vạch mặt, và dường như ngược lại, phơi bày những dữ kiện xấu mà người ta cố quên đi. Đây là một hội chứng tâm lý của người Việt mà tôi đặt tên là hội chứng cô Tấm. Bất chấp sự tàn bạo vô lương, cô Tấm đối với nhiều người vẫn là hiền thục nết na.

Đành rằng nếu so sánh hai chế độ, chế độ miền bắc vượt hẳn chế độ miền Nam về sự tàn bạo và thua hẳn về sự cởi mở. Nhưng sự hơn thua đó có giá trị gì trong quá khứ, trong hiện tai và tương lai. Người Việt chưa biết ăn năn.

unnamed

Bức ảnh này đã nói lên một nửa sự thật của chiến tranh và một nửa sự thật còn giấu mặt của The Vienam War. Nó đã được dùng quá nhiều lần trong giới truyền thông Mỹ khi nói đến chiến tranh Việt Nam. Nó làm người ta ghê tởm mọi cuộc chiến tranh mà trong đó phe thắng trận/chiến bại đều đều đốn mạt như nhau, chỉ có nạn nhân là đáng thương. Hình ảnh có sức mạnh hơn ngàn lời nói. Hình ảnh này thuyết phục đến độ người ta quên mất nguyên nhân đã gây ra thảm trạng chiến tranh và quên cả nguyện vọng ước mơ của những nạn nhân chiến tranh như là một con người bằng xương thịt. (Bùi Quang Vơm)

 

Đặc điểm chung dẫn đến quan điểm của mọi người về bộ phim là ý thức ta địch, thắng thua, một chiến lũy vô hình nhưng bền chặt trong lòng người. Hay ít nhất cũng là ý thức cộng đồng người Việt quốc gia hay cộng sản. Nó tố cáo một thực tế, niềm đau sự chia rẽ trong lòng người việt rất lớn.

Tôi từng nghe không phải một người lớn tiếng giận dữ phim này của bọn phản chiến, chúng nó làm để tiếp tay cho cộng sản, chúng nó muốn đi đêm với cộng sản, phải tẩy chay. Trong con mắt họ, phản chiến đã là một hành động xấu xa của những con người tồi tệ. Có thể việc phản chiến xuất phát từ mục đích rất cá nhân, nhưng chống chiến tranh đã là hành động đúng. Chống chiến tranh là một hành động nhân bản.

Có nhiều sai xót trong phim như học giả Đỗ Thông Minh đã thống kê 25 lỗi. Nó là lý do để nhiều người tuyên bố đây không phải là nửa cái bánh mì, đây là nửa sự thật, không đáng để xem. Nhưng tôi hiểu lý do chính vẫn là niềm đau, họ không chấp nhận sự thật phũ phàng về giá trị Việt Nam Cộng Hòa, chỗ dựa tinh thần của họ.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng vị khách mời tham gia ban điều hành thảo luận cuốn phim tuyên bố "…Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem", "cuốn phim vẫn trình bày những sự kiện mang tính cách tuyên truyền củ rich". Tôi rất ngạc nhiên về nhận xét này, học vị và vị trí xã hội đã không giúp cho ông vượt thoát để hiểu được tâm ý của đạo diễn.

Cựu Đại tá Vũ Văn Lộc nói về phim The Vietnam War ngắn gọn bằng một câu : "Chúng ta thua trên từng thước phim". Ông là người có tâm tham gia vào việc giúp đỡ người tỵ nạn, nghiên cứu tài liệu dựng lên Bảo tàng viện thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hòa, chắc chắn so với phần đông ông có sự hiểu biết vượt hơn hẳn phần đông người Việt. Dù vậy ông vẫn chìm trong nỗi đau của niềm thua.

Có người xem phim không phải để biết phim nói gì. Họ xem phim để tìm những điều họ muốn. Họ muốn tìm thêm bằng chứng để củng cố giá trị tinh thần trong họ. Họ muốn người khác (người Mỹ) cùng họ tố cáo lên án cộng sản.

Trong hội thảo bàn tròn của BBC, cựu sinh viên Mai Doãn Đông nhận xét : bộ phim là một khối lượng tư liệu khổng lồ sống động về cuộc kháng chiến chống Mỹ của người dân Việt Nam. Bạn khuyên giới trẻ phải mở rộng tầm nhìn, đa dạng hóa tư liệu : "Phải nhìn ra được cái gì gần với mình, đâu là điều quan trọng với mình, với gia đình mình, với đất nước, với văn hóa của mình, để giúp bảo vệ xây dựng kiến thiết đất nước. Mái trường xã hội chủ nghĩa đã rất thành công trong việc trang bị cặp kính đỏ cho sinh viên".

Thế giới, cuộc chiến chỉ còn hiện hình dưới lăng kính cộng sản trong con mắt họ. Nhân sinh quan bị bó gọn trong nhận thức mẹ hát con khen hay. Đã qua bậc đại học mà Mai Doãn Đông vẫn có thể hồn nhiên chỉ dậy cho các bạn trẻ "mở rộng tầm nhìn, đa dạng hóa tư liệu" nhưng lại chốt hạ quan điểm vị thân, bất chấp những giá trị khách quan.

Blogger nhà báo Khải Đơn đã kỳ vọng bộ phim sẽ cung cấp thêm cho cô nhiều tư liệu về cả hai chiều miền Nam miền Bắc. Sự thiếu tư liệu, sự không trung thực có lẽ là nguyên nhân dẫn đến kỳ vọng của cô. Cô cho rằng tâm điểm của bộ phim là cho khán giả người Mỹ. Bộ phim làm cho người Mỹ.

Không thể đồng ý với cô Khải Đơn, nước Mỹ đa chủng tộc, và tự do, họ có cái nhìn phóng khoáng nhân bản. Đúng là họ làm phim về vấn đề người Mỹ, nhưng không có tinh thần cục bộ. Việc thiếu tư liệu là việc của chúng ta. Người ta thường than chúng ta không có người viết sử. Đây là lỗi của chúng ta. Có lẽ tôi không chờ đợi người Mỹ cung cấp thêm tư liệu lịch sử Việt Nam nên tôi đã không thất vọng và cũng không phẫn nộ vì những dữ liệu sai. Rất đáng buồn có nhiều người Việt không đủ tự tin vào những điều mình biết, mình tin là đúng. Họ cần một sự bảo chứng sự cấp phép của Âu của Mỹ. Chúng ta đâu có quyền đòi hỏi người khác hiểu về chúng ta khi chính chúng ta cũng đã không hiểu đúng về chúng ta. Không có ai ngăn trở chúng ta nói lên, viết lên những trang sử về mình.

Cái tôi tâm đắc với phim đó là người làm phim đã nhận ra nước Mỹ chia rẽ sâu sắc vì cuộc chiến, người Mỹ nhận diện được cần phải hòa giải sau nửa thế kỷ. Nếu so sánh Việt Nam với Mỹ, dù tổn thương đến đâu nước Mỹ vẫn là một cơ thể cường tráng. Ngược lại Việt Nam là một cơ thể đầy bệnh tật nan y. Người Mỹ anh hùng là dám nhìn lại sai lầm của mình một cách không khoan nhượng. Hành động ăn năn không làm người Mỹ yếu đi mà ngược lại nó giúp cho người Mỹ vượt qua nỗi đau của quá khứ.

Người Mỹ đã bước vào cuộc chiến Việt Nam với vẻ hào hùng của quá khứ Thế chiến hai, mang một sứ mệnh ngăn làn sóng đỏ. Họ đã sa lầy, đã bất lực, đã tổn thương. Ngày nay người Mỹ đã can đảm tự vấn, đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa cuộc chiến, xét lai những giá trị nền tảng, tính chính danh, lòng yêu nước, nhân từ với bạo tàn, khiêm nhường với ngạo mạn.

Nhìn thực tế Việt Nam, cả "bên thắng và bên thua" đều say sưa với chủ nghĩa anh hùng và đi tìm sai lầm ở người khác. Họ mang tâm thức đó vào nhận định về phim. Tư kiến không chỉ làm mọi người quá khác nhau, chia rẽ thành tập thể những con người cô đơn, mà còn đào sâu hố ngăn cách thù hận cũng như sẵn sàng bạo lực.

Sự chia rẽ sau cuộc chiến với người Mỹ là vết thương thì với Việt Nam là tai họa. Tai họa này không chỉ có trong và sau cuộc chiến. Nó là hằng số theo suốt quá trình hình thành lập nước Việt Nam. Hơn ai hết người Việt chúng ta cần hòa giải nếu thực sự chúng ta muốn thay đổi tương lai của mỗi chúng ta trong tương lai chung mang tên Việt.

Vượt lên sự khác biệt những biểu hiện bề nổi, chúng ta gắn bó với nhau bằng định mệnh Việt Nam. Nhận thức về nhu cầu hòa giải không chỉ là điều cần thiết bắt buộc cho Việt Nam hiên tại, mà còn cho ta ý thức không được khởi lên cuộc chiến. Đấu tranh bất bạo động là lựa chọn lương thiện trên tinh thần nhân bản.

Hy vọng xem phim The Vietnam War, chúng ta ý thức hơn về vấn đề Việt Nam, vượt lên nỗi đau để chia sẻ giá trị mà mỗi chúng ta sinh ra ai cũng có : ngôn ngữ, văn hóa, di sản lịch sử... Đó là những giá trị mà không một quyền năng con người nào có thể tước đi được. Mọi hành động hành chính như tước quốc tịch của giáo sư Phạm Minh Hoàng, hay nhiều hành động khác chỉ cho thấy thấp kém vô luân của nhà cầm quyền.

Nhận thức được chúng ta ràng buộc với nhau trong số phận chung, ý thức về tương lai chung, chúng ta hoàn toàn có khả năng và xứng đáng với một tương lai khác :

"Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.

Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.

Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát".

(trích Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2)

Praha, 30/9/2017

Đỗ Xuân Cang 

Thành Viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in Quan điểm
vendredi, 29 septembre 2017 10:36

Tướng Giáp, tài năng và số phận

Bộ phim tài liu The Vietnam War ca hai đạo din Ken Burns và Lynn Novick va được trình chiếu rng rãi t trung tun tháng Chín. Có nhiu tin tc nói rng Hà Ni không hài lòng vi ni dung phim. Mt trong các lý do là vì nhc đến vai trò ca Tng bí thư Lê Dun, ln át ông H Chí Minh và Đi tướng Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp mt ngày 4 tháng 10, 2013, tui 103. Sau đây là bài viết ca nhà báo Bùi Tín, người tng có nhiu dp gn gũi vi tướng Giáp, nhân dp công chiếu The Vietnam War.

giap1

Tướng Giáp trong mt ln tiếp cu B trưởng quc phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara.


***

Tướng Giáp đã đi vào huyn thoi trong lch s Vit Nam, trong lịch s chiến tranh ca thế gii. Đã có nhng bn tiu s chính thc ca ông.

Cũng có những tin tc thêu dt v ông, ví d có nhng bài báo, cun sách trong nước viết rng ông tng được Hi đng Hoàng gia Anh Quc tuyên dương là mt trong 10 thiên tài quân sự thế gii, được đúc tượng đt trong bo tàng quân s Anh quc. Tôi đã sang London, tìm hiu, đây ch là tin vt không có tht, nhưng b máy tuyên truyn ca Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Vit Nam không h ci chính.

Vậy tướng Giáp là con người ra sao trong cái cơ chế chính tr Vit Nam do đng cng sn lãnh đo theo chế đ toàn tr ?

Tôi có nhiều dp tiếp cn ông, đôi lúc còn cùng ông tâm s, do tin cy quý mến nhau, vì cùng trưởng thành qua nn văn hóa hc đường Pháp, tôn trng quyn tư duy đc lp, theo lun lý. Hơn na ông sng kín đáo, ít tâm s cùng ai, sng ni tâm rt mnh, giàu suy nghĩ, không rượu chè, không thuc lá, không bia bt, gii trí hu như duy nht là đc sách, suy ngm và chơi nhc nh piano, mà ông ưa nht là bài "Sông Đa-núyp xanh" - Le Danube bleu.

Tôi nhiều ln được đi các chuyến xut ngoi ca ông, làm thư ký báo chí, giúp ông tr li phng vn ca các nhà báo Pháp, Anh, Nga, Trung quc, Ba lan, Đc, Hung… Chuyến đi lý thú nht là vào năm 1977 ông cm đu phái đoàn quân s đi cám ơn các nước sau khi chiến tranh kết thúc, trao huân chương cho nhiu chuyên gia quân s tng giúp Vit Nam. Đoàn được mi ngh Sochi bên b Hc hi, trong dinh th ngh hè sang trng ca B trưởng quc phòng Liên Xô. Ti đây, bên b bin, tôi có dp hi chuyn ông, gi ý dò hi nhiu chuyn ít ai biết, do bn tính tò mò ca nhà báo. Sau đó có vài ngày thăm Berlin, tôi nh nht là cuc hi ng mt ca 3 ông tướng 3 châu : Fidel Castro ca Cuba, đi tướng Hoffman ca Cộng hòa dân chủ Đc và tướng Giáp, sau khi Fidel rt cao hng va đi thanh tra 20 ngàn quân tình nguyện Cuba các nước Châu Phi như Angola, Congo, Mozambique… Ngày 1/5/1977, đoàn tr v Moscow, tướng Giáp là khách danh d duy nht đng bên ông Brezhnev trên l đài cuc duyt binh hoành tráng.

Một k nim khó quên là hồi năm 1978 tôi có dịp nghe ông nói chuyn v nhng kinh nghim quân s ti Hc vin quân s cao cp do tướng Hoàng Minh Tho làm hiu trưởng. Nghe nói chuyn có các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trng Tn, Nguyn Hu An rt gn ông Giáp. Ông tng nghiên cu v Napoleon, Kutuzov, Zhukov, Frounzé, đọc Binh gia yếu lược, Vn kiếp tông bí. Ông say sưa nói v "ng binh ư nông", dân binh, dân quân, v ch trương "đi đi đc lp, tiu đoàn tp trung" thi đu đến Đi Đoàn Công – pháo trước chiến dch Đin Biên, thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 trước 30/4/1975. Ông ging v nguyên lý "đánh chc thng", v yếu t nghi binh, bt ng - Pháp không bao gi nghĩ đi phương có th mang đ lương thc t đng bng lên vùng núi xa Đin Biên, cũng không bao gi nghĩ đi phương có thể kéo pháo nng lên sườn núi cao him tr quanh Đin Biên ; đánh Buôn Ma Thut m đu chiến dch cũng bt ng… Binh thư ca ông là tng hp nhiu kinh nghim thc tế được đúc kết. Ông có năng khiếu ca giáo sư s hc, li có tư duy lun lý ca mt c nhân Luật. Đúng là mt trí thc toàn din cm quân, hiu quy lut.

Ông Giáp có nhiều ni bun dai dng. Tôi c tìm hiu vn đ này.

Trước hết ông không được ông Trường Chinh đánh giá cao. Mà ông Đng Xuân Khu – Trường Chinh - li là Tng bí thư. Ông Trường Chinh có xu thế thân Trung Quc, sùng bái Trung Quc. Cái bí danh ông chn đã cho thy điu đó, ch có Trung Quốc có cuc vn lý Trường chinh. Hai cun sách kinh đin ca ông là "Trường kỳ kháng chiến nht đnh thng li" và "Nn dân ch mi" đu là bn dch 2 cuốn "Trì cu chiến" và "Tân dân ch ch nghĩa" ca ông Mao.

Ông Trường Chinh h hi đón các đoàn chuyên gia Tàu ca bác Mao gi sang, mt mc nghe theo h trong Ci cách rung đt – tàn sát gn 170.000 trung nông yêu nước có hc b chp mũ là đa ch ác bá chui vào đảng. Trong lúc đó ông Giáp mt mc chng li ý kiến ca La Quý Ba, Trn Canh và c ca Mao Trch Đông là dùng chiến thut bin người đ tn công Đin Biên Ph, theo phương châm tác chiến "tc chiến - tc quyết" - đánh nhanh - gii quyết nhanh.

Ông Giáp đã suy nghĩ rất k và quyết đnh thay hn phương châm trên thành "đánh chc, tiến chc", rút pháo ra, chun b k, kéo pháo lên các sườn núi cao chĩa thng xung v trí đch (không bn cu vng), đánh dũi, đánh ln dn tng bước, tng trn nhỏ đến ln, đánh chc tiến chc, mà ít tn tht. Không thay đi phương châm tác chiến thì có nguy cơ tht bi nng n cho c cuc kháng chiến chng Pháp. S thay đi phương châm có ý nghĩa quyết đnh.

Số phn tướng Giáp tht s lâm nguy khi ngay sau đó vp phi cp Lê Dun - Lê Đc Th có ý đnh h b ông đ giành quyn lãnh đo trên cao nht khi ông H sc bt đu suy yếu. Sau khi phát hin sai lm kinh khng trong Ci cch rung đt, ông Trường Chinh chịu trách nhim chính mt chc tng bí thư, ai s là người thay ? Thot đu ông H nghĩ đến ông Giáp, uy tín đang lên sau đi thng Đin Biên. Ông H chn ông Giáp đ thay mt đng nói chuyn vi nhân dân đông đo sân vn đng Hàng Đy nhn sai lm và hứa hẹn sa sai, n đnh tình hình. Nhưng Lê Đc Th li có ý đ khác. Th rt thân thiết vi Dun cùng li min Nam sau Hip đnh Geneva 1954, do có chung ý đnh phi ưu tiên đu tranh bng bo lc đ thng nht đt nước, nên quyết gt ông Giáp ra khi quyền lc ti cao. Lê Đc Th cùng Lê Dun tranh th Phm Hùng, Lê Đc Anh, Võ Chí Công thc hin âm mưu này, bng cách pha ra "v án xét li chng đng, làm tay sai cho nước ngoài", vu cáo tướng Giáp có mưu đ đo chính, ln lượt bt giam hơn 30 cán b cao cấp, t tướng Đng Kim Giang, tướng Nguyn Vnh, đi tá Đ Đc Kiên, đi tá Lê Trng Nghĩa, đi tá Lê Minh Nghĩa, vin trưởng triết hc Hoàng Minh Chính, v trưởng Vũ Đình Huỳnh, b trưởng Lê Liêm… Cy thế là Trưởng ban T chc trung ương đng, Lê Đc Th d đnh khai trừ tướng Giáp ra khi B Chính tr nhưng ông Phm Văn Đng không đng tình, đc bit là ông H lên tiếng bo v ông Giáp khi ông H nói rõ trong cuc hp ca B Chính tr khi ông Th t cáo ông Giáp nhiu ln tiếp riêng đi s Liên Xô Serbatov, rng "đó là các cuộc gp xã giao, chú Văn (Giáp) đu báo cáo vi bác".

Sau chiến thng Đin biên Ph trong cuc chnh hun chính tr, chn chnh t chc do các chuyên gia Trung Quc điu khin, phía Trung Quc đã đưa ra danh sách cho 2 ông Trường Chinh và Lê Đc Th yêu cu loi b các cp ch huy không có ngun gc công nông, nht là bn c nông, loi b hết các s quan gc gác tiu tư sn, cu an hưởng lc, bo mng, không thun, trong đó có ông Giáp, nhưng ông H đã kiên quyết t mình xé b, mt thái đ rt sáng suốt.

Thế ri nhóm Lê Dun, Lê Đc Th, Phm Hùng, Nguyn Chí Thanh, Lê Đc Anh… ngày càng thng thế, h thp vai trò ca ông H - vin c rng Bác cao tui, bát đu lm ln ri, m đau cn ngh ngơi, h thp vai trò ch huy quân s ca tướng Giáp, vin cớ là ông Giáp chưa h vào min Nam, nâng cao vai trò bao bin ca Lê Đc Th, va cm đu cuc đàm phán Paris, va trc tiếp vào chiến trường min Nam đ giành toàn thng trong chiến dch H Chí Minh.

Trong một s ln tâm s vi tôi, tướng Giáp không bao giờ t ra cay cú bc tc vì cá nhân mình b đi x bt công, nhưng ông luôn t ra đau bun khi nói đến sinh mng binh s b hy sinh quá nhiu trong và sau cuc tiến công Mu Thân.

Theo báo cáo mật do Cc tác chiến báo cáo riêng cho tướng Giáp, trong năm 1968 sau các đợt tiến công tháng 1, tháng 5 ri tháng 9, quân min Bc hy sinh min Nam lên đến 170.000, cng vi 32.000 quân đa phương min Nam và 30.000 cán b đng viên ca đng b min Nam. Nhng con s này tướng Giáp dn tôi gi kín vì chc là chưa đầy đ, nay tôi xin hé ra, vì là con s đã quá na thế k đ đc gi tham kho. Theo ông Giáp, sau đt 1 tht bi, ch có b ni là mt nhóm vào được trong tòa S quán M, không nên đánh thêm đt 2, tháng 5 và đt 3 tháng 8-1968, càng đánh càng thua to, lộ hết cơ s.

Tôi cảm thy rt rõ là tướng Giáp t ra không mn mà mà còn phn đi cuc tn công Mu Thân, ông cho là mo him, không chc thng, khi min Nam chưa có nhng qu đm mnh c Sư đoàn, c Quân đoàn như v sau này. Qua cuc mo him liu lĩnh vô trách nhiệm này, bao nhiêu vn liếng quân s ky cóp t năm 1963 đến năm 1968 b th tiêu gn hết, 17.000 quân nhân trai tráng min Bc b chết oan "sinh Bc t Nam", phi 3, 4 năm sau mi tm hi phc, mà không h có ni dy, không có tng khi nghĩa n mong mun và kêu gi.

Ông kể khi Mu Thân n ra ông đang Hungary đ m si mt và ông H thì sang Bc Kinh dưỡng bnh. H đã c tình cách ly 2 v đ không có mt tr ngi nào cho kế hoch ngông cung vô trách nhim ca h.

Sau 30/4/1975, vị trí ông Giáp ngày càng lu mờ. K t sau Mt ước Thành Đô (tháng 9/1990), 5 đi Tng bí thư đu ng hn v phía Trung Quốc, t Nguyn Văn Linh, qua Đ Mười ri Lê Kh Phiêu, Nông Đc Mnh cho đến Nguyn Phú Trng, cái thế ca ông Giáp b mt dn cho đến b trit tiêu hẳn.

Đầu năm 2004, nhân k nim 50 năm chiến thng Đin Biên Ph, ông Giáp c làm mt cuc phn công cui đi khi ông đã hơn 90 tui. Đó là mt lot kiến ngh tâm huyết gi B Chính tr, Ban chp hành trung ương Đng v "V án siêu nghiêm trng Tng Cc 2", v "Không nên khai thác mỏ bauxit Tây Nguyên", nhưng không có mt hi âm nào, dù cho các lá thư tâm huyết ca ông được hơn 30 tướng lĩnh đng tình. H coi ông không còn tn ti. Vì ông nói lên khá rõ là v Tng cc 2, v Bauxit đu có bàn tay lông lá ca bành trướng Trung Quốc.

Điều nhng người quý mến đúng giá tr ca tướng Giáp được an i nhiu là khi ông mt tui đi th cc hiếm 103, đông đo người dân tin đưa, lưu luyến xót thương, vào tn gn Đèo Ngang đ tin đưa ông v cõi vĩnh hng, vượt qua tt cả các cuc tin đưa ông Lê Dun, Lê Đc Th, Nguyn Chí Thanh, Phm Hùng, Văn Tiến Dũng, Nguyn Văn Linh… Mt s công bng đáng quý.

Bài báo này cũng là bó hương tôi thp đ tưởng nh mt v tướng tài ba, có tâm, có tm nhưng không gp thi thế, đ va là anh hùng, vừa là nn nhân bi thm ca mt chế đ thiếu tình yêu thương, thiếu tôn trng trí thc, li thiếu vng lut pháp và s công bng.

Bùi Tín

Nguồn : VOA, 29/09/2017

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2